Hành trình ‘tự diễn biến’ trong giới du học sinh Việt

Hành trình ‘tự diễn biến’ trong giới du học sinh Việt


Du học sinh thường không tránh khỏi những 'cú sốc tư tưởng' nhất định khi ra nước ngoài.

Du học sinh thường không tránh khỏi những ‘cú sốc tư tưởng’ nhất định khi ra nước ngoài.

Có một quá trình “tự diễn biến” trong giới du học sinh Việt Nam ở nước ngoài, mà ngay cả bản thân họ không phải lúc nào cũng nhận thấy.

Theo nhận xét của một chuyên viên tư vấn cho sinh viên nước ngoài ở Mỹ, khi mới bước chân ra “biển lớn,” du học sinh Việt thường khá thụ động và khép kín vì rào cản ngôn ngữ trong giao tiếp với người bản xứ. Tuy nhiên, ngay cả với cộng đồng người Việt Nam, du học sinh Việt cũng không tránh khỏi những “cú sốc tư tưởng” nhất định.

Từ ‘Cộng Sản mới sang…’

Mới đến thành phố Houston, Texas, Mỹ, học được 8 tháng, Như Quỳnh chia sẻ với VOA rằng nhiều bạn bè của cô khi mới sang thường bị cộng đồng người Việt địa phương gọi là “Cộng Sản mới sang”.

“Bạn em nói khi đi đăng ký học lái xe thì ông thầy dạy lái xe, có tư tưởng chống Cộng, nói ‘con này ở bên đó là Cộng Sản, dân Cộng Sản mới qua.’ Lời nói làm cho bạn em tủi thân, vì dù răng, Cộng Sản hay không Cộng Sản thì cũng là người Việt Nam”, Như Quỳnh kể lại.

Tự nhận “vẫn còn rất yêu quý nước Việt Nam”, Như Quỳnh nói “người Việt ở Mỹ có tư tưởng không tốt về Việt Nam là điều bình thường”, và như vậy là “sai lệch”.
… đến tự so sánh

Hầu hết du học sinh Việt Nam mà VOA phỏng vấn đều cho biết khi còn ở trong nước, họ hoàn toàn không để ý đến “ý nghĩa” của ngày 30/4 như các khẩu hiệu, tuyên truyền được lặp lại hàng năm. Họ chỉ đơn giản tập trung vào kế hoạch “ăn chơi” là chính. Nhưng khi ra khỏi Việt Nam, những cuộc biểu tình của cộng đồng gốc Việt vào ngày này lại mang đến “một góc nhìn khác” về ngày được gọi là “giải phóng”.

Mặc dù mình vẫn nói mình là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh… Hồi đi học được học như vậy, nhưng khi sang bên này mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây, mình thấy ở bên đây mới thực sự là dân chủ.

Quỳnh Võ, một du học sinh vừa tốt nghiệp cao học tài chánh ở Pháp, nói: “Ngày xưa thì 30/4, 1/5 là được nghỉ làm nên mừng muốn chết. Toàn là tuyên truyền không! Theo công cuộc tuyên truyền thì mình thấy nhiều cái cũng nhảm. Mình biết vậy nhưng biết nói gì hơn. Giờ qua đây lại thấy một góc khác: ngày quốc hận!”

Góc nhìn khác không chỉ dừng ở các sự kiện lịch sử, mà còn trong những sự việc hàng ngày khi người trẻ Việt Nam bỗng nhiên được đặt vào một thế giới khác và có cơ hội so sánh.

Thanh Hương, một du học sinh mới sang thành phố Brisbane, bang Queenland, Úc, học chương trình MBA được 2 năm, giải thích về kết luận “Việt Nam không thực sự tự do như mình nghĩ”:

“Mặc dù mình vẫn nói mình là xã hội dân chủ, công bằng, văn minh… Hồi đi học được học như vậy, nhưng khi sang bên này mới thấy không phải như vậy. Khi sang đây, mình thấy ở bên đây mới thực sự là dân chủ. Cái gì cũng có luật lệ rõ ràng, được quyền tự do thật sự, được bảo vệ rõ ràng, từ quyền cho phụ nữ hay tất cả về y tế, giáo dục…, nhất là về quyền con người. Bên này mọi điều đều minh bạch, rõ ràng, được xử lý nghiêm bằng luật. Còn ở Việt Nam thì không như vậy.”

Thanh Hương dẫn chứng một sự kiện điển hình trong nước mà cô theo dõi từ bờ bên kia: “Ví dụ biểu tình Formosa. Người ta chỉ biểu tình để đòi lại quyền được bồi thường do biển bị nhiễm bẩn hoặc chỉ đòi làm minh bạch tại sao lại gây ra ô nhiễm môi trường như vậy thôi, em thấy biểu tình đúng như vậy mà vẫn để xảy ra bạo loạn trong biểu tình rồi chẳng đâu vào đâu hết. Còn bên này mà một sự việc gì đó không rõ ràng là người ta phải biểu tình, và người ta sẽ được cảnh sát hỗ trợ cho việc biểu tình.”

Trong khi vẫn ngầm phản đối quan điểm của cộng đồng người Việt ở Mỹ, Như Quỳnh cũng thừa nhận Mỹ tốt hơn Việt Nam. “Giả sử như ở đây có chương trình hỗ trợ cho người già giống như bảo hiểm Medicare, Medicaid… Mình đi học, nếu mình là resident (thường trú dân), thì cũng có những chương trình hỗ trợ giảm học phí cho người dân ở đây. Nó theo mục đích của người dân nhiều hơn. Nói chung là cái gì ra cái đấy, tính toán rất kỹ nên xã hội và cuộc sống em thấy tốt hơn Việt Nam nhiều”.
Và đắn đo, không về
Cho dù xung đột tư tưởng trong giới du học sinh, những người trẻ có cơ hội được sống ở cả hai bên “chiến tuyến,” là nặng hay nhẹ, thì đa số đều không mong muốn có một “chiến tuyến” nào giữa những con người mang dòng máu Việt. Quỳnh Võ chia sẻ: “Người trẻ hoặc là nhìn với góc độ ngày chiến thắng, hoặc nhìn với góc độ ngày quốc hận, thì cuối cùng, trong lòng Việt Nam sẽ có rất nhiều nước Việt khác nhau.”

… đó là sự điều chỉnh khi bạn phải thích nghi với cái mới. Có vẻ như, đối với tôi, họ đều trải qua các giai đoạn giống nhau cho tới khi họ sẵn sàng thích nghi với văn hóa Mỹ.

Quỳnh Võ và chồng đều là du học sinh từ Việt Nam sang Pháp. Cả hai đã có công việc làm ổn định và một mái ấm hạnh phúc với hai con nhỏ. Cô tâm sự về thay đổi quyết định trở về Việt Nam của gia đình mình:

“Thật ra ai có cơ hội ở lại thì họ ở lại hết. Có ai muốn sống với Cộng Sản đâu? Chẳng qua trước đây họ không nói ra thôi. Ví dụ như em, qua bên này thấy về mặt chuyên môn được làm việc sâu hơn, về học hành cũng được học thích hơn. Ngay cả một chuyện thực tế là bây giờ con cái em, mình có con rồi, con đi học trong một môi trường trong veo như vậy, tự nhiên về mặt cá nhân mình cũng đắn đo khi quyết định về dù đó là về cho con đi nữa”.

Giải thích về những thay đổi trong tư tưởng của du học sinh, cô Camila McTighi, chuyên viên tư vấn cho học sinh nước ngoài của Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Bắc Virginia, Mỹ, đưa ra nhận xét chung: “Tôi có thể nói đó là sự điều chỉnh khi bạn phải thích nghi với cái mới. Có vẻ như, đối với tôi, họ đều trải qua các giai đoạn giống nhau cho tới khi họ sẵn sàng thích nghi với văn hóa Mỹ”.

Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng, gần đây liên tục đề cập đến mối nguy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong giới Đảng Viên, công chức chính quyền. Hồi đầu tháng 1/2017, ông Trọng yêu cầu Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác, đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhưng có một hành trình “tự chuyển hóa” mà không cần có một cuộc vận động nào đang diễn ra trong giới du học sinh, trong đó có không ít người là thế hệ tiếp theo của những người Cộng Sản.

