Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành

2017-09-22
 

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

Bìa quyển tiểu thuyết Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh.

 Ảnh chụp màn hình.
 

Tác phẩm Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh bị cấm phát hành. Đây được cho là tác phẩm văn học đầu tiên viết về người dân bị lấy đất một cách phi pháp tại Việt Nam lâu nay.

Công văn do ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục xuất bản in và phát hành, thuộc Bộ Thông tin và truyền thông, ký vào trung tuần tháng 9  gửi đến Nhà xuất bản Hội nhà văn yêu cầu đình chỉ việc phát hành quyển sách vừa nêu.

Theo trình bày của ông Chu Văn Hòa thì tác phẩm Mối Chúa đã mô tả xã hội và hệ thống cầm quyền từ thấp đến cao như là một hệ thống đen tối, tham lam và tàn nhẫn, trong đó nêu lên chuyện cưỡng chế đất đai của nông dân như là một lực lượng thù địch.

Theo trang Facebook của Luật sư Trần Vũ Hải, quyển sách Mối Chúa của nhà văn Tạ Duy Anh, với bút danh Đãng Khấu đã được Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam phối hợp với Công ty văn hóa Nhã Nam xuất bản, nhưng nay bị dừng phát hành.

Một số cư dân mạng cho rằng họ đang tìm cách để đọc được tác phẩm bị cấm phát hành như vừa nêu.

Chiến tranh Việt Nam. Đại lộ kinh hoàng.

From facebook:  Hung Tran

Chiến tranh Việt Nam.

Đại lộ kinh hoàng.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh: nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.

Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Ðà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Ðến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng một đứa cháu, dẫn vợ có bầu với ba đứa con nhỏ, năm một, 6, 7, và 8 tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước một đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo một chiếc xe gỗ hai bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy, chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Ða số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Ðạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng một ngày pháo kích. Ðủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được một lúc. Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.

Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Ðêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Ðại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ.

Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi . Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại một cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Ði đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Ðó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị.

Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ mang bầu đã dẫn ba đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Ðoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt một ngày một đêm về đến Mỹ Chánh, rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm ba ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và đã có gia đình, hiện cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Giao Chỉ

CHA ĐẺ CỦA “ĐẠI LỘ KINH HOÀNG”

CHA ĐẺ CỦA “ĐẠI LỘ KINH HOÀNG”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đài tưởng niệm 1.841 nạn nhân chết trên ĐLKH do báo Sóng Thần xây dựng năm 1972

Khoảng thời gian sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực (ngày 27/01/1973) đến ngày thành phố Huế thất thủ (26/03/1975), hành khách từ Huế đi ra Bắc, khi vừa qua khỏi cầu Bến Đá ở vị trí cách Hà Nội 784 km, bên tay trái Quốc Lộ 1 thấy tấm bảng lớn độ 2 mét x 5 mét, sơn màu vàng, kẻ bốn chữ “Đại Lộ Kinh Hoàng” đỏ tươi màu máu.

Bên dưới góc phải có thêm 5 chữ nhỏ hơn, màu đen: “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”. Chắc chắn lúc bấy giờ, ngồi tại dinh Độc Lập trên cao ngất trời xanh – trong tình hình vi phạm ngưng bắn xảy ra khắp nơi, với việc Mỹ cuốn cờ, với các mặt trận ở Thường Đức (Quảng Nam), ở Phước Long, quân viện bị cắt, xăng không đủ cho máy bay yểm trợ phi pháo, đạn không có cho binh sĩ hành quân có hiệu quả – tổng thống Thiệu chẳng còn lòng dạ nào để đặt tên cho một đoạn quốc lộ 1, không quá 10 cây số, nằm lọt giữa con sông Bến Đá và sông Nhung bé tí trên bản đồ như thế, mà chỉ là tác phẩm của công chức phục vụ ở Ty Thông tin & Chiêu hồi tỉnh Quảng Trị, cố lấy chữ nhét vào miệng tổng thống. Dứt khoát, Nguyễn Văn Thiệu không là kẻ nặn từ đầu ra cái tên không mấy an lành và thanh tao ấy.

Sau khi đánh được thành, phá được địch và chiếm được đất, mặc dù chưa thắng được lòng dân, nhưng vào năm 1999, Bộ Quốc phòng cộng sản đã xuất bản cuốn “55 năm Quân đội Nhân dân Việt Nam” trong đó, ở phần đề cập đến chiến dịch tiến công Trị Thiên vào thời điểm Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị từ 30/03 đến 27/06/1972, Viện Lịch sử Quân sự chỉ viết ngắn gọn ở trang 324, với 219 chữ:

Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo. Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (366, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.

Từ 30/03 đến 5/04, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9. Từ 10/04 đến 2/05, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.Từ 3/05 đến 27/06, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.

Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên dịch, phá hủy 636 xe tăng thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền (Thừa Thiên).”

Cầu sắt Bến Đá, nơi NgyThanh bò qua sáng 1-7-1972 và phát hiện gần 2 ngàn xác người

Quay lại khúc phim hãi hùng

Tác phẩm mới nhất có đề cập tới 4 từ “Đại Lộ Kinh Hoàng”, là cuốn “Phóng viên Chiến trường” của hai tác giả Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương vừa trình làng lần đầu hôm 15/05/2016 tại Houston. Là một phóng viên chiến trường vào sinh ra tử, kinh nghiệm trận mạc, Dương Phục là một trong ba sĩ quan Quân lực VNCH (cùng với thiếu tá Đinh Công Chất và thiếu tá Phạm Huấn), được vinh dự đại diện cho chính phủ và nhân dân miền Nam bay trên chiếc C-130 ra Hà Nội vào đầu năm 1973, trong tư cách là Ủy ban Liên hợp Quân sự 4 bên [Four-Party Joint Military Commission; ghi chú của NgyThanh], để giám sát thủ tục trao trả tù binh Hoa Kỳ từ phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong hồi ký của mình, ở phần nhắc lại “Đại lộ Kinh hoàng”, ký giả Dương Phục viết:

Cuộc di tản hàng chục ngàn người tạo nên một đoàn rồng rắn suốt đoạn đường dài trên Quốc Lộ 1, và không ngờ đã biến họ thành mục tiêu dễ nhắm của bom đạn Việt Cộng.

Không điều gì gây phản tác dụng cho một chiến thắng hơn là cảnh dân chúng lũ lượt quang gánh, bồng bế nhau liều chết chạy trốn đoàn quân chiến thắng. Cộng sản điên cuồng trước chuyện dân chúng bỏ đi nên không ngần ngại làm bất cứ gì để ngăn cản. Với thói quen chỉ biết dùng bạo lực như phương cách duy nhất để áp chế người dân, họ đã dùng đạn pháo như mưa sa để đe dọa, hy vọng níu kéo người dân Quảng Trị ở lại…

… Hành động bỏ phiếu bằng chân đó đã như cái tát vào mặt đoàn quân Cộng sản ở bất cứ cửa ngõ thành phố nào họ đặt chân tới. Cộng quân do đó đã không ngần ngại xả đạn pháo kích thẳng vào đoàn người di tản, từ đoạn Cầu Dài, Diên Sanh, kéo dài đến tận gần cầu Mỹ Chánh. Quân nhân chỉ là thiếu số hướng dẫn đoàn di tản, còn lại đa số là người dân thường, ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ em và thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện.

… Khi Thủy và tôi đến được khu vực này, xác người đã nằm phơi sương dải nắng gần hai tháng trời. Mùi tử khí vẫn nồng nặc trong cơn gió nóng hổi của vùng đất khô cằn như sa mạc. Chúng tôi ngỡ ngàng không hiểu tại sao quá đông người có thể chết gục cùng một lúc khắp nơi như thế. Quan sát kỹ, tôi nhận ra đa số thi thể nạn nhân đều bị hàng ngàn mảnh vụn li ti như đinh vụn từ đầu đạn pháo của Cộng quân. Một viên đạn pháo kích bắn ra, những mẩu đinh vụn sắt lẻm nầy tung bay mọi phía với tốc độ tàn khốc và xuyên thủng cả những thành xe bằng sắt của đoàn quân xa miền Nam. Loại vũ khí nầy đã hạ gục ngay lập tức mọi người, chết sững trong cùng động tác mà họ đang hành xử đúng lúc đạn pháo bay tới.

Chưa bao giờ trong đời chúng tôi thấy nhiều người cùng chết một nơi như vậy… Trái tim tôi quặn thắt trong lòng và Thủy vội làm dấu thánh giá rồi quay mặt sang một bên nôn ọe. Gần chỗ tôi đứng là thi thể một người mẹ tay ôm chặt đứa con trong lòng, đứa nhỏ vẫn đang ngậm bầu vú mẹ. Cả hai mẹ con nằm bất động bên bờ đường quốc lộ như hai hình nộm xám đen của một sân khấu quái đản.

Nếu không tận mắt chứng kiến, khó ai có thể tưởng tượng được quang cảnh kinh khủng như thế nào. Xác người nằm vất vưởng khắp nơi. Đồ đạc và quần áo tung tóe phủ kín mặt đường. Xe hơi, gắn máy, xe đạp, kể cả xe đò, nằm ngổn ngang, lăn lóc. Gồng gánh, bao túi, tan nát tung tóe phơi bày hết mọi thứ bên trong. Tất cả mọi xe cộ, từ quân xa, xe jeep, xe hồng thập tự, đến xe đò, xe tư nhân, đều lởm chởm vết đạn xuyên lủng khắp trên các thành xe.

Có những đoạn không còn một chỗ nào trống cho nhóm báo chí chúng tôi đặt chân bước qua. Thủy, vừa gạt nước mắt ứa ra trên má, vừa thận trọng lò mò dò từng bước chân trên mỗi khúc đường. Chúng tôi phải tìm những cành cây làm gậy chống và nhẹ gạt các mảnh quần áo còng queo sang một bên, để biết chắc là mình đã không dẵm lên các xác người khô khốc sau cả tháng phơi bày sương gió.

Đa số xác người đã rữa nát thịt vì nắng mưa, chỉ còn da bọc lấy xương khô lép kẹp đen sậm như những hình nộm ma quái trong các loại phim kinh dị. Sâu bọ và côn trùng bay túa ra khi gậy của chúng tôi lia trúng những xác người ngổn ngang trên đường đi. Có cả một chiếc xe buýt bị pháo bắn nát đầy lỗ đạn li ti khắp thành xe. Mọi hành khách dường như đều tử thương tức khắc vì mọi người vẫn ngồi gục trong từng vị trí trên băng ghế.

