Đan sĩ Đan viện Thiên An: Sự thật và hệ thống tuyên truyền sai sự thật của nhà nước

Feom facebook: Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s post.
Image may contain: one or more people, people standing, people sitting and outdoor
Image may contain: one or more people, people standing, tree, outdoor and nature
Image may contain: plant and outdoor
Image may contain: 1 person, tree, shoes, plant, outdoor and nature
Tin Mừng Cho Người Nghèo added 4 new photos.

Đan sĩ Đan viện Thiên An: Sự thật và hệ thống tuyên truyền sai sự thật của nhà nước

#GNsP (05.07.2017) – Hơn 107 hécta đất-nhà-rừng thông thuộc quyền quản lý và sở hữu của Đan viện Thiên An đang có dấu hiệu bị chặt phá, đốn hạ, vắt kiệt nhựa thông khiến nhiều vạt thông chết rũ là hành vi tàn phá môi trường sinh thái thiên nhiên, hủy diệt lá phổi xanh của thành phố Huế, phá vỡ cảnh quan thơ mộng của đất Thần Kinh.

Các cơ quan có thẩm quyền tại tỉnh Thừa Thiên Huế và truyền thông báo chí nhà nước “đổ thừa” trên các phương tiện truyền thông đại chúng cho rằng, chính các Đan sĩ Đan viện Thiên An đã có hành vi phá hoại rừng thông.

Sự thực vụ việc này như thế nào, “ai” đang ác ý và dã tâm phá hủy môi trường thiên nhiên, xin mời quý vị dõi theo cuộc phỏng vấn giữa phóng viên GNsP với quý Đan sĩ Đan viện Thiên An.

Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào đầu tháng 6.2017, trước một tháng xảy ra biến cố nhà cầm quyền huy động trên dưới 200 côn đồ, cán bộ địa phương, an ninh mặc thường phục tùy tiện xông vào nội vi Đan viện, mang theo hung khí đủ loại tháo dỡ, làm bể cong rồi nhổ bật cây Thánh Giá trong nội vi Đan viện, và sau đó tấn công, hành hung các Đan sĩ.

Huyền Trang, GNsP: Thưa thầy, trong thời gian vừa qua, báo chí nhà nước liên tục đưa tin tuyên truyền rằng các Đan sĩ Đan viện Thiên An (ĐVTA) đang có hành vi chặt phá rừng thông, tàn phá môi trường xung quanh nơi đây. Xin thầy có thể chia sẻ rõ hơn về sự việc này và thầy nhận xét như thế nào về cách đưa tin của báo chí nhà nước?

Đan sĩ Paul Vicent Vũ Thanh Long: Trong thời gian vừa qua, nhà nước đã dùng công cụ báo chí và các trang facebook của nhà nước để bôi nhọ và nói xấu Đan viện, người ta đặt “ai đó” [chặt phá rừng thông] là ám chỉ các Đan sĩ ĐVTA. Thực sự 107 hécta [đất-nhà-rừng thông] của ĐVTA là do cha ông khai phá và để lại. Nhà nước đã cho người dân vào rừng thông khai thác [nhựa] thông bằng các hình chữ V, đục khoét, nạo… khiến thông dần dần chết đi.107 hécta rừng thông của ĐVTA là lá phổi xanh của thành phố Huế, tuy nhiên nhà nước đang muốn tàn phá lá phổi xanh này. Điển hình như:

Khu rừng thông ngay mặt đường quốc lộ dẫn vào ĐVTA bị nhà nước lấy, các ông cán bộ [lợi dụng chức] quyền bán đất cho người dân. Họ xây cất nhà, xây dựng chuồng gà ngay trước cổng đi vào Đan viện là bằng chứng cụ thể nhà nước chặt phá rừng thông của ĐVTA, tàn phá môi trường thinh lặng của các Đan sĩ. Ngay dưới chân đồi Đức Mẹ, người ta đã chiếm đoạt, chặt phá rừng thông và trồng tràm.

Khu vực nhà hàng Cát Tường Quân và nhà hàng Bội Trân là vườn cam cũ của Đan viện, nằm giữa khu rừng thông của ĐVTA và đồi Đức Mẹ. Nhà nước đã chiếm đất và bán cho họ, họ chặt phá rừng thông và cứ lấn chiếm dần dần vào rừng thông của Đan viện. Tuy nhiên nhà nước lại vu khống cho Đan viện [chặt phá, đốn hạ rừng thông].

Về Hồ Thủy Tiên, [vào năm 2001], Thừa Thiên Huế là một tỉnh nghèo nhưng lại bỏ ra gần 80 tỷ để xây dựng một công trình mà công luận trong và ngoài nước gọi là công viên ma và không làm lợi ích gì cả. Đây chỉ là cách rửa tiền của các ông cán bộ. Giữa rừng thông của ĐVTA có nhiều chòi mà nhà nước đã làm dang dở [với mục đích] chặt phá rừng thông. Hồ Thủy Tiên được đầu tư với số tiền lớn để phá vỡ khu sinh thái và môi trường tĩnh lặng của Đan viện.

Huyền Trang, GNsP: Thưa thầy, cũng liên quan đến môi trường rừng thông của Đan viện, báo điện tử Thừa Thiên Huế viết rằng, ĐVTA đang phá “con đường dân sinh” “dẫn vào nhà của hơn 100 hộ dân trong thôn Kim Sơn và cũng là đường xe đặc dụng ứng cứu nếu có rủi ro hỏa hoạn xảy ra trong khu vực”, thực hư chuyện này như thế nào?

Đan sĩ Joseph Marie Trữ Mạnh Cường: Tôi rất ngạc nhiên khi nghe thông tin này vì sai sự thật. Vào năm 1960, các cha các thầy xây xong đập Chatađê, tiếp tục đào thêm hai đập nhỏ nữa. Đoạn đường nhà nước gọi là “con đường dân sinh” chính là đoạn đê dài khoảng 50m [đập thứ ba] để các Đan sĩ trữ nước, lấy nước tưới cho vườn cam, bơm nước lên khu vực Đan viện để phục vụ cho sinh hoạt. Do đó, con đường đó không phải là “con đường dân sinh” [như báo chí nhà nước nói] mà là con đê của đập trữ nước. Người dân đã đi qua con đường này vào khu vực rừng thông để lấy nhựa thông trái phép được sự tiếp tay của chính quyền. Hướng Tây của con đê này là khu vực Hồ Thủy Tiên thì không có chuyện người dân tự do đi ngang qua khu vực Hồ Thủy Tiên, tiếp cận với “con đường dân sinh” và đi ngang qua làng Kim Sơn. Do đó không có “con đường dân sinh” nào [như báo chí đề cập].

Một sự sai trái của truyền thông [nhà nước khi đưa tin là] làng Kim Sơn có 100 hộ gia đình mà chính xác là làng Kim Sơn chỉ có 27 hộ gia đình. Các hộ gia đình này sống tách biệt hẳn với khu vực ở đây, xung quanh họ có nhiều con đường lớn để đi lại. Nên không có chuyện người dân làng Cư Chánh đi xuyên qua Hồ Thủy Tiên, rồi cắt ngang qua đất của ĐVTA, rồi đến làng Kim Sơn. Do đó không có “con đường dân sinh” nào như báo chí nhà nước nói.

Một khía cạnh khác liên quan đến phương tiện chữa cháy [như báo chí nhà nước đề cập], bản thân tôi ở [Đan viện] được 7 năm, mỗi lần chữa cháy [rừng] thì chính các thầy là người ra chữa cháy đầu tiên, hầu như chữa cháy xong rồi thì họ mới đến, mà mỗi lần đến họ không mang phương tiện gì ngoài những cái bình giống như bình xịt thuốc sâu vậy. Nếu muốn cho xe đặc dụng vào chữa cháy thì xung quanh ĐVTA phải có những con đường lớn để có thể đưa các xe này vào phục vụ cho việc chữa cháy nhưng không có.

Ban truyền thông [tỉnh Thừa Thiên Huế] đại diện cho nhà nước [đưa tin] không chính xác, bịa đặt sẽ mất lòng tin nơi người dân.

Huyền Trang, GNsP: Thưa thầy, cách báo chí nhà nước đưa tin bóp méo sự thật về công việc của các Đan sĩ thì phản ứng của các Đan sĩ như thế nào trước những lời vu cáo này?

Đan sĩ Lui Đặng Duy Hưng: Chúng ta không nên quá ngạc nhiên và bất ngờ về cách đưa tin của các báo đài cộng sản, việc đưa tin [của họ] theo định hướng của nhà nước đã vạch ra, người dân VN hiểu quá rõ về điều này. Tuy nhiên, anh em chúng tôi muốn khẳng định lập trường của mình, phải nói lên sự thật [nên] ba lý do chính yếu Đan viện chúng tôi muốn chia sẻ:

Thứ nhất, tài sản của ĐVTA là tài sản chung của Giáo Hội. Mỗi người Kitô hữu là thành viên của Giáo Hội và các Đan sĩ cũng chính là thành viên của Giáo Hội. Các Đan sĩ đã sống ở đây có trách nhiệm bảo vệ, quản lý tài sản của Giáo Hội. [Khi] bị xâm phạm đến quyền sở hữu đất đai của Đan viện thì anh em chúng tôi lên tiếng bảo vệ quyền chính đáng của Đan viện.

Thứ hai, linh đạo của chúng tôi là “Ora Et Labora” có nghĩa là “Cầu Nguyện và Lao Động”. Trong đời sống cầu nguyện, các Đan sĩ cần có bầu khí thinh lặng là một trong những điều cơ bản và quan trọng nhất để các thầy kết hợp với Chúa trong mọi khoảnh khắc cuộc sống. Về lao động, chúng tôi không được nhà nước trả lương hàng tháng nên chúng tôi phải lao động chân tay thì chúng tôi cần có đất có vườn để canh tác. Đó là lý do chúng tôi quyết tâm đòi lại đất để có đất canh tác và có bầu không khí thinh lặng cầu nguyện.

Thứ ba, quyền tư hữu [đất đai] là quyền cơ bản của người dân Việt Nam nhưng nhà nước phủ nhận quyền này. Chính vì thế rất nhiều bà con bị mất đất, rất nhiều người dân nghèo chạy đôn chạy đáo đi kiện tụng về đất đai, đời sống của họ khá bấp bênh. Các Đan sĩ ĐVTA chúng tôi là những người nghèo của xã hội, muốn góp một chút tiếng nói để nói lên hiện trạng của xã hội Việt Nam ngày hôm nay, lên tiếng bảo vệ người nghèo. Đây chính là một trong những lý do căn bản mà anh em chúng tôi muốn nhắm đến lên tiếng cho Công lý và Sự thật, nói thay cho những người thấp cổ bé miệng, những người nghèo mà đất nước VN chúng ta đang trải qua.

