Khúc Ruột Gần – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Khúc Ruột Gần – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

 RFA

Tôi quá khổ rồi, bên Miên quá khổ rồi nên mới về tới đây, không có gạo mà ăn. Mà cũng không có chỗ để ở nữa, không có giấy tờ gì cả.

Nguyễn Thị Thô  (VOA 25/05/2017)

Cũng như người Thái, người Lào, người Miến, người Miên không biết … uống cà phê. Cà phê đen họ pha rất dở, cà phê sữa còn dở hơn nữa. Và nếu lỡ miệng mà “xúi” cho thêm vài cục đá lạnh nữa là … kể như rồi. Không uống thì tiếc (tiền) đứt ruột mà uống vào thì ruột rà cũng gần muốn đứt ra từng khúc!

Biết vậy nhưng bữa nào ở Phnom Penh tôi cũng tà tà vào quán kêu một ly xây chừng (cho có) rồi châm điếu thuốc – dù không nhớ nhà, và cũng chả nhớ cái con bà gì ráo. Chậm lắm, qua tới điếu thuốc thứ hai thì thế nào mấy cậu nhỏ bán báo cũng rà tới nài nỉ mua dùm một tờ mở hàng – sáng sớm – lấy hên.

Có bữa – xui – tôi vừa ngậm trong miệng một ngụm cà phê (dở ẹt) vừa liếc mắt vào bản tin của tờ Cambodia Daily, và mém sặc vì không nín được cười:

“Nước Cam Bốt và nước Trung Hoa cùng uống nước chung một dòng sông nên chúng ta có cảm giác như người cùng một gia đình vậy,” Ông Triệu Tấn –  đại biểu của ban tuyên huấn thuộc tỉnh đảng bộ Vân Nam nói vậy đó. (“Cambodia and China have drunk the water from the same river. Our sensations are like one fa­mil­y,” said Zhao Jin, delegate of the Yunnan Provincial Party Com­mittee’s publicity department).

Thiệt nghe mà cảm động muốn ứa nước mắt luôn!

Chỉ tiếc là mối “hảo cảm” này không kéo dài lâu. Chỉ vài tháng sau, trang Freshnewsasia buồn rầu cho biết: “Thủ Tướng Chính Phủ Cambodia đã ký một bức thư hủy bỏ lễ nước năm nay vì mức nước cạn queo và Cambodia đang phải đối diện với nạn hạn hán.” (According to Freshnewsasia, HE, the prime minister of Cambodia signed on a letter to cancel the celebration of this year water festival due to the low level of water and for the fact that Cambodia is facing with drought).

Uống chung một dòng sông với người Tầu hồi hộp thấy mẹ. Họ ở thượng nguồn, và xây đập tùm lum ở trển. Chỉ cần chận nước lại là mấy thằng khác đều khô mỏ ráo, nhứt là hai thằng (Miên/Việt) ở tuốt luốt phía dưới.

“Cư dân sống hai bên bờ sông Mekong luôn luôn bị chi phối bởi khí hậu Gió Mùa Tây-Nam thổi vào từ Vịnh Thái Lan. Mùa mưa bắt đầu từ tháng Năm đến tháng Chín, kết hợp với mùa tuyết tan từ rặng núi Hy Mã Lạp Sơn, nước sông Mekong dâng cao từ 2 tới 8 mét mênh mông tràn bờ làm ngập lụt một phần ba diện tích đất đai, phủ lớp phù sa màu mỡ mỗi năm lên khắp ruộng đồng.

Đó cũng là thời gian con sông Tonlé Sap đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ, tăng diện tích mặt hồ tới 10 ngàn cây số vuông, gấp bốn lần so với mùa khô và làm ngập hết các khu rừng lũ (flooded forest). Đây là Hồ nước ngọt lớn nhất Đông Nam Á. Các đàn cá từ sông Mekong cũng lội ngược dòng sông Tonlé Sap tới các khu rừng lũ chọn nơi trú ngụ an toàn để sinh đẻ và tăng trưởng. Rồi mùa mưa qua đi để bước sang mùa khô từ tháng 1 tới tháng 5. Đây là thời gian mực nước bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại chảy xuôi dòng với vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong và diện tích Biển Hồ bắt đầu co lại. (Ngô Thế Vinh. Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch. 2nd ed. Văn Nghệ: USA, 2002).

Vì bị vô số những con đập chận ở thượng nguồn, những năm gần đây, con sông Tôn Lê Sáp không còn đủ sức “đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ” như trước nữa. Không có nước thì dân Xứ Chùa Tháp miễn có Water Festival, đã đành; họ buộc phải treo niêu kho cá luôn mới là chuyện khó.

Theo Wikipedia: “Ngư nghiệp trên hồ nuôi sống 3 triệu người và cung cấp 75% sản lượng cá nước ngọt cùng 60% lượng chất đạm cho dân Campuchia.” Trong số ba triệu người này, tôi ước đoán, có ít nhất khoảng 10 phần trăm, nghĩa là khoảng 300 ngàn dân Việt!

Theo tường trình (“The Situation of Stateless Ethnic Vietnamese in Cambodia”) của MIRO – Minority Rights Organization – có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt, đang sinh sống ở đất Miên. Đây là số dân thiểu số đông nhất ở đất nước này.

Hầu hết họ đều là dân ngụ cư, không khai sinh, không căn cước, không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào, và (tất nhiên) không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo trọi. Bởi vậy, phần lớn kiều bào ở Miên (theo như cách gọi rất lịch sự của Đại Sứ Quán Việt Nam ở Phnom Penh) đều sống lêu bêu – rầy đây mai đó – trên những túp lều nổi xung quanh Biển Hồ, hoặc dọc theo những nhánh sông phụ thuộc.

 

 

 

 

 

 

 

Ảnh: NgyThanh

Họ sống làm sao?

Cũng giản dị thôi. Chỉ cần một chiếc thuyền con, cùng một mái chèo, và hai ba người miệt mài quăng chài hay thả lưới suốt ngày – bất kể nắng mưa, bất chấp lệnh cấm – là có cá ăn, phần dư dôi cũng đủ để đổi lại một hai ký gạo, ít mắm muối, và vài ba xị đế.

Y tế, giáo dục, thể thao, giải trí … đều là những khái niệm mơ hồ – nếu chưa muốn nói là xa xỉ – và chả ai có bao giờ nghĩ đến. Đời sống giản dị, và giản lược, từ tay đến miệng thôi.

Cho đến khi mà Cửu Long Cạn Dòng thì cuộc sống giản dị và giản lược, từ tay đến miệng, cũng trở nên bất khả:

  • Khmer Times: “Vietnamese Families Leave the Tonle Sap.”
  • Người Lao Động: “Biển Hồ cạn cá, hàng ngàn Việt kiều hồi hương trong nghèo túng.”
  • BBC: “Biển hồ Tonle Sap … một thế giới bất ổn.”
  • VOA: “Dưới những túp lều rách nát chen chúc rất nhiều số phận không căn cước, không có lấy mảnh đất cắm dùi. Họ từng bơ vơ, lạc lỏng trên Biển Hồ, Campuchia.”
  • RFA: “Người Việt ở Biển Hồ sẽ về đâu?”

Theo báo Dân Trí : “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo cơ quan chức năng có giải pháp cụ thể chăm lo cho những Việt kiều nghèo từ Campuchia về nước, sống ở đầu sông Sài Gòn, đoạn nằm giữa 2 tỉnh Bình Phước và Tây Ninh…”

Chỉ cần một cái “chỉ đạo” cũng đủ thấy cái tầm, chưa nói đến cái tâm, của người đứng đầu chính phủ hiện hành ở Việt Nam. Việt kiều về từ Campuchia đâu phải chỉ có một nhóm nhỏ ở đầu sông Sài Gòn – cha nội! Họ đang sống vất vưởng tại rất nhiều nơi khác nữa: Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, Đồng Nai, An Giang, và Kiên Giang. Cỡ Thủ Tướng mà bạ đâu nói đó, nói cho đã miệng (và cho qua chuyện) vậy sao?

Tình trạng Biển Hồ cạn nước, và tình hữu nghị Việt/Miên cũng đang đang từng bước cạn theo thì số lượng người Việt buộc phải hồi hương sẽ mỗi lúc một tăng. Đây là một vấn đề lớn. Ở tầm mức quốc gia, có thể ảnh hưởng cả đến những thế hệ sau.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không quốc tịch, không chứng minh thư, Việt kiều Nguyễn Văn Tửng không đi làm được nên ở nhà nuôi con. Ảnh & chú thích: Đoàn Như Phú (08/2016).

Tuy hiện tại nhà nước VN có một ông Trợ Lý Bộ Trưởng, Chánh Văn Phòng Bộ Ngoại Giao, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao – Chủ Nhiệm Ủy Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài (cùng ba vị Phó Chủ Nhiệm Thường Trực nữa) nhưng họ chỉ “chuyên trách” về những khúc ruột xa ngàn dặm và có “tiềm năng kiều hối” mà thôi. Chớ khúc ruột gần thì xin lỗi nha, tụi tui không rảnh.

Đời vẫn vốn không nương người thất thế!

Chỉ cần nhìn vào những xóm liều, và những túp lều của dân oan – giữa lòng Hà Nội – cũng có thể đoán biết được hoàn cảnh và số phận của những khúc ruột gần (những kẻ khốn cùng) đang rẫy chết giữa lòng một quê hương vừa khốn khổ vừa khốn nạn!

Ông Nguyễn Đức Chung là người bội ước”

Ông Nguyễn Đức Chung là người bội ước”

Hòa Ái, phóng viên RFA
2017-06-14
 
Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.

Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.

Courtesy of Zing News
 

Dư luận phản ứng mạnh mẽ đối với quyết định vừa ban hành vào hôm 13/6 của Cơ quan Cảnh sát Điều Tra thuộc Công an Hà Nội khởi tố vụ án hình sự “bắt giữ người trái pháp luật và hủy hoại tài sản” ở xã Đồng Tâm.

Ông Nguyễn Đức Chung: “Phản trắc và lật lọng”

Hình ảnh người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức chọn giải pháp cuối cùng buộc phải bắt giữ 38 cán bộ, công an và cảnh sát cơ động hồi trung tuần tháng 4 để yêu cầu được đối thoại với chính quyền thành phố Hà Nội về những khuất tất trong vụ tranh chấp đất đai giữa giữa họ với chính quyền địa phương còn chưa phai nhòa.

Bút tích cam kết của ông Nguyễn Đức Chung, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, với người dân xã Đồng Tâm sẽ thanh tra khu đất tranh chấp trong vòng 45 ngày và sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người dân ở đây vẫn chưa ráo mực…Thế nhưng, ông Chủ tịch Nguyễn Đức Chung là người bội ước.

Những lời lập luận và lý luận ông đưa ra để bào chữa cho việc ông tiếp tục khởi tố là chuyện rất vô lý, mình dùng từ ngữ nặng nề là ‘phản trắc và lật lọng với người dân’.
-Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung

Đó là ý kiến của rất nhiều cư dân mạng chia sẻ khi Công an Hà Nội vào ngày 13 tháng 6 ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với vụ bắt giữ người trái pháp luật và hủy hoại tài sản ở xã Đồng Tâm.

Đài Á Châu Tự Do ghi nhận không ít cư dân mạng lên tiếng họ đã lường trước được viễn ảnh số phận của người dân Đồng Tâm sẽ bị truy tố trước pháp luật mặc cho ông Chủ tịch Nguyễn Đức Chung hứa hẹn và ký vào giấy cam kết. Họ khẳng định lời hứa của ông Chủ tịch thành phố Hà Nội chỉ là lời hứa suông và theo kế hoạch được chuẩn bị của chính quyền.

Trong khi đó, số đông cư dân mạng là những người có thiện chí trông đợi vào lời hứa hẹn của ông Nguyễn Đức Chung trong việc giải quyết vụ Đồng Tâm tỏ ra phẫn nộ và bất bình vì theo họ vụ việc này được giải quyết một cách công khai và minh bạch như cam kết của ông Chung thì chắc hẳn tình trạng xung đột đất đai giữa người dân và chính quyền địa phương khắp các tỉnh, thành đất nước Việt Nam tồn tại hàng chục năm qua sẽ lần lượt được gỡ nút thắt. Tù nhân lương tâm-Luật sư Lê Công Định chia sẻ trên trang Facebook cá nhân rằng tờ giấy cam kết của ông Chủ tịch Nguyễn Đức Chung với người dân Đồng Tâm chỉ là tờ giấy lộn. Luật sư Lê Công Định viết: “Thành tâm ký mà không thực hiện, là lật lọng. Không thành tâm muốn mà vẫn ký, là lừa đảo”.

Vào tối ngày 14 tháng 6, từ Sài Gòn, tù nhân lương tâm-Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung cho biết quan điểm cá nhân về tư cách và trách nhiệm của ông Chủ tịch Nguyễn Đức Chung trong việc giải quyết vụ Đồng Tâm:

000_NR37J.jpg
Chủ tịch thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung (áo trắng) xuống xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội vào ngày 22 tháng 4 năm 2017. AFP photo

“Tôi phải khẳng định là việc ông Chung ký kết với người dân không phải tư cách là một chủ tịch bên cơ quan hành pháp, mà với tư cách là ‘Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội’ và có cuộc họp của Thành ủy Hà Nội đã giao cho ông Chung nhiệm vụ giải quyết vụ Đồng Tâm với tư cách “Phó Bí thư Thành ủy”, nghĩa là ông đại diện cho Đảng. Và ai cũng biết ở Việt Nam thì Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện cả Hành pháp-Lập pháp-Tư pháp. Do đó, ông không thể nào nói là ông không có tư cách để ký hay không đại diện cho bên tư pháp để có thể cam kết không khởi tố. Vì rõ ràng cả hệ thống đều chấp hành chỉ đạo của Đảng Cộng sản hết. Cho nên, những lời lập luận và lý luận ông đưa ra để bào chữa cho việc ông tiếp tục khởi tố là chuyện rất vô lý, mình dùng từ ngữ nặng nề là ‘phản trắc và lật lọng với người dân’.”

Cũng trong tâm trạng thất vọng và bất mãn đối với ông Nguyễn Đức Chung, một số cư dân mạng tỏ ra xót xa cho người dân Đồng Tâm trong những ngày sắp tới. Nhưng vì lo lắng bao nhiêu thì họ lại trách cứ người dân Đồng Tâm bấy nhiêu, rằng sao lại ngây thơ mà tin cậy vào lời hứa của ông Chủ tịch thành phố Hà Nội bởi thực tiễn của thể chế qua các vụ tranh chấp đất đai như Văn Giang, Dương Nội…

Người dân Đồng Tâm được bênh vực

Tuy nhiên, Blogger Nguyen Anh Tuan, một người tuyên bố đứng cùng người dân Đồng Tâm với chia sẻ:

“Đừng trách dân làng Đồng Tâm, dù họ đã cười tươi như trẻ thơ khi được tin Chủ tịch Chung cam kết không khởi tố. Không ai đáng trách chỉ vì giữ lòng tin vào sự tử tế còn sót lại của người nắm quyền-trong tư cách đồng loại và đồng bào.”

Và Luật sư Ngô Ngọc Trai cũng cho rằng người dân Đồng Tâm không có lỗi qua lập luận về mặt pháp lý rằng:

“Không có pháp luật nào, không có nhà nước nào chấp nhận một việc làm sai pháp luật là công vụ nhân danh nhà nước. Kết quả của việc làm đó sẽ không có lợi cho nhà nước, không có lợi cho người dân, đó là hành vi xâm hại, đó không phải công vụ.”

Không có pháp luật nào, không có nhà nước nào chấp nhận một việc làm sai pháp luật là công vụ nhân danh nhà nước.
-LS Ngô Ngọc Trai

Với những trưng dẫn về quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật sư Ngô Ngọc Trai khẳng định người dân không có nghĩa vụ phải chấp hành hợp tác với một việc làm sai và họ có quyền phòng vệ chính đáng.

Mặc dù cư dân mạng vài ngày qua bày tỏ chính kiến đa chiều trong vụ Đồng Tâm, thế nhưng nhiều người kêu gọi ông Chủ tịch Nguyễn Đức Chung hãy thực hiện theo bản cam kết đã ký với người dân Đồng Tâm hôm 22 tháng 4, như ông Mạc Văn Trang soạn thư bằng văn bản, gửi đến ông Nguyễn Đức Chung đề nghị ông Chung đừng “phản bội’ bản cam kết mà phải biết đứng về phía nhân dân với tư cách của một người trọng danh dự và có trách nhiệm.

Chúng tôi xin kết thúc bài ghi nhận này với câu hỏi dành cho những dân oan ở Thủ Thiêm, Sài Gòn, có thể được xem là đồng cảnh ngộ với người dân Đồng Tâm, rằng nếu lời hứa hẹn của Trung ương sẽ giải quyết khiếu nại cho các dân oan Thủ Thiêm khi họ ra Hà Nội biểu tình hồi cuối tháng 10 năm ngoái không được thực hiện thì việc gì sẽ xảy ra?

“Nếu trường hợp đó xảy ra tại Thủ Thiêm thì tôi nghĩ rằng vấn đề sẽ nghiêm trọng hơn. Tại vì dân bây giờ bị dồn vào con đường cùng rồi, người ta không còn con đường nào để sống nữa. Thành ra vấn đề dồn người dân vào chân tường giống như một cái lò xo bị dồn vào thế cùng thì tự nhiên sức bật của nó bung ra rất mạnh và rất khốc liệt.”

Một người tử vong do “thắt cổ bằng dây thun quần”

Một người tử vong do “thắt cổ bằng dây thun quần”

 Thanh Niên Online

Sáng 15.6, gia đình ông Ngô Văn Lâu (60 tuổi, ngụ KP.5, P.Tam Bình, Q.Thủ Đức, TP.HCM) vẫn đang rất hoang mang về cái chết của con trai ông là Ngô Chí Tâm (40 tuổi).

Bà Nhường vợ ông Tâm đang rất đau khổ, hoang mang về cái chết chồng mình tại trụ sở công an phương ẢNH: CÔNG NGUYÊN

Theo bà Từ Thị Nhường (39 tuổi), vợ ông Tâm, khoảng 20 giờ ngày 13.6, một người tên Nam ở Công an P.Tam Bình đến tận nhà kêu ông Tâm lên trụ sở công an có việc. Ông Tâm đi theo ông Nam đến trụ sở Công an P.Tam Bình.

7 giờ 30 ngày 14.6, cán bộ Công an P.Tam Bình đến nhà nói bà Nhường lên trụ sở Công an P.Tam Bình có việc cần trao đổi. Khi đến nơi, cán bộ Công an P.Tam Bình thông báo cho bà Nhường là ông Tâm đã thắt cổ bằng dây thun quần, đang hôn mê sâu và được chuyển lên bệnh viện.

Sau đó, gia đình bà Nhường đã đến Bệnh viện An Bình thì biết biết ông Tâm đã tử vong và đang nằm ở nhà xác bệnh viện này.

THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN

From facebook: Hoa Kim Ngo with Sơn Long and 17 others

THƯ NGỎ GỬI NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN

Hỡi những cộng sản đã đi theo đảng một cách chân thành, vì coi đó là lý tưởng cao đẹp, xin quý vị nên nghĩ lại, xem tổ chức mà quý vị đang đứng trong hàng ngũ liệu có và còn xứng đáng là một chính đảng phục vụ đất nước dân tộc hay không?

Ngay sau khi ông Nguyễn Đức Chung ký bản cam kết, nhiều luật sư đã phân tích sự lừa đảo đó, bởi lẽ đơn giản là ông ta không có thẩm quyền đại diện và thay mặt cơ quan tố tụng cam kết không khởi tố vụ án Đồng Tâm.

Nhiều người, và rất nhiều người, đã cả tin đến mức phê phán các luật sư, rằng kết quả đạt được là tốt rồi, không nên quá nghi ngờ “thiện chí” của giới lãnh đạo Hà Nội, và rằng người dân Đồng Tâm đã làm hết sức của mình, không nên đòi hỏi hơn nữa. Tất nhiên, chúng tôi hiểu cảm xúc trung thực đó.

Bây giờ mọi người đã thấy rõ, hệ thống tuyên truyền của nhà cầm quyền đang lập luận rằng ông Chung không có thẩm quyền cam kết như thế, và cùng lắm ông chỉ hứa không khởi tố “toàn thể người dân Đồng Tâm”, chứ có cam kết không khởi tố một cá nhân nào đâu (!?).

Ông Chung thậm chí còn vu cáo người dân Đồng Tâm ép buộc ông ký cam kết, và vì tránh cảnh người dân phải đổ máu lúc đó, nên ông đành làm như thế. Cam kết trong khi bị ép buộc nên không có giá trị pháp lý (!).

Nói cách khác, họ chẻ chữ ra để lấp liếm. Tất nhiên, lấp liếm thì dễ thôi, nhưng hành động lật lọng và lừa đảo không thể che giấu ai. Lật lọng và lừa đảo là hai mặt của một đồng xu mang hình hài cộng sản.

Nếu ông Chung có thẩm quyền cam kết, thì rõ ràng bây giờ nhà cầm quyền đang lật lọng. Nếu ông Chung không có thẩm quyền mà vẫn cam kết, thậm chí khôn lỏi đến mức chơi chữ để lấp liếm, thì đó là gì nếu không phải lừa đảo?

Lật lọng và lừa đảo là bản chất của mọi chế độ cộng sản từ khi chúng đoạt được quyền bính trên toàn thế giới vào năm 1917 ở nước Nga và sau đó lan rộng trên phạm vi quốc tế. Dù cộng sản đã sụp đổ trên toàn cầu nhiều thập kỷ trước, cặn bã của nó vẫn còn đọng lại ở Trung Quốc và Việt Nam.

Do đó, hỡi những người cộng sản Việt Nam thành tâm, quý vị nghĩ gì về tổ chức mà mình đang gửi gắm niềm tin và hy vọng? Người dân Đồng Tâm là những dân quê chân chất, lam lũ bên mảnh đất tổ tiên để lại, liệu đủ sức chống chọi sự lật lọng và lừa đảo tinh vi một cách có hệ thống như thế không?

Người dân Đồng Tâm mới chính là đồng bào yếu thế của quý vị trong cộng đồng dân tộc suốt hàng ngàn năm lịch sử, chứ không chỉ có những kẻ trong một tổ chức mới hình thành từ vài chục năm qua bởi sự vay mượn một tư tưởng ngoại lai xa lạ.

Chế độ mà quý vị tưởng còn chia sẻ chung lý tưởng ấy thật ra đã lộ nguyên hình thành một băng đảng chủ trương lấy cướp bóc làm mục đích sinh tồn, lấy dối trá và bạo lực làm phương tiện.. Chế độ đó đang hoảng loạn đến mức phải bảo toàn quyền thống trị độc tôn của mình mà không ngần ngại bộc lộ rõ bản chất lật lọng và lừa đảo của nó.

Vậy, xin hãy bình tâm suy nghĩ và từ bỏ băng đảng cướp bóc đó. Thời gian vẫn còn kịp cho những ai thành tâm yêu nước, và dân tộc ta luôn bao dung đối với những ai thực tâm xem lợi ích tổ quốc vượt trên tất cả.

Việt Nam, ngày 14/6/2017,

Đồng Chủ tịch Hội CTNLT:

Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi

Hà Nội khởi tố vụ án bắt 38 cán bộ ở Đồng Tâm

Hà Nội khởi tố vụ án bắt 38 cán bộ ở Đồng Tâm

BBC

Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung về Đồng Tâm gặp dân hôm 22/4

Bản quyền hình ảnh   AFP
Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung về Đồng Tâm gặp dân hôm 22/4

Cảnh sát điều tra – Công an TP Hà Nội vào hôm 13/6 đã ra quyết định khởi tố điều tra vụ án hình sự vụ việc xảy ra tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội ngày 15/4.

Các báo Việt Nam đồng loạt tường thuật việc khởi tố vụ án “nhằm điều tra làm rõ các hành vi bắt giữ người trái pháp luật theo Điều 123 và hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 Bộ luật Hình sự”.

Hôm 15/4, người dân Đồng Tâm đã bắt giữ hơn 30 người gồm cán bộ, cảnh sát cơ động để đòi giới chức thả chín người dân bị công an bắt, đồng thời xử lý các khiếu nại đất đai.

Một người dân chào những cảnh sát cơ động khi họ được thả tự do hôm 22/4

Bản quyền hình ảnh  REUERS/KHAM
Một người dân chào nhóm cảnh sát cơ động khi họ được thả tự do hôm 22/4

Hôm 22/4, khi đến Đồng Tâm để đối thoại, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung được truyền thông dẫn lời:

“Tôi từng làm điều tra, từng làm thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, giám đốc công an thành phố, hôm nay tôi về với tư cách chủ tịch TP. Tôi ghi nhận việc làm của bà con là từ bức xúc đất đai, từ việc bắt giữ người không công bố lệnh, không mặc trang phục, bắt đưa lên ô tô.

“Tôi tin đất nước ta có truyền thống đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại. Luật pháp có quy định thành khẩn, khắc phục hậu quả, tôi tin bà con sẽ được giảm nhẹ.”

Ông Chung cũng đã viết bản cam kết gồm 3 điều với người dân xã Đồng Tâm.

Thứ nhất, ông cam kết trực tiếp kiểm tra đoàn thanh tra về đất đai.

Thứ hai, cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với toàn thể nhân dân xã Đồng Tâm.

Thứ ba, ông cam kết chỉ đạo điều tra, xác minh việc bắt và gây thương tích cho cụ Lê Đình Kình (83 tuổi, ở xã Đồng Tâm).

Khủng hoảng niềm tin’ ở Việt Nam, đâu là gốc rễ?

Khủng hoảng niềm tin’ ở Việt Nam, đâu là gốc rễ?

Một cô gái người châu Á đưa cha mẹ đến tham quan một thắng cảnh ở Manhattan. Sau khi mua vé vào rồi, cô mới chợt nghĩ ra rằng người già có thể được ưu đãi nên vội vàng quay lại hỏi nhân viên. Người bán vé là một cô gái trẻ tuổi, nghe thấy câu hỏi đó liền nói lời xin lỗi, và lấy khoản tiền ưu đãi gửi lại. Điều khiến du khách này ngạc nhiên là, cô gái người Mỹ cũng không cần xem xét giấy tờ chứng nhận, thậm chí không đi nhìn xem cha mẹ cô có đúng là người già hay chưa (người hơn 62 tuổi mới được ưu đãi). Điều này khiến chúng ta thầm hiểu rằng: “Đây đúng là làm theo nguyên tắc “tin người”.

Thật ra, gần như ở tất cả các nơi công cộng, nếu có ưu đãi giảm giá cho người già và trẻ nhỏ thì đều không cần xem giấy tờ chứng nhận. Họ chỉ cần lời nói là sẽ tin mà không sợ “người già nhưng nhìn rất trẻ” và “trẻ con nhưng nhìn rất cao lớn”.

Sự thành tín trong xã hội Mỹ

(ảnh: Ariel Skelley/Corbis)

Người Mỹ với nhau họ rất “dễ tin”, hơn nữa ở bất kể cửa hàng kinh doanh lớn nhỏ nào đều đặt danh tiếng lên trên hết. Khi mua đồ ở cửa hàng, ngoại trừ là đồ ăn và một số mặt hàng đặc biệt thì tất cả đều có thể trả lại trong một thời gian nhất định và được hoàn tiền đầy đủ. Ví dụ, mua đồ điện tử, quần áo, giày dép hoặc là các thương phẩm khác… Về nhà dùng một lát, cảm thấy không tốt, cầm lại cửa hàng, đều cho trả lại.

Tuy rằng cuộc sống ở Mỹ không hoàn toàn là màu hồng, cũng có những phần tử lừa đảo và trái pháp luật đủ loại, nhưng nói chung, những ai nghe các câu chuyện trên hẳn sẽ cảm thấy quả là “chuyện lạ” đối với người Việt Nam.

Người Việt đang phải sống dưới quá nhiều áp lực

Sáng ngày 09/06/2017, tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XIV, Đại biểu Đặng Thuần Phong (Bến Tre) nói trước Quốc hội về 6 điều bất an mà nhân dân luôn bức xúc như tham nhũng, lãng phí, thương mại hóa quan hệ xã hội, tài nguyên cạn kiệt và vấn đề an toàn sống… “Mọi thứ đều do người Việt hại người Việt và từng bước biến sự vô cảm thành vấn đề đạo đức ứng xử đạo giữa người với người.”

