Nhà báo Phạm Đoan Trang nói quá đúng
👍
👍
👍
Thực tế của đất nước ta là thế!
Các bạn có đồng ý với những gì nhà báo Phạm Đoan Trang nói không?
Bọn khủng bố đòi 5 tỷ tiền chuộc, “Cò nhà” làm giá tới 100 tỷ !
Bọn khủng bố đòi 5 tỷ tiền chuộc, “Cò nhà” làm giá tới 100 tỷ !
Phải chăng vì tham nhũng, định ăn chặn cả tiền cứu thủy thủ nên đã dẫn đến bị chúng chặt đầu oan uổng !
Sau khi có loạt bài “Cuộc sống các Thủy thủ Vn trong tay du kích Abu sayyaf” sau đó lại bị gỡ vì đã hé lộ một chi tiết khủng khiếp : – Số tiền chuộc bọn khủng bố đòi thực ra chỉ là khoảng 10 tỷ cho cả 6 thủy thủ !
Trong khi đó những gia đình các nạn nhân lại khẳng định rằng ở nhà “Những người không tiện nói ra ở đây, nhưng ai cũng biết chúng nó là ai” lại yêu cầu mỗi gia đình nộp 100 tỷ !
Có lẽ chính việc gợi ý “làm tiền”, sự cò mồi, làm giá, giằng co qua lại, không dứt khoát nên đã khiến bọn khủng bố hy vọng rồi lại mất hy vọng dẫn đến hậu quả đau lòng, vì như ai cũng biết ngay sau khi biết là bắt nhầm tầu Vn, không phải tầu Tây chúng đã ngay lập tức thả 9 thủy thủ mà không đòi bất cứ một đồng tiền chuộc nào.
Số tiền bọn khủng bố đòi là 25 triệu Peso tiền Philipin, tương đương 493 ngàn Đô la Mỹ.
https://
Gia đình thuyền viên bị khủng bố chặt đầu bị yêu cầu nộp chung 50 tỷ đồng tiền chuộc
Thông tin về cái chết đau đớn, bị chặt đầu trong lúc bị bắt làm con tin của hai thuyền viên người Việt Nam trên chuyến tàu thuộc công ty hàng hải Hoàng Gia ở Hải Phòng đã làm chấn động người dân Bắc miền Trung. Chúng tôi đã tiếp xúc nhiều người dân, đặc biệt là người dân Nghệ An và Thanh Hóa, nơi tá túc của gia đình các thuyền viên, dường như đi đâu cũng nghe lời ta thán về sự vô trách nhiệm của chính phủ Việt Nam trong vấn đề cứu công dân của mình.
Nhà nước đã làm gì?
Ông Hoàng Văn Tư, cha của nạn nhân Hoàng Văn Hải, hiện sống ở huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, chia sẻ:
“Họ nói đích thân bố mẹ phải đi ra công ty ngoài Hải phòng. Họ nói phải chung khoản tiền chừng 100 tỉ Peso để chuộc người. Sau đó một người tên Loan, là vợ của thuyền phó (cũng bị bắt làm con tin) nói chúng tôi nên ký vào một cái biên bản mà trong đó không có bất kỳ chữ nào. Chúng tôi thắc mắc tại sao biên bản không có chữ nào thì ký làm sao thì ông giám đốc Hoàng Gia nói rằng nội dung không có ai được biết cả, chỉ có giám đốc biết thôi và nếu muốn cứu các con thì chúng tôi hãy ký vào và yên tâm, tin tưởng ông đi. Chúng tồi gồm 6 gia đình, đã ký mỗi gia đình 10 biên bản với chữ ký phải thật giống nhau trong 10 tờ giấy trắng đó. Giờ thì ra cớ sự này đây!”
Một người tên Trung, là chú của anh Hoàng Văn Hải, cho rằng cái chết của hai thuyền viên bị lực lượng Abu Sayyaf chặt đầu vì họ chờ quá lâu mà không thấy tiền chuộc từ Việt Nam, điều này cho thấy thân phận của người Việt Nam quá bé nhỏ, quá đau khổ. Là một người từng cầm hộ chiếu Việt Nam đi du lịch sang Thái Lan và Nhật Bản, ông không khỏi chạnh lòng khi thấy những tấm bảng ghi bằng tiếng Việt khuyến cáo người Việt không nên gắp thức ăn quá nhiều ở các buffet hay là viết bằng tiếng Việt răn đe về các loại hình chế tài khi ăn trộm, ăn cắp… Rồi chuyện các ngư dân người Việt sang ăn cắp hải sâm ở vùng biển các nước Úc, Papua Newguine, Phillipines… Tất cả như những vết thương của dân tộc.
Ông Trung cho rằng sở dĩ có chuyện đau lòng vừa nói là vì Việt Nam thiếu hẳn một nhà nước do dân và vì dân. Nếu nhà nước tồn tại do dân, vì dân thì thân phận người dân Việt Nam không đến nỗi thê thảm như hiện tại. Thử hỏi, có một quốc gia nào mà toàn chiều dài của quốc gia là bờ biển, nếu kể cả vùng nội thủy, vùng lảnh hải và vùng đặc quyền kinh tế thì biển Việt Nam quá rộng. Vậy mà ngư dân Việt Nam không dám ra khơi bởi sợ cái chết từ các tàu hải cảnh Trung Quốc. Rồi thêm nữa, tài nguyên, khoáng sản Việt Nam cũng thuộc diện “rừng vàng biển bạc”, vậy mà đói nghèo, trộm cắp đầy rẫy ra. Hình ảnh của người Việt Nam trở nên xấu xa và tội nghiệp trước con mắt người nước ngoài, theo ông Trung, không phải chỉ đơn giản là do bản chất hay thói quen mà là do môi trường kinh tế, văn hóa và chính trị.
Cũng theo ông Trung, cái chết của hai thuyền viên người Việt Nam vừa qua càng làm rõ thêm thân phận của người Việt Nam quá nhỏ nhoi trước thế giới rộng lớn. Ông nêu quan điểm rằng thực ra, thân phận của một công dân quốc gia nào đó có giá trị hay không hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống chính trị của quốc gia đó. Những quốc gia có hệ thống chính trị dân chủ, cởi mở và coi trọng nhân phẩm thì công dân của họ không thể bị đày đọa, bị coi rẻ trước con mắt người nước ngoài được. Dẫn chứng, ông Trung nói rằng công dân Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Úc, Nhật hay Singapore, Hàn Quốc… không thể bị coi rẻ và không thể dễ chết như công dân Việt Nam được.
Đằng này, nhà nước, chính phủ Việt Nam vẫn luôn giữ đúng giọng điệu “phản đối” suông trong bất kì tình huống nào, từ thuyền viên Việt Nam đánh cá trong vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa bị tàu Trung Quốc bắt bớ cho đến thủy thủ Việt Nam bị nhóm sát nhân bắt cóc tống tiền. Ông Trung cho rằng nếu như nhà nước đừng phản đối mà trích tiền ngân sách nhà nước để chuộc công dân, tìm cách cứu công dân của mình, sau đó có thể yêu cầu công ty chủ quản của các thủy thủy chịu trách nhiệm bù đắp ngân sách nhà nước thì ông còn có thể tin tưởng vào nhà nước, chính quyền. Đằng này họ chỉ phản đối sau khi có hai thuyền viên bị chặt đầu.
Đời sống của các thuyền viên
Một người dân sống gần gia đình thuyền viên Hoàng Trung Thông, không muốn nêu tên, chia sẻ:
“Hết sức vô lý, từ nhà nước cho đến phía công ty đều làm những chuyện hết sức vô lý, thời gian kéo dài cả 7 tháng, 8 tháng, nếu không chuộc người được thì phải tìm cách cho gia đình người ta biết, cho truyền thông biết để người ta vận động tài chính mà cứu con của họ chứ! Khóc thì người ta khóc cũng đã hết nước mắt rồi, quá vô lý đi. Dân làng ở đây thương nhau lắm, tối đến thì người dân kéo lại đông lắm, để chia sẻ, an ủi đó mà!”
Người đàn ông này cho biết thêm là hầu như các thuyền viên đều có đời sống rất vất vả, chật vật bởi mức lương mà các thuyền viên được trẻ rất thấp, chỉ dao động từ 5 triệu đồng đến 8 triệu đồng trên mỗi tháng. Trong khi đó, phải lênh đênh trên đại dương có chuyến kéo dài vài tháng trời, và khi vào bờ họ mới được trả lương. Trong lúc các thuyền viên ra khơi, vợ con của họ sống kham khổ, mòn mỏi chờ đợi. Nhưng vì nghèo quá nên họ chấp nhận để chồng, cha đi làm.