Đại Lộ Kinh Hoàng, do NgyThanh chụp và đặt tên ngày 1-07-1972

 Trách nhiệm của các tướng quân VNCH về cuộc thảm sát trên Đại Lộ Kinh Hoàng

Trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975, do sự tan rã của Sư đoàn 3 Bộ Binh, dẫn đến biến cố mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị vào ngày đầu tháng 5/1972, dư luận và báo chí Sàigòn có khuynh hướng về hùa nhau, chê trách tài lãnh đạo của tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn xấu số nầy, và trút hết trách nhiệm, kể cả về nhiều ngàn thường dân bị giết trên đường tản cư, cho ông ấy.

Những ngày sau khi mất Quảng Trị, toàn dân rúng động, dân chúng Huế cũng nhanh chân ùa vào Đà Nẵng, Sàigòn, kéo theo tâm lý sa sút, và tinh thần chiến đấu bị khủng hoảng nơi thân nhân họ. Vào thời điểm ấy, việc cứu vãn các tỉnh miền trung không thể tựa vào các sư đoàn trừ bị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC hay các liên đoàn Biệt Động Quân – vì thực sự các quân số nầy đang vướng tay ở các chiến trường khác trên khắp nước. Tổng tư lệnh quân đội VNCH chỉ còn một thế cờ chót trước khi đầu hàng: một tên tuổi đủ tài thao lược và sạch sẽ để dùng làm liều thuốc cuối cùng. Thật may, ông đã tìm ra, và đã quyết định kịp thời. Ngày 4/05/1972, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh Quân đoàn 4 ở miền đồng bằng sông Cửu Long nhận lệnh bay ra Đà Nẵng nhận chức tư lệnh Quân đoàn 1, thay tướng Hoàng Xuân Lãm.

Tướng Trưởng là người thanh liêm, ít nói, dám làm. Bằng chứng là ông đã cứu nguy được tình hình, và còn chỉ huy tái chiếm được cổ thành Đinh Công Tráng, và tất cả lãnh thổ tỉnh Quảng Trị nằm ở phía Nam sông Thạch Hãn, rồi lầm lì im lặng. Mãi đến sau khi di tản sang Mỹ, vào thời gian được ban quân sử Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ mời, năm 1980 ông mới viết quyển “The Easter Offensive of 1972”, sau đó được Kiều Công Cự chuyển ngữ thành “Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972” ấn hành vào năm 2007, sau khi ông Trưởng đã qua đời.

Chính tướng Trưởng lên tiếng bạch hóa vai trò của tướng Giai trong các diễn tiến mất Quảng Trị, dẫn đến dân chết thảm trên Đại lộ Kinh Hoàng (ĐLKH). Trong cuốn sách kể trên, tác giả viết:

“… Tướng Lãm đã không quan tâm đến những khó khăn mà tướng Giai gặp phải. Thái độ của ông hoàn toàn lạc quan… Thái độ lạc quan của tướng Lãm lại được thể hiện rõ nét qua biến cố ngày 9/04… Ở thời điểm nầy, trách nhiệm và quyền hạn của tướng Giai đã vượt xa hơn vị trí của một vị tư lệnh sư đoàn. Ông đã chỉ huy 2 trung đoàn BB Cơ hữu (TrĐ 2 và 57), điều động hành quân 2 LĐ/TQLC, 3 LĐ/BĐQ, 1 LĐ/Kỵ binh và những lực lượng diện địa của tỉnh Q. Trị. Như vậy ông ta có đủ quyền hạn trên 9 LĐ bao gồm khoảng 23 tiểu đoàn và những lực lượng diện địa… Nhưng có một điều cần lưu ý ở đây là tướng Lãm không tự cảm thấy vội vàng đến thăm viếng những vị chỉ huy dưới quyền của ông ở tại mặt trận hay những đơn vị tuyến đầu của QĐ1. Ông chỉ nghe thuyết trình về những diễn biến của trận đánh qua các bản báo cáo và ban hành những chỉ thị, những huấn lịnh cho ban tham mưu của ông. Tự bản thân ông không bao giờ đi thị sát tuyến phòng thủ của SĐ3 để hiểu rõ những trở ngại mà các đơn vị trưởng phải đối mặt…

… Căn cứ Ái Tử, phía bắc sông Thạch Hãn, là một chọn lựa không thích hợp về mặt chiến thuật. Trong suốt tháng Tư, đây là điểm mà pháo địch gửi đến hàng ngày đêm với một mức độ dữ dội. Cho nên Tư lệnh SĐ3 đã quyết định dời bộ tham mưu về phía nam của con sông Thạch Hãn, trong cổ thành Quảng Trị. Ông ta chỉ hỏi ý kiến của vị cố vấn sư đoàn. Tướng Giai sợ rằng những cấp chỉ huy dưới quyền của ông biết được kế hoạch nầy, họ sẽ tìm cách phá hỏng bằng những hành động vội vàng nào đó. Ông ta cũng không thông báo kế hoạch nầy cho vị tư lệnh QĐ1. Đơn giản là ông ta muốn cẩn thận, muốn đặt mọi việc trước một sự đã rồi. Nhưng đó là một hành động gây tức giận cho tướng Lãm và sự bất tin cậy bắt đầu lớn dần giữa họ, khoảng cách càng lúc càng lớn cho đến những biến cố dồn dập xảy ra dẫn đến sự thất thủ của thành phố Quảng Trị…

… Trong vòng 4 giờ sau đó [ngày 1/05/1972, ghi chú của NgyThanh] những phòng tuyến của quân đội miền Nam đã đổ vỡ hoàn toàn… Sau cùng khi biết được những gì đã xảy ra, tướng Giai đã cùng ban tham mưu lên 3 chiếc M113 trong cố gắng bắt kịp đoàn người phía trước. Lúc đó những chiếc trực thăng Mỹ đã đến để di tản những toán cố vấn và những nhân viên người VN của họ. Tư lệnh SĐ3 muốn nhập vào đoàn người phía trước nhưng thất bại. Quốc Lộ 1 đầy cứng những người dân chạy loạn và những toán quân ô hợp và mọi loại xe cộ, quân đội và dân sự. Tất cả hốt hoảng tìm đường về Huế dưới những bức tường lửa dã man hung bạo của các loại pháo địch. Tướng Giai bị bắt buộc phải quay lại cổ thành và sau đó ông ta và ban tham mưu được trực thăng Mỹ bốc đi…

Trên QL1, cả một dòng thác người chạy loạn, dân sự và binh lính tiếp tục xuôi nam. Con đường đã diễn ra một cảnh tượng tàn sát không thể nào tưởng tượng nổi. Những chiếc xe đủ các loại bốc cháy dữ dội. Những chiếc thiết giáp, GMC, xe nhỏ của quân đội và dân sự đầy cứng cả con đường không tài nào lưu thông được. Trong khi đó pháo binh địch mở ra một cuộc tàn sát đẫm máu không nương tay. Cho đến xế trưa hôm sau, cuộc thảm sát mới chấm dứt. Hàng nhiều ngàn người vô tội đã được tìm thấy trên đoạn đường dài của QL1 và sau đó báo chí đã đặt cho cái tên là “đại lộ kinh hoàng”. Sự khích động và sự thảm thương của cảnh nầy, cũng giống như cuộc tàn sát tập thể tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 đã ám ảnh người dân phía bắc của Vùng 1 Chiến thuật một khoảng thời gian lâu dài.”

Đại Lộ Kinh Hoàng, do thiếu tá cố vấn Robert Sheridan chụp tháng 7-1972

 Người Mỹ có biết về cuộc thảm sát trên ĐLKH?

Đào bới núi sách báo viết về chiến tranh Việt Nam để tìm hiểu thêm về số người từ Quảng Trị chạy về Huế vào ngày 1/05/1972, chúng tôi đã may mắn bắt gặp được tấm ảnh duy nhất do thiếu tá Robert Sheridan, TQLC Mỹ chứng kiến và thu vào ống kính. Trong ảnh đăng kèm bài nầy, độc giả thấy máy ảnh được đặt ở góc tây bắc của cầu Bến Đá, ống kính hướng ra phía quận lỵ Hải Lăng, nơi đặt bản doanh Lữ đoàn 369TQLC trong cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị vào tháng 7 và tháng 8/1972. Ảnh nầy lấy từ trang 195 trong cuốn “The Easter Offensive” (Trận Công kích Mùa Phục Sinh) của tác giả Gerald Turley được nhà xuất bản Presidio in vào năm 1985. Ở chương 18, ông đại tá nhân chứng trong tư cách cố vấn trưởng của SĐ3BB đã tường thuật:

Lúc 12 giờ trưa [ngày 1/05, ghi chú của NgyThanh] tướng Giai tuyên bố tình hình kể như tuyệt vọng; thành phố không thể cầm cự dù bất cứ tình huống nào. Ngay sau đó, hai chiếc thiết vận xa chạy vào thành cổ. Tức khắc, Giai cùng khoảng 25 sĩ quan cao cấp của ông trèo vào, hoặc ngổi bên trên các xe ấy để mở màn nỗ lực tẩu thoát về phía sông Mỹ Chánh. Hành động nầy bỗng dưng làm khoảng 18 quân nhân Mỹ bị bỏ rơi, phải trông chờ trực thăng đến di tản một cách vô vọng. Dave Brookbank và Glen Golden đã phải dùng kỹ năng của mình để lên kế hoạch chia nhau tử thủ cổ thành. Đến 2g00, hai chiếc thiết vận xa chở Giai và đoàn tùy tùng quay lại cổ thành. Hóa ra khi vừa ra khỏi thành phố mới chỉ được lối 1.5 km, xe của họ bị đối phương phác giác và tấn công. Đường thoát bị khóa, họ chỉ còn nước quay ngược về thành. Về tới, Giai tức thì gọi xin trực thăng để di tản ban tham mưu của mình… Bên trong cổ thành, việc chuẩn bị di tản tiếp tục với tốc độ chớp nhoáng trong khi các cố vấn Mỹ đốt bỏ tài liệu mật càng nhiều càng tốt song song với phá hủy tối đa các đồ quân cụ. Lúc 3g20, máy phát điện nổ. Vẫn chưa biết liệu có được di tản kịp không, nhưng các cố vấn đã bắt đầu nghe thấy tiếng súng nhỏ ngay phía ngoài tường thành, mỗi lúc mỗi nhiều, và khu vực cũ ngoài phố bắt đầu bốc cháy. Đến 4g30, chuyến trực thăng đầu tiên sà xuống. Ông Giai và các sĩ quan thân cận nhảy vội lên. 4g32, máy bay rướn lên, chở theo 37 hành khách. Chiếc thứ nhì nhào xuống, trong vòng hai hoặc ba phút, đã mang đi 47 người. Chiếc thứ ba xuống, bốc 45 người còn lại, với đại tá Murdock và thiếu tá Golden, là hai người sau cùng. Đến lượt chiếc thứ tư xuống, nhưng chỉ sau 30 giây, đã cất tàu trống lên khi các phi công biết là tất cả mọi người đã được cứu thoát. Cuộc di tản 129 quân nhân về Đà Nẵng đã kết thúc thành công. Thành phố bị cô lập và bỏ ngỏ…

Trước đó, giữa sáng 29/04, hai đại úy George Philips và Bob Redlin lái xe Jeep tới bộ chỉ huy Lữ đoàn 369TQLC để bốc thiếu tá Sheridan. Philips nói, ‘Chúa Mẹ ơi, ông có thấy gì ngoài quốc lộ không? Cả mấy ngàn người dân đang chạy, bỏ Quảng Trị lại sau lưng. Ngoài đó, nhìn vào phía nam hay ngược ra bắc đều thấy dầy kín dân tỵ nạn.

