Nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng VN

Nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng VN

Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Bà là Nguyễn Thị Duệ, được người dân ca tụng là “Bà Chúa Sao”, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đỗ tiến sĩ trong thời đại phong kiến nước nhà. 

Nguyễn thị Duệ
Hiện chưa rõ gia thế của bà, nhưng tương truyền, bà Nguyễn Thị Duệ sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương.
Văn miếu Mao Điền Hải Dương- Nơi Nguyễn Thị Duệ được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam

Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, Nguyễn Thị Duệ cũng theo gia đình lên đó sinh sống. Văn miếu Mao Điền Hải Dương- Nơi Nguyễn Thị Duệ được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam .

Trong buổi Ngự yến đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai. Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội còn được vua khen ngợi. Cảm phục tài năng, vua Mạc còn mời bà vào cung để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi có nghĩa là bà chúa Sao ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Người dân Hải Dương đến nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về tài năng của bà Duệ. Năm 10 tuổi bà đã biết làm văn bài, được bà con trong làng vô cùng kính phục. Là một người hiếu học song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đèn sách đi thi. Năm Giáp Ngọ (1594) nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử tham dự rất đông, bà đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Vậy là, tròn 20 tuổi bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam.

Năm 1625, quân Lê – Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: “Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử”. Cảm phục khí tiết của bà, quân Trịnh bèn giải bà về kinh nộp cho chúa Nghị Vương. Nghe tiếng tăm của Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh rất sủng ái, phong cho bà chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan. 2 Công trạng để đời Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại.

Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về bà. Năm Đức Long thứ 3 (vua Lê Thần Tông) bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ (1631), được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương. Có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có Nguyễn Minh Triết (sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân – PV) quê tại Hải Dương. Sau khi thi xong, quan giám khảo lọc ra các bài đỗ, trong đó có bài củaNguyễn Minh Triết. Điều kỳ lạ, bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm đúng 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, bà thấy hay bèn tâu vua: “Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ”. Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi. Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta. Là một vị quan thanh liêm, Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi.

Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”.

Một lần dự yến tiệc trong Hoàng cung, bà quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng, bà cùng hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng, gặp gỡ các sĩ phu Bắc hà – những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Phượng Thế Hiền… nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân,giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân. Nguyễn Thị Duệ cũng khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào nhằm thu phục lòng tin yêu của dân. Sinh thời, Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc hết. Về già, bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời.
Sau khi mất, bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần. Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân…”. Tại đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng còn tượng “Bà chúa sao sa” và một sắc phong của triều đình để lại. Trong Hậu cung Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương, bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.

S.T.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Bao Dung & Đều Giả

Bao Dung & Đều Giả

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

 

 

tuongnangtien

Khoan dung không chỉ là một phẩm hạnh của cá nhân, mà còn là một tính chất của cộng đồng và trách nhiệm của một quốc gia.

Lê Nguyễn Duy Hậu

Tạp Chí Luật Khoa mời gọi độc giả tham gia chủ đề “Thế Nào Là Một Quốc Gia Đáng Sống,” và đã nhận được nhiều bài viết thú vị.

  • Lê Quang Dũng: “Nơi quốc gia có đạo đức.”
  • Châu Tiểu Lan: “Nơi mọi nghề nghiệp đều có chỗ đứng đúng đắn trong xã hội.”
  • Đức Việt: “Nơi người dân có thể tự bảo vệ mình.”
  • Hân Bụi: “… nơi mà những người dân sống ở đó không ai muốn ra đi, từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình.”
  • Lê Nguyễn Duy Hậu: “Cần có nhiều yếu tố để một quốc gia trở nên đáng sống, nhưng yếu tố quan trọng nhất có lẽ là lòng khoan dung.”

Quan niệm thượng dẫn về “lòng khoan dung” khiến tôi nhớ đến một bài viết ngắn ngủi nhưng rất cảm động của tác giả Xuân Thọ về tình nghĩa thầy trò, và đức bao dung:

Tôi có rất nhiều thầy cô giáo cũ ở CHDC Đức (đều từ 70 đến 80 tuổi), đã về hưu từ ngày nước Đức thống nhất, nhưng vẫn có cuộc sống yên lành… Năm 2006 và năm 2011 tôi có mời một số anh chị em bạn học cũ từ Việt Nam sang Đức chơi, (có thể có người đang đọc bài này). Cả hai lần chúng tôi đều kéo nhau về trường cũ, bỏ tiền ra làm một bữa liên hoan, có cả âm nhạc Việt Nam, mời toàn bộ các thầy cô đến dự. Họ rất mừng và nói:“Các học sinh Đức cũ không ai nhớ đến chúng tôi, nhưng người Việt các anh chị quả là rất ơn nghĩa, 40 năm rồi vẫn nhớ đến chúng tôi”.

Nhờ chúng tôi tổ chức họp mặt họ mới có dịp gặp nhau, vì trường cũ đã giải tán và nội bộ của họ có nhiều vấn đề: mất đoàn kết, thù hận nhau, do chính quá khứ của đảng SED để lại, nên họ không bao giờ chủ động gặp nhau.

Trong số phận của các thầy cô, tôi chỉ xin kể 2 sự việc:

1- Bà Magdalena M. vốn là một bà giáo rất đẹp gái, tóc bạch kim, cao ráo, dáng rất sang, dạy kỹ thuật truyền tin. Sau 40 năm gặp lại bà vẫn như vậy và lái xe BMW mui trần đến dự liên hoan. Trước kia tôi không quan tâm đến cuộc sống của bà, nay thấy bà nổi bật lên giữa các vị giáo già nua thanh đạm. Bà bảo: Lương hưu giáo viên của bà thì tạm đủ, nhưng ông chồng bà là đại tá không quân Quân đội Nhân dân Quốc Gia CHDC Đức. Sau khi thống nhất ông được lương hưu tương đương như ông quan năm Tây Đức nên khá lắm! Bà buồn là ông mới mất và nay bà chỉ còn sống bằng lương hưu của bà và 1 phần lương hưu bà góa của ông (Witwenrente).

Bà M. than phiền với tôi là: So với ông đại tá ở phía Tây Đức thì cái tỷ lệ lương hưu để lại cho bà góa có ít hơn.

Tôi không biết điều bà M. nói đúng hay sai, nhưng tôi an ủi bà: Ngày trước ông nhà chỉ lo mỗi việc là tiêu diệt người ta, sau này người ta trả lương hưu hậu như vậy, lúc ổng qua đời, bà còn được lương bà góa của ông nhà thì chắc là sự bất công không bằng đồng bào tôi ở Sài Gòn đã chịu, họ không những không có lương hưu mà còn phải đi cải tạo, có người chết mất cả xác.