Nhiều công ty hàng hải nổi tiếng trong việc nợ lương thủy thủ, slogan khi tuyển dụng của họ có nội dung hứa sẽ không nợ lương người làm thuê. Nhưng đó chỉ là slogan, thực tế còn quá nhiều vấn đề để bàn. Bởi lẽ, nếu có trách nhiệm với người lao động, công ty hàng hải như Hoàng Gia phải bằng mọi giá huy độngtài chính để chuộc các thuyền viên của công ty. Đằng này họ cũng im hơi lặng tiếng, mãi cho đến khi cò hai thủy thủ bị chặt đầu, họ cũng chưa hề có động thái nào cho thấy họ quyết tâm cứu những người còn lại.
Người đàn ông này tỏ ra bức xúc khi nói về cái chết quá oan uổng và tội nghiệp của hai thuyền viên Việt Nam. Và ông vừa tỏ ra căm thù, giẫn dữ, đồng thời cũng khinh bỉ cả cái lực lượng gọi là Abu Shayaf. Bởi theo người đàn ông này, bắt cóc tống tiền thì chí ít cũng phải nghiên cứu đối tượng bị bắt cóc, đó là những thứ căn bản của kẻ bắt cóc.
Chẳng ai bắt cóc con nhà nghèo hoặc con ghẻ của nhà giàu, mà ở đây là bắt cóc thuộc hàng quốc tế lại đi bắt cóc công dân Việt Nam thì khác nào chọn một trong hai đối tượng nói trên. Khi không có tiền chuộc thì đâm ra giết người thêm phần tội lỗi!
Như để chốt lại vấn đề, người đàn ông này kêu gọi nhà nước, chính phủ Việt Nam phải khẩn trương cứu các công dân Việt Nam đang còn mắc kẹt. Vì đây là hành động bắt buộc phải có của một nhà nước, một chính phủ tử tế!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
Vì Sao !
From facebook: Hoa Kim Ngo shared Trường Giang‘s post.





Trường Giang added 11 new photos.
Vì sao con của bạn đi học phải đóng học phí ?
Vì sao bạn vào bệnh viện phải trả nhiều thứ tiền khác nhau kể cả phong bì cho bác sĩ ?
Vì sao giá xăng thế giới xuống dưới 50 đô / 1 thùng nhưng bạn phải đổ xăng như lúc giá 140 đô / 1 thùng
Vì sao bạn không có đủ những công trình cộng cộng như thư viện , công viên , trung tâm vui chơi giải trí cộng đồng ?
Vì sao mỗi đầu người dân phải chịu nợ công ngày một nặng nề
Vì sao bạn chạy xe trên đường cao tốc phải đóng phí , nhiều đoạn đường phải đóng phí nhiều hơn cả tiền đổ xăng
Vì sao đồng lương của bạn thấp hơn rất nhiều so với vật giá thực tại
Vì sao đất nước bạn có đầy đủ tài nguyên kể cả dầu mỏ nhưng nước bạn vẫn mãi nghèo
Tất cả những thứ tiền những thứ thiệt thòi bạn phải gánh chịu như tôi nêu trên chúng đều chạy vào các biệt phủ , biệt thự của các quan chức tôi đưa ra dưới đây . Đấy mới chỉ là mặt nổi của năm , bảy quan chức mà các nhà báo tự do khám phá được . Còn cả mấy triệu quan chức khác họ khôn ngoan hơn những người này . Họ mở công ty cho người nhà họ đứng tên . Họ tuồn tiền ra gởi hoặc đầu tư ở nước ngoài . Bao nhiêu phúc lợi của hơn 90 triệu dân bị chúng ăn hớt xà xẻo hết đâu phải chuyện lạ !
Trịnh Vĩnh Bình kiện chính phủ VN đòi 1 tỷ USD
Dân Làm Báo
Huỳnh Bá Hải (Danlambao) – …Tổ hợp luật sư của ông Trịnh Vĩnh Bình kỳ này cũng là các luật sư từng giúp cho tỷ phú dầu mỏ của Nga là ông Khodorkovsky. Thuận lợi cho ông Bình và tổ hợp Luật sư của ông là chính Tòa án Quốc tế này đã tuyên án chính phủ Nga phải có nghĩa vụ bồi thường 50 tỷ USD cho ông Khidorkovsky. Lần này cùng với các hiệp ước thương mại giữa Việt Nam và Hoà Lan cùng với án lệ có sẵn thì phía Việt Nam thua kiện là rất cao…
Một nguồn tin thân cận cho chúng tôi biết là ông Trịnh Vĩnh Bình chính thức đưa chính phủ Việt Nam ra Tòa án Trọng tài Quốc tế ở Den Haag-The Hague (Tiếng Anh) hay La Haye (Tiếng Pháp) – Hoà Lan.
Vụ kiện chính thức khởi hành vào tháng 1.2015. Ngày 30.4.2015 phía Tòa án Quốc Tế đã chính thức gởi lệnh thông báo đến nhà nước Việt Nam vào đúng ngày đảng cộng sản ăn mừng 40 năm cưỡng chiếm Miền Nam. Người đứng tên là ông Trịnh Vĩnh Bình, mang quốc tịch Haà Lan. Nội dung đòi chính phủ Việt Nam với các liên can trực tiếp là Bộ kế hoạch đầu tư và UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu phải bồi thường cho ông 1 tỷ USD vì đã trắng trợn vi phạm cam kết mật giữa ông và phía chính phủ Việt Nam vào năm 2005.
A. Phía Việt Nam có các nghĩa vụ:
1. Bồi thường cho ông Trịnh Vĩnh Bình 15 triệu (mười lăm triệu) USD là tiền chi phí đi kiện số tiền này giao ngay trong năm 2005
2. Phía Việt Nam trao trả toàn bộ tài sản ở VN cho ông Trịnh Vĩnh Bình bao gồm phân xưởng, nhà kho, đất đai bất động sản. Việc trao trả tài sản chậm nhất vào năm 2012.
3. Phía Việt Nam cho ông Trịnh Vĩnh Bình ra vào Việt nam tự do để làm từ thiện.
B. Phía ông Trịnh Vĩnh Bình:
Có nghĩa vụ giữ kín cam kết mật nói trên không được tết lộ cho bất cứ cơ quan truyền thông nào.
Cho đến hết năm 2014 thì phía Việt Nam chỉ thực hiện được 2 việc là trả 15 triệu USD tiền mặt cho ông Bình. Không như nhiều nguồn tin nói là trả 150 triệu. Và cho ông vào ra Việt Nam làm từ thiện ở bãi biển tại Tuy Hòa- Phú Yên. Còn chuyện trao trả tài sản thì chưa trả bất cứ động sản hay bất động sản nhà kho phân xưởng nào cho ông Trịnh Vĩnh Bình.
Thấy việc cam kết ban đầu bị vi phạm ông Trịnh Vĩnh Bình lần này nhờ đến một Tòa án quốc tế can thiệp.
Tổ hợp luật sư của ông Trịnh Vĩnh Bình kỳ này cũng là các luật sư từng giúp cho tỷ phú dầu mỏ của Nga là ông Khodorkovsky.
Thuận lợi cho ông Bình và tổ hợp Luật sư của ông là chính Tòa án Quốc tế này đã tuyên án chính phủ Nga phải có nghĩa vụ bồi thường 50 tỷ USD cho ông Khidorkovsky. Lần này cùng với các hiệp ước thương mại giữa Việt Nam và Hà Lan cùng với án lệ có sẵn thì phía Việt Nam thua kiện là rất cao.
Không như giải pháp im lặng như cam kết bị Việt Nam trắng trợn vi phạm. ông Trịnh Vĩnh Bình có hứa dùng 90% tiền được sau khi trừa các chi phí vụ kiện sẽ được dùng từ thiện, hoạt động nhân đạo hay giúp các nạn nhân của chế độ cộng sản đi kiện ra các tòa án quốc tế đòi bồi thường, việc hỗ trợ bao gồm tư vấn cả tiền bạc nhằm giúp cá nạn nhân lấy lại công lý cho mình. Không loại trừ khả năng một số tiền sẽ được giúp các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam.