Huyền Trang, GNsP: Thưa thầy, qua các biến cố của Đan viện như các Đan sĩ vừa nêu liên tục bị báo đài nhà nước đưa tin sai sự thật, vu khống các Đan sĩ thì nguyện ước của thầy là gì? Thầy có lời chia sẻ gì đến những người đã, đang và sẽ quan tâm đến vụ việc của ĐVTA?

Đan sĩ Gioan Kim Khẩu – Phạm Đình Hưng: Mong muốn của Đan viện là cái gì của Đan viện thì nên trả lại cho Đan viện, đặc biệt là tài sản, đất đai của Đan viện. Qua phóng sự này, Đan viện xin cám ơn tất cả mọi người đã và đang theo dõi, hiệp thông, chia sẻ và cầu nguyện cho Đan viện trong thời gian qua. Qua đây cũng xin mọi người hiệp ý cầu nguyện và tiếp tục chia sẻ với Đan viện trong những hoàn cảnh khó khăn và cùng với Đan viện lên tiếng bảo vệ Sự thật, bảo vệ tài sản chung của Giáo hội. Đan viện luôn hiệp thông cùng với mọi người đang chịu cảnh áp bức vì Công lý và Sự thật.

Huyền Trang, GNsP: Kính thưa thầy, thầy là một trong những vị cao niên là thế hệ đầu tiên của ĐVTA, thầy đã chứng kiến nhiều biến cố tang thương của Đan viện. Thầy nghĩ như thế nào về việc các Đan sĩ trẻ mạnh mẽ lên tiếng bảo vệ 107 hécta đất-nhà-rừng thông của ĐVTA? Sự lên tiếng này có cần thiết không? Vì sao ạ?

Đan sĩ Stanislas Trần Minh Vọng: Rất cần thiết. Tôn chỉ của ĐVTA, tu luật Thánh Biển Đức là “Ora Et Labora” (tiếng Latinh), “Cầu Nguyện và Lao Động” (Tiếng Việt). Đời sống Đan sĩ chúng tôi có tinh thần biệt thế, xa lìa thế gian, cần có môi trường thinh lặng vì thế chúng tôi cần có môi trường rừng rú xung quanh để giúp chúng tôi cô tịch cầu nguyện.

Chúng tôi có hai hồ nước chính để lao tác cho việc sinh hoạt là giếng nước dưới lòng Hồ Thủy Tiên sâu 12m, dài 14m, ngang 18m và đập Chatađê. Vào năm 1958, Đan viện xây dựng đập Chatađê để có nguồn nước tưới rau, trồng cam, chăn nuôi và nước sinh hoạt hằng ngày. Đan viện cũng xây thêm hai cái đập nhỏ dẫn về Đan viện. Xây dựng hai đập nhỏ để phòng hờ nếu đập lớn Chatađê hết nước thì còn có hai đập nhỏ dự trữ nước. Vào năm 2000, nhà nước lấy hồ nước và trang trại của chúng tôi để xây dựng Khu du lịch Hồ Thủy Tiên.

Nhà nước không được xen vào đời sống riêng tư của chúng tôi, tôi yêu cầu nhà nước tôn trọng nơi cầu nguyện của chúng tôi, nên phải trả lại rừng thông cho chúng tôi để chúng tôi có nơi cầu nguyện. Cầu nguyện không chỉ cho riêng bản thân mà chúng tôi cầu nguyện cho Giáo hội toàn cầu và cho thế giới, cầu nguyện cho đất nước Việt Nam được hòa bình. Chúng tôi yêu cầu nhà nước trả lại Hồ Thủy Tiên do ĐVTA quản lý, phải trả lại đập Chatađê để nhà dòng có nguồn nước sinh hoạt.

Huyền Trang, GNsP: Kính thưa thầy, thầy có lời nhắn nhủ gì đến các Đan sĩ trẻ đang dấn thân bảo vệ Sự thật và Công lý?

Đan sĩ Stanislas Trần Minh Vọng: Chúng tôi mong muốn các Đan sĩ trẻ gìn giữ đất đai của Đan viện cũng như tài sản của Giáo Hội. Tre tàn măng mọc thì tất cả các Đan sĩ tiếp tục gìn giữ, bảo vệ đất của Thiên An.

Huyền Trang, GNsP: Kính thưa quí vị, tuyên truyền dối trá, kích động bạo lực, chống lại Công lý và Sự thật đang diễn ra hàng ngày trên quê hương mà đỉnh điểm hiện nay là ở Giáo xứ Song Ngọc thuộc Giáo phận Vinh và Đan Viện Thiên An. Nhưng Sự thật sẽ sáng tỏ, Công lý sẽ được thực thi một ngày không xa.

Huyền Trang, GNsP

http://www.tinmungchonguoingheo.com/…/dan-si-dan-vien-thie…/

THỰC TRẠNG ĐẤT NƯỚC

From facebook:  Mac Văn Trang‘s post.
Mac Văn Trang

 

THỰC TRẠNG ĐẤT NƯỚC

– Quyền và TIỀN chi phối mọi giá trị xã hội;

– Toàn hệ thống chính trị đều cốt bảo vệ “Chế độ”, đối lập với Nhân Dân; khi người Dân đòi quyền Sống Tự do, Dân chủ, Tự do phát triển… thì bị đàn áp, không tổ chức nào bênh vực. Một số nhóm xã hội được Chế độ ban phát cho chút bổng lộc vật chất (mà chính là tiền của nhân dân) và chút hư danh rẻ tiền, thì ích kỷ, vô cảm trước thảm họa của đất nước;

– Văn hóa, đạo đức, xã hội sẽ còn tiếp tục suy đồi không phương cứu chữa trong thể chế này; hậu quả môi trường và nợ nần khó lường;

– Các nhóm lợi ích đang tác oai, tác quái như các thế lực Maphia, thách thức toàn dân và cả những cải cách của Chính phủ…

– Người dân phải tha hương cầu thực, làm nhiều công việc tủi cực để tự cứu mình trong tình cảnh đầy rủi ro;

Chỉ khi nào, dân ta biết đoàn kết lại đấu tranh ôn hòa, thay đổi thể chế, mới hy vọng làm cho xã hội lành mạnh, đất nước phát triển, văn minh, theo kịp mấy nước … trong khu vực!

MVT

Bị cô lập, người dân Sủng Hoảng liều mình qua dòng lũ

Bị cô lập, người dân Sủng Hoảng liều mình qua dòng lũ

Con đường duy nhất qua thôn Sủng Hoảng bị nước lũ cuốn trôi, người dân liều mình băng qua dòng nước lũ chảy xiết và sâu đến ngực. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

LÀO CAI, Việt Nam (NV) – Con đường tạm qua suối dẫn vào khu tái định cư thôn Sủng Hoảng 2 (xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát, Lào Cai) bị lũ cuốn trôi khiến 35 gia đình bị cô lập, người dân phải liều mình băng qua dòng nước lũ chảy xiết.

Mưa liên tục trong những ngày qua, lũ trên các sông suối tại tỉnh Lào Cai lên nhanh gây sạt lở nhiều tuyến đường. Cụ thể, tại xã Phìn Ngan, huyện Bát Xát, lũ cuốn trôi hoàn toàn con đường tạm duy nhất đi qua suối dẫn vào khu tái định cư thôn Sủng Hoảng 2.

Theo báo Tuổi Trẻ, cho đến chiều 3 Tháng Bảy, 35 gia đình với gần 180 người thuộc thôn Sủng Hoảng 2, xã Phìn Ngan, gần như tách biệt với bên ngoài. Tuy nhiên, bất chấp nguy hiểm, nước sâu đến ngực, người dân vẫn phải băng qua suối để mang hàng hóa, thức ăn, vật dụng… để mưu sinh.

Để có gạo ăn, người dân không còn cách nào khác phải vác từng bao lúa qua dòng nước lũ rồi đi xay thành gạo, rồi lại vác mang về. Mỗi lần đi qua suối, nhiều người phải băng qua dòng nước sâu đến ngực rất khó khăn và nguy hiểm.

Nói với báo Tuổi Trẻ, ông Tẩn Láo Tả, chủ tịch xã Phìn Ngan, cho biết nước lũ vẫn dâng cao nên xã chưa thể làm cầu tre tạm qua suối cho người dân đi lại.(Tr.N)

Hàng loạt ngân hàng ngoại quốc đang rút khỏi Việt Nam

 Hàng loạt ngân hàng ngoại quốc đang rút khỏi Việt Nam

Nguoi-viet.com


Chi nhánh HSBC tại Sài Gòn. HSBC đã quyết định rút khỏi Việt Nam bằng cách chuyển nhượng vốn cho Techcombank. (Hình: Báo Công Thương)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nhiều ngân hàng ngoại quốc đang rút ra khỏi các liên doanh ngân hàng bằng cách chuyển nhượng cổ phần cho những đối tác là ngân hàng phía Việt Nam.

Báo điện tử BizLive vừa công bố thống kê liên quan đến cuộc rút lui tuy lặng lẽ nhưng rất đáng chú ý này.

Theo đó, cuộc rút lui khởi đầu hồi Tháng Ba với Standard Chartered – một tập đoàn ngân hàng đa quốc gia. Vào thời điểm đó, Standard Chartered đột nhiên rút hai đại diện của họ khỏi Hội Đồng Quản Trị của Ngân Hàng Á Châu (ACB).

Tuy Standard Chartered không giải thích tại sao nhưng các chuyên gia tin rằng, động tác vừa kể là sự chuẩn bị cho chuyện rút vốn khỏi ACB – theo luật pháp Việt Nam, đại diện ngân hàng ngoại quốc trong các liên doanh ngân hàng ở Việt Nam phải rời khỏi Hội Đồng Quản Trị của liên doanh trước khi rút vốn 18 tháng. Gần đây, Standard Chartered đã chính thức xác nhận đang thảo luận với ACB về kế hoạch rút vốn ra khỏi ACB.

Đến tháng, ANZ – một ngân hàng của Úc và New Zealand, loan báo toàn bộ mảng dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam (tám chi nhánh và phòng giao dịch) cho chi nhánh Việt Nam của Shinhan – một ngân hàng Nam Hàn. Các chuyên gia dự đoán, vụ chuyển nhượng này sẽ hoàn tất vào cuối năm nay.

Tới giữa Tháng Sáu, trên trang web chính thức, ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank) gửi thông báo xin ý kiến cổ đông để mua lại khoảng 20% cổ phần mà HSBC – một trong những tổ chức tài chính, ngân hàng lớn nhất thế giới đang nắm giữ. Nói cách khác, HSBC đã quyết định rời Việt Nam sau 12 năm hoạt động tại đó.