Đoàn người cứ thế tiếp tục trong nhiều tiếng đồng hồ. Khoảng giữa trưa 29/04, pháo binh Bắc quân lại bắt đầu ào ào nhả đạn vào đoàn người ấy. Khi đêm xuống, người tỵ nạn băng qua các vị trí bố phòng của TQLC. Đột nhiên, lúc 9g đúng, trừ những người chậm chân bị tụt hậu lại đàng sau, đoàn ngươi bỗng dưng đứt đoạn. Đại tá Mũ xanh Phạm văn Chung không lâu sau đó đã nhận được tin nguyên nhân sự đứt đoạn là bởi Bắc quân đã thành công trong việc cắt đứt Quốc Lộ 1 ở phía nam thành phố. Vậy rõ ràng là họ đã chiếm được cây cầu qua sông Nhung [cầu Dài, hoặc cầu Trường Phước, ghi chú của NgyThanh] do một cánh quân Biệt Động trấn giữ. Và như thế, nhiều bộ phận của Sư đoàn 3BB đã bị nhốt cứng cách phòng tuyến Mỹ Chánh độ 8 km về phía bắc.”

Đại Lộ Kinh Hoàng sau khi được Công binh bắt cầu Bến Đá và dọn quang lòng đường cho viện binh, chụp sau ngày 1/07/1972

Phóng viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun có dịp đi qua ĐLKH , đã tông thấy tấn thảm kịch và ghi lại trong cuốn “Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia” (Chẳng danh giá gì: Chiến bại ở Việt Nam và Cambodia):

Ở phần mở màn của trận phản công, binh sĩ Nhảy dù VNCH đã chứng kiến một trong những cảnh tượng khủng khiếp nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh: những tàn dư của một đoàn công voa gồm vừa lính tráng vừa thường dân bị đốt cháy và bị xé banh xác do bị kẹt lại ở phía bên kia của cây cầu đã bị giật sập [cầu Bến Đá, ghi chú của NgyThanh] để rồi bị tiêu diệt trên hành trình trốn chạy khỏi tỉnh. Trên chiều dài của nhiều dặm đường, xe cộ bị xé toạc thành từng miếng nằm nối đuôi nhau thành một hàng dài hầu như không đứt lìa dọc cả hai bên lề đường. Trên chuyến xe Jeep nhồi nhét đầy ắp nhà báo chạy về hương bắc một vài ngày sau khi lính Nhảy Dù qua sông, tôi đếm được hơn 400 xác xe trong 3 cây số đầu tiên, và tôi thôi không đếm nữa trước khi tới hết cái đuôi của sự tàn phá. Quân xa thì bạt che mui bị đốt cháy hay đã bay mất, chỉ còn trơ các thanh đỡ mui trông giống các que xương sườn của một bầy khủng long. Xen kẽ giữa chúng là các xác xe tư nhân nằm lộn xuôi lộn ngược: xe đò thì bên hông lăm dăm các lỗ thủng do mảnh lựu đạn hay đạn súng trường, xe đạp xe gắn máy bị vặn cong hoặc gảy gọng từng khúc, xe lam thì chiếc cháy chiếc bị xé từng mảnh, xe hơi cháy đen, đèn pha bị hất tung ra ngoài chỉ còn các lỗ trống như các hố mắt trên đầu lâu con người.”

Phần riêng thiếu tá Sheridan, ông ghi nhận những gì mà ông quan sát cảnh tượng vô bờ bến của tấn thảm kịch và sự tàn phá: “Đoàn người chạy giặc kéo dài hàng giờ và tôi nghĩ không đời nào còn có thể chứng kiến một hình ảnh tệ hại hơn khi mà vào sau giờ Ngọ, các pháo thủ của miền Bắc, vì lý do gì thì tôi sẽ không bao giờ hiểu thấu, đã khai hỏa các họng đại pháo trút đạn xuống đầu đoàn người. Hàng trăm người bị giết và bị thương, nhưng cái khối lúc nhúc người ấy tiếp tục ùn về phía nam. Chúng tôi không thể bắn trả vì tầm bắn của pháo binh địch xa hơn pháo của chúng tôi. Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy. Các tiền sát viên của họ, những người chấm tọa độ và chỉnh bắn trận mưa pháo đã đến đủ gần để khẳng định rằng đa phần là dân thường và không thể là một lực lượng quân sự.”

Ba trong nhiều hình ảnh do NgyThanh chụp trên ĐLKH đăng trên nhật báo Sóng Thần, hiện đang được bảo lưu tại viện đại học Cornell ở tiểu bang New York.

Vòng tròn khép kín

44 năm trước, trong tuần lễ nầy, quốc lộ tử thần giữa cầu Bến Đá và cầu Trường Phước bốc mùi tử khí. Thật là một trùng hợp lịch sử: trong tháng 7 năm nay, cuốn nhật ký chiến tranh Mùa Hè Cháy của tác giả Quý Hải, nguyên là một đại tá của Quân đội Nhân Dân, đã được tái bản.

Sáng 1/07/1972, khi tôi từ Huế theo chân phóng viên chiến trường Đoàn Kế Tường đến cầu Bến Đá nằm ở phía bắc phòng tuyến Mỹ Chánh, thì cầu xe đã bị giật sập như các nhân chứng khác đã tường thuật. Thấy khu vực hai đầu cầu vắng lặng, không có lính Nhảy Dù phòng ngự trong các hố cá nhân và giao thông hào, chúng tôi phán đoán là phía VNCH đã đẩy được đối phương lùi lại một khoảng, nên rủ nhau bò qua chiếc cầu sắt xe lửa cũng đã gãy gục thành hình chữ V xuống nước, nhưng vẫn có thể bò qua được, nếu may mắn trên thành cầu không bị cài mìn hay lựu đạn. Với một chút liều lĩnh và hiếu thắng của tuổi trẻ, chúng tôi đã bò qua dễ dàng. Ngay đầu cầu phía bên kia của quốc lộ, là một bãi mìn dày đặc, do công binh VNCH cài một cách công khai, ngụ ý đe dọa để ngăn chặn đối phương hơn là nhằm sát thương. Bắt đầu từ bãi mìn hướng ra phía bắc, là dãy xe nhà binh, xe dân sự, xe đạp, xe gắn máy và la liệt xác người như trong tấm hình duy nhất mà tôi còn giữ lại được cho những sử gia nghiên cứu về sau. Sau nhiều năm tìm tòi, tôi thấy cần bảo lưu tấm hình không đạt yêu cầu nghệ thuật của mình, vì ngoài một tấm thứ nhì do thiếu tá cố vấn Robert Sheridan thuộc TQLC Mỹ chụp, tất cả các hình ảnh “đại lộ kinh hoàng” còn lại đều được chụp sau khi Công binh Chiến đấu của Trung tá Trần Đức Vạn đã bắt xong cầu dã chiến qua sông Bến Đá, để mang xe ủi qua sông, cào một dải khá rộng giữa lòng đường làm tuyến tiếp viện binh sĩ, súng đạn và thực phẩm cho tiền quân. Nhờ có cầu dã chiến, các phóng viên khác đến sau chúng tôi không phải bò qua cầu sắt, nhưng họ lỡ dịp may ghi vào ống kính tình trạng nguyên vẹn của cảnh tượng mà tôi đặt tên là “đại lộ kinh hoàng” trong cú điện thoại gọi về tòa soạn Sóng Thần từ bưu điện Huế trong đêm 1/07/1972.

Nhưng Tường và tôi vẫn là những kẻ đến muộn những 2 tháng sau khi đã xẩy ra cảnh tượng kinh hoàng. Người biết về cảnh tượng rùng rợn nầy trước chúng tôi chính là viên sĩ quan chỉ huy tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 38 Pháo binh Bông Lau của miền Bắc, người ra lệnh từ đài quan sát ở cao điểm 132, và chịu trách nhiệm trên từng viên đạn pháo tầm xa, trong cuộc chiến nhằm “giải phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp của Mỹ Ngụy”.

************

Trong cuốn Mùa Hè Cháy, tác giả Quý Hải, bây giờ mang quân hàm đại tá, đã chỉ viết đúng một câu ngắn: “Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”

Là một trong hai nhà báo đầu tiên đặt chân đến và đặt cho địa ngục trần gian ấy cái tên “đại lộ kinh hoàng”, tôi thấy cái vòng tròn bao quanh cánh đồng chết giữa hai cây cầu Bến Đá và Trường Phước nay đã có thể khép kín, nếu người đặt tên là tôi, và cha đẻ của tác phẩm vấy máu đó chấp nhận ngồi đối diện nhau, cũng như đối diện với các oan hồn đã bị thảm sát.

Khi ngồi trước mặt nhau, tôi, một quân nhân mang cấp bậc Binh Nhất của miền Nam, chỉ xin phép thưa với thiếu tá pháo binh Nguyễn Quý Hải vài điều thật giản dị. Thứ nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau. Nhưng kiến thức của một Binh Nhất miền Nam có thể rất hạn hẹp, hay lầm lẫn; đề nghị thiếu tá hỏi lại thủ trưởng của mình, trung đoàn trưởng Cao Sơn. Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau [dám tấn phong liệt sĩ cho khẩu đội trưởng Nhúng, Trọng và đồng đội đã hy sinh tại trận địa ngày 22/04/1972 mà không cần chờ chính phủ ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP, ngày 1/06/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng] – rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ nhất. Thứ nhì, cây kim trong đống rơm còn có lúc phải thò ra ánh sáng, nữa là đoạn từ lộ dài trên 5km, xác xe đan vào nhau từ vệ đường bên nầy sang bên kia, bề ngang còn lớn hơn cả đoạn Bát Đạt Lĩnh của Vạn Lý Trường Thành, hà tất từ quỹ đạo địa cầu cũng có thể thấy đại lộ kinh hoàng. Hay là ông đại tá Bắc Việt chưa có đủ thông tin, hoặc giả thông tin chưa chuẩn xác về những nạn nhân của Bông Lau, chủ yếu là dân thường?