“Khủng hoảng niềm tin” là hiện tượng đang thực sự xảy ra trong xã hội chúng ta, ở trên mọi khía cạnh cuộc sống của người dân từ thành thị cho tới nông thôn. Dù sống ở đâu người dân đều phải đối mặt với thực trạng với “thực phẩm bẩn”, nguồn nước bị ô nhiễm bởi nước thải công nghiệp, an toàn giao thông… đang vượt ngoài sự kiểm soát của các cơ quan chức năng trong một thời gian kéo dài. Tới những vụ việc nổi cộm gần đây như Formosa Hà tĩnh, tranh chấp đất tại xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội; rồi vụ việc đau lòng “8 người chết khi chạy thận nhân tạo ở Hoà Bình”…

(ảnh: Facebook/ Ngô Bá Lục)
‘Khủng hoảng niềm tin’ ở Việt Nam, đâu là gốc rễ? (ảnh: Facebook/ Ngô Bá Lục)

Theo học thuyết Maslow, nhu cầu thiết yếu nhất của con người chính là thức ăn, nước uống, và sự an toàn. Vậy mà người dân trong xã hội Việt Nam hôm nay đang sống trong trạng thái thường xuyên phải lo lắng về sự an toàn vệ sinh thực phẩm, nguồn nước, môi trường và các dịch vụ y tế mà họ đang sử dụng hằng ngày… Có câu nói: “Mất niềm tin là mất tất cả!” Điều tệ hại nhất là khi con người ta phải sống trong cảm giác không còn biết tin ai, tin vào cái gì, đã tạo nên sự bất an và căng thẳng tâm lý kéo dài, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ tinh thần và chất lượng cuộc sống.

Thống kê cho thấy Việt Nam hiện có khoảng 15% dân số đang mắc 1 trong 10 loại bệnh tâm lý, tâm thần thường gặp như: trầm cảm, lo âu, rối loạn hành vi. Đặc biệt trong số các bệnh nhân có dấu hiệu tâm thần phải vào viện khám và điều trị, thì có tới hơn 45% ở độ tuổi dưới 30. Một trong những nguyên nhân ít được thống kê là các vấn đề xã hội: bất mãn về chính sách kinh tế xã hội, bất lực trong việc đấu tranh đòi công lý, công bằng. Sự khủng hoảng niềm tin vào giá trị sống và hiện tượng xuống dốc của đạo đức xã hội dẫn đến mâu thuẫn trong cuộc sống gia tăng, tâm lý, tinh thần nhiều người bị khủng hoảng theo, làm gia tăng bệnh tâm thần, trầm cảm…

Nhiều bài viết đã được đăng tải, xem “khủng hoảng niềm tin” như là một vấn đề nóng trong xã hội. Tuy nhiên các bài viết chủ yếu phản ánh các biểu hiện của “khủng hoảng niềm tin” trên mọi lĩnh vực xã hội (giáo dục, y tế, môi trường, giao thông,..) và tập trung vào các nguyên nhân bề mặt như sự bất cập của các chính sách kinh tế xã hội, sự bất lực trong việc đấu tranh đòi công lý, công bằng, và tham nhũng, sự tha hoá lối sống ở các cấp… Trên thực tế, “khủng hoảng niềm tin” còn có những nguyên nhân sâu xa hơn, gốc rễ hơn xuất phát từ trong tư tưởng của con người trong xã hội hôm nay.

Đâu là gốc rễ?

Bản chất của niềm tin là những giá trị được hình thành trên nền tảng văn hoá và đạo đức của một cá nhân. Con người phân biệt đúng và sai, tốt và xấu, thiện và ác dựa trên các giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức của mình. Mà các giá trị này lại thường được quyết định bởi tín ngưỡng.

Người Mỹ rất thành tín là vì họ bảo vệ tốt tự do tín ngưỡng. Ở một cường quốc về công nghệ như Mỹ, chính phủ và người dân vẫn không hề bớt niềm tin vào tín ngưỡng tâm linh. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy, có 76% tổng số người dân Mỹ theo Kitô giáo, 1% theo Do Thái giáo và 1% theo Hồi giáo, tổng cộng là gần 80% người có tôn giáo. Theo một cuộc khảo sát khác, 40% nói rằng họ tham dự các buổi lễ gần như mỗi tuần, và 58% nói rằng họ cầu nguyện ít nhất 1 lần mỗi tuần. Đó là một tỷ lệ khiến người ta kinh ngạc tại một quốc gia phát triển như Mỹ. Đa số người Mỹ cho biết tôn giáo giữ một vai trò “rất quan trọng” trong cuộc sống của mình.

Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên thệ nhậm chức trong khi vợ ông, Đệ nhất phu nhân Melania Trump đang giữ quyển Kinh Thánh

Tờ Đô la Mỹ cũng có in câu: “In God We Trust” (Tạm dịch: Chúng ta tin vào Chúa). Tại sao một siêu cường kinh tế và quân sự bậc nhất thế giới lại chọn in câu nói thể hiện “niềm tin vào một đấng toàn năng nằm ngoài sự hiểu biết của khoa học” trên đồng tiền của mình chứ không phải là in những khẩu hiệu trung thành với Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hòa?

Tín ngưỡng chính thống có đặc tính ổn định. Giê-su nói “Dù cho Trời đất phải bỏ đi, lời của ta không thể bỏ đi”, người phương Đông cũng có câu “Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến” (Trời không đổi, Đạo cũng không đổi). Do đó những người có tín ngưỡng chính giáo sẽ phán đoán đúng sai theo kinh điển của nó, nên tiêu chuẩn thị phi này là ổn định, mang tới sự ổn định cho xã hội.

Sau khi Phật giáo truyền nhập vào Việt Nam, theo sự lưu truyền trong dân gian người Việt tin tưởng rằng có Thiên đường, Địa ngục và luân hồi chuyển thế, thiện ác hữu báo. Quan niệm và đạo đức luân lý này kiên trì hình thành nên một cơ sở giá trị của cộng đồng, trở thành cơ sở của văn hóa truyền thống.

Lấy một ví dụ, người Việt xem ngày 23 tháng Chạp là “hết năm cũ”, là ngày Táo Quân lên trời. Nhân gian cho rằng Táo Quân giám sát nhất cử nhất động một gia đình trong một năm, đến ngày 23 tháng Chạp phải lên thiên đình để báo cáo. Hoạt động này là một kiểu biểu đạt “trên đầu ba thước có Thần linh”. Do tin tưởng vào tác dụng giám sát của Táo Quân, mọi người tự nhiên sẽ kiềm chế hành vi của bản thân mình.

(ảnh minh họa, nguồn: Facebook)
(ảnh minh họa, nguồn: Facebook)

“Dường như những chính sách về tôn giáo nghiêm trọng và sai lầm trước đây mà cả hiện nay nữa đã tạo ra một quá trình sa mạc hóa về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa thơm, quả ngọt,” ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, từng trả lời phỏng vấn với VietnamNet.

Nếu không còn tin tưởng “trên đầu ba thước có Thần linh”, cũng chính là không còn ước thúc về đạo đức, không có ước thúc về đạo đức, ước thúc về pháp luật cũng chỉ có thể là hữu danh vô thực, khi không có ai giám sát, người ta vẫn sẽ làm điều xấu, vì để được mục đích mà có thể không từ thủ đoạn. Khi không tin vào ý nghĩa nhân sinh, không tin làm việc xấu sẽ có báo ứng, thì người ta làm việc gì cũng đều không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm.

Có thể có người nghĩ rằng vẫn có những chính sách khôi phục văn hóa tín ngưỡng diễn ra trên khắp cả nước, nhưng thực chất đó chỉ là khôi phục nghi thức, khôi phục vỏ bọc tín ngưỡng mà thôi. Ngày nay, người ta đến với lễ hội mang theo đủ loại tâm thái, đến vì tò mò, vì cầu danh, vì giải nạn, vì phát tài, vì tình duyên… chứ không còn có cái tâm kính ngưỡng như trước nữa. Người ta đi lễ mà không hiểu ý nghĩa của lễ hội là gì, cần phải ứng xử ra sao, có người còn không hiểu đền thờ ai, thậm chí còn dám dúi thẳng tiền vào tay tượng Phật, nhét vào miệng Phật, vì e rằng không làm thế thì sẽ không “thiêng”!? Bản chất của vấn đề ở đây là không thực sự tín Thần.

Cũng cần nói rõ, trong xã hội thông thường sẽ có người tín ngưỡng hữu Thần và vô Thần hoàn toàn có thể cùng chung sống hòa bình, đó là sự lựa chọn tự do không cần bàn cãi. Nhưng khi cưỡng chế nhồi nhét Vô Thần luận trong toàn xã hội, đàn áp tín ngưỡng vào Thần làm mất đi tín ngưỡng của cả một xã hội, tất nhiên sẽ khiến hệ thống giá trị xã hội truyền thống mất đi chỗ dựa, từ đó dẫn tới toàn xã hội trượt xuống vũng bùn của chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa túng dục.

Nếu không là một phần của giải pháp, đừng trở thành một phần của vấn đề

Khôi phục niềm tin của con người trong xã hội không thể chỉ trông chờ vào sự thay đổi chính sách hay luật pháp. Rất nhiều người có thể dễ dàng chỉ trích những việc sai của người khác, nhưng cũng lại dễ dãi và hành xử tương tự khi bản thân ở trong hoàn cảnh đưa đẩy, bởi chính bản thân họ cũng đang sa vào vũng lầy khi đạo đức toàn xã hội đi xuống. “Người ta lấy phong bì 10 triệu, tôi chỉ lấy 2 triệu, vậy là tôi đã tốt hơn nhiều lắm rồi đó!” chính là kiểu tư duy như thế này.

