Hàng chục hộ dân ở khu phố Khánh Sơn, TP Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa bị ngập chìm trong nước sâu, tài sản bị thiệt hại nặng nề, cuộc sống bị cô lập, đảo lộn … Thế nhưng, nhiều lần người dân trực tiếp gọi điện ‘cầu cứu’ Chủ tịch TP Sầm Sơn trợ giúp nhưng ông này không nhấc máy.
Nuoc ngap den ban tho, dan dien ‘cau cuu’ Chu tich khong nhac may – Anh 1
Nước ngập sâu vào từng nhà, người dân chỉ biết đứng khóc nhìn tài sản bị nhấn chìm. Ảnh: Văn Thanh
Sống dưới một chế độ dựa trên sự lọc lừa và gian xảo thì người ngay chính như anh không có đất sống. Ngay cả bác sĩ, giáo viên mà còn bán cả lương tâm vì đồng tiền thì nói gì đến các nghề khác.
Ai sinh ra trên đời này cũng muốn mình có một việc làm cao quý, được người khác nể trọng. Không ai dại dột đến mức đi nói xấu ngh…ề nghiệp mình đang làm. Nói xấu nghề nghiệp của mình nghĩa là nói xấu bản thân mình.
Việc tôi nói “Luật sư chỉ làm cảnh cho đẹp phiên tòa, để người khác nhìn vào tưởng phiên tòa có dân chủ. Sự thật thì luật sư Việt Nam chỉ có vai trò duy nhất là Cò chạy án, để lừa dân lấy tiền”.
Đây là sự thật phũ phàng mà mọi người sống trong xã hội này đều biết và nhận thấy. Tôi nói ra sự thật này với tấm lòng mong muốn cho nghề luật sư ở Việt Nam được tốt đẹp hơn, để công lý và công bằng đến với mọi người.
Sau khi tôi viết nhiều bài về đề tài luật sư chạy án, đồng nghiệp ở khắp nơi ném đá dữ dội, họ chửi, họ nguyền rủa, họ nói tôi là kẻ phản bội, nói xấu luật sư và bị Đoàn luật sư đưa ra kỷ luật.
Tôi biết trước việc này sẽ xảy ra nhưng phải nói, vì nếu tôi không nói thì lương tâm tôi cắn rứt không chịu được. Nếu tôi bị kỷ luật rút thẻ luật sư thì tôi vẫn không hối hận việc mình đã nói.
Đoàn luật sư phải hiểu rõ nói thật thì khác nói xấu: nói thật là nói ra những điều có thật mọi người đều biết, còn nói xấu là chuyện không nói có !
Tài năng và đức độ của Trần Hưng Đạo đã đi vào thanh sử, được dân chúng bao thế hệ nay tôn thờ gọi ông là “Đức Thánh Trần”. Sử gia Nguyễn Khắc Thuần tóm lược:
“Bởi tấm lòng ấy, bởi tài năng ấy, Trần Hưng Đạo khiến cho muôn đời cảm phục. Vũ Phạm Hàm (từng đỗ tam nguyên thời nhà Nguyễn-LP) đã có đôi câu đối để ở đền thờ Vạn Kiếp rằng:
Núi Vạn Kiếp chẳng nơi đâu là không có kiếm khí Sông Bạch Đằng không có ngọn song nào không có hơi vũ khí,
Tức ca ngợi võ ông oanh liệt của Trần Hưng Đạo.
Và tôi đã đọc được những câu đối, kể cả những câu đối của người Trung Quốc đã ca ngợi Trần Hưng Đạo hết lời. Xin chọn một câu làm ví dụ:
“Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoành thiên vạn lý.
Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung Quốc sử tiền miễn Nguyên triều đô hộ nhất bách thiên”
Nghĩa là: Đất mà hoán chuyển cho người Việt lên ở phương Bắc, thì ngựa Mông Cổ không thể nào tung hoành ngàn vạn dặm đất Châu Âu – Trời mà sinh đấng lương tài này (tức Trần Hưng Đạo-LP) trên đất Tống thì lịch sử Trung Quốc không có chuyện bị Nguyên triều cai trị 100 năm.
Lời ca ngợi như thế là tột đỉnh của sự ca ngợi, và Trần Hưng Đạo xứng đáng nhận được những lời ca ngợi đó, không phải của người đương thời mà là của người hậu thế.
Đến hôm nay, tượng Trần Hưng Đạo được dựng lên ở khắp nơi, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở khắp nơi, và những bức tượng ấy, đền thờ ấy là kết tinh của sự sự kính trọng của người Việt Nam đối với Trần Hưng Đạo. Tên tuổi của Trần Hưng Đạo còn được dùng để đặt cho nhiều đường phố, trường học và công sở khác. Tên ông còn sống mãi với non sông này, đất nước này”. ———- Tranh thờ Đức Thánh Trần, đời Nguyễn.
Phương Trạch (Danlambao) – Mấy hôm nay, các báo lề đảng đồng loạt đưa tin: “Phó phòng gặp sự cố ở siêu thị Nhật”. Theo đó: “Thông tin từ Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN), một cán bộ của Cục này “gặp sự cố” khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật Bản. Cán bộ này sau khi gặp sự cố đã được cảnh sát địa phương của Nhật mời lên làm việc.”
“Sau khi cán bộ này báo cáo, giải trình, cảnh sát địa phương Nhật Bản đã cho cán bộ này về và đang tiếp tục công tác”.
“PGS-TS Nguyễn Tuấn Khải (Cục trưởng Cục An toàn và bức xạ hạt nhân, Bộ KHCN) hôm qua thông tin với báo chí, Cục này đang phối hợp với phía cảnh sát địa phương Nhật Bản để làm rõ thông tin liên quan đối với cán bộ của mình”.
“Ông T.Q.H, hiện là phó phòng một đơn vị của Cục bị giữ lại tại Nhật Bản vì nghi vấn liên quan đến trộm cắp ở một siêu thị của nước này.
Được biết, khi “gặp sự cố”, ông T.Q.H sang Nhật để tham dự một hội thảo”(1).
Điều thú vị là các báo gần như sao chép một nội dung, tuy tựa đề có thay đổi đôi chút cho có chút nét riêng của minh. Nhưng nội dung thì là một. Tất cả đều dùng từ “sự cố” để lấp liếm, che đậy cho hành vi xấu xa của vị Phó phòng này, mà không dám nói thẳng ra là… ăn cắp.
Có thể nói rằng, ở Việt Nam hiện có 845 tờ báo các loại (tính đến đầu năm 2014). Nhưng chỉ có một Tổng Biên tập, đó là Ban Tuyên giáo TƯ, quả không sai.
Điều này làm người ta nhớ lại vụ nhân bản xét nghiệm máu ở BV Đa khoa Hoài Đức năm 2013 vậy. Chỉ với một kết quả xét nghiệm, người ta sáng tạo ra rất nhiều kết quả khác, nhằm “ăn cắp” tiền ngân sách.
Có lẽ từ nay, các nhà làm Từ điển Việt Nam phải thêm một định nghĩa nữa, để bổ sung cho định nghĩa về “sự cố” trước đây.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sự cố”(danh từ): Điều bất thường và không hay xả ra trong suốt một quá trình hoạt động nào đó: Máy móc gặp sự cố, có sự cố trên đường đi v.v…”(2).
Có thể gọi đây là Định nghĩa A
Nay cần bổ sung Định nghĩa B: “Sự cố là cán bộ nhà nước, đi nước ngoài, ăn cắp và bị bắt”.
Nói về truyền thống ăn cắp của một số cán bộ nhà nước khi đi nước ngoài, không ai giàu “thành tích” bằng cô Biên tập viên của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) Kiều Trinh. Cô này được dư luận phong hàm ăn cắp đạt đẳng cấp quốc tế. Nhờ tài ăn cắp hai lần ở nước ngoài, mà cô này sau đó đã được ưu ái lên chức Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban Thời sự của VTV.
Không biết ở những siêu thị trong nước, “bàn tay sáu ngón” của cô này đã “thi thố” được bao nhiêu lần nữa?
Dân mạng không còn lạ gì Kiều Trinh, là con gái nguyên Uỷ viên trung ương Đảng, Tổng giám đốc đài truyền hình Việt Nam Vũ Văn Hiến.
Năm 2001, Kiều Trinh được cử sang Thụy Điển 3 tuần. Ngay tuần đầu, ngày 11-2-2001, cô đã bị cảnh sát thành phố Kalmar bắt vì tội ăn cắp hàng trong siêu thị. Lúc đầu cô nàng chối bai bải, nhưng khi mở băng ghi hình thì phải cúi đầu nhận tội. Cô nàng đã ăn cắp số mỹ phẩm trị giá 400 đô la. Số tiền đó không lớn, nhưng ở Thụy Điển người ta trị ăn cắp, tham nhũng rất nghiêm, nên theo luật Kiều Trinh phải ngồi tù.
Vì Kiều Trinh là con của Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), nên Đại sứ quán Việt Nam ở Thụy Điển phải ra tay. Và sau một tuần bị giam, ngày 16-2-2001, cô nàng được tha, sau khi có giấy của bác sỹ xác nhận nhận Kiều Trinh bị “bệnh tâm thần” từ Việt Nam gửi sang.
Ngày 18-2-2001, Kiều Trinh bị trục xuất về nước. Đón cô ở sân bay, diễn viên điện ảnh Trần Lực đã tặng một cái tát, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ đó.
Năm 2006, Kiều Trinh được sang nước Anh công tác. “Bệnh tâm thần” lại tái phát và cô nàng đã thó chiếc máy ảnh kỹ thuật số trong shop. Một lần nữa ông Hiến lại phải cứu con gái bằng việc nhờ Đại sứ quán can thiệp và tờ giấy của bác sỹ chứng nhận bệnh tâm thần lại đưa ra sử dụng!
Năm 2009, Kiều Trinh được kết nạp đảng và được đề bạt làm Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban thời sự. Chả trách gì mà một số báo lề đảng ca ngợi cô này là BTB đa tài.
Thật là mỉa mai khi nữ BTV “tài ba” này vẫn đang trực tiếp lên sóng rất nhiều chương trình mang tính nhân văn, triết lý cao cả, để rao giảng về đạo đức cho mọi người(3).