Tôi xin kể một mẩu tin ngắn để mua vui cho người hùng Bông Lau: mới đây thôi ngày 31/05/2016, tại giao lộ Briardale và Brook Canyon trong thành phố Charlotte, bang Bắc Carolina, một chị tài xế, để tránh khỏi cán một con mèo trên đường, đã làm chiếc xe buýt chở học sinh của chị lạc tay lái, húc văng một xe hơi đang đổ bên đường, rồi lao vào một căn nhà, gây thương tích cho 14 học sinh và bản thân chị. Chuyện nầy nhỏ như chuyện xe cán chó chó cán xe bên mình, chẳng ai buồn nhớ lại sau khi đọc cái tin, vì tránh không sát hại thú vật đã trở thánh nếp sống văn minh của con người. Thành thử, đoạn văn mà nhà văn đại tá dùng để kết án Mỹ ngụy thâm độc dùng máy bay thả bom vào những đoàn xe để phi tang, tôi không nghĩ là có cơ sở, sẽ có ai tin, mà tự nó vạch trần cho người đọc thấy được một nỗ lực lấp liếm, tráo trở kém trình độ. Muốn có người tin, e rằng trước tiến cần thu hồi toàn bộ sách Mùa Hè Cháy đã in, để hiệu đính vô số lỗi văn phạm, lỗi cú pháp và cách hành văn tối nghĩa như mõm chó, cũng như phải sửa lại đoạn vừa trích dẫn, vì chỉ vỏn vẹn có 40 từ, mà nhà văn lớn đã vấp phải lỗi điệp ngữ vĩ đại.

Thưa Đại tá Quý Hải:

Chiến tranh lùi lại sau lưng chúng ta đã 41 năm. Chuyện chết chóc và đau thương đã trở thành quá khứ. Nay người dân đang cần những tác phẩm mang tính chính sử, chứ không là ngụy sử. Nếu những trách nhiệm mà tướng Thân Trọng Một gây cho người dân Huế có thân nhân bị chôn sống hồi Mậu Thân đến nay vẫn trong diện ưu tiên cần né tránh, thì chắc chắn việc đại tá ra lệnh và điều chỉnh đường bắn, làm chết ít ra 1.841 người mà chính tay chúng tôi lượm được xác ba tháng sau đó – cũng chưa cần phải đưa đại tá ra trước vành móng ngựa của Tòa án Hình sự Quốc tế ở Hà Lan, để trả lời về tội ác chiến tranh, hay tội ác chống lại loài người. Mặc dù thiếu tá Robert Sheridan viết “Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy”, nhưng là người Việt Nam với nhau, tôi sẽ sẵn sàng bày tỏ lòng kính trọng của mình dành cho tập thể Quân đội Nhân dân, trong đó có đại tá – với điều kiện đại tá nhận lời mời gọi kính cẩn của tôi, để mang vòng hoa trắng, đến thăm đài tưởng niệm các nạn nhân đã bị giết oan, và cầu cho oan hồn họ tiêu diêu cõi vĩnh hằng. Nếu dám đến, với sự hối tiếc chân thành, và với tư cách là người gây ra biến cố “Đại Lộ Kinh Hoàng”, tôi cho rằng đại tá Nguyễn Quý Hải xứng đáng được tha bổng.

NgyThanh

1/07/2016

Anh Thành Nguyễn gởi

Một ông ở Sài Gòn và những chuyến xe cuối đời miễn phí

Một ông ở Sài Gòn và những chuyến xe cuối đời miễn phí

Ông Nguyễn Ru Bi (phải) bên chiếc xe cấp cứu giúp chở thi thể người nghèo về các tỉnh miễn phí. (Hình: Báo SGGP)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Gần một năm nay, một ông ở quận Tân Phú đã thực hiện gần 20 chuyến xe đưa thi thể các bệnh nhân nghèo từ bệnh viện về nhà ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, An Giang, Sóc Trăng, Phú Yên, Khánh Hòa… miễn phí.

“Có bệnh nhi ba tháng tuổi bị bệnh tim bẩm sinh vừa qua đời. Bé này nhà nghèo lắm, mấy giường bệnh xung quanh góp lại người mấy chục, người trăm ngàn để gia đình có tiền đưa bé về quê an táng. Anh xem thử, nếu được thì giúp nhé.”

 

Cuộc gọi bất ngờ vào một ngày cuối năm 2016 ấy đã khởi đầu duyên thiện nguyện của ông Nguyễn Ru Bi, quận Tân Phú, Sài Gòn, với những bệnh nhân nghèo, theo báo SGGP.

Thời điểm đó, ông Ru Bi đang có hai xe cấp cứu làm dịch vụ chuyên chở các bệnh nhân. Nghe vậy, ông liền vào bệnh viện tìm gia đình cháu bé. Thương hoàn cảnh gia đình này, ông quyết định chở thi thể cùng mẹ và bà ngoại của cháu bé về quê ở tận huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, hoàn toàn miễn phí thay vì lấy 4.5 triệu đồng (khoảng $192).

Đến nơi, nhìn căn nhà lá nhỏ xiêu vẹo, nằm hiu quạnh giữa đồng trống, cảm động trước hoàn cảnh quá cơ cực của gia đình này, ông Ru Bi hỗ trợ thêm 2.5 triệu đồng (khoảng $110).

Cảm nhận cuộc sống này có những mảnh đời cơ cực, khi nằm xuống còn phải dựa vào lòng hảo tâm của người khác mới có thể có được chuyến xe cuối đời về nhà, từ đó đến nay ông Ru Bi đã thực hiện gần 20 chuyến xe đưa thi thể bệnh nhân nghèo từ bệnh viện về nhà ở khắp các tỉnh, thành phố.

“Đọc trên báo thấy một số câu chuyện vì gia đình quá nghèo không có tiền thuê xe, phải dùng chiếu cuốn thi thể người nhà, chở bằng xe gắn máy từ bệnh viện về nhà mai táng, tôi càng muốn góp phần nhỏ bé của mình để bớt đi những câu chuyện đau lòng đó,” ông Ru Bi nói.

Hiện nay, khi biết thông tin những trường hợp cần giúp đỡ qua bạn bè hay trên mạng xã hội, ông trực tiếp liên lạc để tìm hiểu gia cảnh nhằm hỗ trợ. Tùy theo từng trường hợp, ông sẵn sàng chở miễn phí hoặc lấy 50% chi phí cho mỗi chuyến xe.

“Chi phí này không ít, thêm vào đó là sự mệt mỏi sau chặng đường dài, nhưng chỉ cần một câu cảm ơn của gia đình người qua đời là tôi và các nhân viên đã ấm lòng, cảm thấy việc làm của mình có ý nghĩa,” ông Ru Bi cho biết.

Điều ông còn tâm tư là có những trường hợp gia đình quá khó khăn, không lo nổi áo quan cho thân nhân qua đời. Song trước mắt, khả năng của ông chỉ mới giúp được chi phí chuyến xe đưa cuối đường đời, nên ông mong có thêm sự tham gia của các mạnh thường quân chung tay để những người nghèo không may được lo chu toàn khi nhắm mắt xuôi tay.

Hiện công ty Vận Chuyển Cấp Cứu 24h, ở phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, Sài Gòn, của ông đã có bốn xe cấp cứu chuyên dụng, nên ông càng có điều kiện mở rộng những chuyến xe nhân ái. (Tr.N)

Đoàn làm phim The Vietnam War, trong đó 3 Việt cộng, 2 Mỹ phản chiến.

From facebook: Thuong Phan shared Lm. Lê Ngọc Thanh‘s post.
 
Image may contain: 8 people, people smiling, people standing and indoor
Lm. Lê Ngọc Thanh is with Manh Dang.

Đoàn làm phim The Vietnam War, trong đó 3 Việt cộng, 2 Mỹ phản chiến.
Vấn đề là người Mỹ gốc Việt phản ứng gì với đài truyền hình PBS này, vì The Vietnam War không phải là lần đầu tiên bản đài này nhục mạ cộng đồng người Việt, trước đó họ đã làm phim “Khủng bố ở Sài Gòn Nhỏ”. Hiện nay, VTV mua bản quyền chương trình truyền hình của PBS phát lại.

Như vậy đã đủ bằng chứng PBS và Việt cộng đi đêm với nhau chưa?

‘SỐNG’ MÃI CÙNG NƯỚC NON

From facebook:  Thuong Phan shared Nguyễn Hồng‘s post. 
 
Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: 1 person, hat
Image may contain: text
Image may contain: 1 person, crowd and outdoor
Image may contain: 1 person, standing
+21

Nguyễn Hồng added 25 new photos from September 20 feeling angry with Nguyen Anh Duc at Bảo Tàng Hồ Chí Minh.

 

‘SỐNG’ MÃI CÙNG NƯỚC NON

Trong “Đèn Cù” có đoạn
Nói về Chu Văn Biên
Trùm cải cách Nghệ Tĩnh 
Bắc ghế ngồi trên thềm.

Hắn chỉ vào mặt mẹ
Chắp tay đứng dưới sân:
“Mày là đứa bóc lột
Kẻ thù của nhân dân!

Không mẹ con gì hết.
Tao phải tiêu diệt mày”
Vì cái thành tích ấy
Chu Văn Biên sau này

Được đề bạt thứ trưởng
Bộ Nông nghiệp nước nhà
Mẹ cắn lưỡi tự tử
Ngẫm mà thương bà già.

*

Một chính quyền xúi giục
Con cái đấu mẹ cha
Người ở đấu ông chủ
Cháu chắt đấu ông bà,

Thử hỏi chính quyền ấy
Là thứ chính quyền gì?
Một tội ác man rợ
Thuộc vào hàng tru di.

Và sông có thể cạn
Và núi có thể mòn
Tội ác man rợ ấy
Sống mãi cùng nước non!