Ban đầu tổ hợp Luật sư muốn ông Bình khóa toàn bộ vụ việc cho họ nhưng ông chọn phương án đồng hành cùng họ.
Chuẩn bị cho tiến trình vụ kiện có thể lâu dài hay bị nhà nước Việt Nam cho người đi ám sát ông Trịnh Vĩnh Bình thì ông Bình cũng đã hoàn tất lập chúc thư thừa kế vụ kiện cho các thừa kế của ông ngõ hầu theo đuổi vụ việc đến cùng. Nguồn tin cho hay là ông Bình được chính Tòa án quốc tế khuyến cáo không nên quay về Việt Nam lúc này, ông cũng tuyên bố sẽ không về Việt Nam cho đến khi công lý thực thi hoàn toàn cho ông.
Trong vài ngày tới các cơ quan truyền thông tại Hòa Lan và EURO-zone sẽ thông báo tin này trên các phương tiện truyền thông nhằm khuyến cáo Việt kiều cân nhắc khi về Việt Nam đầu tư làm ăn.
Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi vụ kiện khi nó bị nhà nước Việt Nam chà đạp trắng trợn các cam kết do chính họ đặt bút ký kết.
KHÔNG ĐỒ LÓT, KHÔNG BĂNG VỆ SINH”
From facebook: Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoa Kim Ngo and 3 others.
Đồ lót và băng vệ sinh phụ nữ có kinh tháng lên trang báo lớn quốc tế.
Tờ báo quốc tế có số lượng phát hành và truy cập lớn thứ nhì thế giới The Guardian viết về Mẹ Nấm.
*
Tờ báo viết:
Ghê tởm cách Việt Nam giam giữ blogger nổi tiếng nhất.
Mẹ Nấm được Đệ nhất Phu nhân Hoa Kỳ – bà Melania Trump – trao tặng Giải thưởng Những người Phụ nữ Can đảm nhất Thế giới.
Mẹ Nấm là một trong những blogger chính trị có ảnh hưởng nhất của Việt Nam. Cô phải nhận bản án 10 năm tù vì lòng yêu nước và tích cực bảo vệ môi trường mà nhà cai trị trị cho là phản động.
Tờ báo có đoạn:
Theo luật sư Võ An Đôn Đôn An Võ, trong suốt 7 tháng bị biệt giam trong nhà tù, người phụ nữ 37 tuổi – Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – không được ban quản trị trại giam cho phép sử dụng đồ lót và băng vệ sinh phụ nữ.
*
Theo nhà báo Trương Duy Nhất:
“Chuyện Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh “7 tháng trong trại giam không đồ lót, không băng vệ sinh” chẳng những ngập tràn mạng, mà nhiều hãng truyền thông lớn trên thế giới cũng đã lên tiếng.
“Thông tin này, từ chính Quỳnh báo cho luật sư. Tất nhiên có giám sát chặt chẽ của lực lượng quản giáo, và cả cán bộ điều tra. Quỳnh không thể xạo, dựng chuyện vu khống trước mặt họ”.
*
Người phụ nữ cứ mỗi tháng có kinh sự bất tiện này là một cực hình ghê gớm. Đây là một sự trả thù hết sức hèn hạ và đê tiện của an ninh tỉnh Khánh Hòa.
Một sự đối xử vô nhân đạo, phi nhân của công an Khánh Hòa, mà tất cả mọi người phụ nữ cần mạnh mẽ lên án.
*
The Guardian là tờ báo quốc tế có lượng lưu hành đạt 283.063 bản tính ở thời điểm tháng 3 năm 2010. Thành lập năm 1821, tờ báo The Guardian có tuổi đời gần 200 năm.
Trang web guardian.co.uk là một trong những website tin tiếng Anh có lượng truy cập lớn nhất thế giới.
Theo biên tập viên của tờ báo, The Guardian có lượng độc giả online cao thứ hai trên thế giới, chỉ sau tờ New York Times.
Mời các bạn xem thêm chi tiết:
https://www.theguardian.com/…/mother-mushroom-how-vietnam-l…


Tưởng nhớ 64 năm ngày giỗ bà Cát Hạnh Long (Nguyễn Thị Năm)


Viet Quan added 2 new photos — with Hoa Kim Ngo and 51 others.
Hôm nay, 9 tháng 7, thắp tâm hương đau đớn tưởng nhớ 64 năm ngày giỗ bà Cát Hạnh Long (Nguyễn Thị Năm)
* Sau khi bà Năm bị giết dã man, hai tuần sau HCM cho đăng bài “Địa chủ ác ghê”. Vì sao? (*)
&1&
Bà Nguyễn Thị Năm bị hành hình vào ngày 9/7/1953, mở màn cho cuộc thảm sát mang tên “Cải cách ruộng đất”.Theo chỉ thị, đám du kích đi mua một cỗ quan tài rất hẹp, không đặt lọt thi thể bà Năm. Chúng bèn giẫm lên xác, xương kêu răng rắc, vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?”. Thi thể bà Năm vẹo vọ, cuối cùng lọt hẳn vào trong cỗ quan tài (theo lời kể của nhân chứng, trong tác phẩm “Đèn Cù” của Trần Đĩnh).
&2&
Đọc một số bài viết biện bạch rằng ông Hồ Chí Minh không muốn hạ bút ký lệnh tử hình bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân đã cưu mang, giúp đỡ nhiều cán bộ Việt Minh; nhưng trước sức ép của Cố vấn Trung Cộng, HCM không thể chống lại.
Nói vậy, lại lộ ra một sự thật khác: Thể chế VNDCCH của Hồ Chí Minh chẳng có chủ quyền của một nhà nước, “độc lập” gì mà quái gỡ vậy, Tàu khựa chỉ đạo giết người Việt là giết?
Và thực ra, theo tư liệu trong “Đèn Cù”, trong những buổi đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, Hồ Chí Minh đã lẳng lặng hóa trang “bịt râu đến dự một buổi”, Trường Chinh cũng có mặt, “đeo kính râm”!
&3&
Ngày 9/7/1953 bà Năm bị giết một cách dã man, táng tận lương tâm.
Ngày 21/7/1953, nghĩa là sau cái chết của bà Năm gần hai tuần, bài “Địa chủ ác ghê” mới xuất hiện trên tờ Nhân Dân. Tại sao Hồ Chí Minh cho dăng bài “Địa chủ ác ghê” vào lúc này, do chính HCM viết?
Trong ba lần đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, cả ba đều không đạt yêu cầu. Nguyên nhân là vì bà Năm ăn ở nhân đức, đối đãi với nhân công, người giúp việc như bát nước đầy, nên không ai tìm được tội gì để có thể tròng án tử lên đầu bà.
Lương tâm của nhiều người VN vẫn chưa bị đỏ hóa thành súc vật.
“Phong trào” đấu tố, sát hại địa chủ mới “nổ súng” mà đã lượng sượng như vậy, không khéo mất khí thế. Bằng bài báo “Địa chủ ác ghê”, ký tên C.B (mà Hà Nội công bố C.B là bút danh của Hồ Chí Minh), khích động căm thù trong từng chữ từng câu, “Cải cách ruộng đất” được thổi bùng lên.
Mục đích của bài báo là tạo ra một KỊCH BẢN MẪU cho hàng loạt cuộc đấu tố kế tiếp.
Phải công nhận HCM rất điêu luyện trong chữ nghĩa để vùi người khác xuống biển máu.
Bài báo “Địa chủ ác ghê” (**) là một “mẫu mực” về kỹ thuật dựng chuyện, vu khống (mà người bị vu khống không được quyền biện hộ cho rõ trắng đen, nên HCM muốn nói sao chẳng được)! Bài “Địa chủ ác ghê” cho thấy một sự ngậm máu phun người vô tiền khoáng hậu, mà khi đọc phải dựng tóc gáy!
THAY LỜI KẾT: Theo niềm tin của người VN, vong linh những người chết oan thường nấn ná nơi dương trần, chỉ vì nỗi oan chưa được rửa.
Đối với những ai vẫn còn cuồng si HCM, xin hãy ít nhất một lần tự vấn lương tâm, rằng: cái kẻ ăn cháo đá bát, ngậm máu phun người thì có đáng gọi là “có đạo đức” hay không?
Đừng vô cảm trước sự oan khuất của đồng bào nữa.
——————————————————————————
(*) Dẫn lại từ fb Trần An Lộc.