Trở lại vụ ông Phó phòng của Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN) đang gặp “sự cố”. Ông này bị cảnh sát Nhật “hỏi thăm” vì bị nghi ăn cắp khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật. Được biết, vị cán bộ này cùng đoàn Việt Nam sang Nhật để hội thảo. Hiện cảnh sát Nhật đã thả nhân vật này, nhưng phía Việt Nam nói sẽ “làm rõ” vụ việc với cảnh sát địa phương.
Mặc dù báo chí trong nước chỉ ghi tên tắt nhân vật này là T.Q.H, nhưng vào website của Cục An toàn Bức xạ nhiệt, thuộc Bộ KHCN, thì có tên Thạc sĩ Trần Quốc Hùng, giống như mô tả của báo chí. Đây là chân dung và quá trình công tác của ông Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và chính sách của Cục An toàn Bức xạ nhiệt như sau:
Thạc sỹ Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và Chính sách. Sinh ngày 18/11/1975. Số điện thoại: 04.32321042 (4).
Xin mời mọi người “chiêm ngưỡng” những hình ảnh vị Phó phòng này đang “trổ tài” tại siêu thị Nhật, đã được trang mạng “Trần Đại Quang.org” ghi lại theo đường dẫn sau đây: (5).
Với việc nở rộ các lò ấp Tiến sỹ như hiện nay tại VN, cứ mỗi ngày sòn sòn cho ra lò vài vị TS, thì có thể sau chuyến công du này về, có thêm tiền để lo lót, chi phí, thì cái bằng TS coi như ông Phó phòng này cầm chắc trong tay. Vậy thì việc cố tình “cầm nhầm” này của ông Trần Quốc Hùng có thể nói là “vì đại nghĩa”. Vì ông này thấy rằng, cái bằng TS của cựu Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh xài bấy lâu nay, bỗng dưng nay bị khui ra là “không đúng quy định”. Vậy muốn bằng cấp “đúng quy đinh” thì phải thêm tiền. Trong xã hội này, cái gì cũng có giá của nó cả.
Xin giới thiệu “chân dung” của ngài phó phòng gặp “sự cố”. “Thân thế và sự nghiệp” của vị này cũng đã được trang “Trần Đại Quang. Org” giới thiệu theo đường dẫn trên (5)…
Có thể nói rằng, ăn cắp đã trở thành truyền thống của hàng ngũ cán bộ hiện nay của nhà nước CSVN. Tất cả mọi ngành từ thấp đến cao đều cố gắng ăn cắp theo từng mức độ và cách thức khác nhau. Những người có chức quyền và địa vị càng cao thì ăn cắp càng lớn. Số tiền chui vào túi họ không phải là dăm ba trăm triệu, mà hàng chục hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ. Như Trịnh Xuân Thanh hay Đinh La Thăng, Trần Văn Truyền v.v…
Việc ăn cắp cũng rất bài bản và rất “đúng quy trình”. Như Tập đoàn BOT, hàng ngày ăn cắp một cách hợp pháp biết bao mồ hôi xương máu của nhân dân. Những mặt hàng nhà nước nắm độc quyền như điện, xăng dầu…thì họ cần tiền là cứ việc tăng giá vô tội vạ. Người dân biết đó là hình thức ăn cắp trắng trợn mà không làm gì được. Vì xe muốn chạy thì phải đổ xăng. Muốn nấu cơn, bơm nước thì phải dùng đến điện.
Việc nhà nước liên tục tăng các loại thuế, phí là kiểu móc túi theo chủ trương “vặt long vịt mà không cho vịt kêu”, là một “nghệ thuật” ăn cắp rất đẳng cấp thời nhà sản.
Những Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Thị Kim Tiến, Võ Kim Cự v.v… là những kẻ ăn cắp bậc thầy. Tại sao không thấy nhóm đốt lò của phe ông Trọng làm đến nơi đến chốn? Hay là vì vướng số tiền 3.200 tỷ thâm lạm ngân sách của Hà Nội thời ông Trọng còn làm Bí thư, mà đến nay không giải trình được, coi như “để lâu cứt trâu hóa bùn”?
Có người nói rằng, từ “Ăn cắp” là những kẻ nó lấy của người ta nhưng không dám chường mặt ra, chờ người ta sơ hở, mất cảnh giác… Nạn nhân bị mất nhưng không biết hoặc là không bắt được thủ phạm. Còn đây không phải như vậy. Nói ăn cắp là oan cho họ.”
Vậy xin thưa: Có thể dùng từ “móc túi” để nói về những người này được không? Loại không dám “chường mặt ra” chỉ là loại ăn cắp vặt. Còn loại người đường đường chính chính, dùng các “chủ trương, chính sách” để “móc túi” một cách hợp pháp và “đúng quy trình” là loại ăn cắp cao cấp. Loại này còn nguy hiểm gấp ngàn lần loại ăn cắp vặt kia. Chống đối họ có khi còn bị quy chụp tội nọ tội kia, và nhiều khi phải trả giá. Đúng. Nói ăn cắp là oan cho họ. Phải gọi là ăn cướp mới đúng bản chất của sự việc. Vì họ đâu có cần rình mò, ẩn nấp. Mà họ là những người ‘mũ cao áo rộng”, hành động giữa “thanh thiên bạch nhật”, mà không ai dám động đến họ.
Tục ngữ VN có câu:
“Chân mình lấm cứt tèm lem
Lại cầm bó đuốc soi xem chân người”…
Quả là rất đúng với ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện nay.
Và ai dám chắc những tập đoàn lớn đã và đang ăn cắp hàng ngàn tỷ kia qua hàng chục công trình đang “đắp chiếu” trên khắp đất nước hiện nay, không có “dấu vân tay” của ngài Tổng Bí thư?
Phương Trạch (Danlambao) – Mấy hôm nay, các báo lề đảng đồng loạt đưa tin: “Phó phòng gặp sự cố ở siêu thị Nhật”. Theo đó: “Thông tin từ Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN), một cán bộ của Cục này “gặp sự cố” khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật Bản. Cán bộ này sau khi gặp sự cố đã được cảnh sát địa phương của Nhật mời lên làm việc.”
“Sau khi cán bộ này báo cáo, giải trình, cảnh sát địa phương Nhật Bản đã cho cán bộ này về và đang tiếp tục công tác”.
“PGS-TS Nguyễn Tuấn Khải (Cục trưởng Cục An toàn và bức xạ hạt nhân, Bộ KHCN) hôm qua thông tin với báo chí, Cục này đang phối hợp với phía cảnh sát địa phương Nhật Bản để làm rõ thông tin liên quan đối với cán bộ của mình”.
“Ông T.Q.H, hiện là phó phòng một đơn vị của Cục bị giữ lại tại Nhật Bản vì nghi vấn liên quan đến trộm cắp ở một siêu thị của nước này.
Được biết, khi “gặp sự cố”, ông T.Q.H sang Nhật để tham dự một hội thảo”(1).
Điều thú vị là các báo gần như sao chép một nội dung, tuy tựa đề có thay đổi đôi chút cho có chút nét riêng của minh. Nhưng nội dung thì là một. Tất cả đều dùng từ “sự cố” để lấp liếm, che đậy cho hành vi xấu xa của vị Phó phòng này, mà không dám nói thẳng ra là… ăn cắp.
Có thể nói rằng, ở Việt Nam hiện có 845 tờ báo các loại (tính đến đầu năm 2014). Nhưng chỉ có một Tổng Biên tập, đó là Ban Tuyên giáo TƯ, quả không sai.
Điều này làm người ta nhớ lại vụ nhân bản xét nghiệm máu ở BV Đa khoa Hoài Đức năm 2013 vậy. Chỉ với một kết quả xét nghiệm, người ta sáng tạo ra rất nhiều kết quả khác, nhằm “ăn cắp” tiền ngân sách.
Có lẽ từ nay, các nhà làm Từ điển Việt Nam phải thêm một định nghĩa nữa, để bổ sung cho định nghĩa về “sự cố” trước đây.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Sự cố”(danh từ): Điều bất thường và không hay xả ra trong suốt một quá trình hoạt động nào đó: Máy móc gặp sự cố, có sự cố trên đường đi v.v…”(2).
Có thể gọi đây là Định nghĩa A
Nay cần bổ sung Định nghĩa B: “Sự cố là cán bộ nhà nước, đi nước ngoài, ăn cắp và bị bắt”.
Nói về truyền thống ăn cắp của một số cán bộ nhà nước khi đi nước ngoài, không ai giàu “thành tích” bằng cô Biên tập viên của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) Kiều Trinh. Cô này được dư luận phong hàm ăn cắp đạt đẳng cấp quốc tế. Nhờ tài ăn cắp hai lần ở nước ngoài, mà cô này sau đó đã được ưu ái lên chức Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban Thời sự của VTV.
Không biết ở những siêu thị trong nước, “bàn tay sáu ngón” của cô này đã “thi thố” được bao nhiêu lần nữa?
Dân mạng không còn lạ gì Kiều Trinh, là con gái nguyên Uỷ viên trung ương Đảng, Tổng giám đốc đài truyền hình Việt Nam Vũ Văn Hiến.
Năm 2001, Kiều Trinh được cử sang Thụy Điển 3 tuần. Ngay tuần đầu, ngày 11-2-2001, cô đã bị cảnh sát thành phố Kalmar bắt vì tội ăn cắp hàng trong siêu thị. Lúc đầu cô nàng chối bai bải, nhưng khi mở băng ghi hình thì phải cúi đầu nhận tội. Cô nàng đã ăn cắp số mỹ phẩm trị giá 400 đô la. Số tiền đó không lớn, nhưng ở Thụy Điển người ta trị ăn cắp, tham nhũng rất nghiêm, nên theo luật Kiều Trinh phải ngồi tù.
Vì Kiều Trinh là con của Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), nên Đại sứ quán Việt Nam ở Thụy Điển phải ra tay. Và sau một tuần bị giam, ngày 16-2-2001, cô nàng được tha, sau khi có giấy của bác sỹ xác nhận nhận Kiều Trinh bị “bệnh tâm thần” từ Việt Nam gửi sang.
Ngày 18-2-2001, Kiều Trinh bị trục xuất về nước. Đón cô ở sân bay, diễn viên điện ảnh Trần Lực đã tặng một cái tát, chấm dứt quan hệ vợ chồng từ đó.