Xét trên góc độ vĩ mô toàn xã hội, sẽ phải mất cả thế hệ, hoặc nhiều thế hệ mới có thể khôi phục lại chính tín và sự thành tín đã bị mất. Để làm được như thế, đầu tiên cần hiểu rõ về tín ngưỡng và tự do tín ngưỡng, cùng các nền tảng đạo đức mang tới sự ổn định và phúc báo cho cá nhân, gia đình và xã hội.

Mahatma Gandhi có câu nói nổi tiếng: “Hãy trở thành chính sự thay đổi mà bạn muốn nhìn thấy trên thế giới này”. Mỗi con người là một phần của xã hội, vì thế, thay đổi bản thân cũng chính là đang thay đổi xã hội, và nó lan tỏa nhanh hơn bạn nghĩ. Có thể hiện tại chúng ta chưa thể lựa chọn cho một thay đổi to lớn và toàn diện hơn trong xã hội, nhưng chúng ta có thể thay đổi ngay bản thân mình và lan tỏa những điều tích cực ngay từ bây giờ, để sẵn sàng khi một ngày nào đó lịch sử đặt quyền lựa chọn vào tay chúng ta.

(ảnh: Tom Hoàng)
(ảnh: Tom Hoàng)

Sơn Vũ tổng hợp

Blogger Mẹ Nấm mời luật sư bào chữa

Blogger Mẹ Nấm mời luật sư bào chữa

2017-06-12
 
Blogger mẹ Nấm bị bắt chiều 10/10/2016.

Blogger mẹ Nấm bị bắt chiều 10/10/2016.

Courtesy of vtvnews
 

Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, người hiện đang bị giam giữ tại trại giam tỉnh Khánh Hòa với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 bộ Luật Hình sự Việt Nam, gửi thư mời một số luật sư bào chữa cho cô. Hai luật sư trong số đó là luật sư Nguyễn Khả Thành và Võ An Đôn thuộc đoàn luật sư tỉnh Phú Yên.

Nói với đài RFA vào tối ngày 12/6, luật sư Nguyễn Khả Thành, từ Phú Yên cho biết:

“Tôi nhận được đơn yêu cầu của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh từ trại tạm giam công an thành phố (Nha Trang). Họ gửi bưu điện cho tôi, có đóng dấu bưu điện đoàng hoàng. Thấy trong giấy đề ngày 2/6, thì đến ngày 6/6 tôi nhận được.

Cách đây hai ngày tôi đã làm thủ tục gửi vào tòa án Nhân dân tỉnh Khánh Hòa để chờ họ cấp giấy bào chữa. Đến nay vẫn chưa có phản hồi gì vì mới có hai ngày.”

Luật sư Võ An Đôn cho RFA biết ông cũng nhận được giấy mời bào chữa cho blogger Mẹ Nấm vào sáng ngày 11/6. Hiện ông cũng đang làm thủ tục xin cấp giấy bào chữa. Luật sư Võ An Đôn cho biết thêm:

“Ngoài tôi ra, còn 3, 4 luật sư khác cũng tham gia như luật sư Nguyễn Khả Thành, luật sư Lê Văn Luân và luật sư Nguyễn Hà Luân.”

Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là nhà hoạt động vì dân chủ, nhân quyền và môi trường của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những thành viên sáng lập ra Mạng lưới Blogger Việt Nam. Cô bị công an tỉnh Khánh Hòa bắt hôm 10/10 năm ngoái.

Trước đó cô từng bị bắt 10 ngày để thẩm vấn vào tháng 9 năm 2009 khi đưa ra những áo thun có in dòng chữ phản đối Trung Quốc xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam; cũng như phản đối dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên hủy hoại môi trường.

Cô từng bị lực lượng công an và an ninh bắt giữ và làm việc nhiều lần, như vào tháng 5 năm 2013 sau khi phát Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền và bóng bay ghi dòng chữ ‘Quyền của con người phải được tôn trọng’. Nhóm của cô cũng bị tạm giữ vào tháng tư năm 2014 trước khi có thể thực hiện cuộc thảo luận với chủ đề ‘Công ước Chống Tra tấn và vấn nạn công dân chết trong đồn công an’.

Trong năm 2015, 2016 blooger Mẹ Nấm tham gia một số cuộc biểu tình và cũng bị bắt, bị đánh như trong các cuộc biểu tình đòi tự do cho các tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức, Bùi thị Minh Hằng, Nguyễn Ngọc Già và phản đối Formosa gây thảm họa môi trường cá chết…

Cô cũng từng bị ngăn chặn không cho rời khỏi Nha Trang trong một số dịp. Cô bị ngăn không cho xuất cảnh vào giữa tháng 12 năm 2013.

CHÚNG TA ĐANG BỊ MỘT NỖI SỢ LẤN ÁP CẢ LẼ PHẢI …

From facebook: Emily Page-LeFollow

 

CHÚNG TA ĐANG BỊ MỘT NỖI SỢ LẤN ÁP CẢ LẼ PHẢI …

Dối trá, bạo lực, tham lam, vô lương tâm, vô trách nhiệm… nằm chình ình trước mặt mọi người, mọi lúc, mọi nơi. Tự thâm tâm, dường như ai cũng biết đó là sai. Nhưng chẳng mấy ai dám lên tiếng.

– Trí thức sợ bị hành hung
– Công chức sợ bị trù dập
– Luật sư sợ gặp khó khăn khi hành nghề
– Công nhân sợ bị mất việc
– Sinh viên, học sinh sợ không được tốt nghiệp
– Dân đen sợ bị đàn áp

Đến cả tôn giáo, tiếng nói của lương tâm, cũng:
– Linh mục, tu sỹ sợ bị liên luỵ
– Tôn giáo sợ mất sự “yên ổn”
– Tín đồ sợ bị khống chế, cách ly

Tất cả bị một nhóm nhỏ ma quái dìm trong nỗi sợ hãi có tính chất lây nhiễm, truyền kiếp. Lúc trà dư tửu hậu, họ thậm thụt, thì thầm nói với nhau nỗi bất bình. Nhưng khi ai đó dám nói lớn, dám phản đối, họ – cùng với đám đông – hô to: Phản động! Phản động! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!

Dân tộc này xứng đáng làm nô lệ.
Con cháu chúng ta xứng đáng làm nô lệ.
Vì chúng ta không dám trả giá để có được tự do!

Nguồn bài viết: Lm Anthanh Linhgiang
Hình: Tui lượm

VNTB – Những “cháu ngoan Bác Hồ” trong Quốc Hội

VNTB – Những “cháu ngoan Bác Hồ” trong Quốc Hội

Nguyễn Tường Thụy (VNTB) Ngày 5/6/2017, tranh luận tại Quốc hội về thực phẩm bẩn, ông  Ngọ Duy Hiểu, đại biểu Hà Nội đề nghị phải lấy tinh thần chống Mỹ để “chiến đấu” với thực phẩm bẩn: “Cả dân tộc quyết tâm như một thời chúng ta đánh Mỹ để cứu dân tộc chúng ta tránh khỏi thực phẩm bẩn”

 
​Từ trái qua phải, từ trên xuống dưới: Các đại biểu quốc hội: Nguyễn Thị Kim Ngân, Hoàng Hữu Phước (khóa trước), Nguyễn Thị Xuân, Trịnh Ngọc Phương, Đỗ Văn Đương (khóa trước), Nguyễn Thị Quyết Tâm, Nguyễn Thị Thủy, Ngọ Duy Hiểu.

Lời phát biểu của ông gây nên rất nhiều lời đàm tiếu trong cư dân mạng. Có lẽ ông Hiểu muốn nói đến tinh thần quyết tâm, hăng hái, đoàn kết, hy sinh của thời kỳ chống Mỹ. Nhưng tinh thần chống Mỹ cũng có nhiều vấn đề phải bàn. Tinh thần ấy đã đem lại cái được duy nhất là đất nước không còn chia cắt, còn bản chất cuộc chiến tranh và hệ lụy của nó, 42 năm qua đã tốn khá nhiều bút mực của các học giả. Có thể tóm gọn rằng, tinh thần chống Mỹ đã làm hao người tốn của một cách khủng khiếp; một nửa nước giàu có thành nghèo đói, lạc hậu như nhau, xã hội hỗn loạn, lòng người ly tán và giờ đây tụt hậu so với thế giới hàng năm chục đến một vài trăm năm. Tinh thần ấy đã đuổi đi thêm một nền văn minh nhân loại.

Không thể không đặt câu hỏi tại sao, trong 4 quốc gia bị chia cắt có cộng sản cùng thống trị thì chỉ có Việt Nam dùng bạo lực để thống nhất đất nước còn 4 nước kia thì không. Trung Quốc chỉ hô hào trên miệng chứ không tấn công Đài Loan mặc dù họ cổ động hàng xóm làm chuyện đó. Trong thời kỳ quan hệ giữa hai đảng rạn nứt, mặc những bức điện mừng kỷ niệm thành lập đảng hay mừng quốc khánh TQ của VN kích đểu rằng chúng tôi luôn ủng hộ các đồng chí giải phóng Đài Loan, thu hồi lãnh thổ về một mối nhưng TQ vẫn để nguyên trạng cho đến tận bây giờ. Sau chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, Bắc Triều Tiên cũng chỉ hung hăng đe dọa chứ không phát động chiến tranh thôn tính Hàn Quốc. Đông Đức cũng không phát động tinh thần chống Phương Tây đánh Tây Đức để đến năm 1989 nước Đức thống nhất một cách ngoạn mục. Không nước nào dám bắt chước Việt Nam, mặc dù họ vẫn cổ vũ, tuồn vũ khí, phương tiện chiến tranh cho VN như kiểu suỵt chó vào bụi rậm. Cho đến bây giờ, nhìn vào Việt Nam, họ thấy cái sự không dám của mình là đúng đắn.

