Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

 

Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965.

Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972.

Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa.

Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung.”

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.

Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội. Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979


Gia đình Thủ Tướng Phan Huy Quát

Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được xối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.

Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.

Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng xối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.

Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”

Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng xối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.

Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?” Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?” Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng xối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!” Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.

Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?”

Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.

Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.

Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”

Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm xúc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi.

Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào. Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.

Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.

Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà.

Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.

Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.

Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.

Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.

Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng. Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông bị giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

“Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”

Tôi hỏi Bác Sĩ Quát:

– Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không?

– Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió. Vì ông đã cứng.

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.

Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.

Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.

Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!

Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!

Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to.

Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc. Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.

Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.

Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:

“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”
 

Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.

Đức Cha Nguyễn Thái Hợp: “Công ty Formosa, một tổ chức ma mãnh”

Đức Cha Nguyễn Thái Hợp: “Công ty Formosa, một tổ chức ma mãnh”

Thanh Trúc

RFA


  Đức cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp tại đại bản doanh của Formosa ở Đài Loan để bày tỏ thái độ thay mặt cho hơn 90 triệu dân Việt.

 Courtesy of Pham Quang Long FB

Hơn một năm sau khi thảm họa môi trường biển, do công ty gang thép Formosa gây ra tại 4 tỉnh bắc  miền Trung, cũng là địa phương có Giáo phân Vinh do Đức Giám Mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp phụ trách. Đại diên cho những giáo dân cũng là ngư dân bị tác động bởi thảm họa, Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã dẫn đầu phái đoàn đến tại Đài Loan nơi có trụ sở chính của công ty Formosa để đòi công lý cho người bị tác động.

Trở về từ Đài Loan, Đức Giám Mục đã dành cho Thanh Trúc cuộc nói chuyện về chuyến làm việc. Trước hết ông cho biết:

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Với tính cách là Ủy Ban Hỗ Trợ Các Nạn Nhân Của Thảm Họa Môi Trường Biển, nhóm chúng tôi có  ba bốn người, rồi cũng có một số trong nhóm hiện ở Đài Loan như Cha Hùng. Đặc biệt tại Đài Loan chúng tôi được gặp một số luật sư, giáo sư, những thành viên của xã hội dân sự cũng đang trong tiến trình khiếu kiện chống lại thảm họa môi trường mà công ty Formosa gây ra trên chính quê hương của mình trong những năm qua. Tôi  rất vui mừng về chuyến đi đó.

Tôi thấy hồ sơ đó mặc dù họ  làm rất kỹ, nhưng Formosa cũng là một tổ chức ma mãnh, không  phải vô lý mà một cơ quan của Đức đã tặng họ danh hiệu “Hành Tinh Đen”.
-Đức GM Nguyễn Thái Hợp

Tôi cũng được đi thăm một số làng, thấy những nơi đó coi như hoang tàn bỏ trống, có lúc làng này có lúc làng kia  trực tiếp hưởng khói  của công ty Formosa tùy theo chiều hướng gió. Đến đó mới thấy cái thảm trạng.

Có những người dân Đài Loan, có lẽ bị công ty Formosa tuyên truyền như thể là chính phủ Việt Nam ép buộc họ phải trả 500 triệu USD cho người dân ở Kỳ Anh, Vũng Áng. Họ biến họ thành một thứ nạn nhân thì chúng tôi cũng có giải thích là chính phủ Việt Nam đang bắt tay với Formosa để làm  giảm nhẹ thảm họa môi trường, hơn nữa rất nhiều lần đàn áp những người ủng hộ các nạn nhân của thảm họa môi trường.

Thanh Trúc: Thưa Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, nhiều người dân ở các tỉnh miền Trung nói rằng họ chưa  nhận được tiền bồi thường. Lúc qua Đài Loan chắc Đức Cha cũng có nêu điều đó ?

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Nói đa số chưa nhận được đồng nào thì cũng không đúng, có nhiều nạn nhân đã nhận được rồi nhưng mà có những nạn nhân vẫn chưa nhận được, con số đó thì ít hơn con số đã nhận. Vấn đề đặt ra là Nhà Nước với công ty Formosa tiên thiên xác định được nhận đền bù là 4 tỉnh  Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, nhưng Nghệ An là tỉnh thiệt hại cũng nhiều mà lại không được vào danh sách. Thành thử ra ai đưa ra  danh sách đó, dựa trên cái gì, tại sao Nhà Nước với công ty Formosa lại có thể tiên thiên xác định số tiền đền bù là bao nhiêu, ai được đền bù. Vấn đề công bằng và công lý thì chúng tôi cũng đã đặt ra với chính quyền tỉnh Nghệ An. Rất may nhà cầm quyền Nghệ An đã công nhận chuyện còn nợ của dân nhưng mà chưa có tiền để đền bù.Vấn đề  là đòi hỏi Formosa cũng như nhà cầm quyền trả lại cho dân  số tiền dựa trên phân tích cụ thể số thiệt hại của dân.

Hơn nữa tiền đền bù đó trên nguyên tắc cho đến cuối 2016  thì từ đó đến đây, từ rày về saunhư thế nào là  vấn để đặt ra.

Thanh Trúc: Thưa khi Đức Cha trình bày những vấn đề này với những người Đức Cha gặp bên Đài Loan thì họ có đóng góp ý kiến gì không?

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi đã học được khá nhiều kinh nghiệm của tổ hợp luật sư bên đó, học được kinh nghiệm của các giáo sư, nhất là Đại Học Đài Loan họ đã bỏ ra hàng năm trời cùng với các sinh viên để nghiên cứu về nước biển, về khói, để đưa ra một hồ sơ mang tính khoa học.

Trong một xã hội mà quyền ngôn luận quyền con người chưa được công nhận thì vấn đề khiếu kiện một công ty được nhà nước bảo trợ là chuyện rất khó, chúng tôi đang ở trong hoàn cảnh rất là bất thuận lợi.
-Đức GM Nguyễn Thái Hợp

Tôi thấy hồ sơ đó mặc dù họ  làm rất kỹ, nhưng Formosa cũng là một tổ chức ma mãnh, không  phải vô lý mà một cơ quan của Đức đã tặng họ danh hiệu “Hành Tinh Đen”. Họ cũng mượn luật sư và những luật sư đó cũng dùng những mưu mẹo để đặt những câu hỏi, nêu nghi vấn về những bằng chứng mà các nhà khoa học Đài Loan đưa ra để tiếp tục tranh kiện. Nhìn vậy để thấy  rằng có nhiều cái chúng tôi không thể đi vào con đường khiếu kiện vì Nhà Nước ở Việt Nam không cho phép, không tạo điều  kiện để có những nghiên cứu khoa học chính thức. Ngay cả đến bây giờ Nhà Nước chỉ tuyên bố là nước sạch hay nước không sạch dựa trên lời nói, tuyên truyền, nhu cầu chính trị chứ không dựa trên một phân tích khoa học nào.

Trong một xã hội mà quyền ngôn luận quyền con người chưa được công nhận thì vấn đề khiếu kiện một công ty được nhà nước bảo trợ là chuyện rất khó, chúng tôi đang ở trong hoàn cảnh rất là bất thuận lợi.

Thanh Trúc: Thưa Đức Giám Mục, lên đường đi tìm công lý cho nạn nhân Formosa ở Việt Nam, lệnh của bề trên hay lý do nào thúc đẩy ông đứng ra gánh vác việc này?

Đức GM Nguyễn Thái Hợp: Không có lệnh nào cả, nhưng mà luôn luôn có tiếng gọi giáo huấn của  xã hội Công Giáo, nhất là của Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô. Ngài mời gọi chúng ta đồng hành với các nạn nhân, đồng hành với người nghèo.

Hơn nữa  thuộc thành phần lãnh đạo của Giáo phận Vinh thì chúng tôi không thể khoanh tay trước những thiệt thòi của người dân ở đấy. Chính vì vậy chúng tôi lên đường  nói lên tiếng nói, làm được cái gì. Hơn nữa  Formosa là một ty ma mãnh, nhiều tiền nhiều thế lực, vấn đề không  phải ta  thành công hay không mà từ đó ta thành nhân, ta nói lên tiếng nói của công lý, và ít ra các nạn nhân cũng thấy có người đang đứng về  phía họ, đang muốn làm cái gì cho họ.

Thanh Trúc: Xin cảm ơn Đức Cha Phao Lô Nguyễn Thái Hợp về bài  nói chuyện này.

‘Ðả đảo thương phế binh VNCH!’

‘Ðả đảo thương phế binh VNCH!’

Tạp ghi Huy Phương

Thương binh VNCH tại một buổi “Tri ân các ông thương binh” tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn. (Hình: chungnhan.org)

Thoạt nghe chúng ta không thể nào tưởng tượng ra có một câu hô hào, một khẩu hiệu tệ hại đến mức như vậy. Thương phế binh, dù ở phía nào, thì cũng khổ đau, bất hạnh như nhau. Chúng ta thường nghe, thường hiểu những khẩu hiệu đả đảo cường quyền, đả đảo xâm lược, đả đảo độc đảng,… nhưng chưa bao giờ ai nghe những lời đả đảo dành cho người què cụt, mù lòa đang sống ở những bước đường cùng trong những ngày cuối cùng.

Câu chuyện xảy ra tại Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Ðồng, Sài Gòn, tuần rồi, khi các lực lượng giấu mặt tung ra một truyền đơn kêu gọi dân chúng “phản đối Dòng Chúa Cứu Thế ở 38 Kỳ Ðồng, trong hoạt động tri ân thương phế binh VNCH,” và truyền đơn này được đọc trước sân nhà thờ.

Chúng ta cũng biết chương trình tri ân thương phế binh VNCH được tổ chức hàng năm tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, bắt đầu từ năm 2013. Số thương binh được giúp đỡ từ 5 năm nay đã lên đến con số 6-7 nghìn. Các thương binh được khám bệnh, phát thuốc, cấp xe lăn và có những món quà do các nhà hảo tâm giúp đỡ, với sự quan tâm săn sóc của các bác sĩ, linh mục tại đây.

Từ lâu nay, công an chế độ này làm khó khăn, ngăn cản, xét hỏi những nhà hảo tâm và các thương binh đến tham dự chương trình giúp đỡ này, nhưng đây là lần đầu, tại chỗ, có người công khai đọc bản văn truyền đơn, một truyền đơn kể tội thương phế binh VNCH, mà tệ hại nhất là truyền đơn không có xuất xứ, không ký tên, như một hành động loại ném đá giấu tay rất đáng xấu hổ.

Khởi đầu truyền đơn là một đoạn văn ca tụng sự đoàn kết dân tộc, chính sách hòa hợp, hòa giải của đảng Cộng Sản, lên án thái độ của một số linh mục và giám mục về những bất đồng với đường lối nhà nước trong thời gian qua. Nội dung chính của bản truyền đơn là công khai mạ lỵ và xúc phạm đến những người thương binh VNCH với loại ngôn ngữ “tụt quần, cởi áo,” “bán nước,” “lính đánh thuê,” và lên án họ là những người đã “cắt đầu, đóng đinh, bêu đầu” người khác. Câu văn này khiến người nghe không khỏi liên tưởng đến “danh ngôn đánh thuê,” “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc” được khắc trên cổng chào đền thờ Lê Duẫn, và một thời quê hương đẫm máu với những cảnh “cắt cổ, mổ bụng, thả trôi sông” thời Việt Minh Cộng Sản!