Năm 2006, Kiều Trinh được sang nước Anh công tác. “Bệnh tâm thần” lại tái phát và cô nàng đã thó chiếc máy ảnh kỹ thuật số trong shop. Một lần nữa ông Hiến lại phải cứu con gái bằng việc nhờ Đại sứ quán can thiệp và tờ giấy của bác sỹ chứng nhận bệnh tâm thần lại đưa ra sử dụng!
Năm 2009, Kiều Trinh được kết nạp đảng và được đề bạt làm Trưởng phòng Văn hóa dân tộc, Ban thời sự. Chả trách gì mà một số báo lề đảng ca ngợi cô này là BTB đa tài.
Thật là mỉa mai khi nữ BTV “tài ba” này vẫn đang trực tiếp lên sóng rất nhiều chương trình mang tính nhân văn, triết lý cao cả, để rao giảng về đạo đức cho mọi người(3).
Trở lại vụ ông Phó phòng của Cục An toàn bức xạ nhiệt (Bộ KHCN) đang gặp “sự cố”. Ông này bị cảnh sát Nhật “hỏi thăm” vì bị nghi ăn cắp khi mua hàng trong một siêu thị của Nhật. Được biết, vị cán bộ này cùng đoàn Việt Nam sang Nhật để hội thảo. Hiện cảnh sát Nhật đã thả nhân vật này, nhưng phía Việt Nam nói sẽ “làm rõ” vụ việc với cảnh sát địa phương.
Mặc dù báo chí trong nước chỉ ghi tên tắt nhân vật này là T.Q.H, nhưng vào website của Cục An toàn Bức xạ nhiệt, thuộc Bộ KHCN, thì có tên Thạc sĩ Trần Quốc Hùng, giống như mô tả của báo chí. Đây là chân dung và quá trình công tác của ông Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và chính sách của Cục An toàn Bức xạ nhiệt như sau:
Thạc sỹ Trần Quốc Hùng, Phó trưởng phòng Pháp chế và Chính sách. Sinh ngày 18/11/1975. Số điện thoại: 04.32321042 (4).
Xin mời mọi người “chiêm ngưỡng” những hình ảnh vị Phó phòng này đang “trổ tài” tại siêu thị Nhật, đã được trang mạng “Trần Đại Quang.org” ghi lại theo đường dẫn sau đây: (5).
Với việc nở rộ các lò ấp Tiến sỹ như hiện nay tại VN, cứ mỗi ngày sòn sòn cho ra lò vài vị TS, thì có thể sau chuyến công du này về, có thêm tiền để lo lót, chi phí, thì cái bằng TS coi như ông Phó phòng này cầm chắc trong tay. Vậy thì việc cố tình “cầm nhầm” này của ông Trần Quốc Hùng có thể nói là “vì đại nghĩa”. Vì ông này thấy rằng, cái bằng TS của cựu Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh xài bấy lâu nay, bỗng dưng nay bị khui ra là “không đúng quy định”. Vậy muốn bằng cấp “đúng quy đinh” thì phải thêm tiền. Trong xã hội này, cái gì cũng có giá của nó cả.
Xin giới thiệu “chân dung” của ngài phó phòng gặp “sự cố”. “Thân thế và sự nghiệp” của vị này cũng đã được trang “Trần Đại Quang. Org” giới thiệu theo đường dẫn trên (5)…
Có thể nói rằng, ăn cắp đã trở thành truyền thống của hàng ngũ cán bộ hiện nay của nhà nước CSVN. Tất cả mọi ngành từ thấp đến cao đều cố gắng ăn cắp theo từng mức độ và cách thức khác nhau. Những người có chức quyền và địa vị càng cao thì ăn cắp càng lớn. Số tiền chui vào túi họ không phải là dăm ba trăm triệu, mà hàng chục hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỷ. Như Trịnh Xuân Thanh hay Đinh La Thăng, Trần Văn Truyền v.v…
Việc ăn cắp cũng rất bài bản và rất “đúng quy trình”. Như Tập đoàn BOT, hàng ngày ăn cắp một cách hợp pháp biết bao mồ hôi xương máu của nhân dân. Những mặt hàng nhà nước nắm độc quyền như điện, xăng dầu…thì họ cần tiền là cứ việc tăng giá vô tội vạ. Người dân biết đó là hình thức ăn cắp trắng trợn mà không làm gì được. Vì xe muốn chạy thì phải đổ xăng. Muốn nấu cơn, bơm nước thì phải dùng đến điện.
Việc nhà nước liên tục tăng các loại thuế, phí là kiểu móc túi theo chủ trương “vặt long vịt mà không cho vịt kêu”, là một “nghệ thuật” ăn cắp rất đẳng cấp thời nhà sản.
Những Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Thị Kim Tiến, Võ Kim Cự v.v… là những kẻ ăn cắp bậc thầy. Tại sao không thấy nhóm đốt lò của phe ông Trọng làm đến nơi đến chốn? Hay là vì vướng số tiền 3.200 tỷ thâm lạm ngân sách của Hà Nội thời ông Trọng còn làm Bí thư, mà đến nay không giải trình được, coi như “để lâu cứt trâu hóa bùn”?
Có người nói rằng, từ “Ăn cắp” là những kẻ nó lấy của người ta nhưng không dám chường mặt ra, chờ người ta sơ hở, mất cảnh giác… Nạn nhân bị mất nhưng không biết hoặc là không bắt được thủ phạm. Còn đây không phải như vậy. Nói ăn cắp là oan cho họ.”
Vậy xin thưa: Có thể dùng từ “móc túi” để nói về những người này được không? Loại không dám “chường mặt ra” chỉ là loại ăn cắp vặt. Còn loại người đường đường chính chính, dùng các “chủ trương, chính sách” để “móc túi” một cách hợp pháp và “đúng quy trình” là loại ăn cắp cao cấp. Loại này còn nguy hiểm gấp ngàn lần loại ăn cắp vặt kia. Chống đối họ có khi còn bị quy chụp tội nọ tội kia, và nhiều khi phải trả giá. Đúng. Nói ăn cắp là oan cho họ. Phải gọi là ăn cướp mới đúng bản chất của sự việc. Vì họ đâu có cần rình mò, ẩn nấp. Mà họ là những người ‘mũ cao áo rộng”, hành động giữa “thanh thiên bạch nhật”, mà không ai dám động đến họ.
Tục ngữ VN có câu:
“Chân mình lấm cứt tèm lem
Lại cầm bó đuốc soi xem chân người”…
Quả là rất đúng với ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiện nay.
Và ai dám chắc những tập đoàn lớn đã và đang ăn cắp hàng ngàn tỷ kia qua hàng chục công trình đang “đắp chiếu” trên khắp đất nước hiện nay, không có “dấu vân tay” của ngài Tổng Bí thư?
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại lễ khai mạc đại hội Đảng 12 ở Hà Nội hôm 21/1/2016.
AFP
Cứ mỗi khi tình hình kinh tế, xã hội trở nên tồi tệ, các mâu thuẫn nội tại chuyển hóa thành gay gắt thì ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) lại tìm cách đổi mới, cải cách, ra nghị quyết và kêu gọi tinh thần quyết tâm. Những cải cách ấy dù có chút tác dụng tích cực nhưng cũng chỉ là nửa vời.
Năm 1986, trước cuộc khủng hoảng kinh tế dẫn đất nước đến bên bờ vực thẳm, VN (Việt Nam) đã phát động đổi mới (mà thực chất là sửa sai). Cuộc đổi mới này tuy “đã thu được kết quả ban đầu, về sau ngày càng đuối sức, trở về cảnh trì trệ kéo dài, ngày càng nặng nề, để càng đổi mới càng tụt hậu và khủng hoảng nặng nề thêm mà vẫn không sao tìm ra lối thoát” (VOA). Nền kinh tế vẫn yếu kém và bế tắc như chúng ta đều thấy bởi đã kinh tế thị trường lại còn mang theo cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”; bởi kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo và đặc biệt là bởi cải cách kinh tế nhưng không cải cách chính trị, chế độ vẫn là chế độ độc tài.
Cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước, hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ hàng loạt ở Liên Xô và Đông Âu, đồng thời khủng hoảng ngoại giao dẫn đến VN bị cô lập trên trường quốc tế. Để vớt vát phần nhỏ nhoi còn lại của khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) và để cứu đảng, ĐCSVN phải xin bình thường hóa với TQ (Trung Quốc). Sự kiện này được đánh dấu bắt đầu bởi Hội nghị Thành Đô. Kết quả Hội nghị này ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế của VN. Việc bình thường hóa quan hệ với TQ tuy khắc phục được một số hậu quả của quá khứ nhưng từ đó VN phụ thuộc ngày càng nặng nề vào TQ về chính trị, kinh tế, mất thêm biển đảo và đất liền.
Và bây giờ, bức tranh về VN là một màu đen tối ở tất cả các mặt của đời sống xã hội. Kinh tế trì trệ, tham nhũng len lỏi vào từng con ốc trong guồng máy vận hành đất nước, quan chức tham lam hống hách và trơ trẽn, đạo đức xã hội suy đồi, cái ác lên ngôi, mọi giá trị bị đảo lộn, nỗi oan ức thống khổ của nhân dân ở đâu cũng nhìn thấy bởi sự khốn nạn của hệ thống tư pháp và quan chức.
Hệ thống chính trị như một ngôi nhà đã mục ruỗng và vì vậy, Hội nghị Trung ương 6 (khóa 12) lại đặt ra vấn đề đổi mới chính trị nhưng chỉ là sắp xếp tổ chức lại bộ máy sao cho tinh gọn để “hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Vấn đề tinh giản bộ máy cũng như chống tham nhũng không phải đến bây giờ mới nhắc tới mà đặt ra đã từ lâu, từ năm mươi hay sáu mươi năm có lẽ ít ai còn nhớ. Cũng nghị quyết, cũng hô hào, cũng quyết tâm, nhưng mỗi lần quyết tâm, thi đua đem lại kết quả thế nào thì… như đã biết.