Bà M. không phản đối điều tôi nói và trầm ngâm hẳn. Từ đó đến nay, bà vẫn hay gửi email trao đổi chuyện chính trị với tôi.

2- Ông bà Joseph và Gundela GL. là hai người tôi coi như bố mẹ nuôi. Bọn con trai, mấy thằng Erwin, Peter, Michael vẫn chơi bóng đá với đám thanh niên Việt Nam chúng tôi, con bé Martina suốt ngày quấn quít với các bạn gái Việt. Suốt mấy chục năm xa cách tôi vẫn thư từ cho bà. Đùng một cái, từ năm 1990, sau thống nhất đất nước Đức, tôi mất liên lạc với bà. Tôi dò hỏi các thầy cô cũ thì biết cả hai ông bà từng là mật vụ chìm cho STASI (An Ninh CHDC Đức) nên khi chế độ sụp đổ, mọi việc vỡ lở, ông bà xấu hổ quá, đưa cả gia đình đi xa.

Từ khi sang Đức, tôi đã cất công tìm tung tích của ông bà, vì tôi vẫn nhớ đến tình cảm của họ đối với đám thanh niên Việt chúng tôi khi xưa. Là người Việt Nam, tôi thừa hiểu cái bi kịch “cá chìm” mà hàng triệu người Đông Đức hồi đó phải gánh chịu, dù là nạn nhân hay là thủ phạm. Đối với tôi tình cảm con người là trên hết.

Nhờ có Internet và hệ thống sổ điện thoại điện tử, tôi đã tìm được gia đình ông bà GL. Ông bà có một căn nhà nhỏ trên đảo Usedom, nằm trên biển Baltic, gần Ba-lan. Ông bà rút vào cuộc sống ẩn dật để tránh mọi quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp cũ. Câu con cả Erwin làm giám đốc trung tâm điều dưỡng trên đảo và vẫn chăm nom ông bà. Ông bà cảm động lắm và nói là họ đã mất hết bạn bè người Đức, nhưng may mà tôi đã đến với họ.

Điều làm ông bà ân hận nhất là cái “sổ hưu”. Vì là nhân viên mật vụ STASI nên ông bà có quyền cao chức trọng hơn các đồng nghiệp khác trong trường, mặc dù họ có trình độ hơn ông bà. Nhờ vậy ngày nay ông bà lĩnh lương hưu cao hơn họ, những nạn nhân của ông bà.

Xuân Thọ (20.12.2012 Cologne)

Đông và Tây Đức thống nhất năm 1990. Mối liên hệ tình cảm cá nhân của dân chúng hai miền đất nước (có thể) vẫn còn năm điều/ba chuyện bất bình hay “lấn cấn” nhưng ở khía cạnh luật pháp, và trên bình diện quốc gia thì mọi người đều bình đẳng – bất kể họ thuộc bên nào.

Việt Nam thì không thế. Tuy “Nam/Bắc hoà lời ca” sớm hơn nước Đức đến mười lăm năm nhưng chính cách xuyên suốt của chính phủ hiện hành vẫn hoàn toàn nhất quán trong việc phân biệt đối xử giữa kẻ thắng và người thua.

The winner takes all. Kẻ thua thì thua trắng và mất hết, kể cả cái tên gọi như Sài Gòn hay Chính Quyền Miền Nam. Hơn bốn mươi năm sau, dư luận mới thoáng chút “râm ran” khi nghe những nhà sử học của bên thắng cuộc “thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền” cho bên thua cuộc – theo tường trình của phóng viên Lan Hương (RFA) vào hôm 21 tháng 8 năm 2017:

Chúng tôi cũng có dịp trao đổi với PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện sử học, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam này. PGS.TS Trần Đức Cường cho chúng tôi biết lý do các nhà sử học thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa:

“Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả”.

“Thứ hai, quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây.”

“Nhưng về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn.”

Liên quan đến sự kiện này, bản tin (hôm 28 tháng 8 năm 2017) của trang Tiếng Dân có đoạn như sau:

Bộ sách Lịch Sử Việt Nam: Vũ Như Cẩn!

Bài trên báo Tiền Phong: Bộ sách ‘Lịch sử Việt Nam’ có gì ồn ào? Nhà sử học Dương Trung Quốc, cho biết: “Chỉ là cuốn sách của Viện Sử thôi, có gì mà ồn ào, giời ạ!” Nhưng ông cũng nói về bộ sách mới tái bản: “Có gì mới đâu”.

Nhà nghiên cứu Dương Quốc Đông, Viện Sử học, cho biết, đây là bộ sử tái bản, không có gì mới.

GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, xác nhận:“Bộ sử được viết lâu rồi. Nhiều người chưa đọc tưởng cuốn này trình bày kỹ lắm, không có gì đâu, thoáng tí thôi. Do cách diễn đạt khi họp báo thôi…”.

 Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết, bộ sử này có tiếng vang là do thủ thuật tuyên truyền.

Trức đó hai ngày trang Dân Luận  có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngà, với tựa là “Về bộ sách lịch sử Việt Nam: Vẫn là sử đểu!” Sử đểu cũng như sự bao dung đểu cáng (hay đều giả) chả lừa gạt được ai, đã đành; nó còn đẩy xa thêm tiến trình hoà giải của cả một dân tộc mà nhân tâm vốn đã ly tán từ lâu!

TRẠI TÙ CẢI TẠO (2)

From facebơk: Thang Chu shared Thanh Nguyen‘s post.
Côn đồ lãnh đạo Lạc Hồng 

Cháu con lãnh đạn, cha ông lãnh tù.

 
Image may contain: one or more people
Image may contain: text

Thanh Nguyen added 2 new photos.

 

TRẠI TÙ CẢI TẠO (2) 
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..

Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:
“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu”.

Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.

Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:
“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”

Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:
“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.

Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.

Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.

Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.

Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.

Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì không…. 

 

Lều báo bắt đầu ” đánh” NS hài Hồng Vân!

From facebook : Tran Dat shared Khanh Lam Nguyen‘s post.
 
 
Image may contain: 4 people, people smiling, text
Image may contain: 5 people, people smiling, text
Khanh Lam Nguyen added 2 new photos.Follow

 

Lều báo bắt đầu ” đánh” NS hài Hồng Vân!