Mới đây, tới lượt Commonwealth Bank of Australia (CBA) thông báo sẽ hoàn tất việc chuyển giao mọi thứ có liên quan tới mình tại Việt Nam cho ngân hàng Quốc Tế (VIB) trong quý ba này. CBA mở chi nhánh đầu tiên tại Việt Nam hồi năm 2008 và đến 2010 thì góp khoảng 20% vào VIB. CBA là cổ đông lớn nhất của VIB.

Nói với phóng viên báo điện tử BizLive, ông Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia kinh tế, nhận định đó là những dấu hiệu đáng ngại. Chuyện hàng loạt tổ chức tài chính, ngân hàng ngoại quốc lần lượt rút khỏi Việt Nam cho thấy thị trường tài chính Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro và không mang lại lợi nhuận như thiên hạ mong đợi.

Ông nói rằng điều đó khác hoàn toàn với thời điểm cách nay 20 năm. Lúc ấy, các tổ chức tài chính, ngân hàng ngoại quốc thi nhau mở văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam.

Cũng theo lời ông, chuyện các tổ chức tài chính, ngân hàng ngoại quốc rút khỏi Việt Nam đã manh nha trong năm năm vừa qua thông qua việc nhượng lại cổ phần cho một số tổ chức tài chính, ngân hàng Châu Á như Nhật, Nam Hàn, Singapore và các ngân hàng thương mại của Việt Nam.

Ông phỏng đoán, hiện tượng các tổ chức tài chính, ngân hàng ngoại quốc thi nhau rút khỏi Việt Nam chắc chắn có liên quan đến cung cách quản trị ngân hàng tại Việt Nam có quá nhiều khác biệt với chuẩn mực chung, tỉ lệ nợ xấu (nợ có khả năng mất cả vốn lẫn lãi) quá lớn.

Trước đây, chính phủ liên tục trấn an cả Quốc Hội lẫn dân chúng rằng họ đã kiểm soát được nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu tính trên tổng số tiền mà hệ thống ngân hàng cho vay đã giảm đáng kể.

Các báo cáo chính thức về nợ xấu, tổng hợp từ báo cáo của những tổ chức tín dụng tại Việt Nam, xác định, đến hết năm 2015, các tổ chức tín dụng tại Việt Nam đã giải quyết được 493,000 tỷ đồng nợ xấu. Tới hết năm 2016, tỉ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 2.46% tính trên tổng số tiền mà hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đã cho vay.

Đến Tháng Tư vừa qua, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam mới thú thật là tỉ lệ nợ xấu có thể gấp ba lần báo cáo chính thức. Nếu xét cả nợ xấu mà công ty Quản Lý Tài Sản Các Tổ Chức Tín Dụng Việt Nam (VAMC) đang xử lý và những khoản nợ tiềm ẩn rủi ro trở thành nợ xấu thì tỉ lệ nợ xấu xấp xỉ 8.86% tổng số tiền mà hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đã cho vay.

Tháng trước, lúc đề nghị Quốc Hội thông qua “Nghị quyết về xử lý nợ xấu” (ấn định các giải pháp hỗ trợ hệ thống ngân hàng, kể cả sử dụng công quỹ để bù đắp những khoản từng cho vay, giờ gần như không thể thu hồi), chính phủ mới tiết lộ tỉ lệ nợ xấu hiện là… 17.21% tính trên tổng số tiền mà hệ thống ngân hàng tại Việt Nam đã cho vay. Tổng nợ xấu chừng… 600,000 tỷ đồng!

Ai cũng biết, nợ xấu càng cao thì khả năng gặp rủi ro, thậm chí sụp đổ của hệ thống ngân hàng càng lớn. (G.Đ.)

Hơn 30 tổ chức kêu gọi điều tra cái chết của Nguyễn Hữu Tấn

Hơn 30 tổ chức kêu gọi điều tra cái chết của Nguyễn Hữu Tấn


Chị Huỳnh Thị Muội bên cạnh quan tài của chồng, anh Nguyễn Hữu Tấn. Ảnh chụp từ Youtube 108TV Channel.
Chị Huỳnh Thị Muội bên cạnh quan tài của chồng, anh Nguyễn Hữu Tấn. Ảnh chụp từ Youtube 108TV Channel.

Trong thư, các tổ chức kêu gọi Việt Nam chấm dứt đe dọa và sách nhiễu đối với gia đình ông Tấn.

Ông Nguyễn Hữu Tấn bị công an bắt vào ngày 2/5 với cáo buộc “phát tán tài liệu chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam”, vi phạm Điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam.

Ngày hôm sau, công an báo cho gia đình biết ông Tấn đã dùng dao cắt cổ tự sát.

Gia đình nói họ không tin ông Tấn tự tử, mặc dù chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã chiếu cho gia đình xem hai đoạn video, trong đó có một người đàn ông cầm dao tự cắt cổ và chính quyền nói đó là Nguyễn Hữu Tấn.

Tuy nhiên, thư ngỏ của các tổ chức quốc tế dẫn lời ông Nguyễn Hữu Quang, cha của Nguyễn Hữu Tấn, cho biết trong video đầu tiên, người đàn ông cầm dao bằng tay trái tự cắt cổ mình, trong khi Nguyễn Hữu Tấn là người thuận tay phải. Còn người đàn ông tự cắt cổ trong đoạn video thứ hai mà công an chiếu cho gia đình xem lại có động tác khác với người đàn ông trước. Vì vậy, ông nghi ngờ cả hai video đều được ngụy tạo.

Ông Nguyễn Hữu Quang bày tỏ hoài nghi rằng con trai ông có thể đã bị tra tấn và giết chết. Vì sau khi trông thấy những vết thương trên thi thể con, ông Quang cho là khó có khả năng nạn nhân tự gây ra những vết thương này.

Theo thư ngỏ, gia đình ông Tấn đã yêu cầu đưa thi thể ông về nhà để tiến hành khám nghiệm tử thi độc lập, nhưng công an đã giữ thi thể trong nhiều giờ trước khi trả. Khi trả lại, họ đã lau sạch vết máu trên xác ông Tấn và may lại vết đứt trên cổ họng nạn nhân. Ngoài ra, công an cũng phá hủy và tịch thu điện thoại của thân nhân ông Tấn sau khi họ chụp ảnh tử thi.

Dân biểu Chris Smith (trái) và bà Nguyễn Thị Mỹ Phượng, chị ruột của ông Nguyễn Hữu Tấn, tại buổi điều trần ở Hạ viện Hoa Kỳ, ngày 25/5/2017.

Dân biểu Chris Smith (trái) và bà Nguyễn Thị Mỹ Phượng, chị ruột của ông Nguyễn Hữu Tấn, tại buổi điều trần ở Hạ viện Hoa Kỳ, ngày 25/5/2017.

Tại buổi điều trần ở Hạ viện Hoa Kỳ, thân nhân ông Nguyễn Hữu Tấn cho biết gia đình đã phải sống trong sự sợ hãi và hoảng loạn sau cái chết của ông.

Bà Nguyễn Thị Mỹ Phượng, chị ông Tấn, nói công an liên tục gây áp lực và đe dọa gia đình. Theo lời bà Phượng, chính quyền còn dọa sẽ bắt giam anh và em trai ông Tấn.

Trả lời VOA tối 6/7, bà Phượng cho biết ngôi nhà của gia đình ông Tấn đang bị theo dõi bằng nhiều camera gắn ở các nhà hàng xóm xung quanh và rất khó liên lạc bằng điện thoại.

“Họ cài đặt tùm lum, cô lập nhà em. Camera giờ họ đặt đầy nhà, ngang cửa, qua cửa tùm lum, cả chục máy”.

Cùng ký tên trong thư ngỏ có Ủy ban Cứu người Vượt biển, Ủy ban Luật gia Quốc tế, Nhân quyền Không biên giới Quốc tế, Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Á châu và nhiều tổ chức tôn giáo, xã hội dân sự khác.

Giám đốc điều hành của tổ chức Công giáo Đoàn kết Toàn cầu (CSW), Mervyn Thomas, trong bài viết đăng trên trang web của tổ chức, nhận định: “Đây là một trường hợp gây sốc và bi thảm” và “Việc quấy rối các thành viên trong gia đình là phi lý, bất hợp pháp và vô nhân đạo”.

Theo thống kê chính thức của Bộ Công an công bố vào tháng 3/2015, chỉ trong khoảng thời gian 3 năm, từ tháng 10/2011 đến tháng 9/2014, đã xảy ra 226 trường hợp chết tại nhà tạm giữ hay trại tạm giam trên toàn quốc Việt Nam. Bộ Công an lý giải nguyên nhân chủ yếu của các trường hợp tử vong này là do “bệnh lý” và do đối tượng bị tạm giữ, tạm giam “tự sát”.

Đổ gần 1 triệu m3 bùn, cát: Nhìn từ nhiều phía

From facebook:  Thuong Phan shared Hen Tran‘s post.

LẬP LỜ ĐÁNH LẬN CON ĐEN !

Nếu là nạo vét bùn thì lập bãi đổ trên bờ cũng được đâu có ảnh hưởng gì , sao cứ một hai đổ xuống biển . Cách trả lời của bộ TN&MT là không thuyết phục và chúng ta đã nhìn thấy rõ Sau vụ Formosa có thằng đéo nào chịu trách nhiệm đâu .

Nói rõ luôn về tầm nhìn lâu dài khi biển không còn nữa thì đánh bắt cá ở đâu ? Ra khơi hoàng sa, trường sa thì TQ nói biển của họ , qua hải phận nước khác đánh thì họ tóm đầu , làm ăn không ra thì lấy đâu trả lãi NH khi đóng tàu mới đi xa bờ và cuối cùng :

Biển chết , tàu nằm ụ , nợ nần chồng chất, người chết bỏ biển thì biển lúc đó sẽ thuộc về ai ? Trong khi TQ đang hăm he lấy toàn bộ biển đông , họ dùng nhiệt điện, nhà máy thép để tiêu diệt môi trường biển, cho người dân không có con đường mưu sinh và bỏ biển . Vậy thì ở VN ai là người tiếp tay cho TQ thực hiện mưu đồ này . Ai cũng hiểu kể đứa trẻ lên 3 cũng hiểu nhưng lãnh đạo của VN lại không hiểu ….

(PL)- Bộ TN&MT đã khảo sát thêm một số vị trí ra xa nữa. Nhưng mà ngoài đó có những yếu tố khác không thể đáp ứng cho hoạt động nhận chìm. Chẳng hạn sóng, gió, địa chất địa hình…
PLO.VN
 

TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM

From facebook:   Hoa Kim Ngo‘s post.
 
Image may contain: 9 people, crowd and outdoor

Hoa Kim Ngo with Paul Trần Minh Nhật and 8 others.

