Nguồn nước ô nhiễm gây ung thư và tử vong nhiều tại Việt Nam

Nguồn nước ô nhiễm gây ung thư và tử vong nhiều tại Việt Nam

RFA
2017-06-06
 
 
 

Công nhân môi trường đô thị dùng hóa chất tẩy sạch một hồ nước bị ô nhiễm ở trung tâm thành phố Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 2016.

Công nhân môi trường đô thị dùng hóa chất tẩy sạch một hồ nước bị ô nhiễm ở trung tâm thành phố Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 2016.

AFP photo
 

Nguồn nước ô nhiễm là nguyên nhân khiến hơn 9.000 người chết và hơn 100.000 trường hợp bị ung thư mỗi năm tại Việt Nam.

Đây là số liệu được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đưa ra tại hội thảo “Bồn tự hoại Septic Sơn Hà – Giải pháp xanh trong xử lý nước thải” tổ chức tại Hà Nội ngày 6/6.

Tại hội thảo, các chuyên gia nhận định việc sử dụng bể phốt bằng bê tông để xử lý nước thải sinh hoạt tại các đô thị không đảm bảo do các bể này có thể bị rò rỉ sau một thời gian chịu tác động từ môi trường, và sẽ tràn trực tiếp vào nguồn nước ăn và nước ngầm.

Ngoài ra, các chuyên gia cũng thảo luận về các tác động của nguồn nước ô nhiễm tới sức khỏe con người và biện pháp xử lý nước thải ở Việt Nam.

Bệnh viện Ung bướu TP.HCM: Bệnh nhân chen nhau dưới gầm giường, bác sĩ phải ngồi xuống tiêm

Bệnh viện Ung bướu TP.HCM: Bệnh nhân chen nhau dưới gầm giường, bác sĩ phải ngồi xuống tiêm

(VTC News) – Người bệnh chen nhau dưới gầm giường, nằm la liệt dọc các lối đi, hành lang, ghế đá là tình trạng quá tải trầm trọng đang diễn ra tại Bệnh viện Ung bướu TPHCM

Video: Giật mình cảnh bệnh nhân chen nhau dưới gầm giường tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM. (Thy Huệ) 

Bước chân vào Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, ngay từ cổng vào đến các phòng khám, phòng lưu bệnh nhân, phòng bệnh, tất cả đều quá tải. Bệnh nhân chen chúc nhau chờ khám, người bệnh, người nhà nằm la liệt khắp các ngõ ngách bệnh viện.

Cụ thể, theo ghi nhận của phóng viên VTC News tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM chiều 16/5, tình trạng bệnh nhân phải nằm ghép 2 – 3 người một giường, thậm chí chen nhau dưới gầm giường, nằm la liệt dọc các lối đi,… đã trở thành điều “dĩ nhiên”.

Hinh anh

Bệnh nhân nằm la liệt dọc các lối đi.

Mọi ngõ ngách tại bệnh viện như cầu thang, ghế đá, thậm chí ngay trước cửa nhà vệ sinh vẫn có bệnh nhân nằm chờ được khám, điều trị. Nhiều bệnh nhân ở xa vì kinh tế khó khăn, không có tiền đi lại nên phải “đóng đinh” hàng tháng trời tại các ghế đá trong khuôn viên để chờ tái khám.

Bà Bùi Thị Huệ (ngụ Lâm Đồng), bệnh nhân ung thư vú, phàn nàn: “Tới bệnh viện là ám ảnh, chen nhau đi còn khó, nói gì chỗ nằm. Phòng 4 giường đúng ra là 4 người, mà không khi nào được vậy, ít nhất lúc nào cũng 12 người. Bác sĩ đến khám thì cũng phải cúi đầu xuống gầm giường mà khám thôi”.

 

Chung nỗi lòng của bà Huệ, bà Nguyễn Thị Xuyến (ngụ Đồng Nai) mệt mỏi: “Khổ lắm, tôi ung thư đến nay cũng 8 năm rồi, có đăng ký hồ sơ đầy đủ mà không có chỗ nằm. Chật chội quá nên tìm xuống hành lang nằm vậy. Tính nằm dọc lối đi trên khoa luôn, nhưng mà đâu còn chỗ, người bệnh nằm hết, người chăm bệnh thì chỉ đủ chỗ đứng thôi”.

Hinh anh

Nhân viên y tế điều trị cho bệnh nhân nằm dưới gầm giường.

Rõ ràng, khi bệnh viện quá tải thì người bệnh khổ, người nhà bệnh nhân khổ, thầy thuốc khổ và cả điều dưỡng cũng khổ.

Có thể nói, vấn đề quá tải bệnh viện chưa thực sự có nhiều chuyển biến. Nhưng với thông điệp mà Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến phát biểu trước cử tri cả nước “Giảm tải bệnh viện luôn là mục tiêu mà ngành y tế chú trọng hàng đầu” thì người bệnh vẫn có thể hy vọng.

Và thẳng thắn nhìn nhận, các bệnh viện đã rất nỗ lực để giảm tải trong thời gian qua. Tuy nhiên, để giải “bài toán” quá tải thì không thể chỉ có lời cam kết “trên giấy” mang tính hình thức hoặc áp dụng những giải pháp tình thế như chia đều bệnh nhân giữa các khoa, phòng hoặc kê thêm giường ở hành lang,…

Điều quan trọng hơn cả là công tác giảm tải phải được thực hiện một cách quyết liệt dựa trên giải pháp khả thi, phù hợp điều kiện thực tế, đặc biệt là cải thiện chất lượng hệ thống cơ sở vật chất của các bệnh viện.

Việt Nam: Còn lâu mới có thức ăn, nước uống sạch

Việt Nam: Còn lâu mới có thức ăn, nước uống sạch

Ở Việt Nam, mua gì cũng phải cân nhắc xem có sạch hay không. (Hình: Tuổi Trẻ)

VIỆT NAM (NV) – An toàn thực phẩm chuyện tưởng như đương nhiên nhưng lại trở thành chủ đề được thảo luận sôi nổi tại Quốc hội Việt Nam. Cuối cùng, vẫn chẳng có giải pháp nào khả thi.

Thực phẩm nhiễm đủ loại hóa chất nguy hại cho sức khỏe vốn là vấn nạn trầm kha mà hệ thống công quyền Việt Nam bó tay.

Trong báo cáo gần nhất gửi Quốc hội Việt Nam, chính phủ Việt Nam cho biết, từ 2011 đến 2016, tại Việt Nam có 1.007 vụ ngộ độc thực phẩm, với 30.395 nạn nhân, 164 người trong số này đã chết.

Những số liệu vừa kể tuy rất đáng chú ý nhưng theo tường thuật của tờ Tuổi Trẻ thì ông Nguyễn Hoàng Mai, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội Việt Nam, nhấn mạnh, đó chỉ là “phẩn nổi của tảng băng”. Mỗi năm có hàng chục triệu ca tiêu chảy vì thực phẩm bẩn và dân chúng tự xử nên không được các cơ sở y tế ghi nhận. Ông Mai lưu ý, còn hàng loạt loại bệnh tật nguy hiểm khác phát sinh do thực phẩm bẩn chưa được đề cập.

Theo ông Mai, Văn phòng Quốc hội Việt Nam đã thử tiến hành một cuộc khảo sát mà theo đó, chỉ có 10% người tham gia khảo sát cho biết, họ yên tâm với thực phẩm mà họ sử dụng hàng ngày. Đó cũng là lý do dân chúng Việt Nam thi nhau tự trồng rau, tự nuôi gia súc, gia cầm để sử dụng.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, đại biểu của tỉnh Quảng Bình, nhận định, tuy có rất nhiều luật (Luật An toàn thực phẩm, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Tố tụng dân sự ) và các văn ban dưới luật, cùng với ba bộ (Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Y tế) nhưng thực phẩm vẫn bẩn, dân chúng vẫn khjo6ng biết đường đâu mà lần.

Ông Phạm Trọng Nhân nêu ví dụ, hiện nay, một cọng bún được tới ba bộ quản lý: Nguyên liệu và bột gạo thuộc quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, sản phẩm thuộc quyền quản lý của Bộ Công Thương. Kiểm tra xem cọng bún có chất nào nguy hại cho sức khỏe hay không thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ Y tế song bún vẫn… không an toàn.

Bà Phạm Khánh Phong Lan, đại biểu của Sài Gòn, bổ túc thêm, các cơ sở sản xuất thực phẩm đang bị bủa vây bởi một rừng qui định – đòi phải xin “giấy chứng nhận”. Trong số này có 59 thủ tục phải hoàn tất để được nhận các loại “giấy chứng nhận” từ cấp bộ, 47 thủ tục phải hoàn tất để có thêm những “giấy chứng nhận” khác từ chính quyền các địa phương. Thế nhưng theo bà Lan vì hệ thống công quyền chỉ quan tâm đến các loại “giấy chứng nhận” nên nhũng nhiễu tràn lan còn thực phẩm vẫn cứ bẩn.

Ông Phạm Trọng Nhân lưu ý đến một vấn nạn khác đã được đề cập từ lâu nhưng bị giới hữu trách phớt lờ. Đó là việc cho phép nhập khẩu đủ loại “thuốc bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc với số lượng càng ngày càng lớn. Mỗi năm, Việt Nam tiếp tục nhập khoảng 100.000 tấn “thuốc bảo vệ thực vật” với 4.100 loại khác nhau. Trong số này có khoảng 3.500 loại mà ngay cả Trung Quốc cũng cấm sử dụng vì làm đất, nông sản nhiễm độc. Ông Nhân nêu thắc mắc, có phải Việt Nam đang tự đầu độc chính mình?

Ông Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, chống chế, vấn nạn thực phẩm bẩn không quá nghiêm trọng, bằng chứng là nông nghiệp tăng trưởng tốt hơn trước, là tuổi thọ trung bình của người Việt đã được nâng lên thành 74. Bà Tô Thị Bích Châu, đại biểu của Sài Gòn đã bác bỏ lập luận “tuổi thọ trung bình tăng”. Theo bà Châu, tuổi thọ về sức khỏe quan trọng hơn tuổi thọ trung bình. Tuổi thọ về sức khỏe của dân chúng Việt Nam chỉ có 56. Nếu so hai thứ với nhau thì chảng lẽ chấp nhận sống 18 năm còn lại trong bệnh tật? Ông Nguyễn Thanh Hồng, đại biểu của tỉnh Bình Dương cũng bác bỏ lập luận “nông nghiệp tăng trưởng tốt hơn trước” vì đó là tác động từ tăng trưởng chung của kinh tế, không phải nhờ bảo vệ được an toàn thực phẩm. (G.Đ)

Cho con đi du học

Cho con đi du học

 (Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng cháu phải ra đi…)

FB Đỗ Ngọc Thống

Có lần phóng viên của hai tờ báo lớn cùng phỏng vấn tôi một câu hỏi:

– Ông là người làm chương trình giáo dục và viết sách giáo khoa phổ thông, sao con, cháu ông đều học và sống ở Đức?

Ẩn ý của người hỏi thì đã rõ. Nói một cách trắng phớ ra là: “hàng” của ông làm ra toàn cho người khác dùng, còn con cháu ông thì dùng loại khác. Cũng có nghĩa là “sản phẩm” của ông chẳng ra gì, toàn là “rau quả phun hóa chất độc hại”.