Bản truyền đơn cũng thêm một điều vô lý khi cho rằng, Dòng Chúa Cứu Thế tổ chức tri ân thương phế binh VNCH chỉ sau một tuần ngày lễ kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ CSVN là một “xúc phạm đến anh hùng, liệt sĩ, bộ đội của Cộng Sản!”

Trong truyền đơn “đả đảo thương phế binh VNCH,” Cộng Sản cho rằng chương trình cứu trợ thương binh là ép buộc và dối trá. Ðã từng làm việc với một tổ chức từ thiện như Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH tại Hoa Kỳ, chúng tôi thấy các hồ sơ thương binh đều rõ ràng minh bạch, giấy trắng mực đen, từ tên tuổi, căn cước, hình ảnh, đơn vị đến thương tật đều có giấy tờ chứng minh, luôn có cả địa chỉ nơi cư ngụ, điện thoại để tiếp xúc điều tra hay minh xác. Thương binh tự động viết thư tường trình hoàn cảnh của mình để xin giúp đỡ, cũng không cần phải có cơ quan, đảng bộ giới thiệu như trong chế độ Cộng Sản.

Trong một xã hội tự do như Hoa Kỳ việc bác ái là do lòng tốt và tự nguyện của người giúp đỡ, hoàn toàn không có ai bắt buộc, dọa nạt ai như chuyện phường khóm hay công an khu phố đi gõ cửa, thu góp từng nhà, nửa dọa nạt, nửa xin xỏ, không có không được! Xin đừng như con ếch nhìn bầu trời qua miệng giếng, lấy cung cách hoạt động của xã hội qua con mắt hạn hẹp của mình mà chụp mũ, đánh giá sai lầm chuyện của người khác.

Chế độ Cộng Sản trong nước luôn luôn đưa ra chiêu bài hòa hợp, hòa giải, quên đi quá khứ, xóa bỏ hận thù để chiêu dụ người Việt nước ngoài, nhưng thực tâm, lòng chưa nguôi ngoai thù hận, nhất là về sau, càng ngày hình ảnh người lính VNCH càng sáng tỏ trong ý nghĩ và tâm tưởng của người Việt Nam, cả bên thua cũng như bên thắng.

Do vậy, những chương trình cứu giúp thương phế binh VNCH từ trước đến nay tại hải ngoại, nhất là những chương trình ca nhạc ngoài trời “Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH” do Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH, đài truyền hình SBTN, và Trung Tâm Asia tổ chức, đều không tránh khỏi sự xuyên tạc, đánh phá của những thành phần tay sai Cộng Sản trên đất Mỹ. Sự đánh phá, mạ lỵ nhiều lúc phải làm cho những người tổ chức phải có lần nản lòng, bật khóc như trường hợp của bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, chủ tịch hội, mà nay không còn nữa.

Tuy là một chương trình từ thiện, nhưng việc gây quỹ giúp thương phế binh VNCH có tác động chính trị. Một chiếc vé vào cửa, một tờ giấy bạc giúp thương binh được xem như là một lá phiếu vinh danh người lính VNCH, cũng có nghĩa là vinh danh chế độ VNCH, một chế độ mà hiện nay những người thắng cuộc luôn luôn muốn tẩy xóa, bôi bẩn hình ảnh. Càng ngày người ta càng có sự so sánh giữa hai chế độ, giữa hai người lính và giữa hai lối hành xử với hạnh phúc của người dân.

Chế độ Cộng Sản trong nước không thể làm gì với được với thái độ người Việt ở hải ngoại, nhưng ở trong nước chính quyền sao chịu để yên với những chuyện như cây gai nhọn đâm vào mắt, khi quần chúng còn muốn vinh danh, tri ân người lính VNCH qua các hoạt động của các cơ sở tôn giáo như chùa Liên Trì hay nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn.

Những hoạt động này cũng đánh động đến mối cảm xúc của thương binh của xã hội chủ nghĩa. Trong chiến tranh, VNCH có 300,000 người lính tử trận mà có đến 1,170,000 thương binh (1 tử trận /6 thương binh), trong khi miền Bắc có 1.1 triệu bộ đội chết mà chỉ có 600,000 thương binh (1 tử trận/2 thương binh).

Quân sử đã ghi nhận Bắc Việt không có phương tiện di tản thương binh, xa hậu cần và hầu hết thương binh đều phải bỏ lại chiến trường, để giữ chiến thuật đánh mạnh, rút nhanh. Ngày nay, trong khi đảng và chính phủ giàu sang tột đỉnh, thương binh Cộng Sản cũng sống trong những điều kiện thiếu thốn cơ cực, có chăng như những bà “Mẹ Liệt Sĩ” được đảng vinh danh, tặng ảnh chân dung “bác Hồ” để mẹ ngồi ngắm cho qua cơn đói!

Nhưng đánh đến cùng với những con người, dù ở bên kia chiến tuyến, mà ngày nay chỉ còn cây nạng gỗ, chiếc xe lăn, không còn tay, mà chẳng còn chân, cũng có khi không còn đôi mắt, là một thái độ hạ tiện, khốn nạn của những kẻ đã từng rêu rao một thời là những con người của lương tri, trí tuệ có đời sống “nhân văn,” “sống với nhau có nghĩa có tình…”

Rõ ràng là các anh đang sợ, nhưng biết sợ cũng là một thái độ tri thức.

Phải chăng thất bại của TBT Nguyễn Phú Trọng và sự đổ vỡ đã cận kề?

Phải chăng thất bại của TBT Nguyễn Phú Trọng và sự đổ vỡ đã cận kề?

Kami
 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái) bắt tay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại một cuộc họp của Quốc hội tại Hà Nội ngày 12 tháng 4 năm 2016.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái) bắt tay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại một cuộc họp của Quốc hội tại Hà Nội ngày 12 tháng 4 năm 2016.

 AFP
  

Không thể chối bỏ việc nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và đàn em thân tín đã cố ý làm trái để trục lợi cho phe cánh, nhóm lợi ích cũng như bản thân đã để lại những hậu quả vô cùng lớn trong việc tàn phá nền kinh tế quốc gia.

Chắc hẳn việc ông Trọng muốn tiêu diệt ông Dũng hoàn toàn không phải xuất phát từ lý do vì việc chống tham nhũng, làm trong sạch đảng hay quyền lợi của quốc gia mà hoàn toàn chỉ là việc tư thù cá nhân. Vì nếu không như thế thì làm gì có chuyện có lúc ông Trọng đã phải than thở rằng là “đánh chuột sợ vỡ bình”?

Việc Trịnh Xuân Thanh được bộ tham mưu của Tổng BT Nguyễn Phú Trọng chọn làm ngòi nổ để khởi động cuộc chiến, nhằm hủy diệt thế lực chính trị của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là điều có thật. Từ cái mắt xích Trịnh Xuân Thanh  chia thành 2 hướng, một hướng nhắm tới Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng, còn hướng kia là tới Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Đinh La Thăng. Song 2 hướng cũng tìm về một cái đích chung là ông Ba Dũng. Cho đến thời điểm này, hai cứ điểm Vũ Huy Hoàng và Đinh La Thăng đã coi như bị ông Trọng xóa sổ và sẽ có thêm nữa khi cái “lò tôn” của Tổng Bí thư Trọng nóng lên. Khi đó ông Nguyễn Phú Trọng có thể xử lý hình sự các đối tượng vừa kể. Nhưng cho đến lúc này cái đích cuối cùng vẫn là nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Và vào lúc này họ – phe ông Trọng đã và đang rờ tới đại gia Trầm Bê, một kẻ thân tín và kẻ tay hòm chìa khóa và đang xục xạo Ban chỉ đạo Tây Nam bộ một trong những cứ điểm quan trọng tiến tới xử lý ông Ba Dũng là việc làm cần thiết.

Nếu với tốc độ thừa thắng tiến tới, khi mà “Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công.”, như phát biểu của Tổng BT Nguyễn Phú Trọng tại cuộc họp Ban Chỉ đạo PCTN ngày 31/7/2017. Như thế thì chả mấy chốc nguyên Thủ tướng Dũng cũng sẽ trở thành một Bạc Hy Lai của Trung Quốc, một nạn nhân của chiến dịch đả Hổ diệt Ruồi của ông Tập Cận Bình. Với kết cục là Bạc Hy Lai bị tù chung thân, tịch thu hết tài sản và bị tước vĩnh viễn quyền tham gia các hoạt động chính trị. Điều này không chỉ riêng ông Nguyễn Phú Trọng muốn mà cả ban lãnh đạo Bắc Kinh cũng muốn điều như thế.

Nhìn sang Trung Quốc, Chủ tịch Tập cận Bình làm được điều đó vì ông Tập nắm quyền lực hầu như tuyệt đối, quyền lực của họ Tập bao trùm cả công an và quân đội Trung Quốc. Có khả năng “nhất hô, bá ứng”. Còn ở Việt Nam muốn biết ông Trọng có khả năng làm được hay không thì cứ điểm xem quyền lực trong tay của ông Trọng hiện nay có được những gì?

Trong Bộ Quốc phòng uy tín của ông Nguyễn Phú Trọng có vẻ lớn, song việc tay chân của ông Trọng chỉ là một lũ quan văn xuất thân từ sĩ quan chính trị “văn dốt, vũ dát” như Ngô Xuân Lịch, Lương Cường… được tin tưởng cho nắm giữ quyền bính, trong lúc các tướng lĩnh giỏi trận mạc thì bị vô hiệu hóa và bị lũ quan văn đè đầu cưỡi cổ. Bức thư của Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương tố cáo Đại tướng Ngô Xuân Lịch (http://bit.ly/2ufrGsy) gần đây xuất hiện trên mạng đã phần nào cho thấy điều đó. Việc Nguyễn Phú Trọng và Ngô Xuân Lịch là 2 trong 19 UV Bộ Chính trị bỏ phiếu thuận (2/19) quyết định việc Việt Nam rút việc thăm dò dầu khí khỏi lô 136 -03, bãi Tư Chính đã khiến các tướng lĩnh quân đội phe chủ chiến vô cùng phẫn nộ. Nhất là Trung tướng Phan Văn Giang, Tổng tham mưu trưởng người giữ trọng trách điều binh khiển tướng vào lúc này.

Còn bên Bộ Công an thì Tổng BT Nguyễn Phú Trọng dẫu cố gắng tham gia đảng ủy Công an Trung ương để nắm quyền lực, song tiếng nói của ông Trọng hầu như không có trọng lượng, vì lãnh đạo Bộ Công An hiện nay gồm 8 Thứ trưởng và kể cả Bộ Trưởng Tô Lâm là 9 đều là những người được nguyễn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cất nhắc. Chưa kể đến 4/8 thứ trưởng toàn là đồng hương Ninh Bình của ông Trần Đại Quang. Việc thời gian vừa qua Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không dám rời thủ đô Hà Nội để đi đến các tỉnh khác, nhất là các tỉnh xa biên giới Việt Trung, từ Hà Nam trở vào phía trong, vì lý do sợ không an toàn và vì sợ nhỡ xảy ra việc gì bất thường thì đặc nhiệm của Bắc Kinh không ứng cứu được.