Nguyên nhân của tình trạng này là mỗi lần cải cách, đổi mới ĐCSVN chỉ đưa ra được những biện pháp tình thế nhằm cứu vãn đảng. Cải cách nhưng vẫn phải giữ mục tiêu chủ nghĩa xã hội – thứ mà không ai hình dung được nó như thế nào, đã kinh tế thị trường lại phải định hướng XHCN, kinh tế nhiều thành phần nhưng vẫn phải kinh tế nhà nước là chủ đạo và cuối cùng là cải cách, đổi mới kiểu gì thì ĐCSVN vẫn phải độc quyền lãnh đạo. Đây là những mâu thuẫn mà ĐCSVN không muốn nhìn thấy. Nguyên nhân của sự nửa vời là ở chỗ ấy.
Thiết nghĩ khoảng thời gian đã quá dài, kể từ khi điều hành đất nước năm 1954 đủ cho ĐCSVN loay hoay, thử nghiệm với những thất bại đau đớn để thấy cần phải cải tổ chứ không chỉ cải cách nửa vời. Làm điều đó phải chấp nhận vứt bỏ quyền lợi ích kỷ, phi lý của cá nhân, của một nhóm lợi ích hay của một đảng phái để đi tới một nền chính trị dân chủ đa nguyên, xây dựng một nhà nước pháp quyền với mô hình tam quyền phân lập. Tiếc rằng, cho đến bây giờ, mấy chữ đa nguyên, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là kỵ húy, “nhạy cảm” trong đảng CSVN và trong xã hội. Những người mạnh dạn nhất cũng mới chỉ manh nha đề cập đến việc tách đảng, đổi tên nước mà thôi. Nhiều người hoạt động dân chủ bị tống vào tù nhằm bịt tiếng nói của họ và xu hướng bắt bớ ngày càng gia tăng. Chỉ tính từ đầu năm 2017 đến nay đã có 24 người hoạt động bị bắt hoặc bị truy nã.
Hiện nay, giới dân chủ chưa ai đặt ra vấn đề phải xóa đảng cộng sản bằng bạo lực cho dù muốn hay không. Nói thẳng ra là việc này không làm được và không phù hợp với xu thế của thời đại. Mục tiêu của giới dân chủ hướng tới là dân chủ đa nguyên với chủ trương bất bạo động. Đa đảng là để cạnh tranh chính trị, kiểm soát quyền lực, tập trung trí tuệ và tâm huyết để đưa đất nước phát triển. Thế nhưng, người ta luôn mang vấn đề đa đảng ra làm con ngáo ộp để hù dọa nhân dân, bất chấp đa số nhân loại đi theo mô hình dân chủ đã chứng minh là không có con ngáo ộp ấy.
Sẽ chẳng có ai đòi loại trừ đảng CSVN nếu thực hiện đa đảng. Họ tha hồ thể hiện mình trong cạnh tranh. Họ vẫn tranh cử và tham gia điều hành đất nước như các đảng phái khác. Có điều số phiếu của họ phụ thuộc vào tín nhiệm của cử tri trong những cuộc bầu cử tự do mà thôi. Nếu họ làm không tốt, vẫn thể hiện như trước đó, nhân dân sẽ quay lưng lại với họ.
Loay hoay cải cách với đổi mới sẽ chẳng bao giờ đi đến đâu. Cái sự luẩn quẩn ấy giống như con kiến leo cành đa (leo phải cành cụt leo ra leo vào). Thử nghiệm mãi thì sức dân đã mệt mỏi, tinh thần đã chán chường, lòng tin đã cạn. Kinh tế thị trường vì có cạnh tranh thì mới thúc đẩy được sản xuất phát triển. Vì vậy không có lý do gì để chính trị không có đa đảng, trừ khi bị cưỡng ép. Một chế độ chính trị đa nguyên ở VN lúc này là lối thoát duy nhất cho đất nước, cho dân tộc. Nếu ĐCSVN tự tin ở mình thì sợ gì mà không dám cạnh tranh với các đảng phái khác?
Nguyên Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Lê Khả Phiêu, nói chuyện tại nhà riêng ở Hà Nội hôm 22/4/2009.
AFP
Trước thềm Hội nghị Trung ương 6 bàn về đổi mới bộ máy chính trị, hàng loạt tờ báo đã đăng tải bài phỏng vấn của cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, trong đó ông nhấn mạnh về tính cấp thiết của đổi mới bộ máy chính trị bằng cụm từ “không còn đường lùi”.
Tình thế lưỡng nan mà Đảng Cộng sản đang đối mặt đến từ chính công thức cầm quyền của họ vài thập niên gần đây. Để đảm bảo vị trí độc tôn của mình, trong bối cảnh lý tưởng đại đồng cộng sản đã hết sức sống, đảng chỉ còn biết dùng lợi ich vật chất để mua sự trung thành của nhiều người nhất có thể.
Hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương cũng vì thế mà phình ra không ngừng. Có thời điểm người ta tính được có tới 11 triệu người hưởng lương ngân sách. Chỉ cần nhẩm tính mỗi lao động hưởng lương ngân sách lại nuôi 2-3 người phụ thuộc sẽ thấy đảng đã xây dựng được một nền tảng ủng hộ làm bệ đỡ quyền lực rộng lớn đến mức nào trong lòng xã hội với một đám đông có cảm giác “đồng hội đồng thuyền” về lợi ích với đảng.
Và quả tình, dưới cái bóng của hệ thống chính trị khổng lồ này, mọi phản kháng ngay cả ở mức độ dân sự cũng rất dễ bị đè bẹp trong giai đoạn trứng nước, chỉ cần đảng hô câu hiệu lệnh quen thuộc “huy động toàn hệ thống chính trị vào cuộc”
Tuy nhiên, nuôi được bộ máy cồng kềnh này chẳng hề đơn giản. Lời giải của đảng đối với bài toán này cho tới nay gồm hai phần chính sau:
Một, dành một khoản chi lớn (gần 3/4 tổng chi ngân sách) chỉ để nuôi bộ máy – đồng nghĩa với việc phải bớt chi cho đầu tư phát triển, điện, đường, trường, trạm – tức những khoản chi nâng cao đời sống cho toàn xã hội. Nợ công vì thế mà phải chạm trần, tài nguyên bởi vậy mà phải cạn kiệt, để nuôi bộ máy cứ ngày một phình to suốt vài thập kỷ vừa qua.
Hai, dẫu có dành phần lớn tổng chi ngân sách để nuôi bộ máy nhưng vì nó quá lớn nên tính ra lương cho đầu người vẫn thấp, không đáp ứng được cuộc sống. Một cách tự nhiên đảng nhanh chóng đạt được đồng thuận nhắm mắt “mạnh ai nấy ăn” để bù đắp phần thiếu hụt. Nhưng ăn vào đâu? Còn đâu khác ngoài người dân và doanh nghiệp. Đây chính là gốc rễ của tình trạng tham nhũng có hệ thống ở Việt Nam, phơi bày trong đời sống hàng ngày của chúng ta, thông qua đủ loại tệ nạn, nào là “giấy phép con”, “thanh kiểm tra”, “mãi lộ”, “BOT”, “lạm thu”, “thư vận động đóng góp”, “chạy việc”, “chạy trường”…
Giá mà có thể duy trì giải pháp trên thì những người lãnh đạo đảng có thể yên tâm kê cao gối mà ngủ. Tuy nhiên, nay thì nợ công đã chạm trần, tài nguyên khoảng sản cũng đã cạn kiệt, mô hình tăng trưởng lạc hậu vẫn chưa được chuyển đổi, lợi tức tạo ra không tương xứng với độ phình của bộ máy.
Tệ hơn, người dân và doanh nghiệp – nền tảng kinh tế của quốc gia – một khi không chịu nổi áp lực “kiếm chác” từ hệ thống chính trị khổng lồ này sẽ dần mất đi động lực; nhiều người tài năng và tự trọng thâm chí còn tìm cách ra đi. Kết quả là kinh tế đình đốn, nguồn thu ngân sách vì thế sẽ sụt giảm theo, khiến chỉ riêng việc nuôi bộ máy với mức độ như hiện tại đã khó, đừng nói tới việc trả lương cao hơn.
Thế thì đúng là như cựu TBT Phiêu nói, quả là không còn đường lùi, và giải pháp duy nhất là giảm biên chế. Nhưng bộ phận nào trong hệ thống chính trị bị nhắm tới đầu tiên? Hội nghị Trung ương 6 lựa chọn “các tổ chức sự nghiệp công lập”, có lẽ là vì đây là nhóm ít quyền lực nhất – đồng nghĩa là khả năng phản đối thấp nhất. Đây cũng là lý do mà cách đây vài tháng Bộ Giáo dục Đào tạo thăm dò việc bỏ biên chế giáo viên.
Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung giảm biên chế mỗi khu vực sự nghiệp thì chỉ là cách trì hoãn chứ không phải là giải pháp toàn diện cho vấn đề. Toàn bộ hệ thống cần phải được tinh gọn ở mức độ cao thì mới có thể giảm áp lực chi thường xuyên và bớt được phiền hà cho người dân, doanh nghiệp một cách căn cơ, từ đó mới khôi phục được động lực làm ăn, kinh tế mới phát triển để tăng được nguồn thu cho ngân sách.
Thế nhưng, một khi không còn trong tay hệ thống chính trị khổng lồ như hiện nay nữa, đảng có gì để trấn áp những phản kháng trong xã hội để đảm bảo quyền lực độc tôn của mình?
Tối, ngày 7 tháng 10,2017 côn đồ lại ngang nhiên xông vào nhà, đập phá tài sản của bà con giáo dân xứ Đông Kiều, Xã Yên Lý, Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An.
Xin được nhắc lại, từ cuối tháng 8 côn đồ thường xuất hiện đập phá tài sản, đập phá tượng ảnh của người dân nơi đây. Những đợt khủng bố này vẫn không được nhà cầm quyền quan tâm xử lý vì thế côn đồ ngày càng lộng hành và tấn công người dân mạnh mẽ hơn.
Với sự lên tiếng của bà con giáo dân nhà cầm quyền đã cho công an, cơ động túc trực bảo vệ bà con từ ngày 20 tháng 9 đến nay. Nhưng sự hiện diện của công an chỉ là một tấm bình phong để côn đồ dễ dàng hành động, quậy phá, khủng bố tinh thần bà con hơn.
