Đáp số thất bại từ một đám tang-Nam Việt/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

July 29, 2024

Nam Việt/SGN

Khác với với cái chết của Lê Đức Anh hay Đỗ Mười, là những nguyên thủ cấp cao đời đầu, người ta nhận ra ngay việc ca ngợi và đánh bóng cho những nhân vật này hoàn toàn rất yếu ớt. Điều này hoàn toàn khác biệt với đám tang của Nguyễn Phú Trọng: bộ máy tuyên truyền của Hà Nội đã hoạt động hết công suất, thúc ép ca ngợi và khóc than, cho nhiều ý nghĩa khác nhau.

Có hai ý nghĩa quan trọng nhất, mà Hà Nội muốn nhấn mạnh trong đám tang của Nguyễn Phú Trọng. Thứ nhất, đó là đánh bóng lại bộ mặt chính danh cầm quyền được dựng lên của Hà Nội, mà qua vài thập niên qua đã lộ rõ là một đảng cầm quyền ăn tàn phá hại đất nước, coi nhân dân chỉ là thành phần để bóc lột và cai trị.

Ý nghĩa thứ hai, dùng cái chết được dựng lên đầy màu sắc ý nghĩa thanh liêm của ông Trọng như một phép thử, xem liệu sau 50 cưỡng chiếm miền Nam và thống nhất địa lý đất nước, đã thật sự thống nhất được lòng người dưới sự chỉ huy của đảng CSVN hay không.

Cả hai vấn đề này, có thể tìm thấy đáp số ngay sau khi phút quốc tang cuối cùng vừa chấm dứt, xã hội Việt Nam bùng lên những sự chỉ trích về ông, cũng như chỉ ra sự mục ruỗng của đảng CSVN.

Suốt một giai đoạn dài, hình tượng ông Hồ Chí Minh qua cuộc chiến tranh tấn công miền Nam, cùng những sai lầm được nhắc đi nhắc lại hàng năm như cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm… đã khiến mọi thứ của chủ nghĩa cộng sản mòn mỏi. Thậm chí người ta nhìn thấy những thế hệ lớn lên ở phía Bắc, gia đình cách mạng, thậm chí trưởng thành từ mô hình giáo dục xã hội chủ nghĩa cũng đã mỉa mai và bỡn cợt hình tượng ông Hồ không ngại ngùng.

Nhưng nhân sắp đến ngày kỷ niệm 50 năm cưỡng chiếm miền Nam, Hà Nội rắp tâm muốn những dựng lên một hình ảnh ông Hồ mới, qua hình ảnh “Bác Trọng” như một điểm tựa tinh thần mới.

Một đoạn video trên mạng xã hội ghi lại hình ảnh khi xe tang của ông trọng diễu qua đường phố, một thanh niên – thành phần đã được chuẩn bị trước – đứng gào thét và bắt nhịp khẩu hiệu “bác Trọng,” lớp đoàn viên thanh niên đứng đằng sau nhịp nhàng hô to đáp lời “muôn năm.” Đây là một điều chưa bao giờ có, kể cả trong đám tang của ông Võ Văn Kiệt, hoặc ông Võ Nguyên Giáp, ông tướng mà hệ thống truyền thông CSVN Việt Nam cố gắng đẩy lên như một nhân vật để thờ phụng, ngang hàng ông Hồ Chí Minh.

Ông Nguyễn Phú Trọng, một nhà lãnh đạo cộng sản kỷ trị, cả đời chưa bao giờ cầm một khẩu súng ra trận trong cả hai cuộc chiến với Mỹ và với Trung Quốc, đã khéo vẽ cho mình một hình ảnh như một người thanh liêm, và cũng được bộ máy tuyên truyền của nhà nước tung hô theo hướng đó như một sinh lộ, khi đảng cộng sản không còn một nhân vật nào xứng đáng để được nhân dân coi trọng.

Nói về ý nghĩa thứ hai ở trên, tức là một phép thử của Hà Nội để xem lòng dân lúc này thực sự có toàn phần ủng hộ đảng cộng sản hay không, đặc biệt với một nhân vật được dày công tô vẽ như một hình tượng đáng kính trọng.

Nếu không có một miền Nam có truyền thống dân chủ và nhận định rõ ràng công tội, không bị nhồi sọ về việc thần phục lãnh đạo như nhiều lớp người ở miền Bắc, Hà Nội đã thực sự thắng lợi toàn phần. Tiếc là những tiếng nói của đa số, khởi đi từ phía Nam – ngày càng nhiều – đã chỉ ra những sai lầm của ông Trọng, sự bất lực lãnh đạo trong một hệ thống thối nát, đồng thời là một người cầm quyền không có trái tim dành cho quê hương và đất nước.

Trong những ngày đảng CSVN đang vận hành cho đám tang, thì những lời chỉ trích xuất hiện tương đối kín đáo và ít, do việc bắt bớ bùng phát. Nhưng cho đến khi ngày quốc tang qua đi thì thực sự mọi thứ lộ rõ với tất cả những bình luận và nhận định trực diện rộ lên về ông Trọng.

Người ta đem hình ảnh của ông Lê Đình Kình, một đảng viên gần 60 năm tuổi đảng, con người luôn luôn lý tưởng với chủ nghĩa cộng sản nhưng bị chính những người lãnh đạo của mình xua quân đến tận giường và bắn chết, vì ông tranh đấu cho đất đai của làng ông, cho những người dân quê quanh ông. Trọng chưa bao giờ nói một lời nào về con người cộng sản lão thành đó, và cũng chưa bao giờ lên tiếng về những sai phạm mà công an cũng như chính quyền địa phương là đối xử với gia đình ông Lê Đình Kình. So với cả ông Lê Đình Kình, rõ là ông Trọng thâm hiểm và thủ đọa hơn, kể cả hèn hạ hơn.

Bà Mận (vợ ông Trọng) bên linh cữu chống, và bà Thành (vợ ông Kình), bị công an cướp xác chồng mang đi. (FB)

Những tay nhiếp ảnh của báo chí nhà nước cố gắng săn tìm hình ảnh ra vẻ cô đơn và chịu đựng của bà Mận, vợ ông Trọng trong lễ tang, để đưa lên nhằm để mủi lòng người nhìn thấy. Nhưng người ta cũng không quên hình ảnh của bà Dư Thị Thành, vợ ông Lê Đình Kình, đeo khăn tang và đau đớn khóc kể về câu chuyện công an ập vào bắn nát người một cụ già đang ngồi xe lăn. Bà cũng mạnh mẽ tố cáo nói công an vu cho ông Kình là cầm lựu đạn. Đã vậy công an còn tra tấn, ép cả làng phải nói dối, nhận tội và áp án tử hình cho hai người con của ông Lê Đình Kình. Sự cô đơn và chịu đựng nào có thể so được với bà Dư Thị Thành?

Gượng gạo, một số trí thức xã hội chủ nghĩa vội đưa ra lý lẽ là với ông Trọng “hãy để lịch sử về sau phán xét”. Nhưng nói như bà Phạm Thanh Nghiên, thì “tại sao ông Trọng lại được đặc cách để lịch sử phán xét”, khi tội ác và sự hèn kém của ông ta lộ rõ qua từng vụ xử đại án, từng vụ cho quan chức từ chức để hạ cánh an toàn, hay vỗ tay cho Bộ Công an tung hoành với điều 331 và 117 để bắt bớ, đánh đập người yêu nước nhưng không yêu đảng?

Lợi dụng cái chết của ông Trọng, đảng cầm quyền thao túng nhằm cố nối dài hơi thở tàn của chủ nghĩa cộng sản trên đất Việt Nam. Nhưng đáp số có thể thấy ngay là thất bại. Hà Nội không thể nào vui mừng với những lời tung hô và khóc than giả tạo do chính họ tạo ra, mà lúc này, họ không thể ăn ngon ngủ yên với sự im lặng nặng nề và những nụ cười mỉa mai của cả nước trước chiêng trống rùm beng, từ đám tang của một tay lãnh đạo.


 

Chi hơn $21 triệu nâng cấp, mặt đường đèo Prenn rạn nứt do ‘trời mưa’

Ba’o Nguoi-Viet

July 29, 2024

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Đường đèo Prenn, cửa ngõ vào trung tâm thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xuất hiện vết nứt dài hàng chục mét, đe dọa có thể sụp lún bất cứ lúc nào.

Theo ghi nhận của báo VNExpress, vị trí mặt đường bị rạn nứt cách điểm đầu đèo phía thành phố Đà Lạt khoảng hơn 200 mét, được phát hiện hôm 27 Tháng Bảy. Vết rạn nứt mặt đường phía taluy âm, rộng 1-3 cm, kéo dài khoảng 20 mét.

Vết rạn nứt trên đường đèo Prenn có thể lan rộng thêm và sụt lún bất cứ lúc nào. (Hình: Khánh Hương/VNExpress)

Điều đáng nói là đoạn đường đèo Prenn dài 7.27 km nối quốc lộ 20 này mới vừa được nâng cấp, mở rộng với kinh phí đầu tư 552 tỷ đồng ($21 triệu), gồm bốn làn xe hơi, vận tốc thiết kế 60 km/h và mới được đưa vào sử dụng từ đầu năm 2024.

Giải thích về sự việc trên, công ty Cổ Phần Xây Dựng Đèo Cả, nhà thầu thi công, và cơ quan chuyên môn cho rằng “do mưa lớn nhiều ngày, nước thấm sâu xuống đất dưới nền đường gây ra trạng thái bão hòa, đồng thời đất nền ở đèo hàm lượng sét cao ảnh hưởng khả năng liên kết, chịu lực, dẫn tới hư hỏng mặt đường.”

Để xoa dịu công luận, nhà thầu đã sử dụng nhựa đường trám các vết nứt ngăn nước thâm nhập xuống nền, xem diễn biến của vết nứt và “sẽ có phương án xử lý dứt điểm ngay khi mùa mưa kết thúc.”

Về phía chính quyền tỉnh Lâm Đồng, sau khi tuyến đường đèo xuất hiện sạt lở ở một số vị trí, đất đá tràn xuống bên dưới, nguy cơ mất an toàn giao thông đã yêu cầu chủ đầu tư, nhà thầu dọn đất đá sạt trượt, khơi thông mương tránh ngập úng, nước chảy ra đường, đồng thời “thường xuyên kiểm tra đường để kịp thời sửa chữa.”

Một đoạn đường đèo Prenn được mở rộng. (Hình: Hải Đăng/VNExpress)

Đèo Prenn dài 7.27 km nối quốc lộ 20, đường huyết mạch từ khu vực Đông Nam Bộ lên Đà Lạt, có địa hình đồi núi cao, nhiều khúc cua nguy hiểm. Dọc đường đèo còn có nhiều điểm du lịch nổi tiếng như thác Datanla, hồ Tuyền Lâm, Thiền Viện Trúc Lâm… nên vào các dịp lễ, cuối tuần, lưu lượng xe cộ rất lớn, thường xuyên xảy ra kẹt xe.