Nói như thế để thấy việc ông Nguyễn Phú Trọng muốn hủy diệt ông Ba Dũng cũng chẳng dễ như nhiều người tưởng.

Quan trọng hơn, với 2 nhiệm kỳ nắm giữ chức thủ tướng ông Ba Dũng đã xây dựng một hệ thống chân rết ở mọi ngóc ngách trong bộ máy nhà nước từ trung ương tới các địa phương, ông Trọng có muốn nhổ hết thì không thể làm được trong một thời gian ngắn chưa đến 2 năm. Chưa kể đến việc ông Nguyễn Tấn Dũng nhận được sự ủng hộ của các đại thần trong đảng như Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh và Đỗ Mười khi uy tín còn bao trùm.

Trong lúc Ủy Ban Kiểm tra TW đang xục xạo ở Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ – cơ quan lãnh đạo toàn bộ vùng đồng băng sông Cửu Long để xử lý các sai phạm ở cơ quan này, thì có thông tin đáng chú ý cho rằng, gần đây nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình đã chuyển về ở tại nhà khách Bộ Tư lệnh Quân khu 9.

Có người không ít người đặt câu hỏi rằng, không lẽ ông Nguyễn Tấn Dũng và các đàn em của ông ta ngồi im chịu chết và tại sao họ không có bất kỳ động thái phản ứng nào?

Có lẽ câu trả lời sẽ là, không dễ gì “con rắn độc” Nguyễn Phú Trọng nuốt nổi “con ếch” Nguyễn Tấn Dũng, vì tương quan bàn cờ chính trị Việt Nam không cho ông Tổng BT Trọng làm được như họ Tập ở Bắc Kinh. Nhất là khi thế và lực của phe Nguyễn Tấn Dũng và Trần Đại Quang vẫn còn không hề nhỏ, việc họ đã đón Đinh Thế Huynh về an dưỡng tại Phú Quốc sau hơn 2 tháng điều trị nhiễm độc phóng xạ tại Nhật bản đã cho thấy điều đó. Hiện tượng hàng loạt các lãnh đạo Việt Nam gần đây mắc chứng bệnh giống như ông Đinh Thế Huynh đã khiến nhiều người buộc phải tránh xa ông Trọng nếu họ không muốn chết sớm.

000_Hkg10247972-400.jpg
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và TBT Nguyễn Phú Trọng tại lễ khai mạc Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 21 tháng 01 năm 2016. AFP

Theo một bản tin của VOV mới đây, trong mục hoạt động của Nguyên Thủ tướng dưới nhan đề “Họp mặt Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu 9 các thời kỳ” (http://bit.ly/2vBY3kR) cho biết, sáng 25/7, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 9 tổ chức họp mặt các Đảng ủy viên Đảng ủy Quân khu qua các thời kỳ.

Tham dự buổi lễ có các vị nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước: nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh; cùng các vị lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Đảng ủy Quân khu 9 qua các thời kỳ.

Tại buổi lễ, Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9 nhấn mạnh: việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ Quân khu đối với lực lượng vũ trang là một nguyên tắc, là nhân tố cơ bản quyết định đến sự lớn mạnh, trưởng thành và chiến thắng của lực lượng vũ trang Quân khu. Đồng thời khẳng định Quân khu 9 sẽ trở thành một pháo đài bất khả xâm phạm trước mọi kẻ thù.

Tại buổi họp mặt, còn có sự có mặt của Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, tại đây bà Phó CTN nhấn mạnh: Sẽ sát cánh cùng Đảng bộ và lực lượng vũ trang Quân khu 9 để xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Lực lượng vũ trang Quân khu 9 cần chủ động phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ và cấp ủy, chính quyền các địa phương trong khu vực ĐBSCL, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn…

Theo các chuyên gia phân tích chính trị về Việt Nam thấy rằng, việc xuất hiện của các đại thần như nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh; nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; nguyên Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh… tại trụ sở Bộ Tư lệnh Quân khu 9 dưới danh nghĩa họp mặt là một động thái bất thường của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Đó được coi là một hành động có tính toán nhằm gửi đi một thông điệp đến Tổng BT Nguyễn Phú Trọng rằng họ sẽ không chịu ngồi im để chờ chết, vì ai cũng biết Quân khu 9 vốn là thánh địa và là nơi họp bàn những việc cơ mật của nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng.

Hiện nay truyền thông Đức cho biết, vụ việc Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc bởi tình báo Việt Nam đã có nhiều hệ lụy trên nhiều bình diện khác nhau cho các quan hệ Đức-Việt. Việc trục xuất tùy viên quân sự làm việc cho tình báo đã làm cho tình hình càng tăng thêm căng thẳng. Bây giờ thì việc hợp tác của hai nước cũng đang đứng trước một thời kỳ khó khăn. Theo đó, Chính phủ CHLB Đức đang xem xét bảo lưu việc ngưng chi trả các khoản tiền viện trợ cho Việt Nam.

Một cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu cho biết, không chỉ sự kiện Bãi Tư Chính mà việc khủng hoảng ngoại giao của Việt Nam đối với phương Tây sau vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin, sẽ tiếp tục lan rộng với các biện pháp trả đũa thẳng thừng từ CHLB Đức nói riêng đến EU nói chung. Điều này sẽ tạo ra các tình huống phức tạp có khả năng xoay chuyển tình thế trên bàn cờ chính trị Việt Nam vào lúc này. Và nhiều khả năng phía Việt Nam sẽ chấp nhận trả lại nghi can Trịnh Xuân Thanh và chờ đợi các thủ tục hợp pháp từ phía Đức để tiến hành thủ tục dẫn độ nhằm hạ nhiệt.

Một nguồn tin chưa được kiểm chứng cho biết, theo cảnh sát Berlin đã có một nhân vật thứ 3 người Á Châu lạ mặt đã sử dụng điện thoại Iphone của Trịnh Xuân Thanh để quay lại cảnh bắt cóc, rồi sau đó cầm điện thoại (đã mở khóa sẵn) chuyển lại cho an ninh Đức và nói là ông đã vô tình nhặt được tại nơi bắt cóc trong ngày 23/7/2017. Khi cảnh sát Berlin nghi ngờ và đã tra hỏi người đàn ông đưa điện thoại cho an ninh, thì ông này đã khai thật rằng, một người đã trả ông 50 EURO để nhờ ông giao chiếc iPhone cho Cảnh sát và chuyển lại lời là iPhone này nằm ở hiện trường bắt cóc. Vẫn theo Cảnh sát Berlin, điều này đã càng khẳng định rằng mật vụ Việt Nam đã cố gắng dàn dựng một màn kịch bắt cóc để thực hiện cho một kế hoạch có động cơ chính trị.

Có nghĩa là, việc Bộ Công An “bố trí” đưa Trịnh Xuân Thanh sang Đức rồi cũng Bộ Công An chủ động “bắt cóc” Trịnh Xuân Thanh về Hà Nội, để khai thác và giam giữ theo một chế độ nghiêm ngặt đặc biệt thì Tổng cục 2 và Tổng Bí thư Trọng đâu biết Trịnh Xuân Thanh đã khai những gì? Và nếu như trả lại họ Trịnh cho CHLB Đức thì khả năng CHLB Đức cho phép phía Việt Nam dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước chỉ là con số không. Vậy rõ ràng là, họ tổ chức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh hoàn toàn chỉ nhằm mục đích gây tai tiếng, hay nói cách khác nếu không muốn nói là họ chỉ muốn diễn kịch trong cuộc chiến tranh chấp quyền lực.

Không chỉ thế nhiều tin đồn đoán cho rằng ông Dũng có nhiều khả năng lật ngược được thế cờ ở phút thứ 89, nếu như ông Dũng biết khơi dậy lòng yêu nước, chống Trung Quốc từ các số đông các tướng lĩnh trận mạc, vốn làm nhiều nhưng ăn ít và có thừa sự bất mãn.

Hơn bao giờ hết ban lãnh đạo Hà Nội đang phải ở trong tình cảnh không chỉ tứ bề thọ địch, mà trong nội bộ lãnh đạo đảng cũng càng ngày càng bung bét hơn bao giờ hết, kể cả vấn đề sức khỏe của các lãnh đạo cao cấp. Tới nước bọn họ đã dùng cả danh dự cũng như quyền lợi đất nước như trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, để triệt hạ lẫn nhau, thì khó có thể dự báo một viễn cảnh tăm tối nhất, kể cả sự đổ vỡ cũng là điều rất có thể.

Ngày 08 tháng 08 năm 2017

© Kami

Đến lượt ông Trần Đại Quang ‘bí mật’ sang Nhật chữa bệnh?

Đến lượt ông Trần Đại Quang ‘bí mật’ sang Nhật chữa bệnh?
August 10, 2017
Ông Trần Ðại Quang. (Hình: Luka Gonzales/AFP/Getty Images)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Trần Đại Quang, chủ tịch nước, một trong “Tứ Trụ Triều Đình” của đảng CSVN, đã phải sang Nhật chữa bệnh và ‘từ tối 25 Tháng Bảy, 2017.’

Tin này được tiết lộ trên trang Facebooker Truong Huy San, tức nhà báo Huy Ðức. Theo nhà báo này, ‘Sự vắng mặt của ông ở trong nước suốt hơn hai tuần qua đã tạo ra một khoảng trống cho các lời đồn đoán.”

Thông tin về “Nguyên thủ quốc gia & Định chế chủ tịch nước” của Facebooker Truong Huy San tung ra vào sáng 10 Tháng Tám, lập tức được cộng đồng mạng xã hội “like” và “share.” Facebooker này là tác giả bộ sách “Bên Thắng Cuộc” và là người am hiểu tình hình chính trị tại Việt Nam.

Trong thời gian gần đây, trang facebook Truong Huy San được sự quan tâm đặc biệt của những người theo dõi tình hình chính trị tại Việt Nam bởi các tin tức về sức khỏe của ông Đinh Thế Huynh (Thường trực Ban Bí Thứ đảng CSVN), vụ Trịnh Xuân Thanh ‘đầu thú’ hay vụ bắt ‘ông trùm ngân hàng’ Trầm Bê đều được loan báo trên trang này trước khi nó thực sự được nhà cầm quyền loan báo hay thực thi.

Trở lại chuyện sức khỏe của ông Trần Đại Quang, Facebooker Truong Huy San viết: “Chúng ta không rõ bệnh tình của Đại Tướng Trần Đại Quang thế nào. Nhưng, chủ tịch nước là một định chế được Hiến Pháp 2013 (Điều 88) trao cho khá nhiều quyền bính, đặc biệt có những quyền có thể phải thực thi bất cứ lúc nào như ‘công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; …ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.’ Theo Điều 93 của Hiến Pháp 2013 thì, ‘Khi chủ tịch nước không làm việc được trong thời gian dài thì phó chủ tịch nước giữ quyền chủ tịch nước.’”