(Thái Bá Tân)

* Chu Văn Biên, bí thư đoàn ủy cải cách ruộng đất Nghệ Tĩnh:
“Tao với mi không mẹ không con mà chỉ là kẻ thù giai cấp của nhau. Tao có phận sự tiêu diệt mi mà mi thì sẽ nhất định chống lại”!

*****

Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng! 
Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu!

* Đặng Khu là Đặng Xuân Khu, tên thật của ông Tổng Bí Thư Trường Chinh.

******

“… Ai về Bố Hạ
Nhắn với vợ chồng thằng Thu
Rằng chúng bay là lũ quốc thù!…”

(Xuân Diệu) 
* “vợ chồng thằng Thu” là bố mẹ đẻ của ông Ngô Xuân Diệu!

GIẾT HẾT!

Anh em ơi, quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lừng chừng phản động đến giờ tan xương

Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng hôm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi.

(Xuân Diệu)

*****

Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt!

(Tố Hữu)

******

+ Cải Cách Ruộng Đất Và Hàng Trăm Ngàn Cái Chết Oan Ức:
– https://ongvove.wordpress.com/…/cai-cach-ruong-dat-va-hang…/ 
+ Những sự thật không thể chối bỏ: Nỗi đau Cải Cách Ruộng Đất: 
http://www.geocities.ws/xoathantuo…/dch/dch_nhungsuthat5.htm 
+ Những màn cực hình ghê rợn trong cải cách ruộng đất tại Trung Quốc:
– http://tinhhoa.net/nhung-man-cuc-hinh-ghe-ron-trong-cai-cac… 
+ Cải cách Ruộng đất ở Trung Quốc, vì sao thôn thôn đổ máu?
– http://trithucvn.net/…/cai-cach-ruong-dat-o-trung-quoc-vi-s… 
+ Hồ sơ tội ác cuộc Cải Cách Ruộng Đất (1949-1956):
– https://vinhdanhcovang.wordpress.com/…/h%E1%BB%93-s%C6%A1-…/

 

Lee & Man Việt Nam: thất bại mang bản chất hệ thống


Formosa và Lee & Man Việt Nam có sự tương đồng nào?
Formosa và Lee & Man Việt Nam có sự tương đồng nào?

Mấy ngày qua, một loạt tờ báo nhà nước đã loan tải thông tin về việc các hộ dân ở ấp Phú Xuân, thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang khẩn thiết kêu cứu vì tình trạng ô nhiễm nặng nề do Nhà máy Giấy Lee & Man Việt Nam gây ra.

Theo các nguồn tin, một hộ dân nằm cách nhà máy giấy Lee & Man khoảng 100 mét cho biết, thời gian gần đây, từ lúc chiều tối đến rạng sáng (6 giờ chiều đến 5 giờ sáng), phía bên nhà máy giấy lại xuất hiện 2-3 cột khói màu trắng đục, cao khoảng 5-10 mét, có mùi giống axít, rất khó chịu. Khi trời không gió, các cột khói bay thẳng lên bầu trời nên không ảnh hưởng đến người dân. Thế nhưng, mỗi khi có gió thổi theo hướng từ nhà máy qua khu dân cư, thì chỉ chừng 15-20 phút sau, làn da của bà con sinh sống gần nơi đây lại có cảm giác khô, căng như bị con gì châm chích.

Ngoài ra, một người dân khác ngụ ở ấp Phú Xuân thì phản ánh là gần đây, cứ vài ngày lại xuất hiện mùi hôi như mùi bồn cầu bùng lên từ khu vực gần các ống xả thải của nhà máy (bên bờ Sông Hậu).

Chưa hết, bên cạnh tình trạng mùi hôi là hiện tượng nước sông khu vực xung quanh nhà máy mà người dân bơm lên sử dụng, khi qua đêm thì xuất hiện tình trạng “nhớt nhớt” ở bề mặt vật dụng tiếp xúc với nước.

Đây không phải là lần đầu dự án đầy tai tiếng này thu hút sự chú ý của dư luận vì những vi phạm môi trường do họ gây ra.

Tháng 12/2016, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên – Môi trường) cho phép Công ty TNHH Lee & Man Việt Nam vận hành thử nghiệm các công trình xử lý chất thải dự án sản xuất giấy. Đến tháng 1/2017, việc vận hành thử nghiệm có tải của nhà máy tạm ngừng để thực hiện các yêu cầu theo kết luận thanh tra của Bộ TN-MT, trước khi vận hành thử nghiệm trở lại vào tháng 3/2017.

Tuy nhiên, khi nhà máy chỉ mới bắt đầu vận hành thử nghiệm trở lại, người dân sống gần nhà máy đã phải gửi đơn kêu cứu khắp nơi khi cuộc sống của họ bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do nhà máy gây ra.

Thực ra, không phải đến lúc này, mà ngay từ năm 2007, khi dự án mới được UBND tỉnh Hậu Giang trao giấy chứng nhận đầu tư, đã xuất hiện nhiều tiếng nói phản đối Lee & Man Việt Nam.

Đây là dự án của Tập đoàn Lee & Man Paper Manufacturing Limited đến từ Quảng Đông, Trung Quốc, với tổng mức đầu tư lên tới 1,2 tỷ USD và nằm trong số 5 nhà máy giấy lớn nhất trên thế giới. Tổng diện tích của nhà máy là 82,8ha, nằm trong Cụm Công nghiệp Phú Hữu A, thị trấn Mái Dầm. Tổng thầu xây dựng nhà máy là Công ty Cổ phần Kỹ thuật Hải Thành đến từ Thượng Hải, Trung Quốc.

Từ năm 2007, nhiều nhà quản lý môi trường, doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thuỷ sản tại Hậu Giang đã bày tỏ thái độ hết sức lo ngại về vấn đề ô nhiễm môi trường và nghi ngờ khả năng tạo vùng nguyên liệu cho nhà máy giấy của Lee & Man.

Theo văn bản số 1311/CV-SDR ngày 6/6/2007 của Cục Lâm nghiệp thì trong “Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp giấy đến năm 2010” (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt) không quy hoạch xây dựng nhà máy giấy ở Hậu Giang. Ngay cả Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành công nghiệp giấy Việt Nam đến năm 2010 – tầm nhìn 2020, cũng không quy hoạch vùng nguyên liệu giấy tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Về khả năng vùng nguyên liệu, Cục Lâm nghiệp khẳng định là “nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng trong khu vực chắc chắn chỉ đáp ứng được dưới 20% công suất nhà máy”.

Ngoài ra, Cục Lâm nghiệp còn tính toán là với công suất của nhà máy giấy, mỗi năm sẽ có đến 28.500 tấn xút được thải ra môi trường. Điều này vô cùng nguy hiểm, bởi nhà máy nằm ở vùng trũng nhất khu vực nên rất khó rửa trôi một khối lượng xút lớn như vậy. Nếu chúng bị đổ ra Sông Hậu rồi ra biển thì nguồn lợi thủy sản ở sông và biển ở phía Nam sẽ bị huỷ hoại, đồng thời ảnh hưởng rất lớn tới việc nuôi trồng thủy sản ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Chưa hết, 80% nguyên liệu nhập khẩu cũng ẩn chứa mối nguy hại tiềm tàng, bởi theo chủ đầu tư đó là giấy phế liệu; nghĩa là khu vực dự án sẽ trở thành nơi tiếp nhận phế thải của nước ngoài, nguy cơ ô nhiễm lại càng khó tránh khỏi.

Hậu Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung không phải là thị trường tiêu thụ của một nhà máy giấy có quy mô nằm trong tốp 5 thế giới. Nghĩa là, địa điểm dự án vừa không phải là vùng nguyên liệu lớn, vừa không phải là khu vực thị trường tiêu thụ chính, lại vừa đặc biệt nhạy cảm về môi trường (nghĩa là để đảm bảo được những yêu cầu ngặt nghèo về môi trường thì chi phí đầu tư sẽ rất cao, trong khi công nghệ của Lee & Man nói riêng và các doanh nghiệp Trung Quốc nói chung lại bị xếp vào loại lạc hậu).

Cần nên nhớ, địa điểm ngay bên bờ Sông Hậu là vị trí đặc biệt lợi hại về quân sự: chiếm lĩnh được vị trí xung yếu này là có thể kiểm soát được Sông Hậu, tuyến đường thuỷ huyết mạch nối liền Biển Đông đến biên giới Việt Nam – Campuchia.

Nguy cơ này lại càng đặc biệt nguy hiểm bởi Trung Quốc đã và đang nắm giữ Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải (xã Dân Thành, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, tức bên bờ Biển Đông) và Trung tâm Nhiệt điện Sông Hậu (thị trấn Mái Dầm, tỉnh Hậu Giang). Ba căn cứ liên hoàn này sẽ cho phép Bắc Kinh kiểm soát cả vùng biển phía nam Việt Nam lẫn Sông Hậu.

Đến tháng 6/2016, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) vẫn tiếp tục lên tiếng thông qua bản kiến nghị khẩn cấp gửi Quốc hội và Chính phủ, đề nghị chỉ đạo kiểm tra, rà soát công nghệ xử lý nước thải của dự án xây dựng nhà máy giấy của Công ty TNHH Giấy Lee & Man Việt Nam. Thậm chí đến ngày 6/8/2016, tờ Người Lao Động vẫn còn đăng bài “Sao không dừng Nhà máy Giấy Lee & Man?

Bất chấp mọi lời đề đạt, kiến nghị, cảnh báo, dù khẩn thiết đến đâu, nhà máy giấy Lee & Man Việt Nam vẫn cứ ra đời và sắp sửa đi vào hoạt động, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.

Suy cho cùng, giống như Formosa Hà Tĩnh hay hàng loạt thảm hoạ “made in China” khác trên khắp Việt Nam, thất bại mang tên Lee & Man Việt Nam hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên; ngược lại, nó là kết quả tất yếu của hệ thống hiện hành, một hệ thống bao gồm hai thành phần chủ yếu: những kẻ chủ tâm “rước giặc vào nhà” và những kẻ “ngậm miệng ăn tiền”, đồng loã với chúng.

Đảng lãnh đạo tài tình công tác đối ngoại, tăng vị thế của VN trên trường Quốc tế là thế này đây?

From facebook:  Trần Bang
Đảng lãnh đạo tài tình công tác đối ngoại, tăng vị thế của VN trên trường Quốc tế là thế này đây?

 

Có lỗi không nhận, không sửa là truyền thống cực kỳ… “phải như thế nào bạn (CHLB Đức) mới đình chỉ đối tác chiến lược với ta (VN) chứ”?