Tôi cười lớn và trả lời nhỏ nhẹ:

– Các bạn đã đặt ra một vấn đề rất hay. Và tôi hiểu rất rõ hàm ý của câu hỏi ấy. Vậy tôi xin trả lời bằng cách hỏi lại các bạn: liệu cho con du học có phải chỉ vì chương trình giáo dục và sách giáo khoa của ta kém hay không? Để làm rõ câu này, xin hãy trả lời các câu hỏi tiếp:  

– Cứ cho là có thật nhiều tiền đi, liệu sống ở Hà Nội, thành phố HCM hay nhiều nơi trên đất nước ta, bạn có được hít thở một bầu không khí trong lành? Có được uống một lọai nước sạch đáng tin cậy? Có không phải nghe VTV liên tục cảnh báo “an toàn thực phẩm”, liên tục “nói không với thực phẩm bẩn” mà thực phẩm bẩn vẫn liên tục xuất hiện ngày càng nhiều? Liệu các bạn có được đi lại bằng một hệ thống giao thông thuận tiện, chính xác và an toàn thoải mái? Có không bị hành hạ lên xuống khi đến các cơ quan công quyền? Và không may thất nghiệp liệu bạn có được nhà nước nuôi không ở mức sống bình thường? Có không phải chịu cảnh thằng giỏi làm tớ thằng ngu? Rồi thằng ngu lên quan lại kéo theo cả nhà làm lãnh đạo để cai trị thằng giỏi? Có được sống trong một thể chế thực sự thượng tôn pháp luật? Có không phải chứng kiến hàng ngày những kẻ tham nhũng, làm thất thoát, gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước, đáng ra dứt khoát phải đền cho dân bằng tài sản, phải truy tố, ngồi tù, cần thì tử hình, nhưng rút cuộc chỉ phải cách cái chức khi đã về vườn?… Có nước nào như nước ta không? Cả nước hát quốc ca “chui” mấy chục năm, mãi nay mới được “cấp phép” bởi một tay không hiểu gì về văn hóa, ở một bộ có tên Văn hóa?

Và còn biết bao câu hỏi khác về đời sống tinh thần mà tôi không tiện dẫn ra. Bạn cứ nghĩ và trả lời các câu hỏi ấy… thì sẽ hiểu vì sao tôi cho con du học và sống ở xứ người. Mặc dù xứ ấy một thời là đất nước của Hitler. Và mặc dù đất nước ta đẹp vô cùng.

Nghe xong, hai cô PV cười và nói: “thế thì em cũng cho con du học”.

P/S. Xin nói thêm, hai con tôi đều học phổ thông ở Việt Nam, chỉ đại học cả 2 mới sang Đức. Thằng con trai học toán trung bình thôi nhưng khi sang Đức học IT, chuyên ngành Computer Science tại đại học J.W. Goethe, nó được ông thầy chọn là trợ giảng cho môn toán. Xin cảm ơn các thầy cô giáo phổ thông đã dạy cháu, nhất là các thầy cô môn Toán.

Hà Nội, 04-6 nóng khủng khiếp, viết cho đỡ nóng.

Nguồn: https://www.facebook.com/thongdongoc/posts/10213381293956154?pnref=story

Những người vợ hy sinh bội phần

Những người vợ hy sinh bội phần

Lan Hương, phóng viên RFA
2017-06-02
 
Gia đình nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền.

Gia đình nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền.

Photo: fb Bach Hong Quyen

Thông thường phụ nữ luôn được coi là phái yếu và là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi hơn trong xã hội cũng như cuộc sống gia đình. Trong thời buổi hiện đại, hầu hết phụ nữ đều tham gia lao động phụ giúp tài chính, về nhà lại lo việc nhà và con cái, lo đối xử nội ngoại sao cho phải đạo,… Nhưng ít nhất phần đông trong số họ có sự giúp đỡ, sẻ chia từ chồng nên vơi bớt phần nào.

Tuy nhiên, những người vợ có chồng tham gia đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi hơn những người vợ bình thường vì công việc của chồng họ.

Vợ anh Bạch Hồng Quyền

Gặp anh Quyền khi cả hai cùng lên tiếng đấu tranh lấy lại đất cho một nhà thờ địa phương, chị Linh đã thầm mến người đàn ông quên đi lợi ích của bản thân để tìm lại công bằng cho mọi người. Cả hai đều cùng chung chí hướng nên ngay từ những ngày đầu yêu nhau, chị đã luôn ủng hộ và giúp đỡ anh Quyền trên con đường anh chọn:

Trước khi yêu nhau bọn mình cùng lên tiếng về vụ đất đai ở giáo xứ Thái Hà những năm 2008 – 2010. Cả hai cùng đi đòi đất cho nhà thờ nên mình đã biết và xác định con đường anh Quyền sẽ đi rồi.

Anh Bạch Hồng Quyền là một nhà hoạt động môi trường, một trong những nhân vật có tiếng nói tích cực và hiệu quả nhất về thảm họa môi trường do nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh gây ra từ tháng 4 năm ngoái. Ngày 12/5 Công An Hà Tĩnh đã phát lệnh truy nã anh sau khi quyết định khởi tố anh với tội danh “Gây rối trật tự công cộng” theo Điều 245 BLHS. Trước đó anh bị cáo buộc “chủ mưu, kích động” vụ 2.000 người dân mang băng rôn, khẩu hiệu đến UBND huyện Lộc Hà khiếu nại bồi thường thiệt hại sự cố môi trường biển trong hôm 3/4/2017.

Lấy anh Quyền đã nhiều năm nay, chị Linh vẫn luôn là một người vợ ủng hộ từng bước đi của chồng nhưng chị cũng không phủ nhận con đường ấy mang lại nhiều gian nan cho gia đình.

Quan trọng nhất là vấn đề nhà cầm quyền. Họ luôn làm khó gia đình. Vốn dĩ họ đã o ép về kinh tế, khiến gia đình không thể làm ăn bất cứ chuyện gì. Nếu có sự kiện thì họ canh gác, khủng bố và phá hoại tài sản của mình.

Mình muốn nhắn với chồng rằng hãy cố gắng vững bước trên con đường đã chọn. Mọi người, anh em, bạn bè luôn ở cạnh anh.
– Chị Linh, vợ Bạch Hồng Quyền

Chị cho biết đến chỗ ở của gia đình cũng không được yên ổn, phải thường xuyên thay đổi vì chủ nhà “ngại” không muốn cho thuê. Hơn nữa chính quyền thường xuyên truyền bá các thông tin không hay về gia đình chị, khiến dư luận lời ra tiếng vào, gây áp lực lớn cho cả gia đình.

Tất cả những khu dân cư chỗ mình thuê họ không hề hiểu, họ tỏ ra rất sợ hãi gia đình mình kiểu như gia đình mình làm việc gì đó không được đàng hoàng và nguy hiểm. Họ không muốn tiếp xúc với gia đình mình, và nhìn mình với ánh mắt dị nghị. Rồi những lời nói không hay lắm đằng sau lưng. Nhưng mình và bố mẹ mình rất hiểu công việc anh Quyền đang làm nên bỏ ngoài tai hết những lời nói đó và chỉ biết cầu nguyện mọi người sớm nhận ra rằng công việc anh Quyền và những anh em khác đang làm chỉ là muốn mọi người được nhận thức rõ hơn về quyền con người.

Vợ chồng anh Bạch Hồng Quyền hiện tại có hai con nhỏ, một cháu 4 tuổi rưỡi và một cháu mới được hai tuổi:

Hai cháu vẫn còn bé nên hiện tại chưa bị gì hết. Chỉ có điều bố không có nhà nên các cháu thiếu sự quan tâm chăm sóc của bố thôi. Hiện tại các cháu đang học trên trường dòng là trường của các sơ nên chưa thấy chính quyền đả động gì đến việc làm khó chuyện học hành của các cháu.

Cũng là một phụ nữ tuổi xuân thì nhưng thay vì được sống hạnh phúc với gia đình, được chồng yêu thương chiều chuộng, chị Linh lại phải một thân một mình nuôi 2 con nhỏ và sống trong những lời đàm tiếu của xã hội. Tuy vậy nhưng khi được hỏi liệu khi các cháu lớn lên chị có muốn cho các cháu theo con đường con đường của bố không, chị Linh vẫn hoàn toàn đồng ý:

Mình mong muốn khi con mình lớn lên đất nước sẽ thay đổi rồi, chứ nếu tình trạng đất nước vẫn còn bạo quyền và không có quyền con người như thế này các cháu sẽ rất khổ. Mình muốn các cháu đi theo con đường của bố nhưng là khi các cháu được hưởng trọn vẹn các quyền xứng đáng được hưởng và sẽ đi phổ biến quyền con người theo cách bình yên hơn chứ không có bất công, đổ máu hay bạo lực như tình trạng đất nước bây giờ.

Từ ngày anh Quyền bỏ trốn đến nay đã mấy tuần vợ không được gặp chồng, con không được gặp bố. Tuy nhiên qua trang phụ nữ của RFA, chị Linh muốn nhắn gửi tới chồng mình rằng hãy yên tâm và tự hào vì những điều anh làm vì sau anh là vô số tiếng nói ủng hộ:

Mình muốn nhắn với chồng rằng hãy cố gắng vững bước trên con đường đã chọn. Mọi người, anh em, bạn bè luôn ở cạnh anh. Và chúng mình không hề cô đơn, gia đình luôn tiếp tục đấu tranh cho anh. Những người anh em ở Việt Nam đang bị tù đày áp bức hay đang ở ngoài mà phải chịu bất công từ chính quyền, họ không hề cô đơn vì luôn có mọi người ủng hộ.

Vợ anh Nguyễn Văn Oai

17203114_1599523396743773_3835786218674087118_n-400.jpg
Chị Linh Châu cùng chồng, anh Nguyễn Văn Oai. Photo: fb Linh Châu

Cách nhà chị Linh chừng 200 km, ở một vùng quê nghèo tỉnh Nghệ An nơi có những mảnh đất cằn cỗi đã gắn bao đời với người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chị Châu cũng như họ phải lao động cực khổ trên mấy thửa ruộng để chăm lo cho mẹ già và đứa con sắp chào đời.

Chồng chị là cự tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Oai bị công an Nghệ An bắt vào hôm 19/1 vừa qua với cáo buộc “chống người thi hành công vụ” và “không thi hành bản án quản chế.

Trước đó cũng vào cuối tháng 7 năm 2011, anh Oai bị an ninh Việt Nam bắt tại sân bay Tân Sơn Nhất – Sài Gòn và sau đó bị toà án kết án 4 năm tù giam và 4 năm quản chế với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, theo điều 79 BLHS. Anh ra tù tháng 8 năm 2015.