Facebooker này nhắc lại chuyện Chủ Tịch Nước Lê Đức Anh trước đây: “Các nhà lãnh đạo vốn vẫn hy vọng vào kết quả điều trị để xuất hiện trở lại trước công chúng một cách hoành tráng. Cuối 1996, Tướng Lê Đức Anh bị đột quỵ. (Ông bị xuất huyết não khá nặng. Theo Bác Sĩ Vũ Bằng Đình, giám đốc Quân Y Viện 108, người trực tiếp cấp cứu. Thông tin về bệnh tình của Tướng Anh được giữ kín tuyệt đối. Hơn ba tháng sau, ông bắt đầu hồi phục. Bằng một ý chí sắt đá, Tướng Lê Đức Anh quyết định vẫn xuất hiện trên truyền hình, đài phát thanh, đọc lời chúc mừng năm mới [1997]. Bác Sĩ Vũ Bằng Đình nói: ‘Chúng tôi phải hộ tống ông từ bệnh viện ra phòng thu. Ống kính chỉ quay nửa người nên dân chúng không biết ông vẫn ngồi trên giường bệnh. Các bác sĩ nấp phía sau sẵn sàng cấp cứu’ [trang 319, Chương 19, Bên Thắng Cuộc II]).

“Chắc chắn là khi Đại Tướng Lê Đức Anh bị đột quỵ vào năm 1996, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội đã phải bố trí người đảm nhận trách nhiệm của ông; và có thể, khi Đại Tướng Trần Đại Quang đi Nhật, ông cũng đã bàn giao công việc cho người thay thế,” Facebooker Truong Huy San viết.

Tuy nhiên, Facebooker này nhận định: “Theo tôi, Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội cần ra một quy chế, bắt buộc phải báo cáo với dân chúng trong trường hợp người giữ một số chức danh vì lý do sức khỏe hay lý do cá nhân không thể có mặt tại nhiệm sở trong một thời gian nhất định (có những nguyên thủ quốc gia chỉ cần vào phòng mổ là phải bàn giao quyền cho cấp phó). Đặc biệt là với các chức danh có ảnh hưởng trực tiếp tới vận mệnh quốc gia như chủ tịch nước, thủ tướng…”

“Dân chúng phải được biết những quy trình ấy; đừng để dân chúng có cảm giác có những vị trí trong bộ máy nhà nước hiện nay chỉ tồn tại trên danh nghĩa ‘Cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui.’ Mặt khác, quyền lực của nguyên thủ quốc gia còn có giá trị biểu tượng. Dân chúng sẽ cảm thấy họ được tôn trọng khi được thông báo người thay thế dù chủ tịch nước chỉ ‘không làm việc’ trong một thời gian không dài. Tình trạng khẩn cấp có thể xảy ra bất cứ lúc nào bởi thiên tai địch họa. Và, nhỡ có điều gì đến với quốc gia, dân chúng sẽ rất hoang mang nếu họ thấy người phát đi các mệnh lệnh không phải là nguyên thủ được Quốc Hội bầu lên mà từ một người họ chưa hề được thông báo thủ tục tạm trao quyền theo Hiến Pháp,” Facebooker Truong Huy San khẳng định.

Ông Trần Đại Quang, 61 tuổi, ủy viên Bộ Chính Trị, chủ tịch nước, là người được xếp hàng thứ hai trong “Tứ Trụ Triều Đình,” sau Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, và trước Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân.

Lâu nay, sức khỏe của các ủy viên Bộ Chính Trị lẫn ủy viên Trung Ương Ðảng CSVN đều được cho là “bí mật.”

Ngày 26 Tháng Bảy, sau gần hai tháng vắng bóng trên các diễn đàn chính trị ở Việt Nam, nhờ Facebooker Truong Huy San mà dân chúng mới biết sức khỏe của ông Ðinh Thế Huynh, thường trực Ban Bí Thư của đảng CSVN, nhân vật được cho là đứng hàng thứ năm trong danh sách các lãnh đạo chóp bu, phải sang Nhật chữa bệnh và hiện đang “an dưỡng” ở Phú Quốc.

Và cũng từ Facebooker này mà Bộ Chính Trị của đảng CSVN mới chính thức xác nhận ông Đinh Thế Huynh “bị bệnh” và đưa ông Trần Quốc Vượng tạm thay thế.

Hệ thống báo đài tại Việt Nam dẫn lại bản thông báo của Văn Phòng Trung Ương Đảng CSVN là “Tại phiên họp ngày 28.7.2017, sau khi xem xét đề nghị của Ban Tổ Chức Trung Ương về việc phân công ủy viên Bộ Chính Trị tham gia Thường Trực Ban Bí Thư, Bộ Chính Trị đã quyết định trong thời gian Ủy Viên Bộ Chính Trị, Thường Trực Ban Bí Thư Đinh Thế Huynh điều trị bệnh, ông Trần Quốc Vượng được phân công tham gia thường trực Ban Bí Thư.”

Tuy nhiên bản thông báo này không nói rõ ông Đinh Thế Huynh bị bệnh gì và đang chữa trị ở đâu.

Nhiều đồn đoán cho rằng ông Huynh bị ung thư đã tới hồi nặng nên phải có người thay thế, ít ra trong lúc này.

Đây là lần hiếm hoi người ta thấy đảng CSVN loan báo một nhân vật trong hàng ngũ chóp bu phải nghỉ bệnh mà phần lớn đều bị che giấu cho tới khi người đó chết mới loan tin.

Lần này, đến lượt ông Trần Đại Quang sang Nhật chữa bệnh. Người ta chỉ biết thông tin này trên Facebook Truong Huy San, còn lại trên truyền thông nhà nước hoàn toàn im ắng.

Thông tin Facebooker này cho biết “Đại Tướng Trần Đại Quang đi chữa bệnh từ tối 25 Tháng Bảy,” và cũng từ sau ngày này, truyền thông trong nước hoàn toàn vắng bóng hình ảnh Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang.

Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam có hình ảnh cuối cùng của ông Trần Đại Quang khi tiếp Đại Tướng Patrushev Nikolai Platonovich, thư ký Hội Đồng An Ninh Liên Bang Nga, vào chiều 25 Tháng Bảy.

Kể từ đó cho đến nay, hoạt động của Văn Phòng Chủ Tịch Nước chỉ có hình ảnh của bà Đặng Thị Ngọc Thịnh, phó chủ tịch nước, khi tiếp đoàn đại biểu Hiệp Hội Doanh Nghiệp Nhỏ và Vừa Việt Nam, trưởng đại diện Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam…

Thông tin về sức khỏe bí mật của ông Trần Đại Quang trên Facebook Truong Huy San lập tức nhận được nhiều bình luận.

Facebooker Lưu Trọng Văn viết: “Người dân có quyền biết bệnh tình của nguyên thủ quốc gia và không chấp nhận chuyện dấm dúi khoảng trống quyền lực.”

Facebooker Hồ Việt Giữ bình luận: “Bí mật là một loại sức mạnh trong thời chiến? Ta đã có hòa bình nhưng ta vẫn giữ thói quen ‘tâm lý chiến’ cố hữu. Sau tút này của bác Huy Đức hy vọng thông tin sức khỏe lãnh đạo sẽ minh bạch hơn.”

Facebooker Cơ Nguyệt Đồng Lương thì: “Chả hiểu làm sao phải giấu diếm? Càng giấu diếm càng phát sinh đồn đoán vô căn cứ. Ông chủ tịch hay ông gì gì đi nữa cũng phải trải qua sinh – lão – bệnh – tử. Nếu mãi mãi không ốm đau chắc chỉ có loài yêu quái tu luyện cả nghìn năm, không phải người!”

Facebooker Minh Đặng bình luận: “Cảm ơn anh. Huy Đức đã giúp, và làm tốt hơn, 700 tờ báo đảng. Nhưng vẫn chưa đủ, cần có thêm thông tin tiên lượng về sức khỏe của ông Quang, vì ông là nguyên thủ. Nếu không, hoặc là có đất cho họ đồn đoán, hoặc là thể hiện vai trò chủ tịch (có người nói là tiệm) nước là vị trí không có việc gì.”

Còn Facebooker Công Nguyễn viết: “Rất nể Osin về tầm ‘hiểu biết’ của các bài viết. Rất sợ Osin vì anh gọi tên ai người đó băng hà hoặc chí ít cũng đóng ván. Rất phục Osin vì hôm nay dám gọi tên nhân vật này. Hơn 700 tờ báo và hàng chục ngàn nhà báo chính thống đi đâu sao để một Facebooker khai thông nhãn giới của độc giả mạng như thế này.” (Q.D.)

Nguyên Bề trên Tổng Quyền Dòng Biển Đức: Các Đan sỹ đừng sợ!

From facebook:  Trần Bang and MyThi Nguyen shared Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s post.
Image may contain: one or more people, people standing, tree and outdoor
Image may contain: 3 people, people standing, tree, child, shoes, outdoor and nature
Image may contain: 6 people, people standing and outdoor
Tin Mừng Cho Người Nghèo added 3 new photos.

 

Nguyên Bề trên Tổng Quyền Dòng Biển Đức: Các Đan sỹ đừng sợ!

#GNsP (11.08.2017) – Hai vị đứng hàng đầu Dòng Biển Đức trên thế giới là cha Notker Wolf, nguyên Bề Trên Tổng Quyền (còn gọi là Thống phụ), và cha Luigi Tiana, Tổng Thư ký Dòng Biển Đức và là Phó Chủ Tịch Tu hội Subiaco Cassino (Italia) hôm 08.08.2017, đã đến thăm Đan viện Thiên An, viếng đồi Khổ Nạn và quan tâm một cách sâu sắc đến tình hình hành đạo của các Đan sỹ vốn đang gặp nhiều khó khăn.

Các vị trực tiếp viếng thăm hai điểm nổi bật nhất của Đan viện Thiên An (ĐVTA) đã bị nhà cầm quyền Thừa Thiên Huế gây khó khăn và xúc phạm suốt thời gian qua: Đồi Khổ Nạn và Đồi Đức Mẹ.

Đứng trước cảnh tang thương của Tượng Chịu Nạn bị đập vỡ từng mảnh vụn, cây Thánh giá bị bẻ cong và hạ xuống, mái che tượng Đức Mẹ dang dở vì bị cấm lợp cho xong, hai vị khách phương xa (mà cũng là người nhà) đã chạnh lòng, chia sẻ nỗi đau và khích lệ các Đan sỹ tiếp tục “đừng sợ”, một khi đã can đảm làm chứng cho Giáo Hội, đã mạnh mẽ bảo vệ biểu tượng thiêng thánh và đã tỏ ra phong thái người tu hành qua vụ việc ở Đồi Khổ Nạn.

Các ngài cũng hoan nghênh các Đan sỹ đã, đang và sẽ làm chứng cho công lý và sự thật, quyết tâm bảo vệ tài sản của ĐVTA mà cũng là tài sản của Giáo Hội.

Vị nguyên Bề Trên Tổng Quyền bày tỏ rằng các ngài cùng mọi Đan sỹ Biển Đức toàn thế giới sẵn sàng bảo vệ ĐVTA, các Đan viện Biển Đức tại Việt Nam cũng như Giáo Hội Việt Nam, vì đây là nhiệm vụ và trọng trách của các ngài.