 

ĐỢT 3 ĐÃ CÓ 10 TỔ CHỨC VÀ 248 NGƯỜI KÝ TÊN . ĐÃ DỊCH RA 4 NGÔN NGỮ: ANH – PHÁP – TRUNG QUỐC- ĐỨC.

*Xin ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ biendongtuyenbo@gmail.com.

TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM
CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM (dịch sang các tiếng Anh, Pháp, Trung và Đức; cập nhật đợt 3: 10 tổ chức, 248 cá nhân ký tên)

Ngày 27 tháng 6 năm 2017

Lần đầu tiên, một lãnh đạo Trung Quốc sang Việt Nam – tướng Phạm Trường Long – đã tuyên bố công khai, trực tiếp với lãnh đạo Việt Nam, rằng “vùng lãnh hải Biển Đông là thuộc chủ quyền Trung Quốc từ thời cổ đại”, điều mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát biểu tại Singapore sau khi rời Việt Nam, mà không dám nói khi còn ở Việt Nam. 

Phạm Trường Long, đại diện lập trường bành trướng của Trung Quốc, đã tiến thêm một bước khiêu khích mới, đe dọa chủ quyền Việt Nam, đồng thời Trung Quốc tiến hành manh động gây hấn ở lãnh hải và một số điểm trên đất liền của Việt Nam.
Dù yêu chuộng hòa bình hữu nghị, và đã từng trải qua chiến tranh, nhân dân Việt Nam không sợ hãi và kiên quyết chống lại cuộc xâm lấn của nhà cầm quyền Bắc Kinh, như đã từng thể hiện qua lịch sử mấy ngàn năm chống giặc Tàu xâm lược. 
Chúng tôi, các công dân Việt Nam và các hội đoàn xã hội dân sự Việt Nam, long trọng tuyên bố:

1) Phản bác và lên án các hành vi xâm lược lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang diễn ra. Dù bất cứ tình huống nào, sự đánh trả của nhân dân Việt Nam để bảo vệ đất nước là tất yếu. 

2) Nhân dân Việt Nam đồng lòng, đoàn kết, gác bỏ mọi khác biệt và ủng hộ tất cả các Nhà nước của Quốc gia Việt Nam ở mọi thời kỳ, trong cùng lập trường bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi hành động xâm lược. 

– Tại Hội nghị quốc tế San Francisco – Mỹ, 1951, Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộc Việt Nam, và được hội nghị công nhận. 

– Chính phủ VNCH (Miền Nam), 1974, đã chiến đấu quyết liệt chống quân Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, tuy thất bại nhưng tinh thần không khuất phục. 

– Chính phủ CHXHCN Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước, dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn 1979 đã tiến hành cuộc đánh trả oanh liệt cuộc xâm lăng 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam. Tuy Việt Nam chưa giành lại được 6 đảo ở Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa còn bị Bắc Kinh chiếm đóng, nhưng năm 2011 trước Quốc hội Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa và Trường Sa.

Chính phủ Việt Nam cũng có những tuyên bố khác có nội dung thống nhất như trên. Và Quốc hội Việt Nam đã công khai thừa nhận là Việt Nam chưa hoàn thành nhiệm vụ lịch sử khôi phục sự toàn vẹn lãnh thổ.

Lập trường của nhân dân Việt Nam và sự nhất quán của các Chính phủ của Quốc gia Việt Nam đã rõ ràng trong suốt chiều dài lịch sử. Tham vọng ngông cuồng, lạc thời đại của bè lũ Bành trướng Tập Cận Bình – Phạm Trường Long không tránh khỏi sự thất bại thảm hại.

3) Nhân dân Việt Nam luôn ghi nhận và tri ân các thế hệ quân đội thuộc các thời kỳ, đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc, để chống các loại giặc ngoại xâm bất cứ từ đâu đến và dưới màu sắc nào. 

4) Cải thiện nội trị là điều khẩn thiết để có nội lực hùng mạnh bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Các tầng lớp nhân dân đang phấn khích, ủng hộ và theo dõi xu thế làm trong sạch bộ máy nhà nước, và cải tổ về mọi lãnh vực: kinh tế, y tế, giáo dục, quốc phòng, tư pháp. Đặc biệt, canh tân quân đội, từ bỏ sự sa đà vào lợi ích nhóm bất chính, chấn chỉnh hệ thống hành chánh quan liêu, diệt trừ tham nhũng. Và quan trọng hơn hết là từ bỏ hệ tư tưởng lạc hậu ảo tưởng, sửa Điều 4 Hiến pháp nhằm hiệu chính vai trò của Quốc hội, tăng cường sức mạnh đoàn kết của nhân dân, thực thi nền dân chủ cho kịp đà tiến của thời đại. 

Tổ quốc là trên hết, gác lại quá khứ, chấp nhận khác biệt. 

Chúng tôi kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự, các thành viên trong bộ máy nhà nước, cùng đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, ủng hộ tuyên bố này.
Chúng tôi kêu gọi nhân dân các nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam theo công ước quốc tế, góp phần bảo dưỡng môi trường tài nguyên vùng biển, đảm bảo tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.

Xin ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ biendongtuyenbo@gmail.com.

Chinese version
越南公民及民间组织关于越南水域与岛屿主权之声明
胡志明市六月27/6/2017

日前,中国共产党中央军事委员会副主席范长龙访问越南时竟对河内越南领导人发表如下声明:“南中国海诸岛自古以来属于中国”。即使是中国国家主席习近平也不敢在越南如此造次,他是在离开我国后于新加坡才发表了类似言论。
作为中国霸权主义的代表之一,范长龙在挑衅和威胁越南主权方面迈出新的危险的一步。与此同时,中国正在蓄谋攻击越南大陆架部分地区和越南部分国土。
即使历经诸次战争,但依旧热爱和平与友谊!不过,越南人民将万众一心坚决反对中国领导人所进行的各种侵略行为,千年历史也不断证明越南人民具有坚定抵制中国侵略的顽强意志和能力。
我们,越南公民及民间组织在此作出以下庄严声明:
1.我们反对和谴责目前北京领导人对越南水域和领土所进行的语言侵略行为。在任何情况下,我们都将为维护国家主权而进行斗争,这是毋庸置疑的!
2.越南人民团结一致,放下内部矛盾,支持在历史上所有时代为维护越南主权而进行斗争的越南政府。
– 1951年,在美国旧金山举办的国际会议上,越南共和国(南越)总理陈文有发表声明,明确黄沙群岛与长沙群岛归属越南,并且得到所有与会代表的支持和大会公认。
– 1974年,越南共和国(南越)在黄沙进行了一场英勇反击中国侵略之战,虽没有成功,但其不屈精神将被世代铭记。
– 1979年,在南北统一之后,越南社会主义共和国在总书记黎笋的领导下,顽强抵制中国在北越与中国接壤的6省所进行的侵略。
迄今为止,黄沙群岛和长沙群岛中的六座岛屿仍被中国占领,但2011年越南总理阮晋勇在国民议会前已明确越南在黄沙群岛与长沙群岛的权利。随后的各种声明都不断强调了这一立场。此外,国民议会已正式承认越南尚未完成恢复完整领土的历史责任。
越南人民及历届越南政府在领土问题上的立场将不会不变。习近平 – 范长龙之妄想与不明形势的野心肯定会遭到挫败!
3.无论隶属何派, 越南人民对为抵抗外来势力侵略、维护祖国完整领土而斗争与牺牲的历代军队表示诚挚的感谢与永久的怀念!
4.内部团结是加强国防军队力量、抵抗外侵的必要条件。越南人民在不同层面热切关注和坚定支持国家政策、经济体制、卫生体制、国民教育、国防、司法等方面的改革与透明化进程。尤其是军队改革,革除特殊利益团体,重组内部体制,清理腐败。其重中之重乃是放弃不切实际的幻想,摒弃落后的意识形态,修改宪法第四条,恢复国民议会的权利,加强民族团结,实现民主,赶上时代。
我们在此大声呼吁:请以国为先,大局为重,搁置历史遗留,求同存异!
我们恳请全体群众、民间社会团体,国家机关成员以及生活在越南境外的越南同胞,支持这份正义的声明。
我们还呼吁世界各国支持我们进行按照国际法维护越南主权、保护环境、保护自然资源、保障南中国海海域及空域自由航行的正义斗争。
如果您支持这些声明,请通过以下电子邮件地址提供您的联系信息(姓氏和名字,职业,居住地点)biendongtuyenbo@gmail.com.
Deutsche Version

ERKLÄRUNG VON BÜRGERN UND ZIVILGESELLSCHAFTLICHEN ORGANISATIONEN VIETNAMS ÜBER DIE HOHEITLICHE SOUVERÄNITÄT ÜBER VIETNAMESISCHE GEWÄSSER UND INSELN