Người dân lầm tưởng có công an canh giữ nên yên tâm mà không phòng bị. Tại quán cà phê Sự Duyên và một số nhà dân lân cận đã bị côn đồ xông vào quán và vào nhà để đập phá tài sản của bà con.
Tại một nơi có chính quyền, có lực lượng giữ gìn an ninh trật tự mà côn đồ ngang nhiên khủng bố người dân thì người ta có thể kết luận, chính quyền tại đây chính là kẻ bảo kê cho côn an hành hung người dân.
Trong phiên xét xử vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo Châu Thị Thu Nga, nguyên đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13, từ năm 2011 đến năm 2016, nói trước tòa án Hà Nội rằng bà đã dùng số tiền trị giá 1 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để được làm Đại Biểu Quốc Hội.
Tuy nhiên Tòa án không cho bà Nga khai việc này vì cho rằng điều đó không có liên quan đến nội dung vụ án đang được điều tra.
Vi phạm luật tố tụng
Phiên xử sơ thẩm dự kiến kéo dài trong 20 ngày, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Vào ngày 5 tháng 10, trước toà án tại Hà Nội, luật sư Hoàng Văn Hướng, người bào chữa cho bị cáo Châu Thị Thu Nga, có câu hỏi thẩm vấn cho thân chủ của ông, đề cập đến khoản tiền 1,5 triệu USD (khoảng 30 tỉ đồng) mà bà Nga đã khai là dùng để “chạy” vào vị trí đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên Tòa án không cho bà Nga khai việc này vì cho rằng điều đó không có liên quan đến nội dung vụ án đang được điều tra.
Một ngày sau khi diễn ra phiên xử, trả lời RFA, Luật sư Hoàng Văn Hướng, cho biết toà không cho phép thân chủ của ông thực hiện lời khai là không đúng nguyên tắc đánh giá chứng cứ khách quan và toàn diện của qui trình tố tụng.
“Tất cả những tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án để buộc tội hoặc gỡ tội thì đều phải đưa ra trước toà để đánh giá. Những nhiệm vụ của tôi là đặt câu hỏi và đánh giá vấn đề này. Trong hồ sơ có thể hiện bà đã khai như thế. Đến phần này thì hội đồng xét xử không cho hỏi nữa, với lý do ngay trong bản cáo trạng thì đã có 1 phần nêu là nội dung này kèm với 157 tỷ sẽ được tách ra giải quyết bằng 1 vụ án khác. Sẽ mở 1 vụ án khác.”
Trong hồ sơ có thể hiện bà đã khai như thế. Đến phần này thì hội đồng xét xử không cho hỏi nữa, với lý do ngay trong bản cáo trạng thì đã có 1 phần nêu là nội dung này kèm với 157 tỷ sẽ được tách ra giải quyết bằng 1 vụ án khác. Sẽ mở 1 vụ án khác. – LS Hoàng Văn Hướng
Một nhận định khác trong việc Hội đồng xét xử từ chối không cho bà Châu Thị Thu Nga thực hiện lời khai được Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hơn 14 năm, cho biết ông hoan nghênh những bị can, bị cáo chịu khai như thế.
“Nhưng có khi chủ toạ can, nói là đừng khai vì nó nhạy cảm, phức tạp…Nhiều vụ án người ta sẵn sàng khai, vì người ta vô đây người ta cho là cửa tử rồi, tại sao không khai? Tại sao lại để chết một mình? Cho nên có chứng cứ hay không có chứng cứ thì cơ quan điều tra có trách nhiệm phải chứng minh, đó là một nguồn chứng cứ được cung cấp, thì phải nghe, tại sao lại không cho người ta khai?
Không cho người ta khai là vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật.”
Báo Tuổi Trẻ Online cũng có một bài bình luận về sự việc này, trích dẫn ý kiến của Thạc sĩ Trần Thanh Thảo, giảng viên khoa Luật hình sự Trường đại học Luật TP.HCM cho biết “Việc không cho bị cáo Châu Thị Thu Nga khai về khoản tiền 1,5 triệu USD là không đúng quy định pháp luật.”
Trong vai trò là luật sư bào chữa cho bà Châu Thị Thu Nga, Luật sư Hoàng Văn Hướng một lần nữa cho biết bản cáo trạng có ghi những lời khai của bà Nga, kể cả việc dùng số tiền trị giá 1 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để được làm Đại Biểu Quốc Hội là chưa khách quan và chưa đúng.
Ông nói thêm về mức độ được tham gia trong tiến trình tố tụng với tư cách người bào chữa cho bà Châu Thị Thu Nga:
“Trong gần 3 năm điều tra, truy tố và đến nay là xét xử bà Nga, thì hoàn toàn trong quá trình ấy, chúng tôi là luật sư nhưng không được tham gia vào quá trình điều tra kể cả xét hỏi.”
Không cho người ta khai là vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật. – LS Trần Quốc Thuận
Cần phải xem xét lại
Vấn đề được tranh luận sôi nổi tại phiên xử bà Châu Thị Thu Nga trong hai ngày qua, là nội dung của lời khai bị từ chối của bị cáo.
Nói về điều này, luật sư Hoàng Văn Hướng cho biết dư luận hiện đang rất quan tâm vấn đề, và bản thân ông cho rằng nó không phù hợp và không đúng.
“Bởi vì việc chạy vào Đại biểu Quốc hội thì nó không thuyết phục được chúng tôi vì việc vào được đại biểu quốc hội hay không là quyền quyết định của cử tri bằng các lá phiếu ở các đơn vị bầu cử.
Cũng không có 1 thế lực nào, 1 ông nào, 1 người nào có quyền lực có thể đưa vào Đại biểu Quốc hội được. Việc đăng ký, ứng cử Đại biểu Quốc hội là công khai. Thứ 2 nữa, bầu là do hàng triệu cử tri bầu chứ không phải do 1, 2 người quyết định được.”
Do đó, theo luật sư Hoàng Văn Hướng, lời khai của bị can Châu Thị Thu Nga là 1 chứng cứ chưa thuyết phục ở thời điểm này, và cần phải được xem xét lại.
Ngược lại, một ý kiến khác từ Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng việc chạy chức, chạy quyền, chạy danh, thậm chí chạy tuổi, vốn dĩ là một điều không mới lạ ở Việt Nam. Bình luận về sự việc của bà Châu Thị Thu Nga đang làm xôn xao dư luận, theo cách nhìn của ông, ông cho biết.
“Ở Việt Nam, khi bầu cử người ta hay nói là Đảng cử dân bầu. Câu đó khá phổ biến. Người ta nói chưa bầu đã biết trúng cử. Cho nên thường địa phương sắp xếp sẵn những người dự kiến trúng cử và những đối thủ địa bàn. Thường người ta nói những cuộc bầu cử tốn kém hình thức không cần thiết. Người ta muốn có 1 cuộc bầu cử rộng rãi dân chủ hơn, tranh luận sôi nổi hơn.
Cho nên vì vậy mới có chuyện ‘chạy’. Nếu cuộc bầu cử mà để cho dân tự chọn thì chạy để làm gì?”
Khi đã là Đại biểu Quốc hội, trong những cuộc họp, vào giờ giải lao thì quyền tiếp cận với tất cả các người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước này. Như thế, người ta có thể “chạy” một vài dự án hay một vài câu chuyện thì…lấy lại “vốn” rất nhanh. Bỏ ra thì phải thu hồi vốn chứ. – LS Trần Quốc Thuận
Chia sẻ thêm về từ “chạy”, Luật sư Trần Quốc Thuận nói rằng lẽ ra chạy là chạy về phía hàng vạn người dân với những chủ trương, chính sách phù hợp để người dân đồng lòng bỏ phiếu cho mình.
Đại biểu Quốc hội: Bất khả xâm phạm
Phân tích thêm về sự việc “chạy chức Đại biểu Quốc hội” đang được bàn tán trong dư luận, Luật sư Trần Quốc Thuận đưa ra một nhận xét về vị trí được gọi là Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam.
“Nếu vào một chức danh, mà nhất là Đại biểu Quốc hội thì bất khả xâm phạm. Đã là Đại biểu Quốc hội thì trước nhất nó có cái danh vọng rất lớn, theo luật thì gọi là bất khả xâm phạm.
Khi đã là Đại biểu Quốc hội, trong những cuộc họp, vào giờ giải lao thì quyền tiếp cận với tất cả các người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước này.
Như thế, người ta có thể “chạy” một vài dự án hay một vài câu chuyện thì…lấy lại “vốn” rất nhanh. Bỏ ra thì phải thu hồi vốn chứ.”
Bà Châu Thị Thu Nga năm nay 52 tuổi, là một doanh nhân ngành bất động sản ở Hà Nội và là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13, từ năm 2011 đến năm 2016.
Dự định phiên tòa xử vụ án của bà Châu Thị Thu Nga sẽ kết thúc vào ngày 10 tháng 10.
Những oan hồn của cuộc chiếnSau khi đăng bài viết “Những oan hồn của cuộc chiến” của nhà báo Bùi Tín gửi, chúng tôi nhận được ý kiến phản hồi của nhà văn Nguyên Ngọc, cho rằng, trong bài viết, có một đoạn nhà văn Bùi Tín “bịa đặt”.
Chúng tôi đã chuyển thông tin đó cho nhà văn Bùi Tín và cũng đã nhận được phản hồi của ông. Cuối bài viết này là thông tin cập nhật nội dung trao đổi ý kiến giữa nhà văn Nguyên Ngọc và nhà báo Bùi Tín.
Xin các nhân chứng sống của cuộc chiến, những người đã từng đi B, cũng như các gia đình tử sĩ có con em bỏ mạng trong cuộc chiến, hãy đóng góp ý kiến, giúp làm rõ sự thật này.
Lính Mỹ truy bắt Việt Cộng tại Đà Nẵng, tháng Tư 1965. Nguồn: AP
Bộ phim Chiến tranh Việt Nam của các đạo diễn Hoa Kỳ gây nên nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau của người Việt trong và ngoài nước.
Đó là điều tất yếu vì cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm, liên quan đến nhiều nước, với những động cơ khác nhau, không thể làm thỏa mãn mọi người.