Khi còn ở nhà, anh Oai một tay lo kinh tế cho gia đình và chăm sóc mẹ già, là trụ cột của gia đình. Nhưng kể từ khi anh bị bắt, mọi trách nhiệm lớn nhỏ trong gia đình chị Châu phải gánh vác thay chồng:

Trước khi anh bị bắt người ta thường xuyên đến “thăm” anh để tạo áp lực và để hàng xóm dị nghị nói rằng thằng này làm gì mà công an đến thăm suốt, rồi thằng này thế nọ thế kia, toàn những lời xấu xa để anh ấy bị cô lập. Giờ anh ấy bị bắt rồi thì họ bảo mình vào khuyên chồng nhận tội rồi sẽ được khoan hồng. Rồi họ nói với hàng xóm để người ta xa lánh mình vì mình có người chồng tù tội. Nhưng tôi vẫn nói với họ rằng chồng tôi có tội đâu mà khuyên tôi bảo chồng nhận tội.

Giờ anh ấy bị bắt rồi thì họ bảo mình vào khuyên chồng nhận tội rồi sẽ được khoan hồng. Nhưng tôi vẫn nói với họ rằng chồng tôi có tội đâu mà khuyên tôi bảo chồng nhận tội.
– Chị Châu, vợ Nguyễn Văn Oai

Sau ngày anh Oai bị bắt, truyền thông trong nước liên tục đăng những bài viết gọi anh bằng những từ ngữ như “thằng phản động”, “thằng hám tiền”, và còn có bài viết gọi niềm tin chị Châu dành cho chồng là nhuốm màu lừa mị, viển vông và là hệ quả của nhận thức thiếu chín chắn.

Trước đây người ta ủng hộ việc anh làm vì đó là việc đúng, hơn nữa anh lại hay giúp đỡ người khác. Nhưng sau khi nghe những điều trên TV nói anh ấy làm những việc đó vì tiền, bị người ta xúi giục làm phản động, những người họ dùng Facebook họ hiểu thì vẫn ủng hộ anh, còn nếu chỉ xem trên báo đài thì họ cho rằng anh làm việc đó vì tiền chứ không phải vì lòng tốt.

Chị Châu cho biết trước đó anh Oai làm việc ở bất cứ đâu, chủ cũng đều bị người ta làm phiền tới mức ngại không muốn thuê anh nữa. Ngay cả người mẹ già yếu cũng thường xuyên bị dư luận buông lời “chửi rủa”:

Dân làng người ta bảo bà này không biết dạy con, ham tiền, vì họ nghĩ anh làm như vậy được nhiều tiền, để con phá làng phá xóm. Rồi bên chính quyền thì bảo là làm như thế chỉ được cho dân làng thôi chứ mình được cái gì. Rồi bảo bà khuyên anh đừng làm vậy. Mà anh thì tìm lại công bằng cho làng xóm, thuế đất hay tiền học phí của học sinh anh đều đòi lại hết nhưng chính quyền lại bảo bà như vậy.

Cuối buổi trò chuyện với chúng tôi, chị Châu đã bật khóc khi nghĩ về ước muốn nhỏ nhoi là được hạnh phúc bên chồng của chị mà khó thực hiện được. Chị nói nhìn vào những gia đình khác thấy gia đình người ta hạnh phúc chị cũng thấy phần ghen tị và tủi lòng. Dẫu vậy chị vẫn quyết ủng hộ anh Oai đến cùng vì chị muốn hạnh phúc đó dù có đến muộn nhưng phải được xây đắp trong một xã hội tự do:

Mong đất nước thay đổi sớm để anh được tự do, và chị cũng muốn được hạnh phúc. Nhìn vào các gia đình khác chị cũng muốn được hạnh phúc lắm. Nhưng phải là hạnh phúc trong đất nước tự do!

Chị muốn anh ấy yên tâm, vững mạnh. Mẹ con chị luôn ủng hộ anh ấy và sẽ chờ ngày anh ấy trở về. Anh là một người đứng đắn, biết giúp đỡ người khác. Từ khi yêu anh, biết anh đến nay chị chưa bao giờ thấy anh làm điều gì sai.

Dù là vợ của tù nhân hay đối tượng truy nã đi chăng nữa, những người phụ nữ như chị Linh, chị Châu cũng cần được hưởng những hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng như những người phụ nữ bình thường.

Hai chị chỉ là những ví dụ nhỏ trong số những những người vợ, người mẹ, người thân của rất nhiều tù nhân chính trị, nhà hoạt động, blogger đang bị bắt giữ và hàng loạt các nhà hoạt động khác đang bị hành hung, sách nhiễu từng ngày.

Theo thống kê của bộ ngoại giao Mỹ, Việt Nam hiện đang giam cầm 96 tù nhân chính trị. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã bắt 9 nhà hoạt động dân chủ và truy nã 2 người.

Miền Bắc VN nóng chưa từng thấy: Số người đột tử, bất tỉnh, đổ bệnh tăng vọt

Miền Bắc VN nóng chưa từng thấy: Số người đột tử, bất tỉnh, đổ bệnh tăng vọt

Một bệnh nhi đang được đưa vào phòng cấp cứu. (Hình: Tuổi Trẻ)

VIỆT NAM (NV) – Đợt nóng bất thường với nhiệt độ phổ biến là 40 độ C đã làm ít nhất hai người đột tử giữa đường vì nóng. Số người ngất, số bệnh nhi được đưa vào bệnh viện cấp cứu tăng vọt.

Hôm qua, báo chí Việt Nam bắt đầu loan báo những tác động của đợt nóng bất thường kéo dài đã bốn ngày ở miền Bắc Việt Nam đến con người.

 Báo điện tử VnExpress cho biết, sáng 5 tháng 6, khi đang điều khiển xe hai bánh gắn máy trên đường Xã Đàn, đoạn chạy qua phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội, cụ Mạc Thị Anh Thư, 73 tuổi, đột nhiên té ngang ra đường. Dân chúng quanh đó xúm vào sơ cứu, gọi xe cấp cứu nhưng khi xe đến nơi thì cụ Thư đã tắt thở.

Cũng trong ngày hôm qua, tờ Tuổi Trẻ dẫn thông tin từ Chủ tịch thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, Hà Nội, cho biết, chiều 3 tháng 6, dân chúng thôn Lễ Pháp ở thị trấn này phát giác một người đàn ông, ngoại tứ tuần gục chết dưới gốc một cây trồng ven đường. Bởi nạn nhân không có giấy tờ tùy thân nên giới hữu trách chưa xác định được danh tính nạn nhân.

Trung tâm Vận chuyển cấp cứu của thành phố Hà Nội, bảo rằng, từ ngày 2 tháng 6 – thời điểm bắt đầu đợt nóng chưa từng thấy tại miền Bắc Việt Nam, riêng Trạm chính của Trung tâm này đã cấp cứu ba người bị sốc do nhiệt độ cao: Nôn mửa, ngất, thân nhiệt trên 40 độ C, mất tri giác, co giật,…

Tờ Tuổi Trẻ tường thuật thêm, các trạm cấp cứu khác cũng ghi nhận nhiều trường hợp sốt cao chưa rõ nguyên nhân trong bốn ngày từ 2 đến 5 tháng 6.

Bác sĩ Trần Minh Điển, Phó Giám đốc Bệnh viên Nhi quốc gia vừa mới cho biết là so với tuần trước, số lượng bệnh nhi vào bệnh viện này tăng khoảng 15%. Đa số bệnh nhi dưới một tuổi và sốt.

Những thông tin vừa kể chỉ là ghi nhận riêng tại Hà Nội. Chưa có thông tin về tác động của đợt nóng bất thường trong vài ngày qua ở các tỉnh, thành phố khác thuộc miền Bắc Việt Nam.

Sau sáu đợt lạnh bất thường trong tháng 5, sang đầu tháng 6, miền Bắc Việt Nam đột nhiên nắng như nung, kể cả khu vực cao nguyên.

Nhiệt độ phổ biến ở nhiều nơi tại miền Bắc Việt Nam là 40 độ C. Không ít nơi, nhiệt độ vượt qua cả mức này: Lào Cai 40.1 độ C, Sơn Tây 40.2 độ C, Hòa Bình 40.4 độ C, Lạng Sơn 40.5 độ C, Hà Nội 40.3 độ C,… Trước đó, vào ngày 3 tháng 6, một số nơi ở Hà Nội, Hải Dương, nhiệt độ vượt qua mức 42 độ C – nếu thân nhiệt chạm mức này, người ta có thể mê sảng và tử vong. Tuy nhiên những con số như vừa kể chỉ là dữ liệu được ghi nhận trong các lều khí tượng – nơi nhiệt kế được đặt cách mặt đất khoảng một mét, bên trên có mái che, không bị ánh nắng chiếu vào và không bị tác động bởi các vật liệu phát tán nhiệt. Tờ Tuổi Trẻ đã thử dùng nhiệt kế đặt trên mặt đường giữa trưa và ghi nhận, nhiệt độ mặt đường tại Hà Nội vào trưa 3 tháng 6 lên tới 56 độ C. Ngày 5 tháng 6, báo điện tử VietNamNet thử đặt nhiệt kế dưới những gốc cây trên đường Phạm Văn Đồng, trong bóng cây nhiệt độ mặt đường chỉ khoảng 40 độ C (thấp hơn 16 độ C so với nơi không có bóng cây).

Đó cũng là lý do chỉ trích của dân chúng đối với chuyện chính quyền thành phố Hà Nội đốn hạ hàng loạt cây xanh, khiến mặt đường tích nhiệt và phát tán nhiệt làm không gian sống ngột ngạt hơn, trở thành hết sức dữ dội.

Mới đây, ông Hoàng Trung Hải, Bí thư Hà Nội vừa hứa sẽ xem lại dự tính đốn hạ thêm 1.300 cổ thụ trên đường Phạm Văn Đồng. Tháng trước, chính quyền thành phố Hà Nội tuyên bố sẽ đốn hạ hàng ngàn cổ thụ trên con đường này để thực hiện dự án đầu tư mở rộng đường vành đai 3 đoạn từ Mai Dịch tới cầu Thăng Long, trước ngày 30 tháng 9. (G.Đ)

Đảng và dân, ai tớ, ai thầy?


Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Đứa con hỏi cha rằng:

– Đất nước mình đã có chính phủ rồi, vì sao lại có thêm đảng, mà đảng lại có quyền hơn chính phủ? Quốc gia đã có một người đứng đầu là Chủ tịch nước rồi, vì sao lại có thêm một ông Tổng Bí thư đảng, mà Tổng Bí thư đảng lại quyền lực hơn ông Chủ tịch nước? Một tỉnh đã có ông Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh rồi, vì sao trên ông Chủ tịch này có ông Bí thư Tỉnh ủy? Trong quân đội sao cấp chỉ huy không có quyền hành mà phải thống thuộc Đảng ủy, chỉ huy chỉ biết thi hành mệnh lệnh, nhận chỉ thị, kế hoạch để điều hành đơn vị thực hiện; Đảng ủy lãnh đạo về mọi mặt, người chỉ huy chỉ có nhiệm vụ thi hành?

Về quân đội, tức là các lực lượng võ trang, để nắm chắc và giữ quyền độc tôn lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội ngay từ những tổ chức vũ trang đầu tiên: Tự vệ đỏ (xích vệ) trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941), Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (1944), Du kích Ba Tơ và Việt Nam Giải Phóng Quân (1945).