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu

Vụ Đinh La Thăng: Ván cờ sinh-tử chỉ mới bắt đầu


Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng.

Đinh La Thăng (trái) và Nguyễn Phú Trọng

Không bắn pháo hoa!

Lễ kỷ niệm 30 tháng Tư “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” năm 2017 đặc biệt chưa từng thấy: cùng vào cuối giờ chiều ngày 27/4 khi các tờ báo trong nước được Ủy ban Kiểm tra trung ương “phát lệnh nổ súng” để đăng nguyên bản kết luận kiểm tra hàng núi vụ việc bị xem là “rất nghiêm trọng” tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) cùng trách nhiệm của đương kim ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng, một phó chủ tịch của chính quyền TP.HCM là bà Nguyễn Thị Thu đã như ngậm ngùi thông báo với báo giới “Ban bí thư không cho phép thành phố tổ chức bắn pháo hoa 15 phút vào đêm 30/4”, dù trước đó thành phố này đã làm văn bản xin “bắn”.

Không có lời giải thích nào từ Ban bí thư của ông Đinh Thế Huynh về việc không cho bắn pháo hoa, nhưng một phó giám đốc Sở Văn hóa – thể thao của TP.HCM đã tiết lộ: tùy vào tình hình thực tế, chính trị xã hội và mỗi giai đoạn khác nhau…

Hoàn toàn không phải lý do “tiết kiệm” cho số tiền chỉ khoảng một chục tỷ đồng chi phí bắn pháo hoa – chỉ bằng 1/340 so với khoản lỗ mà Trịnh Xuân Thanh đã gây ra tại PVC – một doanh nghiệp con thuộc Petro Vietnam từ thời ông Đinh La Thăng còn là Chủ tịch Hội đồng thành viên.

Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên TP.HCM kỷ niệm lễ 30/4 mà không được bắn pháo hoa, trong khi bầu không khí trước ngày này dường như không có gì bất thường về mặt an ninh. Cũng chưa thấy dấu hiệu nào để hình thành một “làng kháng chiến Đồng Tâm” tại thành phố này…

Vậy thì sợ gì mà không “bắn”? “Nội bộ” chăng?

Có vẻ “bài học Quân khu 9” vào thời gian trước đại hội 12 cùng vụ “tướng chữa bệnh” Phùng Quang Thanh vẫn còn nguyên ám ảnh.
Chiến thắng thứ hai
Một nỗi ám ảnh khôn nguôi đã đặc cách dành cho Tổng bí thư Trọng từ sau đại hội 12, cho dù ông đã lau được nước mắt trước đối thủ chính trị số một là ông Nguyễn Tấn Dũng.

Nỗi ám ảnh ấy còn đeo đẳng ghê gớm, đã trở nên cao trào mất ngủ bằng vụ biến mất cực kỳ thách thức của Trịnh Xuân Thanh. Cho dù ông Nguyễn Tấn Dũng đã cam kết trở thành “người tử tế”, vẫn còn không thiếu kẻ luôn chực chờ gây hậu họa cho ông Trọng.

Cuộc chiến “chống tham nhũng” của tổng bí thư cũng bởi thế đã dần hóa thân vào ân oán quyền lực và thể diện.

Nhưng phải mất đến một năm một quý từ sau đại hội 12 rạng rỡ thắng lợi, Tổng bí thư Trọng mời giành được chiến thắng thứ hai.

Bài bản được lặp lại phong cách của Vương Kỳ Sơn của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung Quốc mà ông Nguyễn Phú Trọng đã dẫn đoàn “học tập” vài năm trước: dù không có được nhân chứng Trịnh Xuân Thanh, cũng chẳng trưng ra lời khai nào của Vũ Đức Thuận – nguyên trợ lý của Đinh La Thăng, vẫn còn sờ sờ ra đó một núi hậu quả bị cho là trách nhiệm của ông Thăng thời còn tại vị nơi Petro Vietnam, chưa kể một “hình án” có dấu hiệu rất rõ là 800 tỷ đồng mà Petro Vietnam góp vào Ngân hàng Đại Dương của Hà Văn Thắm đã hoàn toàn biến mất.

Không phải Bộ Công an có vẻ khá chậm chạp ngay cả khi tổng bí thư đã “tự cơ cấu” vào Thường vụ đảng ủy công an trung ương vào tháng 9 năm 2016, mà Ủy viên bộ chính trị Trần Quốc Vượng của Ủy ban kiểm tra trung ương mới bắt buộc phải nổi lên như một Vương Kỳ Sơn của Việt Nam.

Khó mà hình dung khác hơn, cử chỉ Ủy ban Kiểm tra trung ương công bố kết luận về Petro Vietnam ngay trước khi Hội nghị trung ương 5 của đảng cầm quyền diễn ra là có chủ ý. Cùng nhận định “rất nghiêm trọng” của ủy ban này đối với vụ Petro Vietnam, việc Ủy ban Kiểm tra trung ương nêu đề nghị chính thức gửi Bộ chính trị và Ban bí thư về “kỷ luật đồng chí Đinh La Thăng” tất sẽ dọn đường cho Hội nghị trung ương 5 bỏ phiếu kỷ luật Bí thư TP.HCM.

Nếu thông tin dư luận về việc Ban bí thư đã thống nhất kỷ luật ông Đinh La Thăng với mức độ “cảnh cáo về mặt đảng” là đúng, mức kỷ luật tại Ban chấp hành trung ương thông thường sẽ không nhẹ hơn. Và chỉ cần có thế, đương nhiên chức bí thư thành ủy TP.HCM sẽ một sớm một chiều bị tước khỏi tay ông Đinh La Thăng. Để trong trường hợp khả quan nhất, ông Thăng cũng chỉ nhận được một chức vụ “làng nhàng” nào đó trong bộ máy trung ương – gần giống với đương kim Trưởng ban Kinh tế trung ương Nguyễn Văn Bình, nhưng có lẽ thấp hơn ông Bình.

Còn nếu nặng hơn, đó sẽ là “cách chức về mặt đảng”, thậm chí khai trừ đảng và mở đường đến truy cứu trách nhiệm hình sự liên quan những vụ việc tại Petro Vietnam. Khi đó thì đừng có nghĩ gì đến việc tồn tại trong Bộ Chính trị, thậm chí trong Ban chấp hành trung ương.

Báo nhà nước Việt Nam, bỉ bôi thay, đang rầm rộ khởi phát một chiến dịch “xét lại Đinh La Thăng”, cho dù chỉ mới năm ngoái chính những tờ báo này đã tung hô ông Thăng lên tới mây xanh, còn gần đây nhất lại câm bặt vụ nông dân Đồng Tâm, Hà Nội phản kháng triều đình.

Nếu vụ ông Đinh La Thăng diễn ra “đúng quy trình” và theo đúng tuyên ngôn “kỷ luật vài người để cứu muôn dân” của ông Trọng, bàn cờ chính trị Việt Nam sẽ được “tái cơ cấu” thấy rõ: cùng với ông Thăng, nhân vật thứ hai đã quá mang tai tiếng là Ủy viên bộ chính trị Nguyễn Văn Bình cũng có thể bị “xét lại”. Hoặc ở vào thế “quy thuận triều đình”, ông Bình sẽ ngồi yên tại Ban Kinh tế trung ương cho đến lúc đủ tuổi hưu.
Ván cờ sinh – tử bắt đầu!
Hội nghị trung ương 5 cũng bởi thế có thể mang đến triển vọng “phục thù” cho Tổng bí thư Trọng đối với thất bại không thể cơ cấu hai nhân vật Vương Đình Huệ và Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính trị tại Hội nghị trung ương 7 – diễn ra vào tháng 5/2013.

Chiến thắng thứ hai của Tổng bí thư Trọng, dù khá muộn màng, vẫn mở toang cánh cửa để ông Trọng có dịp “hội kiến” với cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Có vẻ ông Trọng không còn “đường” nào khác.

Không phải đại hội 12. Giờ đây, ván cờ quyết định sinh – tử mới bắt đầu.

Khỏi phải nói, cũng có thể hình dung ông Nguyễn Tấn Dũng và “dây” của ông đang ở vào thế nguy biến đến thế nào.