Trở lại chuyện ông  Ngọ Duy Hiểu đề nghị phải lấy tinh thần chống Mỹ để “chiến đấu” với thực phẩm bẩn. Không hiểu tinh thần chống Mỹ có liên quan gì đến việc chống thực phẩm bẩn? Hẳn là ý ông Hiểu coi tấn công vào bọn làm hàng giả, hàng độc hại như đánh giặc. Thời buổi này mà ông còn cho rằng, chỉ cần hăng hái thì việc gì cũng làm được. Hẳn nhiều người đã biết đến câu “ngu dốt cộng nhiệt tình bằng phá hoại”. Chiến tranh khác hẳn với xây dựng đất nước, với việc tổ chức quản lý xã hội. Còn cái tinh thần chống Mỹ đem lại hệ lụy như thế nào thì như người viết vừa sơ giải.

Không riêng gì ông Ngọ Duy Hiểu, trước đó nhiều đại biểu quốc hội khác có những phát ngôn rất ngô nghê, nhảm nhí, nghe nó cứ ngồ ngộ, hay hay thế nào. Tuy thế, có thể thấy họ có sự toan tính riêng. Những phát ngôn đó đều không đứng về phía nhân dân mặc dù họ được coi là đại biểu của dân.

Năm 2011 ông nghị Hoàng Hữu Phước bỗng dung nổi tiếng về những lời phát biểu có vẻ văn hoa uốn éo nhưng khuynh tả của mình. Ông căm thù biểu tình, cho rằng biểu tình là chống lại chính phủ, là làm ô danh đất nước. Từ sự đột ngột nổi tiếng ấy, người ta tìm hiểu về ông, biết thêm nhiều chuyện trong đó có chuyện ông bắt chước Tô Tần hiến kế liên hoành cho Saddam Hussein, xin làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền cho hắn để công du thuyết phục các nước. Vì thế người ta nghi ngờ ông bị tâm thần.

Cũng năm 2011, cố vẽ một điểm sáng le lói cho bức tranh kinh tế ảm đạm, ông nghị Đỗ Văn Đương bày tỏ: “Tôi không nghĩ lạm phát ở nước ta cao nhất khu vực! Theo tôi phải xem lại chỗ này. Tôi đi các nước thấy giá tiêu dùng đắt đỏ, một đĩa rau muống xào ở Thượng Hải tới 200 nghìn đồng, nhưng ở Việt Nam chỉ mấy chục nghìn. Trong nước tôi đi chợ rau muống ở đô thị có thể 5.000 đồng/mớ, đi xuống vùng nông thôn chỉ 2.000, xuống nữa có khi rẻ hơn”.

Câu nói của ông được đề cử giải hoa Titan Arum (một loại hoa thối nhất thế giới, còn gọi là hoa xác chết) của một diễn đàn. Giải này dành cho các phát biểu củ chuối nhất và vớ vẩn nhất năm 2011.

Từ đó người ta gọi ông bằng cái tên thân thuộc và dân dã là “Nghị rau muống”.

Nguyễn Thị Quyết Tâm,  Phó Bí thư Thành ủy; Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì thể hiện chất nghị nô của mình bằng câu nói con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc: “Nếu con em cán bộ lãnh đạo mà có sự trưởng thành và được các Đại hội Đảng tín nhiệm hoặc được tổ chức tín nhiệm giao những trọng trách quan trọng thì đó là điều hạnh phúc của dân tộc ta, của Đảng ta. Tôi nghĩ là vậy. Đó là sự kế thừa, giữ gìn và biết phát huy truyền thống đó để kế tục sự nghiệp của cha ông. Đó phải là điều hạnh phúc đối với dân tộc mình chứ?”

Mới đây, Nguyễn Thị Xuân, Phó Giám đốc công an tỉnh, đại biểu tỉnh Đắk Lắk đề nghị xử lý hình sự hành vi bôi nhọ lãnh đạo, mặc dù hành vi đó đã được điều chỉnh bởi điều 122 (tội vu khống) hoặc điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân). Có lẽ ý thị Xuân là động đến lãnh đạo cần phải qui định tội danh riêng, nặng hơn.

Khi làn sóng phản đối Nguyễn Thị Xuân chưa lên tới đỉnh thì tiếp theo đại biểu Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) cho rằng luật sư phải tố giác thân chủ: “nếu không tố cáo thân chủ thì luật sư sẽ bị khởi tố về tội “che giấu tội phạm” làm xôn xao công luận, vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của báo chí và đặc biệt là giới luật sư. Điều mai mỉa là Nguyễn Thị Xuân có hoc vị đến tiến sĩ về ngành luật.

Mới ngày hôm qua, 9/6 thôi, Ông Trịnh Ngọc Phương, ủy viên Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quốc hội, đại biểu Tây Ninh lại hăng hái không kém khi cho rằng người dân Đồng Tâm… đàn áp công an, chồng thêm độ cao của làn sóng phản đối những phát ngôn quái đản của đại biểu quốc hội: “Ý kiến của đại biểu Nhưỡng về việc cảnh sát áp đảo người dân trong vụ Đồng Tâm là sai sự thật, mà chính người dân Đồng Tâm mới là đàn áp lại nhóm người thực thi nhiệm vụ”.

Bệnh phát ngôn bừa bãi không loại trừ cả Chủ tịch Quốc hội. Ngay sau khi nhậm chức Chủ tịch Quốc hội 1 ngày, bà Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng biểu tình bảo vệ biển đảo của Tổ quốc gây ồn ào, kích động. Bà ta đặt câu hỏi họ đã làm gì cho đất nước rồi khẳng định “chưa làm gì cả”. Tuy nhiên, bà Ngân cũng chỉ là học trò người tiền nhiệm của bà – ông Nguyễn Sinh Hùng khi ông này chầy cối cho rằng dân bầu ra Quốc hội nên Quốc hội sai thì dân phải chịu: “Quốc hội là dân, dân quyết sai dân chịu chứ kỷ luật ai?

Những phát biểu ngô nghê, ấu trĩ, khuynh tả của các đại biểu quốc hội không chỉ có bấy nhiêu. Điều cần đặc biệt lưu ý là, về danh nghĩa, họ là đại biểu cho lợi ích của nhân dân. Tuy nhiên, những phát biểu ấy đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, tấn công vào nhân dân. Việc làm của họ không xuất phát tự lợi ích của nhân dân mà chỉ muốn nắm chặt bàn tay sắt, nhăm nhe bảo vệ đảng của họ (tỉ lệ đảng viên chiếm 95-96% Quốc hội).

Sự hăng hái thái quá của những đại biểu này có thể ví như những cháu ngoan Bác Hồ lớn tuổi. Nó khác một điều là những cháu ngoan Bác Hồ chưa hiểu biết gì về chính trị xã hội, người lớn bảo sao nghe vậy còn họ đã từng trải, có bằng cấp, bằng cao là đằng khác. Phát ngôn của họ có nguyên nhân từ sự ấu trĩ về chính trị về pháp luật hay vì tham vọng thăng tiến, muốn ghi điểm, muốn làm hài lòng lãnh đạo? Sự hăng hái ấy là sự hăng hái của kiểu “Hàng đầu rồi tiến đi đâu/ Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi”. Nhưng rồi mà xem, ở xã hội này, những người như thế, ghế sẽ vững hơn, dễ thăng tiến hơn. Chả trách đất nước cứ lẹt đẹt mãi.

From facebook: Lang Văn

Việt Nam ‘làm tượng đài hoành tráng quá’

Việt Nam ‘làm tượng đài hoành tráng quá’

Xây công trình tượng đài ‘cần căn cứ vào quy hoạch phát triển đô thị và tùy theo yêu cầu văn hóa lịch sử’, theo ông Nguyễn Trực Luyện, nguyên Chủ tịch Hội kiến trúc sư Việt Nam.

Công trình tượng đài N’Trang Lơng, Đắk Nông, với mức đầu tư 147 tỉ đồng đang bị đình trệ khiến khơi lại dư luận xã hội về hiện tượng xây tượng đài hàng loạt ở nhiều tỉnh, thành phố Việt Nam trong những năm qua.

Tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng gây điều tiếng vì có ngân sách tới 411 tỷ đồng dù đoạt huy chương vàng tại Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam 2015.

Đây là tượng đài lớn nhất Đông Nam Á, nằm trên diện tích 15 ha ở xã Tam Phú, huyện Tam Kỳ, có chiều cao 18,5m làm từ đá hoa cương Bình Định.

Dư luận cũng đã nêu ý kiến về một loạt các dự án tượng đài với kinh phí quá lớn khác như công trình tượng đài Hồ Chủ tịch tại tỉnh Sơn La với vốn đầu tư 1.400 tỷ đồng.

Chưa kể dư luận đã nhiều lần lên tiếngvề hàng loạt tượng đài trị giá hàng trăm tỷ đồng nhưng xuống cấp mau chóng sau khi khánh thành: tượng Lý Thái Tổ (Hà Nội), nữ tướng Lê Chân (Hải Phòng), Điện Biên Phủ (Điện Biên), Trần Hưng Đạo (Nam Định)… đặc biệt, nhiều công trình xây dựng xong mau chóng bị nứt trên thân hoặc sụt lún chân đế hay bị sét đánh.