Tư Lệnh không có quyền, tiến thoái, đánh hay không đánh là do đảng ủy đơn vị quyết định! Cấp Sư đoàn có đảng bộ Sư đoàn gồm 15 đến 17 người chỉ huy bởi một Chính ủy.

Như vậy, để điều hành một đất nước, thay vì tiền thuế dân nuôi một công chức, nay lại phải nuôi thêm một quan chức nữa, nghĩa là cơ chế nặng gấp đôi và tốn phí cũng tăng gấp đôi. Dân nuôi đảng để đảng chỉ huy dân.

Người cha trả lời theo Hồ Chí Minh trong sách vở rằng: “Đảng ta là đảng cầm quyền, đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.” (Đầy tớ thì ở nhà lầu- cha con ông chủ gầm cầu sống chui.)

Theo lời Hồ Chí Minh thì “sau hàng chục năm lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, chiến đấu vô cùng gian khổ, Đảng ta mới giành được chính quyền, mới trở thành Đảng cầm quyền.”

Theo lý luận ở đoạn trên thì “đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,” như vậy đảng và dân là hai cá thể khác nhau, chiến đấu vô cùng gian khổ, nhân dân được chết, còn đảng thì cướp được chính quyền.

Tuy vậy, đảng Cộng sản có chủ trương lúc nào cũng đề cao dân, như “đảng là đầy tớ của nhân dân,” “nhân dân làm chủ,” “dễ trăm lần không dân cũng chịu- khó vạn lần dân liệu cũng xong!”

Sách vở ghi lại lời Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định dân là trên hết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”

Nhưng chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương chưa bao giờ do dân bầu ra. Chính phủ do Quốc Hội bầu ra, nhưng ứng cử viên Quốc hội là do “đảng cử dân bầu.” Tổng cộng danh sách chính thức ra tranh cử Đại biểu Quốc hội năm nay gồm 870 ứng viên, trong đó chỉ có 11 người tự ứng cử, không có người nào thuộc thành phần bất đồng chính kiến. Trong số 496 đại biểu được bầu, chỉ có 21 đại biểu là người ngoài đảng (chiếm 4,2%). Quốc hội khóa 14 có tỷ lệ đảng viên cao nhất từ trước đến nay.

18 ghế Ủy viên Bộ Chính trị và 200 ghế Ủy Uỷ Viên Trung ương đảng được chia cho các chức vụ quan trọng: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng và một số Phó Trưởng ban các Ban của đảng, Bộ trưởng các bộ và chức vụ tương đương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thứ trưởng Bộ Công an…

Đến nay, Đảng bộ Khối Các cơ quan Trung ương có 63 đảng bộ trực thuộc, trong đó có 34 đảng bộ cấp trên cơ sở, 29 đảng bộ cơ sở, với gần 5.500 chi bộ và hơn 6,5 vạn đảng viên, chưa kể con số 4,5 triệu đảng viên hiện có tại Việt Nam.

Điều 4 của Hiến pháp là “giấy phép độc quyền” cho Đảng cầm quyền lãnh đạo, không có một đảng phái nào khác được tồn tại. Ở Việt Nam, đảng Cộng Sản đứng trên cả chính phủ và Quốc hội. Lập pháp, hành pháp, tư pháp là một. Quốc hội, chính phủ, tòa án đều là công cụ của đảng. Quốc hội làm theo chỉ thị của đảng, chính phủ thi hành triệt để chính sách của đảng, tòa án xét xử người theo bản án có sẵn của đảng.

Đảng là tất cả, cấu kết với nhau thành ra một băng đảng nên đảng mới có câu: “Còn đảng, còn mình!” Quốc gia, đất nước là thứ yếu, nên thà mất nước nhưng không chịu để mất đảng!

Nguyên tắc của Cộng Sản là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và dân làm chủ!” Đảng lãnh đạo tức là người chỉ đường, rẽ phải rẽ trái, đi lên, chạy xuống là do đảng. Dân chỉ đi theo như con ngựa thồ kéo xe, bị bịt mắt, chỉ cho nhìn ra đằng trước. Mọi sự, tất cả vật chất, tài sản, tiền bạc đều do nhà nước quản lý, mà nhà nước là con sinh ra của đảng, Thủ tướng, Bộ trưởng, công an, quân đội… cũng là tay chân do đảng sinh ra. Chỉ còn một cái bánh vẽ nghìn đời sót lại dứ vào mồm dân, đó là cái quyền làm chủ…trên khẩu hiệu, diễn văn.

Đảng là ông Thủ trưởng chỉ đạo mọi thứ, có quyền hành. Nhà nước là anh thủ kho ôm trong tay của cải. Còn thằng dân trên danh nghĩa là chủ nhân của đất nước, không có tiền mà cũng không có quyền, lại bị bóc lột tận cùng. Ngân sách nhà nước đảng nắm. Nợ nần nhà nước dân lo, đời này trả không hết thì đến đời sau. Nếu dân phản kháng là phá hoại, là do thế lực thù địch phá hoại “thành quả” của đảng, sẽ có công bộc của dân (tức là cán bộ, công an) lập tức có mặt để đàn áp, vì công bộc của dân do đảng đẻ ra, có còng, có roi, có nhà tù, có quyền giết hay cho phép người dân ‘tự tử’ ngay trong đồn trại của mình.

Đã có trường hợp công an bắt dân xuống xe, quỳ xuống giữa đường và đánh đập, cũng như tài xế taxi bị đòn, phải quỳ gối giữa đường lạy vái công an. Nhìn lại thời nô lệ Pháp thuộc cũng chưa bao giờ có cảnh tượng như thế.

Bản báo cáo của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ghi nhận sự mâu thuẫn giữa Hiến pháp CSVN và sinh hoạt chính trị ở trong nước: “Hiến pháp nhà nước Việt Nam sau khi được sửa đổi, bổ sung có qui định rằng người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước qua bầu cử và ứng cử, tự do ngôn luận, hội họp, lập hội và biểu tình. Tuy nhiên, cũng chính Điều 4 của Hiến Pháp lại khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng CSVN trong mọi sinh hoạt của đất nước.”

Chính ở sự mâu thuẫn này và ý đồ duy trì độc quyền chính trị bằng mọi giá mà tất cả những quy định về quyền chính trị được công nhận nơi Điều 20, Điều 21 trong Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Điều 21, Điều 22 trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam cam kết tôn trọng đã bị triệt tiêu.

Xin hãy xem bảng vận động công dân đóng thuế treo đầy đường: “Nộp thuế để xây dựng và bảo vệ đảng!” À ra thế! Tóm lại đảng lãnh đạo, và đảng phải bám vào dân mới có cơm ăn. Dân hì hục đóng thuế để “vỗ béo” đảng. Tình đảng với dân như cá với nước. Cá không có nước thì cá chết. Nước không có cá, thì nước…khoẻ re!

Xin cầu nguyện cho một ngày Việt Nam không có đảng, như khẩu hiệu của dân oan biểu tình: “đảng Cộng Sản, chết đi!”

Giờ Hà Nội nóng như thiêu đốt, nó có trừ ai không?

Tran Dat shared Lê Tân‘s post.
 
Image may contain: one or more people and outdoor
Lê Tân

 

Dân Hà Nội mấy triệu người mà chỉ có mấy trăm đi biểu tình chống chặ̣t cây xanh.
Còn lại số đông bĩu môi, bảo «lũ rách việc, dở hơi». Một số lớn khác chửi «quân phản động».

Giờ Hà Nội nóng như thiêu đốt, nó có trừ ai không?

(FB Tan Tran)   

Trần Trọng Kim – học giả lỗi lạc, chính khách khả kính

Trần Trọng Kim – học giả lỗi lạc, chính khách khả kính

 

clip_image002

Chân dung Trần Trọng Kim năm 1953. Tư liệu của Trần Xuân Điền.

Tính đến năm 2017, TRẦN TRỌNG KIM (1883-1953) đã từ trần được 64 năm. Ông là một học giả danh tiếng cùng thời với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), Phạm Quỳnh (1892-1945), cũng là một chính khách đáng kính trọng, xuất hiện trong khúc ngoặt của lịch sử dân tộc thập niên 40 thế kỷ trước. Nhưng ông đã không được văn đàn chính thống nhắc đến kể từ khi lìa trần đến nay.

Vừa qua, nhà báo Huy Đức có làm một cuộc hành hương về tận quê hương Trần Trọng Kim ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh để tìm kiếm phần mộ của ông, nhân đó cho công bố trên mạng một số tài liệu quý mới sưu tầm được. Bauxite Việt Nam xin mượn lại những tài liệu này đăng lên trang nhà kèm theo những dòng Huy Đức viết, để tưởng nhớ một tài năng và một nhân cách trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam mà chắc chắn các thế hệ sau sẽ còn nhiều dịp phải tiếp cận.

Cùng chung một ý nguyện, GS Lê Xuân Khoa cư ngụ tại Hoa Kỳ có nhã ý gửi đến BVN một số trang viết về “Chính phủ Trần Trọng Kim” trích trong cuốn Việt Nam 1945-1995 của ông, công bố từ năm 2004, do báo Người Việt và Amazon mới tái bản. Được ông vui lòng cho phép, chúng tôi xin đăng trọn phần phân tích công phu, thỏa đáng kể trên vào tiếp sau những tài liệu thư tịch và ảnh mới phát hiện của Huy Đức, nhằm giúp soi tỏ lại việc đánh giá Trần Trọng Kim trong vai trò con người chính trị mà một thời vẫn bị ám ảnh bởi thành kiến sai lạc “Thủ tướng bù nhìn”.

Cám ơn nhà báo Huy Đức, GS Lê Xuân Khoa và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc

Bauxite Việt Nam

clip_image004

Lời điếu của Quốc trưởng Bảo Đại do Đổng lí văn phòng đọc trong Tang lễ cụ Trần Trọng Kim. 

Lời điếu của Quốc trưởng Bảo Đại do Đổng lí văn

phòng đọc trong Tang lễ cụ Trần Trọng Kim

QUỐC GIA VIỆT NAM


ĐỨC QUỐC TRƯỞNG

BẢO ĐẠI


Ông nguyên Thủ tướng,

Được tin Ông từ trần, lòng tôi thương cảm vô hạn. Vẫn biết tuổi Ông đã gọi là thọ; sự nghiệp văn hóa, chánh trị của Ông đã biểu dương một thân thế cao quý. Song tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ rằng mới cách đây mấy hôm, tôi còn vui thấy Ông tinh thần vẫn tráng kiện, chí khí còn hăm hở, và tưởng rằng trong những ngày sắp tới là lúc Tổ quốc cần hết thảy những con dân tài đức như Ông, Ông tuy tuổi cao sức yếu, vẫn có thể phục vụ giang sơn như suốt cả cuộc đời tận tụy của Ông!

Lịch sử sẽ ghi thanh danh ông, thanh danh một nhà mô phạm biệt tài, một nhà văn học lỗi lạc, một nhà chí sỹ ái quốc. Và thân thế trong trắng của Ông đã làm gương cho kẻ đương thời sẽ làm gương cho lớp hậu thế.