Nhưng ông Dũng sẽ làm gì?

Tôi đã có một Việt Nam như thế……

Tôi đã có một Việt Nam như thế……

Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó. Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam. Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.

Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp. Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.

Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh. Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn.  Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.

Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức. Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý. Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.

Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.

Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta. Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế.

Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế.

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.

Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m Vietnamese.”

Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam như thế. Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng. Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế.

Ku Búa @ Café Ku Búa

PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa.

Với thể chế CS: ghế quyền lực càng cao thì nhân phẩm càng thấp!

From facebook:  Trần Bang
Với thể chế CS: ghế quyền lực càng cao thì nhân phẩm càng thấp!

“Sau 30 tháng 4 năm 1975, trận gió giáo dục mang tính chiến đấu của miền Bắc đã xô dạt những thư viện giáo dục nhân bản miền Nam. Và hệ quả của nó là suốt 42 năm, nền giáo dục càng lúc càng bệ rạc. Những quan chức giáo dục bị kỉ luật ở cấp thấp thì lại được thăng cấp, nhảy tót lên ghế trên để làm quản lý. Hiện tại, có nhiều quan chức giáo dục cấp tỉnh, với vị trí giám đốc sở giáo dục, nhưng nếu chịu khó kiểm tra kiến thức, trình độ và đạo đức của họ, dường như là có quá nhiều vấn đề để bàn.

Theo thầy Toàn, có người từng bị kỉ luật ở nhà trường vì nạn đề đóm nhưng sau đó lại được cất nhắc làm chuyên viên sở, rồi cuối cùng là giám đốc sở giáo dục, trong khi đó, người này từng ra đề thi sai nhiều lần vì không có kiến thức và ông ta chỉ giỏi duy nhất một điều, đó là biết làm được lòng cấp trên, biết đội trên đạp dưới.

Một nền giáo dục không có triết lý, không coi trọng dân chủ và không đề cao nhân cách đã và đang cho ra những đáp số xã hội đầy rẫy tội lỗi và cái ác. Thầy Toàn khẳng định rằng nếu như truy tìm nguyên nhân gây ra một xã hội hết sức manh động và vô cảm như hiện tại, nền giáo dục đã góp một phần rất lớn để xây dựng nên xã hội như đang thấy.

Nói cho cùng, một nền giáo dục chỉ lấy vật dục làm kim chỉ Nam và không coi trọng tính nhân bản, tính dân chủ, cộng thêm với sự thiếu thành thật và phiến diện sẽ không bao giờ là một nền giáo dục có khả năng hoàn thiện con người. Và những người trưởng thành trong nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nói cho cùng là nhờ vào niềm đam mê tri thức cũng như thiện căn có sẵn của họ chứ không phải do tác động của giáo dục.

Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có khả năng tác động, làm giàu nhân tính xã hội, ngược lại, một nền giáo dục tồi tệ là nền giáo dục luôn chịu lời nhắc nhở về nhân tính cũng như phẩm hạnh từ xã hội. Và nền giáo dục Việt Nam kể từ sau 30 tháng 4 năm 1975 đến nay là nền giáo dục như thế!

NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ NGÀY 30/4 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ THỨC TỈNH.

From facebook:  Phạm Văn Dũng
NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ NGÀY 30/4 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ THỨC TỈNH.

1/Nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.
(Luật sư Nguyễn Văn Đài )

2/ ” Càng huênh hoang, bốc phét về đại thắng mùa xuân càng khơi dậy nỗi đau và lòng hận thù “

“30/4 là ngày đã giải phóng cho tôi , một công dân miền Bắc khỏi kiếp nô lệ của một thứ triết học chính trị ngoại lai”
( Nhạc sĩ Tô Hải )

3/”Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn.

Sau này tôi mới hiểu tôi cũng ngây thơ tôi khóc thế thôi. 30/4 tôi còn khóc vì một lý do khác nữa là vì chúng tôi bị lừa. Chúng tôi đi không nghĩ ngày về, nhưng mà chúng tôi tưởng chiến thắng quân ngoại xâm nhưng thực sự hoàn toàn là không phải. Và tất cả tuổi trẻ của chúng tôi đã bị tiêu huỷ đi. Và vì vậy mà tôi khóc, trong những giọt nước mắt của tôi có cái phần chung cho dân tộc và có phần riêng của chúng tôi, của những người bạn tôi đã chết và của bản thân tôi đã hy sinh tuổi xuân một cách vô ích.»

( Nhà văn Dương Thu Hương).

4/”Dù không muốn nói ra, dù bây giờ ai nói ra đều bị coi là phản động, rằng đã có một cuộc giải phóng ngược trong ngày 30/4/1975, bên thắng cuộc đã được hoàn toàn giải phóng, trước tiên và trên hết là sự giải phóng về tư duy, ít nhất là đúng với mình”
( Nhà văn Nguyễn Quang Lập ).

5/ “Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn “.
( Nhà văn Nguyên Ngọc )

6/”Hóa ra những người chiến sĩ Giải phóng chúng tôi bấy lâu đã bị một thế lực nhân danh sự nghiệp Giải phóng ngấm ngầm trói buộc vào một guồng máy lấy xương máu chúng tôi và xương máu nhân dân để đúc thành ngai ghế “vua quan cách mạng” của họ.”

( Nhà thơ Bùi Minh Quốc)

7/ “Trống kèn ầm ỹ, pháo hoa khắp nơi, duyệt binh hoành tráng chỉ còn là màn khói mỏng che đậy những sai lầm và tội ác chồng chất cùng những bất công kinh khủng mà xã hội không còn có thể chịu đựng nổi.”
( Nhà báo Bùi Tín )

8/”Sự kiện 30-4-1975 tôi không phải là chứng nhân của sự kiện đó vì tôi sinh ra năm 1979, nhưng những gì tôi trực tiếp trải qua và chịu đựng trên đất nước Việt Nam thì tôi thấy đây là sự kiện hết sức là đặc biệt, cá nhân tôi nghĩ rằng đây là sự an bài nhục nhã của đức chúa trời dành cho dân tộc Việt Nam. “
( Luật sư Lê Thị Công Nhân ).

Dương Hoài Linh   

Nghĩ về 30.4.1975: hôm nay tôi kể 1 chút về Cộng Sản

From facebook: Trung Nguyen

My Post #147: Nghĩ về 30.4.1975: hôm nay tôi kể 1 chút về Cộng Sản ở giai đoạn 1975 cho đến 1980 để các bạn trẻ hiểu thêm về Cộng Sản vào thời đó.

Vào ngày 30.4.1975 Cộng Sản cướp miền nam VNCH. Sau khi họ cướp được chính quyền, Cộng Sản tiếp tục cướp tài sản của người dân miền Trung và miền Nam như là TV, tủ lạnh, máy giật áo quần, máy sấy áo quần, nồi cơm điện, tiền bạc, xe đạp, hon đa, vải, v.v…..Mỗi ngày rất nhiều xe nhà binh (xe bộ đội) chứa đầy đồ vật cướp từ miền Trung và Nam chở về miền Bắc. Cứ vậy suốt mấy năm liên tục.

Riêng gia đình của ba má tôi: Cộng Sản cướp hết 7 ngôi nhà lầu, 3 công xuởng, vàng, kim cương, tiền bạc, 2 xe hơi, tất cả hàng hóa xe đạp, tất cả hàng hóa xe honđa, tất cả hàng hoá vải, đồ vật trong nhà, v.v… Cộng Sản gắn cho gia đình là “đại tư bản”.

Cộng Sản rất là MỊ DÂN sử dụng danh từ “đại tư bản” nói với người dân là gia đình của ba má tôi được giàu có là vì bóc lột tiền bạc của cải từ người dân nghèo. Cộng Sản nói vậy để người dân nghèo ủng hộ chính sách đàn áp của chính quyền Cộng Sản. Gia đình tôi bị cho vào sổ đen ‘’đại tư bản”, thành phần xấu của chính quyền trong khi gia đình ba má tôi chưa bao giờ phạm tội, là một gia đình rất lương thiện làm ăn buôn bán ngay thẳng và hay thường giúp đỡ người dân kém may mắn.