Vì stt cô HV chia sẻ trên fb khen ngợi đất nước Nhật Bản, cô viết : … Nhật Bản quá văn minh, quá sạch sẽ, quá văn hóa. Người dân Nhật Bản được hưởng chế độ an sinh tuyệt vời nhất… Chỉ thương người dân VN mình được hưởng toàn những điều giả dối… mà khủng khiếp nhất là thuốc chữa bệnh giả…”

Chúc mừng NS Hồng Vân lại sắp sửa được dán nhãn mác ” phản động” như GS Ngô Bảo Châu. Mà đơn giản là họ chỉ nói ra sự thật!

http://canhbaovn.com/…/nghe-sy-nhan-dan-hong-van-vo-on-bac…/

Khanh Nguyen

Bác sĩ ở Bạc Liêu thiếu chuyên môn, bệnh nhân bị cưa chân

 Bác sĩ ở Bạc Liêu thiếu chuyên môn, bệnh nhân bị cưa chân

Từ việc phỏng xe máy, ông Lý Thanh Trường phải bị cưa cụt chân trái do bác sĩ thiếu chuyên môn. (Hình: Báo Thanh Niên)

BẠC LIÊU, Việt Nam (NV) – Một ông ở xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, ban đầu chỉ bị phỏng xe máy ở bàn chân, nhưng do bác sĩ thiếu chuyên môn điều trị không đúng dẫn đến việc phải cắt bỏ 1/3 đùi.

Theo báo Thanh Niên, bà Nguyễn Thị Loan (39 tuổi, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, Bạc Liêu) cho biết: “Gia đình đã gửi đơn đến Sở Y Tế tỉnh Bạc Liêu yêu cầu xác minh, làm rõ và xử lý nghiêm việc một số y, bác sĩ bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai tắc trách, không cho bệnh nhân chuyển viện, khiến chồng tôi từ việc chỉ phỏng ở bàn chân nhưng phải cưa cụt một chân; đồng thời đề nghị bệnh viện này bồi thường thiệt hại do mất sức lao động với số tiền trên 1 tỷ đồng (khoảng $44,000).”

Bà cho hay, ông Lý Thanh Trường (44 tuổi), chồng bà, là lao động chính trong gia đình. Ông Trường hành nghề lái xe tải thuê và buôn bán nhỏ, thu nhập mỗi tháng khoảng 12 triệu đồng (khoảng $528). Nay nạn nhân bị cưa cụt chân thì hoàn toàn không thể lái xe tải được nữa.

Bà kể, ngày 25 Tháng Năm, trong lúc lái xe máy, ông Trường vô ý để bàn chân chạm vào lốc máy phỏng lòng bàn chân và được đưa đến bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai điều trị.

Trong lúc thăm khám, bà Loan cho biết, chồng mình bị mắc bệnh tiểu đường lâu năm nhưng bác sĩ không lưu ý. Sau khi thăm khám, bác sĩ ở đây nói vết thương chỉ bị phỏng nhẹ, ra toa cho thuốc uống 10 ngày rồi về nhà. Tuy nhiên, sau năm ngày uống thuốc theo toa, vết thương của ông Trường không giảm mà còn sưng phù, gia đình tiếp tục đưa đến bệnh viện tái khám và nhập viện điều trị.

Sau bảy ngày điều trị tại bệnh viện, tình trạng vết thương của ông Trường không giảm mà ngày càng sưng to hơn, đau đớn và gây sốt liên tục. Gia đình xin chuyển viện nhưng bác sĩ điều trị không cho và nói sẽ đổi thuốc.

Đến ngày thứ chín, tình trạng vết thương càng nghiêm trọng, gia đình tiếp tục xin chuyển viện và lần này bác sĩ trực lại từ chối. Khi gia đình ông Trường kiên quyết yêu cầu phải chuyển viện thì bệnh viện buộc gia đình làm cam kết “xin chuyển viện theo yêu cầu.”

Ngày 9 Tháng Sáu, ông Trường được đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu. Tại đây, bác sĩ phát giác chân trái bệnh nhân bị hoại tử nên gia đình xin chuyển lên bệnh viện Trung Ương Cần Thơ. Trong thời gian điều trị hơn một tháng, ông Trường phải qua hai lần phẫu thuật, cắt bỏ 1/3 đùi chân trái do vết thương nhiễm trùng quá nặng không thể cứu chữa.

Ông Trần Hồng Dũng, phó giám đốc bệnh viện Giá Rai, cho biết sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu của gia đình ông Trường, bệnh viện đã thành lập đoàn thanh tra và hội đồng chuyên môn phân tích bệnh án, kiểm tra quá trình tiếp nhận, điều trị chăm sóc.

“Bệnh viện mời gia đình nạn nhân đến đối thoại, thừa nhận thời gian chuyển viện có trễ, bác sĩ thiếu kinh nghiệm trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh chuyển nặng đối với bệnh nhân bị tiểu đường lâu năm. Do đó, bệnh viện chấp nhận hỗ trợ một phần chi phí tiền thuốc, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chi phí lắp đặt chân giả nhưng gia đình ông Trường không đồng ý,” ông nói.

Chiều 7 Tháng Chín, ông Nguyễn Minh Tùng, phó giám đốc Sở Y Tế tỉnh Bạc Liêu, cho biết: “Sở đã nhận được đơn yêu cầu của gia đình ông Trường và đã thành lập đoàn kiểm tra, xác minh, khi có kết luận chính thức sẽ thông tin cho báo chí.” (Tr.N)

Gia đình Nguyễn Mai Trung Tuấn không chốn nương thân sau khi ra tù


Nguyễn Mai Trung Tuấn phản đối việc bắt giữ cha mẹ

Nguyễn Mai Trung Tuấn phản đối việc bắt giữ cha mẹ

“Gia đình tôi gồm có tôi là Mai Thị Kim Hương, chồng tôi là Nguyễn Trung Can và còn con là Nguyễn Mai Trung Tuấn đã về địa phương rồi nhưng không còn nơi ăn chốn ở. Chúng tôi lang thang và chưa có được một bữa cơm gia đình. Lý do là không còn nhà cửa, không chén, không bát, tất cả mọi thứ, không tiền, không quần áo. Chỉ có một bộ đồ dính da.”

Bà Hương nói bà kịch liệt phản đối việc lao động cưỡng bức trong trại tù. Bà cho biết các tù nhân trong trại bị buộc phải làm việc đến 10 giờ mỗi ngày:

“Mai Quốc Phong, Mai Quốc Đạt, Nguyễn Trung Tài, Nguyễn Trung Can, Phùng Thị Ly, và bé Nguyễn Mai Trung Tuấn, ai cũng phải đi làm. Chị Phùng Thị Ly làm một ngày 10 tiếng. Anh Nguyễn Trung Tài sáng đi làm từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều, chiều về không có nước để tắm. Họ đan lục bình, đan giỏ tre. Bé Tuấn đi quét, khuân đá cho người ta xây nhà. Chế độ tù cộng sản là bắt đày đi làm, không bao giờ họ để yên cho mình.”