Đây là một dịp bổ ích và lý thú để công luận có thể được dịp phát biểu thêm, soi tỏ thêm nhiều điều mới mẻ, những góc tối của cuộc chiến, từ đó có thể bổ xung cho nhau nhiều hiểu biết mới để soi tỏ thêm quá khứ, hiện tại và tương lai của các bên tham chiến trong mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Một số nhà báo, làm phim truyền hình người Việt, người Pháp, Hoa Kỳ, Đức… phỏng vấn tôi nhân dịp này. Tôi đã phát biểu ý kiến của mình.
Với tư cách là một nhân chứng sống, từng tham dự cuộc chiến từ ngày đầu đến ngày cuối, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, ở chiến trường Cam-bốt cũng như ở Lào, tôi có nhiều suy nghĩ, kỷ niệm về cuộc chiến tranh, nay có dịp để nói lên những điều quan trọng bị khỏa lấp mà bộ phim hoành tráng của các nhà làm phim Hoa Kỳ không đề cập đến.
Nhiều bạn hỏi tôi, nếu tôi tham gia một bộ phim khác về Chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ nói lên những điều gì? Tôi có khá nhiều điều cần phát biểu về cuộc chiến, khi tưởng nhớ, ngẫm nghĩ lại về cuộc chiến. Qua bài báo này trước hết, tôi muốn nói đến những oan hồn của cuộc chiến.
Tôi có một số người thân, ông chú, các anh chị em họ Bùi vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã bị Việt Minh chụp mũ cho là Việt gian, bị bắt giam sau Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu là ông Bùi Nhữ Uyên chú ruột tôi từng theo cụ Nguyễn Thượng Hiền, người cùng làng sang Nhật Bản vận động cho phong trào Đông Du và sau đó về Trung Quốc, tham gia Việt Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu. Chú tôi bị bắt năm 1946, bố tôi (Bùi Bằng Đoàn) lúc đó là trong Ban Thường trực Quốc hội can thiệp với ông Hồ chí Minh, ông Hồ lệnh cho chính quyền tỉnh Hà Đông thả ngay chú tôi, nhưng đúng vào đêm lệnh thả đến nhà giam ở Vân Đình thì chú tôi mất vì «đau bụng» khẩn cấp. Bạn tù cùng giam cho rằng chú tôi bị trại giam đầu độc.
Những oan hồn tôi không thể quên. Việt Minh từ hồi đó coi tất cả các đảng yêu nước chống Pháp là Việt gian, như Quốc Dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Cách mạng đồng minh, đệ tứ (Trostkyt)… Họ phê phán rất mạnh cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, coi là sai lầm thân Tàu, chuộng Pháp.
Tôi còn nhớ trước năm 1940 – 1941 số đảng viên Quốc dân đảng rất đông, vượt con số đảng viên đảng CS Đông dương ở các nhà giam, ở Côn Đảo. Rất nhiều giáo viên tiểu học các xã, huyện, trí thức nông thôn tham gia phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Rất nhiều trung nông, phú nông, cả địa chủ nhỏ có học tham gia đảng này, về sau bị Cải cách ruộng đất kiểu Mao vu cáo là địa chủ ác bá, là việt gian, bị sát hại gần hết, theo thống kê khi sửa sai con số oan hồn này lên đến hơn 15.000.
Ngoài số nói trên cần kể đến oan hồn của các nhà yêu nước Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm – lãnh đạo nhóm Troskyt, tướng Nguyễn Bình và nhà sử học Trần Huy Liệu – nguyên là đảng viên Quốc dân đảng, cụ Đặng Văn Hướng – nguyên Bộ trưởng không bộ do ông Hồ phong chức và cụ Nguyễn Khắc Niêm, thân sinh ông Nguyễn Khắc Viện, chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp – 2 cụ đều bị tàn sát trong Cải cách ruộng đất.
Cũng cần ghi thêm trong danh sách các oan hồn những cán bộ cộng sản có ít nhiều thức tỉnh đã bị thải loại, ra rìa, như tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Hoàng Minh Chính… trong vụ án «xét lại», Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán… trong vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Nguyên Giáp… từng có tư duy độc lập chống lại một số chủ trương chính sách của đảng.
Các đồng đội của tôi vào Nam chiến đấu theo lời nguyện «sinh Bắc tử Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc», chết vài chục vạn, hơn 300.000 tử sĩ hiện chưa tìm ra thi hài mộ chí, cũng là những oan hồn, nỗi đau lòng uất hận của hàng vài triệu bố mẹ, anh chị em ruột thịt. Đó là những oan hồn vì khi chiến đấu, tự nguyện hy sinh, các đồng đội của tôi đều mang theo hy vọng rồi gia đình mình, bố mẹ anh chị em mình, đồng bào mình sẽ được hưởng độc lập tự do, an bình, phồn vinh hạnh phúc. Những hy vọng thiêng liêng ấy đến nay vẫn còn xa vời. Ngược lại đất nước còn bị ách Bắc thuộc từ sau mật đàm Thành Đô năm 1990, tự do tư tưởng, ngôn luận còn bị cấm đoán, trừng phạt, an ninh của nhân dân, nông dân, trí thức, nhà kinh doanh tự do bị đe dọa, các chiến sỹ yêu nước, đòi tự do cho nhân dân bị tù đầy, chênh lệch giàu nghèo tồi tệ hơn thời phong kiến, thực dân, đảng cộng sản biến thành lực lượng kìm hãm đà tiến bộ, phát triển của đất nước, mắc nợ hàng triệu oan hồn đã hy sinh do những lời đường mật giả dối.
Tôi có nhiều anh em, cháu, – con các bà chị ruột và chị họ vào Nam chiến đấu và hy sinh ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, Bình Định nay vẫn chưa tìm ra thi hài, mộ chí. Đã đến lúc phải nói thẳng ra là gia đình và các cháu đã bị lừa. Họ đưa ra Luật nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền về vinh quang trai thời loạn là sinh Bắc tử Nam, cưỡng bức các cháu bỏ học cầm súng, bắt ký các bản tình nguyện nhập ngũ, buộc bố mẹ phải ký tên «vinh dự hiến con cho Tổ quốc», trong khi con cháu các quan lớn hầu hết đều được xuất ngoại học tập ở Liên Xô, Trung Quốc , Ba lan, Đông Đức, Tiệp… Một sự bất công khổng lồ. Bố mẹ các cháu tôi lo nghĩ tiếc thương con, ban đêm xụt xùi khóc, nhưng vẫn phải tỏ ra vui vẻ khi tiễn con vào Nam. Các cháu đều miễn cưỡng ký giấy «tình nguyện vào Nam chiến đấu, đâu cần xin có mặt» theo ý nguyện (cưỡng bức) của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cả một khoa học bịp bợm thành hệ thống.
Tôi đã từng nhiều lần vào Nam cùng các đơn vị, vào Bình Trị Thiên, rồi vào Tây Nguyên – Kon Tum, Gia Lai, vào Bình Định, Buôn Ma Thuột, Bình Long, Sài Gòn… có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời. Hoặc có khi tử trận, nhưng giấy báo tử để chậm vài năm là thường, vì chiến tranh khốc liệt, tử sỹ nhiều, đơn vị giải thể, tiêu tùng hết, nhiều đơn vị sát nhập vào nhau, sổ sách mất, cháy, chỉ huy thuyên chuyển liên miên, không có nền nếp chính quy, kiểu du kích, đại khái, lem nhem.
Cho đến chuyện quản lý tù binh Mỹ chặt chẽ, có sổ sách hàng ngày mà cuối cùng vẫn mất tích, không lý giải được, lên đến hơn 100 người, đủ biết công việc quản lý của quân đội thời chiến luộm thuộm ra sao.
Ở các nước văn minh, với quân đội hiện đại, họ rất quan tâm đến việc thông tin, thư từ gia đình quân nhân được chuyển nhanh nhất, chu đáo nhất đến tay chiến sĩ ngoài mặt trận. Đây là trách nhiệm, đền đáp thiết thực có ý nghĩa nhất những hy sinh của gia đình và các quân nhân. Ở Việt Nam, đảng Cộng sản cho việc cố tình bặt tin là biện pháp cưỡng bức để các chiến sĩ không còn suy nghĩ thao thức mong chờ thư đi từ lại, một lòng một dạ hy sinh chiến đấu cho những mục tiêu riêng của đảng. Đây là món rất độc của chiến tranh tâm lý. Vì nếu tự do thư từ, thông tin, các chiến sĩ sẽ kể về những trận đánh thiêu thân, cả đơn vị chết quá nửa như sau tết Mậu Thân thì hậu phương sẽ bị chấn động, rất nguy hiểm để kêu gọi tiếp những đợt «sinh Bắc tử Nam», mà phần lớn sẽ không trở về.
Ngoài hàng mấy chục vạn oan hồn trên đây, tôi không thể không nhắc đến vài vạn người chưa chết nhưng bị những oan khiên dằn vặt không kém các oan hồn kể trên. Họ rất đáng thương, nhưng xã hội đã lãng quên họ.
Đó là chừng 20.000 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân (theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quân lực Bộ Tổng tham mưu) vào Nam bị chiêu hồi bởi Việt nam Cộng hòa, sau chiến tranh trở về gia đình ở miền Bắc, đã bị hỏi tội, bỏ tù, cải tạo, trả thù, bôi xấu, hạ nhục, hành hạ ra sao, bị gia đình xỉ vả, láng giềng khinh miệt, không sao ngẩng mặt lên được. Theo tôi biết, rất đông anh em đó ở Hà Nội, Hà đông, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh… Một số bảo mạng, cầu an, không chịu được gian khổ, căng thẳng, nhưng không ít có ý nghĩ lành mạnh, không đang tâm bắn vào anh em trong một cuộc huynh đệ tương tàn phi lý vô đạo nên đã chịu chiêu hồi, hy vọng khi chiến tranh kết thúc, không ai nỡ trị tội mình. Đã có nhà văn nào nói lên thảm cảnh của số anh em bị chiêu hồi rồi trở về quê quán này để tiếp tục bị oan khiên, kêu trời không thấu này. Đã có tổ chức xã hội nào cúi xuống nâng đỡ các số phận đen đủi này, tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi lý vô đạo do đảng Cộng sản gây nên vì những mục tiêu và cuồng vọng riêng.