Cộng Sản luôn hăm dọa bắt gia đình đi vùng kinh tế mới (vùng kinh tế mới là nơi vùng hoang vắng rất xa, cách vài trăm cây số. Nơi có nước độc, mìn va bom đạn) để làm cày ruộng nhưng ba má đút lót tiền bạc thường xuyên cho nên được miễn đi đến vùng kinh tế mới. Vì gia đình là “đại tư bản”, bị vào sổ đen, cho nên con cái bị trừ điểm để vào đại học. Bất cứ ai cũng đều bị bắt đi họp bị nhồi sọ mỗi đêm. Ba má anh chị đều bi cưỡng bắt đi họp mỗi đêm. Họ không bao giờ để gia đình được yên. Bất cứ làm gì mua gì họ cũng để ý dù đi mua đồ ăn sáng, ăn trưa hay ăn tối cũng đều bị để ý. Họ xây dựng một xã hội, không ai tin vào ai, vì có thể bị tố cáo lẫn nhau.

Anh lớn nhất của gia đình tôi là 1 bác sĩ và chị lớn nhất là dược sĩ nhưng Cộng Sản không cho anh chị hành nghề trong khi đó bác sĩ và dược sĩ là nghề để giúp và cứu người.

Mỗi đêm Cộng Sản bắt mọi người dân đi hội hộp, nhồi sọ. Thật ra nơi hội hộp là nơi để người này đấu tố người kia bị nghi kỵ lẫn nhau như là gián điệp, không ai tin ai. Đôi lúc họ kêu gọi tất cả mọi người dân tập trung ở sân vận động (nơi đá banh), bắt người dân đấu tố người nào đó hành hạ tại chổ rồi họ bắt người đó đi giết.. có lần có người bị bắn ngay tại chổ ở sân vận động…. thật là độc ác !

Chú của tôi là 1 sĩ quan VNCH, cấp bậc đại úy cảnh sát chuẩn bị bước sang thiếu tá. Ngày 30.4.1975, Cộng Sản nói với chú tôi và tất cả quân nhân VNCH là đi học tập “cải tạo” 3 tháng rồi sẽ được trở về nhà. Thật ra “cải tao” là từ mị dân của Công Sản. Cải tạo là nơi ngục tù, giam cầm, đàn áp, tra tấn và bị lao động như một kẻ nô lệ. Cộng Sản là kẻ xảo trá. Họ nói 3 tháng nhưng trên thực tế là hơn 3 năm. 7 năm, 9 năm, 12 năm, hay 17 năm mới được về nhà. Cuối cùng gần 15 năm chú tôi mới được về nhà.

Nói về tội ác của Cộng Sản thì 100 trang cũng không thể kể hết được.

THẰNG KHÙNG* (Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)

THẰNG KHÙNG (Phùng Quán)

THẰNG KHÙNG*
(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)

Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn tắc:

– Trời… Tuân!

Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Nguyễn Tuân. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:

– Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…

Tuân cười buồn:

– Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?

– Ừ…, cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…

Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:

– Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.

Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.

– Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. – Tuân nói – Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.

– Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào – tôi hỏi.

– Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu như cậu biết. Thực tế mười năm đã chỉ cho mình thấy nội dung cuốn tiểu thuyết của mình quá hiền lành, quá nông cạn. Theo mình, nếu không có mười năm lưu đày ở Sibir, tài năng của Dostoievsky không đạt đến độ viên mãn như vậy. Mình tin, nếu viết lại, cuốn tiểu thuyết của mình sẽ hay hơn, sâu sắc hơn rất nhiều. Nó sẽ là Kỷ niệm ngôi nhà những người chết của mình. Hai nữa, nhờ mười năm qua mình đã tự học được tiếng Nga. Bây giờ mình có thể đọc được Dostoievsky từ nguyên bản. Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả : trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn. Mình chỉ đơn cử với cậu một người…

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính. Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta.

Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc. Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau.

Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và trừng phạt.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán ghi theo lời kể của Nguyễn Tuân**

 

Thằng Khùng trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh (1912-1971) của Nhà thờ lớn Hà Nội.)

** Nguyễn Tuân có bút hiệu là Tuân Nguyễn. Anh vẫn muốn giữ tên mình làm bút hiệu nhưng vì đã có nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả “Vang Bóng Một Thời” nên anh đành đổi ngược là Tuân Nguyễn.

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912 – 1971)
Cha chính Hà Nội
Tấm gương can trường

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa-Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu. Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?”. Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội. Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu ‘Ở Dưới Vực Sâu’ nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác ‘Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít’. Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’, ‘Lạy Mừng Thánh Tử Đạo’. Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài ‘Bước Tới Đèo Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn.

Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công. Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng. Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn: “Tự do thế này à!” Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.

Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo. Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?” Ngài đáp: “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”.

Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là ‘bố’.

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử. Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”.

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP Hà Nội

Thầy Uông Đại Bằng gởi

Việt Nam chịu thiệt nhiều nhất trong Bộ Quy Tắc ứng xử biển Đông

Việt Nam chịu thiệt nhiều nhất trong Bộ Quy Tắc ứng xử biển Đông

 
 ASEAN sắp họp để thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC) và nhiều khả năng sẽ không đề cập đến Quần đảo Hoàng Sa. Theo phân tích của tạp chí Forbes, đó sẽ là viễn cảnh tệ hại nhất đối với quá trình đòi lại chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trung Quốc cho xây dựng các công trình quân, dân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh: Amusingplanet.com)
Trung Quốc cho xây dựng các công trình quân, dân sự trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa (ảnh: Amusingplanet.com)

Tuần này, các nhà lãnh đạo 10 nước ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) đang họp tại Philippine, có thể trọng tâm các cuộc thảo luận là về giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa bình.

Bốn nước thành viên ASEAN gồm Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền tại các hòn đảo và vùng nước giàu tài nguyên trên Biển Đông. Trong khi, Trung Quốc cho rằng toàn bộ diện tích  3,5 triệu km2 vùng biển này đều nằm dưới quyền kiểm soát của họ.

Sau nhiều năm thảo luận, trong cuộc họp lần này các nước ASEAN mong muốn có thể chốt đưa ra Quy tắc Ứng xử (COC) vào tháng 6 tới, sau đó sẽ rà soát lại lần nữa vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2018 trước khi áp dụng chính thức.

COC là một bộ các quy tắc ràng buộc nhằm mục đích giảm các rủi ro khi các bên hành xử trong vùng biển tranh chấp. Các bên liên quan đều né tránh không thảo luận sâu thêm về COC suốt từ khi họ ký kết vào Tuyên bố Ứng xử (DOC) năm 2002 nhằm khởi động đàm phán COC toàn diện.

 

Theo đánh giá của Tạp chí Fobes, nếu COC được thông qua lần này, bên chịu thua thiệt nhất sẽ là Việt Nam.

Việt Nam, với tư cách là thành viên ASEAN có tuyên bố chủ quyền Biển Đông sẽ muốn có một quy tắc ứng xử hoặc bất kỳ một văn kiện liên quan nào đó phải bao gồm Quần đảo Hoàng Sa. Nhưng Trung Quốc không đồng ý điều này. Bắc Kinh đã kiểm soát toàn bộ 130 đảo nhỏ trong Quần đảo Hoàng Sa, nằm ở phía Tây Nam HongKong từ năm 1974. Khi đó, chiến tranh Việt Nam đang leo thang căng thẳng với sự thất thế của chính quyền miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa), Trung Quốc đã thực hiện một trận đánh chớp nhoáng chiếm toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa. Hiện tại, Cộng hòa XHCN Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa, nhưng đã mất hoàn toàn quyền kiểm soát trên thực chất.

Chính vì đã hoàn toàn kiểm soát Quần đảo Hoàng Sa nên Trung Quốc dùng mọi biện pháp để ngăn cản không cho tàu thuyền Việt Nam hoặc bất cứ nước nào khác đến gần quần đảo này. Nếu COC đề cập tới Quần đảo Hoàng Sa tức sẽ có hàm ý rằng một quốc gia khác có thể tiếp cận các rạn đá ngầm, đảo san hô và các vùng nước xung quanh quần đảo. Do đó, Trung Quốc nhất quyết phản đối COC nhắc tới Quần đảo Hoàng Sa và thực tế suốt 6 năm qua nước này vẫn tìm cách ngăn cản ASEAN thông qua COC vì lo sợ rằng sẽ làm ảnh hưởng đến sự kiểm soát của Trung Quốc trên Biển Đông.