”Ngay sau khi nắm được thông tin về vụ việc chúng tôi đã khẳng định rõ rằng việc bắt cóc người trên lãnh thổ Đức là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Chúng tôi có các bằng chứng rõ ràng về vụ bắt cóc này và sẽ công bố chúng vào thời điểm thích hợp. Ngày 10 tháng 8, Tổng Công tố Liên bang đã tiếp nhận điều tra vụ việc. Hiện quá trình này vẫn chưa kết thúc.

Vụ bắt cóc đã vi phạm trắng trợn luật pháp Đức và luật pháp quốc tế, điều mà chúng tôi không bao giờ dung thứ.
Bằng việc trục xuất trưởng phòng tình báo của Đại sứ quán Việt Nam, chúng tôi đã thực hiện những biện pháp thẳng thắn đầu tiên. Chúng tôi đã nhiều lần thông báo rõ với Chính phủ Việt Nam về các yêu cầu của phía Đức và thể hiện rõ rằng chúng tôi bảo lưu quyền áp dụng thêm các biện pháp khác.

Cho tới nay, yêu cầu xin lỗi của chúng tôi kèm theo cam kết không vi phạm pháp luật tương tự trong tương lai đã không được Chính phủ Việt Nam đáp ứng. Phía Việt Nam cũng không khẳng định rõ rằng sẽ xử lý những người có trách nhiệm trong vụ việc.

Chúng tôi đã đưa ra các yêu cầu liên quan đến ông Trịnh Xuân Thanh, trong đó có việc áp dụng quy trình tố tụng theo nguyên tắc pháp quyền đối với ông Trịnh Xuân Thanh và có sự tham dự của các quan sát viên quốc tế.

Vì lí do cho tới nay phía Việt Nam hoàn toàn không đáp ứng các yêu cầu của chúng tôi cũng như không thừa nhận việc vi phạm pháp luật và phá vỡ lòng tin nên chúng tôi buộc phải áp dụng các biện pháp tiếp theo.

Vì vậy, ngày hôm qua, trong buổi làm việc với Đại sứ Việt Nam tại trụ sở Bộ Ngoại giao chúng tôi đã thông báo với phía Việt Nam về việc sẽ tạm dừng mối quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi đã quyết định trục xuất thêm một cán bộ của Đại sứ quán Việt Nam. Người này có 4 tuần để cùng gia đình rời khỏi nước Đức.

Chúng tôi mong đợi rằng phía Việt Nam sẽ thực hiện các yêu cầu của phía Đức.
Phía Việt Nam biết làm thế nào để có thể khôi phục lại mối quan hệ song phương và khắc phục việc vi phạm pháp luật và phá vỡ lòng tin.”
ĐSQ Cộng hòa Liên bang Đức tại Việt Nam

Image may contain: 3 people
 

Đức trục xuất thêm một nhà ngoại giao VN

Đức trục xuất thêm một nhà ngoại giao VN

BBC

Chính phủ Đức tuyên bố trục xuất thêm một nhà ngoại giao Việt Nam để phản đối Việt Nam vì vụ “bắt cóc” Trịnh Xuân Thanh.

Trịnh Xuân Thanh
Chính phủ Đức liên tiếp đăng các biện pháp trả đũa Việt Nam trên mạng xã hội sau vụ ông Trịnh Xuân Thanh: Bìa phải là Thủ tướng Angela Merkel và Bộ trưởng Ngoại giao Đức Sigmar Gabriel

Twitter chính thức của Bộ Ngoại giao Đức ngày 22/9 nói “không có hồi đáp đầy đủ từ Việt Nam sau vụ bắt cóc ở Đức”.

“Vì thế chúng tôi đã trục xuất thêm một nhà ngoại giao,” Bộ Ngoại giao Đức tuyên bố.

Thông báo bằng tiếng Đức của Bộ Ngoại giao nước này gửi cho báo chí cũng nói hiện Berlin đã “tạm ngưng quan hệ đối tác chiến lược” với Việt Nam.

Đây là nhà ngoại giao thứ hai từ Sứ quán Việt Nam ở Berlin bị Đức trục xuất sau cáo buộc của Đức rằng Việt Nam đã tiến hành vụ “bắt cóc” và đưa ông Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam.

 

Người này cùng gia đình sẽ có bốn tuần để rời khỏi Đức, AFP tường thuật.

Được biết, Công tố viện Liên bang Đức vẫn chưa hoàn tất cuộc điều tra liên quan đến vụ ông Trịnh Xuân Thanh “bị bắt cóc” khỏi Berlin, theo Bộ Ngoại giao Đức.

‘Bằng chứng liên quan’

Người phát ngôn ngoại giao Đức Rainer Breul nói Đại sứ Việt Nam hôm thứ Năm đã được thông báo rằng một nhà ngoại giao thứ hai buộc phải rời khỏi Đức vì “có bằng chứng ông này liên quan vụ việc”.

Chiếc xe gây án
Bản quyền hình ảnh          BUI QUANG HIEU
Cảnh sát Đức trả lại cho ông Bùi Quang Hiếu chiếc xe mang biển CH Czech bị thuê để “bắt cóc” ông Trịnh Xuân Thanh. Trên xe còn nguyên các dấu vết cuộc điều tra

“Người này không phải là cấp quản l‎ý cao cấp tại Tòa Đại sứ” nhưng “chúng tôi có bằng chứng cho thấy ông ta đã tham gia vụ việc” cùng với “một số” nhân viên ngoại giao khác của Việt Nam tại Tòa Đại sứ, hãng tin AFP dẫn lời ông Rainer Breul nói.

“Chúng tôi không định im lặng và để cho vụ việc rơi vào quên lãng,” người phát ngôn cảnh báo, và cho biết thêm cho đến nay Hà Nội đã không chịu xin lỗi về vụ bắt cóc, cũng không chịu cam kết là những hành vi tương tự sẽ không diễn ra trên lãnh thổ Đức.

Trước đó hôm 9/8, Đức tuyên bố đang cân nhắc các bước đi cần thiết sau khi Việt Nam không hồi đáp yêu cầu của Berlin, muốn Hà Nội trao trả ông Trịnh Xuân Thanh.

Berlin nói ông Trịnh Xuân Thanh ‘đã bị mật vụ Việt Nam bắt cóc’ hồi cuối tháng Bảy.

Hôm 4/8, Ngoại trưởng Đức cáo buộc Việt Nam đã thực hiện vụ việc theo cách thức “chỉ có trong các phim ly kỳ thời Chiến tranh Lạnh” và đó là hành vi mà Đức thấy là “không thể chấp nhận”.

Sau vụ việc, phía Đức đã giữ chiếc xe ‘nghi là phương tiện gây án’ từ CH Czech, thu thập mọi chứng cứ liên quan rồi trả lại xe cho chủ là một doanh nhân Việt Nam tại Prague.

Thông cáo nói nghi can đã lái một chiếc xe thuê từ Prague đến Berlin vào ngày 20/7, 3 ngày trước khi có thông tin ông Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc.

Twitter bằng tiếng Anh của Bộ Ngoại giao Đức
Bản quyền hình ảnh   TWITTER
Twitter bằng tiếng Anh của Bộ Ngoại giao Đức nêu lý do ‘Không có câu trả lời thỏa đáng từ Việt Nam, nên chúng tôi trục xuất thêm một nhà ngoại giao VN nữa khỏi Đức’.

Cũng theo các nguồn tin từ Berlin, Cục An ninh Liên bang Đức đã hỏi chuyện nhiều người Việt ở Berlin về vụ Trịnh Xuân Thanh và cách thức hoạt động của những nhóm người Việt tại Đức, liên kết bên trong và bên ngoài của họ và quan hệ với các cơ quan của Việt Nam tại Đức.

Giới chức Đức hồi cuối tháng 8 cũng đã bắt giữ một nghi phạm người Việt từ Cộng hòa Czech, bị nghi là có liên quan tới vụ bắt cóc.

 

Luật sư tại Đức của ông Thanh nói thân chủ của mình đã bị lôi lên xe hơi, cưỡng bức đưa về Việt Nam chứ không phải tự nguyện quay về.

Trả lời phỏng vấn của báo chí Đức hôm 7/8, Ngoại trưởng Sigmar Gabriel nói rằng ông thấy việc Việt Nam “chấp nhận mạo hiểm” trong việc đánh đổi các thành quả trong quan hệ song phương trong vụ Trịnh Xuân Thanh là điều “khó hiểu”.

“Vụ việc xảy ra vào cuối tháng Bảy vừa qua đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến quan hệ Đức – Việt,” ông ngoại trưởng được trang tin Stuttgart dẫn lời. “Chuyện giới doanh nghiệp Đức cảm thấy bất an là điều hoàn toàn dễ hiểu, vì rõ ràng là một số người có chức trách tại Việt Nam đã thiếu tôn trọng mối quan hệ đối tác với Đức và các quy định pháp luật.”

Phía Việt Nam nói rằng ông Trịnh Xuân Thanh đã tự nguyện ‘ra đầu thú’, và công bố đoạn video trong đó ông Thanh dáng điệu mệt mỏi nói rằng ông “đành phải về để đối diện sự thật”.

Tại Việt Nam cũng có một luồng dư luận chủ yếu trên các trang mạng xã hội cho rằng Đức “không nên bao che cho người tham nhũng” mà nên hỗ trợ Việt Nam thì hơn là trừng phạt.

 
Ngoại trưởng Đức tuyên bố ‘không thể chấp nhận’ việc VN bắt cóc người

Đoạn video được phát trong chương trình thời sự của Việt Nam cũng công bố hình ảnh “đơn xin tự thú” được cho là của ông Thanh viết tay.

 

Tương lai quan hệ?

Trong năm 2015, Đức cam kết trợ giúp Việt Nam 220 triệu euro (257,8 triệu đôla Mỹ) viện trợ phát triển trong vòng hai năm.

Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khối Liên hiệp Âu châu; các thành viên của khối này đang chuẩn bị xem xét việc phê chuẩn thỏa thuận tự do thương mại với Việt Nam.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, sau khi chính quyền Đức liên tiếp công khai các tuyên bố trừng phạt Việt Nam, gồm cả việc “tạm ngưng quan hệ đối tác chiến lược” thì tương lai của hiệp định thương mại EU – VN bị đặt câu hỏi.

Chủ tịch Trương Tấn Sang và phu nhân
Bản quyền hình ảnh   TOBIAS SCHWARZ
Chủ tịch Trương Tấn Sang và phu nhân có chuyến thăm cao cấp tới Đức hồi 2015

Lý do là cùng quá trình Brexit khi Anh ra khỏi EU, Đức là nước có nền kinh tế lớn nhất và sức mạnh chính trị áp đảo duy nhất còn tại ở EU.