Ho-Chi-Minh-Stadt, den 27. Juni 2017

Anläßlich eines Staatsbesuchs in Vietnam hat ein chinesischer Staatsmann, General Fan Changlong, zum ersten Mal gegenüber der vietnamesischen Staatsführung offiziell erklärt, dass “das Ostmeer seit Altertum zu China” gehöre. Das war eine Aussage, die nicht einmal der chinesische Präsident Xi Jinping in Vietnam auszusprechen wagte, sondern erst im Anschluss in Singapur, nachdem er Vietnam verlassen hatte.
Als Vertreter der chinesischen Expansionspolitik machte Fan Changlong einen neuen Schritt in Richtung Provokation und Drohung gegen die vietnamesische Souveränität. Gleichzeitig greift China an verschiedenen Orten im Meeres- und im Landesgebiet Vietnams an.
Das fried- und Freundschaft liebende, kriegsleidgeprüfte Volk Vietnams ist furchtlos und entschlossen, auf diese Expansion der chinesischen Machthaber zu antworten, was sich in der tausendjährigen Geschichte des Widerstands gegen die chinesische Aggression mehrfach bewährt hat.
Wir, die Bürger und zivilgesellschaftlichen Organisationen Vietnams, erklären hiermit feierlich:
1. Wir protestieren und verurteilen die gegenwärtigen aggressiven Aktivitäten der Pekinger Machthaber zu Wasser und zu Lande gegen Vietnam. Ein Antwort unsererseits zur Verteidigung des Landes wird unter allen Umständen erfolgen.
2. Zu jeder Zeit und über alle Differenzen hinweg steht das vietnamesische Volk einträchtig hinter allen Regierungen Vietnams im Kampf um die nationale Souveränität und gegen die Aggressoren.
– Auf der Friedenskonferenz von San Francisco im Jahr 1951 bekräftigte Trần Văn Hữu, Ministerpräsident der Republik Vietnam, die Position, dass die Paracel- und Spratly-Inselgruppe zu Vietnam gehören, und fand Anerkennung von der Konferenz.
– Die Republik Vietnam führte 1974 einen unbeugsamen, jedoch erfolglosen Kampf gegen die Annexion der Paracel-Inseln durch China.
– Nach der Wiedervereinigung hat die Sozialistische Republik Vietnam unter Generalsekretär Lê Duẩn im Jahr 1979 einen heldenhaften Verteidigungskrieg gegen den chinesischen Überfall auf 6 nördliche Provinzen geführt. Obwohl die 6 Paracel- und Spratly-Inseln noch immer von China annektiert sind, bekräftigte Premierminister Nguyễn Tấn Dũng im Jahr 2011 vor der Nationalversammlung die Hoheitsrechte Vietnams über die Paracel- und Spratly-Inselgruppe. Diesen Standpunkt bestätigt später die vietnamesische Regierung in verschiedenen Erklärungen. Auch die Nationalversammlung gibt offiziell zu, dass Vietnam immer noch unter seiner geschichtlichen Schuldigkeit zur Wiederherstellung der territorialen Integrität leidet.
Der Standpunkt des vietnamesischen Volkes und die andauernd konsequente Position respektiver Regierungen ist von historischer Konstanz. Der größenwahnsinnigen, zeitentrückten Begierde von den Expansionisten Xi Jinping, Fan Changlong und ihren Lakaien wird eine jämmerliche Abfuhr widerfahren.
3. Stets anerkennt das vietnamesische Volk in Dankbarkeit die Aufopferung der Armeen unterschiedlicher Zeiten, die das Vaterland gegen die Aggressoren gleich woher und unter welcher Flagge verteidigen.
4. Um die Verteidigungskräfte des Landes gegen Aggressionen zu verstärken, ist eine innenpolitische Konsolidierung unaufschiebbar. Alle vietnamesischen Bevölkerungsschichten beobachten gespannt und unterstützen die Bemühungen um die Säuberung des Staatsapparates und die Reformen in allen Bereichen wie Wirtschaft, Gesundheits- und Bildungswesen, Landesverteidigung, Rechtssystem, insbesondere die Neugestaltung der Armee, die Beseitigung irregulärer Gruppeninteressen, die Reorganisation des bürokratischen Verwaltungssystems, die Bekämpfung der Korruption. Vor allem geht es um die Überwindung der rückständigen, illusorischen Ideologie, die Überholung des Artikels 4 der Verfassung, um dadurch die Rolle der Nationalversammlung zu rektifizieren, die nationale Eintracht zu steigern und die Demokratie mit der zeitgemäßen Entwicklung Schritt halten zu lassen.
Vaterland über alles – in diesem Sinne lassen wir die Vergangenheit beiseite und akzeptieren die Differenzen.
Wir appellieren an alle Bevölkerungsschichten, zivilgesellschaftlichen Organisationen, Personen der Staatsorgane und Auslandsvietnamesen, dass Sie diese Erklärungen unterstützen.
Wir appellieren an die Menschen aller Länder, dass Sie unseren gerechten Kampf für die Verteidigung der nationalen Souveränität im Einklang mit dem Völkerrecht, für den Schutz der Ressourcen aus dem Meer, für die Sicherung freier See- und Luftwege durch das Ostmeer unterstützen.
Unterstützen Sie diese Erklärungen mit Ihrer Unterschrift per E-Mail anbiendongtuyenbo@gmail.com

DANH SÁCH KÝ TÊN
I. Hội đoàn tổ chức xã hội dân sự

Đợt 1
1. Ban Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam do nhà văn Nguyên Ngọc đại diện
2. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng do ông Lê Thân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ, đại diện
3. Diễn đàn Xã hội Dân sự do TS Nguyễn Quang A đại diện
4. Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện
5. Mạng lưới Các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập (Vietnam Independent Civil Society Organizations – VICSON) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện 
6. Câu lạc bộ Phan Tây Hồ do TS Hà Sĩ Phu và cán bộ cộng sản Tiền khởi nghĩa Đoàn Nhật Hồng đại diện
7. Diễn đàn Bauxite Việt Nam do GS Phạm Xuân Yêm và GS Nguyễn Huệ Chi đại diện
Đợt 2
8. Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada do ông Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên đại diện
9. Ban Hỗ Trợ Nạn Nhân Ô Nhiễm Biển Môi Trường Biển Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh Mục Giuse Phan Sĩ Phương, Trưởng ban
10. Ban Công Lý và Hòa Bình Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh mục Ant Nguyễn Văn Đính, Trưởng ban