 

Việt Nam cùng 3 thành viên ASEAN khác và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền của mình và đang chia sẻ kiểm soát trên các đảo nhỏ tại một quần đảo khác ở Biển Đông, quần đảo Trường Sa. Các nước đều đang cho thăm dò tìm kiếm tài nguyên khoáng sản như khí và dầu mỏ dưới đáy biển ở khu vực đảo do mình kiểm soát.

Đặc thù ở Trường Sa là nhiều nước cùng kiểm soát, nên nếu Trung Quốc không muốn thông qua một quy tắc ứng xử chung cho việc di chuyển an toàn trong vùng biển này, họ cũng sẽ gặp nhiều nguy cơ rủi ro tương tự như các nước khác.

Giáo sư chính trị học Carl Thayer của Đại học New South Wales, Úc cho biết: “Không ai có thể buộc Trung Quốc rút khỏi Hoàng Sa. Điều khả dĩ nhất chúng ta có thể hy vọng là Việt Nam sẽ dùng biện pháp tài phán, chẳng hạn như kiến nghị lên Tòa Trọng tài Thế giới The Hague”.

Việt Nam đang cố gắng có mối quan hệ tốt hơn với Trung Quốc bất chấp hai nước có hàng loạt các tranh chấp lãnh thổ trên đất liền và biển đảo hàng nhiều thế kỷ qua.

Tâm lý chống Trung Quốc vẫn còn rất cao trong đa số người dân Việt Nam. Nhưng chính quyền Hà Nội vẫn đang đàm phán song phương với Bắc Kinh về vấn đề lãnh thổ trên biển bên ngoài khuôn khổ ASEAN và vẫn hưởng những lợi ích kinh tế như nhập khẩu giá rẻ và số lượng lớn khách du lịch Trung Quốc.

Cho dù, giờ đây Trung Quốc có thể tạm làm yên lòng các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền trên biển bằng cách hỗ trợ và đầu tư. Nhưng, có thể cuối cùng họ vẫn sẽ phải đối mặt với sức ép từ chính phủ Hoa Kỳ vì những hành động quá mức của mình. Trong suốt nhiều thập kỷ qua, Bắc Kinh đã liên tục mở rộng kiểm soát biển, bao gồm cả việc xây dựng các hòn đảo nhân tạo sẵn sàng lắp đặt hệ thống radar và các hạ tầng quân sự, máy bay chiến đấu.

Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đang có 4 ngày họp tại Philippines, kết thúc vào thứ Bảy 29/4, có lẽ sẽ không đưa vấn đề Hoàng Sa vào COC, ngay cả khi Việt Nam cố gắng thuyết phục. Các nước kiên định ủng hộ Trung Quốc có Cambodia và Lào, ngay cả nước Chủ tịch ASEAN năm nay là Philippines cũng sẽ bỏ qua tranh chấp biển để ủng hộ Trung Quốc. ASEAN là một tập thể luôn theo đuổi sự đồng thuận toàn bộ và không muốn gây rạn nứt nội khối, cũng như với các nước bên ngoài.

COC mà không có điều khoản đề cập tới Quần đảo Hoàng Sa sẽ cho phép Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng nhiều hơn đến quần đảo này, nơi mà Bắc Kinh đang xây dựng một thành phố nhỏ, cùng nhiều cơ sở hạ tầng quân sự.

Ông Collin Koh, chuyên gia nghiên cứu về an ninh hàng hải tại Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore, cho biết: “Tôi không nghĩ rằng Trung Quốc sẽ muốn có điều đó trong quy tắc ứng xử, bởi vì tôi nghĩ rằng đối với Trung Quốc Hoàng Sa là một vấn đề song phương giữa nước này và Việt Nam, và tôi thậm chí còn thấy rằng một số quốc gia ASEAN có thể cũng không muốn đề cập tới Hoàng Sa trong COC bởi vì họ biết đó là một yếu tố phức tạp không cần thiết”.

Xuân Thành/ theo Forbes

Bảo vệ và phát triển linh vật Voọc Chà Vá Chân Nâu – biển tượng và thực thể vô giá của Tp. Đà Nẵng.

From facebook:  Phan Thị Hồng added 7 new photos — with Hoa Kim Ngo and 20 others.
Bảo vệ và phát triển linh vật Voọc Chà Vá Chân Nâu – biển tượng và thực thể vô giá của Tp. Đà Nẵng.

Nếu bạn không lên tiếng, sau này con cháu chúng ta sẽ không biết đến Sơn Trà là một báu vật vô giá do thiên nhiên ban tặng cho đất nước Việt Nam.

Tại Đại học Sư phạm Đà Nẵng chiều 28.4 đã diễn ra hội thảo ‘Giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững bán đảo Sơn Trà’.

Tại đây đại diện cơ quan chức năng đã nêu ra con số đang lưu ý là từ năm 2008, diện tích khu bảo tồn thiên nhiên của Sơn Trà đã giảm đến 40%.

Hội thảo do Trung tâm Con người và thiên nhiên (PanNature), Trung tâm Bảo tồn đa dạng sinh học Nước Việt Xanh (GreenViet) và Nhóm nghiên cứu – giảng dạy môi trường – tài nguyên sinh vật (DN-EBR) thuộc Đại học Đà Nẵng phối hợp tổ chức.

“Sự bùng nổ của du lịch đang đặt áp lực và đe dọa sự bền vững của hệ sinh thái bán đảo Sơn Trà”, thông cáo tại hội thảo cho hay.

Từng là 1 trong 10 khu rừng cấm của VN từ năm 1977 và đến năm 1992 được đổi tên thành Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà (với tổng diện tích 4.439 ha), đến nay diện tích rừng ưu tiên bảo tồn đa dạng sinh học tại bán đảo này đã giảm đi gần một nửa.

TS.Vũ Ngọc Long (Viện Sinh thái học miền Nam) khẳng định bán đảo Sơn Trà là vùng chuyển tiếp giữa lục địa và biển, là một hệ tự nhiên tiêu biểu trên toàn cầu có vị trí quan trọng.

Ông Huỳnh Tấn Vinh – Chủ tịch Hiệp hội Du Lịch Đà Nẵng – khẩn thiết:

– “Xây dựng và đưa voọc chà vá chân nâu thành biểu tượng linh vật của Đà Nẵng tương tự như gấu trúc, kiwi, kanguru của các nước khác để thu hút du khách đến Đà Nẵng.

– “Quy hoạch Sơn Trà thành nơi tham quan giải trí để bảo tồn cảnh quan tự nhiên với sự đòi hỏi nghiêm ngặt về quy chế ứng xử của du khách. Hạn chế tối đa việc sử dụng phương tiện cơ giới lưu thông gây tiếng ồn và ô nhiễm”.

PGS.TS. Võ Văn Minh (Đại học Đà Nẵng) nhận định:

– “Cần giữ nguyên hiện trạng hệ sinh thái tự nhiên; tạm dừng các hoạt động phát triển chưa đủ căn cứ pháp lý.

– “Hướng đến mở rộng phạm vi không gian để đề xuất công nhận khu dự trữ sinh quyển thế giới và có bộ máy quản lý cụ thể.

– “Tất cả các quyết định liên quan đến Sơn Trà cần thực hiện tham vấn rộng rãi các bên liên quan đúng quy định pháp luật”, PGS. TS Võ Văn Minh kiến nghị.

Tất cả các bài tham luận đều mong muốn ngăn chận những bàn tay cố tình băm nát Sơn Trà thành tài sản riêng, mà không biết đến hệ sinh thái có giá trị vô song và Vương quốc duy nhất (có thể quản lý và bảo vệ) đàn Voọc Chà vá chân nâu qúy giá của cả thế giới.

Hơn nữa, núi Sơn Trà là một báu vật vô giá thuộc một quận nội thành, mà thiên nhiên ban tặng cho đất nước Việt Nam.

Với tốc độ “cướp rừng” như thế, liệu sau này con cháu chúng ta có còn ai biết đến Sơn Trà đã từng là một thắng cảnh sơn thủy hữu tình, có một không hai trên thế giới hay chúng chỉ nhìn thấy toàn là đồi trọc và các biệt thự của các chủ nhân ông!