(**) Đăng toàn văn bài báo “Địa chủ ác ghê” dưới đây, để mọi người biết được thề nào là sự điêu luyện trong chữ nghĩa nhằm vùi người khác xuống chỗ chết, vu khống vô tội vạ (vì người bị kết tội đâu được quyền bào chữa cho rõ trắng đen):
ĐỊA CHỦ ÁC GHÊ
Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
– Giết chết 14 nông dân.
– Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
– Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
– Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
– Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
– Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
– Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
– Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
– Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
– Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
– Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
C.B.
Một trò úm ba la vụng và ngu của những kẻ “cố đấm” để hốt cú chót
Một trò úm ba la vụng và ngu của những kẻ “cố đấm” để hốt cú chót
|
“Đất quốc phòng là thế nào? Bao nhiêu đời nay rồi người ta đã trồng cấy nhưng giờ tự nhiên biến thành đất quốc phòng. Như vậy là cướp à? Có đền bù đồng nào không? Muốn thu hồi thì phải có họp dân, thông báo và có đền bù. Tôi không có một hòn đất ở đấy mà nghe tin còn gai cả người nữa là người dân, đất người ta sinh sống bao nhiêu đời nay rồi. Tôi sẽ nghiên cứu kỹ và sẽ vào cuộc, gặp trực tiếp người dân Đồng Tâm”. Lê Hiền Đức “Người ta giao cho anh làm sân bay chứ không phải nói là đất quốc phòng chung chung rồi anh muốn làm gì thì anh làm. Khi anh đã không làm sân bay thì nguyên tắc anh phải trả lại cho Chính phủ để Chính phủ trả lại cho dân. Hiện nay dân cũng có yêu cầu rất lớn để làm ăn sinh sống. Đó là sai lầm rất lớn của họ”. Nguyễn Khắc Mai Tôi vừa nghe Chủ tịch Chung (xem: Ông Nguyễn Đức Chung nói Vụ Đồng Tâm phải lấy pháp luật làm trọng) và tôi suy nghĩ: không được phép bạch hoá bí mật quốc gia hoặc đòi hỏi vậy đối với Viettel. Đúng, không được phép hỏi X: mày mua heroin ở đâu; huống chi được đòi hỏi bạch hoá hành vi của Cty QP, phỏng ah? Vậy, từ đó suy ra, chân lý và lẽ phải sẽ như sau: Không được phép nhân danh bí mật quốc gia (QP) để lập lợi ích nhóm! Nếu vậy, chả cần giặc Mỹ, hoặc giặc Tàu vẫn tan thể chế dù bí mật quốc gia (QP) vẫn được 90 triệu nhân dân quyết tâm giữ cho bí mật tuyệt đối. Hỏi ngu, nghĩ ngu thế, cũng là nghĩ vớ vẩn hỏi vớ vẩn vậy thôi! Đất Đồng Tâm, nếu là “đất quốc phòng” thì cũng chỉ từ 1981 sau khi có chữ ký của lão PTT thợ hoạn. Thử hỏi: trước đó nó là đất gì? Hẳn là đất thuộc sở hữu tập thể nông dân trong các HTX, nên mới dễ bị nhà nước lấy làm “đất quốc phòng”. Hỏi tiếp: trước đó nữa, thời thực dân, đó là đất của ai? Tất nhiên đấy là đất của dân làng Đồng Tâm, dù có thửa là công điền, có thửa là tư điền. Vậy, từ chỗ là tư điền, công điền, nó trở thành “đất quốc phòng” thì nhà nước mua hay tịch thu của dân? Chắc không phải mua rồi. Kết luận đã có. |
1. Người dân: Đồng Tâm lại chuẩn bị dậy sóng
Lan Hương, phóng viên RFA
Chủ tịch thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung (áo trắng) xuống xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội vào ngày 22 tháng 4 năm 2017. AFP photo
Dự thảo kết luận thanh tra đất Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội được công bố sáng ngày 7/7 nêu rằng “không có đất nông nghiệp ở đồng Sênh” và “toàn bộ sân bay Miếu Môn là đất quốc phòng”.
Bản dự thảo kết luận thanh tra cho rằng “không có diện tích 59 ha đất nông nghiệp xứ đồng Sênh như công dân nêu, diện tích đất sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm chỉ có 64,11 ha, là đất quốc phòng”.
Trong một đoạn video được truyền trên mạng, có ghi trực tiếp buổi dự thảo, Phó chánh thanh tra Hà Nội Nguyễn An Huy giải thích rõ về nguồn gốc Lữ đoàn 28 cho xã Đồng Tâm thuê đất quốc phòng như sau:
Kết quả 57 mốc vẫn còn nguyên và được đóng dày trên cơ sở 16 mốc giới do Bộ tư lệnh công binh đóng trước đây. Diện tích đất toàn bộ sân bay Miếu Môn là 239,4 ha, sau khi trừ gia công còn 236,9 ha trong đó diện tích đất sân bay thuộc địa chính xã Đồng Tâm là 64,11 ha. Trong quá trình quản lý sử dụng từ năm 1981 đến nay, bộ Tư lệnh công binh, Lữ đoàn 28 chưa xây dựng công trình quốc phòng trên phần diện tích đất sân bay Miếu Môn thuộc địa chính xã Đồng Tâm.
Từ năm 1989, kế thừa Bộ Tư lệnh Công binh, Lữ đoàn 28 đã ký một số hợp đồng giao khoán hàng năm trên diện tích 525 sào, tức 19,9 ha cho UBND xã Đồng Tâm. UBND xã đã giao cho các hộ sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Từ sau năm 2012, lữ đoàn 28 không ký hợp đồng giao khoán. Năm 2015 có thông báo gửi UBND xã Đồng Tâm trong đó nói nội dung bắt đầu từ năm 2015, đơn vị sẽ không cho thuê đất quốc phòng để canh tác nông nghiệp. Thực tế hiện nay các hộ dân chưa trả lại đất và vẫn sản xuất nông nghiệp ở đây.
Trước dự thảo kết luận như vậy, Đài RFA đã liên lạc với một người dân Đông Tâm là anh Lê Đình Doanh, cháu nội cụ Lê Đình Kình, một trong 4 người từng bị công an Hà Nội bắt liên quan đến vụ tranh chấp đất đai này. Anh Doanh cho biết bản thân anh và hầu hết người dân Đồng Tâm hiện tại rất bất mãn với kết luận này:
Kết luận này là sai hoàn toàn bởi vì từ ngày tôi còn nhỏ đã theo ông bà vào trong đó dỡ sắn, trồng lạc, ngô ở trong đó suốt nên họ nói vậy là sai hoàn toàn. Bây giờ bà con cũng đang rất bức xúc khi nghe được tin đó. Bà con nói rằng bây giờ cả thế giới người ta nhìn vào cái đất này là đất nông nghiệp của dân từ ngày xưa đến giờ, thế này Đồng Tâm lại chuẩn bị dậy sóng.
Bản dự thảo kết luận thanh tra cũng nói rõ là việc để 14 hộ dân xã Đồng Tâm sử dụng đất khu Miếu Môn, theo cơ quan chức năng, là sai phạm. Ngoài ra, đầu năm 2017, một số công dân tổ chức đo đạc, phân lô, đưa máy móc vào xây công trình trên phần diện tích mà doanh nghiệp quân đội đang xây dựng trong sân bay Miếu Môn cũng được cho là “hành vi chiếm đất quốc phòng, coi thường pháp luật”.
Cũng theo bản dự thảo, những người dân trước đó đã từng thừa kế, cho, tặng, chuyển nhượng lô đất quốc phòng này là trái thẩm quyền, và vi phạm pháp luật về quản lý đất đai.
Từ Hà Nội, cụ Lê Hiền Đức, một người chuyên giúp dân oan đấu tranh giành lại đất đai và chống tham nhũng, và đạt Giải thưởng Liêm chính năm 2007 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế cho biết bà vô cùng bức xúc khi được nghe dự thảo kết luận này và sau việc này bản thân bà sẽ “vào cuộc” cùng người dân Đồng Tâm:
Đất quốc phòng là thế nào? Bao nhiêu đời nay rồi người ta đã trồng cấy nhưng giờ tự nhiên biến thành đất quốc phòng. Như vậy là cướp à? Có đền bù đồng nào không? Muốn thu hồi thì phải có họp dân, thông báo và có đền bù. Tôi không có một hòn đất ở đấy mà nghe tin còn gai cả người nữa là người dân, đất người ta sinh sống bao nhiêu đời nay rồi. Tôi sẽ nghiên cứu kỹ và sẽ vào cuộc, gặp trực tiếp người dân Đồng Tâm.