Riêng đối với tôi, tôi không quên rằng trong những giai đoạn khó khăn của lịch sử, lúc nào Ông cũng sẵn sàng hăng hái làm người cộng sự đắc lực của tôi: nào khi Ông nhận đảm đương sứ mạng nặng nề điều khiển con thuyền quốc gia trong khi thế nước chông chênh; nào lúc tòng vong ở nơi hải ngoại khi tôi tranh đấu để mang lại cho dân tộc một hy vọng, một tin tưởng ở tương lai; nào buổi mới đây tuy tuổi đã ngoài 70 mà Ông còn hăng hái đứng lên đảm nhiệm trọng trách Chủ tịch hội nghị toàn quốc trong cuộc tường bày ý nguyện của dân tộc.

Ông thực đã xứng đáng với dân tộc. Ông quả đã xứng đáng với lòng tín cẩn của tôi.

Công trạng ấy tôi không quên.

Quốc dân cũng không quên. Lịch sử sẽ ghi công của người con ưu tú của đất nước.

Tin rằng hương hồn ông sẽ được tiêu diêu nơi cực lạc.

Bà nguyên Thủ tướng,

Tôi đề lời phân ưu cùng bà và toàn gia. Tôi mong rằng lòng tiếc thương của hết thảy quốc dân đối với cố Thủ tướng sẽ làm cho bà nhẹ bớt một phần nào nỗi đau đớn về dịp này và sự nghiệp lâu dài của cố Thủ tướng sẽ làm cho bà được cái an ủi rằng sự nghiệp ấy còn cũng như là người chí sỹ khuất núi vẫn còn!

.Viếng cụ Trần Trọng Kim

Huy Đức

Nhờ những người bạn ở Hà Tĩnh, hôm 24-5, tôi tìm đến được nơi đặt tro cốt cụ Trần Trọng Kim ở tổ đình Vĩnh Nghiêm [Sài Gòn] và hôm qua, 25-5, tôi gặp được bác Trần Xuân Điền, cháu đời thứ 3 của cụ Trần Trọng Kim ở Đan Phổ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Lịch sử không có chữ NẾU. Nhưng, đôi khi tôi vẫn cứ không cầm lòng được, suy nghĩ vẩn vơ, Việt Nam sẽ ra sao, nếu từ tháng 8-1945 vẫn là “Chính phủ Trần Trọng Kim”…

Trong năm 1945, người Việt có hai tuyên bố độc lập: Ngày 11-3, Triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam; Ngày 2-9, tại Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập.

Độc lập không thật sự đến với Việt Nam vào tháng 3 cũng như vào tháng 9-1945. 
Chỉ có Chính phủ Hồ Chí Minh, vào lúc ấy, mới chủ trương và có khả năng kháng chiến và thắng thế của Mao Trạch Đông trong cuộc nội chiến 1949 đã giúp những người cộng sản giành chiến thắng Điện Biên Phủ, dẫn tới Hiệp định Geneva 1954, chia cắt đất nước. Cuộc chiến tranh thống nhất VN kéo dài tới năm 1975; cuộc chiến tranh người Việt chống lại Khmer Đỏ (có bàn tay Bắc Kinh đâm sau lưng) và chống lại chính quân Trung Quốc xâm lược kéo dài tới 1989.

Chính phủ Trần Trọng Kim và những người theo chủ nghĩa quốc gia như ông chỉ có thể đòi độc lập thông qua đấu tranh chính trị và chủ yếu nhờ bàn cờ chính trị thay đổi sau Thế chiến thứ II (Ở Đông Dương, người Pháp trả độc lập cho Sihanouk 1953). Chính phủ Trần Trọng Kim, nếu lãnh đạo một VN sau độc lập, sẽ rất kỹ trị và chắc chắn sẽ kế thừa những di sản (vật thể hay phi vật thể) của người Pháp.

Từ lâu, tôi vẫn muốn thắp một nén nhang viếng tác giả của Nho giáo, Việt Nam sử lược, Truyện Thúy Kiều… Theo hướng dẫn của bạn bè tôi đã về Đan Phổ và Thạch Kim, nơi có những người cháu gọi Cụ Lệ Thần bằng chú.

Tháng Tư năm nay, khi cùng anh Le Hai & Trương Duy Nhất về Đan Phổ, người làng đã dẫn ra khu mộ gia đình họ Trần và khẳng định, “Ông Thủ tướng bù nhìn nằm ở đây”, nhưng chúng tôi không tìm thấy tên Cụ. Về sau mới biết, tin nói cụ được an táng ở quê là không đúng.

Sinh ra trong một gia đình dòng dõi, cha là Trần Bá Huân (1838-1894) từng là một văn thân tham gia phong trào Cần Vương. Trần Trọng Kim mất cha năm 9 tuổi, mất mẹ năm 10 tuổi, anh ruột là Trần Bá Hoan nuôi được mấy năm, do quá túng quẫn phải đưa hai em, Trần Trọng Kim và Trần Thị Liên, cho nhà khác làm con nuôi. Hai không gian giáo dục sau đó đã đưa Kim và Liên đi theo hai con đường rất xa nhau. Người em theo phong trào cộng sản từ năm 1930, 1931, trở thành Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh Nghệ An (mất năm 1964). Người anh được cha nuôi cho ăn học, trở thành một học giả, một người có tinh thần quốc gia, dân tộc.

Năm 1953, sau khi chủ trì Hội nghị Hội đồng toàn quốc, tuyên bố Việt Nam ra khỏi Liên hiệp Pháp, cụ Trần Trọng Kim được Quốc trưởng Bảo Đại mời lên Đà Lạt. Sau mấy tuần nghỉ ngơi, không hề có biểu hiện đau ốm, cụ ra đi nhẹ nhàng sau một giấc ngủ trưa vào ngày 26 tháng Mười Âm lịch. Quốc trưởng Bảo Đại cho máy bay đưa thi hài Cụ ra an táng tại nghĩa trang Cầu Giấy, Hà Nội.

Năm 1987, Luật sư Phan Anh cho mời thân nhân của cụ từ Sài Gòn, từ Pháp về. Chúng tôi chưa rõ từ đề nghị của ai mà ngay trong dịp này Cụ được cải tảng, hỏa thiêu tại chỗ và tro cốt được mang vào gửi tại chùa Vĩnh Nghiêm.

Cụ bà, Bùi Thị Tuất – em gái cụ Bùi Kỷ, sinh sống ở Sài Gòn cho tới năm 1991. Con gái của hai người, bà Trần Diệu Chương, sinh sống ở Pháp, hàng năm vẫn viết thư về cho bác Trần Xuân Điền nhưng không hiểu sao từ hai năm nay ông Điền không còn nhận được thư của bà Diệu Chương nữa (Bà cũng đã ở tuổi gần 90). Những bức thư của bà Diệu Chương không chỉ là để nối tình thân với họ hàng mà còn như muốn để lại những bằng chứng lịch sử về một nhân vật mà chắc chắn rồi đây sẽ được nhìn nhận lại.

H.Đ.

clip_image005

Cụ bà Bùi Thị Tuất – Phu nhân Trần Trọng Kim

.clip_image007

Tro cốt học giả Trần Trọng Kim đang gửi tại chùa Vĩnh Nghiêm

(đặt trên giá chung như một người vô danh)

.clip_image009

Bốn ngôi mộ trong nghĩa trang gia đình: phía sau là phần mộ song thân: cụ Trần Bá Huân (1838-1894), cụ Nguyễn Thị Nhị và phần mộ người anh Trần Bá Hoan và chị dâu, Lê Thị Vy (1884-1956).

.

clip_image011

Bà Trần Diệu Chương, con gái cụ Trần Trọng Kim, và người chồng Pháp.

.clip_image013

Ông Trần Xuân Điền, cháu đời thứ 3, người đang lưu giữ nhiều tư liệu quý về cụ Trần Trọng Kim

.

clip_image015

Nhà báo Huy Đức và Ông Trần Xuân Điền. Tễu Blog chú thích ảnh.

.clip_image017

Cô Ánh, cháu dâu của bác Trần Xuân Điền, công chức văn hóa xã Đan Phổ

  .

clip_image019

Hàng năm, bà Trần Diệu Chương đều có thư về VN.

clip_image021

Bút tích của bà Diệu Chương gửi ông Điền

.

clip_image023

Những dòng chữ ghi sau bức chân dung cụ Trần Trọng Kim chụp 1953

Về Chính phủ Trần Trọng Kim (*)

Lê Xuân Khoa

… Đến đây cần nói thêm về vai trò của Chính phủ Trần Trọng Kim trong một giai đoạn rất ngắn nhưng đầy biến cố, đánh dấu một khúc ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Sau ngày đảo chính Pháp trên toàn cõi Ðông Dương (9.3.45), Nhật hứa hẹn với Hoàng đế Bảo Ðại sẽ để cho Việt Nam được độc lập. Ngày 17 tháng Tư, mười ngày sau khi được Bảo Ðại yêu cầu, Trần Trọng Kim, một nhà giáo dục và học giả có uy tín, trình diện Chính phủ do ông cầm đầu gồm mười Bộ trưởng, tất cả đều là trí thức giàu lòng yêu nước nhưng thiếu kinh nghiệm chính trị. Việt minh lập tức công kích Chính phủ Trần Trọng Kim là “Chính phủ bù nhìn” và nền độc lập mà Nhật hứa hẹn là “độc lập bánh vẽ”. Quan điểm chính trị này đã được nhiều tác giả ngoại quốc mặc nhiên chấp nhận. Ðến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này cần được xem xét lại một cách bình tĩnh và khách quan hơn.

Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong một hoàn cảnh rất tình cờ của lịch sử, không do kết quả tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng phái hay một phong trào chính trị nào. Sau gần một thế kỷ bị Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước Việt Nam được độc lập (dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu. Sau khi nước Pháp bị Ðức chiếm đóng vào tháng Sáu 1940 và Toàn quyền Decoux phải nhường cho Nhật quyền làm chủ về quân sự ở Ðông Dương vào tháng Chín, thì uy tín và quyền thế của Pháp bị sụp đổ mau chóng đối với các xứ thuộc địa ở Ðông Dương. Các đảng phái chính trị Việt Nam bỗng thấy có động lực mới và thời cơ hoạt động để đòi lại độc lập cho đất nước. Trừ những lãnh tụ chính trị đã lưu vong ở Trung Hoa và đang hợp tác với Chính phủ Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch để chống Nhật – kể cả Hồ Chí Minh – hầu hết các lãnh tụ chính trị và trí thức ở trong nước đều muốn dựa vào thế lực của Nhật để loại trừ Pháp ra khỏi Ðông Dương. Tổ chức có triển vọng nhất lúc bấy giờ là Việt Nam Phục quốc đồng minh hội do Hoàng thân Cường Ðể thành lập ở Nhật (thường được gọi là Nhóm Phục quốc) đã từng tổ chức lực lượng quân sự mang tên là Việt Nam Kiến quốc quân đi theo quân đội Thiên hoàng về đánh Pháp ở trận Lạng Sơn ngày 23.9.1940. Một số lãnh tụ, trong đó có Ngô Ðình Diệm, từ lâu đã liên lạc với Nhóm Phục quốc để mưu đồ chống Pháp, có nhiều hi vọng sẽ được Nhật ủng hộ thành lập chính quyền trong truờng hợp Pháp bị lật đổ.