Hình ảnh: Núi Sơn Trà – Đà Nẵng. (Ảnh : Nghệ sĩ nhiếp ảnh Hoang Ha và các tác giả khác).

Image may contain: mountain, sky, tree, outdoor and nature
Image may contain: one or more people, people standing, sky, cloud, twilight, outdoor and nature
Image may contain: mountain, sky, outdoor and nature
Image may contain: mountain, sky, outdoor, nature and water
Image may contain: bird
+3
 
 

Ba Dũng, La Thăng, Bá Tỵ ơi, ngồi đó mà đợi chết hay sao?

From facebook: Hoa Kim Ngo and Thanh Tran shared Thành Phạm‘s post.
Image may contain: 2 people, suit
No automatic alt text available.

Thành Phạm added 2 new photos — with Minh Tuan Nguyen 

 Ba Dũng, La Thăng, Bá Tỵ ơi, ngồi đó mà đợi chết hay sao?

Ba Dũng không thể không run khi thấy Nguyễn Phú Trọng cùng phe nhóm đã sờ đến gáy Đinh La Thăng. Mức kỷ luật chỉ là cảnh cáo. Cảnh cáo là một trong 7 bậc xử lý kỷ luật của Luật lao động hiện hành. Nếu chỉ ở cấp độ chính quyền xử lý thì Thăng còn đang thoát. Nghĩa là chức vụ vẫn còn nguyên. Còn bên Đảng căn cứ vào mức kỷ luật cảnh cáo để xử lý tiếp thì tôi không biết Thăng sẽ còn bị thế nào nữa? Như khai trừ khỏi đảng, chẳng hạn. Mà khai trừ khỏi đảng thì các chức vụ khác cũng teo và con đường Thăng đi bóc lịch dài ngày là khó thoát. Khai trừ đảng để thịt Thăng, điều này có xảy ra không? Chỉ có Nguyễn Phú Trọng và vây cánh chủ chốt của ông ta mới biết được. Ba Dũng bây giờ đang ở vòng ngoài cũng chỉ đoán già, đoán non, khó mà biết chính xác số phận Thăng sẽ có một hạ hồi như thế nào?.

Tôi đoán, Thăng sẽ khó thoát, không chỉ dừng lại ở mức bãi nhiệm chức rồi vô hiệu hóa mà ở mức nặng hơn. Nguyễn Phú Trọng, cách đây độ vài tháng đã bắn tín hiệu: “Kỷ luật một vài người để cứu vạn người”, là Trọng nhằm bắn vào Thăng. Việc Phú Trọng chỉ mới kỷ luật Thăng ở mức độ “cảnh cáo”, là Phú Trọng tạo cảm giác cho Thăng đã thóat nạn để Thăng bỏ ý định quậy đến mức công khai chống lại Phú Trọng. Cách làm này của Trọng không có gì mới mà chỉ là biểu hiện thực hiện theo đúng kịch bản mà ông ta đã tuyên bố: “Giết chuột nhưng phải giữ cái bình”. Nếu Thăng không tỉnh táo nhận ra chiến thuật từng bước, từng bước của Phú Trọng, để Thăng phòng vệ và quyết đấu, Thăng sẽ bị Nguyễn Phú Trọng dần dần lột từng cái áo, cái quần cho đến khi Thăng bị phơi trần truồng ra rồi sau đó Trọng mới từ từ đưa Thăng vào lò nấu cao.
Nếu Thăng không đủ mạnh, đủ mưu lược, quyết đoán trong phòng vệ nhất định Thăng sẽ bị Phú Trọng đưa vào lò nấu cao toàn tính.

Thăng đến số rồi Thăng ơi! Chưa kể đến những oán hận trong đấu trường quyền tiền diễn ra trong mấy năm nay mà Trọng và phe Trọng đã phải chịu nhiều cay đăng vì Thăng và đồng sự; chỉ xét ở hình thức hiện tại thì Thăng đã vào số phải làm vật hiến tế cho Nguyễn Phú Trọng và phe cánh rồi. Vì, Nguyễn Phú Trọng không thể cứ muối mặt chiến thắng như chiến thắng những chú gà đã chết khi cách chức mấy vị chức sắc mà hiện tại họ không còn giữ chức đó nữa. Cứ diễn mãi cái trò thắng gà chết đó, chỉ tổ cho thiên hạ đàm tiếu chê cười. Và thực tế thiên hạ đã đàm tiếu, đã phỉ nhổ vào mặt Nguyễn Phú Trọng về cái trò kỷ luật “đá thắng gà chết” này rồi. Nguyễn Phú Trọng, còn chút liêm sĩ trong người, không thể không gỡ chút ít sĩ diện bằng cách phải giết ít nhất một con “gà” còn đang sống nào đó. Thăng, số phân rủn rui thế nào lại trở thành con “gà” sống bị hiến tế trong tay Phú Trọng. Hơn nữa, diệt Thăng, là Phú Trọng vừa dọn vật cản, vừa rằn mặt những kẻ còn lừng khừng không ủng họ Trọng tiếp tục làm thêm nửa khóa nhiệm kỳ tổng bỉ thư đảng sẽ quyết định trong tháng 5 tới đây.

2. Nhưng nấu cao Thăng chưa phải là cái đích mà Nguyễn Phú Trọng nhắm đến trước khi nghỉ chức tổng bí thư. Đích nhắm đến của Nguyễn Phú Trọng vẫn là anh Ba Dũng. Óan thù giữa Phú Trọng với Ba Dũng là oán thù không đội trời chung. Thăng bị nấu cao, rồi tới đây đại tướng Đỗ Bá Tỵ về hưu, Ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban Kinh tế Nguyễn Bình bị vô hiệu hóa, thì là lúc Ba Dũng cũng theo đàn em mà vào chuồng Cọp của Phú Trọng. Tôi nghi Ba Dũng chưa lường đến viễn cảnh này. Vì Ba Dũng là dân Nam bộ khoáng đạt. Vì là dân Nam bộ khoáng đạt nên Ba Dũng và chả mấy người Nam bộ biết dân Bắc Kỳ, đặc biệt là dân vùng Cổ Loa thành, có bản tính thù dai như thế nào đâu. Người Tàu chọn Nguyễn Phú Trọng làm vua ở Việt Nam lâu dài, ngoài biết Phú Trọng ngu dốt, lú lẫn ra, họ còn biết rõ Phú Trọng có bản tính thù dai của dân Cổ loa thành. Chưa diệt được Ba Dũng, Nguyễn Phú Trọng không bao giờ từ bỏ chức vụ đang giữ. Mà Trọng biết thời gian còn tại vị của Trọng dài nhất cũng chỉ còn có hơn 2 năm nữa.

Ba Dũng, ông đừng trương mắt ếch lên nhìn ngó xem Phú Trọng sẽ lột da Đinh La Thăng từng bước như thế nào để ông tính toán việc phòng vệ. Đừng nghĩ Thăng chỉ bị cảnh cáo là xong việc. Nghĩ và đợi như vậy, thình lình có ngày, Phú Trọng sẽ có Tàu Cộng yểm trợ sẽ tóm ông như tóm một con lợn đực rừng rồi đẩy ông vào trong rọ. Ông và phe ông muốn sống, muốn tồn tại của cải thì phải hành động ngay tức thì. Trong những năm 2012, 2013, 2014, 2015 và đầu 2016, tôi đã khuyên ông nhiều lần, cần phải tổ chức đảo chính cung đình đi, trong lúc lực lượng của phe ông thừa khả năng để ông dám làm và sẽ ông chiến thắng. Nhưng vì ông quá sợ Tàu Cộng nên không dám làm. Dẫn đến phải chấp tay vái Phú Trong xin được “làm người tử tế”. Để rồi mỗi ngày ông sống là mỗi ngày ông nơm nớp lo sợ Phú Trọng đến diệt ông bất kỳ lúc nào.