II. Cá nhân
Đợt 1
1. Nguyễn Quang A, TSKH, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Hồ An, nhà báo, Sài Gòn
3. Vũ Hồng Ánh, nghệ sĩ, Sài Gòn 
4. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu độc lập, Hà Nội
5. Nguyễn Trọng Bách, kỹ sư động lực, Nam Định
6. Trần Văn Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống Trung Quốc xâm lược, Sài Gòn
7. Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, Hà Nội
8. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
9. Nguyễn Huệ Chi, GS, hưu trí, Hà Nội
10. Nguyễn Kim Chi, nghệ sĩ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
11. Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, Hoa Kỳ
12. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, Sài Gòn
13. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
14. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Sài Gòn
15. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, Sài Gòn 
16. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
17. Hoàng Dũng, PGS TS, Sài Gòn
18. Nguyễn Duy, nhà thơ, Sài Gòn
19. Lê Công Định, luật sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
20. Trần Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội
21. Phạm Nam Hải, Hà Nội
22. Nguyễn Trần Hải, cựu sĩ quan Hải quân Nhân dân Việt Nam, Hải Phòng
23. Chu Hảo, Viện trưởng Viện Phan Châu Trinh, Hội An, Quảng Nam
24. Đặng Thị Hảo, TS, hưu trí, Hà Nội
25. Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
26. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp 
27. Bùi Hiền, nhà thơ, Canada
28. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo tự do, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
29. Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Lâm Đồng, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
30. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
31. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
32. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège, Bỉ, cư ngụ tại Sài Gòn
33. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, Sài Gòn
34. Đoàn Thị Thu Hương, nội trợ, Sài Gòn 
35. Lê Phú Khải, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
36. Lê Xuân Khoa, GS, Hoa Kỳ
37. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
38. Lê Khánh Luận, tiến sĩ toán, nhà thơ, nguyên GV ĐH KT Tp.HCM
39. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
40. André Menras – Hồ Cương Quyết, nhà giáo Pháp-Việt, Pháp
41. Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn
42. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
43. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
44. Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia
45. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí Đà Lạt, Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
46. Ý Nhi, nhà thơ, Sài Gòn
47. Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, dân biểu đối lập thời VNCH, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
48. Phan Hoàng Oanh, giảng viên đại học, Sài Gòn 
49. Bùi Oanh, giáo viên, đã nghỉ hưu, Sài Gòn 
50. Hà Sĩ Phu, TS, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
51. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An
52. Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
53. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
54. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang 
55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, Sài Gòn
56. Phạm Thành, nhà báo, nhà văn, Hà Nội
57. Trần Minh Thảo, viết văn, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Bảo Lộc, Lâm Đồng
58. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
59. Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
60. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
61. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM
62. Đoàn Văn Tiết, nhà giáo, Sài Gòn
63. Mạc Văn Trang, tiến sĩ tâm lý học, Hà Nội
64. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí, Sài Gòn 
65. David Tran, GS, Hoa Kỳ
66. Phạm Đình Trọng, nhà văn, Sài Gòn
67. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu
68. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Praha, Czech
69. Hà Quang Vinh, hưu trí, Sài Gòn
70. Nguyễn Ngọc Xuân, làm vườn, đã nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu
71. Phạm Xuân Yêm, GS, hưu trí, Paris
Đợt 2
72. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, Sài Gòn.
73. Hạ Đình Nguyên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
74. Cao Lập, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
75. Lê Anh Hùng, nhà báo tự do, Hà Nội
76. Đoàn Đức Phương, giáo viên, Sài Gòn
77. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội
78. Nguyễn Thu Giang, hưu trí, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh
79. Phạm Hữu Tình, luật sư, Bình Dương.
80. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư Điện, Khánh Hòa.
81. Bùi Thị Minh Hằng, cựu tù nhân lương tâm, Vũng Tàu
82. Phạm Khiêm Ích, nghiên cứu khoa học, Hà Nội
83. Lê Tuấn Huy, TS, TPHCM
84. Nguyễn Thế Hùng, GSTS, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
85. Nguyễn Văn Đức, lao động tự do, Sài Gòn
86. Nguyễn Ngọc Dũng, công dân Việt Nam, TPHCM
87. Đinh An, kỹ sư Chế tạo máy, Hà Nội
88. Nguyễn Văn Tiên, kỹ sư Tư vấn Môi trường, Bình Dương
89. Vinh Anh, cựu chiến binh, Hà Nội
90. Mã Lam, Nhà thơ, Sài Gòn
91. Nguyễn Lệ Uyên, nhà văn, Sài Gòn
92. Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
93. Nguyễn Thượng Long, giáo viên hưu trí, Hà Nội
94. Bùi Minh Quốc, nhà báo, Đà Lạt
95. Hồ Quang Huy, kỹ sư đường sắt CTCP đường sắt Phú Khánh, TP Nha Trang
96. Nguyễn Văn Lượm, nghề nghiệp tự do, TP Nha Trang
97. Chu Sơn, công dân Việt Nam, TPHCM
98. Nguyễn Thị Kim Thoa, công dân Việt Nam, TPHCM
99. Nguyễn Văn Sơn (Son Nguyen), về hưu, Hoa Kỳ
100. Huỳnh Nhật Hải, hưu trí, Đà Lạt
101. Huỳnh Nhật Tấn, hưu trí, Đà Lạt
102. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
103. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
104. Hoàng Ngọc Đính, cựu sĩ quan QLVNCH, Đà Lạt
105. Đào Minh Châu, Hà Nội
106. Nguyễn Lạc, doanh nhân, Hội Sinh viên Sài Gòn Gia Định
107. Nguyễn Tiến Đức, nghỉ hưu tại TPHCM
108. Nguyễn Trọng Cương, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
109. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
110. Đồng Quang Vinh, hưu trí, Nha Trang, Khánh Hòa
111. Phạm Minh Đức, kỹ sư Cơ khí, Hà Nội
112. Nguyễn Đào Trường, hưu trí, Hải Dương
113. Nguyễn Văn Lịch, hưu trí, Hà Nội
114. Hoàng Quý Thân, PGSTS, hưu trí, Hà Nội
115. Phạm Văn Chung, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
116. Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư, nghỉ hưu, Hamburg, CHLB Đức
117. Trần Thế Tuấn, Đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội
118. Ngô Kim Dung, bác sĩ, Pháp
119. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ
120. Phạm Vương Ánh, kỹ sư Kinh tế, cựu sĩ quan QĐNDVN, Nghệ An 
121. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TPHCM
122. Lê Quỳnh, nhà báo, Sài Gòn
123. Nguyễn Huy Canh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng
124. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội xuất ngũ, Hà Nội
125. Tô Oanh, giáo viên đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang
126. Nguyễn Văn Hồng, giáo viên đã nghỉ hưu, Bắc Ninh
127. Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM
128. Lê Văn Ngọ, cán bộ hưu trí tại Nha Trang
129. Uông Đình Đức, hưu trí, TPHCM
130. Phan Châu Danh, thạc sĩ Quản lý Kinh doanh & Quản lý Chất lượng, kinh doanh tự do tại Bỉ
131. Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ, Canada
132. Lý Đăng Thạnh, Người chép Sử, Sài Gòn
133. Trần Minh Quốc, nguyên giáo sư chuyên khoa Sử-Địa trước năm 1975, Sài Gòn
134. Trương Thế Kỷ, München, CHLB Đức
135. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia
136. Hoàng Thanh Linh, thạc sĩ, Sài Gòn
137. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Pháp
138. Trần Văn Hoàng, Canada
139. Nguyễn Văn Nghi, TS, Hà Nội
140. Lê Mai Đậu, kỹ sư, Hà Nội
141. Phan Văn Quý, kiến trúc sư, Sài Gòn 
142. Nguyễn Diễm Quyên, kinh doanh, TPHCM
143. Đỗ Quốc Minh, Thủ Đức, Sài Gòn
144. Nguyễn Thị Xuyến, Bình Dương
145. Ngô Trường Hải, Buôn Ma Thuột
146. Huỳnh Thanh Thương, công dân Việt Nam, Sài Gòn
147. Trần Đình Sử, GSTS, Hà Nội
148. Nguyễn Phúc Thành, dịch giả, Sài Gòn
149. Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội
150. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, An Giang
151. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk
152. Lê Phước Nhất Sang, kế toán, Sài Gòn
153. Trần Đình Tuấn, nghiên cứu văn hoá dân gian độc lập, Hà Nội
154. Hà Thúc Huy, PGSTS Hóa học, Sài Gòn
155. Vũ Ngọc Lân, kỹ sư Luyện kim, Hà Nội
156. Trần Quốc Túy, kỹ sư Hóa, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
157. Anh N Tran, giáo chức, hưu trí, Hoa Kỳ
158. Bùi Hồng Mạnh, biên dịch tự do, cử nhân Hóa học, cựu sĩ quan “79”, QĐNDVN, Munich, CHLB Đức
159. Lê Hải, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Đà Nẵng
160. Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang 
161. Lê Thăng Long, kỹ sư, doanh nhân, Sài Gòn
162. Tống Hồ Huấn, Mục sư nhà thờ, Auckland, New Zealand
163. Nguyễn Thu Hoà, kế toán viên, Auckland, New Zealand
164. Nguyễn Rose Hồng, Truyền đạo Hội Thánh Elim, Auckland, New Zealand
165. Nguyễn Khánh Việt, cán bộ hưu trí, Hà Nội
166. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TPHCM
167. Jane Nguyen, Hoa Kỳ
168. Hồ Hữu Nghị, kỹ sư dự án, TPHCM
169. Hồ Sĩ Phú, kỹ sư cơ khí, Quy Nhơn
170. Hồ Trọng Đễ, giáo viên nghỉ hưu, TPHCM
171. Trần Đình Sơn, giảng viên Toán, Anh Quốc
172. Uông-Nguyễn Thị Xuân Hương, Thụy Sĩ
173. Tư Đồ Tuệ, Canada
174. Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada
175. Bùi Tiến An, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
176. Thiều Thị Tân, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
177. Nguyễn Thúy Hạnh, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
178. Ant. Nguyễn Thanh Tịnh, Linh mục quản xứ Cồn Sẻ, Giáo phận Vinh.
179. Giuse Phan Sĩ Phương, Linh mục quản hạt Cửa Lò, Giáo phận Vinh
180. Giuse Nguyễn Công Bắc, Linh mục quản hạt Cầu Rầm, Giáo phận Vinh
181. Ant. Nguyễn Văn Đính, Linh mục quản hạt Thuận Nghĩa, Giáo phận Vinh
182. GB. Bùi Khiêm Cường, Linh mục quản xứ Đông Sơn, Giáo phận Vinh
183. GB. Nguyễn Đình Thục, Linh mục quản xứ Song Ngọc, Giáo phận Vinh
Đợt 3
184. Đặng Hữu Nam, Linh mục Giáo phận Vinh
185. Paul Nguyễn Minh Sáng, Linh mục Giáo xứ Phù Kinh, Giáo phận Vinh
186. Fx. Nguyễn Hồng Ân, Linh mục Giáo phận Vinh 
187. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TP HCM, Chủ tịch danh dự CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
188. Lê Công Giàu, hưu trí, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
189. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước năm 75, cựu ủy viên MTTQ TP HCM, cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
190. Liệt Kha, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
191. Nguyễn Phục Hưng, kỹ sư Điện, TPHCM
192. Vũ Giang, Hoa Kỳ
193. Nghiêm Hồng Sơn, nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Công nghệ Queensland, Australia
194. Trương Chí Tâm, cựu chiến binh chiến trường Campuchia, cử nhân y khoa, Sài Gòn
195. Lê Thị Lệ Hằng, nội trợ, Sài Gòn
196. Triệu Sang, thương phế binh VNCH, Sóc Trăng
197. Nguyễn Ngọc Tâm, kinh doanh tự do, Nghi Lộc, Nghệ An
198. Lê Thị Kiều Oanh, Sài Gòn
199. Nguyễn Văn Trợ, TPHCM
200. Hồ Sỹ Hải, cựu chiến binh, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội
201. Đaminh Lê Thanh Trưởng, Linh mục Giáo phận Xuân Lộc
202. Phê rô Nguyễn Đức Manh, sinh viên Đại học Huế, Quảng Bình
203. Phê rô Nguyễn Đạo, sinh viên Đại học Đà Nẵng, Quảng Bình
204. Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
205. Trần Kim Thập, giáo chức, Australia 
206. Hanh.M.Tran, Australia
207. Chi To, Australia
208. May Dang, Australia
209. Thao Nguyen, Australia
210. Hoa Nguyen, Australia
211. Jane Pham, Australia
212. Jasmine Tran, Pháp
213. Tallys Tran, Pháp
214. Trần Quốc Hùng, TPHCM
215. Nguyễn Ngọc Tâm, Giáo xứ Trang Cảnh, hạt Cửa Lò, Giáo phận Vinh
216. Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh Hoá học, Thụy Sĩ
217. Phạm Ngọc Kỳ, TS, kiến trúc sư, Berlin, CHLB Đức
218. Trần Văn Tân, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
219. Đặng Quốc Tuấn, lao động tự do, Hà Nội
220. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, Sài Gòn
221. Chu Quốc Khánh, kỹ sư Điện tử, cử nhân Kinh tế, Hà Nội
222. Hoàng Minh Cảnh, Quảng Bình
223. Nguyễn Duy Oai, giáo dân giáo xứ Trang Nứa, Giáo phận Vinh
224. Nguyễn Đăng Cao Đại, Th.sĩ Quản lý Dự án, Sài Gòn 
225. Võ Trường Phú, kỹ sư Xây dựng, Hà Tĩnh
226. Nguyễn Tiến Đạt, hỗ trợ kỹ thuật FPT, Sài Gòn
227. Vinh Nguyễn, Hoa Kỳ
228. Kimdzung Nguyễn, Hoa Kỳ
229. Trần Xuân Huyền, công dân tự do, Anh Quốc
230. Nguyễn Peng, công tác xã hội, Sài Gòn
231. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italy
232. Lê Đình Hồng, kế toán, Canada
233. Lê Thị Nhân, nội trợ, Canada
234. Phan Văn Song, cựu giáo viên, Australia
235. Phạm Anh Tuấn, kỹ sư, Australia
236. Tri Nguyen, Australia
237. Kim Anh Hoang, Australia
238. Nguyễn Sỹ Kiệt, TS Khoa học Kỹ thuật, cán bộ hưu trí, T HCM
239. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên thư ký Bí thư Thành ủy TPHCM Mai Chí Thọ, hưu trí, Sài Gòn
240. Lê Kim-Song, TS, Australia
241. Nguyễn Thị Hạnh, hưu trí, TpHCM.
242. Lê Văn Oanh, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
243. Vu Dinh Bon, TS, kỹ sư Công chánh, Hoa Kỳ
244. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
245. Phạm Ngọc Thái, nhà thơ, Hà Nội
246. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội
247. Vũ Trọng Khải, chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, TPHCM
248. Paul Trần Minh Nhật, cựu tù nhân lương tâm, Đà Lạt, Lâm Đồng

Tranh cãi việc đổ 1 triệu m3 bùn cát gần Hòn Cau – BBC Tiếng Việt

From facebook:  BBC Vietnamese

 
 

Hôm 4/7, Thứ trưởng Bộ TNMT Nguyễn Linh Ngọc đã giải thích với báo chí về quyết định cấp phép hôm 28/6 cho phép Nhiệt điện Vĩnh Tân đổ 1 triệu m3 bùn cát nạo vét xuống lòng biển.

Việc nhận chìm khối lượng lớn chất nạo vét để xây dựng một nhà máy nhiệt điện than do Trung Quốc đầu tư gây xôn xao dư luận, vì khu vực nhận chìm bùn cát nạo vét gần khu bảo tồn biển Hòn Cau.

Tuy nhiên tiến sĩ Nguyễn Tác An, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam cho rằng những lời giải thích của thứ trưởng là “không khoa học,” “không hiểu gì về sự sống ở đại dương.”

 
 
 
 
Ý kiến trái chiều về tin Việt Nam cấp phép cho công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 đổ khối lượng lớn bùn cát xuống biển.
 
BBC.COM|BY BBC NEWS
 

Nhờ ánh sáng của bạo lực cắt mạng và “ơn bác, ơn đảng” chúng cháu chém rơi đầu nhau

 Nhờ ánh sáng của bạo lực cắt mạng và “ơn bác, ơn đảng” chúng cháu chém rơi đầu nhau

Dân Đen (Danlambao) – Tổ chức khủng bố hồi giáo tại các nước Ả Rập đã và đang là mối kinh hoàng của cả thế giới. Những kẻ khủng bố gieo rắc nỗi sợ bằng những đợt đánh bom cảm tử hoặc những cuộc tấn công man rợ nhắm vào nơi đông người. Nhưng có lẽ ghê rợn nhất trong cách mà tổ chức khủng bố áp dụng là việc hành hình nạn nhân bằng cách chặt đầu. Hành vi khủng khiếp ấy tưởng chừng chỉ xảy ra tại những nơi mà tổ chức khủng bố chiếm giữ để sát hại các con tin của chúng. Tuy nhiên hành vi khủng khiếp ấy lại được thực hiện ngay tại một đất nước luôn tự huyễn hoặc là thiên đường, là một quốc gia hạnh phúc, là một dân tộc ngàn năm văn hiến. Đó chính là Việt Nam đang bị làm cái đuôi cho cái “thiên đường” cộng hòa xã hội chủ nghĩa.