Còn Luật sư Hà Huy Sơn, Đoàn Luật sư Hà Nội cho biết ông không nắm rõ hồ sơ vụ việc nên không thể kết luân đúng sai. Tuy nhiên ông đưa ra lời khuyên cho người dân Đồng Tâm nếu không đồng tình với kết quả dự thảo trên:
Tại vì đây mới là dự thảo nên chưa thể khiếu nại được vì chưa chính thức. Người dân có thể có ý kiến gửi Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào ngày 26 tháng 6 vừa qua trong cuộc tiếp xúc cử tri ở Hải Phòng khi được người dân chất vấn về vụ việc tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm trả lời rằng phải xử lý cán bộ sai phạm trước rồi mới xử người dân.
Trong buổi dự thảo kết luận thanh tra sáng hôm 7/7, Phó chánh thanh tra Hà Nội Nguyễn An Huy cũng giải trình về việc “xử quan” như sau:
Đến nay UBND huyện đã giải quyết xong 17/ 34 vấn đề phải xử lý cán bộ và xử lý ai. Trong đó về xử lý cán bộ, đã kỷ luật 19 cá nhân có sai phạm, trong đó 8 người bị khai trừ khỏi Đảng, 6 người bị cảnh cáo, 5 người bị khiển trách. Kỷ luật về chính quyền 14 người, trong đó cảnh cáo 12 người, khiển trách 1 người và buộc thôi việc một người.
Cũng cần nói lại là vụ tranh chấp đất đai giữa người dân xã Đồng Tâm và chính quyền địa phương xảy ra đã nhiều năm nay nhưng đỉnh điểm là vào ngày 15 tháng 4 khi Công an Hà Nội bắt giữ 4 người dân Đồng Tâm để điều tra vụ án “gây rối trật tự công cộng” mà thực tế là do tranh chấp đất đai.
Xô xát hôm ngày 15 tháng 4 cũng làm một dân làng là cụ Lê Đình Kình, đại diện dân làng trong vụ tranh chấp đất đai, bị thương phải nhập viện.
Phản ứng trước hành xử của những đơn vị chức năng, người dân Đồng Tâm bắt giữ 38 người gồm cán bộ huyện Mỹ Đức, công an và cảnh sát cơ động làm con tin. Đến ngày 22 tháng 5, đích thân Chủ tịch thành phố Hà Nội về đối thoại và viết cam kết, người dân mới thả hết toàn bộ con tin ra.
L.H.
2. Đồng Tâm, sau 45 ngày của hy vọng
Cát Linh, phóng viên RFA
Dân làng Đồng Tâm đổ đất đá làm chướng ngại vật trên con đường vào làng hôm 20 tháng 4 năm 2017. AFP photo
Đồng Tâm, sau 45 ngày của hy vọng
Sự chờ đợi của người dân thôn Hoành về kết quả thanh tra đất đai Đồng Tâm dường như được giải quyết vào sáng ngày 7 tháng 7. Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung gọi đây là “thực hiện đúng cam kết” mà ông đã hứa với người dân Đồng Tâm: Sau 45 ngày, tại UBND xã Đồng Tâm, dự thảo kết luận thanh tra đất được công bố công khai. Vì sao chỉ là “dự thảo kết luận” nhưng lại công bố rộng rãi?
Dự thảo để thăm dò?
Sau vài diễn biến được gọi là “đầu tiên” trong vụ việc Đồng Tâm, có thể nhắc lại như: Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại sau 1975, người dân thôn Hoành, Đồng Tâm, Mỹ Đức thể hiện sự phản kháng của họ đối với vấn đề cưỡng chế đất đai, đền bù, khiếu kiện bằng hành vi bắt giữ 38 cán bộ và cảnh sát cơ động làm con tin; lần đầu tiên mâu thuẫn đất đai được giải quyết bằng cuộc đối thoại giữa một quan chức cấp cao, và kết thúc bằng một bản cam kết cũng là lần đầu tiên trong lịch sử hành pháp và tư pháp của Việt Nam: bản cam kết viết tay của chính ông chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung cùng với chữ ký của những vị đại biểu Quốc hội làm người đại diện.
Thì một lần nữa, đây là lần đầu tiên một kết luận thanh tra được công bố rộng rãi trước người dân với tên gọi “dự thảo kết luận thanh tra”.
Kết luận này là sai hoàn toàn…Bây giờ bà con cũng đang rất bức xúc khi nghe được tin đó” – Ông Lê Đình Doanh
Chính ông Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung có đưa ra giải thích và được báo chí trích dẫn lại rằng: Cơ quan chức năng có thể tổ chức thông báo dự thảo kết luận thanh tra hoặc không, tuy nhiên, để “thực hiện đúng cam kết” thì dự thảo đã được công bố rộng rãi.
Theo dõi vụ Đồng Tâm từ những ngày đầu cho đến khi diễn ra buổi công bố dự thảo kết luận, tối ngày 7 tháng 7, giáo sư Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng có một lý do để giải thích cho việc gọi là “dự thảo kết luận”.
“Việc họ dự thảo kết luận thanh tra thì họ có cái lý do, là vì họ không tin chắc cái lập luận của họ. Cho nên họ đưa ra dự thảo để xem xét dư luận nói cái gì, người ta phản bác cái gì? Người ta vạch ra cái gì? Người ta vạch ra cái chỗ mâu thuẫn không chính xác… thì họ có thể có cơ hội để điều chỉnh.
Tôi suy nghĩ rằng đấy là một việc mà họ cũng có sự khôn ngoan”.
Như phân tích của giáo sư Nguyễn Khắc Mai đã đưa ra, cách nói “dự thảo kết luận” là người tham dự được quyền lên tiếng đòi hỏi chỉnh sửa nếu cần thiết. Theo tường thuật của báo trong nước, ông Bùi Văn Kỉnh, người dân xã Đồng Tâm, có mặt tại buổi công bố có ý kiến lẽ ra người dân thôn Hoành phải nhận được bản dự thảo trước khi công bố để nghiên cứu nội dung. Ông đề nghị cơ quan chức năng đo đạc lại hai khu đất Đồng Sênh và Cổng Đồn với sự giám sát của hai bên chính quyền và người dân, tuy nhiên lời đề nghị của ông không được chấp thuận.
Ngỡ ngàng
Cũng theo tường thuật của truyền thông trong nước, Phó chánh thanh tra Hà Nội Nguyễn An Huy trình bày dự thảo kết luận với nhiều nội dung chi tiết trong một giờ 30 phút, trước khoảng 200 người gồm đại diện nhân dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức) cùng Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung và lãnh đạo các ban ngành. Một số Luật sư được cho là đại diện nhóm người dân ở thôn Hoành cũng có mặt.
Cảnh sát cơ động được người dân thả ra hôm 22/4/2017 tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. AFP photo
Trong bản dự thảo kết luận, ông nêu, không có diện tích 59 ha đất nông nghiệp xứ đồng Sênh như kiến nghị của ông Lê Đình Kình (đại diện cho người dân có khiếu kiện ở xã Đồng Tâm), diện tích đất sân bay Miếu Môn thuộc địa giới hành chính xã Đồng Tâm chỉ có 64,11 ha và là đất quốc phòng.
Ông chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung, người từng ký cam kết không khởi tố người dân Đồng Tâm, khẳng định rằng, một số quyết định liên quan trong đó có quyết định của UBND TP Hà Nội năm 2014 về khu đất quốc phòng sân bay Miếu Môn 236,9 ha là “đúng pháp luật”.
Ngược lại, Giáo sư Nguyễn Khắc Mai hoàn toàn không đồng ý với kết quả của dự thảo kết luận trên.
“Những kết luận sơ bộ thì tôi thấy nhiều điều không trung thực, và đấy là cái năng lực cũng như là thái độ xưa nay của họ thôi. Họ không muốn đi đến cái chân lý tận cùng đâu”.
Chân lý mà giáo sư Nguyễn Khắc Mai cho rằng cần phải đi đến tận cùng trong giải quyết vấn đề Đồng Tâm, chính là nhìn ra sai lầm đầu tiên, cũng là lớn nhất, đó là chuyển đổi mục tiêu sử dụng đất không rõ ràng minh bạch.
