Công an huyện Văn Lâm đang phủ nhận chế độ pháp quyền để bảo vệ lợi ích nhóm BOT ?

From facebook: Christina Le
Công an huyện Văn Lâm đang phủ nhận chế độ pháp quyền để bảo vệ lợi ích nhóm BOT ?

Tính đến thời điểm hiện tại công an huyện Văn Lâm đã có giấy triệu tập và làm việc ít nhất ba tài xế sử dụng tiền lẻ để trả phí qua trạm thu phí số 1, quốc lộ 5 (huyện Văn Lâm, Hưng Yên).

Theo tường thuật của một trong ba tài xế này, công an đã buộc anh phải ghi vào biên bản làm việc theo hướng không phản đối mức phí trạm BOT, thì mới để anh đi sau hơn 4 tiếng làm việc.

Có thể thấy rằng, vì một mục đích nào đó, công an huyện Văn Lâm đã vi phạm trắng trợn và nghiêm trọng luật pháp.

Đầu tiên, bộ luật tố tụng hình sự nói riêng và pháp luật hiện hành của Việt Nam nói chung quy định rất rõ rằng chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán là có quyền ký và sử dụng giấy triệu tập. Tiếp đó, người có thể bị triệu tập chỉ có thể là đối tượng có tư cách tham gia tố tụng như: bị hại, bị can, bị cáo, nguyên đơn, bị đơn, nhân chứng, v.v… Điều này có nghĩa rằng trong phạm vi hình sự, chỉ khi đã khởi tố vụ án/bị can và quyết định điều tra, thì giấy triệu tập mới có thể được dùng bởi một số cơ quan đặc biệt. Giấy triệu tập được sử dụng rất hạn chế và nghiêm ngặt là hợp lý với quyền con người về tự do đi lại, tư do thân thể, và không bị bắt giữ trái phép như đã được quy định tại Hiến pháp.

Tại đây, chúng ta có thể gần như chắc chắn 100% rằng chưa có bất kỳ quyết định điều tra hay khởi tố vụ án/bị can nào liên quan đến việc một số tài xế dùng tiền lẻ để thanh toán tại các trạm BOT. Vậy, công an huyện Văn Lâm đã sử dụng cơ sở hay căn cứ pháp luật nào để tự ý triệu tập 3 tài xế trên. Nếu muốn làm sáng tỏ hoặc tìm hiểu về một số vấn đề, công an có thể MỜI những người này (và tất nhiên họ có quyền chấp nhận hoặc từ chối lời mời này), nhưng không thể TRIỆU TẬP và ép buộc họ phải đến làm việc một cách trái pháp luật. Đây không chỉ là hành vi vi phạm pháp luật mà còn là hành vi vi phạm Hiến pháp trắng trợn.

Tiếp đến, việc công an huyện Văn Lâm không chấp nhận giải thích của một tài xế rằng việc anh sử dụng tiền lẻ là để thể hiện phản đối với mức phí trạm BOT, mà buộc anh phải khai rằng: “khi chở người thân đi thì có tiền lẻ thì rút ra trả như bình thường chứ không phải phản đối mức phí cao…” thì mới để anh đi cũng chính là một chuỗi hành vi vi phạm pháp luật.

Thứ nhất, đây có thể được coi là hành vi phạm tội hình sự liên quan đến việc mớm cung hoặc làm sai lệch hồ sơ. Thứ hai đây là hành vi vi phạm quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia thảo luận và kiến nghị với nhà nước của công dân như đã quy định tại Hiến Pháp Việt Nam. Và đặc biệt, thứ ba, đây chính là hành vi phủ nhận chế độ chính trị pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân như ghi nhận tại ngay Điều số 2 của Hiến pháp.

Bởi các lẽ trên, hoàn toàn có thể nhận định rằng công an huyện Văn Lâm đã vi phạm trắng trợn và nghiêm trọng pháp luật Việt Nam. Do đó, tôi kính đề nghị các cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra động cơ của công an huyện Văn Lâm, tìm hiểu xem có phải có một nhóm lợi ích nào đó đã kích động công an huyện Văn Lâm vi phạm pháp luật và phủ nhận chế độ chính trị pháp quyền của Việt Nam hay không. Chẳng phải đây là điều mà Nhà nước và Đảng đang muốn làm hay sao ???

Luật sư Trần Đức Hoàng 

 
 

Cựu cán bộ 77 tuổi ở Vũng Tàu dâm ô nhiều bé gái

Ông Nguyễn Khắc Thủy bị cơ quan công an xác định có hành vi dâm ô nhiều bé gái khi các bé vui chơi tại chung cư Lakeside, Vũng Tàu. (Hình: Báo Thanh Niên)

BÀ RỊA-VŨNG TÀU, Việt Nam (NV) – Theo báo Thanh Niên, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Công An thành phố Vũng Tàu cho biết đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang Viện Kiểm Sát và đề nghị truy tố ông Nguyễn Khắc Thủy (77 tuổi), nguyên giám đốc Ngân Hàng Nhà Nước Chi Nhánh Bà Rịa-Vũng Tàu, về tội “Dâm ô với trẻ em.”

Công an cho hay, ngày 11 Tháng Bảy, 2016, bà TTTT (37 tuổi) tố cáo ông Thủy, cùng nơi ở tại chung cư Lakeside, phường Nguyễn An Ninh, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đã dâm ô với con gái 8 tuổi của mình. Ngoài ra, bà còn cung cấp thêm thông tin của nhiều bé gái đã bị ông Thủy xâm hại tình dục.

Qua điều tra, công an Vũng Tàu đã làm rõ và xác định từ năm 2012-2014, ông Thủy đã có hành vi dâm ô đối với năm bé gái khác tại thành phố Vũng Tàu.

Tin cho biết, ngày 18 Tháng Tám, 2016, cơ quan Cảnh Sát Điều Tra đã khởi tố vụ án “xâm hại tình dục trẻ em” đối với ông Thủy để điều tra, nhưng sau một thời gian khá dài không khởi tố bị can dư luận bất bình, báo chí lên tiếng.