Vào sáng ngày 10.08.2017, trong thánh lễ tại ĐVTA mừng kính Thánh Laurensô, phó tế tử đạo, nguyên Thống phụ Notker Wolf nhấn mạnh với đại ý rằng: các Đan sỹ cần hy sinh bảo vệ niềm tin và tài sản của Giáo Hội theo gương Thánh Laurensô. Vị phó tế thời danh này đã quyết tâm không giao tài sản của Giáo hội do ngài quản lý cho nhà cầm quyền đế quốc Rô-ma thời Hoàng đế Valerianus, trái lại đã đem phân phát cho những người nghèo và còn gọi họ chính là tài sản của Giáo hội. Đi ngược với mệnh lệnh của hoàng đế, Thánh Laurensô đã phải chịu mọi cực hình, bị thiêu sống ở Rôma trên một chiếc giường sắt và mất ngày 10 tháng 8 năm 258. Ngài được xem như một trong những vị tử đạo thời danh nhất của Giáo hội mấy thế kỷ đầu (lễ kính chứ không phải lễ nhớ).

Được biết, các vị đứng đầu Dòng Thánh Biển Đức đã theo dõi sát sao các diễn biến của ĐVTA trong thời gian vừa qua, nhất là sự kiện nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế xúc phạm và hành hung các Đan sỹ ĐVTA, mạ lỵ và đập vỡ Thánh Tượng, tháo dỡ và bẻ cong cây Thánh Giá… vào những ngày 28-29.06.2017.

Cách đây gần một tháng, vào ngày 19.07.2017, Vị Đại diện Tòa thánh Vatican tại Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli cũng đã bày tỏ sự hiệp thông sâu xa của ngài với các Đan sỹ Biển Đức Việt Nam vốn đang tiếp tục đau buồn về việc nhà cầm quyền vô thần xúc phạm đến quyền tự do Tôn giáo của người dân, đặc biệt của giới tu hành, qua những hành vi bạo lực và gian trá đủ kiểu đối với các Đan sỹ ĐVTA không có khả năng để tự bảo vệ và phương tiện để tự bênh vực.

Huyền Trang, GNsP

http://www.tinmungchonguoingheo.com/…/nguyen-be-tren-tong-…/

Hoạt động an ninh trong các cơ quan ngoại giao Việt Nam

Hoạt động an ninh trong các cơ quan ngoại giao Việt Nam

Kính Hòa RFA
2017-08-10
 
Hình ảnh ông Trịnh Xuân Thanh được đưa lên truyền hình Việt Nam, nói rằng ông đầu thú.

Hình ảnh ông Trịnh Xuân Thanh được đưa lên truyền hình Việt Nam, nói rằng ông đầu thú.

 AFP
 
 Vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh trên đất Đức đã dẫn đến việc trục xuất một nhân viên của sứ quán Việt Nam tại Đức, được cho là nhân viên của cơ quan an ninh Việt Nam.

Hoạt động của cơ quan an ninh Việt Nam trong các phái bộ ngoại giao ở nước ngoài như thế nào?

Nhân viên an ninh trong vỏ bọc ngoại giao

Ông Đặng Xương Hùng, một cựu viên chức Bộ ngoại giao Việt Nam từng làm việc trong các cơ quan lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sĩ, nói với chúng tôi về vị trí của nhân viên an ninh Việt Nam bên trong các tòa đại sứ:

Thông thường thì các sứ quán Việt Nam tại nước ngoài bao giờ cũng có một nhân viên an ninh của Bộ Công an chuyển sang, núp dưới danh nghĩa có hàm ngoại giao, thường giữ chức Bí thư thứ nhất, thường làm nhiệm vụ báo chí, cũng như là làm cái nhiệm vụ quản lý cộng đồng người Việt, tức là cái gọi là “người Việt yêu nước”, hay là những tổ chức mà Việt Nam gọi là phản động chống lại chính quyền. Ở các sứ quán đều có một suất như vậy, và lần lượt người phía an ninh đưa người sang Bộ ngoại giao, làm thủ tục như một cán bộ ngoại giao, đi như một cán bộ ngoại giao.

Ông Hùng cho rằng việc có mặt một nhân viên an ninh trong sứ quán cũng là một thông lệ trong ngành ngoại giao trên thế giới, miễn là nhân viên đó hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của nước sở tại.

Vào năm 2014, ông Đặng Xương Hùng nộp đơn cho chính phủ Thụy sĩ xin tị nạn chính trị, và ông sống ở đất nước này cho đến nay.

Cũng có thể đó là một chuyên án đặc biệt chỉ có Bộ Công an biết, hoặc là một cái chuỗi thông tin chỉ đi qua một số người thôi, đi thẳng đến nơi hành động.
-Ông Đặng Xương Hùng.

Ông Hùng cho biết là các nhân viên an ninh có hai nguồn thu nhập, thứ nhất là từ các chi phí visa của các cơ quan lãnh sự Việt Nam, vì những người này thường phụ trách cả việc cấp phát visa vào Việt Nam, và nguồn thu nhập thứ hai của họ là từ Bộ Công an:

Họ có một khoản tài chính do chính phía Bộ Công an cấp cho những nghiệp vụ của họ, và tiền đó không phải là của Bộ ngoại giao, của Bộ Tài chính cấp cho Bộ Ngoại giao, mà đó là tiền của phía Bộ Công an gọi là chi phí nghiệp vụ. Tôi cũng thường nghe họ nói đó là một chi phí đặc biệt dùng cho những hoạt động ví dụ như mua chuộc, cho những người nào có thông tin tốt cho phía an ninh Việt Nam.”

Sau khi vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh trên đất Đức được tiết lộ, một viên chức của sứ quan Việt Nam phụ trách báo chí là ông Nguyễn Đức Thoa bị phía Đức yêu cầu rời khỏi đất Đức, vì được cho rằng dinh líu tới vụ bắt cóc. Theo ông Hùng thì ông Thoa có hàm Đại tá công an.

Khi chúng tôi đặt câu hỏi là liệu các viên chức ngoại giao cao cấp của Việt Nam có biết tới kế hoạch bắt cóc hay không, ông Hùng nói:

“Theo tôi thì 50/50, cũng không loại trừ khả năng là các ông ấy không biết. Cũng có thể đó là một chuyên án đặc biệt chỉ có Bộ Công an biết, hoặc là một cái chuỗi thông tin chỉ đi qua một số người thôi, đi thẳng đến nơi hành động.”

An ninh Việt Nam và cộng đồng người Việt hải ngoại

Theo ông Đặng Xương Hùng thì ảnh hưởng của các hoạt động của an ninh Việt Nam trong các cộng đồng người Việt tại hải ngoại mạnh nhất là tại các quốc gia Đông Âu theo cộng sản trước năm 1989, nơi có một cộng đồng đông đảo những du học sinh, hay người xuất khẩu lao động ra đi từ nước Việt Nam cộng sản, còn ở các quốc gia phương Tây như Mỹ, Canada, Tây Âu,… thì yếu hơn nhiều. Chính vì lý do đó, theo ông Hùng, việc chuyển ông Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam đã được thực hiện qua ngã Cộng hòa Séc, một nước cộng sản Đông Âu trước kia. Thông tin ông Thanh được đưa qua Cộng hòa Séc để mang về Việt Nam được luật sư của ông Thanh là ông Victor Pfaff nói với hãng tin Reuters vào hôm 3 tháng Tám, 2017.

Sáng 10 tháng Tám, giờ châu Âu, tờ báo Spiegel của Đức loan tải rằng có một nhân viên người Việt của sở di trú Đức bị tình nghi có liên quan đến vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh.

Nhà báo Lê Trung Khoa của tờ Thoibao, bằng Việt ngữ tại thủ đô Berlin cho chúng tôi biết:

Thông tin trên tờ Spiegel đã tiết lộ rằng có một người tên là T. hiện làm nhân viên cho Sở Di trú Đức, có điều kiện vào các ngân hàng dữ liệu, xem dữ liệu của toàn bộ những người tị nạn, kể cả người Việt Nam. Họ nghi ngờ rằng phải chăng những thông tin đó được ông này đưa ra ngoài và có thể là để cho người ta biết địa chỉ lưu trú của ông Trịnh Xuân Thanh đăng ký ở Đức, để mật vụ Việt Nam có thể ập đến bắt.”

Cũng ông Lê Trung Khoa cho chúng tôi biết rằng Sở Di trú Đức cho ông biết rằng người đàn ông tên T. mà tờ Spiegel nêu tên, vừa bị cho nghỉ việc trong ngày 10 tháng Tám, vì nghi vấn tiết lộ bí mật.

Chúng tôi chưa có một nguồn tin khác để xác định việc này. Khi gọi điện tới tòa Đại sứ Việt Nam tại Đức thì được trả lời rằng tòa Đại sứ không có thông tin gì cả.

Rất nhiều hội đoàn ở đây có liên quan đến Sở Di trú ngạc nhiên là tại sao nhiều người Việt Nam ở đây biết thông tin nội bộ của họ.
-Nhà báo Lê Trung Khoa.

Theo ông Lê Trung Khoa, sự việc này sẽ có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng người Việt tại Đức:

Rất nhiều hội đoàn ở đây có liên quan đến Sở Di trú ngạc nhiên là tại sao nhiều người Việt Nam ở đây biết thông tin nội bộ của họ. Qua việc này có lẽ họ lờ mờ hiểu ra rằng có một bàn tay ở bên trong, đưa thông tin ra, làm bất lợi cho những hội đoàn có đăng ký ở Đức.”

Trở lại quan hệ giữa Bộ ngoại giao Việt Nam và các nhân viên an ninh Việt Nam, ông Đặng Xương Hùng cho rằng vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh, gây ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Đức, chứng tỏ rằng Bộ Ngoại giao đã không có tiếng nói mạnh như cơ quan an ninh của Việt Nam. Nhưng mặt khác ông Hùng cũng cho rằng ảnh hưởng của cơ quan an ninh Việt Nam trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại nói chung ngày càng giảm, vì hình ảnh cai trị của đảng cộng sản trong nước đã sụt giảm.

Cho đến giờ này thì trước cáo buộc bắt giữ người bất hợp pháp của chính phủ Đức, Việt Nam chỉ có ra tuyên bố lấy làm tiếc, nói rằng ông Thanh đã về nước đầu thú, nhưng không công nhận cũng như phủ nhận hành động bắt cóc.

Tin cuối cùng chúng tôi nhận được từ báo Spiegel là cơ quan Công tố của Đức tình nghi rằng ông Trịnh Xuân Thanh đã bị cầm giữ trong Sứ quán Việt Nam trước khi được đưa đi.

Tâm Thư Khẩn Cấp Về Tình Hình Tổ Quốc Lâm Nguy

From facebook:   Trần Bang‘s post.
 
Image may contain: 9 people, people smiling, people standing and outdoor
Image may contain: 5 people, people standing and outdoor
Trần Bang added 2 new photos — with Hoa Kim Ngo and 16 others.

 

Tâm Thư Khẩn Cấp Về Tình Hình Tổ Quốc Lâm Nguy

Kính thưa đồng bào và các nhóm XHDS yêu nước

Kính thưa quý vị chức sắc yêu nước, Dân chủ, Cấp tiến trong Đảng, Quốc hội, Chính quyền, Quân đội…

Kính thưa quý vị

Tổ quốc ta đang thực sự lâm nguy!
Kẻ thù Bành trướng BK đang ngang nhiên đe dọa tấn công quân sự, ngăn cấm VN không được khai thác dầu khí tại mỏ Rồng đỏ , bãi Tư Chính và nhiều nơi khác trên vùng biển thuộc chủ quyền của VN. Như vậy là họ đang dấn tới bước tột cùng sẽ thống trị Đất nước và Dân tộc VN ta như Tân cương, Tây tạng.