Nay thời cơ sống và bảo toàn tài sản của ông vẫn còn. Vấn đề là ông có dám bỏ của cải của ông ra để thực hiện một cuộc đấu công khai với Phú Trọng hay không mà thôi. Nó hoàn toàn là ý chí vượt qua nỗi sợ của chính ông như những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam đã từng vượt qua. Ông hãy dũng cảm lựa chọn và kiên quyết đứng về phe nhân dân. Như vậy, được mất của đời ông gắn với sự tồn vong của dân tộc và đất nước sẽ có ý nghĩa hơn nhiều khi ông chỉ trương mắt ếch lên nhìn phe cánh từng đứa của ông bị Phú Trọng đưa vào lò nấu cao và người cuối cùng bị đưa vào lò nấu cao lại chính là ông.

* Chú giải thêm: Trong chế độ độc tài cộng sản, thằng quan nào cũng tham ô, tham nhũng, hà lạm quyền lực, đàn áp và cướp bóc. Vì vậy, thằng nào cũng đáng chết. Nhưng, chết một thằng chết nhiều thằng, dư luận thích, nhưng những cái chết đó có đem lại lợi ích gì cho xã hội hay không mới là điều tôi quan tâm. Vì, thằng này chết thằng kia lên, chúng lại đi theo đúng đường mà những thằng đàn anh trước đã đi thì chết hay sống của thằng nào cũng rứa. Có khi thằng mới lên, mức độ tham ô, tham nhũng, cướp bóc đàn áp dân lành còn khốc liệt hơn lớp đàn anh của chúng. Bởi lý do đó, khen hay chê trước một cái chết nào đó tôi thường phải lựa chọn. Cái chết đó có ích hay vô ích cho xã hội, được mất gì trước mắt cho xã hội.

Nhưng, để góp phần làm cho chế độ độc tài cộng sản tiến nhanh đến sự sụp đổ, tôi luôn cổ vũ cho chúng đánh nhau. Càng đánh nhau to càng tốt. Và tôi không đóng vai chỉ là khan giả khách quan ngồi xem. Tôi chọn một bên để cổ vũ. Người hay đội tôi chọn để khuyến khích biểu dương là người hay đội tôi tin tưởng họ tốt hơn người hay đội ở phía đối thủ. Phân biệt “ tốt” hay “ xấu” ở đây tôi luôn đem cán cân tồn vọng của đất nước để kiểm chứng. Trong mấy năm qua, tôi ủng hộ người và đội của Ba Dũng, phê phán đả kích người và đội của phe Phú Trọng. Cán cân tồn vong của đất nước cho tôi biết rằng, tham lam, phá hoại dân tộc và đất nước, bọn chúng đều như nhau, nhưng theo “án tại hồ sơ” thì biểu hiện bán nước, bán dân tộc cho Tàu Cộng của Phú Trọng và phe nhóm Phú Trọng hơn hẳn Ba Dũng và phe nhóm Ba Dũng.

42 năm qua dưới sự cai trị của cộng sản, người Việt Nam được gì?

42 năm qua dưới sự cai trị của cộng sản, người Việt Nam được gì?

Tác giả Phùng Văn Phụng

Hai triệu người Việt nam chết trong chiến tranh ba mươi năm, để xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà TBT Nguyễn Phú Trọng than thở không biết cuối thế kỹ này có thực hiện được hay không nữa.?

Sau ba mươi năm chiến tranh gia đình nào cũng có người chết hay bị thương tật.

Một triệu người vượt biên trốn chạy cộng sản ra nước ngoài

Ước tính năm trăm ngàn người chết ở biển đông hay trong rừng sâu Campuchia, Thái lan.

Sau 42 năm cộng sản cai trị miền Nam, dân tộc Việt nam được gì?

  • Trước năm 1975 công kỹ nghệ miền Nam đang cất cánh hàng tiêu dùng đủ cho nhu c cùng làm không đủ sống.
  • Hỉện nay, VN không có tự do nghiệp đoàn. Trước năm 1975 có Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt nam, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam v.v….
  • Báo chí không có tự do. Không có báo chí tư nhân. Trước năm 1975 báo chí hoàn toàn tự do, báo chí có thể chỉ trích chính quyền  như các báo Tin Sáng, Đại Dân Tộc, Chính Luận, Sống Thần v.v …
  • Đại Học không được tự trị
  • Không có tự do kinh doanh
  • Không có tự do biểu tình
  • Không có tự do cư trú.
  • Không có tự do thành lập đảng phái. Trước năm 1975, các đảng phái được tự do hoat động, đối lập với chánh quyền như Đai Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, đảng Tân Đại Việt v.v…
  • Không có tự do bầu cử và ứng cử. Ở miền nam trước 1975, bầu cử Thượng Viện rất nhiều Liên danh ra tranh cử. Bầu cử Hạ Nghị Viện, có đơn vị cần một người, có 5, 7 người ra tranh cử . Người dân có quyền đi bầu cử hay không đi bầu cử. Muốn thắng cử phải tranh đua quyết liệt chứ không như bây giờ, đảng cử dân bầu. Chưa bầu cử đã biết ai thắng cử rồi.
  • Bây giờ tam quyền nhập cục, dưới sự lảnh đạo của đảng cộng sản. Trước đây có Tối Cao Pháp Viện, Toà án, Tư pháp hoàn toàn độc lập với Hành pháp. Quốc hội thực sự do dân bầu, độc lập với Hành pháp. Ba cơ quan Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp kiểm soát lẫn nhau.( Tam quyền phân lập)
  • Nhờ có báo chí đối lập, có dân biểu, nghị viên đối lập mà cơ quan hành pháp không dám làm bậy, bớt tham nhũng vì sợ báo chí và các thành phần đối lập phanh phui.
  • Hiện nay người dân Việt nam đi làm mướn ở khắp nơi trên thế giới qua Đại Hàn, Đài Loan, ngay cả qua Lào và Campuchia để làm mướn.
  • Phụ nữ qua Singapore, Mã Lai bán dâm.
  • Vẫn còn người Việt tìm cách trốn chạy khỏi Việt nam qua nhiều cách khác nhau.

Như vậy, hy sinh 2 triệu người trong chiến tranh, 500 ngàn chết vì vượt biên, gia đình nào cũng có người thân chết hay bị thương tật. Người dân hy sinh tất cả các quyền tư do căn bản như đã nói trên, cuối cùng dân tộc Việt nam được gì?

Việt nam từng là đất nước đứng đầu Đông Nam Á, thập niên 1960, Lý Quang Diệu mơ ước Singapore bằng được Sài gòn là mừng lắm rồi.

Sau 42 năm cộng sản cai trị, ở Việt Nam, mọi thứ đều tụt hậu,  đứng chót Đông Nam Á,  thua cả Lào và Campuchia.Tại sao?

Chỉ duy nhất một nhóm nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền giàu có nhờ tham nhũng, tước đoạt tài sản của dân mà thôi.

Ghi thêm: Năm 1945 Nhật Bản thua trận, tất cả nhà máy đều tan hoang, 20 năm sau, 1965 thành một cường quốc.

Năm 1975, Việt cộng chiếm miền Nam, nhà máy còn nguyên, tại sao 42 năm sau Việt nam có tình trạng tụt hậu như ngày hôm nay.?

Việt Nam thua Lào và Campuchia mọi mặt – Vì sao?

Việt Nam thua Lào và Campuchia mọi mặt – Vì sao?

Cát Linh, phóng viên RFA
 
Cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama (thứ 4 từ trái) và phu nhân thủ tướng Hunsen thăm một trường học ở Siem Reap vào ngày 21 tháng 3 năm 2015.

Cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama (thứ 4 từ trái) và phu nhân thủ tướng Hunsen thăm một trường học ở Siem Reap vào ngày 21 tháng 3 năm 2015.

AFP photo
 

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa kết thúc chuyến thăm chính thức Campuchia và Lào từ ngày 24 đến 27 tháng 4, năm 2017.

Theo thông tin nhận được từ trong nước, rất nhiều hợp tác quan hệ song phương giữa Việt Nam, Lào và Campuchia được đánh giá tăng trưởng tốt trong vài năm qua. Tuy nhiên, theo những số liệu báo cáo do Ngân hàng thế giới – World Bank và Diễn đàn kinh tế Thế giới – WEF đưa ra cho thấy Việt Nam ngày càng thua Lào và Campuchia về mọi mặt.