Tuy nhiên, vì còn bận chiến đấu với quân đội Ðồng minh, mục đích trước mắt của Nhật là sử dụng Ðông Dương vào mục tiêu quân sự, nên Nhật đã bằng lòng để cho Pháp tiếp tục cai trị về mặt hành chánh. Năm 1944, Nhật bắt đầu nghĩ đến việc loại bỏ Pháp để phòng ngừa việc Pháp có thể làm hậu thuẫn cho liên quân Anh-Mỹ vì mặt trận đã được mở rộng sang vùng Ðông Nam Á. Mặt khác, giải phóng cho các nước Ðông Dương khỏi bị lệ thuộc vào nước Pháp cũng sẽ giúp cho Nhật củng cố được ảnh hưởng và thế lực của “khối Ðại Ðông Á” mà Nhật muốn lãnh đạo để chống lại khối Tây phương. Sau khi lật đổ chính quyền Pháp trên toàn cõi Ðông Dương (9.3.1945), Nhật duy trì Hoàng đế Bảo Ðại và hứa hẹn sẽ để cho Việt Nam được độc lập. Bảo Ðại cũng không ngờ rằng Nhật lại để ông tiếp tục làm vua thay vì đưa Hoàng thân Cường Ðể về nước cầm quyền. Ông đã hỏi Ðại sứ Marc Masayuki Yokohama về chuyện này và nói: “Tôi gắn bó với dân tộc tôi chứ không phải với ngai vàng”. Nhưng Ðại sứ Nhật đã trả lời: “Những người gieo mầm không phải là người gặt hái kết quả”. Ðiều đó cho thấy lý do Nhật không ủng hộ Cường Ðể vì không tiện lập một Chính phủ Việt Nam tuy chống Pháp nhưng thân Nhật, trong khi Bảo Ðại không phải là người của Nhật và có thể được dân chúng tin tưởng nếu ông chống lại mưu toan của Pháp trở lại Việt Nam. Người chuẩn bị cho Cường Ðể trở về thay thế Bảo Ðại và cho Ngô Ðình Diệm làm Thủ tướng là Trung tá tình báo Hayashi Hidezumi. Vào giữa năm 1944, tin đồn về chuyện này được lan truyền trong các giới chính trị khá lộ liễu đến nỗi, để tránh cho Ngô Ðình Diệm khỏi bị Mật thám Pháp lùng bắt, Nhật phải cải trang cho ông Diệm thành một sĩ quan Nhật và đưa ông từ Huế vào Sài Gòn ẩn náu trong một nhà thương quân đội Nhật. Ðến tháng Giêng 1945, hai tháng trước ngày đảo chánh, Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuichi quyết định không dùng lá bài Cường Ðể nữa [1].

Ðến đây cũng cần nói đến trường hợp của Phạm Quỳnh, Ngự tiền Văn phòng (tương đương với chức Thủ tướng) của Bảo Ðại. Chính phủ Nhật giữ Bảo Ðại nhưng không muốn giữ Phạm Quỳnh vì ông là người bị coi là thân Pháp. Thật ra, Phạm Quỳnh là một học giả yêu nước nhưng cũng là một nhà chính trị ôn hòa, chủ trương rằng Việt Nam thời đó không thể chống nổi Pháp nên cần phải học hỏi văn minh Tây phương qua văn hóa Pháp để dần dần đòi lại quyền tự chủ. Trong một bản phúc trình cho nhà cầm quyền Pháp ở Huế sau ngày Nhật đầu hàng Ðồng minh, Ðại sứ Yokohama thuật lại buổi yết kiến vua Bảo Ðại để báo tin việc chính phủ Nhật đảo chính Pháp ở Ðông Dương và trao trả độc lập cho Việt Nam. Phạm Quỳnh hiện diện trong buổi tiếp kiến này yêu cầu Nhật Bản thừa nhận nền độc lập của Việt Nam một cách chính thức vì Pháp đã bị tước quyền bảo hộ. Ông nhấn mạnh rằng: “Ðể chúng tôi có thể hợp tác hữu hiệu với Nhật Bản, chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt được điều đó, uy tín của Chính phủ chúng tôi cần phải được tăng cường bằng một hành động long trọng tuyên cáo độc lập”. Yokohama trả lời rằng việc tuyên cáo độc lập để chứng tỏ chủ quyền là hành động nội bộ mà “Ngài có tự do tuyệt đối để hành động theo sự phán xét của Chính phủ Ngài”. Tuy nhiên, Yokohama lại cho biết là vì muốn sớm vãn hồi an ninh và trật tự và “bảo vệ xứ này chống lại cuộc xâm lăng của quân địch trong tương lai”, Bộ Tư lệnh quân đội Nhật “mong muốn rằng hiện trạng chính trị và hành chánh được duy trì nhiều chừng nào hay chừng nấy” [2].

Những lý do trên cho thấy tại sao Nhật không mời Phạm Quỳnh cũng như không mời Ngô Ðình Diệm là những người có kinh nghiệm về chính quyền mà lại mời Trần Trọng Kim, một trí thức không đảng phái, tuy nhiệt tâm yêu nước nhưng không phải là một người làm cách mạng (Xem thêm chương 10 về lý do Ngô Ðình Diệm không được mời, hay được mời nhưng không nhận). Ðối với Trần Trọng Kim, đây là một chuyện rất bất ngờ mà chỉ sau khi gặp Bảo Ðại lần thứ hai, sau mười ngày trì hoãn, ông mới nhận trách nhiệm thành lập Chính phủ. Bảo Ðại thúc giục ông: “Trước kia, người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có Chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một Chính phủ để lo việc nước” [3].

Chính phủ Trần Trọng Kim thường không được nhắc nhở đến trong lịch sử tranh đấu giành độc lập cho dân tộc, hoặc nếu có thì cũng chỉ được coi như một Chính phủ chuyển tiếp trong một thời gian ngắn ngủi không có thành tích gì đáng kể. Việt minh thì dứt khoát lên án Chính phủ Kim là “bù nhìn” do Nhật tạo ra và chỉ đem lại cho Việt Nam một nền “độc lập bánh vẽ”. Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và tác giả ngoại quốc cũng đồng ý một cách thiếu thận trọng như thế. Ðến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, giai đoạn lịch sử này cần được xem xét lại một cách khách quan về tính chất chính đáng của Chính phủ ấy.

Trần Trọng Kim thành lập Chính phủ trong tình trạng độc lập nửa vời vì chưa được trao trả trọn vẹn chủ quyền và lãnh thổ, nhưng như lời nhận định nêu trên của Bảo Ðại, đây là một cơ hội để cho Việt Nam có thể chuẩn bị đầy đủ khả năng nhận lãnh hay đòi hỏi độc lập hoàn toàn. Nếu không nắm lấy cơ hội này, Việt Nam không tránh khỏi tình trạng bị quân phiệt Nhật thay thế Pháp cai trị một cách khắt khe trong những điều kiện của chiến tranh chống quân đội Ðồng minh. Luật sư Trịnh Ðình Thảo, sau này là Chủ tịch của Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình (LMDTDCHB) trong hệ thống Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTGPMN), cho biết Trần Trọng Kim “không tin ở sự thành thật của nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào những biến cố có hại cho tương lai của xứ sở”, nhưng ông Thảo đã thuyết phục được ông Kim nhận lời yêu cầu của Bảo Ðại với lý do “phải gấp rút thành lập Chính phủ Việt Nam độc lập để đặt các Lực lượng Ðồng minh, nhất là Pháp, trước một tình trạng pháp lý không thể đảo ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ những hiệp ước Bảo hộ năm 1862 và 1874, tuyên cáo nước Việt Nam độc lập và thống nhất” [4].

Luật sư Thảo cũng cho biết một chuyện đáng lưu ý khác là Trần Trọng Kim đã được một chính khách Thái Lan chia sẻ kinh nghiệm “bắt cá hai tay” (jouer sur les deux tableaux) để có thể tồn tại của Thái Lan. Nhân vật này là Pridi Banomyong, cựu Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Thái Lan, vốn là bạn cùng lớp rất thân của Luật sư Dương Văn Giáo tại Ðại học Luật khoa Paris và khi làm Bộ trưởng đã mời Luật sư Giáo làm cố vấn chính trị. Khi đó Chính phủ Thái Lan do Thống chế Phibul Songram cầm đầu, bắt buộc phải thân Nhật lúc đó đang có 50,000 quân trú đóng ở Thái Lan. Pridi Banomyong khi đó phải sang Sài Gòn để hoạt động cho vai trò trung lập của Thái Lan. Trong thời gian này ông được Dương Văn Giáo giới thiệu với Trịnh Ðình Thảo. Pridi cho hay trong khi Phibul Songram đi với Nhật thì một số chính trị gia Thái ở Anh và Mỹ hợp tác với Ðồng minh để tránh cho Thái Lan bị liệt vào phe thua trận khi chiến tranh chấm dứt. Những chính khách lưu vong này thành lập một Chính phủ trừ bị để, khi cần thiết, sẵn sàng thay thế Chính phủ Phibul Songram và được Ðồng minh thừa nhận. Lời khuyên của Pridi Banomyong cho Trần Trọng Kim là “hãy nắm lấy độc lập mà không theo Nhật” [5].

Ngoài hoàn cảnh khó khăn về chính trị, đất nước lại đang gặp phải tình trạng nguy ngập về kinh tế: nạn đói đang hoành hành, các thành phố và trục lộ giao thông đường bộ, đường biển từ Nam ra Bắc bị phi cơ và hạm đội Ðồng minh oanh tạc hay thả mìn. Bộ trưởng Xã hội của Chính phủ Kim, Bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bị thiệt mạng trong một vụ oanh tạc này. Các cơ sở chính quyền còn ở trong tình trạng giao thời, quân đội chưa thành lập, và guồng máy hành chánh do Pháp để lại chỉ là những thuộc cấp mà hầu hết là “những tham quan ô lại chỉ quen sự thi hành mệnh lệnh của người Pháp, chứ không mấy người có đủ tư cách làm người công chức một nước tự chủ” [6].

Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, Chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:

1.      Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chánh cho các viên chức Việt Nam.

2.      Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.

3.      Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.

4.      Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.

5.      Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.

6.      Thiết lập các Uỷ ban Tư vấn Quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chánh và giáo dục [7].

Chỉ trong thời gian ngắn ngủi bốn tháng (17.4-16.8) Chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này. Kết quả có thể được tóm tắt như sau:

Cứu đói: Bộ Tiếp tế do Bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải thóc gạo từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và, nhờ sự can thiệp của Chính phủ Kim, giới quân phiệt Nhật cũng không còn thi hành chính sách độc đoán về sản xuất nông phẩm. Tuy nhiên, công việc chuyên chở gạo vô cùng khó khăn vì những hoạt động quân sự của Hoa Kỳ nhằm cắt đứt trục giao thông và chuyển vận của Nhật. Không quân Mỹ oanh tạc thường xuyên đường xe lửa và đường bộ trong khi hải quân phong tỏa đường biển bằng thủy lôi. Nhiều đoàn thuyền buồm còn bị nạn hải tặc chặn cướp khiến cho gạo tiếp tế bị thiếu hụt trầm trọng. Nếu không nhờ sự thành lập Tổng hội Cứu tế nạn đói để phối hợp hoạt động với những hội chẩn tế và những đoàn thanh niên cứu đói trên toàn quốc thì số người chết vì nạn đói còn cao hơn nữa.