Ngoài đường đèo Prenn, còn có hai tuyến từ huyện Đức Trọng lên Đà Lạt là Mimosa và Tuyền Lâm. (Tr.N) [kn]


 

Australia: Cần gây sức ép để Việt Nam chấm dứt vi phạm nhân quyền

Ba’o Tieng Dan

Human Rights Watch

29-7-2024

Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (bên trái) bắt tay với Thủ tướng Australia Anthony Albanese tại Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN – Australia ở Melbourne, Australia, ngày 5-3-2024. Nguồn: © 2024 Hamish Blair/AP Photo

Vận dụng Đối thoại Nhân quyền để xác lập các mốc đánh giá cải cách

(Sydney) – Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu trong một tờ trình gần đây gửi chính phủ Australia rằng Australia cần gây sức ép với chính quyền Việt Nam bằng cách xác lập các mốc rõ ràng, cụ thể và dễ đánh giá về tiến bộ trong các cuộc gặp sắp tới.  Cuộc Đối thoại Nhân quyền Australia – Việt Nam lần thứ 19 sẽ diễn ra vào ngày 30 tháng Bảy năm 2024 ở Canberra.

Tình hình nhân quyền tồi tệ của Việt Nam tiếp tục xấu đi khi nhà cầm quyền các cấp ở Việt Nam gia tăng sách nhiễu, bắt giữ và truy tố các nhà hoạt động ôn hòa. Hiện có hơn 160 người đang bị giam giữ ở Việt Nam vì lên tiếng phê phán chính quyền, kể cả những người chỉ lên tiếng trên mạng xã hội. Các nhà hoạt động môi trường càng ngày càng dễ trở thành đối tượng bị chính quyền đặt vào vòng ngắm. Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát toàn bộ truyền thông trong nước và Việt Nam hiện đứng thứ ba thế giới về số lượng nhà báo bị cầm tù.

“Trong hai thập niên qua, Australia đã tổ chức 18 cuộc đối thoại nhân quyền hầu như vô hiệu với Việt Nam và cần có cách tiếp cận mới,” bà Daniela Gavshon, Giám đốc quốc gia Australia của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Thay vì tiếp cận theo kiểu thụ động về nhân quyền, chính phủ Australia nên gây sức ép để có những cải tổ mang tính hệ thống, dựa trên các mốc đánh giá rõ ràng.”

Trong tờ trình của mình, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền khuyến nghị chính phủ Australia tập trung vào năm lĩnh vực ưu tiên về tình hình nhân quyền ở Việt Nam: phóng thích các tù nhân chính trị và những người bị giam giữ tùy tiện; chấm dứt đàn áp các nhà hoạt động môi trường; tôn trọng quyền của người lao động; 4) bảo đảm trình tự tố tụng công bằng đối với các nghi can và bị cáo hình sự; và chấm dứt đè nén quyền tự do thực hành tôn giáo và tín ngưỡng.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói rằng Chính phủ Australia cần nêu đích danh vụ việc của các nhà hoạt động nhân quyền, gồm có Đặng Đăng PhướcBùi Tuấn LâmTrần Văn BangNguyễn Vũ BìnhNguyễn Chí Tuyến, cùng nhiều vụ khác. Ngày mồng 1 tháng Sáu, công an Việt Nam bắt giữ nhà báo nổi tiếng Huy Đức và luật sư Trần Đình Triển vì đăng những bài viết ủng hộ dân chủ trên Facebook. Cả hai người đều bị cáo buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước” theo điều 331 nhiều tai tiếng của bộ luật hình sự Việt Nam.

Tháng Ba năm nay, Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính đã đến thăm Canberra để nâng cấp quan hệ hai nước thành Đối tác Chiến lược Toàn diện. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói rằng chính phủ Australia không nên để mối quan hệ được nâng cấp này trở thành một trở ngại cho việc đề cập đến tình trạng nhân quyền của người dân Việt Nam.

“Chính phủ Australia không cho biết nhiều về các vấn đề nhân quyền đã nêu với phía Việt Nam trong các cuộc đối thoại trước, nhưng rõ ràng những cuộc đối thoại đó không có tác động gì mấy,” bà Gavshon nói. “Chính phủ Australia cần cân nhắc một cách tiếp cận mới và có hiệu quả hơn, đồng thời đặt nhân quyền vào vị trí trung tâm trong tất cả các cuộc thương lượng với chính phủ Việt Nam thay vì chỉ giới hạn trong một cuộc đối thoại song phương thường niên tách biệt và không mấy quan trọng.” 


 

Động Đất Lớn Tại Kon Tum Gây Chấn Động Rộng Khắp Các Tỉnh Miền Trung Việt Nam, Người Dân Hoang Mang

Ba’o Dat Viet

July 28, 2024

Trưa ngày 28/7, một chuỗi các trận động đất đã xảy ra tại huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, gây chấn động rộng khắp và lan tỏa đến nhiều tỉnh miền Trung Việt Nam. Theo thông tin từ Viện Vật lý địa cầu, trận động đất mạnh nhất đạt 5 độ Richter, diễn ra vào khoảng 11h35 theo giờ  Hà Nội, với độ sâu chấn tiêu khoảng 8,1 km. Trận động đất này được đánh giá có cấp độ rủi ro thiên tai cấp 2, đặc biệt nguy hiểm cho các khu vực gần tâm chấn.

Trước đó, chỉ khoảng 18 phút, tức vào lúc 11h17 cùng ngày, tại khu vực này cũng đã xảy ra một trận động đất khác với cường độ 4,1 độ, có độ sâu chấn tiêu khoảng 8,3 km. Đây là trận động đất đầu tiên trong chuỗi bốn trận động đất diễn ra tại Kon Plông trong ngày, với hai trận khác xảy ra vào buổi sáng, cường độ lần lượt là 3,4 và 3,3 độ. Mặc dù các trận động đất này được xếp vào loại nhẹ, nhưng vẫn đủ để gây cảm nhận rõ rệt trong khu vực.

Theo ông Nguyễn Xuân Anh, Viện trưởng Viện Vật lý địa cầu, các trận động đất mạnh từ 5 đến 5,9 độ thường được coi là mức độ trung bình, có khả năng gây ra thiệt hại từ trung bình đến nặng cho các công trình xây dựng có thiết kế kém. Tuy nhiên, những công trình được xây dựng tốt thì ít bị ảnh hưởng. Trong khi đó, các trận động đất từ 4 đến 4,9 độ chủ yếu gây rung lắc nhẹ, thường không gây thiệt hại lớn, nhưng cũng đủ làm người dân cảm thấy bất an.

Cảm Nhận Rung Lắc Rộng Khắp Miền Trung

Không chỉ tại Kon Tum, động đất còn được cảm nhận rõ ràng tại nhiều tỉnh thành khác như Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Quảng Ngãi. Nhiều người dân tại đây đã trải qua những giây phút lo lắng khi cảm nhận rõ ràng sự rung lắc của mặt đất và các đồ vật trong nhà.

Tại Quy Nhơn, Bình Định, ông Nguyễn Hồng Phúc cho biết vào khoảng 11h50, khi đang ngồi xem tivi, ông cảm thấy chiếc ghế mình đang ngồi rung chuyển. Ban đầu, ông nghĩ rằng có thể ghế bị hỏng, nhưng sau đó phát hiện ra là toàn bộ nhà cửa đều đang rung lắc. Đây là lần đầu tiên trong đời ông Phúc cảm nhận được hiện tượng này.

Ở Phú Yên, anh Hoàng Vũ Phương cũng kể lại rằng anh và gia đình đã cảm nhận rõ rệt sự rung chuyển của tường và đồ đạc trong nhà vào khoảng 11h35. Cảm giác rung lắc kéo dài khoảng 5 giây, đủ mạnh để làm các bình rượu trong nhà rung động. Thậm chí, con gái anh cũng cảm nhận được điều này.

Tại Đắk Lắk, chị Quánh Thủy Kiều cho biết đã cảm nhận rõ ràng rung lắc khi đang ở trung tâm TP Buôn Ma Thuột vào khoảng 11h35. Sự bất ngờ khiến chị phải hỏi han bạn bè và người quen, nhiều người trong số họ cũng xác nhận cảm nhận được hiện tượng này. Chị Kiều chia sẻ rằng đây là lần đầu tiên chị cảm nhận được hiện tượng động đất, giống như trong các bộ phim hay trên tivi.

Phản Ứng Của Người Dân Miền Trung

Trận động đất không chỉ làm rung lắc các đồ vật trong nhà, mà còn khiến nhiều người dân tại các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế và Quảng Ngãi hoảng sợ. Nhiều người đã phải nhanh chóng rời khỏi nhà vì không biết nguyên nhân của sự rung chuyển.

Tại Đà Nẵng, chị Nguyễn Thị Nhung, sống tại khu nhà ở tập thể quân đội 88B Nguyễn Chánh, cho biết sau khi cảm nhận được rung lắc, chị đã ngay lập tức ôm con chạy ra khỏi nhà. Chị Nhung cùng nhiều cư dân khác tại khu tập thể này rất hoang mang vì lần đầu tiên họ trải qua một trận động đất mạnh như vậy.

Cũng tại Đà Nẵng, nhiều người dân khác cũng cho biết đã cảm nhận được sự rung chấn kéo dài khoảng 4-5 giây. Nhiều người đã phải bỏ dở công việc, chạy ra khỏi nhà để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra.

Ở Huế, anh Phan Hoàng, sống tại Ngự Bình, kể lại rằng mặt đất và đồ đạc trong nhà rung chuyển mạnh, như thể có một chiếc xe tải nặng chạy qua. Anh Quân ở xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền cũng cho biết đã cảm nhận được hai lần rung lắc mặt đất.

Tại Quảng Ngãi, lần đầu tiên TP Quảng Ngãi ghi nhận rung lắc mạnh do ảnh hưởng từ trận động đất ở Kon Plông. Nhiều người dân đã hoảng hốt chạy ra đường, trong đó có chị Nhi tại phường Nghĩa Chánh. Chị Nhi cho biết, khi đang ngồi trong nhà với con, chị cảm thấy rung lắc mạnh và phải ôm con chạy ra ngoài vì quá sợ hãi.

Phản Ứng của Chính Quyền và Cơ Quan Chức Năng

Trước tình hình này, Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần của Viện Vật lý địa cầu đang tiếp tục theo dõi các diễn biến để đưa ra những cảnh báo và biện pháp phòng ngừa cần thiết. Các cơ quan chức năng cũng đã sẵn sàng để đối phó với các tình huống khẩn cấp có thể xảy ra.