Nếu tôi tham gia dựng lên những bộ phim về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi sẽ nói đến bản chất của chiến tranh, qua những mặt tối, những góc tối bị che dấu, bị che lấp, nhưng oan hồn, những nỗi oan trái chưa được biết, để có thể nói lên hết mặt trái của cuộc chiến tranh không anh hùng, chẳng oanh liệt, một cuộc nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn đáng hổ thẹn, đáng sám hối. Tít bộ phim có thể là «Những oan hồn – hay mặt trái của chiến tranh», hay «Một cuộc chiến đầy dối trá», cũng có thể là «Cuộc chiến của những người nô lệ», vì đảng Cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho học thuyết Mác – Lênin, rồi qua đó bắt nhân dân, quân đội làm nô lệ cho những tham vọng riêng của đảng, để cho đất nước lạc hậu, tàn lụi đổ nát, bất công như hiện nay.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Sài Gòn, một đảng viên cộng sản kỳ cựu rất có lý khi đề nghị mỗi ngày kỷ niệm 30/4 là một cuộc Sám hối và xin lỗi của đảng Cộng sản đã chủ động gây nên những tổn thất về sinh mạng, tài sản, thời gian của dân tộc đến mức quá sức chịu đựng của nhân dân, để lịch sử có thể sang trang, đất nước có một chế độ chính trị dân chủ, độc lập thật sự, lãnh thổ toàn vẹn, có nhân quyền, phát triển phồn vinh cho toàn xã hội.
____
Cập nhật lúc 11h20 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
“Kính gửi Ban biên tập Tiếng Dân,
Tôi vừa đọc trên Tiếng Dân hôm nay bài ”Những oan hồn của cuộc chiến” của ông Bùi Tín, thấy có đoạn trong file kèm đây là hoàn toàn sai, bịa đặt:
“Có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời”.
Trong chiến tranh chống Mỹ, tôi đã ở chiến trường miền Nam 13 năm, biết rõ hoàn toàn không có sự cấm đoán ”độc ác” nào với việc liên lạc thư từ giữa những người chiến đấu ở miền Nam và người thân ở miền Bắc. Tất nhiên là liên lạc có khó khăn, do chiến sự, nhưng tuyết đối không có chuyện cấm đoán, thậm chí trái lại còn được khuyến khích. Rất dễ hiểu: để người cầm súng yên tâm chiến đấu. Cũng dễ hiểu những thư từ đó không được tiết lộ những bí mật quân sự mà mọi người lính đều biết.
Không biết ông Bùi Tín bịa ra chi tiết này để làm gì, sẽ chỉ khiến cho những điều khác do ông nói ra có thể đúng sẽ trở nên khó tin. Khách quan, trung thực, đứng đắn bao giờ cũng cần thiết.
Nguyên Ngọc”
_____
Cập nhật lúc 22h09 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email hồi âm của nhà văn Bùi Tín, nội dung như sau:
“Thân gửi cô Ngọc Thu và anh Nguyên Ngọc,
Rất cám ơn cô NT đã đăng bài và cho biết ý kiến của anh Nguyên Ngọc.
Tôi hơi bất ngờ vì tôi nghĩ anh Nguyên Ngọc cũng rõ cái tình cảnh không có thư từ liên lạc công khai, chính thức qua bưu điện Nam – Bắc ra sao. Sự bặt tin là phổ biến. Tôi đã sống với cả đại đội ở chiến trường miền Nam hàng tháng, đều là như thế. Anh em chỉ có thể gửi thư tay cho cán bộ, anh em bị thương trở ra miền Bắc đưa tay hộ. Hầu như 100% là thế.
Sao anh NN lại nói là thư từ được gửi bình thường?! Xin hỏi các anh em đi B mà xem. Các gia đình tử sỹ thì rõ.
Tôi có kinh nghiệm bản thân, 3 lần đi B – vào Nam là như thế. Đi 8 tháng, 1 năm rưỡi mà bặt tin. Vợ trẻ, con gái 6 tuổi, con trai 2 tuổi mà bằng bẵng 8 tháng không một tin nào. Gửi ai được? đành chịu. Tôi còn nhớ ghé qua Bộ Chỉ huy Quân khu 5 gặp anh Nguyên Ngọc, các bạn đi bắn con rộc – con vượn bao tử cho ăn cháo rộc. Còn nhớ mãi.
Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến. Cục Chính sách của Tổng cục Chính trị cho biết chậm trung bình là 18 tháng! Nhiều tử sỹ được anh em bạn từ miền Nam ra báo, sau mới được Bộ Quốc phòng báo chính thức.
Cháu Hưng 19 tuổi và cháu Hiệp 23 tuổi của tôi con 2 bà chị hy sinh ở Quảng Ngãi, Bình định đến nay vẫn không tìm ra mộ, thi hài. Cháu Hiệp học rất giỏi, là lớp trưởng. 2 cháu đi không có một lá thư, hy sinh không có một vật gì để lại.
Tôi thấy tất cả là sự thật. Xin làm một cuộc điều tra xã hội học công khai khách quan thì sẽ rõ.
Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi.
Tôi luôn định cho mình sự trung thực trên hết, và cả cái quyền tự do phán xét có trách nhiệm.
Tôi rất quý anh Nguyên Ngọc về tính ngay thẳng, và sự gắn bó với lý tưởng Phan chu Trinh.
Có gì xin anh trao đổi thêm.
Quý mến,
Bùi Tín
Cô Ngọc thu có thể đăng lời nói lại trên đây. Cám ơn“.
_____
Cập nhật lúc 11h10′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được thư của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
Thưa anh Bùi Tín,
Tôi vừa nhận được thư anh. Vì đã có quen biết anh, nên nói thật chuyện này khiến tôi buồn.
Ngay trong thư vừa gửi, anh đã tự mâu thuẫn. Đoạn trên anh vừa nói: “Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến”. Chỉ mấy dòng dưới anh đã viết ngược lại: “Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi”. Lần này anh bảo anh “nghi”, còn lần trước, trong bài đăng trên Tiếng Dân, anh khẳng định và kết tội rất dứt khoát: “… đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác”, và bảo đó là “một điều ít ai biết” nay anh phát hiện, tố cáo “một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam …” Sự phát hiện này quả thật rất ấn tượng đối với người chưa biết!
Anh đã ở Tổng cục Chính trị, rồi ở báo Quân đội Nhân dân và cả báo Nhân dân khá lâu, tôi tin anh biết rõ không có một chủ trương hay chính sách như vậy. Thư từ chậm, có khi hằng năm, mấy năm, là do, như chính anh biết và nói “chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán”, sao anh lại bịa ra chuyện chủ trương, chính sách độc ác?
Tôi cũng nghĩ chắc chắn anh biết ta không phải là Mỹ, không hiện đại như họ, tổ chức liên lạc của ta khó hơn họ gấp trăm lần. Sao lại quy cái đó thành “cưỡng bức tinh vi”? Thật buồn!
Tôi ở quân khu 5 mười ba năm, tôi biết ở quân khu còn có cả một bộ phận quân bưu để lo việc thư từ cho cán bộ chiến sĩ. Cũng xin chú ý: nếu quả có một chủ trương cắt liên lạc một cách tuyệt đối giữa người đã vào chiến trường với người thân ở Bắc, thì đương nhiên người ta cũng sẽ kiểm soát chặt và ngăn cấm cả việc gửi thư tay. Mà việc này, thì anh biết quá rõ, không ai kiểm soát và ngăn cấm cả, còn được hoan nghênh, khuyến khích … Đây là lô gích rất thông thường, sao anh lại bịa chuyện khác?
Tôi luôn nghĩ việc phản đối, chống lại những sai trái, to lớn và quan trọng hơn nhiều, của đảng và nhà cầm quyền là đúng và cần thiết. Nhưng phải đường hoàng, đứng đắn, không bịa đặt để cố bôi nhọ thêm, chỉ có thể phản tác dụng.
Đôi lời xin nói lại. Mong anh hiểu.
Nguyên Ngọc
____
Cập nhật lúc 12h13′ ngày 6-10-2017: Ý kiến của nhà văn Nhật Tiến, như sau:
Kính anh Bùi Tín,
Theo đề nghị của anh, tôi xin đóng góp một chút dữ kiện. Hồi còn sinh thời, trước năm 1975, Nhật Tuấn em trai tôi cũng đã đi B và lặn lội vài năm trên đường Trường Sơn. Sau 1975, khi Nhật Tuấn vào Sài Gòn, anh em chúng tôi có dịp hàn huyên nhiều chuyện. Khi đề cập đến chuyện nhà, Tuấn có than rằng nhiều năm xa Bố (sống ở Hà Nội), vậy mà không bao giờ có dịp viết thư hỏi thăm vì trong cuộc chiến làm gì có chuyện thư từ qua lại. Ngay cả khi đồng đội có người bỏ xác trên chiến trường cũng không có chuyện thư từ báo tin về cho gia đình hay nữa. Như vậy có ai cho rằng “anh bịa đặt xấu xa” theo tôi là không đúng. Riêng tôi, vẫn theo dõi các bài anh viết, tôi rất cảm phục sự trung thực và tấm lòng của anh đối với đất nước.
Nhật Tiến
____
Ý kiến của ông Nguyễn Quốc Khải:
Cám ơn anh Bùi Tín.
Một số phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam do quân đội Hoa Kỳ phổ biến mà tôi được xem cho thấy bộ đội miền Bắc không có phương tiện chuyên chở trong vùng rừng núi. Cho nên sau nhiều trận giao tranh, trước khi vôi vã rút lui, họ chỉ có thời giờ vội vã chôn vùi bộ đội tử thương trong nhửng mồ chôn tập thể trong rừng núi. Vì vậy chuyện mất xác là chuyện bình thường. Miến Bắc cố tình dấu con số thương vong.
Bộ Đội Việt Nam có nhiều binh tử trận và mất tích ở Campuchia, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy hết. Do đó mà trong những lần các nhà lãnh đạo cao cấp của VN gặp lãnh đạo Campuchia đều thảo luận về ba vấn đề then chốt là (1)Tranh chấp biên giới; (2) Người gốc Việt sống ở Campuchia; và (3) binh sĩ Việt mất tích tại Campuchia theo các bài tường thuật của báo Việt Nam gần đây. Việt Nam chiếm đóng Campuchia từ 1978-1889. Trong 10 năm đã không hoàn tất được việc tìm kiếm này. Do đó, VN liên tục kêu gọi Campuchia giúp đỡ.