Về việc các phạm nhân được tha tù sớm nếu lao động tốt, bà Trần Ngọc Anh, người từng bị tù giam vì lên tiếng bảo vệ người dân bị cưỡng chế tịch thu đất đai, đại diện cho Phong Trào Liên đới Dân oan chia sẻ với VOA:

“Thật sự không phải chính sách đảng và nước khoan hồng đâu. Tù nhân vào đó phải lao động, làm đúng chỉ tiêu thì mới được giảm án. Buộc phạm nhân lao động như vậy là vô lương tâm.”

Vào tháng 11/2015, Nguyễn Mai Trung Tuấn, khi ấy 15 tuổi, bị một tòa án ở Long An tuyên phạt 54 tháng tù giam vì tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ Luật Hình sự. Phiên toà phúc thẩm vào tháng 2/2016 sau đó đã kết án Tuấn 30 tháng tù giam.

Vào tháng 9/2015, tòa án huyện Thạnh Hóa, Long An đã xét xử sơ thẩm về tội chống người thi hành công vụ đối với 12 bị cáo, trong đó có cha mẹ em Tuấn. Khi ấy, bà Mai Thị Kim Hương bị tuyên án 3 năm 6 tháng tù giam, và ông Nguyễn Trung Can chịu án 3 năm tù.

Vụ án của Tuấn gây nhiều chú ý vì là một thiếu niên “dân oan” lần đầu tiên bị xét xử ở Việt Nam.

Tuấn bị bắt ngày 6/8/2015 sau khi công an tỉnh Long An ra lệnh truy nã.

Ngày 31/8/2017, Nguyễn Mai Trung Tuấn đã ra tù trước thời hạn 6 tháng với tình trạng sức khoẻ giảm sút. Gia đình cho biết Tuấn luôn khó thở và bị bệnh hen suyễn.

“Họ bắt bé Nguyễn Mai Trung Tuấn. Họ còng chân, còng tay [cháu], bỏ đói bỏ khát, 2 ngày 2 đêm không cho ăn uống. Ra tù Trung Tuấn bị bệnh suyễn và tim, xỉu và đi cấp cứu, truyền nước biển.”

Bà Hương phản đối việc chính quyền cưỡng chế tịch thu nhà của bà và bắt giam nhiều thành viên trong gia đình:

“Tôi không chấp nhận bản án oai sai đó. Bản án đó là sự hèn hạ, thối nát của đảng cộng sản. Một công dân chỉ có một mảnh đất 4 mét chiều ngang, 29 mét chiều dài mà họ một lực lượng hơn 300 người đến chiếm đoạt. Chẳng những vậy, họ còn tống hết vào tù, từ vợ đến chồng, đến anh chị em, và không tha cho đứa bé tuổi vị thành niên, cướp đi quyền làm người của một đứa trẻ. Tôi không chấp nhận bản án đó.”

Vụ việc xảy ra ngày 14/4/2015 khi 3 hộ dân địa phương nổi lửa, tạt acid, và cho nổ bình hàn gió đá để phản đối hành vi mà họ cho là chính quyền tỉnh Long An ‘cướp đất’ khi họ tiến hành cưỡng chế tịch thu căn nhà tạm của gia đình ông Can và bà Hương trên mảnh đất mà họ đã sinh sống mấy chục năm trước đó.

Khi ấy truyền thông Việt Nam nói đoàn công tác của chính quyền địa phương vận động cưỡng chế giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án đê bao chống lũ trong địa bàn thị trấn Thạnh Hóa.

Báo nhà nước dẫn lời Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện, Nguyễn Văn Tạo, nói 106 trong số 109 hộ dân bị ảnh hưởng từ dự án này đã đồng ý giao mặt bằng cho nhà nước. Hai trong Ba gia đình không chấp nhận mức đền bù là anh em ông Nguyễn Trung Can và ông Nguyễn Trung Tài.

Bà Ngọc Anh nói rằng những “gia đình này là dân oan – họ đấu tranh giành quyền lợi chính đáng của họ nhưng chính quyền không đáp ứng.”

Bà Ngọc Anh cho biết những người khác bị bắt trong vụ cưỡng chế này là bà Phùng Thị Ly, ông Nguyễn Trung Tài, ông Nguyễn Trung Linh, ông Mai Văn Đạt, ông Mai Văn Phong, ông Phùng Văn Leo. Riêng ông Nguyễn Trung Linh vẫn còn bị giam tù.

VÌ SAO CẦN BẦU CỬ CHÍNH TRỊ TỰ DO?

From facebook: Lê Việt Kỳ Nhi shared Thức Followers‘s photo.
Năm ấy, 2009 – mưa lất phất một ngày đầu xuân tôi được biết về người luật sư tên Lê Công Định qua lời giới thiệu của anh Trần Huỳnh Duy Thức: “nhi search ls Lê Công Định và cho nhận xét về người này giúp anh”. Từ đó tôi biết thêm, có một trí thức yêu nước.

Và với tôi …anh ứng với một câu Sấm liên quan với việc xem anh Thức là thủ lĩnh và rất làm nên việc.

Không phải ai cũng nhận ra tử huyệt của thể chế hiện tại của Việt Nam. Hay bất cứ thể chế độc tài nào và bất kể nơi đâu. Những chính trị gia thực sự nhìn ra cách tranh đấu trực diện, hiệu quả, không đi đường vòng. Họ theo quy tắc căn bản của dân chủ là quyền công dân. Martin Luther King hay Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi v.v… bất cứ nhà hoạt động dân chủ nào đã thành công cũng tranh đấu dân chủ qua sự quyết liệt đòi quyền công dân. Vì đó là chính nghĩa duy nhất tạo sức mạnh.

Ngoài anh Thức, tôi thấy ở anh Định cũng là một chính trị gia thực sự nhưng vì sự kiềm tỏa đã vùi dập tài năng. Tôi không nằm trong sự kiềm tỏa đó, và đang nhận trách nhiệm thay anh Thức thực hiện ý muốn yêu cầu trưng cầu dân ý cùng với nhóm Thức followers.

Xin giới thiệu bài viết của ls Lê Công Định, cùng với trang www.civilrightvn.org, nơi bạn có thể ký tên đòi trưng cầu dân ý về quyền tự quyết, tạo cơ sở pháp lý thay đổi thể chế.