Tháng Ba, 2017, dưới áp lực của dư luận, Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang yêu cầu lãnh đạo Bộ Công an, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao ra lệnh các cơ quan tư pháp, điều tra sớm làm rõ và có kết luận về vụ việc này. Sau đó công an Vũng Tàu mới khởi tố ông Thủy để điều tra. (Tr.N)

Nghệ sĩ Hồng Vân và GS Ngô Bảo Châu đang bị bọn tuyên giáo viết bài chửi rủa te tua…

From facebook:  Christina Le
Nghệ sĩ Hồng Vân và GS Ngô Bảo Châu đang bị bọn tuyên giáo viết bài chửi rủa te tua…

Vì sao họ bị vậy? Tôi ví như việc họ làm giống như một người ko chịu tránh mà lại đi ngược chiều với một đàn Bò cực kì đông đúc đang hung hăng lao về phía trước. Nên họ bị đàn Bò húc phải, đạp phải, dẵm phải là chuyện quá bình thường.

Một người thì dám xây cái trường học to đẹp làm cho Đảng mất mặt vì ko thể tranh công, ko thể bắt nhân dân phải đội ơn nhờ Đảng mới có cái trường đẹp mà học

Một người dám khen Nhật, chê bai nước ta toàn đồ giả, phải dùng thuốc chữa bệnh giả. Thiên đường thì xài hàng mã là điều đương nhiên, ko những thuốc chữa bệnh giả đâu mà BS giả ( BS học giả bằng thật ), nhân viên y tế xài bằng giả, Cán bộ xài bằng giả, Giáo Sư giả ( Một số chức danh GS mà chỉ VN tự phong tự công nhận, cả thế giới họ ko công nhận ). Có gì to tát mà phải lên tiếng…

Cái kết của việc đi ngược chiều với lại Đàn Bò đông đúc nó là như vậy, ko bị nó dẵm đạp chết là may rồi

(Văn Hoàng)

Đường đê dọc sông Sài Gòn hơn 450 tỷ đồng tan nát

Đường đê dọc sông Sài Gòn hơn 450 tỷ đồng tan nát

Xe tải chở vật liệu xây dựng từ các bãi đua nhau tàn phá đường đê. (Hình: Báo SGGP)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Đường đê dọc sông Sài Gòn, quận 12, có tổng mức đầu tư trên 454 tỷ đồng (hơn $19.98 triệu), vừa để ngăn triều cường, chống ngập úng, vừa là đường giao thông mới đưa vào sử dụng đã xuống cấp nặng do bị xe tải cày phá.

Từ khi tuyến đường đê đưa vào sử dụng thì việc đi lại của người dân trở nên dễ dàng hơn vì khu vực ven sông ít bị ngập nước. Cũng do đường đi thuận tiện, hàng loạt bến bãi, điểm tập kết cát đá, vật liệu xây dựng mọc lên dọc theo bờ sông, nhiều xe tải lớn lưu thông, chở cát đá ra vào bến bãi, theo báo SGGP.

Đứng trên cầu Bình Phước nhìn về hướng quận 12, có thể thấy ven bờ sông những đống cát, đá rất lớn nối nhau. Dưới sông sà lan, ghe tàu chở vật liệu chờ chuyển lên bờ. Trên bờ, hàng loạt cần cẩu vươn cao, xe ủi san cát đá làm việc hết công suất.

Chỉ một đoạn ngắn gần chân cầu Bình Phước đã có gần 10 vựa vật liệu xây dựng lớn đang hoạt động. Xe cộ vào ra các bãi vật liệu xây dựng tấp nập, khoảng chừng 10 phút đã thấy sáu, bảy chuyến xe tải lớn chạy ra vào.

Cũng vì có nhiều xe tải chở đi lại cày phá nên không còn nhận ra đây là đường bờ đê. Mặt đường nhựa giờ đầy bùn đất, vết bánh xe tạo ra vệt sâu đầy những “ổ voi,” “ổ gà” lớn nhỏ.

Xe tải lớn chạy nhiều không chỉ gây hư đường, mà còn làm cả khu đất rộng lở xuống sông, làm ảnh hưởng đến khả năng ngăn triều. Trong khi mức triều ngày một cao, con đường đê cứ lún thấp dần.

Bà Bùi Thị Thu (46 tuổi, cư dân ở đây) cho biết: “Hôm nay trời mưa nhỏ, đường ít đọng nước tôi mới dám chở con đi học. Chứ lúc mưa lớn, những ‘ổ voi’ trên đường ngập nước, đầy bùn lầy, rất nguy hiểm. Nhiều người đi xe máy bị ngã, bùn đất lấm từ đầu đến chân.”

Thanh tra giao thông đã dùng nhiều biện pháp ngăn chặn xe tải lớn lưu thông trái phép trên đường đê này, nhưng vẫn không hiệu quả.

Cụ thể, nay tại chân cầu Bình Phước, đường dẫn vào đường đê có đặt biển báo cấm xe trên 5 tấn lưu thông, thế nhưng nhiều lái xe vẫn không chấp hành. Tài xế chỉ tuân thủ khi thấy có thanh tra giao thông cắm chốt, còn vắng bóng là vô tư vi phạm. Thậm chí, các chủ vựa vật liệu xây dựng tổ chức cảnh giới để lái xe né tránh lực lượng chức năng. Vì thế, rất khó bắt quả tang các xe chạy trên đường đê.

Ông Nguyễn Bật Hận, phó chánh Thanh Tra Giao Thông, Sở Giao Thông Vận Tải Sài Gòn, cho biết: “Xe tải lớn chở vật liệu xây dựng gây hư hỏng đường đê. Mặc dù thanh tra giao thông đã dùng nhiều biện pháp ngăn chặn nhưng lực lượng mỏng và thiếu nên lực bất tòng tâm. Chúng tôi đã từng đề nghị các cơ quan chức năng không gia hạn thời gian hoạt động của các bến bãi vật liệu ven sông, song đề nghị này đã bị các chủ bãi phản ứng quyết liệt.” (Tr.N)

Bắt Sơn, bắt Quỳnh mà không bắt Thăng thì coi như chỉ đánh “thủ túc”, tha kẻ chủ mưu

Bắt Sơn, bắt Quỳnh mà không bắt Thăng thì coi như chỉ đánh “thủ túc”, tha kẻ chủ mưu

 FB Huy Đức

10-9-2017

Ông Đinh La Thăng. Ảnh: internet

Khoản tiền 246 tỷ – “phần nổi của tảng băng” – mà Nguyễn Xuân Sơn cầm về đưa Ninh Văn Quỳnh có thể phần nào giải thích vì sao Đinh La Thăng lại cho phép góp 800 tỷ, tương đương 20% vốn điều lệ, vào OceanBank [Cho dù khoản tiền 100 tỷ sau cùng được góp khi Đinh la Thăng “vắng mặt kỹ thuật” hai ngày, 12-5-2011, thì lúc đó ông ta vẫn là Chủ tịch Hội đồng thành viên và kiểm soát mọi quyền lực ở PVN].