Trận động đất này là một lời nhắc nhở về sự cần thiết của việc tăng cường các biện pháp phòng chống thiên tai, nâng cao chất lượng thiết kế và xây dựng các công trình để giảm thiểu thiệt hại. Đồng thời, cũng cần nâng cao nhận thức và kỹ năng ứng phó của người dân trước các tình huống thiên tai để bảo vệ bản thân và gia đình.


 

Rò rỉ ảnh biệt phủ của anh em nhà Tô Lâm ngay sau đám tang Nguyễn Phú Trọng

Ba’o Nguoi-Viet

July 27, 2024

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Một ngày sau khi đám tang ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư CSVN, kết thúc, mạng xã hội hôm 27 Tháng Bảy lan truyền hình ảnh được cho là hai biệt phủ của ông Tô Lâm, chủ tịch nước Việt Nam và em trai.

Theo hình ảnh chụp được Luật Sư Lê Quốc Quân đăng tải trên trang cá nhân, ông Tô Lâm được cho là sở hữu căn nhà “trị giá hàng trăm tỷ đồng (hàng triệu đô la) tại khu đô thị Ecopark Hưng Yên, ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Một phần của tấm ảnh lan truyền trên mạng hôm 27 Tháng Bảy. (Hình: Chụp qua màn hình)

Dinh thự này được mô tả là “luôn có từ bốn đến sáu người canh gác.”

Cũng theo tấm ảnh, em trai ruột ông Tô Lâm là ông Tô Dũng, chủ tịch tập đoàn Xuân Cầu, sở hữu căn nhà “100 tỷ đồng ($3.9 triệu) ở khu Thiên Đường Bảo Sơn, tọa lạc tại Hoài Đức, Hà Nội.

Tấm ảnh nêu trên còn đưa cáo buộc ông Tô Lâm “bảo kê” cho em trai “thâu tóm bất động sản, trúng thầu, chỉ định thầu các đại dự án có vốn đầu tư từ ngân sách [tiền thuế dân] lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng (hàng trăm triệu đô la).

Luật Sư Lê Quốc Quân cho biết trên trang cá nhân rằng ông “thấy trên mạng xuất hiện tấm hình” và đặt câu hỏi: “Anh em nào biết cụ thể hai biệt thự này thì kiểm chứng có đúng vậy không và nó giá bao nhiêu nhé?”

Luật Sư Quân viết thêm: “Theo pháp luật thì chủ tịch nước là chức danh có mức lương cao nhất với hệ số lương 13,00. Như vậy, từ hôm 1 Tháng Bảy, mức lương áp dụng với lãnh đạo đứng đầu nhà nước sẽ tăng từ 23.4 triệu đồng ($924) mỗi tháng lên 30.4 triệu đồng ($1,200).”

Bên dưới bài đăng, Facebooker “Nguyen Phuong Nga” bình luận: “Tầm này mà nói chuyện trăm tỷ là sỉ nhục anh ấy [Tô Lâm] đấy!”

Một số ý kiến khác cho rằng ông Tô Lâm “sở hữu cả cái tỉnh Hưng Yên còn được chứ nói mỗi cái góc Ecopark là còn quá ít.”

Nhiều khả năng tấm ảnh gây bàn tán nêu trên được rò rỉ từ phe đối nghịch với ông Tô Lâm trong đảng.

Ngay sau khi có tin ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, giới quan sát đã suy đoán ông Tô Lâm sẽ lập tức thâu tóm quyền lực để giành ghế tổng bí thư và triệt hại các đối thủ đồng đảng.

Ông Tô Lâm (hàng đầu, thứ ba từ trái qua), chủ tịch nước Việt Nam, tại đám tang ông Nguyễn Phú Trọng hôm 26 Tháng Bảy. (Hình: ZNews)

Facebooker Dương Quốc Chính, người hay bình luận về chính trường Việt Nam, dự báo trên trang cá nhân về đấu đá trong nội bộ đảng sau khi ông Trọng qua đời: “…Trận này mới là sống mái này, vì không còn ai cầm trịch, là ‘trung tâm đoàn kết’ nữa.

Khoảng trống quyền lực sau khi một người nắm trọn quyền lực ra đi luôn là rất lớn và phải qua quá trình tranh đấu mới đi tới ổn định. Linh cảm của mình dựa trên lịch sử thôi nhé!” (N.H.K)


 

Chữ viết Việt Nam và giáo sĩ Alexandre de Rhodes

Ba’o Nguoi-Viet

July 25, 2024

Kỷ niệm 400 năm hình thành chữ quốc ngữ (1624-2024)

Huỳnh Duy Lộc/SGN

K.W.Taylor (Keith Weller Taylor) sinh năm 1946 tại Michigan, Hoa Kỳ, có bằng cử nhân vào Tháng Năm năm 1968 tại Đại học George Washington. Chỉ hai tuần sau, ông bị gọi khám sức khỏe để đi quân dịch và đã tình nguyện vào Cơ Quan Tình Báo Quân Đội với hy vọng không bị đưa sang chiến trường Việt Nam.

Thế nhưng ông vẫn phải sang Việt Nam vào năm 1970 với cấp bậc trung sĩ trong quân đội Mỹ rồi được trở về Mỹ vào năm 1971 sau khi bị thương. Vào Tháng Giêng năm 1972, sáu tháng sau khi trở về từ Việt Nam, ông được giải ngũ và tiếp tục theo học Đại học Michigan, chuyên về lịch sử Việt Nam.

Sau khi lấy được bằng tiến sĩ về lịch sử vào năm 1976 với luận án “The birth of Vietnam” (Việt Nam thời dựng nước), ông làm giảng viên khoa Lịch sử, Đại học Quốc Gia Singapore (1981-1987), giáo sư khoa Lịch sử ở Hope College (1987-1989) rồi làm giáo sư của khoa Nghiên cứu châu Á của Đại học Cornell (từ năm 1989 đến nay)

K.W.Taylor đã viết hai cuốn sách về Việt Nam:
-Luận án tiến sĩ bảo vệ năm 1976, được xuất bản năm 1983 với nhan đề “The Birth of Vietnam” (Việt Nam thời dựng nước).
-“A History of the Vietnamese” (Một lịch sử của người Việt, Cambridge University Press ấn hành, New York, 2013).

Trong lời giới thiệu đầu sách “A History of the Vietnamese”, K.W.Taylor định nghĩa: “Lịch sử Việt Nam là những gì có thể tìm biết được về một mặt nào đó của quá khứ. Lý do gọi nó là sử Việt là vì những biến cố đã xảy ra trên phần đất mà hiện nay chúng ta gọi là Việt Nam và một số phiên bản của nó đã từng được dạy như là một hồi ức hay kỷ niệm chung cho nhiều thế hệ người nói tiếng Việt và do đó gây ra một cảm giác rằng họ làm chủ. Tôi thích thú với quá khứ của Việt Nam không phải vì đấy là của [nước hay người] Việt Nam, mà vì nó giúp tìm hiểu về cách xã hội con người được tổ chức và cai trị như thế nào trong nhiều năm bên cạnh một đế quốc.”

Với các sử gia ngoại quốc như K.W.Taylor, Alexandre de Rhodes có phải là “tên gián điệp,” “biệt kích Kitô” như lời kết án của một số tác giả người Việt như Chu Văn Trình?

K.W.Taylor viết về giáo sĩ Alexandre de Rhodes: “Vào năm 1651, Alexandre de Rhodes cho in cuốn “Từ điển Việt – Bồ – La” tại Rome. Đây là cuốn từ điển đầu tiên dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Chính vì vậy, người ta thường cho rằng Alexandre de Rhodes là người đã sáng chế chữ quốc ngữ, nhưng sự thật, chữ quốc ngữ do người Bồ Đào Nha sáng chế và các giáo sĩ dòng Tên vận dụng để hiểu được tiếng Việt.

Nhà nghiên cứu Keith Weller Taylor (Instagram)

Alexandre de Rhodes đến từ miền Avignon của Pháp, là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên của Dòng Tên đã đến truyền đạo cho người Việt. Sau khi ở Đàng Trong trong một năm rưỡi để học tiếng Việt, ông ra Đàng Ngoài vào năm 1627, ở lại đó suốt ba năm rồi bị trục xuất.

Sau khi trở về Macao và ở lại đó trong 10 năm, ông trở lại Đàng Trong trong 5 năm (1640-1645), rồi đến Rome vào năm 1649. Alexandre de Rhodes đã cung cấp cho người Âu châu những kiến thức về Đàng Ngoài qua tác phẩm “Vương quốc Đàng Ngoài” ấn hành bằng tiếng Ý vào năm 1650, bằng tiếng Pháp vào năm 1651 và bằng tiếng La tinh vào năm 1652.

Sau đó, những tác phẩm về xứ Đàng Trong của những nhà truyền giáo Dòng Tên khác lần lượt ra mắt. Joseph Tissanier (1618-1688) ở Đàng Ngoài từ năm 1658 tới năm 1663 đã viết một bản tường trình bằng tiếng Pháp vào năm 1663. Cũng trong năm ấy, Giovanni Filippo de Marini (1608-1677) truyền giáo ở Đàng Ngoài từ năm 1647 tới năm 1658, đã viết một bản tường trình bằng tiếng Ý được dịch ra tiếng Pháp vào năm 1666. Một bản tường trình của Christoforo Bori sống tại Bình Định từ năm 1618 tới năm 1622 đã được dịch ra tiếng Ý vào năm 1631 và chỉ 2 năm sau được dịch ra tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Hà Lan và tiếng Đức. Alexandre de Rhodes viết một bản tường trình về cuộc truyền giáo ở Đàng Trong được xuất bản bằng tiếng Pháp vào năm 1652. Trong những bản tường trình này là những trải nghiệm của hàng chục nhà truyền giáo của Dòng Tên đã sống ở Đàng Trong và Đàng Ngoài vào tiền bán thế kỷ 17.

Sự khởi đầu của Thiên Chúa Giáo ở xứ sở của người Việt thường được gắn kết với các nhà truyền giáo đã viết những bản tường trình bằng những ngôn ngữ của châu Âu, đặc biệt là Alexandre de Rhodes với cuốn “Từ điển Việt – Bồ – La” và cuốn “Phép giảng tám ngày” được ấn hành tại Rome…

Sự nhầm lẫn về Alexandre de Rhodes bắt nguồn từ việc cho ông là người sáng chế chữ quốc ngữ trong khi thật ra, chữ cái La tinh được các nhà truyền giáo của Dòng Tên vận dụng khi học tiếng Việt và được người Việt vận dụng để học tiếng La tinh, và cả người Việt lẫn người Âu châu đều dùng chữ cái La tinh để dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo mới đến hoặc để phục vụ những mục tiêu riêng… (A History of the Vietnamese, tr. 287, 288)


 

Người Nam Kỳ – Lâm văn Bé

Lâm văn Bé

Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở đàng ngoài.