Tượng chiến sĩ tại Tượng đài Điện Biên Phủ
Bản quyền hình ảnh    GETTY/AFP/HOANG DINH NAM

Trả lời BBC Tiếng Việt về các công trình xây dựng tượng đài như vậy, Kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện, nguyên Chủ tịch Hội kiến trúc sư Việt Nam nói:

“Tượng đài là công trình văn hóa kỷ niệm và quốc gia nào cũng cần phải có vì nó là một phần của lịch sử. Nhưng vấn đề là phải làm thế nào để có sự nhìn nhận cho đúng.

“Hiện nay chúng ta có xu hướng làm tượng đài quy mô quá và thiếu sự chuẩn bị thật kỹ càng nên sinh ra vấn đề dư luận xã hội đang có nhiều ‎ý kiến.

Để giải quyết vấn đề này, Kiến trúc sư Luyện cho biết làm tượng đài phải tùy từng vị trí nó ở đâu.

“Vị trí quy hoạch chỉ có một không gian nhất định thì chỉ cho phép làm lớn bao nhiêu đó thôi chứ không phải muốn làm lớn tới bao nhiêu thì làm. Nếu chúng ta làm một cách có bài bản thì phải như vậy, chứ không phải chủ quan người nào quyết định muốn như thế thì là được,” kiến trúc sư nói.

Đây cũng là một ý được kiến trúc sư khác, ông Phạm Thanh Tùng, nêu ra trong bài Tượng đài cho ai? gửi tới báo Tuổi trẻ mới đây. Ông cho rằng “nhiều vị trí đặt tượng đài không phù hợp với cảnh quan kiến trúc đô thị bởi sự thiếu kết hợp trong lập quy hoạch xây dựng với chủ trương xây dựng tượng đài.”

Theo kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện, hai yếu tố gồm khuôn khổ, kích thước tượng đài và ý nghĩa lịch sử của tượng đài sẽ quyết định quy mô của công trình sẽ hoành tráng đến đâu.

Tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Cần Thơ
Bản quyền hình ảnh   GETTY IMAGES
Tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Cần Thơ (ảnh có tính chất min họa)

Luật sư Nguyễn Trực Luyện nói thêm: “Ngoài vấn đề quy hoạch và có xu hướng làm tượng đài hoành tráng quá, không nên, thì còn tình trạng làm tượng đài không theo bài bản chuyên môn chặt chẽ.

“Muốn có bài bản thì cần có nghiên cứu chuẩn bị, có hội đồng xét duyệt. Thành viên tham gia Hội đồng xét duyệt tượng thì tùy tính chất của từng tượng đài nhưng không thể thiếu kiến trúc sư, nhà quy hoạch, lịch sử, văn hóa, những thành viên tham gia hội đồng xét duyệt tượng đài.

Ông kết luận rằng trong tương lai cần phải căn cứ vào quy hoạch phát triển đô thị và tùy theo yêu cầu văn hóa lịch sử mới có thể làm có kết quả tốt được.

Tượng đài hay tượng thờ?

Một điểm đáng chú ý được Kiến trúc sư Phạm Thanh Tùng nêu trên báo Tuổi trẻ đó là:

“Việt Nam vốn không có truyền thống làm tượng đài mà chỉ có tượng thờ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tượng đài bắt đầu du nhập vào Việt Nam theo xu hướng tượng đài của Liên Xô và Trung Quốc để phục vụ công tác tuyên truyền, vinh danh chiến thắng.”

Và kiến trúc sư Phạm Thanh Tùng cho rằng Việt Nam còn nghèo nên việc xây dựng tượng đài cần được cấp quản lý xem xét kỹ lưỡng. Ông nói

“Hiện đang có xu hướng xã hội hóa trong xây dựng tượng đài. Song, dù tiền nhà nước hay tiền có được từ việc xã hội hóa thì cũng là tiền của dân. Xây dựng tượng đài tràn lan không chỉ gây lãng phí về kinh tế mà còn làm nghèo thêm văn hóa,” kiến trúc sư Tùng được trích lời cho biết.

Hai tiếng ‘Việt Nam’


Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)
Một cuộc tuần hành vì nhân quyền cho Việt Nam của cộng đồng người Việt tại Canada. (Ảnh chụp từ Youtube Thu Tran)

Từ khi chế độ Cộng Sản xâm nhập vào đất nước chúng ta, dân chúng thường đặt tên cho hai chế độ để phân biệt rõ ràng, một bên là Quốc Gia, một bên là Cộng Sản. Quốc gia phải được hiểu là quốc gia Việt Nam, nghìn đời từ cha ông để lại, còn Cộng Sản thì ai cũng hiểu là Cộng Sản Quốc Tế, đến từ cái đất nước Liên Xô xa xôi bên kia.

Không phải tự nhiên mà sau khi chia cắt đất nước, ở miền Nam, nhạc sĩ Hùng Lân đã ca tụng hai tiếng Việt Nam trong bản nhạc “Việt Nam, Minh Châu Trời Đông,” còn Phạm Duy thì dõng dạc cất cao hai tiếng “Việt Nam! Việt Nam!” với câu hát: Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời – Việt Nam hai câu nói trên vành môi Việt Nam, nước tôi. … Việt Nam!”

Với người quốc gia, tiếng nói đầu tiên của một người ngay lúc chào đời chính là tiếng gọi của đất nước, non sông, xã tắc, trong khi đối với người Cộng Sản ở miền Bắc tiếng gọi đầu tiên của đứa trẻ mới ra đời là Stalin! “Yêu biết mấy, nghe con tập nói. Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.” Stalin không phải là một cái tên Việt Nam, Stalin cũng không phải là tên của tổ tiên, anh hùng Việt Nam. Chắc chắn đối với chế độ miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, cái tên Stalin phải đẹp đẽ, cao cả nghìn lần hơn hai tiếng Việt Nam, nếu không thì há gì, người ta lại đặt tiếng Stalin vào miệng một đứa trẻ mới tập nói bập bẹ, cũng không Cha, không Mẹ, mà cũng chẳng phải liên hệ gì với đất nước non sông!

Nhưng đó chính là nhiệm vụ của những cán bộ Cộng Sản quốc tế nhận lệnh từ Mạc Tư Khoa, quyết nhuộm đỏ Việt Nam.

Những người cho rằng mình yêu đất nước, ai cũng đem hai tiếng Việt Nam ra để vinh danh, ca tụng nói bao nhiêu điều tốt đẹp, để cuối cùng hãnh diện nói rằng: “Tôi là người Việt Nam!”

Cách đây mấy năm, báo Thanh Niên trong nước đặt câu hỏi với độc giả: “Người Việt thông minh, chăm chỉ và anh hùng, đánh thắng ba đế quốc sùng sỏ, thế bạn có hãnh diện là người Việt Nam không?”

Có những lúc chúng ta hãnh diện vì hai tiếng Việt Nam, nhưng cũng có những lúc chúng ta phải cúi đầu hổ thẹn vì hai tiếng Việt Nam.

Đi Mã Lai, đến Kuala Lumpur, khi người tài xế taxi biết bạn là người Việt Nam, anh ta khen Việt Nam bằng câu nói: “Con gái Việt Nam đẹp lắm!” Nhưng anh ta lại nói thêm “Con gái Việt Nam rẻ lắm!” Đâu còn gì danh dự tốt đẹp cho hai tiếng Việt Nam nữa.

Đến phi trường Sanghi, Singapore, các thiếu nữ Việt Nam được mời riêng vào phòng để kiểm tra, lý lịch, giấy tờ, tiền bạc mang theo, điều tra những người quen biết của họ ở đất này, chỉ vì cảnh sát Singapore nghĩ rằng các thiếu nữ này là món hàng “đứng đường” tối nay ở khu đèn đỏ Joo Chiat, hay Geylang. Nếu bạn cùng đến Sanghi một lần với những cô gái này, bạn có còn dõng dạc nói rằng: “Tôi là người Việt Nam” nữa hay không?

Giám Mục Ngô Quang Kiệt không phải là một người tầm thường tào lao, những phát biểu của ông không phải nói cho qua chuyện, ông có cái đau của người Việt Nam đi ra ngoại quốc mà không được kính trọng: “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế!”

Thế là bao nhiêu búa rìu dư luận chụp lên đầu vị Giám Mục “trung ngôn” này, nhưng sự thật vẫn là sự thật, chẳng qua là người ta thích nhắm mắt, bịt tai thôi.

Một phụ nữ ở Saigon kể chuyện với chúng tôi: “Năm 2008 vào dịp Tết Nguyên Ðán, tôi được con trai cho đi du lịch Doha (Qatar,) sẵn dịp công ty của con bảo lãnh qua chơi Dubai. Nhưng đến chiều về lại Doha thì bị giữ lại phi trường vì nghe nói có chuyện gì xảy ra ở một siêu thị mà có người Việt mình dính vô. Trong khi cả đoàn ‘check in’ thì riêng tôi bị giữ lại vì mang passport CHXHCN Việt Nam. Mang hộ chiếu Việt Nam đi nước ngoài buồn lắm ông ơi!”

Yêu hai tiếng Việt Nam, là người yêu nước, chúng ta phải làm sao để hai tiếng này vang lừng, chói lọi chứ không phải làm hoen ố nó, rồi kêu gào cho là người đời xuyên tạc, bất công.