Chủ quyền: Ðể biểu hiệu cho sự thống nhất ba miền lãnh thổ, quốc hiệu “Việt Nam” chính thức thay thế cho quốc hiệu “An Nam” đang được sử dụng. Mặc dù hứa hẹn cho Việt Nam độc lập, Nhật vẫn giữ lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng là nhượng địa dành cho Pháp, và toàn thể Nam Bộ là thuộc địa của Pháp. Ngày 3 tháng Bảy, Chính phủ Kim thâu hồi được ba thành phố nhượng địa, nhưng cuộc điều đình về vấn đề Nam Bộ không có kết quả. Ngày 1 tháng Tám, Thủ tướng Kim phải đích thân từ kinh đô Huế ra Hà Nội gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi Yuitsu, không những yêu cầu trả ngay phần còn lại của lãnh thổ mà còn đòi luôn các công sở thuộc về Phủ Toàn quyền Pháp khi trước. Tất cả những đòi hỏi này đều được Tsuchihashi chấp thuận, và hai bên ấn định ngày trao trả Nam Bộ là 8 tháng Tám và ngày trao trả các công sở là một tuần sau đó. Cũng trong dịp gặp Tsuchihashi, Trần Trọng Kim đã được Nhật đồng ý chuyển giao lại các binh sĩ Việt Nam, cung cấp bốn ngàn khẩu súng mới và đạn dược để tổ chức đội quân Bảo an.

Cải tổ: Vốn là một nhà giáo dục, Trần Trọng Kim rất chú trọng đến việc cải tổ hệ thống giáo dục, bắt đầu bằng việc sử dụng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy. Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, không những là một nhà khoa học mà còn là một học giả uyên bác, đã hoạch định xây dựng một nền quốc học trên cơ sở dân tộc và tiến bộ, nhưng chưa kịp thi hành trong một nhiệm kỳ quá ngắn ngủi. Hệ thống và chương trình Trung học do ông soạn thảo [8] đã được các chính phủ quốc gia tiếp tục áp dụng với đôi chút sửa đổi trong nhiều năm về sau.

Về tư pháp, do đề nghị của Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Ðình Thảo, Thủ tướng Kim ký nghị định ân xá ngày 2 tháng Năm với lệnh “Thả ngay tất cả các tù nhân chính trị” và ngày 8 tháng Năm thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp trên căn bản thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn [9]. Ngoài ra, miễn hay giảm mười ba hạng thuế đã được thi hành dưới thời Pháp và Nhật.

Chính trị: Với chủ trương “hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của quốc gia và gây mạnh cái tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội” [10], Chính phủ Kim đã động viên được tinh thần yêu nước của toàn dân qua việc tổ chức lần đầu tiên sau thời Pháp thuộc những buổi lễ vinh danh các anh hùng dân tộc đã chiến thắng quân xâm lược và những nhà cách mạng đã hi sinh cho Tổ quốc, thay đổi tên đường phố và triệt hạ những tượng đài biểu thị nền đô hộ của Pháp. Sôi nổi nhất là phong trào Thanh niên Tiền tuyến do Bộ trưởng Phan Anh phát động và khuyến khích thanh niên sinh viên tham gia các sinh hoạt chính trị, văn hóa, xã hội. Những đoàn thể thanh niên này cũng như Tổng hội Sinh viên là những nơi được Việt minh len lỏi vào và lôi cuốn được nhiều người yêu nước đi theo. Ngoài ra, Chính phủ Kim cũng thực hiện tinh thần hoà giải và đoàn kết dân tộc, không phân biệt đảng phái, không chỉ bằng việc thả hết các chính trị phạm và kêu gọi họ hợp tác, mà còn can thiệp với Nhật để cho các thanh niên bị bắt về tội theo Việt minh chống Nhật cũng được phóng thích.

Những kết quả trên đây cho thấy Nội các Trần Trọng Kim, dù không phải là những chính trị gia có thành tích và kinh nghiệm, đều là những nhà trí thức nhiệt tình với đất nước, hết lòng phục vụ cho quyền lợi chung của dân tộc, không tham nhũng, không chia rẽ bè phái, không tham quyền cố vị. Trước tình thế rối ren của Cách mạng tháng Tám, Thủ tướng Kim được quân đội Nhật cho biết họ “còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân đội Ðồng minh đến thay” [11], nhưng ông đã từ chối yêu cầu Nhật bảo vệ Chính phủ và duy trì trật tự vì muốn tránh đổ máu và rối loạn. Trước đó, trong chuyến đi ra Hà Nội để điều đình với Tổng tư lệnh Nhật Tsuchihashi Yuitsu để lấy lại Nam Kỳ và các cơ sở chủ quyền còn lại, Trần Trọng Kim đã tìm hiểu kỹ lưỡng về Mặt trận Việt minh đang gây thanh thế ở miền Bắc. Ông nhận định rằng “Ðảng Việt minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại [giành] độc lập cho nước nhà, vậy nên từ Bắc chí Nam ở đâu cũng có người theo… Ðảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền bá quốc ngữ khi mới lập thành ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh” [12] Chín.vị Khâm sai miền Bắc là Phan Kế Toại và một số Bộ trưởng trong Chính phủ Kim cũng bắt đầu có thiện cảm với Việt minh.

So sánh một lực lượng cách mạng đã hoạt động lâu năm có ảnh hưởng trong quần chúng và đang có thời cơ với một Chính phủ trí thức yêu nước nhưng mới ra đời được bốn tháng, chưa có đủ quyền hành, chưa kịp có quân đội, Trần Trọng Kim đã quyết định đúng khi ông không nhờ quân đội Nhật can thiệp, một quân đội lúc đó đã mất hết tinh thần đang chờ bị tước khí giới và giam giữ. Ông đã thực hiện phương châm “khả hành khả chỉ” trong chính trị học Khổng giáo để biết “lúc nào nên làm, lúc nào nên thôi”. Bởi vậy, sau khi giành được chính quyền, Mặt trận Việt minh đã không những không bắt bớ hay trả thù một người nào trong Chính phủ Kim mà còn lôi cuốn được một số Bộ trưởng gia nhập mặt trận kháng chiến chống Pháp, mặc dù trước đó đã lên án Chính phủ này là “bù nhìn” và “Việt gian”. Chính phủ Kim mang tiếng là thân Nhật, nhưng thật ra chỉ là lợi dụng cơ hội Nhật đảo chánh Pháp để nắm lấy quyền cai trị nhằm dần dần phục hồi độc lập hoàn toàn cho dân tộc. Ðó là phương cách thực tế và khôn ngoan nhất mà bất cứ một chính trị gia sáng suốt nào, kể cả Hồ Chí Minh, cũng sẽ chọn lựa vào lúc đó. Khoảng tháng Sáu 1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng và toàn bộ đất Nam kỳ cho Việt Nam, ông đã nói, “Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập Chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật… Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui” [13]. Chỉ tiếc rằng vài tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì Chính phủ Kim phải ra đi, tiếp theo đó là một thời kỳ lịch sử đầy máu và nước mắt.

Nhiều người trách Chính phủ Trần Trọng Kim là nhu nhược, không dám đối phó với Việt minh sau ngày 19.8.1945 mặc dù nhà cầm quyền Nhật đã báo cho Thủ tướng Kim biết là “Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Ðồng minh đến thay” [14]. Thật ra, quyết định của Bảo Ðại và Trần Trọng Kim không nhờ Nhật can thiệp là đúng vì ba lý do chính:

1.      Quân đội Nhật đã đầu hàng. Không có một lý do hay động lực nào khiến họ thấy cần phải chiến đấu để bảo vệ một Chính phủ địa phương đang thất thế. Trách nhiệm “giữ trật tự” của quân đội Nhật sẽ chỉ có hiệu lực lúc đầu và họ sẽ phải nhượng bộ hoặc xung đột với cao trào đòi độc lập của những đoàn thể thanh niên, sinh viên và dân chúng do Việt minh tổ chức. Thời gian “giữ trật tự” để chờ quân đội Ðồng minh lại rất ngắn (khoảng hai tuần lễ) và Chính phủ Trần Trọng Kim sẽ không thể chối bỏ được trách nhiệm về những cuộc đổ máu của dân Việt Nam do quân Nhật gây ra.

2.      Việt minh đã thành công lớn trong chiến dịch tuyên truyền là được sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Những lời tuyên bố của Tổng thống Roosevelt chỉ trích chế độ thực dân của Pháp, sự thành lập “bộ đội Việt-Mỹ” từ chiến khu Tân Trào với sự hiện diện của các sĩ quan OSS, và tấm hình tướng “Cọp Bay” Chennault ký tặng Hồ Chí Minh ở Côn Minh đã được Việt minh sử dụng và thuyết phục được đại đa số nhân dân ủng hộ. Luật sư Trịnh Ðình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Kim, còn được tin là “Đại úy Landsdale, phụ tá của Thiếu tá Archimedes Patti, Trưởng đoàn OSS ở vùng Ðông Nam Á… thay vì tiếp tế cho những nhóm quân của Pháp còn đang chiến đấu (chống Nhật) trong rừng miền biên giới, lại thả dù vũ khí và đạn dược xuống cho Việt minh để trang bị cho một Tiểu đoàn đầu tiên, và phái Aaron Bank tới huấn luyện cho bộ đội của Hồ Chí Minh” [15].

3.      Việt Minh đã chiếm được các cơ sở chính quyền, Hồ Chí Minh đã thành lập Chính phủ lâm thời, Khâm sai Bắc Bộ là Phan Kế Toại đã từ chức, đoàn Thanh niên Tiền tuyến và lính Bảo an nhiều người đã đi theo Việt minh. Thư của Bảo Ðại gửi cho Truman và de Gaulle kêu gọi ủng hộ chính nghĩa quốc gia đều không được trả lời. Trong tình trạng thất thế và cô đơn và trước khí thế sôi sục của “cách mạng”, Bảo Ðại cùng hoàng gia có thể bị lâm vào số phận của Louis XVI sau Cách mạng Pháp 1789 hay Nicholas II hồi Cách mạng Nga 1917. Quyết định thoái vị của Bảo Ðại là một quyết định sáng suốt, thức thời, tránh được đổ máu vô ích của nhân dân nếu ông nhờ Nhật dẹp Việt minh.

Trong một thời gian quá ngắn phục vụ đất nước, Chính phủ Trần Trọng Kim không mắc phải sai lầm nào đáng bị chỉ trích, trái lại, đã thực hiện được nhiều thành tích đáng kể, nhất là việc lấy lại được miền Nam và ba nhượng địa quan trọng ở miền Bắc, hoàn thành việc thống nhất đất nước như đã nói ở trên. Tất cả những điều đó cho thấy Bảo Ðại và Chính phủ Trần Trọng Kim không phải là “bù nhìn” của Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa hoàn toàn, vẫn là một thực tại chứ không phải “bánh vẽ”, nhất là so với những điều kiện của một “quốc gia tự do” và viễn tượng thống nhất mơ hồ như trong Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải ký kết với Cao ủy Bollaert.