“Người ta giao cho anh làm sân bay chứ không phải nói là đất quốc phòng chung chung rồi anh muốn làm gì thì anh làm. Khi anh đã không làm sân bay thì nguyên tắc anh phải trả lại cho Chính phủ để Chính phủ trả lại cho dân. Hiện nay dân cũng có yêu cầu rất lớn để làm ăn sinh sống. Đó là sai lầm rất lớn của họ”.
Những kết luận sơ bộ thì tôi thấy nhiều điều không trung thực, và đấy là thái độ xưa nay của họ thôi – Giáo sư Nguyễn Khắc Mai
Cùng nhận định trên, Luật sư Đặng Đình Mạnh chia sẻ trên trang cá nhân của ông rằng: Những nguyên nhân chính yếu gây nên “sự cố” Đồng Tâm như chính sách về sở hữu đất đai, về giải quyết khiếu nại, về tình trạng tham nhũng hoặc yếu kém của cán bộ công chức … đều bị xem nhẹ”.
Khoảng hai tuần trước, Công an thành phố Hà Nội ra quyết định khởi tố hình sự vụ Đồng Tâm, ông Lê Đình Kình chia sẽ trong một video clip trên mạng xã hội: “Tôi muốn nói với ông Nguyễn Đức Chung rằng hãy chờ kết quả thanh tra trước khi có quyết định khởi tố”.
Qua đó, nhiều ý kiến nói rằng người dân Đồng Tâm đang trông ngóng và hy vọng vào một kết luận thanh tra sẽ chứng minh được việc họ bắt giữ cán bộ là một động thái bảo vệ đất đai của mình.
Thế nhưng, ngay sau khi bản dự thảo kết luận được công bố, trả lời phóng viên Đài Á Châu tự do, ông Lê Đình Doanh, cháu nội cụ Lê Đình Kình, một trong 4 người từng bị công an Hà Nội bắt liên quan đến vụ tranh chấp đất đai này cho biết bản thân anh và hầu hết người dân Đồng Tâm rất bất mãn.
“Kết luận này là sai hoàn toàn bởi vì từ ngày tôi còn nhỏ đã theo ông bà vào trong đó dỡ sắn, trồng lạc, ngô ở trong đó suốt nên họ nói vậy là sai hoàn toàn. Bây giờ bà con cũng đang rất bức xúc khi nghe được tin đó”.
Theo lời ông Doanh, đất này là đất nông nghiệp của dân từ ngày xưa đến giờ, và Đồng Tâm lại chuẩn bị dậy sóng.
Và ông Lê Đình Kình, người được cho là thủ lĩnh của thôn Hoành, sau khi theo dõi diễn biến buổi công bố dự thảo kết quả thanh tra, đã trả lời báo chí trong nước rằng “Chúng tôi sẽ tiếp tục kiến nghị lên Chính phủ”.
Ông chính là người nói lời cảm ơn ông Nguyễn Đức Chung trong một đoạn video lan truyền trên mạng xã hội, với nội dung: Nếu ông Nguyễn Đức Chung không về xử lý vụ Đồng Tâm thì có thể xảy ra vụ Thiên An Môn tại Việt Nam, và từ đó sẽ để lại cho chế độ một vết nhơ không xoá được.
C.L.
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/dongtam-after-45-days-of-hope-cl-07072017130909.html
Giữa Cơn Gió Bụi- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Giữa Cơn Gió Bụi- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien
Lịch sử không có chữ NẾU. Nhưng, đôi khi tôi vẫn cứ không cầm lòng được, suy nghĩ vẩn vơ, Việt Nam sẽ ra sao, nếu từ tháng 8-1945 vẫn là “Chính phủ Trần Trọng Kim”…
Tuần rồi, trên trang Dân Luận có một bài viết ngắn nhưng rất súc tích của tác giả Mạnh Kim. Xin được ghi lại đôi dòng:
“Lại thêm một quyển chi tiết về ‘một góc đời thường’ Hồ Chí Minh, về vai trò rất ít được biết của Võ Nguyên Giáp, về những ngày tranh giành quyền lực và triệt hạ nhau giữa Việt Minh với các đảng phái đối thủ mà Việt Minh có khi không ngần ngại dùng ‘mền trùm đầu rồi bắt đi mất tích’. Việt Minh, theo miêu tả trong ‘Một cơn gió bụi’, là tổ chức có thủ đoạn chính trị quỷ quyệt bậc nhất giai đoạn lịch sử thập niên 1940.”
Cùng lúc, nhà báo Huy Đức cũng có góp đôi lời (nhỏ nhẹ) về sự kiện này:
Lý do chính để Cục xuất bản ra lệnh thu hồi Một Cơn Gió Bụi của học giả Trần Trọng Kim là vì “cuốn sách có nhiều chi tiết, đánh giá không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng”. Một cơn gió bụi (Kiến văn lục) là cuốn hồi ký của học giả Trần Trọng Kim (1882-1953), từng được NXB Vĩnh Sơn phát hành năm 1969. Đầu năm 2017 sách được NXB Hội nhà văn và Phương Nam Books phát hành.
Sự thật lịch sử là một khối đa diện, không ai có thể tiếp cận hết mọi tiết diện. Nếu sách có những chi tiết “không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng” thì hãy để các nhà sử học khác kiểm chứng, chỉ ra cái sai. Điều quan trọng là những gì cụ Trần Trọng Kim viết trong Một Cơn Gió Bụi đã phải là sự thật hay chưa. Nếu đã là sự thật thì nó luôn phù hợp ở mọi thời đại, chế độ nào thấy một sự thật không phù hợp với mình thì chế độ đó… không phù hợp với thời đại nào của loài người cả.
PS: Tôi cực lực phê phán việc biên tập sách nhưng tôi cũng khuyến cáo Cục Xuất bản rằng, lệnh cấm này sẽ khiến người đọc trẻ tìm tới bản in không bị kiểm duyệt của NXB Vĩnh Sơn, bản in mà trong đó có nhiều đoạn rất nhạy cảm đã bị NXB Hội Nhà Văn biên tập.
Ví dụ: Trang 75 bản Vĩnh Sơn 1969 có đoạn “Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên Đỗ Thị Lạc là người sau này có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản”. Đoạn này đã bị cắt ở bản Phương Nam in 2017 (trang 80).
So với cái tâm, và cái tầm, của nhà xuất bản thì chuyện “cắt xén” vụn vặt kể trên không có chi đáng để phàn nàn; bởi ngoài hai ấn bản thượng dẫn, còn có bản in năm 2015 – do tuần báo Sống phát hành từ California – và hàng chục trang mạng với đường dẫn đến nguyên bản của tác phẩm này. Bức màn sắt đã rớt xuống từ lâu. Đâu có chuyện chi mà dấu được hoài bên trong đó nữa!
Wikipedia tiếng Việt, giọng Hà Nội, có ghi lại những câu sau:
- Chính phủ Trần Trọng Kim thường được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mô tả trong các tài liệu nghiên cứu chuyên môn trước và sau năm 1975, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là bù nhìn của Nhật.
- Việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn để dẫn dụ ông, chứ bản thân ông tự ý thức bản thân mình bất lực, họ trao quyền cũng chỉ để biến ông thành bù nhìn.
Cái thời độc quyền thông tin đã qua nên cùng với “các tài liệu nghiên cứu chuyên môn” của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, còn có không ít ghi nhận của những vị thức giả khả tín. Xin đơn cử một vài để rộng đường dư luận:
“Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, Chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chánh cho các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6. Thiết lập các Uỷ ban Tư vấn Quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chánh và giáo dục [7].
Chỉ trong thời gian ngắn ngủi bốn tháng (17.4-16.8) Chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này.”
“Về phần Nội các Trần Trọng Kim, mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian chưa đầy 4 tháng (từ 17.4 đến 7.8.1945, nếu tính đến 23.8.1945 khi quyết định xong Chiếu thoái vị thì được 4 tháng 6 ngày, tổng cộng 126 ngày, tương đương 1/3 năm) và làm việc trong những điều kiện vô cùng khó khăn, nhất là khi vẫn bị quân đội Nhật kiềm chế mọi mặt, Nội các đã tỏ ra năng nổ, nhiều thiện chí và cũng đã làm được một số việc đầy ý nghĩa, đáng ghi nhận:
– Tháng 6 năm 1945, đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam (bỏ tên Đại Nam, Annam); tạm duy trì bài quốc thiều “Đăng đàn cung“; đổi mới quốc kỳ, thay cờ Long tinh bằng cờ quẻ Ly có nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm.