Sau tháng 4-1975, Nhật Bản cũng tử tế hết lòng với Việt Nam, nhưng vì sao, về sau, trên nhiều diễn đàn của Nhật, người ta kêu gọi tẩy chay người Việt, đuổi hết người Việt về nước, cắt vĩnh viễn các khoản viện trợ cho Việt Nam. Có người so sánh viện trợ cho Việt Nam uổng hơn là đổ tiền vào… cống, bởi tiền thuế của họ đang được dùng để nuôi bọn “giòi bọ” ở Việt Nam. Một tập đoàn cung cấp dịch vụ của Nhật bị Việt Nam đòi hối lộ 15% để được trúng thầu các dự án dùng chính tiền viện trợ của Nhật tại Việt Nam; nhân viên, tiếp viên hàng không và phi công Vietnam Airlines, tổ chức đánh cắp hàng hóa trong các siêu thị Nhật để vận chuyển hàng gian về tiêu thụ tại Việt Nam; lãnh sự quán Việt Nam ở Nhật tại Osaka tổ chức bán giấy thông hành Việt Nam.

Như vậy, chính người Việt Nam để lại ấn tượng xấu xa về hai tiếng Việt Nam trong mắt người Nhật khi xuất ngoại sang đất nước họ.

Ở Nga, có đường dây buôn người đưa hàng nghìn phụ nữ Việt Nam vào các nhà chứa Nga, theo Tiến Sĩ Nguyễn Ðình Thắng: “Trong tất cả các trường hợp ở Nga này, thủ phạm là những người Việt được bao che bởi một số giới chức ở Tòa Ðại Sứ Việt Nam ở Nga, thậm chí họ thành Hiệp Hội May Dệt dưới sự bảo trợ của Tòa Ðại Sứ Việt Nam.”

Cảnh sát Nga vừa khám phá một xưởng may “đen” dưới lòng đất tại khu chợ Cherkizov ở thủ đô Moscow, bắt hằng trăm di dân lậu Việt Nam. Trong 80,000 người Việt ở Nga đã có 80% làm nghề buôn bán, phần lớn là chợ trời, mánh mung, nhưng toà Đại Sứ Việt Nam ở Nga chủ trương không biết, không nghe, không thấy, không nói!

Ông Trương Văn Món, Giám đốc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa Chăm, kể chuyện ông từng ở Malaysia 3 năm, mỗi khi đến dịp lễ 2/9, toà Đại sứ Việt Nam tổ chức những bữa tiệc mời đại diện đại sứ quán các nước khác và người lao động Việt Nam ở nước ngoài tới dự, nhưng lần nào, đại diện Đại Sứ Quán Việt Nam tại đây phải chắp tay xin lỗi quan khách vì bị người Việt cướp hết đồ ăn trước giờ vào tiệc, và chuyện này năm nào cũng xảy ra như vậy!

Ông Đặng Xương Hùng lãnh sự Việt Nam ở Thụy Sỹ nói ông đã theo Đảng Cộng sản 30 năm, nhưng giờ đây có nhiều động lực khiến ông phải rời bỏ Đảng Cộng sản và xin tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ. Ông nói Việt Nam đã sang đến thế kỷ XXI rồi mà vẫn còn chủ nghĩa Mác Lê-nin, vẫn còn tương tự như Trung Cộng, Bắc Hàn, Cuba thì ra nước ngoài thật ngượng.” Đó là lời nói của một người đại diện cho Việt Nam hôm nay!

Nói về dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đứng thứ 177 trong số 198 quốc gia trên toàn cầu về tự do báo chí, là nhận định của Freedom House trong phúc trình thường niên công bố tại Newseum – Viện Bảo tàng Tin tức ở Washington DC hôm thứ 28/4/2017, năm 2015, Việt Nam xếp hạng thấp nhất về quyền lợi chính trị (hạng 7) và hạng 5 về tự do công dân, nhưng lúc nào chúng ta cũng hét lên hai tiếng Việt Nam- Việt Nam vào lỗ tai thiên hạ.

Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí yêu nước, khi bị lên đoạn đầu đài ở Yên Báy, đã đồng thanh hô vang :”Việt Nam muôn năm!” Thậm chí báo chí miền Bắc cũng đã nhét vào miệng Nguyễn Văn Trỗi “đánh Mỹ” tiếng hô “Việt Nam muôn năm!” không quên kèm theo tiếng “muôn năm” cho Hồ Chí Minh, tức là Hồ Tập Chương, cán bộ KGB được đào tạo ở Liên Xô.

Nhưng Việt Nam là Việt Nam nào để cả dân tộc Việt Nam ngẫng đầu hãnh diện? Việt Nam là Việt Nam nào để khi ra nước ngoài, con người phải cúi mặt mà đi?

Người Tàu Đài Loan vẫn không bao giờ nhận mình là người Trung Hoa lục địa, và tôi, hãnh diện là người Việt Nam. Ngày xưa tôi nhận tôi là Nam Việt Nam, và bây giờ là Việt Nam, nhưng tôi nhận tôi là người Việt Nam lưu vong, không phải Việt Nam trong danh từ kép “Việt Nam – Hồ Chí Minh” mà đứa con bất hiếu Phạm Tuyên đã lớn tiếng, rêu rao, lặp đi, lặp lại nhiều lần!

Bí thư tỉnh Yên Bái bị nghi ‘chuyển đất’ cho em ruột xây dinh thự

Bí thư tỉnh Yên Bái bị nghi ‘chuyển đất’ cho em ruột xây dinh thự

Dinh thự của gia đình ông Phạm Sỹ Quý sắp hoàn tất. (Hình: Báo Thanh Niên)

YÊN BÁI, Việt Nam (NV) – Hôm 9 Tháng Sáu, Thanh Tra tỉnh Yên Bái chính thức kiểm tra vụ chuyển hơn 13,500 mét vuông đất nông nghiệp thành thổ cư, để xây dựng dinh thự giữa thành phố Yên Bái, của ông giám đốc Sở Tài Nguyên-Môi Trường tỉnh, người là em ruột bí thư tỉnh ủy!

Tuần vừa qua, báo chí Việt Nam nêu ra hàng loạt điểm bất thường quanh việc gia đình ông Phạm Sỹ Quý, giám đốc Sở Tài Nguyên-Môi Trường tỉnh, xây dựng dinh thự tại phường Minh Tân, thành phố Yên Bái. Dinh thự này là một quần thể kiến trúc với biệt thự, nhà sàn, hồ nước, vườn hoa…

Ngoài những thắc mắc liên quan đến chuyện ông Quý đào đâu ra tiền để tạo lập dinh thự trị giá cả trăm tỷ đồng như thế, báo chí Việt Nam còn nêu ra một thắc mắc khác, đáng chú ý hơn là tại sao chính quyền thành phố Yên Bái lại ký tới sáu quyết định, cho phép gia đình ông Quý chuyển đổi các phần đất vốn là rừng, ruộng, vườn… thành thổ cư rồi cấp giấy phép xây dựng một cách dễ dàng, nhanh chóng như vậy.

Theo tờ Thanh Niên, chính quyền thành phố Yên Bái đã sử dụng “Quyết Định Điều Chỉnh Quy Hoạch Sử Dụng Đất Đến Năm 2020” do tỉnh này ban hành năm 2014 để ra sáu quyết định cho phép gia đình ông Quý chuyển số đất nông nghiệp thành thổ cư.

Ông Quý khi đó là phó giám đốc sở, kiêm giám đốc Trung Tâm Phát Triển Quỹ Đất của tỉnh.

Báo Thanh Niên cho hay, ông Phạm Sỹ Quý là em trai bà Phạm Thị Thanh Trà. Thời điểm này, bà Trà là chủ tịch tỉnh Yên Bái.

Sau vụ ông Đỗ Cường Minh, chi cục trưởng Chi Cục Kiểm Lâm tỉnh, vào trụ sở tỉnh ủy hôm 18 Tháng Sáu, 2016, bắn ông Phạm Duy Cường, bí thư tỉnh và ông Ngô Ngọc Tuấn, trưởng ban tổ chức tỉnh ủy kiêm chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân tỉnh, chết tại chỗ rồi tự sát, thì bà đảm nhiệm vai trò bí thư kiêm chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân mới của tỉnh để thay hai nhân vật vừa bị bắn chết.

Tuy nhiên, trước khi rời cương vị chủ tịch tỉnh Yên Bái, chính thức đảm nhiệm vai trò bí thư tỉnh, hôm 9 Tháng Chín, bà Trà ký một trong những quyết định cuối cùng là bổ nhiệm ông Quý làm giám đốc sở.

Hồi đầu tháng này, Bộ Nội Vụ chính thức nêu vấn đề “cả họ làm quan” là chuyện có thật tại chín tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Yên Bái là một trong những tỉnh có “hiện tượng” đó. Việc thừa nhận “cả họ làm quan” không đi kèm bất kỳ giải pháp xử lý nào vì kết quả thanh tra cho thấy, tất cả các trường hợp tuyển dụng, bổ nhiệm thân bằng, quyến thuộc đều “đúng quy trình.” “Hiện tượng” này chỉ được nêu ra như một vấn đề cần “rút kinh nghiệm” vì dân chúng bất bình.

Scandal liên quan tới gia đình ông Quý có thể cũng sẽ chỉ “rút kinh nghiệm.” Việc chính quyền thành phố Yên Bái cho phép ông Quý chuyển đổi đất nông nghiệp dường như cũng “đúng quy trình.”

Quyết định điều chỉnh đất của chính quyền tỉnh Yên Bái ban hành năm 2014 là một “căn cứ vững chắc về pháp lý” để ông Quý được hưởng sự ưu đãi hết sức bất thường đó. (G.Đ)