Hai nước Đức – Việt ký Tuyên bố chung Hà Nội về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược khi bà Thủ tướng Angela Merkel thăm Việt Nam năm 2011.

Các quan chức cao cấp của Đức đã liên tiếp sang thăm Việt Nam như Chủ tịch Quốc hội Nobert Lammert (2015), và Bộ trưởng Ngoại giao Frank-Walter Steinmeier (2016).

Từ phía Việt Nam, các lãnh đạo cấp cao nhất nhiệm kỳ trước cũng sang thăm Đức liên tục: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm năm 2013; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2014, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân năm 2015 và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2015.

Ông Trịnh Xuân Thanh
Bản quyền hình ảnh  VTV
Ông Trịnh Xuân Thanh “xin lỗi” trong đoạn phim chiếu trong chương trình thời sự của VTV tối 3/8

Nhân vật cao cấp nhất của nhiệm kỳ này tại Việt Nam sang thăm Đức dự hội nghị G20 là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhưng khủng hoảng quan hệ hai bên nổ ra không lâu ngay sau chuyến thăm của ông trong tháng 7 vừa qua.

Con sãi ở chùa lại quét lá đa

J.B. Nguyễn Hữu Vinh
2017-09-20
 
Các thành viên mới của Bộ Chính trị (từ trái qua phải) Trương Hòa Bình, Võ Văn Thưởng, Phạm Minh Chính, Trương Thị Mai, Trần Quốc Vượng, và Ngô Xuân Lịch, chụp hình chung với các ủy viên trung ương mới của Đảng Cộng sản tại lễ bế mạc đại hội 12 ĐCS ở Hà Nội hôm 28/1/2016

Các thành viên mới của Bộ Chính trị (từ trái qua phải) Trương Hòa Bình, Võ Văn Thưởng, Phạm Minh Chính, Trương Thị Mai, Trần Quốc Vượng, và Ngô Xuân Lịch, chụp hình chung với các ủy viên trung ương mới của Đảng Cộng sản tại lễ bế mạc đại hội 12 ĐCS ở Hà Nội hôm 28/1/2016

 AFP
 

Đã có một thời kỳ rất dài, người cộng sản lên án chế độ thực dân, phong kiến ở mọi góc độ, mọi bình diện và mọi nơi, mọi lúc. Bất cứ thứ gì liên quan đến chế độ thực dân, phong kiến đều được gắn cho những tính từ không mấy dễ chịu như “lạc hậu, thối nát, man rợ”… và nhiều ngôn từ  khác nữa.

Đặc biệt, chế độ phong kiến bị cộng sản lên án nhiều nhất là tệ “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Thế rồi, để kích động dân đen nổi dậy, lật đổ, người Cộng sản luôn nêu cao những câu ca dao rằng: “Bao giờ, dân nổi, can qua. Con vua thất thế lại ra quét chùa”.

Phá tan tất cả

Tin vào những lời lẽ lên án đanh thép và những lời đường mật đó, dân nghèo đất Việt đã hùa nhau “đi theo đảng” lật đổ phong kiến, thực dân để cho bọn “con vua thất thế” và con dân nghèo nhảy lên ngai vàng.

Tôi nhớ mãi bài thơ của Tố Hữu về một người đầy tớ, cuộc sống của ông được mô tả như sau:

“Đến già, còn bửa củi
Gánh nước, cuốc vườn cau
Đất bụi lấm đầy đầu
Mà chủ còn hất hủi!”

Khi đó, người cộng sản đã đến với họ với những lời đường mật:

Tôi riết chặt bàn tay
Của lão: “Bao nhiêu nỗi
Đau buồn và tức tối
Sẽ tan biến ngày mai…
Ông đã nghe ai nói
Có một xứ mênh mông
Nửa tây và nửa đông
Mạnh giầu riêng một cõi ?
Nơi không vua, không quan
Không hạng người ô uế
Không hạng người nô lệ
Sống đau xót, lầm than.
Nơi tiêu diệt lòng tham
Không riêng ai của cải
Hàng triệu người thân ái
Cùng chung sức nhau làm
Để cùng nhau vui sướng
Ai già nua tật nguyền
Thì cứ việc ngồi yên
Đã sẵn tiền nuôi dưỡng”. 

(Trích Lão đầy tớ – Tố Hữu)

Và người dân Việt cứ vậy mà sướng, mà ung dung khoan khoái “ngồi mơ nước Nga”

Và đám dân chúng cùng đinh ấy, đã đua nhau hò hét, cướp giết và lật đổ để xây dựng một đất nước cộng sản như được hứa hẹn.

Kết quả là kể từ khi cướp chính quyền bằng cuộc cách mạng 19/8/1945 trở đi, biết bao cuộc vận động, phong trào thúc giục người dân Việt Nam đạp đổ, phá nát tất cả mọi “tàn dư thực dân phong kiến” ở đất nước này, bất kể tốt, xấu quý giá hay rẻ mạt. Phá tất. Tất cả để nhằm xây dựng một nền văn hóa mới XHCN với đầy đủ những lời lẽ ru ngủ như ở đó “của cải tuôn ra dào dạt, mọi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, con người bình đẳng và làm chủ  xã hội”… Ôi chao, cứ như trong mơ về một “Thiên đường XHCN” ở ngay mặt đất này.

Những cuộc cách mạng “long trời, lở đất” như Cải Cách ruộng đất, cải tạo Công thương nghiệp tư bản, tư doanh, đánh tư sản… đã phá nát đến ngõ ngách không chỉ cơ sở vật chất và mối quan hệ xã hội được xây đắp bao đời, mà nền văn hóa ngàn đời cũng theo đó mà bị tận diệt.

Và người ta hy vọng rằng ở cái Thiên đường XHCN ấy là nơi “ Nơi không vua, không quan. Không hạng người ô uế. Không hạng người nô lệ. Sống đau xót, lầm than”.

Vết xe đổ, nhổ xong lại liếm!

Một thời gian mới cướp được chính quyền về tay mình và sau chiến tranh, người Cộng sản chưa vững ghế, chưa chắc chân, do vậy mọi hoạt động còn nhìn trước, ngó sau kẻo “Quan trên trông xuống, người ta trông vào”.  Thế nên việc đưa con cái, cháu chắt, người nhà vào chiếm những chiếc ghế béo bở trong bộ máy cai trị còn được chú ý, kiêng dè.

Thế nhưng, khi bộ máy được củng cố, nhà tù, súng đạn đã đầy đủ, ghế ngồi đã chắc chắn và nhất là khi người dân đã nếm đủ mọi mùi sự sợ hãi và khiếp nhược sau một thời gian dài cái “chuyên chính vô sản” tha hồ tác oai, tác quái… thì những người Cộng sản không ngại ngần trong việc ngang nhiên bất chấp tất cả để duy trì hệ thống độc tài toàn trị kiêm gia đình trị của từng vùng, từng lãnh thổ và cả đất nước.

Chính vì hệ thống cai trị chuyên quyền và độc tài, nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn. Những chiếc ghế cai trị dân bất cứ ở vị trí nào từ địa phương đến trung ương đã được dần dần định danh và định giá. Nếu trước đây, trên mạng Internet người ta có vẻ ngạc nhiên khi có thông tin chạy vào chức Chủ tịch Tp hết 30 tỷ đồng. Rồi người ta ngạc nhiên khi trong vụ án PMU 18 với thông tin chạy vào Trung ương Đảng hết 1 triệu đô la, thì đến nay, việc mua bán chức quyền đã là một điều như việc cơm ăn, nước uống hàng ngày.

Mới đây, bà Châu Thị Thu Nga khai đã chạy vào ĐBQH hết 30 tỷ đồng là chuyện không làm cho người ta ngạc nhiên.

Chính vì những chiếc ghế gắn liền với sự béo bở và là những đầu mối kiếm chác, tham nhũng vinh thân phì gia, mà các nhà chính trị, các nhà lãnh đạo đất nước đã không từ bỏ cơ hội bố trí người nhà, họ hàng vào các chân “Đầy tớ phục vụ nhân dân” này ngoài những phi vụ mua bán kiếm chác như đã nói ở trên.

Có lẽ khó có ai có thể tìm được một số người trong bộ máy công quyền tại Việt Nam hiện nay không xuất thân từ con ông cháu cha mà từ thực tài của bản thân không cần mua bán, chạy chọt phe nhóm.

Chắc chắn sẽ không có một Nguyễn Chí Vịnh thứ trưởng Bộ Quốc phòng nếu không phải là con Nguyễn Chí Thanh. Cũng sẽ không có một Nông Quốc Tuấn bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang nếu không phải là con Nông Đức Mạnh, càng không thể có một Lê Minh Hưng làm Thống đốc Ngân hàng nếu không phải con Lê Minh Hương, cựu bộ trưởng Công an.

Người ta cũng biết rằng Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh con của Trần Đức Lương, cựu chủ tịch nước hoặc Phạm Bình Minh Bộ trưởng ngoại giao là con Nguyễn Cơ Thạch. Và người ta thừa biết rằng nếu không phải con Nguyễn Văn Chi, thì Nguyễn Xuân Anh có nằm mơ đến bảy đời sau cũng không leo được lên chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Có thể kể cả ngày không hết hiện tượng “con ông, cháu cha” trong hệ thống nhà nước Việt Nam hiện tại.

Có lẽ thời kỳ “con ông cháu cha” hưng thịnh nhất là thời Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng. Một thời gian dài làm mưa làm gió trên chính trường Việt Nam với những câu nói và hành động bất nhất điển hình, Nguyễn Tấn Dũng đã thể hiện cho cả nước biết rằng khi có quyền lực trong tay thì “miệng quan trôn trẻ” là chuyện đương nhiên.

Khỏi cần nhắc lại những lời thề thốt của một người đứng đầu chính phủ và sự nuốt lời trong công việc, chỉ cần nhìn hai đứa con ông đều được “cấu tạo” thần tốc vào các chân lãnh đạo tỉnh thì biết rằng ông bất chấp tất cả miệng đời người thế. Và ông đã mở đầu, cổ vũ cho việc đưa người thân, gia đình, họ hàng vào chiếm ghế lãnh đạo.