Bằng việc cho phép nắm giữ 20% vốn ở OceanBank, Thăng đã biến ngân hàng này trở thành “dịch vụ nội bộ” của PVN, các đơn vị thành viên đều phải mở tài khoản tại đây. Kể từ năm 2008, dòng tiền PVN đã đi qua đây trên 500 nghìn tỷ VND. Có thời điểm, số dư tiền gửi của PVN tại OceanBank lên tới 25.000 tỷ VND, riêng Dầu khí Việt – Nga có lúc gửi ở đây tới 100 triệu USD. Do OceanBank bị kiểm soát đặc biệt, cho đến bây giờ PVN vẫn còn bị kẹt ở đây gần 10.000 tỷ VND (bao gồm cả khoản tiền 70 triệu USD của Viet – Nga Petro).

Khoản tiền 246 tỷ VND đưa về Tập đoàn và hàng trăm tỷ đồng đưa trực tiếp cho các đơn vị thành viên của PVN này được chi dưới hình thức “chăm sóc khách hàng”. Lãnh đạo OceanBank và 35 cán bộ lãnh đạo chi nhánh khác đang hầu tòa với tội danh “cố ý làm trái”.

Các cơ quan tố tụng đã hơi vội khi định tội, khiến cho phạm vi chịu trách nhiệm tố tụng đã mở rộng tới 35 cán bộ lãnh đạo chi nhánh [“Cố ý làm trái” Thông tư số 02/2011/TT-NHNN, ngày 3-3-2011, chi vượt lãi suất trần: 14%], trong khi bản chất của vụ án này là lãnh đạo PVN tham ô, có sự tiếp tay của Hà Văn Thắm và Nguyễn Xuân Sơn.

Thông tư 02 đưa ra “lãi suất trần” và các hình thức xử lý vi phạm của nó cho thấy, giới hạn điều chỉnh của nó là hành chính, chỉ có 3 chế tài hành chính khi vi phạm Thông tư này: “Đình chỉ hoặc miễn nhiệm người điều hành 3 năm; Hạn chế mở rộng phạm vi, qui mô, địa bàn hoạt động 1 năm; Hạn chế hoặc tạm đình chỉ huy động, cho vay của đơn vị vi phạm thuộc tổ chức”.

Một người vi phạm một quy định hành chánh (có hình thức xử phạt), chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã bị xử lý hành chánh mà còn tái phạm. 35 cán bộ chi nhánh vi phạm Thông tư 02, chưa từng bị xử lý hành chánh theo các hình thức quy định tại Thông tư này mà đã bị truy tố là không đúng nguyên tắc tố tụng.

Luật Các Tổ Chức Tín Dụng (cả 2001 & 2010) đều cho phép “Tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất huy động”. Tuy nhiên, ở thời điểm vụ việc xảy ra, các tổ chức tín dụng còn phải tuân thủ Bộ Luật Dân Sự 2005 [Khoản 1, điều 476], quy định, lãi suất vay tiền “do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản”, tức là không quá 13,5%/năm (lãi suất cơ bản là 9%/năm theo Quyết định số 2868 ngày 29-11-2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Chiểu theo Bộ Luật Dân Sự thì Thông tư 02 cũng đã sai khi không điều chỉnh lãi suất cơ bản mà đưa lãi suất huy động lên 14%, cao hơn mức cho phép là 13,5%.

Tuy nhiên, mức lãi suất này đã không còn hiệu lực. Bộ luật Dân sự năm 2015, [Khoản 1, điều 468] vẫn công nhận nguyên tắc “thỏa thuận lãi suất”, nhưng đưa ra giới hạn “không được vượt quá 20%/năm”.

Như vậy, ngay cả khi bị “hình sự hóa”, 35 bị cáo là cán bộ chi nhánh của Oceanbank cũng cần được các cơ quan tố tụng áp dụng “nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội”[khoản 1 Điều 4 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2015]. Tuyên họ không phạm tội vì theo nguyên tắc này thì không nên truy cứu một hành vi vi phạm một quy định của pháp luật mà giờ đây không còn hiệu lực.

Có lẽ không cần phải nhắc lại bối cảnh rối loạn của thị trường tài chính, ngân hàng 2008 – 2012. Không chỉ có OceanBank, hầu hết các ngân hàng thương mại đều phải chi vượt trần một khoản gọi là “chăm sóc khách hàng” để giữ thanh khoản (điều lẽ ra ngân hàng nhà nước phải giúp họ). Các cơ quan tố tụng không thể chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự các quan chức Oceanbank mà không truy cứu các quan chức ở những ngân hàng khác có cùng hành vi này.

Nhưng, đưa những con người không hề gây nguy hiểm, đang có sự nghiệp vững vàng và đang đóng góp ấy vào vòng tố tụng thì chỉ có mất mát chứ không thêm lợi ích gì cho xã hội.

Bản chất của vụ án này là “tham ô” chứ không phải là “cố ý làm trái”. Những ai nhận phần chi ngoài sổ sách khoản lãi suất vượt trần này, nếu là tư nhân chỉ là nhận lại phần tiền của chính họ (trong bối cảnh lạm phát từ 18-22%/năm). Nhưng đối với khu vực quốc doanh, mà đối tượng chính ở đây là các quan chức tập đoàn Dầu khí thì tiền đấy là tiền của nhà nước, của nhân dân, OceanBank có thể chi nhưng nếu các quan chức PVN giữ lấy làm “đối ngoại” hoặc tiêu xài thì phải được gọi đúng tên là tham nhũng.