Trong tình thế nước sôi lửa bỏng này, lẽ ra Đảng CS, Nhà nước, Quốc hội Việt Nam … phải khẩn cấp ra lời kêu gọi toàn Dân đoàn kết đứng lên cứu nước và bản thân Đảng , Nhà nước. . . phải ngay tức khắc từ bỏ “đường lối đối ngoại 3 không” tự trói tay chân mình, nhanh chóng tìm cách ký hiệp ước liên minh, đồng minh với Mỹ là nước có chung lợi ích chiến lược với VN ở Biển Đông, và đặc biệt là phải sớm thiết lập nền chính trị Dân chủ đa nguyên, nhà nước pháp quyền với “tam quyền phân lập”, nền kính tế thị trường đích thực và một xã hội XHDS tự do phát triển.

Chỉ có làm như thế thì VN mới có thể nhanh chóng giàu mạnh, tự bảo vệ được “ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ” với sự trợ giúp của Mỹ và các nước Dân chủ, văn minh, tiến bộ trên thế giới.

Thế nhưng, thật hết sức lạ thường, phe “bảo thủ 4 kiên định” do TBT Nguyễn Phú Trọng cầm đầu lại đang có chủ trương tiếp tục nhẫn nhịn, vâng lệnh kẻ thù; đối với Nhân dân thì họ ép buộc Dân đứng ngoài rìa cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược với chiêu bài “để Đảng, Nhà nước lo” mà kỳ thực họ đang chỉ thị cho Quân đội, công an . . . âm thầm, ráo riết chuẩn bị “ ngăn chặn biểu tình, chống bạo đông, bạo loạn” ( Theo thông tin lộ ra từ phường đội P13, quận Bình Thạnh, TP-HCM . . . ).

Như vậy là đã quá rõ : Phe nhóm đang cầm quyền, đứng đầu là TBT Nguyễn Phú Trọng đang chuẩn bị đối phó với Dân hơn lo chống giặc ! Thử hỏi như thế có phải họ đang tiếp tay cho kẻ thù ?

Trước tình hình như kể trên, tôi có đôi lời xin bộc bạch tỏ tường:
– Đồng bào và các nhóm XHDS yêu nước hãy kiên nhẫn chờ đợi xem Đảng, Nhà nước ta sẽ “ tự lo” cái vụ bị BK đuổi cổ, cấm không được khai thác dầu khí ngay trong thềm lục địa thuộc chủ quyền của VN sẽ như thế nào ? ! 
Ta không nên vội nóng lòng xuống đường biểu tình rời rạc, manh động, thiếu tổ chức lãnh đạo, thiếu kết hợp nhau tạo thành số đông rộng mạnh ngàn người, vạn người. 
Biểu tình chống BK xâm lược bày tỏ ý chí, nguyện vọng, tình cảm với nhóm cầm quyền nhu nhược, đang muốn dựa dẫm kẻ thù để tiếp tục duy trì độc quyền cai trị thì chỉ uổng công vô ích thôi !

Chúng ta hãy tiếp tục chuẩn bị lực lượng XHDS chờ đợi thời cơ “nhất hô bá ứng” cùng với lực lượng Dân chủ, Yêu nước, Cấp tiến trong Đảng, Chính quyền, Quân đội, Công an . . . hiện đang trong quá trình “tự diễn biến, chuyển hóa hòa bình” theo xu thế tiến bộ “Tổ quốc trên hết”. 
Trước mắt, chúng ta hãy cùng nhau phát huy thế mạnh đấu tranh trên mặt trận truyền thông, không ngừng tố cáo kẻ thù BK xâm lược, không ngừng vạch mặt kẻ thù Việt gian tay sai bán nước. Trên đường phố, trước mắt chúng ta hãy thực hiện “ im lặng đáng sợ trong sự tích tụ bùng nổ khó lường”.

– Đối với quý vị đang là chức sắc trong hệ thống Đảng, Chính quyền, Quốc hội, Quân đội, Công an . . . tôi xin thưa : Hầu hết quý vị trong đó có chúng tôi, chúng ta đi theo, chiến đấu dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng CSVN là đều vì lý tưởng “Dân, Nước trên hết”.

Vì vậy, mặc dù nay quý vị còn đang vướng bận cái “ vòng tục lụy danh phận” và cái vòng kim cô “ Đảng trị” mà thực chất “Đảng trị” chỉ là “phe nhóm rất thiểu số” nhưng lại giành được quyền cai trị 90 triệu Dân trong đó có gần 4 triệu đảng viên bằng độc tài, bạo lực, thủ đoạn chính trị và bằng ôm chân, dựa dẫm cái ô bảo hộ của Thiên triều Đại Hán. Nhưng dù sao trước họa mất nước đang cận kề, tôi vẫn tin tình yêu Nước thương Dân của quý vị sẽ phải thức dậy bởi chính tội ác của kẻ thù đánh thức lương tri của quý vị.

Đây không phải là niềm mơ ước! Tôi tin đây sẽ là hiện thực đã được lịch sử chứng minh. Ngày xưa, khi Đất nước, Dân tộc bị kẻ thù phương Bắc xâm lược và bọn Việt gian tay sai bán nước như Lê Chiêu Thống, Trần ích Tắc cõng rắn cắn gà nhà thì ngày ấy đã xuất hiện các vị anh hung cứu nước như Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi , Quang Trung . . .

Ngày nay, vào thời điểm tổ quốc đang lâm nguy như hiện nay, nhìn bài học lịch sử cách mang cận đại: Từ Nam Phi đến Miến Điện, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungarie, Đông Đức, Liên Xô. . . cách mạng Dân tộc, Dân chủ đều thành công bởi vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, nhưng đồng thời vai trò “tự diễn biến chuyển hóa hòa bình ” theo xu hướng tiến bộ cách mạng diễn ra từ bên trong giới lãnh đạo chóp bu Đảng, Chính phủ, Quân đội, Công an đều luôn là vai trò đột phá.

Vì vậy, với những gì đã và đang diễn ra như kể trên, tôi tin và mong quý vị: Sớm quyết định đứng về phía Nhân dân và thế giới văn minh, tiến bộ để góp phần chống “ thù trong, giặc ngoài” cứu nước thắng lợi.

Hiễm họa đã cận kề, nhưng đây cũng chính là thời cơ quyết định số phận của Dân tộc, Đất nước và của chính chúng ta!

Kha Lương Ngãi
( Nguyên Phó TBT báo SGGP, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, SG ngày 4-8-2017)

P/s ảnh cũ, chụp CLB LHĐ và người dân SG tưởng niệm Liệt sỹ chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc VN (1979 – 1989), tại chân tượng đài Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Q1, SG ngày 17-2-2015. Ông Kha Lương Ngãi (áo sáng, đứng đầu hàng, bên trái) ảnh 2.

Rác ngập Vịnh Hạ Long từ bờ tới biển

Rác ngập Vịnh Hạ Long từ bờ tới biển

Rác thải quây quanh vịnh Hạ Long. (Hình: Báo Lao Ðộng)

QUẢNG NINH, Việt Nam (NV) – Dù đã thuê tới 3 công ty để thu gom rác và chế biến rác thải trên vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới, nhưng rác vẫn cứ xuất hiện từ bờ biển cho tới các vùng xa ngoài vịnh. Ðặc biệt, vùng ven bờ ngay trung tâm thành phố Hạ Long luôn tràn ngập rác.

Theo phản ánh của báo Lao Ðộng, ngày 9 Tháng Tám, tại khu vực giáp ranh với quần đảo Cát Bà của Hải Phòng, rác là các mảnh phao xốp nổi trắng cả một vùng. Trong khi đó, dọc tuyến ven bờ, mặt nước vịnh chưa bao giờ hết rác. Ðặc biệt vào những ngày mưa, nước triều cường, rác vây kín nhiều khu vực, nhưng đợi cả ngày cũng không có đơn vị nào đến thu gom, xử lý, mặc cho đây lại là tuyến đường du lịch, với lượng khách trong và ngoài nước qua lại nhộn nhịp.

 “Nếu như ở ngoài vịnh, vừa rộng lại vừa xa thì cho rằng khó giải quyết, đằng này rác ở ngay gần bờ, người dân và du khách chứng kiến hằng ngày, hằng giờ mà cũng chẳng thấy ai ra vớt, dọn dẹp,” bà Lê Thanh Hà, ở phường Bạch Ðằng, thành phố Hạ Long, cho biết.

Nói với báo Lao Ðộng, đại diện Ban Quản Lý các dịch vụ công ích, đơn vị được ủy ban thành phố Hạ Long giao ký hợp đồng với các công ty thu gom rác thải trên vịnh Hạ Long cho biết, bình quân mỗi ngày ba công ty được thuê dọn rác vớt được khoảng 2 tấn rác.

Trong đó, riêng dải ven biển dài khoảng 5 cây số, từ bến phà cũ đến Cột 8, mỗi ngày, công ty Phúc Thành, một trong ba đơn vị được giao việc vớt được khoảng 1 tấn rác. Tính từ đầu năm 2017 tới nay, riêng công ty này vớt được hơn 537 tấn rác.

Tương tự, tại một số điểm du lịch trên vịnh Hạ Long, từ đầu năm tới nay, công ty cây xanh công viên Quảng Ninh vớt được trên 640 tấn. Mỗi ngày có 3 tàu của công ty chở đầy rác chạy từ biển vào bờ giao cho đơn vị khác đem vào nhà máy xử lý rác thải.

Thế nhưng, ông Phạm Văn Ðạt, trưởng phòng tư vấn, giám sát thuộc Ban Quản Lý các dịch vụ công ích Hạ Long thừa nhận, lượng rác còn sót lại trên vịnh Hạ Long còn rất lớn, khó có thể định lượng, bởi chỉ cần chạy tàu từ đất liền ra tới các điểm du lịch cách bờ hàng chục cây số, thì đâu cũng thấy rác. “Nhiều khi chạy xe qua, phát hiện nhiều rác lại phải gọi điện cho công ty ký hợp đồng thu gom rác đến xử lý,” ông Ðạt nói.

Tuy nhiên, theo ông Vũ Tuấn Anh, công ty cây xanh công viên Quảng Ninh nhận định, rác chắc chắn vẫn cứ tiếp tục tràn ngập vịnh Hạ Long, bởi các giải pháp căn cơ để vịnh hết rác là quản lý hiệu quả nguồn rác thải ven bờ và ý thức của người dân, du khách “rất xa vời.”

Thà giao tổng thể một vùng rộng lớn, hoặc cả vịnh cho một đơn vị thì dễ làm, đằng này với cách làm hiện nay: tính từ trong bờ ra ngoài biển khoảng 2 cây số giao cho ông A, nhưng vị trí xa hơn nữa lại giao cho ông B, trong khi triều cường lên xuống liên tục, lúc xuống thì rác từ bờ trôi ra ngoài, lúc lên thì rác lại từ ngoài dạt vào bờ, có dọn hoài cũng vậy. (Tr.N)

Ngày này năm xưa.