Sai lầm chính trị, đúng ra là một nhược điểm, đáng nói đến là Trần Trọng Kim đã không thực hiện được sách lược “bắt cá hai tay” của Thái Lan mà Pridi Banomyong đã chia sẻ. Ðiều đó có nghĩa là trong khi Chính phủ Kim giữ thái độ trung lập chính trị đối với Nhật thì đáng lẽ đã phải có những nhân vật chính trị khác đi với Anh, Mỹ để chống Nhật và chuẩn bị thay thế Chính phủ Kim khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng khác với Thái Lan, Việt Nam còn phải đối phó với Pháp, khi đó cũng là một thành phần của Ðồng minh, đang quyết tâm trở lại Ðông Dương. Công việc vận động Ðồng minh lại rất khó khăn vì Anh là một đế quốc tất nhiên ủng hộ Pháp chinh phục lại các thuộc địa cũ, trong khi mối quan tâm chính của Hoa Kỳ lúc đó là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ở Âu châu. Dù sao, đó cũng chính là lỗi lầm của các đảng phái quốc gia nói chung, không có một tầm nhìn rộng rãi về chính trị thế giới sau Thế chiến II, không hợp tác được với nhau để có một sách lược vận động thích hợp với Hoa Kỳ và quốc tế – kể cả những cuộc đối thoại với Pháp – cho một nước Việt Nam không cộng sản, không phải chỉ trong thời gian của Chính phủ Trần Trọng Kim mà luôn cả những cơ hội về sau.

L.X.K.


[1] Marr, Vietnam 1945: the Quest for Power (California: University of Cali­fornia Press, 1995), 89-90.

[2] CAOM, HCI-101. Marc Masayuki Yokohama viết bản phúc trình 112 trang đánh máy cho nhà cầm quyền Pháp, nhan đề “Mémoires personnels écrits en réponse au questionnaire des autorités françaises de Hué sur les événements survenus en Indochine en Mars 1945” (Hồi ký cá nhân viết ra để trả lời bản câu hỏi của nhà chức trách Pháp ở Huế về những sự việc xảy ra ở Đông Dương vào tháng Ba 1945). Marc Yokohama có vợ Pháp tên là Jeanne A. Vicart và một con trai tên Jean-Marie Masayumi Yokohama sinh tại Paris năm 1926. Ngày 13.12.1946, vợ và con của Marc được Chính phủ Pháp cho phép hồi hương vì có công giúp đỡ kiều dân Pháp ở Hà Nội sau vụ đảo chính. Không thấy nói gì tới biện pháp đối với Marc Masayuki Yokohama.

[3] Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi (Sài-gòn: Vĩnh Sơn, 1969), 51.

[4] Trịnh Đình Khải, Décolonisation du Vietnam: Un Avocat Témoigne (Paris: L’Harmattan, 1994), 62. Tác giả cuốn hồi ký bằng Pháp văn này là Luật sư Trịnh Đình Thảo, viết sau năm 1975 và trước khi ông mất năm 1986 nhưng tới năm 1994 mới được xuất bản ở Pháp, do trưởng nam của ông là Luật sư Trịnh Đình Khải đứng tên tác giả.

[5] Ibid., 62-63.

[6] Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, 56.

[7] Trịnh Đình Khải, 63.

[8] Hữu Ngọc và Nguyễn Đức Hiền (sưu tầm), La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục, 1998), tập I, 775-850. Với sự đóng góp bài vở của 59 người quen biết cố học giả họ Hoàng, các tác phẩm của Hoàng Xuân Hãn về Khoa học và Giáo dục được in lại trong tập I này, các tác phẩm về Lịch sử được in trong tập II và về Văn học trong tập III.

[9] Đạo luật đầu tiên cho phép tổ chức nghiệp đoàn là do Chính phủ Trần Trọng Kim soạn thảo và ban hành ngày 5 tháng Bảy 1945. Tổng liên đoàn Lao động của Việt minh tới tháng Bảy 1946 mới được thành lập (Alice w. Shurcliff, “Trade Union Movement in Vietnam” trong Monthly Labor Re­view, U.S. Department of Labor, Washington, D.C., January 1951, 31).

[10] Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, trong “Lời tuyên cáo của Nội các Trần Trọng Kim”, phần Phụ lục, 193.

[11] Ibid., 93.

[12] Ibid., 13-14.

[13] Ibid., 78-79.

[14] Ibid., 93.

[15] Trịnh Đình Khải, 66.

TẠI SAO QUÊ HƯƠNG TÔI NGHÈO ?

From facebook:  Phan Thị Hồng shared Đôn An Võ‘s post.
 

Cảm phục Ls. Võ An Đôn đã nói thẳng thừng:

+ Nguyên nhân quê tôi nghèo dù không nói ra nhưng ai cũng biết, lãnh đạo tỉnh là một đám cục bộ và ngu dốt, chỉ biết đưa người thân lên làm lãnh đạo và vơ vét của cải nhân dân làm giàu.

 
Image may contain: cloud, sky, outdoor and nature
Đôn An VõFollow

 

TẠI SAO QUÊ HƯƠNG TÔI NGHÈO ?

Phú Yên quê tôi có cánh đồng lúa lớn nhất miền trung, phía nam giáp Khánh Hòa, bắc giáp Bình Định, tây giáp Gia Lai và Đắk Lắk. Có bến cảng, sân bay, đường sắt và quốc lộ 1A đi qua.

Người xứ Nẫu quê tôi rất hiền hòa, cần cù chịu khó; là tỉnh nhỏ nhưng hàng năm có tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học rất cao. Có nhiều tri thức nổi danh trong nước và nước ngoài.

Dù có lợi thế về thiên nhiên và con người, lẽ ra Phú Yên phải phát triển mạnh hơn các tỉnh lân cận, nhưng hiện nay vẫn là tỉnh nghèo nhất nước. Nguyên nhân quê tôi nghèo dù không nói ra nhưng ai cũng biết, vì lãnh đạo tỉnh là một đám cục bộ và ngu dốt, chỉ biết đưa người thân lên làm lãnh đạo và vơ vét của cải nhân dân làm giàu.

Nơi tôi sống từ nhỏ đến lớn chỉ thấy 2 gia đình thay nhau làm Chủ tịch và Bí thư xã. Trên tỉnh thì nhiệm kỳ trước có một người họ Đào làm Bí thư tỉnh đã đưa cả dòng họ lên làm quan. Người này trước khi về hưu còn muốn đưa con gái của mình lên kế ngôi cha, nhưng bị đám công thần đánh cho tơi tả.

Người họ Đào này mang danh là giai cấp nông dân nhưng chưa một ngày làm ruộng, là đại diện của giai cấp vô sản nhưng tài sản có trên chục triệu Đô La, miệng lúc nào cũng nói là chống tư bản nhưng tay đeo đồng hộ Thụy Sĩ, chân mang giày Ý, đi xe Toyota Nhật, con cái thì cho đi học nước ngoài.

Lãnh đạo tỉnh hiện tại là một người bụng to, đầu nhỏ, cân nặng khoảng 100kg. Người này xuất thân từ một gia đình đốt lò gạch, nhưng tài sản của 3 anh em người này cộng lại không dưới 100 triệu Đô La.

Quê tôi có con đường Trần Dư, dù không phải là tên chính thức nhưng nói ra ai cũng biết, con đường này hình thành từ khi tách tỉnh, lấy ruộng lúa của người dân làm nên con đường này chia cho cán bộ xây nhà. Nó mang tên Trần Dư (Nghĩa là trừ dân), vì con đường này không có nhà dân.

Đến khi nào thì quê hương tôi giàu có và bình yên như đúng tên gọi của nó ?

VÀI CON SỐ…

From facebook:   Lê Bích Trâm‘s post.
 
Image may contain: 2 people, text
Lê Bích TrâmFollow

 

“Người VN chúng ta đang bị đánh thuế vô cùng tàn bạo từ cái ăn, cái mặc, cái dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho tới cái phương tiện đi lại” – trích tác giả Lê Vi.

I CON SỐ…

– Một chiếc Lexus nhập từ Nhật chỉ 38.000 USD và thuế sau khi đặt tại showroom thì nó lên tới 140.000 USD.

– Ranger nhập từ Thái Lan 18.000 USD và bán ra gần 35.000 USD.

– Camry nhập về 25.000 USD bán ra 60.000-70.000 USD.

_ Nhiên liệu xăng để vận hành xe hơi nhập từ Singapore chỉ khoảng 7000 VNĐ/lít bán ra 16.000-17.0000 VNĐ/lít.

– Một kg thịt lợn hơi ở VN giá từ 45.000-55.000 VNĐ trong khi đó ở Mỹ nó chỉ có giá 80-90 cent/kg (khoảng 16.000 VNĐ).

– Gạo ngon đem xuất khẩu chỉ khoảng 7000 VNĐ/kg, trong khi đó người dân phải mua tại siêu thị tới 13.000-15.000 cho 1 kg gạo loại thường.

– Một con gà khi được đưa lên bàn ăn thì nó bị thu tới gần 20 loại phí.

– Bên cạnh giá thuốc, sữa vào loại cao nhất thế giới.

– Viện phí tăng 50%

Người VN chúng ta đang bị “đánh thuế vô cùng tàn bạo” từ cái ăn, cái mặc, cái dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho tới cái phương tiện đi lại.

– Theo thống kê thì gộp tất cả công chức, viên chức, công an, bộ đội, người nghỉ hưu, ban bệ, các đoàn thể… thì có gần 12 triệu người ăn lương từ ngân sách Nhà nước.

– Năm 2017 là năm đáo hạn vốn vay ODA, cũng từ năm 2017 thì VN chúng ta bị cắt các khoản vay ưu đãi, chính phủ các nước sẽ siết chặt vốn ODA cho VN. Không phải ngẫu nhiên mà Sabeco, Habeco, Vinamilk, FPT… những con gà biết đẻ trứng vàng hiếm hoi của nhà nước cũng bị đem bán, đơn giản chính phủ đã cạn kiệt tiền sau những năm tháng mà quan chức rất tích cực tàn phá, tích cực tham nhũng, tích cực biển thủ công quỹ làm của riêng.

Chẳng có dẫn chứng khoa học nào khiến đồng tiền mất đi cả, nó chỉ chuyển hóa từ nơi này sang nơi khác, từ túi người này sang người khác mà thôi.

Hàng vạn ngôi biệt thự, xe hơi, các vật phẩm xa xỉ, khối vàng ròng giấu trong két sắt của đảng viên chính là sự chuyển hóa ấy.

Khi nợ quốc gia chất cao như núi, tình cảnh “vỡ nợ” đang dần hiện hữu, thì không còn cách nào khác là chính phủ phải tiếp tục “bóp cổ người dân” để lấy tiền nuôi bộ máy quan chức. Theo đó thì phí BHXH, BHYT, phí cầu đường, phí đăng kí ô tô, xe máy, giá điện, nước… cứ thế mà tăng giá phi mã.

Vậy thôi, ai có sức ăn được thì cứ ăn…