Chỉ vì xác định không chính xác tội danh, cơ quan điều tra đã mất rất nhiều thời gian với 35 cán bộ chi nhánh thay vì tập trung điều tra các quan tham ở PVN đặc biệt là Đinh La Thăng.

Nếu chỉ xử những người làm công ăn lương ở OceanBank mà không xử các quan chức PVN ăn chia tiền lãi suất ngoài sổ sách thì vụ án rất dễ bị đi lạc hướng.

Nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự Đinh La Thăng thì trong vụ PVN, coi như các cơ quan chống tham nhũng chỉ “lượm củi khô”, chỉ bắt đám thừa hành mà để lọt thủ phạm, để lọt kẻ cầm đầu; những đồng phạm như Sơn, như Quỳnh… ai hiểu nội tình Dầu Khí đều biết, họ không oan, nhưng ở một mức độ nào đó họ đều là nạn nhân của Thăng.

Nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng VN

Nữ tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng VN

Dưới thời phong kiến ở Việt Nam, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã không cho giới nữ được bình đẳng với nam giới, kể cả việc học hành, thi cử. Vậy mà có một người con gái tài sắc, đức độ, trí tuệ trác việt đã vượt qua luật lệ khắt khe đó, đạt tới học vị tiến sĩ. Bà là Nguyễn Thị Duệ, được người dân ca tụng là “Bà Chúa Sao”, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đỗ tiến sĩ trong thời đại phong kiến nước nhà. 

Nguyễn thị Duệ
Hiện chưa rõ gia thế của bà, nhưng tương truyền, bà Nguyễn Thị Duệ sinh năm 1574, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học tại làng Kiệt Đặc, nay thuộc xã Văn An, Chí Linh, Hải Dương.
Văn miếu Mao Điền Hải Dương- Nơi Nguyễn Thị Duệ được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam

Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận.
Năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nhà Mạc rút chạy lên Cao Bằng, Nguyễn Thị Duệ cũng theo gia đình lên đó sinh sống. Văn miếu Mao Điền Hải Dương- Nơi Nguyễn Thị Duệ được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam .

Trong buổi Ngự yến đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ tuổi, dáng mảnh mai, mặt mày thanh tú sinh lòng ngờ vực. Nhà vua liền xét hỏi và phát hiện bà giả trai. Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội còn được vua khen ngợi. Cảm phục tài năng, vua Mạc còn mời bà vào cung để dạy các phi tần rồi tuyển làm phi, phong là Tinh Phi có nghĩa là bà chúa Sao ngụ ý khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Người dân Hải Dương đến nay vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện về tài năng của bà Duệ. Năm 10 tuổi bà đã biết làm văn bài, được bà con trong làng vô cùng kính phục. Là một người hiếu học song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để đèn sách đi thi. Năm Giáp Ngọ (1594) nhà Mạc mở khoa thi Hội, sĩ tử tham dự rất đông, bà đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Vậy là, tròn 20 tuổi bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam.

Năm 1625, quân Lê – Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Bà vào rừng ẩn náu trong một ngôi chùa nhỏ, bị quân lính bắt được. Bà cầm thanh gươm trên tay khảng khái nói: “Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này ta sẽ tự tử”. Cảm phục khí tiết của bà, quân Trịnh bèn giải bà về kinh nộp cho chúa Nghị Vương. Nghe tiếng tăm của Nguyễn Thị Duệ, chúa Trịnh rất sủng ái, phong cho bà chức Cung Trung Giáo Tập, rồi Lễ Nghi Học Sĩ để trông coi việc dạy học trong vương phủ. Người dân tôn sùng gọi bà là Nghi ái Quan. 2 Công trạng để đời Nguyễn Thị Duệ không chỉ là nữ tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam mà bà còn có nhiều đóng góp cho nền giáo dục đương thời. Bà rất quan tâm đến việc thi cử, bồi dưỡng nhân tài cho quốc gia. Phần lớn các kỳ thi Đình, thi Hội, tất cả bài vở đều qua tay bà chấm chọn. Bà thường viện dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch. Các biểu sớ, văn bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại.

Hiện nay, dân gian vẫn còn lưu truyền giai thoại về bà. Năm Đức Long thứ 3 (vua Lê Thần Tông) bà làm Giám khảo kỳ thi Tiến sĩ (1631), được tổ chức tại làng Mao Điền, Hải Dương. Có rất nhiều sĩ tử dự thi, trong đó có Nguyễn Minh Triết (sau gọi là Nguyễn Thọ Xuân – PV) quê tại Hải Dương. Sau khi thi xong, quan giám khảo lọc ra các bài đỗ, trong đó có bài củaNguyễn Minh Triết. Điều kỳ lạ, bài thi gồm 12 câu mà trò Triết chỉ làm đúng 4 câu, nhưng 4 câu cực kỳ xuất sắc. Các quan không nỡ đánh trượt, bèn tâu lên vua, vua Lê bèn hỏi ý kiến bà Duệ. Sau khi đọc bài, bà thấy hay bèn tâu vua: “Bài văn làm được 4 câu mà hay còn hơn làm hết 12 câu mà không hay, triều đình cần người thực tài chứ không cần kẻ nịnh bợ”. Nhà vua cảm phục, bèn chấm cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ Khoa Tân Mùi. Nguyễn Thị Duệ được coi là người khởi đầu hình thức đào tạo từ xa của đất nước. Bà soạn ra các bộ đề thi rồi gửi về địa phương để tổ chức thi. Sau khi kết thúc, bài thi sẽ được gửi lên cho bà chấm, kết quả được gửi trở lại các địa phương. Bà cũng khuyến khích phong trào học tập, giúp đỡ học trò nghèo hiếu học, đề cao các nhân tài giúp nước. Đó là hình thức khuyến học đầu tiên của nước ta. Là một vị quan thanh liêm, Nguyễn Thị Duệ thương dân như con. Khi đất nước gặp thiên tai, địch họa, bà xin triều đình phát chẩn cứu đói, cấp nhiều mẫu ruộng tốt, canh tác lấy hoa lợi.