Thậm chí, trong một bài viết đăng tải trên báo Một Thế giới viết rằng: “Việt Nam bị Lào, Campuchia vượt qua không còn là dự báo, không còn là nguy cơ nữa mà đã thành hiện thực và cái danh sách thua kém ngày càng dài ra.”

Kinh tế

Nói về báo cáo của các tổ chức tài chính thế giới liên quan đến mức tăng trưởng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, từ Hà Nội đưa ra những điểm ông cho là đáng chú ý:

“Cái tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Campuchia và của Lào cao hơn Việt Nam những năm gần đây. Campuchia tăng trưởng khoảng 7 – 8%. Trong khi đó Việt Nam năm ngoái chỉ tăng 6,21%, quí 1 năm nay tăng 5%.

Cái thứ hai, số doanh nghiệp tư nhân của Campuchia thì cũng cao hơn Việt Nam.

Campuchia cũng ít, hay hầu như không có những doanh nghiệp nhà nước lớn như Việt Nam kinh doanh vào những lĩnh vực có tính chất thương mại.

Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.”

Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Báo Một Thế Giới từng trích dẫn lời chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ – Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển – đánh giá về khả năng hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam so với Lào và Campuchia. Ông đã đưa ra một vài nhận định khá đồng thuận với Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Điển hình là ở mô hình kinh tế, một vấn đề dẫn đến sự tụt hậu của Việt Nam. Ông Lưu Bích Hồ cũng nói rằng “doanh nghiệp tư nhân của Campuchia không bị trì trệ, và đặc biệt, Campuchia không có nhiều doanh nghiệp nhà nước nên họ không gặp trở ngại về hệ thống hành chính”. Ngược lại, theo ông, nguyên nhân chủ yếu của Việt Nam là do “bộ máy hành chính quá cồng kềnh và chậm chạp trong việc cải cách.”

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan hoàn toàn không phản biện vấn đề này. Bà chia sẻ ý kiến với báo trong nước rằng hoạt động kinh tế của Lào và Campuchia không xây dựng ở quy mô hoành tráng. Ngược lại, họ tập trung một số ít ngành có thế mạnh nên dẫn đến chất lượng hoạt động của doanh nghiệp tốt hơn Việt Nam.

Giáo dục dừng lại

Không phải chỉ riêng nền kinh tế, sự thụt lùi của Việt Nam so với Lào và Campuchia được báo chí trong nước nhắc đến ở nhiều dấu hiệu. Một trong những dấu hiệu đó nằm ở lĩnh vực giáo dục.

Tiến sĩ, nhà giáo Vũ Minh Giang đưa ra ý kiến về dấu hiệu tụt hậu giáo dục ở Việt Nam so với hiện tại và thập kỷ trước.

“Có một thời kỳ người ta đánh giá cao giáo dục Việt Nam thì lúc đó, tôi nghĩ rằng, những thành tựu của giáo dục Việt Nam tập trung ở cái giải quyết mặt bằng có tính đại trà.

Ví dụ từ một dân tộc mà số người không biết chữ rất đông, sau đó bằng nhiều chính sách có tính chất phổ cập thì người biết chữ gần như phổ cập toàn bộ thì đó là thành tích rất lớn của giáo dục Việt Nam.”

Với điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý rất khác nhau của các vùng miền trong xã hội Việt Nam, nhưng nền giáo dục Việt Nam đã tạo ra được một sự tương đối khá đồng đều, Nhà giáo Vũ Minh Giang đánh giá đó là một nỗ lực rất lớn.

Tuy nhiên, ông đưa ra phản biện về ý kiến nói rằng giáo dục Việt Nam đã tụt hậu so với các nước láng giềng từ sau khi giáo dục được phổ cập toàn bộ.

000_Hkg1070751-400.jpg
Một trung tâm mua sắm ở Vientiane, Lào vào ngày 29 tháng 2 năm 2008.AFP photo

“Những gì mà ngay cả thời kỳ gọi là phát triển mạnh ấy thì bây giờ không gọi là tụt hậu mà là vẫn duy trì như thế. Người ta gọi là dừng lại. Trong khi đó thì các nước xung quanh phát triển bắt kịp với chuyển biến nhanh của thế giới.”

Vào giữa năm 2016, Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh, với vai trò là diễn giả trong buổi toạ đàm tại trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết điều ông trăn trở nhất là nguồn nhân lực của Việt Nam không được đào tạo và sử dụng có hiệu quả. So sánh với hình thức thi cử của các nước khác, ông Vinh chỉ ra thể chế của giáo dục Việt Nam là “kiểm soát đầu vào chặt chẽ mà không xem xét kết quả”.

Nhận xét về điều này, nhà giáo, Tiến sĩ Vũ Minh Giang nói rằng hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam cần phải có những cải cách rất mạnh mẽ và cấp bách. Ông gọi vấn đề này là “Đổi mới căn bản toàn diện.”

Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Theo ông, giáo dục Việt Nam đã dừng lại quá lâu một phương thức tiếp cận mà cho đến bây giờ không phù hợp nữa, là tiếp cận nội dung, tức là dạy rất nhiều những kiến thức mà rồi kiến thức đó vận dụng vào xã hội khó khăn. Để tiếp cận nội dung thì học sinh phải học và nhớ rất nhiều. Hệ thống thi cử đánh giá thì cũng theo cách đó.

“Đấy là một hạn chế mà bây giờ đang bắt đầu công việc đổi mới không hề dễ chút nào, rất là khó khăn. Nó chuyển đổi hẳn sang một tiếp cận để người học được học phương pháp, học kỹ năng, học làm người và nhiều cái khác nữa. Bởi bây giờ, kiến thức thì người ta có thể tìm thấy ở bất cứ đâu, học ở bất cứ đâu.”

Bên cạnh đó, ông ý kiến thêm, người học phổ thông ở Việt Nam còn nhiều hạn chế về định hướng ngành nghề tương lai. Ông nhận thấy sự học ở Việt Nam vẫn còn trong tư tưởng Đại học là con đường duy nhất nên tạo ra sự mất cân đối trong đào tạo.

Bên cạnh nền giáo dục có tính cách đại chúng, theo nhà giáo Vũ Minh Giang, cần phải có một cơ chế thu hút nhân tài, sử dụng tài năng.

“Việc tìm, phát hiện và đặc biệt sử dụng tài năng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn đang nhiều cái chưa phù hợp, chưa thu hút tài năng. Nguồn nhân lực tài năng hiện nay đang tìm đường đi nơi này nơi khác, nên vẫn còn hiện tượng người ta hay gọi là chảy máu chất xám.”

Cải cách thể chế

Không thiếu những buổi toạ đàm, những ý kiến của chuyên gia, tiến sĩ trong nước bày tỏ lo ngại về lời cảnh báo Việt Nam thua kém Lào và Campuchia. Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong lần trả lời báo trong nước vào năm 2016 cho biết giải pháp cần thiết theo ông là chính sách tiền tệ phải được cân bằng, giữ ổn định thành quả kinh tế vĩ mô. Nhưng quan trọng hơn hết là cải cách thể chế.

Đồng thuận với ý kiến này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng Việt Nam cần phải xem xét thực hiện một số vấn đề liên quan đến thể chế.

Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

“Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết. Như chăm lo bảo vệ môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm lo giáo dục y tế. Còn các lĩnh vực thuần tuý thương mại như sản xuất bia nước ngọt thì nhà nước nên thoái vốn để tư nhân hoạt động có hiệu quả hơn.”

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng những vấn đề này một lần nữa đã được đề cập trong nghị quyết 19 của năm nay. Kết quả thực hiện sẽ như thế nào, vẫn còn là câu hỏi chưa có đáp án đối với xã hội, người dân Việt Nam. Tuy nhiên, có  hai điều mà ai quan tâm đến tình hình tăng trưởng của đất nước cũng tìm hiểu được, đó là chiếc ôtô “Angkor EV 2014” lấy tên ngôi đền cổ Angkor của Campuchia được điều khiển bằng điện thoại thông minh và thẻ căn cước tần số rađiô (RFID) có trang bị hệ thống GPS, có vận tốc tối đa 60km/giờ và do nhà sáng chế Nhean Phaloek, người Campuchia thiết kế.

Điều thứ hai, là câu nói nổi tiếng của ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng Singapore từng nhận xét hàng: “Nếu có vị trí số một Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam.”