Trước tiên, ngôn ngữ là một đổi thay lớn và nhanh chóng.

Chỉ một thế hệ, Nguyễn Ðình Chiểu, con của Nguyễn Ðình Huy gốc người quận Phong Ðiền ở Huế được bổ nhiệm vào Gia Ðịnh phò tá Lê Văn Duyệt, đã viết ra Lục Vân Tiên, một tác phẩm tiêu biểu của miền Nam với những lời văn nôm na, bình dân trái với văn phong Hán Học của ông cha.

Tiên rằng bớ chú cõng con,

Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài

hay

Phong Lai mặt đỏ phừng phừng

Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây

Nhiều nhà chánh trị, văn hóa nổi tiếng của Việt Nam và miền Nam vào thế kỷ 19 đa số là người Thuận Quảng hay người Minh Hương. Thí dụ Gia Ðịnh Tam gia gồm có Trịnh Hoài Ðức gốc người Phước Kiến (định cư ở Biên Hòa, tác giả bộ địa phương chí Gia Ðịnh Thành Thống Chí), Lê Quang Ðịnh gốc người Thuận Quảng (tác giả bộ Hoàng Việt Nhất Thống Ðịa Dư Chí), Ngô Nhân Tịnh gốc người Quảng Ðông.

Nhiều gia đình danh gia vọng tộc ở miền Nam, đặc biệt ở Gò Công, cũng là con cháu những người Thuận Quảng đã theo các đàn ghe bầu xuôi Nam lập nghiệp vào thế kỷ 17 như bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Ðức là con của đại thần Phạm Ðăng Hưng, bà Ðinh Thị Hạnh, thứ phi của vua Thiệu Trị.

Ðến vùng đất mới, lưu dân Thuận Quảng mang theo những câu hò, điệu hát đàng ngoài nhưng lại được cải biên theo địa danh mới.

 

Bắp non mà nướng lửa lò

Ðố ai ve được con đò Thuận An

(Huế)

Bắp non mà nướng lửa lò

     Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm

(Gia Ðịnh)

 

Ru em théc cho muồi

Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu

Mua vôi chợ Quán chợ Cầu

Mua cau Bát Nhị mua trầu Hội An

Hội An bán gấm bán điều

Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành

(Quảng Nam)

Ðố ai con rít mấy chưn

     Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mây người

     Chợ Dinh bán áo con trai

Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim

(Gia Ðịnh)

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò

(Thuận Quảng)

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Sấu tha ông Lữ biết đâu mà mò

(Nhà Bè)

 

Chiều chiều ông Lữ đi câu

Trâu tha gảy ách ngồi bờ khoanh tay

(Hốc môn)

 

Ngoài chuyện cải biên tiếng Việt, sự cộng cư giữa lưu dân Việt từ Ðàng ngoài với người Tàu, người Miên đã tạo thành một thứ ngôn ngữ pha trộn. Biết bao địa danh Nam Kỳ là nói trại từ tiếng Miên (Sốc Trăng, Trà Vinh, Bải Xàu, Chắc Cà Ðao …) danh từ tiếng Việt Miên ghép lại: cầu Mây Tức ở giữa Trà Vinh và Vĩnh Long (Mây: tiếng Việt, Tức: tiếng Miên=nước) hay Việt Miên Tàu: sáng say, chiều xỉn, tối xà quần … hay là nóp, bao cà ròn (tiếng Miên) thèo lèo, xá, gật, hủ tiếu, mì … (tiếng Tàu) và tiếng quần xà lỏn, hay tà lỏn (pantalon, Pháp).

Bàn về bản chất của người Nam Kỳ, tôi mượn hai tài liệu xưa:

Trong Gia Ðịnh Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Ðức viết vào khoảng 1820 có đoạn:

Vùng Gia Ðịnh nước Việt Nam đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. Nhà nào tục nấy … Gia Ðịnh có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung dũng, trọng nghĩa khinh tài …

John White, sau khi thăm viếng Sài Gòn trở về Luân Ðôn có viết trong quyển hồi ký A voyage to Cochinchina năm 1824 như sau:

Chúng tôi rất thỏa mãn với tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy, mang theo cảm tưởng tốt đẹp nhứt về phong tục và tánh tình của dân chúng. Những sự ân cần, lòng tốt và sự hiếu khách mà chúng tôi thấy đã vượt quá cả những gì mà chúng tôi đã quan sát đến nay tại các quốc gia châu Á …

Tôi cố gắng tìm hiểu những đặc tính của người dân miền Nam mà hai tác giả đã nhận định như trên qua cái nhìn lịch sử và xã hội.

Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng

và biết bao ngạn ngữ Ðông Tây đã nói lên sự thích ứng của con người với ngoại cảnh.

Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt học được bản chất hiếu khách của hai sắc dân tộc nầy. Hơn thế, bản chất hiếu khách còn là một nhu cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Trước những khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương trợ nhau. Tính hiếu khách chẳng qua là một sự lo xa, phòng thân bởi lẽ nếu hôm nay tôi giúp anh thì tôi hy vọng ngày mai anh sẽ giúp tôi khi tôi gặp khó. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết nhau, dân miền Nam đều cơm nước trà rượu như đã là bà con cật ruột.

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mượn chén ăn cơm

Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi

Có người còn giải thích tính hiếu khách, hào phóng của dân Nam Kỳ là do sự trù phú, màu mỡ của ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm được, kiểu làm chơi mà ăn thiệt của miền Nam. Giải thích như vậy có phần đúng, nhưng chưa đủ, bởi lẽ không phải ai giàu cũng hào phóng nếu không sẵn có lòng hào phóng.

Biểu hiện của tính hiếu khách là các tiệc tùng, hợp bạn. Dân Nam Kỳ hay ăn nhậu, đờn ca xướng hát. Nhưng phải hiểu rằng dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận Quảng khi xưa. Xa quê cha đất tổ, người lưu dân, sau những giờ lao động cực lực hay sau những cơn hiểm nguy, cần có những phút giây để tâm sự hàn huyên với nhau, kể cho nhau nghe những kỹ niệm xưa để vơi phần nào nỗi sầu ly hương.

Từ những chung rượu cay ở bờ rừng đến những buổi tiệc linh đình ở đám cúng đình, đám giỗ có đờn ca xướng hát, người dân Nam Kỳ tìm trong những dịp gặp gỡ ấy để giải khuây, để kết bạn. Tiệc rượu là dịp bàn chuyện làm ăn, chuyện thế sự, do đó chúng ta không lấy làm lạ cái tiệm nước, quán rượu đầu làng là nơi tụ hợp quen thuộc của mọi người dân trong làng, từ ban hội tề cho đến thứ dân.

Sơn Nam trong cá tánh của miền Nam đưa ra thêm một lý giải khác về bản tánh hiếu khách, tứ hải giai huynh đệ của người miền Nam. Theo đó thì:

Thiên Ðịa Hội tạo ra một nếp sanh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện ngoài đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn. Trút tất cả tâm sự với bạn kết nghĩa thì không có gì đáng ngại, đã là bạn với nhau rồi thì làm sao có chuyện phản bội. Gặp chuyện bất bình, hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn hiếp thì nổi nóng, trả thù cho bạn vô điều kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ giữa anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ (tr. 106).

Tưởng cũng nói thêm Thiên Ðịa Hội, là một thứ hội kín người Tàu phò nhà Minh, liên kết nhau với một kỹ thuật chặt chẽ để giúp đỡ nhau (những chùa miễu, xí nghiệp Tàu đều có tiền của Thiên Ðịa Hội) ảnh hưởng nhiều đến dân Minh Hương và cả dân Việt Nam trong suốt thế kỷ 19 từ thành thị đến nông thôn, là một đồng minh của các nhà ái quốc VN chống Pháp.

Những khía cạnh tiêu cực của bản tánh hào phóng là sự thiếu cần kiệm, hoang phí, mà Trịnh Hoài Ðức phê là thói bốc rời. Hiện tượng những Cậu Hai, Cậu Ba, Công tử Bạc Liêu, con của những đại phú hộ, thay vì dùng tiền rừng bạc biển để kinh doanh, thì lại đắm chìm trong việc ăn chơi cho đến khi sạch túi. Kết quả là đa số dân Nam Kỳ bị chôn chân ở ruộng vườn, ít bon chen trong thương trường, để nền kinh tế cho người Tàu thao túng.

Bản chất đôn hậu mộc mạc là một đức tính khác của dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn từ điều kiện sinh sống. Bản chất nầy cũng là một nhu cầu cần thiết trong cuộc cộng cư của dân tha phương. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau quen tạo thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau bằng tình nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt nhục nhã là bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi. Người dân Nam Kỳ vì vậy nhớ ơn và trung thành chẳng những với người sống mà cả với người chết. Thông thường thì có đám giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha mẹ còn có mâm cơm bày ra trước cửa nhà để cúng đất đai, cúng những người đã ra đi trong công cuộc vở đất mới, cúng thần linh đất đai để những người nầy phù hộ.

Nói về sự phù hộ thì dân Nam Kỳ có không biết bao nhiêu thần hộ mạng bởi trên con đường lập nghiệp, họ gặp không biết bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ, một con sông, một tiếng trời gầm, tất cả đều gieo cho họ sự sợ hãi. Trong nỗi bơ vơ, họ luôn cầu nguyện đất trời để phù hộ họ.

Tới đây xứ sở lạ lùng

Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh

Ðạo Phật vô Nam vì vậy mà biến thể, mang thêm bản chất dị đoan, bùa chú, cộng thêm với bản chất mê tín của Phật giáo Théravada của người Miên và tục thờ cúng nhiều ông Thần, ông Thánh của người Tàu.

Dân Nam Kỳ do đó không phải là những tín đồ Phật giáo thuần thành. Việc đi chùa, hành hương, làm công quả, ngoài chuyện cầu nguyện, van vái còn mang thêm bản chất xã hội. Ðó là những dịp để bạn bè thân thích gặp gỡ nhau trong một khung cảnh linh thiêng. Chùa chiền trong Nam đa số không uy nghi, cổ kính như chùa miền Bắc và miền Trung, mà trái lại thường khiêm tốn, thu mình trong những tàng cây cổ thụ, có khi diện tích cây trái xung quanh lớn hàng chục lần ngôi chùa (các ngôi chùa Miên lại là giang sơn của các loài chim muông). Ði chùa, đi hành hương đối với dân Nam Kỳ, đặc biệt với phụ nữ còn là dịp đi vãng cảnh…

Không lấy làm lạ, là các ngày lễ hội truyền thống như Lễ Hội Bà Chúa Xứ (vía Bà) ở núi Sam Châu Ðốc (25 tháng tư), Lễ Hội Ðền Bà Ðen ở Tây Ninh (rằm tháng giêng), Lễ Hội Cúng Cá Voi ở các vùng ven duyên hải (ngày giờ tùy vùng), Lễ Hội Thánh Ðịa Hòa Hảo ở làng Hòa Hảo Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch) … đã diễn ra trong nhiều ngày thu hút hàng trăm ngàn người, không những là tín đồ mà còn là du khách.