Người ta còn truyền tụng, thuở hàn vi, anh trai Nguyễn Thị Duệ bị người trong làng hãm hại. Mặc dù vậy khi vinh hiển, bà không hề để ý đến tư thù. Nhân dân rất cảm phục tài năng và đức độ, nên xưng tụng bà là “Nghiêu, Thuấn trong phái nữ, thần tiên ở trên đời”.

Một lần dự yến tiệc trong Hoàng cung, bà quen với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông). Từ đấy, hai bà trở thành đôi bạn tri kỷ. Hàng tháng, bà cùng hoàng hậu đi lễ chùa để gặp các nhà tu hành cũng là những người học nhiều, biết rộng, gặp gỡ các sĩ phu Bắc hà – những nhà chân nho thực tài như Thám hoa Giang Văn Minh, Thám hoa Phượng Thế Hiền… nên biết được tình hình trong nước và những bất bình trong dân,giúp vua kịp thời điều chỉnh chính sách an dân. Nguyễn Thị Duệ cũng khôn khéo khuyên họ bớt xa xỉ, trừng trị nghiêm bọn tham quan, cường hào nhằm thu phục lòng tin yêu của dân. Sinh thời, Nguyễn Thị Duệ viết nhiều văn thơ, nhưng trải qua những biến động của lịch sử nên bị thất lạc hết. Về già, bà xuất gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền. Nguyễn Thị Duệ sống hơn 80 tuổi mới qua đời.
Sau khi mất, bà được triều đình ban sắc phong, cho đúc tượng, dựng bảo tháp, khắc bia, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm Phúc thần. Tháp mộ Nguyễn Thị Duệ được đặt trên đỉnh một quả đồi cạnh núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương). Cuối triều Lê, Tinh Phi cổ tháp được xếp vào hàng Chí Linh bát cổ. Đình làng Kiệt Đoài có một pho tượng đẹp gọi là Vua Bà (tức Nguyễn Thị Duệ) và một sắc phong thờ phụng: “Chánh vương phủ, thị nội cung tần, lế sư Nguyễn Thị Ngọc tôn thần. Người có công giúp nước, che chở cho dân…”. Tại đền làng Trung Hà, xã Nam Tân, huyện Nam Sách cũng còn tượng “Bà chúa sao sa” và một sắc phong của triều đình để lại. Trong Hậu cung Văn miếu Mao Điền ở Hải Dương, bà được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, thần toán Vũ Hữu, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mạnh và danh y Tuệ Tĩnh.

S.T.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Bao Dung & Đều Giả

Bao Dung & Đều Giả

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

 

 

tuongnangtien

Khoan dung không chỉ là một phẩm hạnh của cá nhân, mà còn là một tính chất của cộng đồng và trách nhiệm của một quốc gia.

Lê Nguyễn Duy Hậu

Tạp Chí Luật Khoa mời gọi độc giả tham gia chủ đề “Thế Nào Là Một Quốc Gia Đáng Sống,” và đã nhận được nhiều bài viết thú vị.

  • Lê Quang Dũng: “Nơi quốc gia có đạo đức.”
  • Châu Tiểu Lan: “Nơi mọi nghề nghiệp đều có chỗ đứng đúng đắn trong xã hội.”
  • Đức Việt: “Nơi người dân có thể tự bảo vệ mình.”
  • Hân Bụi: “… nơi mà những người dân sống ở đó không ai muốn ra đi, từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình.”
  • Lê Nguyễn Duy Hậu: “Cần có nhiều yếu tố để một quốc gia trở nên đáng sống, nhưng yếu tố quan trọng nhất có lẽ là lòng khoan dung.”

Quan niệm thượng dẫn về “lòng khoan dung” khiến tôi nhớ đến một bài viết ngắn ngủi nhưng rất cảm động của tác giả Xuân Thọ về tình nghĩa thầy trò, và đức bao dung:

Tôi có rất nhiều thầy cô giáo cũ ở CHDC Đức (đều từ 70 đến 80 tuổi), đã về hưu từ ngày nước Đức thống nhất, nhưng vẫn có cuộc sống yên lành… Năm 2006 và năm 2011 tôi có mời một số anh chị em bạn học cũ từ Việt Nam sang Đức chơi, (có thể có người đang đọc bài này). Cả hai lần chúng tôi đều kéo nhau về trường cũ, bỏ tiền ra làm một bữa liên hoan, có cả âm nhạc Việt Nam, mời toàn bộ các thầy cô đến dự. Họ rất mừng và nói:“Các học sinh Đức cũ không ai nhớ đến chúng tôi, nhưng người Việt các anh chị quả là rất ơn nghĩa, 40 năm rồi vẫn nhớ đến chúng tôi”.

Nhờ chúng tôi tổ chức họp mặt họ mới có dịp gặp nhau, vì trường cũ đã giải tán và nội bộ của họ có nhiều vấn đề: mất đoàn kết, thù hận nhau, do chính quá khứ của đảng SED để lại, nên họ không bao giờ chủ động gặp nhau.

Trong số phận của các thầy cô, tôi chỉ xin kể 2 sự việc:

1- Bà Magdalena M. vốn là một bà giáo rất đẹp gái, tóc bạch kim, cao ráo, dáng rất sang, dạy kỹ thuật truyền tin. Sau 40 năm gặp lại bà vẫn như vậy và lái xe BMW mui trần đến dự liên hoan. Trước kia tôi không quan tâm đến cuộc sống của bà, nay thấy bà nổi bật lên giữa các vị giáo già nua thanh đạm. Bà bảo: Lương hưu giáo viên của bà thì tạm đủ, nhưng ông chồng bà là đại tá không quân Quân đội Nhân dân Quốc Gia CHDC Đức. Sau khi thống nhất ông được lương hưu tương đương như ông quan năm Tây Đức nên khá lắm! Bà buồn là ông mới mất và nay bà chỉ còn sống bằng lương hưu của bà và 1 phần lương hưu bà góa của ông (Witwenrente).

Bà M. than phiền với tôi là: So với ông đại tá ở phía Tây Đức thì cái tỷ lệ lương hưu để lại cho bà góa có ít hơn.