Chắc chắn không ít người cảm thấy rùng mình khi đọc bản tin “kinh hoàng nam thanh niên bị chém lìa đầu trong đêm” được đăng tải trên các trang báo trong nước. Việc này được nhận định là một cuộc ẩu đả sau những mâu thuẫn cá nhân của một số thanh niên trên địa bản tỉnh Vĩnh Phúc. Tình tiết của sự việc đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về tương quan hành xử giữa con người với nhau. Đây chắc chắn không phải là một vụ thanh toán được sắp đặt hay lên kế hoạch hành động, nó chỉ đơn giản là cách xử lý một vụ mâu thuẫn cá nhân. Tuy nhiên hành động chém lìa đầu một người không phải là việc làm dễ dàng ngay cả đối với những sát thủ chuyên nghiệp.

Điều đáng suy nghĩ ở đây là tại sao con người Việt Nam ngày càng trở nên tàn ác đối với đồng loại. Những thông tin về các vụ án cướp, giết, hiếp vẫn đầy dẫy trên các trang báo của nhà nước, nhưng các chuyên gia tâm lý cũng khó có thể lý giải nguyên nhân tại sao người Việt ngày nay lại có những hành động đáng ghê sợ như thế. Phải chăng người dân Việt Nam đang chọn cho mình một lối sống theo xu hướng bạo lực để tự vệ trước tất cả sự việc ảnh hưởng đến bản thân.

Một ông phó giáo sư tiến sĩ nọ thản nhiên cầm gạch đập vỡ kính xe ô tô của người lạ dám đậu xe trước sân nhà mình. Hai cán bộ đảng viên kia sẵn sàng choảng nhau đổ máu ngay chốn công sở cơ thi hành luật pháp. Ba, bốn học sinh ấy thay nhau đánh đập, lột đồ bạn học, quay clip tung lên mạng chỉ vì “mày dám thích bạn trai của tao”. Và các “đồng chí” lạnh lùng bắn vào đầu “đồng bọn” cùng đảng tại Yên Bái vì tranh giành quyền lực, ghen tức lẫn nhau.

Đã hơn 40 năm đất nước “thống nhất” dưới sự độc tôn cướp quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, những hình ảnh con người ngày nay chém giết, hãm hại nhau lại trở nên phổ biến trong cuộc sống hằng ngày. Không ai khác, chính đảng cộng sản với chủ trương bạo lực cách mạng, với nền giáo dục nhồi sọ lòng căm thù, với bộ máy tuyên truyền sặc mùi giáo Mác và mủi Lê, những thế hệ Việt Nam đã sinh ra và lớn lên trong cái địa ngục cộng sản được tuyên truyền là thiên đàng, đã bị đảng làm mất hết nhân tính. “Nhìn tổng quan đất nước mình có bao giờ được như thế này”. Câu nói này của tổng bí thư cộng sản đảng Nguyễn Phú Trọng có lẽ là câu trả lời xác đáng nhất cho hiện trạng đất nước ngày nay mà người dân đang sống ngập ngụa trong dối trá và dã man là nhờ ở “ơn bác, ơn đảng” và “truyền thống bạo lực cắt mạng”.

04.07.2017

Dân Đen

danlambaovn.blogspot.com

Ẩu đả, một thanh niên ở Vĩnh Phúc bị chém đứt đầu

Ẩu đả, một thanh niên ở Vĩnh Phúc bị chém đứt đầu

Ông Nguyễn Sơn Hà, người chứng kiến vụ việc, chia sẻ với phóng viên. (Hình: Báo điện tử VietNamNet)

VĨNH PHÚC, Việt Nam (NV) – Trong đêm, nhiều người dân ở thị trấn Hương Canh (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) bàng hoàng khi phát hiện một nam thanh niên bị chém đứt lìa đầu sau trận ẩu đả.

Ông Đỗ Thái Học, chánh văn phòng công an tỉnh Vĩnh Phúc, xác nhận công an đã bắt giữ nhóm người chém chết ông Nguyễn Minh Toàn (26 tuổi, trú ở thị trấn Hương Canh).

Tư tưởng của giới luật sư lại bị “siết”?

Tư tưởng của giới luật sư lại bị “siết”?

Cát Linh, RFA
 

Việc thông qua Điều 19, Luật sư tố cáo thân chủ, vẫn còn đang tạo nên làn sóng tranh cãi lẫn bức xúc trong dư luận, thì ngày 3 tháng 7, một bài viết trên báo Pháp luật với tiêu đề “Luật sư không được nói bậy trên mạng” một lần nữa khiến giới luật sư phải có ý kiến.

Sai nội dung

Ngay sau khi bài viết được đang tải, luật sư Trần Vũ Hải viết trên trang cá nhân của ông rằng: “Tiêu đề của báo Pháp luật TPHCM ghi không đúng ý của Bộ Tư Pháp, và thiếu tôn trọng giới luật sư.

Theo dự thảo của Bộ Tư Pháp, luật sư muốn hành nghề, phải chấp nhận mất quyền công dân- “mở mồm” phê phán các cơ quan chức năng trên mạng xã hội.”

Và ông đưa ra lời kêu gọi: “Có lẽ các đồng nghiệp chúng ta cần gặp gỡ, đối thoại với ông này, để hiểu giới luật sư hành nghề ra sao, và nếu ông cấm luật sư “mở mồm”, dân chúng sẽ đánh giá thế nào về giới luật sư?”

Nội dung chính của bài viết “Luật sư không được nói bậy trên mạng” đăng tải trên tờ báo Pháp luật đề cập đến Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 123/2013 của chính phủ. Theo đó, Bộ Tư pháp cho rằng tổ chức và hoạt động của luật sư thời gian qua có vướng mắc, bất cập. Luật Luật sư đã quy định tiêu chuẩn về chuyên môn để trở thành luật sư nhưng chưa quy định cụ thể về các tiêu chuẩn liên quan đến phẩm chất đạo đức, tuân thủ pháp luật để hành nghề luật sư.

Không hoàn toàn đồng ý với điều này, luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó chủ tịch Hội Luật Gia TP.Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trung tâm Tài chính Thương mại Luật gia Việt Nam cho biết cách diễn giải như thế sẽ gây ra những suy nghĩ sai lệch về qui trình đào tạo một luật sư, kể cả phẩm chất của một luật sư. Sư sai lệch đó sẽ được hiểu là từ trước đến nay, các tiêu chuẩn liên quan đến phẩm chất đạo đức, các quy định tuân thủ pháp luật để hành nghề luật sư chưa từng được định chế cụ thể trong các văn bản của pháp luật hoặc Bộ tư pháp.

Có lẽ các đồng nghiệp chúng ta cần gặp gỡ, đối thoại với ông này, để hiểu giới luật sư hành nghề ra sao, và nếu ông cấm luật sư “mở mồm”, dân chúng sẽ đánh giá thế nào về giới luật sư? – LS. Trần Vũ Hải

 

Cho nên theo ông, cần phải cụ thể hoá những quy định, nguyên tắc đã có sẵn trong Luật Luật sư.

“Viết như vậy là người ta sẽ hiểu lầm, và người ta sẽ nghĩ 1 ý khác. Nguyên tắc hành nghề luật sư đã 4 lần được Quốc hội sửa đổi để theo kịp các nước trên thế giới. Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư là họ là những người biết luật, cho nên 5 nguyên tắc đã quy định rõ trong luật, bây giờ mình phải cụ thể hoá ra là luật sư được làm những gì?

Khi họ hành nghề thì họ phải tuân thủ Luật Luật sư và tuân thủ qui tắc đạo đức.”

Theo Luật sư Nguyễn Văn Hậu, nguyên tắc luật sư hiện nay qui định khá đầy đủ nhưng chưa hết. Đối với quan điểm của ông, trong cuộc sống, ranh giới giữa sai và đúng rất mong manh. Chính vì vậy con người sẽ dễ dàng phạm phải sai lầm, chỉ cần một khoảnh khắc không tự chủ, họ sẽ vi phạm pháp luật. Và đặc biệt, ông nhấn mạnh, “khi biết luật, càng dễ phạm luật”. Do đó, theo ông rất cần có những ràng buộc cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của người dân.

“Nếu mà không qui định thì họ dễ có 1 vấn đề, họ lợi dụng là họ biết nghề. Về những nguyên tắc hành nghề thì luật chỉ bao quát thôi, cho nên phải có những hướng dẫn. Nhưng những hướng dẫn đó không được xâm phạm những nguyên tắc mà luật đã qui định.”

Liên quan đến điều này, dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013 có nói là quy định chi tiết hoá những trường hợp bị coi là không đáp ứng đủ hiến pháp, pháp luật và tiêu chuẩn có phẩm chất đạo đức tốt.

Không rõ ràng

Một nội dung khác của dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013 riêng được nêu ra có vẻ như là cách giải thích chi tiết cho tiêu đề “Luật sư không được nói bậy” đó là “Phải phát ngôn chuẩn mực”. Bài viết ghi rõ:

“Luật sư không được ứng xử và phát ngôn trên phương tiện thông tin đại chúng, trang mạng xã hội, với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác gây ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín nghề của luật sư, phương hại đến hoạt động của cơ quan tổ chức khác.”

Một lần nữa, luật sư Nguyễn Văn Hậu không đồng tình với cách dẫn giải của bài báo. Ông cho rằng cách nói như thế là không cần thiết vì không được đầy đủ và không đúng.

Dựa vào năm nguyên tắc hành nghề luật sư mà Luật Luật sư đã quy định, luật sư Nguyễn Văn Hậu nói rằng khi phát ngôn, người luật sư tuyệt đối không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, phát biểu những gì mà pháp luật cho phép. Đó là chuẩn mực đã được qui định đối với việc hành nghề luật sư.

“Trước hết, người luật sư phải tuân thủ pháp luật trước đã. Khi họ phát ngôn, họ phải chịu trách nhiệm về lời phát ngôn của mình. Khi anh phát ngôn, là luật sư thì phải phát ngôn 1 cách chính xác. Thứ nhất là đúng luật, thứ hai là phù hợp với đạo đức xã hội, khung cảnh mà anh phát biểu.”