Không những tôi tiếp tục tranh đấu cho nền dân chủ Việt Nam mà hậu độc tài tôi còn muốn góp phần xây dựng lại đất nước theo như đã từng chia sẻ với anh Trần Huỳnh Duy Thức cũng như trong “ước mơ của Thủy”.

 
Image may contain: 1 person, indoor
Thức Followers is with Hoa Kim Ngo and 13 others.

 

VÌ SAO CẦN BẦU CỬ CHÍNH TRỊ TỰ DO?
(Ls. Lê Công Định)

Sơ lược về bầu cử

Bầu cử chính trị là một thể thức dân chủ giúp người dân quyết định chọn người nắm giữ các chức vụ chính quyền trong bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bầu cử cũng là một đối tượng nghiên cứu của ngành Luật Hiến pháp.

Bầu cử chính là nền tảng pháp lý thể hiện ý dân trong việc trao quyền lực nhà nước cho các cơ quan công quyền, bởi lẽ đối với một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ hình thành từ ý nguyện của nhân dân, do đó phải được tổ chức một cách công bằng và tự do.

Ở các quốc gia dân chủ, bầu cử quốc hội và bầu cử tổng thống là hai sinh hoạt chính trị quan trọng bậc nhất. Tuy nhiên, ngoài những cuộc bầu cử mang tính chất chính trị, bầu cử còn được tổ chức trong phạm vi một số tổ chức xã hội, như nghiệp đoàn và các đoàn thể nghề nghiệp, để chọn ra những người đứng đầu tổ chức một cách minh bạch.

Bầu cử chính trị luôn là hoạt động chính trị-xã hội quan trọng của toàn dân bởi sự tham gia đông đảo của cử tri đại diện cho các giai tầng xã hội, tôn giáo, đảng phái, tổ chức xã hội, v.v…. Vì vậy mọi cuộc bầu cử đều diễn ra theo trình tự và thủ tục luật định chặt chẽ.

Thực trạng Việt Nam

Trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975 đến nay, dưới sự cai trị độc đoán và bất tài của những người cộng sản, nền kinh tế đất nước không ngừng tụt hậu, các nhóm lợi ích lũng đoạn cả về kinh tế lẫn chính trị, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại, đời sống người dân ngày càng khó khăn. Thiểu số đảng viên cộng sản nắm quyền thống trị hà khắc trên đại đa số dân chúng và cả phần đông những người cộng sản kém thế.

Từ lâu, quyền tự quyết lựa chọn thể chế chính trị của người dân Việt Nam đã được bảo hộ bởi các hiệp định quốc tế về nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm Hiệp định Geneva năm 1954 và Hiệp định Paris năm 1973. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền bằng xương máu của nhân dân, giới lãnh đạo cộng sản đã hoàn toàn phớt lờ ý nguyện chính đáng của toàn dân.

Suốt hơn 40 năm qua, nhiều thế hệ người Việt, bao gồm các nhân sĩ trí thức, tổ chức tôn giáo, đảng phái chính trị và tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam, đã tranh đấu không mệt mỏi vì công bằng và thịnh vượng, kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc và thực hiện trưng cầu dân ý để cùng nhau chọn lựa một hướng đi tốt đẹp chung cho cả dân tộc. Tuy nhiên, trong môi trường xã hội mà thành phần phi cộng sản bị kỳ thị và quyền công dân không được bảo vệ đầy đủ, hàng triệu người Việt đã bỏ nước ra đi kể từ năm 1975 nhằm mưu tìm một thể chế chính trị đối xử bình đẳng và bảo vệ nhân phẩm của mình.

Điều đáng tiếc là, trong hơn 40 năm toàn trị trên toàn lãnh thổ quốc gia, về đối ngoại, nhà cầm quyền ngày càng tỏ ra ươn hèn trước sự xâm lấn biển đảo và lãnh thổ của tập đoàn bành trướng Bắc Kinh, bỏ mặt ngư dân bị tàu Trung Quốc đánh đập, cướp phá, bắn giết và đâm chìm ngoài khơi Biển Đông; về đối nội, quyền chính trị của công dân trong việc tham gia bình đẳng vào công cuộc xây dựng đất nước đã bị hệ thống độc đảng mặc nhiên loại bỏ, trong khi nhân dân vẫn nai lưng đóng thuế nuôi bộ máy cai trị chính mình.

Thủ tục bầu cử tuy cũng được luật hóa với hàng loạt bản văn pháp lý, bao gồm Hiến pháp, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân và các bản văn pháp lý dưới luật như Nghị định của Chính phủ hướng dẫn chi tiết các văn bản nêu trên, nhưng bầu cử vẫn mãi là cuộc chơi riêng do đảng cộng sản cầm quyền thao túng. Luật bầu cử chỉ hiện hữu trên danh nghĩa, còn diễn biến của cái gọi là “bầu cử” mới là thực tế mà ai cũng nhìn rõ thực chất của nó; đó là hai điều hoàn toàn tách biệt và khác xa nhau.

Dù các cuộc bầu cử tốn kém vẫn luôn diễn ra theo định kỳ, nhưng vì đảng cầm quyền thao túng mọi thủ tục và tiến trình thực hiện, nên bộ máy nhà nước chỉ dung nạp và dung dưỡng những kẻ bất tài, vô liêm sỉ, tham nhũng, tham quyền cố vị, thậm chí được Bắc Kinh cài vào hoặc ủng hộ để duy trì sự lệ thuộc toàn diện của Việt Nam vào Trung Quốc.

Đáng buồn thay, khi lương tâm và lương tri của nhân dân thức tỉnh trước thực trạng ngày càng tệ hại của đất nước, thì thay vì bảo vệ luật pháp, bảo hộ quyền công dân và lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, nhà cầm quyền lại công khai tấn công và dập tắt tiếng nói đối lập từ những người hoạt động xã hội dân sự và các nhà tranh đấu vì quyền con người, đồng thời giam cầm hàng trăm tù nhân chính trị và tôn giáo. Công an và quân đội hợp tác với bọn côn đồ lại trở thành đội quân vũ trang hung hãn nhất tấn công bất cứ ai cất tiếng phản kháng nạn toàn trị cộng sản.

Bầu cử tự do: giải pháp duy nhất

Sự bất lực và thất bại của đảng cộng sản cầm quyền trong công việc quản lý và điều hành quốc gia từ lâu có nguyên nhân từ hệ thống chính trị độc đảng, nhưng được ngụy trang dưới chiếc áo dân chủ bằng các cuộc bầu cử chính trị giả hiệu.