Tôi không biết điều bà M. nói đúng hay sai, nhưng tôi an ủi bà: Ngày trước ông nhà chỉ lo mỗi việc là tiêu diệt người ta, sau này người ta trả lương hưu hậu như vậy, lúc ổng qua đời, bà còn được lương bà góa của ông nhà thì chắc là sự bất công không bằng đồng bào tôi ở Sài Gòn đã chịu, họ không những không có lương hưu mà còn phải đi cải tạo, có người chết mất cả xác.

Bà M. không phản đối điều tôi nói và trầm ngâm hẳn. Từ đó đến nay, bà vẫn hay gửi email trao đổi chuyện chính trị với tôi.

2- Ông bà Joseph và Gundela GL. là hai người tôi coi như bố mẹ nuôi. Bọn con trai, mấy thằng Erwin, Peter, Michael vẫn chơi bóng đá với đám thanh niên Việt Nam chúng tôi, con bé Martina suốt ngày quấn quít với các bạn gái Việt. Suốt mấy chục năm xa cách tôi vẫn thư từ cho bà. Đùng một cái, từ năm 1990, sau thống nhất đất nước Đức, tôi mất liên lạc với bà. Tôi dò hỏi các thầy cô cũ thì biết cả hai ông bà từng là mật vụ chìm cho STASI (An Ninh CHDC Đức) nên khi chế độ sụp đổ, mọi việc vỡ lở, ông bà xấu hổ quá, đưa cả gia đình đi xa.

Từ khi sang Đức, tôi đã cất công tìm tung tích của ông bà, vì tôi vẫn nhớ đến tình cảm của họ đối với đám thanh niên Việt chúng tôi khi xưa. Là người Việt Nam, tôi thừa hiểu cái bi kịch “cá chìm” mà hàng triệu người Đông Đức hồi đó phải gánh chịu, dù là nạn nhân hay là thủ phạm. Đối với tôi tình cảm con người là trên hết.

Nhờ có Internet và hệ thống sổ điện thoại điện tử, tôi đã tìm được gia đình ông bà GL. Ông bà có một căn nhà nhỏ trên đảo Usedom, nằm trên biển Baltic, gần Ba-lan. Ông bà rút vào cuộc sống ẩn dật để tránh mọi quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp cũ. Câu con cả Erwin làm giám đốc trung tâm điều dưỡng trên đảo và vẫn chăm nom ông bà. Ông bà cảm động lắm và nói là họ đã mất hết bạn bè người Đức, nhưng may mà tôi đã đến với họ.

Điều làm ông bà ân hận nhất là cái “sổ hưu”. Vì là nhân viên mật vụ STASI nên ông bà có quyền cao chức trọng hơn các đồng nghiệp khác trong trường, mặc dù họ có trình độ hơn ông bà. Nhờ vậy ngày nay ông bà lĩnh lương hưu cao hơn họ, những nạn nhân của ông bà.

Xuân Thọ (20.12.2012 Cologne)

Đông và Tây Đức thống nhất năm 1990. Mối liên hệ tình cảm cá nhân của dân chúng hai miền đất nước (có thể) vẫn còn năm điều/ba chuyện bất bình hay “lấn cấn” nhưng ở khía cạnh luật pháp, và trên bình diện quốc gia thì mọi người đều bình đẳng – bất kể họ thuộc bên nào.

Việt Nam thì không thế. Tuy “Nam/Bắc hoà lời ca” sớm hơn nước Đức đến mười lăm năm nhưng chính cách xuyên suốt của chính phủ hiện hành vẫn hoàn toàn nhất quán trong việc phân biệt đối xử giữa kẻ thắng và người thua.

The winner takes all. Kẻ thua thì thua trắng và mất hết, kể cả cái tên gọi như Sài Gòn hay Chính Quyền Miền Nam. Hơn bốn mươi năm sau, dư luận mới thoáng chút “râm ran” khi nghe những nhà sử học của bên thắng cuộc “thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền” cho bên thua cuộc – theo tường trình của phóng viên Lan Hương (RFA) vào hôm 21 tháng 8 năm 2017:

Chúng tôi cũng có dịp trao đổi với PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện sử học, hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ sách Lịch sử Việt Nam này. PGS.TS Trần Đức Cường cho chúng tôi biết lý do các nhà sử học thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa:

“Bản chất chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả. Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả”.

“Thứ hai, quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây.”

“Nhưng về cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn.”

Liên quan đến sự kiện này, bản tin (hôm 28 tháng 8 năm 2017) của trang Tiếng Dân có đoạn như sau:

Bộ sách Lịch Sử Việt Nam: Vũ Như Cẩn!

Bài trên báo Tiền Phong: Bộ sách ‘Lịch sử Việt Nam’ có gì ồn ào? Nhà sử học Dương Trung Quốc, cho biết: “Chỉ là cuốn sách của Viện Sử thôi, có gì mà ồn ào, giời ạ!” Nhưng ông cũng nói về bộ sách mới tái bản: “Có gì mới đâu”.

Nhà nghiên cứu Dương Quốc Đông, Viện Sử học, cho biết, đây là bộ sử tái bản, không có gì mới.

GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, xác nhận:“Bộ sử được viết lâu rồi. Nhiều người chưa đọc tưởng cuốn này trình bày kỹ lắm, không có gì đâu, thoáng tí thôi. Do cách diễn đạt khi họp báo thôi…”.

 Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết, bộ sử này có tiếng vang là do thủ thuật tuyên truyền.

Trức đó hai ngày trang Dân Luận  có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngà, với tựa là “Về bộ sách lịch sử Việt Nam: Vẫn là sử đểu!” Sử đểu cũng như sự bao dung đểu cáng (hay đều giả) chả lừa gạt được ai, đã đành; nó còn đẩy xa thêm tiến trình hoà giải của cả một dân tộc mà nhân tâm vốn đã ly tán từ lâu!

TRẠI TÙ CẢI TẠO (2)

From facebơk: Thang Chu shared Thanh Nguyen‘s post.
Côn đồ lãnh đạo Lạc Hồng 

Cháu con lãnh đạn, cha ông lãnh tù.