Sông nước bao la, kinh rạch chằng chịt và đồng ruộng cò bay thẳng cánh lại là những yếu tố qui định cá tánh của dân miền Nam.

Trái với dân cư vùng châu thổ sông Hồng bị bao vây bởi một hệ thống đê điều, làng mạc miền Bắc được thiết lập từ lâu đời nên bị bao bọc bởi những hàng rào, lũy tre, thân tộc liên kết chặt chẽ nhau qua các thế hệ, làng xã ở miền Nam thường thiết lập ven sông, chạy dài theo kinh rạch, không có lũy tre, hàng rào ngăn cách, dòng họ thân tộc chưa phát triển chằn chịt như ở miền Trung, miền Bắc. Nếu nói văn minh sông Hồng là văn minh đê điều thì văn minh đồng bằng sông Cửu Long là văn minh sông rạch.

Sông rạch đã qui định đời sống kinh tế, chính trị của Nam Kỳ. Chúng ta không ngạc nhiên khi người Pháp bắt đầu thiết kế các thành phố trong Nam, các dinh Chủ Tỉnh, hay các câu lạc bộ để ông tây bà đầm ra hứng mát đều được cất hướng ra sông, rồi chung quanh đó là trường tiểu học, nhà thương, trại lính và khám đường.

Sông rạch lại qui định tâm tính và tâm tình của dân miền Nam.

Ông Nguyễn văn Trung đã viết: Do đó về phương diện xã hội, miền Nam không có chị Dậu trong tắt đèn của Ngô Tất Tố, bị chà đạp ép bức mà vẫn chịu trận. Trái lại giai cấp điền chủ ở miền Nam không thể áp bức hay áp bức dễ dàng nông dân như ở Bắc Kỳ vì nếu không chịu nổi và nếu muốn, vợ chồng chị Dậu chỉ việc xuống ghe thuyền đi tìm một miền đất hứa khác. Ðầm lầy, ruộng hoang còn thiếu gì sẵn sàng đón nhận người đến vỡ đất lập nghiệp (NVT. Lục châu học. Ðặc san TH Mytho, năm 2000, tr. 145)

Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn. Tính lửa rơm, giận thì nói ngay, có khi hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sông nước, đồng ruộng bao la. Cái cá tính sẵn có ấy lại được tác động thêm bởi những ý niệm trung hiếu tiết nghĩa qua các truyện Tàu đã ảnh hưởng sâu đậm trong tâm tính của dân miền Nam vào suốt tiền bán thế kỷ 20 và truyện Tàu là một đặc thù của mảng văn học Nam Kỳ Lục tỉnh.

Nhưng bản chất cứng rắn nầy có khi là một khí giới yếu trong những hoàn cảnh cần sự dẻo dai, uyển chuyển, nhất là trong các sinh hoạt chính trị. Người ta thường nhắc đến ông Trần văn Hương với tất cả hai khía cạnh của đặc tánh nầy.

Một khía cạnh tiêu cực khác của sự bộc trực là tánh thiếu cẩn mật và thiếu tế nhị. Sự thẳng thắn đôi khi là một thất lợi trong cách ứng xử, làm vơi đi sự nể trọng của người khách khi người khách không cần biết hết tuốt tuột chuyện trong, chuyện ngoài của người chủ.

Ngoài ra, trong dân gian còn lưu truyền câu Ăn mặn nói ngay để diễn tả sự bộc trực của dân Nam Kỳ. Lịch sử di dân và cuộc sống của lưu dân giải thích phần nào cái bản tính nầy. Lưu dân trên đường xuôi Nam thường phải dùng ghe thuyền để vượt biển và chất mặn của nước biển đã thấm sâu vào huyết quản của lưu dân. Họ quen với múi mặn nên họ thích ăn mặn, thường trong bữa ăn thường có món kho và khô mặn. Chất mặn cần thiết cho họ có nhiều sức lực để dãi dầu mưa nắng, để chịu đựng với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Nhưng làm một phương trình giữa ăn mặn và nói ngay thì có lẽ còn phải phân giải.

Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà còn hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt. Phải hiểu rằng trên biển cả với sóng vổ ì ầm khi xuôi Nam, trong rừng sâu cây cối dầy đặc khi khẩn đất hay trên khoảng đất rộng người thưa, cò bay thẳng cánh, lưu dân khi cần phải nói với nhau phải nói ngắn gọn và nói to để vượt các chướng ngại cách trở. Nhu cầu truyền thông trong một khung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt như vậy đã thay đổi phong cách truyền thông của người Thuận Quảng xưa.

Trong công tác khai hoang vở đất, thiên nhiên khắc nghiệt không phân biệt giới tính.

Người phụ nữ Thuận Quảng vào miền Nam phải gánh chịu tất cả những thử thách cam go y như nam giới. Người phụ nữ Nam Kỳ do đó đã được đào tạo và trưởng thành trong cùng một môi trường với nam giới. Tính khí, diện mạo, y phục của người phụ nữ miền Nam vì vậy có phần nào khác với người phụ nữ miền Trung và Bắc. Họ rắn rỏi hơn trong các sinh hoạt, từ gia đình đến xã hội, từ tình cảm đến tâm tình. Cách ăn mặc của họ cũng đơn sơ hơn, ít màu sắc hơn (người bán hàng rong ở đất Bắc, đất Trung vẫn mặc áo dài, còn đại đa số người đàn bà Nam Kỳ quần đen, áo bà ba đen, có khi còn quàng qua vai một cái khăn bàng hay khăn rằn theo kiểu người Miên).

Dân Nam Kỳ chắc vẫn còn nhớ đội đá banh phụ nữ vào khoảng 1940-1950.

Vì lẽ chế độ phụ quyền lỏng lẻo bởi sự suy tàn của Nho học và sự xâm nhập của Tây học, người phụ nữ miền Nam được khai phóng sớm hơn so với phụ nữ miền Trung và miền Bắc trong các tương quan gia đình xã hội. Một khía cạnh của sự khai phóng nầy là chế độ đa thê.

Chế độ đa thê mà xưa kia người Thuận Quảng dễ dàng chấp nhận nhưng khi vào Nam, chuyện vợ lớn vợ nhỏ, tuy vẫn còn, đặc biệt ở thôn quê thuận lợi cho chuyện nầy vì người đàn ông thường phải đi làm ruộng xa, đi thương hồ, nhưng chuyện đa thê thường bị xã hội chống đối.

Nếu vua Minh Mạng có đến 142 người con

Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dựng (trong một đêm ngủ với 5 bà thì 3 bà có thai)

và Nguyễn Công Trứ, lúc 73 tuổi, lấy vợ lẻ thứ 10, cảm tác trong đêm tân hôn:

Tân nhân dục vấn: Lang niên kỷ ?

Ngũ thập niên tiền nhị thập tam

dịch nghĩa là:

Nàng muốn hỏi anh: chàng mấy tuổi?

Năm mươi năm trước mới hăm ba

thì vô Nam, các ông Thuận Quảng phải nhớ là:

Lập vườn thì phải khai mương,

Làm trai hai vợ phải thương cho đồng

và người đời chế giểu:

Sáng mai anh đi chợ Gò vấp

Mua một sấp nhiễu hết sáu chục đồng

Ðem về cho con hai nó cắt

Con ba nó may

Con tư nó đột

Con năm nó viền

Con sáu kết nút

Con bảy đơm khuy

Anh bước cẳng ra đi

Con tám níu, con chín trì

Ớ mười ơi! Sao để vậy còn gì áo anh.

Chuyện Nam Kỳ tính chắc còn nhiều điều phải nói, phải lý giải. Nhưng điều tôi muốn xin thưa với quý vị hôm nay là nếu xã hội miền Bắc và miền Trung đã thành hình và phát triển lâu đời thành những khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi trường tĩnh, thì đất Nam Kỳ vì là một vùng đất mới, vì là một môi trường động nên còn dễ dàng biến chuyển đổi thay.

Văn học Nam Kỳ

Bùi Ðức Tịnh trong bài Phần đóng góp của văn học miền Nam (Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974) đã viết:

Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển sang văn chương hiện kim và giai đoạn hình thành của nền quốc văn mới, nghĩa là từ 1865 đến 1932, hầu hết các tác phẩm xuất hiện của miền Nam đều bị coi như không có trong văn học VN.

Nguyễn Hiến Lê trong quyển Bảy ngày trong Ðồng Tháp Mười có thuật lại một cuộc đối thoại giữa tác giả và một người bạn, có cử nhơn luật, được tác giả mời từ Bắc vào viếng Sài Gòn. Sau đây là câu chuyện.

Anh bạn cầm tờ TÐ coi qua vài cái tựa chữ lớn rồi bỏ xuống nói:

–         Tôi không thể nào đọc báo trong nầy được.

–         Sao thế?

–         In sai nhiều quá. Hỏi ngã nhầm be bét, rồi ác, át, an, ang … không phân biệt, thật chướng mắt. Cây cau mà in là cây cao thì có chết tôi không chứ?

–         Còn báo người Bắc không in sai sao? S thì nhầm với X, Tr với Ch mà sao anh không thấy chướng?

–         Bề gì ngoài mình cũng in ít lỗi hơn. Còn nội dung thì bài vở ở đây tầm thường lắm, ít bài xã thuyết có giá trị. Nói chung, về văn học, Sài gòn kém Hà nội xa.

Hai nhận định nầy nói lên một thiên kiến tiêu biểu về việc đánh giá thấp nền văn học Nam Kỳ, cho rằng Nam Kỳ không có văn học, hay văn học kém, thiếu Nho học, và lai căng Pháp. Người Nam không biết viết văn,viết nôm na, sai chánh tả, thậm chí có nhà phê bình đất Bắc nhận định rằng Lục Vân Tiên chẳng phải là một tác phẩm văn chương. Thiên kiến trên dựa vào những tiêu chuẩn giá trị và sự thưởng ngoạn văn chương của người miền Bắc, vốn đã trải qua bao thế kỷ trui rèn trong nền Hán Học, từ sơ khai để trở nên bóng bẩy, chải chuốt, phù hợp với tâm tình và cách ứng xử khách sáo, trang trọng của người Ðàng Ngoài. Khi vợ chồng gọi nhau bằng hiền thê, hiền phụ, và bạn bè xưng tụng là hiền huynh, hiền đệ thì dĩ nhiên lời văn phải trau chuốt gắn liền với nếp sống ấy.