Do vậy, thực trạng nêu trên chỉ có thể được giải quyết và thay đổi bằng bầu cử tự do để lựa chọn nhân tài cho bộ máy công quyền của quốc gia. Đó chính là quyền tự quyết của công dân trong việc lựa chọn thể chế chính trị cai quản đất nước của chính mình.

Những ai tin tưởng vào sức mạnh dân tộc trong công cuộc phục hưng nước nhà, mong muốn đất nước hòa nhập vào thế giới văn minh trên cơ sở tôn trọng đầy đủ quyền con người và quyền công dân, cần sớm ủng hộ bầu cử tự do, bởi đó là giải pháp duy nhất vào lúc này. Tương lai dân tộc tùy thuộc vào thái độ và quyết định của chúng ta ngày hôm nay.

 
 

Hiện tại gia đình em NMTT không còn nhà, không còn đất, họ phải đi ở nhờ.

 
 
From facebook: Trần Bang added 7 new photos — with Nghe Bui and 6 others
 

Hôm nay em Nguyễn Mai Trung Tuấn ( SN 2000) cùng bố mẹ (ông Nguyễn Trung Cang, bà Mai Thị Kim Hương), bác em Tuấn là ông Nguyễn Trung Tài và bà Phùng Thị Ly, họ là 5 người trong số 14 Dân oan Thạnh Hoá, Long An sau khi ra tù lên SG khám bệnh.

Dân oan Thạnh Hoá, Long An là những người dân oan kiên quyết giữ nhà đất của mình, không chấp nhận đền bù rẻ mạt ( 300.000 đ/m2) của địa phương, trong khi đất đối diện giá bán 20.000.000 đ/m2 thuộc trung tâm thương mại Thạnh Hoá …. Họ đã chống lại đoàn mấy trăm người (đủ binh chủng, với đầy đủ trang bị ) đến cưỡng chế nhà đất của họ vào giữa năm 2015. Kết quả 14 người bị bắt, bị tù vì ” tội chống người thi hành công vụ”.

Hiện nay 13 người trong 14 người trong vụ Dân Oan Thạnh Hoá đã tự do, còn Nguyễn Trung Linh ( con ông Nguyễn Trung Tài ) vẫn đang thụ án ở Bến Tre.

Bà Phùng Thị Ly cho biết: ” gia đình bà có ba người bị tù, người nhẹ nhất là 3 tháng”
Gia đình em Nguyễn Mai Trung Tuấn bị bắt tù tất cả bố mẹ, nội ngoại, cậu, ông, bà, bác, anh em họ là 11 người.

Khi bị bắt em Tuấn bị đánh chảy máu tai, trong khi bị giam thì bị chích điện, bị đánh…

Dù thầy cô giáo, bạn bè em NMTT ở Trường THCS Thạnh Hoá nơi em học đều khen em là thiếu niên ngoan, hiền, học khá; NMTT đối xử tốt với bạn bè và thầy cô, được thầy và bạn quý mến; em có sức khỏe không tốt, hay bị bệnh…. Cháu NMTT cũng cho biết, sau khi ra tù cháu đã tiếp tục đi học lại tại trường cũ.

Sau khi Toà xử, họ giam mỗi người một nơi cách nhau mấy trăm km, mẹ em Tuấn bị giam ở An Giang, bố em Tuấn bị giam ở Hàm Tân ( Bình Thuận), em Tuấn bị giam một tỉnh khác, bác em là Nguyễn Trung Tài bị giam ở Bến Tre, bà Phùng Thị Ly bị tù ở Hớn Quản, Bình Phước…

Hiện tại gia đình em NMTT không còn nhà, không còn đất, họ phải đi ở nhờ.

Dù bị tù vì bảo vệ căn nhà và mảnh đất ( mấy trăm mét vuông) ông cha để lại từ trước 30-4- 1975, họ đều cho biết sẽ tiếp tục đấu tranh đòi lại công bằng cho bản thân, gia đình, những người dân VN bị cướp đoạt quyền tư hữu đất đai bất công, và giành tự do nhân quyền cho người VN.

P/s TB thay mặt Nhóm Vì Môi Trường trao quà cho em NMTT 4,5tr (gồm: quỹ nhóm 2tr, người hảo tâm ở Mỹ gửi qua Bích Ngà 100usd ( đổi ra và Ngà bù thêm được 2.500.000₫ ); bà Phùng Thị Ly 1tr ( quỹ nhóm ).

Image may contain: 10 people, people smiling, people standing
Image may contain: 13 people, people smiling, indoor
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
Image may contain: 7 people, people standing
+3
 
 

Vì sao người Việt kém yêu nước?

 Vì sao người Việt kém yêu nước?

Viết từ Sài Gòn
Hình chụp một quán bia hơi ở Hà Nội hôm 17/9/2016

Hình chụp một quán bia hơi ở Hà Nội hôm 17/9/2016

 AFP

Người Việt mê nhậu, người Việt ham bóng đá, người Việt thừa thời gian để ngồi quán cà phê từ sáng tới chiều, người Việt thích tiểu tiện ngoài đường, người Việt thích trộm cắp ở siêu thị nước ngoài, người Việt không yêu nước… bla, bla… Tất cả những nhận xét trên đây về người Việt, có vẻ như không sai! Vì sao? Và tại sao một đất nước tự xem mình có đến bốn ngàn năm văn hiến lại ra nông nỗi như vậy?

Ở câu hỏi thứ nhất, vì sao người Việt lại trở nên xấu xí trong con mắt người nước ngoài và người Việt bỗng dưng không yêu nước? Để trả lời câu hỏi này, thử xem lại người Việt trước đây chừng 150 năm trở lại có những tính xấu xí này không?

Và câu trả lời là từ 150 trở lại thời Việt nam Cộng Hòa, đã có rất nhiều người Việt đi ra nước ngoài để làm ăn, học hành, họ chỉ để lại những hình ảnh đẹp và chí ít cũng học được một món nào đó của thế giới tiến bộ để mang về Việt Nam. Cụ Phạm Phú Thứ không học được kĩ thuật làm xe đạp nước là gì? Cụ Phan Châu Trinh không học được tư tưởng canh tân để tổng hợp thành hệ thống tư tưởng cho Việt Nam là gì? Và còn rất nhiều thanh niên, trí thức Việt Nam sang nước ngoài để học, làm việc hay buôn bán, làm ăn, lại những dấu ấn đẹp trên xứ người. Câu chuyện ăn cắp ở xứ người chỉ mới xuất hiện trong thời đại Cộng sản xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thời gian gần đây.