Thành ra, những lời anh kể phản ảnh đúng sự thật.
Nhân tiện xin gửi các anh chị hai bài báo mới. Bài tiếng Anh có nội dung như bài tiếng Việt nhưng phải cô đọng lại vì số chữ có giới hạn, nhắm vào độc giả Mỹ. Có thể một số anh chị đã có bài này rồi thì xin bỏ qua.
Nguyễn Quốc Khải
____
Cập nhật lúc 19h30′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà báo Bùi Tín, nội dung như sau:
Anh Nguyên Ngọc nói các trạm Giao Liên hồi ấy nhận đưa thư của cán bộ chiến sỹ ra Bắc là điều tôi không hề thấy , dù đã qua mấy chục Trạm giao liên. Không có 1 trạm nào nhận chuyển thư riêng, chỉ chuyển công văn. Nên chỉ có thể gửi thư tay, mà hiếm lắm, vì người vào Nam thì đông, người ra Bắc thì quá hiếm. Tôi nghi và nghĩ rằng đây là một sự cố tình tinh vi.
Tôi biết, tự tin là tôi không xấu tính, bịa đặt vu cáo ai như anh Nguyên Ngọc nhận xét. Biết mà không nói, không dám nói là không nên, là có tội với dân, với nước, với đồng đội.
Tôi đi B 3 lần; đều bặt tin tuyệt đối. Tôi nhớ vợ, 2 con, 7 chị, 1 em ruột, 1con gái lên 6, 1 con trai lên 2, mong tin nhà khắc khỏai mà đành chịu. Tôi về nhà gầy ốm 52 cân chỉ còn 39 cân, vợ tôi khóc than buồn khổ, nhưng may mà còn sống. Không như 2 cháu tôi, ra đi cho đến hy sinh là biệt tăm tích.
đây là một góc khuất của cuộc chiến mọi người cần biết, ngẫm nghĩ cho cuộc đấu tranh hiện tại.
Người dân giăng băng rôn đòi chính quyền xử lý vụ việc.
RFA
VAM100617
00:32/05:54
Người dân tại ấp Phú Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai cho biết chính quyền địa phương đòi cưỡng chế đất của dân trong khi chính quyền đã làm sai quy trình và không thực hiện đúng cam kết. Phóng viên RFA tìm hiểu sự việc qua những người trong cuộc.
Nhiều uẩn khúc trong quy hoạch
Họ là người dân sinh sống lâu đời tại địa phương và đất của họ được cấp phép sử dụng hợp pháp. Nhưng kể từ khi các dự án khu công nghiệp Hố Nai bắt đầu triển khai, chính quyền địa phương đưa ra các phương án giải tỏa và đền bù với hứa hẹn tái định cư tại chỗ cho dân. Tuy nhiên, sau khi dân tin cam kết của chính quyền và nhận tiền bồi thường thì họ bị đứa đến một nơi thật xa, không như thỏa thuận.
Bà Lan, một người sỡ hữu đất ở khu vực này cho biết:
“Tôi sinh sống ở đây từ năm 1970, đất cát là do bố mẹ tôi để lại. Đến năm 2001 thì ba cấp chính quyền ở đây họ thông báo đất ở đây có quy hoạch theo quyết định 450. Đến năm 2003 thì gọi chúng tôi nhận tiền. Thì chúng tôi đi nhận tiền rồi. Khi nhận tiền người ta nói là tại đây, từ cái ngã tư đó tới đây là 5 hecta này làm đất tái định cư cho bà con ở đây, là không phải đi đâu xa, tái định cư tại chỗ. Sau khi nhận tiền xong, thì họ đưa tiền nhà trọ một tháng 6 trăm. Hết 6 tháng tôi chẳng thấy đất tái định cư đâu cả. Sau đó cứ tiếp tục nói dối chúng tôi là 6 tháng nữa có. Tái định cư ngay nhà quý vị. Họ đưa đầy đủ sơ đồ vườn cây xanh, dãy nhà liền kề. Chúng tôi chờ đợi mãi tới năm 2009 là các cấp chính quyền đây lại thông báo với tôi đi nhận tái định cư ở vị trí khác, ở ấp Bắc Hòa.”
Thì tôi tìm được một cái văn bản tại văn thư lưu trữ tỉnh Đồng Nai, khu công nghiệp Hố Nai giai đoạn 1 chỉ có 100 hecta. So với quyết định ban đầu thì nó chệnh nhau 129 hecta rồi. -Bà Lan, dân địa phương
Bị thất hứa, người dân đi khiếu kiện và phát hiện ra nhiều uẩn khúc trong quy hoạch.
“Nói chung khu này, ba cấp chính quyền tỉnh Đồng Nai luôn luôn nói với chúng tôi rằng các ông các bà quy hoạch theo quyết định 450 của thủ tướng chính phủ. Là 229 mẫu, nhưng thực sự theo tôi tìm hiểu khiếu kiện trong 17 năm. Thì tôi tìm được một cái văn bản tại văn thư lưu trữ tỉnh Đồng Nai, khu công nghiệp Hố Nai giai đoạn 1 chỉ có 100 hecta. So với quyết định ban đầu thì nó chệnh nhau 129 hecta rồi.
Tôi cứ đi khiếu kiện hoài, cứ lên sở Tài Nguyên Môi Trường, Tỉnh Đồng Nai rồi đi các nơi các sở. Đơn khiếu kiện của tôi tính ra cũng mấy kí lô rồi. Cứ hỏi đi tìm hiểu quyết đinh thu hồi đất, đi tìm hiểu bản đồ quyết định 450, sau này lòi ra quyết định 278 chỉ có 191 mẫu thành lập khu công nghiệp.
Hội đồng nhân dân huyện Trảng Bom có văn bản tiếp xúc cử tri là văn bản 1684 trong văn bản có một đoạn trích như thế này. Phần đất 39 mẫu này không phải đất Phú Sơn, phần đó chúng tôi cho một số công ty làm xe máy, công ty gì đó thuê trước rồi.”
Chính quyền trả lời rằng 39 hecta này đã được cho các công ty thuê từ lâu, và bây giờ ép buộc người dân nhận bồi thường và chuyển đến nơi khác sống. Cụ thể trong văn bản số 9781 này, có ghi rõ: ‘nền đất tái định cư tại xã Bình Minh, huyện Trảng Bom’. Không phải là tái định cư tại chỗ.
Một người dân cũng có đất đai bị nằm trong diện giải tỏa cho biết thêm thông tin về vụ việc này.
“Khi người dân đòi quyết định thu hồi cho cá nhân mỗi một hộ thì không có. Rồi họ trích ra cái điều, một cái văn bản của 306 của bộ Tài Nguyên Môi Trường là có văn bản hướng dẫn luật năm 93 là khi nhà nước thu hồi đất sẽ không có quyết định thu hồi cho từng cá nhân, hộ gia đình. Nhưng phải có cái thu hồi của tỉnh là quyết định thu hồi tổng thể. Nhưng hiện tại bây giờ chính quyền không đưa ra được cái quyết định tổng thể của tỉnh. 278 là quyết định thành lập khu công nghiệp, với diện tích bằng đó. Sau đó là quyết định 450 cho thuê đất.”
Khủng bố tinh thần
Đúng ra trình tự thủ tục anh phải có quyết định thu hồi đất. Ở đây không có. Ụp một cái quyết định cưỡng chế. -Dân địa phương
Dù không đưa ra được quyết định thu hồi đất như thắc mắc của người dân; chính quyền lại khiến dân thêm bức xúc khi bàn hành một số văn bản phạt cảnh cáo những hộ dân không chịu giao đất.
“Tới năm 2005 thì đưa ra một quyết định cảnh cáo phạt cảnh cáo về hành vi không chấp hành quyết định thu hồi đất để giao đất cho nhà đầu tư và dân kiện lại, thì chủ tịch UBND huyện lại rút lại quyết định cảnh cáo đó. Không hiểu tại sao chính quyền đưa ra quyết định cho 9 hộ, quyết định ký ngày 11 tháng 9 năm 2017 mà tới ngày 18 tháng 9 dân mới được nhận là quyết định cưỡng chế 9 hộ chưa nhận tiền bồi thường. Chứ không phải tôi đã nhận tiền, tôi ký vào văn bản bàn giao đất mà tôi không giao đất mà cưỡng chế tôi. Đúng ra trình tự thủ tục anh phải có quyết định thu hồi đất. Ở đây không có. Ụp một cái quyết định cưỡng chế. Dân đối thoại lần cuối rồi ngay chiều hôm nay thông báo là tạm ngưng cưỡng chế chờ văn bản chờ văn phòng tỉnh ra thông báo hoặc chỉ đạo mới. Tôi nghĩ đó là một hình thức rất khủng bố tinh thần.”
Vụ việc tại ấp Phú Sơn như vừa nêu cũng tương tự vô số trường hợp khác tại các địa phương trên cả nước. Tình trạng người dân bị chính quyền địa phương thu hồi đất một cách bất minh để giao cho doanh nghiệp và hưởng lợi gây phẩn nộ trong dân chúng; buộc họ phải khiếu kiện đến tận các cơ quan trung ương.
Ngoc Vu is feeling tiếng NHỤC càng vang xa…. xa mãi.Follow
Làm báo thì nên đưa tin cho chính xác nhé.
Phó phòng ăn cắp ở Nhật thì phải ghi rõ là ăn cắp, chứ lại ghi là : gặp sự cố là như thế nào ? Nhật Bản là Đất Nước vô cùng văn minh và lịch sự,nếu ko làm gì sai trái thì họ vô cùng mến khách. Làm gì có chuyện họ mời về đồn công an làm việc ?
Bà mịa … đội quần vì nhục mà….. ..Đi đâu cũng để lại tiếng xấu tiếng nhục cả… ở trong nước quen thói ăn cắp của Dân rồi, nên có đi đâu thì bản chất vẫn ko thay đổi.
Nhục nhã ê chề chưa ???