– Bộ Tiếp tế tập trung cao độ lo việc cứu đói nhưng kết quả rất hạn chế vì phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ và nhất là giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt.
– Thanh trừng quan tham lại nhũng với kết quả hạn chế, vì thời gian ít và điều kiện khó khăn trước mắt về nhân sự chưa cho phép làm mạnh.
– Tha thuế thân cho người dân và cho những công chức có thu nhập thấp. Thực hiện sự công bằng về thuế khóa.
– Chủ trương tăng lương cho tiểu công chức, bỏ các món chi tiêu huy hoàng vô ích.
– Can thiệp với Nhật để từ ngày 9.8.1945 tổng ân xá các tù chính trị, kể cả những người cộng sản đã bị Pháp bắt giam tại các nhà lao và nhà ngục khổ sai. Chủ trương trừng thanh quan lại và bài trừ tệ hối lộ.
– Đấu tranh với Nhật đòi lại các công sở và lấy lại được ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20.7.1945.
– Ngày 1.8.1945, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội vốn biểu trưng cho nền thống trị ngoại bang, như tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xòe ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm Lính Khố xanh, Khố đỏ.
– Ngày 14.8.1945, tranh thủ lấy lại Nam Kỳ cho triều đình Huế, thống nhất (về mặt danh nghĩa) đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam.
– Chủ trương cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
– Về tư pháp, thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp trên cơ sở thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn. Đạo luật tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên ở Việt Nam là do chính phủ Trần Trọng Kím soạn thảo và ban hành ngày 5.7.1945.
– Đổi chương trình học tiếng Pháp ở bậc Tiểu học và Trung học sang chương trình tiếng Việt, do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn chủ trì biên soạn.
– Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lãnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc với các công ty người Hoa…
“Bốn tháng đầy rẫy những khó khăn nhưng những thành quả đạt được không phải là không đáng ghi nhận… Vượt qua tất cả mọi khó khăn, Trần Trọng Kim và các cộng sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế, từ những việc làm có tính các tương trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca… đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam và cấm họ liên lạc trực tiếp với người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má, tư pháp, vận động thanh niên sinh viên và cả quần chúng nói chung tham gia sinh hoạt chánh trị, xã hội, lập các hội đồng tư vấn địa phương và vận dụng mọi khả năng để thực hiện.”
Nội Các Trần Trọng Kim. Ảnh: Chính Danh Văn Hoá Việt Nam
Tổng cộng thời gian chấp chính của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, có lẽ, vẫn chưa bằng số giờ mà các ông Thủ Tướng Cộng Sản sau đó ngồi hội họp. Và có lẽ đám người này không họp bàn về chuyện gì khác ngoài việc bán nước hại dân nên chế độ hiện hành càng kéo dài thì quê hương càng lụn bại.
‘A lô! Lương tri có nghe tôi rõ không?’
‘A lô! Lương tri có nghe tôi rõ không?’
Tạp ghi Huy Phương

Nhân chuyện có tình trạng gian dối của người sản xuất hiện nay ở Việt Nam, như chuyện hai chuồng lợn, hai luống rau, một để ăn, một để bán; rồi bơm hóa chất vào tôm, dùng thịt ôi làm ruốc, Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã phát biểu: “Phải kêu gọi lương tri của người sản xuất để họ không vì lợi nhuận mà cố tình làm trái pháp luật, bất chấp tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng.”
Lương tri là gì? Có lương tri không? Lương tri ở đâu? Ai là người đứng ra kêu gọi lương tri? Để tôi ra đường bắc loa gọi lớn tìm lương tri về, vì đất nước này, lương tri đi vắng đã lâu: “A lô! Lương tri nghe tôi rõ không? Có người đang kêu gọi lương tri!”
Lương tri được xem như là cái trí thức người ta vốn biết, không cần phải suy nghĩ và học tập mới biết. Như vậy, nói chung đó là bản chất vốn có của con người, biết phải trái, biết thiện ác. Nếu định nghĩa như vậy, thì hiện nay con người cộng sản trong nước không có lương tri, vì đảng được nuôi dưỡng bằng giáo điều, sách lược, cương lĩnh, đường lối, qui định, phương hướng… Những điều này đã giết chết con người Việt Nam vốn chơn chất, đôn hậu, hiền lành.
Kêu gọi lương tri, lương tri ở đâu mà kêu gọi? Lương tri ở trong mỗi người, nhưng từ ngày theo đảng, con người đã đánh mất lương tri.
Liệu nếu có lương tri, nhà cầm quyền hiện nay có xử một người đàn bà yêu nước, chỉ biết tranh đấu bằng lời nói và cây bút, 10 năm tù như một tội phạm giết người cướp của như thế không. Nếu nói đến lương tri đúng nghĩa thì Mẹ Nấm, một người đàn bà yếu đuối, có mẹ già con dại, là một công dân có lương tri và bọn ngồi trên bàn xử án, hay những nhân vật quyết định bản án cho Mẹ Nấm từ trung ương xuống là những người hoàn toàn không có lương tri.
Là công dân có lương tri ai cũng phải có lòng ái quốc, thương nước, yêu nòi. Người yêu nước có lương tri phải hành động. Mẹ Nấm chính là một con người như thế. Nhưng nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay chính là những người thiếu lương tri, nên mới đem những người ái quốc ra tòa xét xử và cầm tù họ. Đảng Cộng Sản Việt Nam kết tội nhiều nhà tranh đấu cho nhân quyền là làm gián điệp, dựa thế lực ngoại bang, theo thế lực thù địch, diễn tiến hòa bình. Nhưng nếu những viên chức cao cấp ở Việt Nam ngày nay vẫn tuyên truyền đem chính nghĩa cho kẻ thù, tâng bốc bọn ngoại xâm, thì tội ấy kết là tội gì?
Một người có chút lương tri không thể nào có những câu nói, vùa ngu dốt, vừa ngược ngạo, vừa vô liêm sỉ như những người cộng sản hôm nay:
-“Đào mộ tổ tiên của tôi thì được, nhưng giật đổ tượng Lê-nin là thiếu văn hóa.” (Tiến Sĩ Vũ Minh Giang – Đại Học Quốc Gia Hà Nội)
-“Từ ngày còn bé, tôi đã được học, Hoàng Sa, trường Sa là của Trung Quốc rồi.” (Giáo Sư Nông Lập Phu)
-“Xin đừng vì vài cái đảo nhỏ ở Biển Đông mà làm mất đi tình hữu nghị láng giềng tốt đẹp giữa hai nước, bởi nếu không có đảng Cộng Sản Trung Quốc chống lưng, đảng ta sẽ không thể tồn tại cho đến ngày hôm nay. (Võ Thị Thu Thủy, phó chủ tịch UBND Quảng Ninh.)
Tiến Sĩ Alan Phan, người có kinh nghiệm với xã hội Trung Quốc dưới thời Cộng Sản, đã nêu lên những hình ảnh thiếu lương tri của đất nước này, và Việt Nam là một bản sao tuyệt hảo:
-Trung Quốc có bao nhiêu giáo sư đại học “luồn cúi quyền lực” hoặc “tham lợi bán điểm?”
-Có bao nhiêu người làm nghề chữ nghĩa vì chút tiền mà đưa tin giả, tô vẽ hỗ trợ bọn tham quan?
-Có bao nhiêu “nhà văn” viết tiểu sử cho lũ sâu mọt quốc gia?
-Có bao nhiêu “nhân sĩ nổi tiếng” vì áo quan đung đưa trước mắt mà vứt bỏ nguyên tắc?
-Có bao nhiêu kẻ biên soạn cái gọi là “Sổ tay danh nhân,” “Sổ tay nghệ thuật gia?”
– Có bao nhiêu thầy thuốc làm nghề “môi giới dược phẩm?”
– Có bao nhiêu thầy cô tìm mọi cách đào tiền trong túi học trò?
– Có bao nhiêu “nhà kinh tế học” vì “tiền thưởng” của bọn tài phiệt mà đứng trên danh nghĩa chức vị uy quyền nói ra những lời lẽ hoang đường?
– Có bao nhiêu tên lưu manh văn hóa biến bọn trùm xã hội đen thành doanh nhân?