Câu chuyện trộm cắp này xảy ra song hành với tính khí thay đổi một cách dị hợm của số đông người Việt như hôi của người bị nạn, mê nhậu, ham mê bóng đá, thừa thời gian để ngồi quán cà phê từ sáng tới chiều, thích tiểu tiện ngoài đường, không yêu nước… Sở dĩ có mối tương trùng kỳ quái như vậy là vì các lý do: Người Việt đã sống quá lâu trong khuôn khổ độc tài, toàn trị; Người Việt đã bị giam hãm trong một bầu khí quyển sắt máu và tàn bạo; Người Việt đã bị tịch thu mọi thứ quyền và; Quyền lợi luôn đi đôi với trách nhiệm, lương tri, nếu bị tước đoạt quyền lợi, sau đó tước đoạt cả trách nhiệm thì lương tri sẽ bị méo mó.

Và vấn để đáng bàn ở đây lại nằm ở chỗ tại sao người Việt trở nên dửng dưng với hiện tình đất nước? Giữa những đổ đốn và thói dửng dưng, không yêu nước có quan hệ gì với nhau?

Thực ra, người Việt vẫn chưa bao giờ xấu xa như người ta nhìn thấy hiện nay, và người Việt cũng không dửng dưng với chính sự với mức như đang thấy. Vấn đề nằm ở chỗ người Việt đã phải đấu tranh sinh tồn ngay trong gia đình với những chiêu trò đấu tố của đảng cầm quyền, để rồi tiếp theo đó là sống dấm dúi, giấu cái ăn, giấu cái mặc và giấu mọi thứ có được do mồ hôi, nước mắt làm ra để phòng tránh bị đảng Cộng sản cướp trắng bằng chiêu bài trưng thu, sáp nhập tập thể. Và thói quen dấm dúi, cạnh khóe, đội trên đạp dưới không phải là bản chất nhưng theo thời gian mà hình thành để thích nghi, tồn tại.

Bên cạnh đó, một hệ thống giáo dục tồi với hàng trăm vấn đề cặn bã, dốt nát ẩn náu bên trong cũng như quan niệm giáo dục cũ kĩ, thiếu triết lý giáo dục dẫn đến thiếu tri chất giáo dục và kéo theo hệ quả hàng nhiều thế hệ phải mắc kẹt trong sự tụt hậu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, hiếm có người may mắn thoát ra khỏi tình trạng này. Và những gì nó để lại, chúng ta đang nhìn thấy.

Thử nghĩ bạn đang sống trong một đất nước mà mở miệng nói cũng có thể bị vạ, tài sản làm từ mồ hôi, nước mắt của bản thân và của cả gia tộc cũng có thể bị nhà cầm quyền tìm cách này hay cớ khác mà trưng thu, nhũng nhiễu, khi thấy đất nước lâm nguy, bày tỏ thái độ chống ngoại xâm bằng biểu tình thì bị đánh đập, bị nhốt tù… Mọi quyền được ăn được nói được gói được mở bị giới hạn đến mức tối thiểu. Mọi quyền lợi và trách nhiệm cũng bị lấy mất vì đất nước không có dân chủ, thì bạn sẽ làm được gì?

000_Hkg10236271.jpg

Một quán cafe nhỏ ở khu phố cổ Hà Nội hôm 8/12/2015 AFP

Câu hỏi của người trẻ đưa ra, người già đặt lại đều rơi vào bế tắc. Bởi một khi mọi quyền lợi, trách nhiệm công dân đều bị thâu tóm bởi một nhóm cầm quyền, người dân không được tham dự, tham gia bất kì hoạt động chính trị nào nếu chưa có định hướng của đảng cầm quyền, thì liệu người ta có còn giữ được lương tri, phẩm chất yêu nước của mình?

Điều này hoàn toàn khó và sẽ không thể xảy ra. Bởi người ta đã bị cắt mất quyền yêu nước, thậm chí quyền yêu thương cũng bị giới hạn tối đa do yếu tố lý lịch, xét gốc. Cũng đã từng có nhiều nhóm trí thức, văn nghệ sĩ và thanh niên quyết vượt qua mọi rào cản để đấu tranh, để biểu tình, phát động kêu gọi lòng yêu nước. Nhưng tiếng nói của họ rơi vào thinh lặng và họ bị cô lập.

Trong tình hình hiện nay, rất có thể xảy ra tình trạng Trung Cộng tấn công Việt Nam và sẽ không có người yêu nước nào cất lên tiếng nói của mình nữa. Họ không nói bởi vì họ hết yêu nước mà vì họ hết tin vào chế độ Cộng sản. Bởi dù sao, danh nghĩa quốc gia cũng được nhìn nhận bằng hệ thống nhà nước trên phương diện quốc tế. Người ta liên lạc với quốc gia nào đó thông qua hệ thống nhà nước của quốc gia này. Yêu nước cũng là yêu cả hệ thống nhà nước.

Với một hệ thống nhà nước độc tài, toàn trị và dối trá như đang có, Việt Nam chắc chắn sẽ không còn người yêu nước. Nhưng điều này không hẳn xấu, sự dửng dưng hiện tại manh nha và hun đúc một cuộc cách mạng trong một sớm một chiều. Người ta buộc phải thay đổi hệ thống nhà nước để phục hồi và bảo lưu tình yêu dành cho quốc gia. Bởi đây là điều cần thiết.

Bởi nhà nuốc chỉ là phần rất nhỏ, mang tính chất đại diện của một quốc gia. Tình yêu dành cho quê hương, đất nước là một đại thể. Người ta không dễ gì đánh đổi đại thể để chấp nhận một thứ tiểu thể ngược qui luật. Có lẽ cũng chính vì điều này mà đảng Cộng sản luôn cố gắng đồng nhất họ với dân tộc, quốc gia. Điều này cho thấy họ đã nhận thức được sự nguy hiểm đang rình rập họ và cũng cho thấy sự thoái trào, tan rã của họ là chuyện không thể tránh.

Hiện nay, tìm một người yêu nước sẽ rất khó, bởi họ chẳng dại gì biểu lộ điều đó. Nhưng tìm những nhân tố hình thành cách mạng thì có vẻ như không còn là chuyện bí mật, khó nói như trước đây. Bởi nhân tố cách mạng nằm ngay trong thái độ dửng dưng, không cần bày tỏ lòng yêu nước và không còn tin tưởng gì vào hệ thống cầm quyền cũng như sự phản tư đi từ trong bếp ra tới chợ, trường học, bệnh viện và (có thể) cả trong các quân nhân.