Trái lại, nếp sống của người lưu dân trong vùng đất mới, thuở mới đến khai hoang lập làng, phải chiến đấu thường xuyên với sơn lam chướng khí, cọp beo rắn rít, phải đương đầu với gian khổ hiểm nguy

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn,

Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma

Trong hoàn cảnh ấy, các lưu dân từ Thuận Quảng xuôi Nam còn đâu có thời giờ và ý chí mà nghĩ đến hành trang chữ nghĩa.

Nhưng khi nội chiến chấm dứt, khi đất hoang đã thành làng xóm, đời sống lưu dân được tương đối ổn định thì một mảng văn học đặc thù miền Nam đã bắt đầu được hình thành và phát triển từ giữa thế kỷ thứ 19.

Xa đất Bắc, xa cái nôi của Nho Học, tiếp cận với các văn hóa và ngôn ngữ người dân bản địa (Miên, Chàm) và người Minh Hương, lưu dân thường di động trong khoảng đồng ruộng bao la, trên sông nước kinh rạch, lội qua các khu rừng già ngập nước, người Việt vào Nam cần nói và viết sao cho dễ hiểu. Câu văn, câu nói nôm na, bình dân, ngôn ngữ của ruộng đồng là một nhu cầu truyền thông của người dân vùng đất mới. Qua nhiều thế hệ cần lao, tiếp cận với các ngôn ngữ địa phương không khoa cử, văn chương bóng bẩy, hán học vùng nguyên thủy Thuận Quảng đã biến hóa thành thứ văn chương nghĩ sao nói vậy. Do đó, văn chương miền Nam thiên về kể chuyện và trình diễn, thiên về đọc to để mình và để người khác cùng nghe với mình. Người Nam Kỳ nói thơ chớ không ngâm thơ.

Nói thơ là một sắc thái văn chương miền Nam thịnh hành từ thành thị đến thôn quê trong suốt 50 năm đầu thế kỷ 20, là một thú giải trí tao nhã của người có học lẫn ít học, và tác động nhiều đến tâm tình và lòng ái quốc của dân miền Nam. Người nói cứ trình bày các câu chuyện thường dưới thể lục bát theo lối nói thơ Vân Tiên. Vì câu chuyện bằng thơ thường dài hàng trăm câu, người nói và người nghe thường nằm trên võng, ngồi trên bộ ván hay dựa cột. Những chuyện thơ thường viết theo kiểu có hậu, tức là ơn đền oán trả, trang trải những giá trị luân lý, tiềm ẩn tinh thần ái quốc chống Pháp đã đi sâu vào tâm khảm của dân Nam Kỳ. Những chuyện thơ còn nhớ là: Bạch Viên Tôn Các, Chiêu Quân Cống Hồ, Lâm Sanh Xuân Nương, Mục Liên Thanh Ðề, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh Lý Thông, Trần Minh Khố Chuối, Thoại Khanh Châu Tuấn …

Bởi lẽ cái đặc tính kể chuyện và trình diễn của văn chương của Nam Kỳ mà truyện Lục Vân Tiên, ngay khi còn ở thể văn Nôm chưa phiên âm ra chữ quốc ngữ thì truyện đã được phổ biến trong dân gian, kể cả những người không biết chữ cũng nói thơ Lục Vân Tiên và tác phẩm nầy đã được tái bản nhiều nhất.

Thanh Lãng đã nhận xét:

Lối văn trong Nam là một lối văn đơn sơ, mộc mạc, dùng hầu toàn chữ Nôm, cách đặt câu có vẽ vắn tắt, không xét gì đến cân xứng, đối chác2. Nói tóm lại, nó là thứ văn VN hơn, dân chúng hơn (Thanh Lãng – Biểu Nhất lãm văn học cận đại. Tự do, Sài Gòn, 1958, tr. 78)

Bởi lẽ quen thưởng thức lối văn cầu kỳ, những điển tích Hán văn hiểm hóc, người đọc và người nghe thường đánh giá thấp loại văn chương nôm na, bình dân của người Nam Kỳ Lục tỉnh.

Có người còn cho rằng viết văn xuôi chữ quốc ngữ có gì là khó, nhưng ở vào một thời điểm mà người ta dạy luân lý bằng diễn ca, dạy tiếng Pháp bằng diễn ca, dạy võ bằng diễn ca, thậm chí đi ăn xin cũng kêu van ngân nga có ca, có kệ, câu đối bằng trắc thì viết văn xuôi, muốn cho nó thông cũng thật là khó. (Bằng Giang: Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, Hà Nội 1972, tr. 376)

Ngoài tính chất thực tiển phù hợp với nhu cầu ngôn ngữ và truyền thông của người dân Nam Kỳ, văn chương quốc ngữ, sở dĩ được phát triển dễ dàng hơn trong Nam là nhờ sự đóng góp tích cực của giới truyền giáo Thiên Chúa, vốn đã phổ biến và sử dụng ngôn ngữ nầy từ thời Alexandre de Rhodes (1593-1660) để truyền đạo.

Trong cuộc Nam Tiến, để có thể giữ đạo trước chánh sách cấm đạo của chúa Nguyễn và nhà Nguyễn, nhiều làng giáo dân đã giăng buồm bỏ xứ vào lập nghiệp ở vùng đất mới, đặc biệt các vùng cù lao ven sông Tiền, sông Hậu hay cửa sông, cửa biển (Cái Mơn, Cái Nhum, Mặt Bắc, Thom, Mõ Cày, Sóc Trăng, Ba Thắc …).

Nhiều tác phẩm nghiên cứu, tiểu thuyết tiên phong viết bằng chữ Quốc ngữ theo cấu trúc của Tây phương đã xuất hiện trong các xóm đạo từ giữa thế kỷ 19 và những tác giả tiêu biểu của thời kỳ nầy đều là tín đồ thiên chúa giáo như Huỳnh Tịnh Của (1830-1908: 26 tác phẩm), Trương Vĩnh Ký (1837-1898: 111 tác phẩm) Nguyễn Trọng Quản (1865-1911),  Trần Thiên Trung (bút hiệu của Trần Chánh Chiếu 1867-1919).

Riêng Huỳnh Tịnh Của và Trương Vĩnh Ký (nói, viết được 15 sinh ngữ và từ ngữ Tây Phương) đều xuất thân từ Ðại Chủng Viện Poulo Pénang (Mã Lai).

Một yếu tố khác cũng không kém quan trọng là văn chương chữ quốc ngữ lại được chánh quyền bảo hộ khuyến khích, mục đích cho người dân đọc được dễ dàng các thông cáo, nghị định của chánh phủ, bước đầu đưa đến việc dùng chữ Pháp, mục tiêu tối hậu của chánh sách đồng hóa (chữ quốc ngữ chỉ được sử dụng chính thức ở miền Bắc từ 1913 trong khi ở miền Nam đã sử dựng từ nửa thế kỷ trước).

Trong ý đồ ấy, người Pháp đã mở thêm nhiều trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp, hô hào giúp đỡ ngưới dân đi học, cốt để đào tạo một đội ngũ công chức thừa hành, hỗ trợ cho công cuộc cai tri của chánh quyền thuộc địa Pháp. Nhưng trong một thời gian dài lúc ban đầu, đa số người nhà giàu, vì lo sợ mất con khi con học tiếng Pháp thì nghĩ rằng Pháp sẽ bắt đưa về Pháp  và các thuộc địa Pháp ở Phi Châu nên có hiện tượng những con nhà giàu mướn con nhà nghèo đi học thay thế. Kết quả là tại Nam Kỳ, đầu thế kỷ 20, một số trí thức đỗ đạt xuất thân từ bần cố nông. Ý thức văn hóa và chính trị của lớp người nầy làm thay đổi phần nào bộ mặt nông thôn miền Nam và là một lực lượng trí thức quan trọng kháng Pháp.

Trong một hoàn cảnh đặc thù như vậy, mảng văn học Nam Kỳ đã phát hiện và phát triển mạnh mẽ từ năm 1865 cho tới khi đất nước qua phân năm 1954. Những mảng văn học nầy bị bỏ quên vì không được biết hay bị bỏ qua vì được biết nhưng bị đánh giá thấp nên không xét tới (Nguyễn văn Trung, Giới thiệu Lục Châu học, tr. 1).

Truyện thầy Lazarô Phiền (chuyện một thầy giảng vì không đáp lại mối tình của một người đàn bà nên bị người đàn bà nầy trả thù bằng cách cáo gian vợ của thầy giảng ngoại tình. Thầy giảng ghen và thuốc vợ chết. Vợ chết rồi thầy mới biết là vợ chết oan. Thầy bị lương tâm cắn rứt cuối cùng cũng chết) của Nguyễn Trọng Quản, một tiểu thuyết tình cảm viết theo lối Tây Phương đã được xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1887, có thể được xem như mở đầu cho tiểu thuyết tình cảm viết theo tiểu thuyết tây phương trong lịch sử văn học nước ta (Ðịa lý văn hóa TPHCM, qu. 2 tr. 234) nhưng các nhà nghiên cứu văn học vẫn nhứt quyết là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, xuất bản ở Hà Nội năm 1924 là quyển tiểu thuyết đầu tiên viết theo thể loại nầy.

Nhiều tiểu thuyết cảm tác theo Tây Phương của Hồ Biểu Chánh (1885-1958), một trong số nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất VN, 64 tựa trong 50 năm cầm bút (cảm tác chớ không phải phóng tác vì từ cốt chuyện, ông đã viết ra một tiểu thuyết mà khung cảnh và nhân vật đều hoàn toàn khác với cốt truyện nguyên tác, và ông đã thành tín ghi lại tên quyển sách từ đó đã đưa ông đến việc sáng tác, điều ít có của nhà văn thời nầy (thí dụ Chúa tàu Kim Qui, cảm tác từ Le Comte de Monte Christo của Alexander Dumas; Cay đắng mùi đời – Sans famille của Hector Malot; Chút phận linh đinh – En famille của Hector Malot; Ngọn cỏ gió đùa – Les misérables của Victor Hugo; Thầy thông ngôn – Les amours d´Estève của A. Theuriet: Vì nghĩa vì tình – Fanfan et Claudinet của De Courcelle; Ở theo thời – Popage của M. Pagnol…) đã lần lượt được xuất bản ở Sài Gòn cũng bị bỏ quên hay bỏ qua.