Trở về câu chuyện bà Nguyễn Thị Kim Tiến ở đầu bài, người đã kêu gọi lương tri của những người sản xuất thực phẩm, nhưng chính bà, nếu có lương tri, đã từ chức từ lâu ngay từ vụ 108 trẻ em chết trong đợt dịch sởi năm 2014, vì Bộ Y Tế cố giấu những thông tin về bệnh sởi, “vì những nguyên nhân chưa rõ nguyên nhân!”
Trong những địa hạt khác, bọn cầm quyền vô lương tri muốn lấy tiền thuế của dân, xây tượng đài Hồ Chí Minh 1,400 tỷ đồng ở Sơn La (xin nhớ 1 tỷ đồng Việt Nam = $40,000) trong khi dân chết phải bó chiếu mang về nhà. Giáo Sư Ngô Bảo Châu đã thẳng thắn cho rằng đây là một ý tưởng “không thần kinh thì cũng khốn nạn!”
Nếu chúng ta là những người có lương tri, chúng ta đứng về phía dân tộc hay đứng về phía bọn tư bản Formosa. Nếu một nhà cầm quyền có lương tri, nỡ nào thấy ngư dân trong vùng biển quê nhà, phải chịu đòn bởi ngoại xâm, mà không mở miệng nói được một lời phản đối. Công an có đặc quyền xâm phạm an ninh của quốc dân, tướng lãnh được ân sủng của đảng, đặc lợi ngập mặt, hành động theo lợi lộc, chứ không phải hành động theo lương tri.
Kẻ sĩ có lương tri lấy làm đau lòng khi thấy đồng bào tứ tán, tha phương cầu thực, phụ nữ đánh mất phẩm giá, đạo lý suy đồi, nhân tâm ly tán.
Chúng ta đòi hỏi, kêu gọi gì ở những kẻ bần cùng, nghèo đói trồng rau bẩn, bán thịt ôi mà quên nói đến nhà cầm quyền đầy quyền lực, đang bán nước, bán rừng, bán biển, cho thuê cả tổ quốc. Những kẻ dựa vào thế lực được đảng bao che, phá rừng, lấp hồ xây nhà cao, cửa rộng, bịt mắt che tai, thì lương tri nằm ở đâu?
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến muốn kêu gọi lương tri, nhưng chính bà cũng không biết lương tri là gì, lương tri ở đâu. Nếu biết hẳn bà đã thấy hổ thẹn khi còn tại vị ở cái ghế, liên quan đến mạng sống của người dân trong bao nhiêu năm nay, mà không biết liêm sỉ, biết xấu hổ. Cả cái bộ máy cai trị đất nước này không có lương tri, sá gì một mụ đàn bà tay chân, công cụ của đảng.
Lương tri nằm trong lòng mỗi người, đâu có xa xôi gì mà phải kêu gọi.
Mẹ Nấm lãnh bản án 10 năm tù giam, cũng chỉ vì bà là người của lương tri sống giữa một bầy thú! Vì đã là con người, ai cũng phải có lương tri!
Việt Nam nạo phá thai cao thứ 5 thế giới
Việt Nam nạo phá thai cao thứ 5 thế giới

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Theo thống kê chuyên ngành, Việt Nam là một trong năm nước có tỉ lệ phụ nữ phá thai cao nhất thế giới.
Đó là lời của ông Trần Văn Trị, chi cục trưởng Chi Cục Dân Số-Kế Hoạch Hóa Gia Đình thành phố Sài Gòn, nêu ra tại lễ kỷ niệm ngày Dân Số Thế Giới (11 Tháng Bảy), theo báo Pháp Luật TP.HCM.
Ông Trị cho hay, những năm trước tỉ lệ phá thai ở tuổi vị thành niên chiếm 5-7% tổng số ca phá thai thì vài năm gần đây con số này tăng lên 20%.
Báo Pháp Luật TP.HCM dẫn lời ông Võ Thành Đông, phó tổng cục trưởng Tổng Cục Dân Số-Kế Hoạch Hóa Gia Đình (Bộ Y Tế), nhận định tỉ lệ phá thai ở Sài Gòn cao nhất nước.
Theo báo điện tử Zing, bà Nguyễn Thị Hoài Đức, viện trưởng Viện Sức Khỏe Sinh Sản và Gia Đình, cho biết hằng năm, khoảng 300,000 nữ giới từ 12-19 tuổi phá thai, 20-30% ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn, 60-70% là sinh viên.
Bà cho biết: “Từng chứng kiến rất nhiều nỗi đau phải phá thai sớm của trẻ vị thành niên. Các em đều đến bệnh viện khi tuổi thai đã lớn, trên 2-3 tháng. Thậm chí, nhiều cháu đang là học sinh, khi phát hiện mang thai đã tự mua thuốc kích thích chuyển dạ trên mạng để phá dẫn tới bị băng huyết ồ ạt.”
Bà lo ngại tình trạng phá thai ở người trẻ ngày càng gia tăng. Nghiên cứu của bà và các đồng nghiệp từng chỉ ra tình trạng nạo phá thai ở vị thành niên Việt Nam cao hơn nhiều nước trong khu vực và đứng thứ năm trên thế giới.
“Đáng lo ngại, tình trạng trẻ em gái ở lứa tuổi 12 có nhu cầu phá thai ngày càng tăng. Trên thực tế, con số nạo phá thai còn cao hơn rất nhiều vì không thể thống kê những trường hợp thực hiện chui,” báo điện tử Zing cho biết.
Bà cho rằng những em gái đã mang thai do xấu hổ và bất đồng của cha mẹ nên giấu không cho gia đình và mọi người biết. Các em thường tìm đến các cơ sở y tế không có chất lượng hoặc thầy lang với điều kiện thiếu vệ sinh, thiếu trang thiết bị và kỹ thuật không bảo đảm an toàn dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như chảy máu, viêm nhiễm, sót nhau, tổn thương tử cung, thậm chí có thể gây tử vong và vô sinh.
Theo bà Đức, số bé gái có con khi ở dưới tuổi 18 chiếm đến 5% đến 15%. Mang thai ở tuổi dưới 20 nguy hiểm hơn năm lần so với mang thai trong độ tuổi 24-25. (Q.D.)
‘Tự tử khi đang viết tự khai’ trong nhà tạm giữ ở Phan Rang
‘Tự tử khi đang viết tự khai’ trong nhà tạm giữ ở Phan Rang

Một thanh niên ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận vừa qua đời sáng 8/7 sau khi được cho là tự tử khi đang “viết tự khai” tại đồn công an ở Phan Rang, truyền thông trong nước đưa tin.
Hôm 6/7, anh Nguyễn Hồng Đê, 25 tuổi, được đưa về Nhà tạm giữ Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm vì là nghi phạm trong một vụ án cố ý gây thương tích xảy ra từ hồi cuối tháng 5, Công an Thành phố Phan Rang được các báo dẫn lời.
Vào khoảng 16.00 chiều ngày 7/7, khi mẹ của anh Nguyễn Hồng Đê đến xin vào gặp con thì phát hiện anh trong trạng thái treo cổ vào cửa sổ bằng chiếc áo sơ mi đang mặc.
Tờ Người lao động nói trước khi điều tra viên vụ án đưa mẹ của anh Đê vào phòng để gặp con mình, anh được cho là đang “ngồi viết tự khai”.
Anh Đê được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Đa khoa Ninh Thuận ngay sau đó nhưng đã tử vong sáng sớm ngày 8/7.
Gia đình anh Đê yêu cầu đưa thi thể anh về nhà để an táng. Theo tờ Pháp Luật, người nhà anh Đê đẩy thi thể anh trên băng ca qua nhiều đường phố và đến trước cổng UBND tỉnh Ninh Thuận để phản đối vì cho rằng anh Đê tử vong không phải do tự tử. Họ không sử dụng xe cứu thương mà cơ quan chức năng tỉnh Ninh Thuận thu xếp.
Hiện công an tỉnh Ninh Thuận đang tiến hành điều tra vụ việc.
Đây là vụ người dân chết trong đồn công an thứ hai xảy ra trong vài tháng gần đây tại Việt Nam.
Hồi đầu tháng 5, giới chức nói ông Nguyễn Hữu Tấn, 38 tuổi, người bị công an tỉnh Vĩnh Long bắt để điều tra hành vi “tán phát tài liệu chống phá nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, đã “tự sát” chỉ sau một ngày tạm giam.