 
Image may contain: one or more people
Image may contain: text

Thanh Nguyen added 2 new photos.

 

TRẠI TÙ CẢI TẠO (2) 
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..

Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:
“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu”.

Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.

Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:
“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”

Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:
“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.

Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.

Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.

Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.

Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.

Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì không…. 

 

Lều báo bắt đầu ” đánh” NS hài Hồng Vân!

From facebook : Tran Dat shared Khanh Lam Nguyen‘s post.
 
 
Image may contain: 4 people, people smiling, text
Image may contain: 5 people, people smiling, text
Khanh Lam Nguyen added 2 new photos.Follow

 

Lều báo bắt đầu ” đánh” NS hài Hồng Vân!

Vì stt cô HV chia sẻ trên fb khen ngợi đất nước Nhật Bản, cô viết : … Nhật Bản quá văn minh, quá sạch sẽ, quá văn hóa. Người dân Nhật Bản được hưởng chế độ an sinh tuyệt vời nhất… Chỉ thương người dân VN mình được hưởng toàn những điều giả dối… mà khủng khiếp nhất là thuốc chữa bệnh giả…”

Chúc mừng NS Hồng Vân lại sắp sửa được dán nhãn mác ” phản động” như GS Ngô Bảo Châu. Mà đơn giản là họ chỉ nói ra sự thật!

http://canhbaovn.com/…/nghe-sy-nhan-dan-hong-van-vo-on-bac…/

Khanh Nguyen

Bác sĩ ở Bạc Liêu thiếu chuyên môn, bệnh nhân bị cưa chân

 Bác sĩ ở Bạc Liêu thiếu chuyên môn, bệnh nhân bị cưa chân

Từ việc phỏng xe máy, ông Lý Thanh Trường phải bị cưa cụt chân trái do bác sĩ thiếu chuyên môn. (Hình: Báo Thanh Niên)

BẠC LIÊU, Việt Nam (NV) – Một ông ở xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, ban đầu chỉ bị phỏng xe máy ở bàn chân, nhưng do bác sĩ thiếu chuyên môn điều trị không đúng dẫn đến việc phải cắt bỏ 1/3 đùi.

Theo báo Thanh Niên, bà Nguyễn Thị Loan (39 tuổi, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, Bạc Liêu) cho biết: “Gia đình đã gửi đơn đến Sở Y Tế tỉnh Bạc Liêu yêu cầu xác minh, làm rõ và xử lý nghiêm việc một số y, bác sĩ bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai tắc trách, không cho bệnh nhân chuyển viện, khiến chồng tôi từ việc chỉ phỏng ở bàn chân nhưng phải cưa cụt một chân; đồng thời đề nghị bệnh viện này bồi thường thiệt hại do mất sức lao động với số tiền trên 1 tỷ đồng (khoảng $44,000).”

Bà cho hay, ông Lý Thanh Trường (44 tuổi), chồng bà, là lao động chính trong gia đình. Ông Trường hành nghề lái xe tải thuê và buôn bán nhỏ, thu nhập mỗi tháng khoảng 12 triệu đồng (khoảng $528). Nay nạn nhân bị cưa cụt chân thì hoàn toàn không thể lái xe tải được nữa.

Bà kể, ngày 25 Tháng Năm, trong lúc lái xe máy, ông Trường vô ý để bàn chân chạm vào lốc máy phỏng lòng bàn chân và được đưa đến bệnh viện đa khoa thị xã Giá Rai điều trị.

Trong lúc thăm khám, bà Loan cho biết, chồng mình bị mắc bệnh tiểu đường lâu năm nhưng bác sĩ không lưu ý. Sau khi thăm khám, bác sĩ ở đây nói vết thương chỉ bị phỏng nhẹ, ra toa cho thuốc uống 10 ngày rồi về nhà. Tuy nhiên, sau năm ngày uống thuốc theo toa, vết thương của ông Trường không giảm mà còn sưng phù, gia đình tiếp tục đưa đến bệnh viện tái khám và nhập viện điều trị.

Sau bảy ngày điều trị tại bệnh viện, tình trạng vết thương của ông Trường không giảm mà ngày càng sưng to hơn, đau đớn và gây sốt liên tục. Gia đình xin chuyển viện nhưng bác sĩ điều trị không cho và nói sẽ đổi thuốc.

Đến ngày thứ chín, tình trạng vết thương càng nghiêm trọng, gia đình tiếp tục xin chuyển viện và lần này bác sĩ trực lại từ chối. Khi gia đình ông Trường kiên quyết yêu cầu phải chuyển viện thì bệnh viện buộc gia đình làm cam kết “xin chuyển viện theo yêu cầu.”

Ngày 9 Tháng Sáu, ông Trường được đưa đến bệnh viện đa khoa tỉnh Bạc Liêu. Tại đây, bác sĩ phát giác chân trái bệnh nhân bị hoại tử nên gia đình xin chuyển lên bệnh viện Trung Ương Cần Thơ. Trong thời gian điều trị hơn một tháng, ông Trường phải qua hai lần phẫu thuật, cắt bỏ 1/3 đùi chân trái do vết thương nhiễm trùng quá nặng không thể cứu chữa.

Ông Trần Hồng Dũng, phó giám đốc bệnh viện Giá Rai, cho biết sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu của gia đình ông Trường, bệnh viện đã thành lập đoàn thanh tra và hội đồng chuyên môn phân tích bệnh án, kiểm tra quá trình tiếp nhận, điều trị chăm sóc.

“Bệnh viện mời gia đình nạn nhân đến đối thoại, thừa nhận thời gian chuyển viện có trễ, bác sĩ thiếu kinh nghiệm trong chẩn đoán, tiên lượng bệnh chuyển nặng đối với bệnh nhân bị tiểu đường lâu năm. Do đó, bệnh viện chấp nhận hỗ trợ một phần chi phí tiền thuốc, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chi phí lắp đặt chân giả nhưng gia đình ông Trường không đồng ý,” ông nói.