Theo ông Nguyễn văn Trung trong Lục Châu học, ông nhận định rằng loại tiểu thuyết lịch sử ở miền Nam đã xuất bản từ 1910, đi trước miền Bắc ít ra là 30 năm và phong phú, hấp dẫn điển hình như Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử (Nguyễn Hữu Ngỡi).

Những tiểu thuyết tình cảm của Lê Hoàng Mưu (1879-1941), Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), Phú Ðức (1901-1970), Bửu Ðình, Phạm Kiên … không được nhắc đến.

Trong lãnh vực báo chí, nhiều tờ báo quan trọng ở Nam Kỳ, có một lịch sử lâu năm được phổ biến ra cả Bắc Kỳ, như Gia định báo (1865-1909 do Ernest Potteaux làm tổng tài rồi sau giao lại cho Trương Vĩnh Ký), Thông loại khoa trình (1888), Nam Kỳ địa phận (1909-1945); Nông cổ mín đàm (1901-1924 nhiều chủ bút, trong số có Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt), Lục Tỉnh Tân văn (1907-1943 do H. F. Schneider sáng lập, Trần Chánh Chiếu rồi Nguyễn An Vĩnh, Lê Hoàng Mưu làm chủ bút) cũng bị liệt vào thứ yếu so với Nam Phong.

Trong loạt bài du ký Một tháng ở Nam Kỳ đăng trong Nam Phong, Phạm Quỳnh trong đó có khen nhưng có chê:

Một địa hạt Nam Kỳ mà bấy nhiêu báo cũng nhiều lắm vậy. Cứ lấy cái lượng mà xét thì đủ thật khiến cho Bắc Kỳ Trung Kỳ phải thẹn với Nam Kỳ rằng về phương diện ngôn luận còn thậm kém xa quá. Nhưng cái phẩm có được xứng đáng với cái lượng không. Ðiều đó chưa dám chắc vậy.

Ðể nhận xét về các sách dịch thuật truyện Tàu từ đầu thế kỷ 20 vô cùng phát triển ở miền Nam (những dịch giả quan trọng là các chủ bút hay phụ bút cho nhiều tờ báo ăn khách lúc đó như Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Nguyễn Liên Phong … nên truyện dịch của họ được đăng ngay trong báo hay in từng tập phổ biến dễ dàng trong dân chúng, gây thành một phong trào), lưu hành ra Trung Bắc và được độc giả Trung Bắc ưa thích, Phạm Quỳnh cũng trong Nam Phong đã nặng lời:

Nghề làm sách trong Nam Kỳ cũng thạnh lắm … Cái số sách xuất bản ở NK không biết bao nhiêu mà kể. Nhất là các loại dịch các tiểu thuyết Tàu cũ như Tam Quốc, Thủy Hử, Chinh Ðông, Chinh Tây, Phản Ðường, Tùy  Ðường, Ðông Châu, Phong Thần … nếu thu thập nhau lại thì làm được cái thư viện nhỏ. Nhưng những tiểu thuyết Tàu từ tám mươi đời đó, văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn oái đản của mấy bác cuồng nho bên Tàu, ngồi không bịa đặt ra để khoái trá bọn hạ lưu vô học, thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng kinh thay. Không trách cái tư tưởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi còn sinh ra những việc xuẩn động trong xã hội cũng vì đó …

Nếu chúng ta nghe hai câu văn:

–         Tao mà có cà phê cà pháo gì mậy, ờ mà các chả đang làm cà phê trong cái quán chỗ đám hát Sơn đông đó, nhưng mà khoan đã, để tao dằn bụng chén cháo gà rồi mình lên đường

–         Cầm hào bạc ra phố mà cắt tóc nhanh lên, nhỡ bố về trông thấy thì khốn đấy !

thì chúng ta biết được rằng không gian và thời gian đã có khả năng biến hóa con người, và Nam Kỳ hay Bắc Kỳ đều là sản phẩm của một môi trường lịch sử và địa lý.

Tóm lại, Nam Kỳ có một nền văn học đa dạng, phong phú từ hơn 150 năm nay. Mảng văn học nầy là phản ảnh tiếng nói, tâm tình và tâm tính của người Việt từ Ðàng Ngoài, sau gần 400 năm lập quốc ở phương Nam, hòa tụ với văn hóa Minh Hương và văn hóa bản địa, văn hóa tây phương để biến trở thành một mảng văn hóa độc đáo mang sắc thái đặc biệt của một địa phương Nam Kỳ.

Văn chương bóng bẩy, cầu kỳ, trọng Hán học của vùng Ðất cũ và văn chương mộc mạc, bình dân, hướng về chữ quốc ngữ của vùng đất mới, cả hai đều là văn chương.

Không có thứ văn chương sang, văn chương hèn, văn chương tốt, văn chương xấu.

Lâm văn Bé

(Bản tin HAH NÐC&LNH-Canada, số 19)


 

CSVN kết án chuyên gia năng lượng sạch Ngô Thị Tố Nhiên 3 năm rười tù giam

Ba’o Dat Viet

July 24, 2024

Một tòa án tại Hà Nội đã bí mật xét xử và kết án nhà hoạt động môi trường Ngô Thị Tố Nhiên, nhưng thông tin này không được công khai rộng rãi. Theo tổ chức nhân quyền Dự án 88, phiên tòa diễn ra vào ngày 27/6, một tháng trước chuyến thăm của Josep Borrell, người đứng đầu chính sách đối ngoại của Liên minh Châu Âu. Tại phiên tòa, bà Nhiên, cựu Giám đốc Điều hành của Sáng kiến Doanh nghiệp Xã hội Chuyển đổi Năng lượng Việt Nam (VIETSE), bị kết án 3 năm 6 tháng tù giam với tội danh “chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 342 của Bộ luật Hình sự.

Dự án 88 nhấn mạnh rằng phiên tòa được tiến hành một cách kín đáo, không có sự tham dự của công chúng, và bản án vẫn chưa được công bố. Bà Nhiên bị bắt giữ vào ngày 15/9/2023, sau các vụ bắt giữ lãnh đạo của những tổ chức xã hội dân sự khác liên quan đến môi trường và biến đổi khí hậu. Công an chính thức khởi tố bà Nhiên sau đó 5 ngày. Tổ chức này cũng cho rằng có nhiều bằng chứng cho thấy việc bắt giữ và kết án bà Nhiên có động cơ chính trị, bao gồm cả việc cách ly bà trong thời gian tạm giam.

Ngô Thị Tố Nhiên là nhà hoạt động khí hậu thứ sáu bị Chính phủ Việt Nam kết án tù kể từ năm 2021, sau các nhà hoạt động như Đặng Đình Bách, Mai Phan Lợi, Ngụy Thị Khanh, Bạch Hồng Dương, và Hoàng Thị Minh Hồng, với các tội danh liên quan đến “trốn thuế.” Michael Altman-Lupu, nhà nghiên cứu nhân quyền tại Dự án 88, cho rằng việc kết án bà Nhiên cùng với các nhà hoạt động khác đã làm suy giảm khả năng giám sát quá trình chuyển đổi năng lượng của xã hội dân sự Việt Nam.

Dự án 88 cũng cho biết vụ bắt giữ bà Nhiên là một phần của chiến dịch đàn áp xã hội dân sự theo Chỉ thị 24, do Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành vào tháng 7/2023. Chỉ thị này coi hoạt động chính sách, tài trợ nước ngoài và các nhà cải cách là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia. Theo Ben Swanton, Đồng giám đốc Dự án 88, việc vi phạm nhân quyền của Chính phủ Việt Nam đã vi phạm các điều khoản của Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam và Hiệp định Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng do EU dẫn đầu. Swanton kêu gọi Borrell ưu tiên đảm bảo thả các tù nhân chính trị và bãi bỏ Chỉ thị 24 trong chuyến thăm Việt Nam.

Trước khi bị bắt, bà Nhiên đứng đầu VIETSE, tổ chức tư vấn năng lượng độc lập duy nhất hoạt động trong nước. VIETSE có sứ mệnh đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam hướng tới một xã hội trung hòa carbon và đóng vai trò là cầu nối giữa Chính phủ Việt Nam với các đối tác quốc tế. Tuy nhiên, tổ chức này đã bị đóng cửa ngay sau khi bà Nhiên bị bắt.

Dự án 88 cho biết việc bà Nhiên bị bắt giữ cũng xảy ra trong bối cảnh Hà Nội đang từ bỏ các cam kết quan trọng về chuyển đổi năng lượng. Phóng viên đã liên hệ với Bộ Ngoại giao Việt Nam để xác nhận về bản án và yêu cầu bình luận, nhưng chưa nhận được phản hồi.


 

Còn về biển Đông, di sản của TBT Nguyễn Phú Trọng là gì?

Ba’o Tieng Dan

Trương Nhân Tuấn

23-7-2024

Không thấy học giả nào bàn luận tới [di sản của TBT Nguyễn Phú Trọng về biển Đông], từ học giả quBốc tế đến học giả quốc nội. Di sản lớn nhứt là việc ra luật về “danh mục bí mật độ tuyệt mật của đảng” tháng 11 năm 2020. Theo văn bản này thì mọi vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, biển đảo… từ thời điểm đó trở thành “chuyện tuyệt mật của đảng”.

Từ đó đến nay, báo chí Việt Nam hầu như bị “giới nghiêm”, không nhà báo nào dám viết bài liên quan đến vấn đề biển, đảo nữa. Bất kỳ ai nói, hay viết về chuyện này có thể bị buộc vào tội “tiết lộ bí mật quốc gia”. Đây là tội rất nặng, chiếu theo Bộ luật Hình sự.

Vì sao ông Trọng không muốn dân chúng bàn luận về những vấn đề này? Theo tôi biết, không phải vì “trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc”, mà vì ông Trọng quyết định giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và Trung Quốc bằng cách “khai thác chung” với Trung Quốc.

Một cách nôm na, “khai thác chung” có nghĩa tương tự ruộng đồng của Việt Nam từ nay nông dân Việt Nam sẽ cầy cấy chung với nông dân của Trung Quốc. Lúa gạo không biết sẽ chia bằng cách nào?

Theo tôi thấy, Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc trên mọi vấn đề ở Biển Đông. Việt Nam yêu cầu Repsol rút giàn khoan, bất chấp khoản tiền bồi thường hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỉ, đô la, vì yêu sách của Trung Quốc. ExxonMobil cũng rút giàn khoan ở mỏ Cá voi xanh, có lẽ vì bị Trung Quốc đe dọa…

Theo tôi biết, qua một số tài liệu đến từ cuộc hội thảo về Biển Đông giữa học giả Việt Nam và học giả Trung Quốc, vùng khai thác chung còn có thể là vùng Tư Chính.