Trước hết, người luật sư phải tuân thủ pháp luật trước đã. Khi họ phát ngôn, họ phải chịu trách nhiệm về lời phát ngôn của mình. – LS. Nguyễn Văn Hậu

Chính vì vậy, những nội dung nêu ra trong dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013 sau đó được giới luật sư bày tỏ sự bất bình khá rõ. Họ cho rằng nghị định và thông tư của Bộ tư pháp phải làm sao phù hợp với hiến pháp và phù hợp với luật luật sư.

Đồng tình với điều này, luật sư Nguyễn Văn Hậu chia sẻ.

“Anh sử dụng mạng xã hội thì cứ sử dụng thôi, nhưng sử dụng mạng xã hội mà xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, xâm phạm bí mật đời tư, bí mật gia đình, đó là những quyền bất khả xâm phạm mà pháp luật đã qui định, thì trên mạng xã hội anh phải chịu trách nhiệm về điều đó.”

Thực tế gần đây cho thấy một số luật sư qua trang các nhân đưa ra một số thông tin, ý kiến liên quan đến các phiên toà và qua trang cá nhân của các luật sư đó, công luận có thể biết được nhiều chi tiết hơn nếu đó là phiên toà chính trị không ai được vào, ví dụ trang mạng xã hội của luật sư Võ An Đôn, luật sư Lê Luân… cho người quan tâm biết được những diễn biến bên trong phiên xử blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Ngoài ra, với nhiều diễn biến xảy ra gần đây trong xã hội Việt Nam, quan điểm của giới luật sư cũng được thể hiện rất rõ trên trang mạng cá nhân của họ.

Câu hỏi được mọi người đặt ra sau khi bài báo “Luật sư không được nói bậy trên mạng?”: Phải chăng đó chính là nguyên nhân? Mà luật sư Trần Vũ Hải gọi trên trang Facebook của ông là: “Bộ Tư Pháp muốn “siết” tư tưởng giới luật sư, sau khi đã đeo vòng kim cô 19.3 (luật sư phải tố thân chủ) cho giới này.”

43 năm và bao nhiêu năm nữa?

Hà Nội chặt cây xanh, Sài Gòn cũng trơ trụi cây xanh vì bị chặt, đất nước này có thành phố nào, tỉnh nào không bị chặt cây xanh? Chắc chắn là không có, ngay cả thành phố Đà Nẵng thời ông Nguyễn Bá Thanh còn làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, thời ‘vàng son’ của Đà Nẵng, vẫn có hàng xà cừ trăm tuổi (từ thời Đà Nẵng còn mang tên Tourance) trên đường Quang Trung cũng bị chặt không thương tiếc. Đó là chưa muốn nói đến những cây xanh trên dãy Trường Sơn!

Nếu như cây xanh được ví là lá phổi của thành phố thì cây xanh ở Trường Sơn được xem là lá phổi của quốc gia, cây xanh ở U Minh Thượng, U Minh Hạ hay Đất Mũi cũng được xem là lá phổi của quốc gia. Nhưng hiện tại, U Minh Thượng hay U Minh Hạ, rồi Đất Mũi, tất cả rừng đước, sú, vẹt cả mấy trăm năm tuổi, thậm chí ngàn năm tuổi đang bị khai thác một cách vô tội vạ. Mà đáng sợ nhất vẫn là sự tàn lụi của Trường Sơn.

Cha của một người bạn mà tôi chơi khá thân vốn là bộ đội Cộng sản, ông là người trong đoàn quân Nam tiến những năm trước 1975, ông cũng là một trong những người đi trên đường mòn Hồ Chí Minh sớm nhất, sau khi lực lượng thanh niên xung xong mở đường dọc Trường Sơn. Ông có lần nói với tôi rằng nếu không có Trường Sơn thì miền Bắc không bao giờ “giải phóng” được miền Nam cho dù lúc đó Mặt trận giải phóng Miền Nam có lớn mạnh cỡ nào. 

Với kinh nghiệm vào sinh ra tử trên đường Trường Sơn, ông nói chắc như đinh đóng cột rằng “Trường Sơn che chở mọi thứ, và bom thả xuống Trường Sơn chẳng khác nào muối bỏ biển!”. Điều ông nói hoàn toàn đúng, bởi cách đây chưa đầy mười năm, lúc đó đường mòn Hồ Chí Minh (tức đường Trường Sơn) chỉ mới cải tiến và khai thông, người qua lại rất thưa thớt, đi cả mấy chục cây số mới gặp một vài người gùi củi rừng, lá rừng… Tôi đã đi qua và tận mắt nhìn Trường Sơn lúc đó.
Rừng bạt ngàn, cây xanh ngút mắt, những cổ thụ hàng ngàn tuổi dòng lim, sến, gụ, kiền kiền… đứng cao chất ngất. Cảm giác lúc đó thật khó tả, nhất là khi đi một mình một xe máy bon bon trên con đường chỉ toàn cây xanh, rừng già và âm thanh đại ngàn, vừa rờn rợn vừa thú vị không gì tả xiết. Và lúc đó tôi thấy người cha của bạn tôi nói đúng, bao nhiêu bom thả vào Trường Sơn cho đủ!

Khi đó tôi cũng nghĩ rằng nếu khai thác gỗ Trường Sơn, chắc cũng ba trăm năm lẻ nữa vẫn chưa hết gỗ, đó là chưa nói cây này bị cắt đi một thời gian thì tự mọc chồi, đâm cây mới, cắt đến cuối rừng thì đầu rừng đã thành cổ thụ. Nhưng đó là ảo giác lớn nhất của tôi. Chưa đầy mười năm sau, đi lại trên đường mòn Hồ Chí Minh, mọi thứ trống hươ trống hoác, tôi không dám tin vào mắt mình.

Những cung đường vốn dĩ bạt ngàn cây xanh, toàn những cây có đường kính từ 1,5 mét đến 5 mét, thậm chí có cây lớn đường kính cả chục mét… Giờ chỉ còn là một bãi đất trống, thay vào đó là một dãy rừng mới trồng toàn những cây keo lá tràm, cây luồng hoặc không có cây gì cả, còn lại mấy vụn gỗ sau khi người ta đào tận gốc rễ để chế tác bàn ghế mỹ nghệ. Và đáng sợ hơn là các cánh rừng giờ đã có chủ, thành những lô đất vuông vức có hàng rào kẽm gai hoặc có những công ty, tập đoàn mọc trên đó hoặc các nông trường trồng rau, củ, quả. 

Cả một cung đường dài từ Nam chí Bắc trên dãy Trường Sơn chỉ còn đúng đoạn đi qua tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng là còn cây rừng, từ Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An hay lệch vào Nam, đoạn đi qua Tây Nguyên, đều là cây cối trơ trọi. Thay vào đó là hàng quán, chưa có nơi nào mà cả một cung đường dài mấy trăm cây số, đi chừng 300 mét đã có quán thịt rừng, đặc sản rừng, khu nhà trọ, quán nhậu… Suốt mấy trăm cây số, toàn bộ các loại dịch vụ đều có, đặc biệt là loại dịch vụ tươi mát, gọi đâu có đó. Cả một rừng cây ngàn năm tuổi đã bị thay thế bằng rừng quán nhậu, quán đặc sản rừng, nhà hàng, khách sạn và các loại dịch vụ mờ ám. 

Đáng sợ hơn là cuộc sống đồng bào Mường, Thái ở dọc cung đường Trường Sơn bị đảo lộn. Nạn xì kle, ma túy đã hoành hành trong các bản làng vốn hiền lành, nhút nhát và thật thà này. Đường mòn mở rộng, đồng bào thêm đói khổ vì mất đất, mất rừng và phải vay tiền nhà nước để xây nhà theo tiêu chuẩn nông thôn, bản làng mới. Rồi để có tiền xây một cái nhà cấp bốn tường gạch lợp tôn, mùa hè thì nóng chảy mỡ, mùa đông thì lạnh cắt da, đồng bào đã bán tháo mảnh đất rừng lâu đời với giá rẻ mạt, sau đó, lại tiếp tục vay tiền nhà nước để mua cái ti vi, chiếc xe máy. 
Chuyện học hành của con cái họ thì vẫn bị bỏ ngỏ như mọi khi. Thêm phần ăn chơi đua đòi vì nhà có xe máy, đã “lên đời”, những thanh niên, những đứa trẻ hiền lành chẳng mấy chốc thành con nghiện, lại rủ nhau ra đường mòn Hồ Chí Minh để trấn lột, cướp bóc khi đêm xuống.

Trường Sơn ngàn năm còn bị đánh đổi trong chưa đầy mười năm, từ bạt ngàn cây xanh và đời sống hiền hòa, thanh tịnh bỗng trở nên trơ trọi và đời sống khốc liệt đến độ tàn khốc. Giờ có vẻ như Trường Sơn cũng chẳng còn bao nhiêu cây để chặt, người ta lại kéo về thành phố để chặt, mà đáng sợ nhất vẫn là chặt cây theo dự án!
Có không biết bao nhiêu ngàn hecta rừng Trường Sơn bị chặt phá theo dự án thủy điện mà sự thật đằng sau cái dự án đó là bóng ma nhà buôn Trung Quốc, họ sẵn sàng bỏ tiền cho người Việt bôi trơn ‘dự án’ bằng cách hối lộ các quan chức để được duyệt dự án mà khai thác gỗ lòng hồ, sau đó bán gỗ để có tiền đầu tư thủy điện hoặc không đầu tư gì cả, cho treo dự án từ năm này qua năm nọ. Bây giờ, các dự án đường sắt, đường vượt do nhà thầu Trung Quốc làm chủ đầu tư và thi công lại nhắm đến những hàng cây trăm tuổi còn sót lại trong thành phố. 

Điều đáng bàn ở đây không chỉ dừng lại ở thái độ con người đối với tài nguyên quốc gia, đối với thiên nhiên mà là tâm lý con người Việt Nam, đặc biệt là giới quan chức có được bình thường hay không? Câu trả lời là không. Vì lẽ, nếu bình thường thì đất nước đã không đến nỗi tan hoang như hiện tại. Bệnh vô cảm và ích kỉ đã tràn lan đất nước, nơi nào quyền lực càng cao thì bệnh ích kỉ và vô cảm càng nhiều. 

Quyền lực tập trung thì bệnh hoạn cũng tập trung, và khi nó tập trung đủ, nó tự biến hóa theo cách của nó. Chặt cây, cướp đất của người cô thế hay cát cứ địa phương, bán đứng lãnh thổ quốc gia, bán đứng tài nguyên dân tộc… Tất cả những biểu hiện bệnh hoạn và tội lỗi ấy đều do tập trung quyền lực và tập trung bệnh hoạn mà ra! Chỉ mới 43 năm tôi mà đất nước tan hoang như thế này thì liệu dân tộc này tồn tại được bao nhiêu năm nữa?!