Chiều 7 Tháng Chín, ông Nguyễn Minh Tùng, phó giám đốc Sở Y Tế tỉnh Bạc Liêu, cho biết: “Sở đã nhận được đơn yêu cầu của gia đình ông Trường và đã thành lập đoàn kiểm tra, xác minh, khi có kết luận chính thức sẽ thông tin cho báo chí.” (Tr.N)

Gia đình Nguyễn Mai Trung Tuấn không chốn nương thân sau khi ra tù


Nguyễn Mai Trung Tuấn phản đối việc bắt giữ cha mẹ

Nguyễn Mai Trung Tuấn phản đối việc bắt giữ cha mẹ

“Gia đình tôi gồm có tôi là Mai Thị Kim Hương, chồng tôi là Nguyễn Trung Can và còn con là Nguyễn Mai Trung Tuấn đã về địa phương rồi nhưng không còn nơi ăn chốn ở. Chúng tôi lang thang và chưa có được một bữa cơm gia đình. Lý do là không còn nhà cửa, không chén, không bát, tất cả mọi thứ, không tiền, không quần áo. Chỉ có một bộ đồ dính da.”

Bà Hương nói bà kịch liệt phản đối việc lao động cưỡng bức trong trại tù. Bà cho biết các tù nhân trong trại bị buộc phải làm việc đến 10 giờ mỗi ngày:

“Mai Quốc Phong, Mai Quốc Đạt, Nguyễn Trung Tài, Nguyễn Trung Can, Phùng Thị Ly, và bé Nguyễn Mai Trung Tuấn, ai cũng phải đi làm. Chị Phùng Thị Ly làm một ngày 10 tiếng. Anh Nguyễn Trung Tài sáng đi làm từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều, chiều về không có nước để tắm. Họ đan lục bình, đan giỏ tre. Bé Tuấn đi quét, khuân đá cho người ta xây nhà. Chế độ tù cộng sản là bắt đày đi làm, không bao giờ họ để yên cho mình.”

Về việc các phạm nhân được tha tù sớm nếu lao động tốt, bà Trần Ngọc Anh, người từng bị tù giam vì lên tiếng bảo vệ người dân bị cưỡng chế tịch thu đất đai, đại diện cho Phong Trào Liên đới Dân oan chia sẻ với VOA:

“Thật sự không phải chính sách đảng và nước khoan hồng đâu. Tù nhân vào đó phải lao động, làm đúng chỉ tiêu thì mới được giảm án. Buộc phạm nhân lao động như vậy là vô lương tâm.”

Vào tháng 11/2015, Nguyễn Mai Trung Tuấn, khi ấy 15 tuổi, bị một tòa án ở Long An tuyên phạt 54 tháng tù giam vì tội “Cố ý gây thương tích” theo Khoản 3 Điều 104 Bộ Luật Hình sự. Phiên toà phúc thẩm vào tháng 2/2016 sau đó đã kết án Tuấn 30 tháng tù giam.

Vào tháng 9/2015, tòa án huyện Thạnh Hóa, Long An đã xét xử sơ thẩm về tội chống người thi hành công vụ đối với 12 bị cáo, trong đó có cha mẹ em Tuấn. Khi ấy, bà Mai Thị Kim Hương bị tuyên án 3 năm 6 tháng tù giam, và ông Nguyễn Trung Can chịu án 3 năm tù.

Vụ án của Tuấn gây nhiều chú ý vì là một thiếu niên “dân oan” lần đầu tiên bị xét xử ở Việt Nam.

Tuấn bị bắt ngày 6/8/2015 sau khi công an tỉnh Long An ra lệnh truy nã.

Ngày 31/8/2017, Nguyễn Mai Trung Tuấn đã ra tù trước thời hạn 6 tháng với tình trạng sức khoẻ giảm sút. Gia đình cho biết Tuấn luôn khó thở và bị bệnh hen suyễn.

“Họ bắt bé Nguyễn Mai Trung Tuấn. Họ còng chân, còng tay [cháu], bỏ đói bỏ khát, 2 ngày 2 đêm không cho ăn uống. Ra tù Trung Tuấn bị bệnh suyễn và tim, xỉu và đi cấp cứu, truyền nước biển.”

Bà Hương phản đối việc chính quyền cưỡng chế tịch thu nhà của bà và bắt giam nhiều thành viên trong gia đình:

“Tôi không chấp nhận bản án oai sai đó. Bản án đó là sự hèn hạ, thối nát của đảng cộng sản. Một công dân chỉ có một mảnh đất 4 mét chiều ngang, 29 mét chiều dài mà họ một lực lượng hơn 300 người đến chiếm đoạt. Chẳng những vậy, họ còn tống hết vào tù, từ vợ đến chồng, đến anh chị em, và không tha cho đứa bé tuổi vị thành niên, cướp đi quyền làm người của một đứa trẻ. Tôi không chấp nhận bản án đó.”

Vụ việc xảy ra ngày 14/4/2015 khi 3 hộ dân địa phương nổi lửa, tạt acid, và cho nổ bình hàn gió đá để phản đối hành vi mà họ cho là chính quyền tỉnh Long An ‘cướp đất’ khi họ tiến hành cưỡng chế tịch thu căn nhà tạm của gia đình ông Can và bà Hương trên mảnh đất mà họ đã sinh sống mấy chục năm trước đó.

Khi ấy truyền thông Việt Nam nói đoàn công tác của chính quyền địa phương vận động cưỡng chế giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án đê bao chống lũ trong địa bàn thị trấn Thạnh Hóa.

Báo nhà nước dẫn lời Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện, Nguyễn Văn Tạo, nói 106 trong số 109 hộ dân bị ảnh hưởng từ dự án này đã đồng ý giao mặt bằng cho nhà nước. Hai trong Ba gia đình không chấp nhận mức đền bù là anh em ông Nguyễn Trung Can và ông Nguyễn Trung Tài.

Bà Ngọc Anh nói rằng những “gia đình này là dân oan – họ đấu tranh giành quyền lợi chính đáng của họ nhưng chính quyền không đáp ứng.”

Bà Ngọc Anh cho biết những người khác bị bắt trong vụ cưỡng chế này là bà Phùng Thị Ly, ông Nguyễn Trung Tài, ông Nguyễn Trung Linh, ông Mai Văn Đạt, ông Mai Văn Phong, ông Phùng Văn Leo. Riêng ông Nguyễn Trung Linh vẫn còn bị giam tù.