 

 
 
From facebook: Hoa Kim Ngo shared Lịch sử Việt Nam qua ảnh‘s post. 
 
Image may contain: 1 person, closeup
Lịch sử Việt Nam qua ảnh with Trần Quốc Lộ.

·

Ngày này năm xưa.

Ngày 8 tháng 8 năm 1945 Đế quốc Việt Nam dưới sự điều hành của chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi chủ quyền trên xứ Nam Kỳ

Trong phiên họp đầu tiên của nội các, luật sư Trần Văn Chương, bộ trưởng Ngoại giao, người cao tuổi nhất, được bầu làm nội các phó tổng trưởng (phó thủ tướng). Chính phủ đổi Bắc Kỳ thành Bắc Bộ, Trung Kỳ thành Trung Bộ, Nam Kỳ thành Nam Bộ, dầu lúc đó Nam Bộ chưa chính thức được sáp nhập vào trung ương.

Trần Trọng Kim cử Trần Văn Chương ra Hà Nội thương lượng với tướng Yuichi Tsuchihashi, tổng tư lệnh quân đội Nhật, kiêm toàn quyền Đông Dương, về sáp nhập Bắc Bộ vào Việt Nam. Phía Nhật không trở ngại. Ngày 2-5-1945 vua Bảo Đại cử Phan Kế Toại, xuất thân trường Hậu bổ Hà Nội và trường Thuộc địa Paris là trường chuyên đào tạo quan chức thuộc địa Pháp, nguyên tổng đốc Bắc Ninh, làm khâm sai Bắc Bộ. Phan Kế Toại chính thức nhận chức tại phủ thống sứ cũ, nay được gọi là Bắc Bộ phủ, ngày 5-5-1945.

Ngày 13-7-1945, đích thân Trần Trọng Kim ra Hà Nội thương thuyết. Toàn quyền Nhật Bản Yuichi Tsuchihashi chịu trả ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng, vốn là nhượng địa của Việt Nam cho Pháp từ năm 1888.
Chính phủ bổ nhiệm Trần Văn Lai làm đốc lý (thị trưởng) Hà Nội, Vũ Trọng Khánh làm đốc lý Hải Phòng và Nguyễn Khoa Phong làm đốc lý Đà Nẵng. (David G. Marr, Vietnam 1945, the Quest for Power, University of California Press, 1995, tt. 132-133.)

Nam Kỳ (cũ) nay là Nam Bộ vốn là thuộc địa của Pháp, theo quy chế riêng. Vì vậy, lúc đầu người Nhật trì hoãn việc trả Nam Bộ, nhưng sau người Nhật chịu giao Nam Bộ lại cho Việt Nam từ ngày 8-8-1945. (David G. Marr, sđd. tr. 135.)
Ngày 14-8-1945, vua Bảo Đại ký dụ bổ nhiệm Nguyễn Văn Sâm làm khâm sai Nam Bộ.

Nói về quan hệ giữa chính phủ Việt Nam và nhà cầm quyền Nhật lúc ấy, Trần Trọng Kim dẫn lời Cựu hoàng Bảo Đại ở Hương Cảng trả lời một phóng viên một tờ báo bên Pháp “Người Nhật thấy chúng tôi ương ngạnh quá, tỏ ý tiếc đã để chúng tôi làm việc” (Chương 4, tr 87).
“Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có việc gì làm quan hệ, phải hỏi trước viên cố vấn, có thuận mới được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi lẽ nào phải xin phép rồi mới được làm”(tr 87).

Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ hoạt động từ tháng 4-1945 đến tháng 8-1945, nhưng đã đặt nền móng căn bản cho nền hành chánh tương lai Việt Nam, một trong những việc làm quan trọng nhất là thu hồi và thống nhất lãnh thổ.

Ảnh: Trần Trọng Kim (1883-1953), Thủ tướng của Chính phủ Đế quốc Việt Nam (1945)

MỘT NỀN GIÁO DỤC THẤT BẠI! Bất công với nghề Y hiện nay.

From facebook: Chuong Tieng shared YteViec‘s post.

 
Image may contain: 1 person
YteViec

MỘT NỀN GIÁO DỤC THẤT BẠI! Bất công với nghề Y hiện nay.

1. Không có quốc gia nào mà thí sinh thi 30 điểm/3 môn lại rớt đại học cả. Trên đời này rất rất khó có sự hoàn thiện đến mức đó cả. Thậm chí đạt đến sự hoàn thiện tuyệt đối 30 điểm/ 3 môn vẫn rớt. Chỉ tuyển những thí sinh trên 30 điểm nghĩa là những thí sinh đó trên sự hoàn thiện tuyệt đối à.

2. Không có quốc gia nào mà nghề cốt lõi nhất cho một đất nước, gốc rễ nền tảng nhất là giáo dục thì ngành sư phạm lấy đầu vào thấp nhất 12,5 điểm để sau này thành giáo viên.

3. Không có quốc gia nào phát triển mà các ngành nền tảng, tạo ra sản phẩm, tạo giá trị vững chắc như nông nghiệp, kỹ thuật…. bị coi rẻ đến mức chỉ dành thí sinh điểm thấp. Thậm chí thí sinh không thèm quan tâm nữa.

4. Không quốc gia nào mà những ngành “khổ cực nhất, phục vụ nhân dân” như công an lại lấy trên sự tuyệt đối. Thí sinh thi 30 môn đạt tuyệt đối 30 điểm là rớt. ???? Chả hiểu sao bọn trẻ lại bon chen vào ngành này!!!

5. Không quốc gia nào mà ngành chăm sóc sức khoẻ, liên quan tính mạng con người nơi lấy 29,5 điểm, có nơi chỉ cần xét học bạ hay đủ điểm sàng là sau 5,6 năm thành Bác sĩ, dược sĩ hết.

6. Không quốc gia nào, nông nghiệp là thế mạnh đất nước mà chả học sinh nào muốn vào học, nếu có là những thí sinh điểm thấp hết đường mới vào ngành đó học.

7. Không có quốc gia nào điểm chuân đầu vào 29.25 mà thi 29.35 lại rớt.

8. Nếu chỉ tính riêng ngành Bs đa khoa, trường đại học y dược tphcm, có 404 em đỗ mức 29,25 điểm thì chỉ có 26 thí sinh trúng tuyển mà không có điểm cộng và ưu tiên còn lại 378 thí sinh trúng tuyển là nhờ đối tượng ưu tiên, vùng ưu tiên. Vậy các em giỏi thật mà không thuộc đối tượng ưu tiên thì phải gác lại giấc mơ đại học nhé! Không quốc gia nào có được điều này!!!
ÔI GIÁO DỤC!

Sưu Tầm.

Ai bỏ qua thủ phạm “giết người hàng loạt”?

Võ Thị Hảo

 

Một gia đình dân tộc Hmông sau cơn lũ quét ở huyện miền núi Mù Cang Chải phía bắc tỉnh Yên Bái. Ảnh chụp hôm 4/8/2017.

Một gia đình dân tộc Hmông sau cơn lũ quét ở huyện miền núi Mù Cang Chải phía bắc tỉnh Yên Bái. Ảnh chụp hôm 4/8/2017.

 AFP photo
 
 

Điệp khúc “bom nước”:

“Trong đêm ấy, khi anh Giàng A Hù (39 tuổi) phát hiện lũ quét đã đưa vợ và con chạy thoát thân. Thế nhưng nghĩ đến đàn lợn 15 con- tài sản lớn nhất và duy nhất của gia đình có thế bị đất đá đè chết, anh vội quay lại mở của cho đàn lợn chạy ra ngoài. Cùng lúc này, lũ ống và các tảng đá sập xuống khiến anh Hù nằm lại mãi trong lòng đất. Khi cả dòng họ đang tất tưởi đi tìm thi thể anh Giàng A Hù thì bàng hoàng phát hiện, 4 người cháu cũng bị lũ cuốn khi đang ngủ ở chòi chăn trâu cách nhà gần 5 km. ..

Chị Mùa Thị Sua đã 2 ngày nay khóc ngất lên ngất xuống, không ăn không ngủ chờ tin tức các con. …Rạng sáng 3 tháng 8, lũ kinh hoàng chưa từng có trong 30 năm qua đã ào về và cuốn trôi cả 4 đứa trẻ tội nghiệp…

Anh Lê Doãn Dũng (35 tuổi) trong chưa đầy một phút đã bị mất cả vợ và hai con nhỏ, cả ngôi nhà 5 năm cực nhọc đủ bề mới dựng được. Chính bản thân anh cũng bị thương và bất tỉnh khi bị một tảng đá đè lên chân. Khi tỉnh lại, anh chỉ còn biết gào thét vì nỗi đau không gì tả nổi này và không hiểu anh sẽ sống ra sao. (theo http://kenh14.vn/lu-quet-khien-14-nguoi-chet-va-mat-tich-o-yen-bai-trong-chop-mat-toi-mat-ca-vo-va-hai-con-2017080416323973).

Ông Lê Trọng Khang, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân huyện Mù Cang Chải cho biết, “khoảng 5 giờ 30 phút ngày 3/8, lũ từ núi Kim Nọi bất ngờ đổ về dọc theo khe suối hướng thẳng vào thị trấn. Theo đó, những tảng đá rất to từ trên núi Kim Nội, bình thường cả trăm người đẩy cũng không di chuyển nổi nhưng lũ đã cuốn phăng đi. Chỉ vài phút sau, hàng chục nóc nhà đã bị lũ nhấn chìm…”.

Những dòng trên đây chỉ mô tả được một phần rất nhỏ tang tóc không gì tả xiết của người dân ở Mù Cang Chải, một thị trấn lâu đời xinh đẹp nổi tiếng của người dân tộc Mông, đã bị cơn lũ khủng khiếp tràn về chỉ trong vòng vài phút, với sức mạnh đến mức cuốn trôi cả những tảng đá “cả trăm người đẩy không nổi” và xóa sạch, vùi lấp thị trấn này dưới hơn một mét bùn và đất đá.

Trận lũ tràn về lúc trời chưa sáng, như một kẻ trộm. Những trận lũ quét và lũ ống kinh hoàng giết người VN luôn lặp lại điệp khúc giống nhau và thường là về ban đêm hoặc lúc rạng sáng – những năm trước thì được chứng minh rằng do thủy điện xả trộm lũ để người dân và công luận không biết tội lỗi của họ.

Và không ai tin rằng những  trận lũ đó  là thiên tai. Một trận mưa lớn nếu có tạo nên trận lũ cũng không thể tạo thành một quả bom nước với sức công phá “tận thế”  như vậy.

Điệp khúc lũ ống lũ quét bom nước giết người năm nay lại vẫn lặp lại, chỉ mới trong mấy ngày đầu tháng 8.2017 đã xẩy ra trên diện rộng, ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc. Đâu cũng tang thương.

Và cái kịch bản bom nước do xả lũ thủy điện, gây nhân tai đổ tội cho thiên  tai, đã quá quen thuộc, gây bao thảm cảnh không lời nào tả xiết cho dân VN ở các vùng hạ lưu các đập thủy điện.

Số lượng người chết và thiệt hại qua các năm tăng vọt.