Thế là đúng như cha ông đã nói “thượng bất chính, hạ tắc loạn” các quan chức các tỉnh thi nhau đưa con cái, cháu chắt ào ào vào những chiếc ghế béo bở như chỗ không người. Cả nước theo nhau làm đúng quy trình “Cha bổ nhiệm con, chồng cơ cấu vợ, chị nâng đỡ em”… mọc lên như nấm sau mưa.

Không chỉ ở Huế cả nhà làm quan, mà ở Bắc Ninh thì cả họ nhà Bí thư tỉnh ủy đều chiếm những vị trí quan trọng trong tỉnh. Không chỉ có Yên Bái, chị bổ nhiệm em, mà ở Hải Dương thì từ con trai cho đến em rể… tất cả đều làm quan “đúng quy trình”.

Về vấn đề này, báo chí cho  biết: Bộ Nội vụ đã kiểm tra, rà soát theo thông tin báo chí phản ánh, tổng hợp được 9 địa phương, đơn vị bao gồm: Tỉnh Hà Giang; xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế; Huyện Buôn Đôn, Đăk Lăk; tỉnh Bình Định; huyện Phong Điền, Cần Thơ; Cục thuế tỉnh Bà Rỉa – Vũng Tàu thuộc Tổng cục thuế – Bộ Tài chính; tỉnh Yên Bái; Trung tâm Pháp y thuộc Sở y tế TP. Đà Nẵng.

Nhưng đó chỉ mới là một phần nhỏ trong hệ thống công quyền hiện nay.

Không chỉ cả họ làm quan, mà hình thành một hệ thống còn hơn cả thời phong kiến vua chúa ngày xưa. Người dân Hà Tĩnh thường đùa với nhau rằng: Nếu như ở Mỹ chỉ có Tổng thống Bush cha và Bush con, thì ở Hà Tĩnh có từ Thoại ông, Thoại cha đến Thoại cháu. Nghĩa là cả ba đời đang thay nhau để cai trị đám dân đen ngu dốt chứ không dành phần cho ai.

Rồi không chỉ anh em, họ hàng, mà những người cánh hẩu được đưa vào giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước bất chấp khả năng. Báo chí đã nêu không biết bao nhiêu trường hợp đưa lái xe vào làm chánh văn phòng Ủy ban, thậm chí đưa lái xe lên làm Viện Trưởng, bổ nhiệm em trai có tiền sự bị bắt vì đánh bạc lên làm Giám đốc Sở… Những câu chuyện chắc chỉ có ở cái thời Cộng sản kiêm Phong kiến thối nát ở Việt Nam đầu thế kỷ 21 mà thôi.

Và hài hước thay, khi đã thành một hệ thống con vua thì lại làm vua như một định luật bất biến, thì hệ thống quan chức đã lập tức có những lý luận, bao biện hết sức… gây cười. Chẳng hạn Nguyễn Thị Quyết Tâm, Phó bí thư Thành ủy HCM cho rằng: “Con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc”. Điều này đã gây những phản ứng dữ dội trên mạng xã hội.

Hạnh phúc hay đại họa?

Cần phải nói rằng, một con người được hình thành bởi nhiều yếu tố cộng lại. Để làm một người lãnh đạo dân, cần hội tụ nhiều yếu tố cơ bản cần thiết, đặc biệt là sự thông minh, nhạy bén và nhất là sự hy sinh phục vụ. Với con người, yếu tố thông minh, tài giỏi có nguồn gốc lớn từ nguồn gen di truyền là chính, sự học hành, rèn luyện là cần thiết nhưng chỉ là một phần mà thôi.

Thế nhưng, thử xét theo cả hệ thống cộng sản xưa nay, trong một thể chế chính trị mà ngay từ đầu đã chủ trương “Trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ” – nghĩa là những tầng lớp ưu tú nhất đều bị loại bỏ, người Cộng sản chỉ ưu tiên Giai cấp công nhân vì họ nhận đó là giai cấp của họ. Mà xưa nay, công nhân chỉ có búa và đe thì họ thạo, còn chữ nghĩa, trí thông minh thì chẳng ai trông cậy vào cái giai cấp ấy.

Mà phần lớn những lão thành, những cá nhân đã từng leo đến chức lãnh đạo trong hàng ngũ cộng sản, đều xuất phát từ giai cấp công nhân, hoặc nông dân là tầng lớp liên minh mới được cất nhắc, bổ nhiệm và chú trọng, những thành phần ưu tú khác như “Trí, phú, địa, hào” thì đừng có mơ.

Vì thế có thể nói ngay rằng, về nguồn gen, họ chẳng được thừa hưởng bất cứ sự thông minh tài giỏi nào để lại. Ngược lại họ được thừa hưởng sự lưu manh, cơ hội và thiếu văn hóa cần thiết cho con người và xã hội.

Còn về tinh thần, đạo đức? Thì hẳn là những kẻ cố tình bám lấy cơ hội là cái ô cái lọng của cha ông, anh chị để leo lên giữ cái ghế của mình không bởi từ thực tài, đó là những kẻ cơ hội. Mà đã là cơ hội thì xin đừng nói đến tinh thần phục vụ bất cứ ai, kể cả người thân của mình.

Như vậy, việc bổ nhiệm con em cán bộ lãnh đạo lên làm lãnh đạo tiếp tục, cần phải được hiểu chính xác là đại họa của dân tộc. Chỉ là hồng phúc cho đám cơ hội vơ vét mà thôi.

Thì đã hẳn, cứ nhìn đất nước này sau mấy chục năm người cộng sản thi nhau cha truyền con nối làm tập thể vua lãnh đạo cho đến hôm nay  đứng trên bờ vực của sự suy đồi, sụp đổ mọi mặt thì sẽ thấy rõ ràng.

Còn quan chức ư? Cứ mở miệng ra câu nào thì dân đập vào miệng câu ấy đủ hiểu trình độ và tư duy của họ như thế nào.

Tạm kết

Có lẽ, khi người cộng sản ra sức tung hô chiếc bánh vẽ thiên đường xã hội chủ nghĩa, và qua đó ra sức chửi rủa hệ thống phong kiến và thực dân, họ cũng không ngờ rằng sẽ có một ngày nào đó, chính họ lại phải liếm lại bãi nước bọt mà họ đã nhổ ra.

Có ai ngờ, đến một  ngày, chính người cộng sản lúng túng đến mức chắc phải xé bỏ tất cả những trang sách giáo khoa và những tác phẩm văn học đã từng vận dụng câu ngạn ngữ dân gian rằng: “Còn vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”.

Bởi đơn giản là những câu đó nếu được nhắc lại thì chỉ tổ làm người ta thấy ớn lạnh, sửng sốt và kinh hãi trước sự lỳ lợm, sự điêu toa và sự thiếu liêm sỉ khi chính người dân nhìn vào hệ thống hiện nay.

Bởi ngày xưa chỉ có “con vua thì lại làm vua” còn ngày nay, con cháu họ hàng cán bộ đua nhau làm cán bộ.

Ngày xưa, cả đất nước chỉ có một vua, việc lạm dụng chức quyền cũng chỉ có một người. Còn ngày nay, bất cứ chỗ nào cũng có những đàn vua tập thể mang tên Đảng ủy và đàn cán bộ họ hàng, hang hốc nhà đảng viên chia chác nhau ghế ngồi trên đầu người dân.

Và đại họa của đất nước đang lừng lững đến một cách vững chắc nhất, nhanh chóng nhất và khủng khiếp nhất.

GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

From facebook:   Van Pham‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, hat and outdoor
Image may contain: sky and outdoor

Van Pham added 3 new photos.

 

Bài viết này của Thiếu Tá Vương Mộng Long (tốt nghiệp khóa 20 Võ Bị QG Đà Lạt), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động quân thuộc Liên Đoàn 2 BĐQ trấn thủ tại mặt trận Tây Nguyên… tôi đã đăng trước đây.

Nay qua cuốn phim “Vietnam War” vừa được trình chiếu tại Mỹ & phổ biến trên internet…. trong đó có nhiều điều chưa đúng sự thật hay còn thiếu sót. Tôi xin được đăng lại, để mọi người hiểu tại sao những tay “phản chiến” hoặc giới truyền thông báo chí thường bóp méo cuộc chiến Việt Nam qua lăng kính của người ngoài cuộc và thời thượng…

THƯA ĐẠO DIỄN LYNN NOVICK. ĐÂY MỚI LÀ GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

Xin mời bà con hãy đọc ở đây để công tâm hơn.
*************

Một chiều cuối năm 1998 tôi vào trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều.

Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C… C.).

So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ. Thật là, không có gì diễn tả nỗi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.

Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full time, đi học full time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quarter) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam.”

Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn.

Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý. Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp.

Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai (1954 1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Ðông Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Ðiện Biên Phủ, về Hiệp Ðịnh Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei Me, Khe Sanh, Kontum, Bình Long, Long Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Ðồng Minh và Việt Nam Cộng Hòa. Trận Mậu Thân, chỉ là cảnh… nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Thầy mô tả Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc Phòng Hoa Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Ðã có đôi lần tôi giơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm, “Book said!”

Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa Kỳ vào chỗ chết.

Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

Cả hai bài đều lãnh điểm “không” (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử tổng thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà tiểu bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Ðảng Dân Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Ðúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Ðể thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra. Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện được.

Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những chứng cứ thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.

Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ:
– Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

Thầy Dan niềm nở :
– Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng:
– Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên cao nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia Drang. Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia Drang đó.

Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Từ đó, tên Việt Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

Chính tên sát nhân này và đảng Cộng Sản Việt Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ cộng sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Ðồng Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Ðồng Minh tàn ác.

Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng 4 năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng 4 năm 1974.

Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
– Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
– Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
Tôi không ngần ngại, tiếp lời:
– Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.

Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Plei Me, Ðức Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
– Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?
Tôi cứ tình thực trả lời,
– Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.

Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Ðường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che giấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn Thám săn tin dọc biên giới Việt Miên Lào từ Khâm Ðức tới Bu Prang vào những năm 1972-1973.

Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã áp dụng trong trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975. Trận Xuân Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
– Trời ơi!”

Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng 4 năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh cộng sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp Ðịnh Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam. Quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Ðồng Minh vào Việt Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Ðồng Minh bàn giao lại. Ðể chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt Nam Cộng Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Ðoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

– Ðây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Ðà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Ðể chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Ðây là lời của anh ấy,

– Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Ði đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.

Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt Nam Cộng Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
– Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
– Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
– Cậu bé Việt Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm “không” (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
– Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
– Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

Ðêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Ðoàn II hòa tấu.

Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A.A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm:
– Long! I’m proud of you!

Ðến lúc bà hiệu trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”

Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi.”

Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những dòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
– Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

VƯƠNG MỘNG LONG.