Và hơn hết, kinh nghiệm lịch sử cho thấy bất kì nhà nước phong kiến nào, dấu hiệu trước khi sụp đổ của họ là sự quay lưng của họ đối với nhân dân và sự dửng dưng của nhân dân dành cho họ. Thời nhà Nguyễn, người dân đã đứng xem lính nhà Nguyễn và quân Pháp đánh nhau như xem đá banh. Thời bây giờ cũng chẳng khác chi mấy một khi nhân dân chẳng còn tin vào nhà nước, đảng cầm quyền. Nhưng có một điểm khác biệt rất cơ bản là thời này, người ta có thể động viên, rút con em của mình ra khỏi quân ngũ nếu thấy cần thiết và thời cơ đến.

Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể họ còn tồn tại rất lâu, bởi cho dù sau này Việt Nam có đầy đủ dân chủ đa nguyên thì cơ hội tồn tại của họ cũng còn rất mạnh. Vấn đề là họ tồn tại để làm gì trước pháp đình dân tộc? Và họ tồn tại thêm được bao lâu. Bởi họ đã làm thất lạc chút niềm tin cuối cùng mà dân tộc Việt nam dành cho họ thông qua lòng yêu nước!

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục (phản biện bài viết của GS Tương Lai)

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục (phản biện bài viết của GS Tương Lai)

 Trần Trung Đạo

clip_image001

Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.

Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944”. Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn”.

Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ cộng sản (CS) và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.

Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Trung Quốc (CSTQ) như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949.

Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người CS và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống thực dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.

Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh

Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.

Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là CS.

Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là CS”.

Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân chủ nắm giữ.

Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.

Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô.

Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì.

Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường.

Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.

Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái quốc gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng.

Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.

Trung Cộng muốn gì?

Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam:

– Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng.

– [Là] Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.

– Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.

Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự(2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào(3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kiaĐây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.

Trong Thế chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường hợp Thụy Điển, hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.

Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.

Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng

Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộngchính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.

Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía Bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao.

Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục

Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.

Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.

T.T.Đ.

Nguồn: https://www.facebook.com/notes/tr%E1%BA%A7n-trung-%C4%91%E1%BA%A1o/b%C3%A0i-50-%C4%91%E1%BB%ABng-t%C6%B0%E1%BB%9Bi-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-l%C3%AAn-g%E1%BB%91c-c%C3%A2y-r%C3%A3-m%E1%BB%A5c-ph%E1%BA%A3n-bi%E1%BB%87n-b%C3%A0i-vi%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-gs-t%C6%B0%C6%A1ng-lai/1669672683056711/

Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước bị khởi tố

Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước bị khởi tố

RFA
2017-09-08
 
Nguyên Phó thống đốc NHNN Đặng Thanh Bình

Nguyên Phó thống đốc NHNN Đặng Thanh Bình

Courtesy 24h.com.vn
 

Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ông Đặng Thanh Bình, vừa bị khởi tố vì hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 285, Bộ luật Hình Sự và bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an cho báo chí biết như vậy vào hôm 8/9.

Ông Bình bị khởi tố vì liên quan đến vụ đại án kinh tế ở ngân hàng Xây dựng gây thất thoát hơn 9.000 tỷ đồng. Đây là một trong 12 đại án kinh tế và là 1 trong 5 đại án về ngân hàng được Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng chỉ đạo phải giải quyết dứt điểm trong năm 2017.

Các lãnh đạo của ngân hàng này bao gồm nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Công Danh, nguyên Tổng giám đốc Phạm Thành Mai và nguyên giám đốc chi nhánh Sài gòn Mai Hữu Khương đã bị khởi tố và bắt giam hôm 29 tháng 7 năm 2014.

Phiên tòa xét xử 36 bị cáo trong vụ án gây thất thoát tại Ngân hàng Xây dựng đã diễn ra vào ngày 19 tháng 7 năm 2016. Bị cáo Phạm Công Danh bị tuyên phạt 30 năm tù. Hai lãnh đạo khác là Phan Thành Mai bị tuyên 22 năm tù và Mai Hữu Khương là 20 năm tù.

Ông Đặng Thanh Bình là người có 25 năm công tác trong ngành tài chính ngân hàng. Ông được bổ nhiệm làm Phó thống đốc Ngân hàng nhà nước vào năm 2005 dưới thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho đến khi về hưu năm 2014.

Với cương vị Phó thống đốc NHNN, ông Đặng Thanh Bình được giao chuyên trách về nợ xấu và tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong một thời gian dài. Đây cũng là giai đoạn các ngân hàng ở Việt Nam gặp phải vấn đề về nợ xấu tồn đọng lớn đòi hỏi phải có xử lý kịp thời, hoạt động của hệ thống ngân hàng yếu kém.

Để giải quyết tình trạng này, vào tháng 6/2013 Ngân hàng Nhà nước đã quyết định thành lập Công ty mua bán nợ các tổ chức tín dụng VAMC với nhiệm vụ chính là mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng, thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ….

Ông Đặng Thanh Bình đã được giao thêm nhiệm vụ là Chủ tịch Hội đồng thành viên đầu tiên của VAMC. Nhưng ông Bình chỉ ở vị trí này 1 năm thì phải bàn giao lại chức vì đã đến tuổi về hưu vào năm 2014.

Em trai Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi kêu gọi:

From facebook:  Hoa Kim Ngo and Dawson Le shared Like cho VIỆT NAM‘s live video.

30,292 Views

Like cho VIỆT NAM is live now.Follow

httpv://www.youtube.com/watch?v=_CXBHcCMkKc&feature=youtu.be

Phỏng vấn em Nguyễn Mai Trung Tuấn sau những ngày bị lao tù

 

Em trai Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi kêu gọi: – “Đảng cộng sản VN là đảng bán nước cho tàu cộng –
Tiêu diệt Đảng Cộng Sản Việt Nam – Đả đảo Nguyễn Tấn Dũng bù nhìn – Đả đảo chế độ cộng sản đàn áp dân – Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm.”
——-
Phần 1: Mời quý vị đón nghe cuộc phỏng vấn đặc biệt với em Nguyễn Mai Trung Tuấn sau những ngày em bị lao tù cộng sản.

Clip: Tin Mừng Cho Người Nghèo
https://youtu.be/_CXBHcCMkKc

Phần 2: Nguyễn Mai Trung Tuấn live stream: “Cháu xin cảm ơn . Cháu sẽ luôn luôn sống tốt để không phụ lòng thường yêu cuả các chú bác , cô dì đã dành cho con.”

Phần 3: Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi – Trần Quốc Toản thời đại. Bất lực trước sức mạnh của “Công lý và sự thật”, Công An Cộng Sản Việt Nam đứng nhìn…
Em trai Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi kêu gọi: – Tiêu diệt Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Clip: Chân Lý