Báo chí và nhà chức trách đang lờ đi thủ phạm

000_RB8QX-400.jpg
Lũ quét ở Mù Cang Chải, phía Bắc tỉnh Yên Bái. Ảnh chụp ngày 4 tháng 8 năm 2017. AFP photo

Dù chưa đầy đủ, đã có một số thống kê để qua đó người ta không thể nhầm lẫn khi đánh giá tình hình và thủ phạm.

Theo Tổng cục Thủy lợi, (http://www.tongcucthuyloi.gov.vn/Tin-tuc-Su-kien/catid/79/item/3147/tong…), thì năm 2015, chỉ trong chưa đầy một tháng,(từ 24.07.2015 – 4.08.2015), thiệt hại do lũ lụt gây ra tại Bắc bộ và Trung bộ là: ít nhất 38 người chết, chưa kể người mất tích và bị thương, thiệt hại khoảng 3.000 tỉ đồng. Hơn 1, 2 vạn  khách hàng ở 27 tỉnh miền Bắc VN mất điện… và đây chưa phải là số liệu cuối cùng.

Năm 2016, thiệt hại do “thiên tai” gây ra lên đến gần 40.000 tỉ đồng, trong đó có tới 215 người chết do lũ quét, sạt lở đất…và 431 người bị thương. Bão lũ, lũ quét làm 5.431 ngôi nhà bị đổ sập, cuốn trôi, 364.000 ngôi nhà bị ngập, hư hại, tốc mái, 828.661 ha lúa, hoa màu, cây ăn quả bị thiệt hại, hàng triệu mét khối đất đá trên công trình giao thông, thủy lợi bị sạt lở, bồi lấp, 110 km đề kẻ, 938km kênh mương..

Thiệt hại ngày càng nặng nề hơn, tỉ lệ với số lượng các đập thủy điện và sự vô trách nhiệm của nhà chức trách  cũng như sự bao che cho những kẻ giết người hàng loạt. Năm 2017, chỉ mấy ngày đầu mùa mưa, từ 1đến 6 tháng 8, lũ lụt tại các tỉnh phía Bắc đã làm ít nhất 68 người thương vong và mất tích, chưa kể bị thương, thiệt hại ít nhất 940 tỉ đồng.(theo bnews.vn, bài “Mưa lũ ở các tỉnh phía Bắc, 68 người thương vong và mất tích”)

Đáng chú ý, mưa lũ đã làm sạt lở hơn 25.000 m3 đường quốc lộ (Điện Biên 13.442 m3 trên Quốc lộ 12, Quốc lộ 279B, Quốc lộ 279C, Quốc lộ 4H; Yên Bái: 7.314 m3 trên Quốc lộ 32; Sơn La: 2.385 m3, Cao Bằng 2.000 m3).

Sạt lở 117.706 m3 đường tỉnh và huyện (Lai Châu 9.000 m3 trên một số tuyến đường giao thông huyện Nậm Nhùn, Mường Tè; Điện Biên 14.636m3 trên ĐT150, ĐT142, ĐT143; Yên Bái 42.500 m3 đường tỉnh lộ bị sạt lở gây ách tắc giao thông; Sơn La 50.570 m3 trên ĐT109 và một số tuyến đường cấp huyện.

145 công trình thủy lợi bị hư hỏng (Yên Bái 141 công trình, Sơn La 3 công trình, Điện Biên 1 công trình); 2.072m kè bờ suối (Sơn La 2.000m, Điện Biên 72) bị thiệt hại…(Theo thông tin từ Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, ngày 7/8/2016).

Phản đối đổi mạng dân lấy điện:

Nguồn lợi do thủy điện mang lại, không thể bù lại dù chỉ một phần nhỏ những thiệt hại này.  Đó là chưa kể sự vô giá, không gì so sánh nổi của mạng người, đã bị coi rẻ đến thế dưới quyền lợi của những nhóm lợi ích làm thủy điện để thu lợi riêng.

Một vài trận mưa lớn có thể làm sạt lở, hủy diệt chừng ấy km hạ tầng kiên cố không? Câu trả lời đã quá rõ ràng.

Hàng ngàn năm nay ở VN thường xuyên có mưa lũ. Thời chưa có các hồ chứa thủy điện khổng lồ, mưa có khi cả tháng trời nhưng rất hiểm khi có lũ ống lũ quét. Không ai ngây thơ tới mức tin rằng thiên tai đã gây ra những trận lũ có thể quăng quật cả những tảng đá lớn và những ngôi nhà.

Không! Đương nhiên không. Thực tế đã chứng minh, chỉ có “bom nước” thủy điện, từ những bàn tay giết người máu lạnh mới có thể tạo ra những tàn phá kinh hoàng tựa ngày tận thế như vậy.

000_RB8R1-400.jpg
Những người dân tộc Hmông với những ngôi nhà bị sập do lũ quét ở huyện Mù Cang Chải, phía bắc tỉnh Yên Bái. Ảnh chụp hôm 4/8/2017.AFP photo

Dư luận đã không còn nước mắt thương khóc các nạn nhân. Vì nạn nhân là vô số . Những con số thống kê sơ sài kể xiết sao được mạng dân!

Các nạn nhân nếu thoát chết thì cũng quá khốn khổ, bị cướp hết cả  tài sản, nhà cửa ruộng nương, đói cơm rách áo, màn trời chiếu đất, đến đường đi cũng không còn, nói gì chuyện sống! “Lá rách ít đùm lá rách nhiều” cũng không nổi, vì quá nhiều “lá rách” gây ra bởi liên tục nhân tai và dân cũng kiệt sức rồi.

Khóc chẳng giúp ích được gì. Điều quan trọng nhất, cần thể hiện lương tâm con người với nhau là phải tìm ra, chỉ rõ kẻ gây ra nhân tai. Nhất định phải có kẻ nhấn nút quả bom nước ở thượng nguồn thì mới tạo ra lũ quét và lũ ống kinh hoàng như vậy.

Thủ phạm luôn rõ ràng, vì trái bom nước nào treo trên đầu người VN cũng rất khổng lồ và dòng lũ xả cuồn cuộn có thể đẩy trôi cả nhũng ngôi nhà và tảng đá không thể tự nuốt chửng tiếng réo sôi trào.

Có thể còn ngồi yên trước tình trạng lũ quét, lũ ống hung tàn như ngày tận thế tàn hại dân VN ở những vùng hạ lưu của các đập thủy điện được xây dựng tràn lan theo một quy hoạch chỉ theo đuổi máu tham lợi nhuận của các doanh nghiệp sân sau của một số quan chức và bất cần quan tâm đến cái chết, cảnh tang tóc vô biên của dân VN hay không?

Nhưng điều lạ là từ mấy năm nay, đặc biệt là từ năm 2017, báo chí cũng như các nhà chức trách, nhà khoa học… chỉ đưa tin rất ít  về thiệt hại, chỉ nói tại thiên tai, và lờ đi thủ phạm thực sự, nhất là trong năm 2016, 2017. Nhiều báo coi như không có chuyện lũ lụt, tiếp tục chạy theo chuyện mông  ngực của các cô “hở bạo”, hàng hiệu, cướp giết hiếp để câu khách. Người chết tức tưởi dưới bản tay thủ phạm bị lờ đi.

Đó là những việc làm vô lương của nhiều cơ quan truyền thông và nhà chức trách. Càng cho qua đi thì những vụ giết người hàng loạt càng xẩy ra.

Những năm trước đây, công luận, trong đó có một số tờ báo có lương tâm đã chỉ ra kẻ nhấn nút bom nước thủy điện giết hại dân miền Trung. Vậy mà chính quyền đã bao che cho những kẻ đó. Hết năm này đến năm khác, không ai bị mất chức, bị truy tố, bị đền bù thiệt hại thỏa đáng cho dân. Báo chí cũng không theo đuổi đến nơi đến chốn những vấn đề mà mình đưa ra, lãng quên thì cũng là làm ngơ cho thủ phạm tiếp tục hoành hành.

Chính vì thế, chồng chất những người chết oan dưới bàn tay của những doanh nghiệp cấu kết  với quan chức để hưởng lợi ích tối đa từ thủy điện. Để bán được điện nhiều nhất, chúng tích nước tối đa, cao hơn mức an toàn cho phép, vì thế chỉ cần có một trận mưa là nước đã đe dọa vỡ đập và chúng xả nước bast kể mạng dân để giữ đập. Vì tiền, chúng đã xây những con đập và hệ thống vận hành kém chất lượng như công luận từng tố cáo. Chúng đã cướp đoạt tài nguyên đất nước để bán thu lợi riêng dưới danh nghiã sản xuất ra điện cho quốc dân.

Vì sao? Ai đã cấm đoán báo chí đưa ra những phóng sự điều tra chỉ đích danh thủ phạm và theo đuổi vụ việc cho đến khi những kẻ giết người hàng loạt ấy phải ra trước vành móng ngựa? Những phóng sự điều tra này hoàn toàn dễ dàng thực hiện đối với bất kỳ phóng viên và tờ báo nào, vì chứng cứ quá rõ ràng. Những số liệu thống kê cũng thể hiện rất rõ.

Ai đã cấm báo chí? Phải chăng nếu họ đưa tin và phóng sự chỉ đích danh thủ phạm, bản thân họ sẽ bị nhà cầm quyền quy kết vào tội “bôi nhọ, tuyên truyền, nói xấu đảng và chính phủ, tự diễn biến hòa bình, bị kẻ xấu kích động, thậm chí là tội phản động”..?

Nếu quả thực báo chí bị cấm, và nếu ban Tuyên giáo hoặc kẻ cầm quyền nào làm điều cấm đó, chính họ đã đồng lõa với nhóm lợi ích từ thủy điện để hưởng lợi từ máu của nhân dân thì họ mới có thể ra tay tàn nhẫn như vậy.

Còn nếu không phải báo chí bị cấm đoán, mà báo chí chủ động làm ngơ chỉ đích danh thủ phạm, theo đuổi thông tin vụ việc đến cùng để thay đổi hoàn cảnh sống và cứu mạng người VN, thì chính báo chí cũng chỉ là những kẻ vô lương khi đã luôn dùng những loại tin tức hời hợt, chạy theo mông và ngực “hở bạo” và những kẻ cướp giết hiếp để kiếm miếng cơm trên nỗi nhục nhã nghề nghiệp và nỗi đau khổ của nhân dân.

Mọi người hãy đấu tranh vì mạng sống của nhau. Mọi tờ báo, mọi công dân, hãy lên tiếng, bền bỉ và kiên trì.

Cần chỉ rõ thủ phạm. Cần theo đuổi đến cùng thủ phạm. Kẻ cấm đoán báo chí đưa tin là tội ác và phải bị đưa ra trước vành móng ngựa cùng những kẻ máu lạnh xả lũ giết người hàng loạt.

Vì mạng người là vô giá. Vậy mà đã hàng loạt người, và sẽ còn hàng loạt người nữa, ngay đây thôi, và sau này, sẽ chết hoặc dở sống dở chết vì những thủ phạm này nếu chúng ta tiếp tục im lặng.

Bởi vì, người VN không thể hèn hạ và tàn nhẫn đến mức đổi mạng người lấy điện hay bất cứ thứ gì!.