Việt Nam cũng hợp tác với Trung Quốc về dự án “hai hành lang một vành đai”. Hai hành lang Côn Minh – Hà Nội – Hải Phòng và Nam Ninh – Hà Nội – Hải Phòng. Vành đai là đường bờ biển từ mũi Quỳnh Châu (Trung Quốc) bao gồm các tỉnh trong Vịnh Bắc Việt.

Việt Nam cũng gia nhập dự án “Vành đai – con đường của Trung Quốc”. Việt Nam cũng cam kết với Trung Quốc việc “xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai”…

Theo tôi thì đây là di sản nặng nề nhứt của ông Trọng để lại cho thế hệ sau. Di sản không hẳn là tích sản mà còn có thể là tiêu sản (nợ nần…). Tiêu sản này chắc chắn sẽ di hại đến đời con, đời cháu… Không biết đến bao giờ Việt Nam mới có thể lấy lại quyền tự chủ, có thể “mời” Trung Quốc về nước…


 

Vụ Đại học Bách Khoa Đà Nẵng, tuyên một án tử hình, hai án chung thân

Ba’o Dat Viet

July 23, 2024

Chiều ngày 23/7, Hội đồng Xét xử vụ án xảy ra tại Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng (ĐHBKĐN) đã tuyên các mức án nghiêm khắc đối với năm bị cáo, bao gồm một án tử hình, hai án chung thân, một án 20 năm tù và một án 4 năm tù.

Cụ thể, cựu Thủ quỹ Trường ĐHBKĐN, bà Lâm Thị Hồng Tâm, bị tuyên án tử hình. Cựu Trưởng Phòng Kế hoạch-Tài chính, ông Hoàng Quang Huy, và Kế toán trưởng, bà Phạm Thị Huỳnh Như, cùng bị tuyên án chung thân. Cựu Hiệu trưởng ĐHBKĐN, ông Đoàn Quang Vinh, bị tuyên án 4 năm tù, và ông Nguyễn Khánh Dương nhận mức án 20 năm tù.

Phiên xét xử vụ án này bắt đầu vào ngày 22/7. Ông Đoàn Quang Vinh bị cáo buộc “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”. Trong khi đó, bà Lâm Thị Hồng Tâm và ông Hoàng Quang Huy bị xét xử về tội “tham ô tài sản”. Bà Phạm Thị Huỳnh Như và ông Nguyễn Khánh Dương bị xử theo tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Theo kết luận của Cơ quan Cảnh sát Điều tra (CSĐT), ông Huy và bà Tâm đã ký khống séc (séc không ghi đầy đủ số tiền và các nội dung theo quy định) rồi điền số tiền để rút tiền từ tài khoản ngân hàng của trường và chiếm đoạt, sử dụng vào mục đích cá nhân. Để thực hiện việc rút tiền, bà Tâm đã sử dụng quyển séc ngân hàng được giao quản lý, không điền đầy đủ thông tin vào mà đưa cho ông Huy ký xác nhận mục “kế toán trưởng”, sau đó trình cho ông Vinh ký duyệt.

Ông Vinh, với vai trò là hiệu trưởng và chủ tài khoản, đã ký duyệt các séc không có nội dung sau khi bà Tâm giải thích rằng đã bàn bạc với ông Huy về việc cân đối số tiền trong tài khoản. Ông Vinh đã duyệt các séc khống mà không kiểm tra kỹ số tiền đã rút, việc nhập quỹ tiền mặt hay chi tiêu thực tế, từ đó để cho bà Tâm và ông Huy thực hiện hành vi gian lận trong thời gian dài từ năm 2021 đến ngày 31/12/2022.

Ông Đoàn Quang Vinh, sinh năm 1962, là Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng từ năm 2017 đến cuối năm 2022 trước khi về hưu. Ông bị bắt giữ vào tháng 2 vừa qua, sau khi Cơ quan CSĐT khởi tố và bắt giam ông Hoàng Quang Huy và bà Lâm Thị Hồng Tâm. 


 

Cường ‘Đô La’ đối mặt nguy cơ bị bắt trong các vụ án ‘đất vàng’

Ba’o Nguoi-Viet

July 22, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nhiều nhà đầu tư cổ phiếu công ty Quốc Cường Gia Lai (QCG) đang lo lắng liệu ông Nguyễn Quốc Cường, một cựu lãnh đạo khá nổi tiếng của QCG và là con trai bà Nguyễn Thị Như Loan, có bị bắt giữ do dính vào các vụ mua bán đất “vàng” tại Sài Gòn trước đây.

Ông Nguyễn Quốc Cường (Cường “Đô La”), 43 tuổi, từng là thành viên Hội Đồng Quản Trị, phó tổng giám đốc và là người công bố thông tin tại QCG trong hơn một thập niên.

Cường “Đô La”- đại thiếu gia của bà Nguyễn Thị Như Loan, từng nổi tiếng với sự ăn chơi, siêu xe và người đẹp. (Hình: Tech)

Báo VietNamNet dẫn tin từ công ty Quốc Cường Gia Lai hôm 22 Tháng Bảy ra thông cáo cho biết, doanh nghiệp này “vẫn hoạt động bình thường,” và sẽ sớm tìm người phụ trách điều hành “trong thời gian sớm nhất để thực hiện các hoạt động liên quan đến công ty sau khi bà Nguyễn Thị Như Loan, 64 tuổi, tổng giám đốc QCG, bị khởi tố bắt giam ba ngày trước để phục vụ điều tra tội “vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí.”

Vụ chuyển nhượng các khu đất “vàng” diễn ra nhiều năm trước, từ 2009-2017.

Bà Như Loan bị cáo buộc vi phạm pháp luật trong việc chuyển nhượng dự án 39-39B Bến Vân Đồn, phường 12, quận 4, có nguồn gốc thuộc sở hữu nhà nước, xảy ra tại tập đoàn Cao Su Việt Nam và công ty Cao Su Đồng Nai.

Trong vụ này, QCG đã chi 465 tỷ đồng ($18.3 triệu) để mua vốn của công ty Phú Việt Tín, sau đó bán cho hai pháp nhân và một cá nhân, thu lợi nhuận 382 tỷ đồng ($15 triệu).

Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư hiện quan tâm tới vai trò của ông Nguyễn Quốc Cường và lo rằng liệu ông Cường có bị bắt giữ khi từng được bổ nhiệm giữ vị trí phó tổng giám đốc QCG vào năm 2006 và hai năm sau có mặt trong Hội Đồng Quản Trị của QCG.

Tham gia công ty QCG trong 12 năm, tới Tháng Mười Một, 2018, ông Cường bất ngờ rút khỏi tất cả vị trí tại QCG chỉ một ngày sau khi Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương của đảng CSVN ban hành thông cáo báo chí kỳ họp 31, trong đó có nội dung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với ông Tất Thành Cang, ủy viên Trung Ương Đảng, phó bí thư thường trực Thành Ủy ở Sài Gòn.

Ông Cường rời QCG vào thời điểm công ty gặp nhiều lùm xùm, trong đó có vụ mua bán đất “vàng” giá rẻ có liên quan tới ông Tất Thành Cang.

Đến Tháng Mười Hai, 2018, ông Tất Thành Cang bị kỷ luật hết tất cả cách chức vụ vì “đã có những khuyết điểm, vi phạm rất nghiêm trọng,” và sau đó bị bắt giữ, khởi tố, lãnh án.

Ngoài khu đất 39-39B Bến Vân Đồn, QCG còn có dự án Phước Kiển 32 hécta. Công ty Tân Thuận thuộc Văn Phòng Thành Ủy TP.HCM, bán chỉ định hơn 30 hécta đất đã đền bù tại khu dân cư Phước Kiển, huyện Nhà Bè, cho QCG với giá chỉ 1.29 triệu đồng ($51)/mét vuông. Dự án này sau đó đã bị thu hồi. Dàn lãnh đạo công ty Tân Thuận bị kỷ luật, bắt giữ.

Cường “Đô La” có thật sự “bất tài” như dư luận đồn thổi? Đằng sau lớp mặt nạ “công tử bột,” thực tế thì ông Cường đã tốt nghiệp cử nhân Quản Trị Kinh Doanh.

Một lãnh đạo công ty chứng khoán, đơn vị từng hợp tác với QCG từng nhận xét: “Cường được lắm! Không như dư luận đồn thổi đâu.”

Ông Nguyễn Quốc Cường là thành viên Hội Đồng Quản Trị và phó tổng giám đốc QCG vào năm 2014. (Hình: Chụp từ màn hình)

Vị chuyên gia này tiết lộ, ông Cường “nhanh trí, trách nhiệm, vui vẻ và cũng rất có uy tín trong giới kinh doanh.”

Trong phiên hôm 22 Tháng Bảy, báo VNExpress cho hay cổ phiếu QCG khớp lệnh chưa tới 60,000 đơn vị. Đến cuối phiên, trên 6 triệu cổ phiếu được treo bán giá sàn trong tình trạng “trắng bảng bên mua.” Mã này giảm gần 7%, xuống 8,440 đồng (33 cent) một cổ phiếu. Đây là phiên thứ hai mã QCG giảm, sau khi CEO Nguyễn Thị Như Loan bị bắt. (Tr.N) [kn]


 

Ngân hàng SCB đóng cửa gần 100 phòng giao dịch, dù được ‘bơm’ cả tỷ đô la

Ba’o Nguoi-Viet

July 21, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn (SCB) vừa loan báo chấm dứt hoạt động thêm chín phòng giao dịch thuộc hệ thống, nâng tổng số phòng giao dịch bị đóng cửa lên 91.

Ngân hàng này bị cho là thuộc sở hữu của bà Trương Mỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát, người sắp sửa hầu tòa lần thứ nhì sau khi đã bị kết án tử hình.

Một phòng giao dịch của ngân hàng SCB. (Hình: VietNamNet)

Theo báo VietNamNet hôm 21 Tháng Bảy, chín phòng giao dịch của SCB bị đóng cửa cùng lúc là thuộc các chi nhánh tại Sài Gòn, Đồng Nai, Bình Định và Hải Phòng.

Bản tin cho hay, như vậy từ đầu năm đến nay, ngân hàng SCB đã đóng cửa liên tiếp 44 phòng giao dịch.

Trước đó, hồi năm ngoái, SCB đóng cửa 47 phòng giao dịch.

Hành động này chưa có dấu hiệu dừng lại trong bối cảnh tình hình kinh doanh của SCB được ghi nhận khó cứu vãn.

Bên cạnh việc đóng cửa gần 100 phòng giao dịch, SCB cũng thông báo thanh lý 23 xe chở tiền và 27 máy ATM.

Toàn bộ lô xe chở tiền được nhà băng này thông báo bán đấu giá vào hồi Tháng Giêng nhưng đến nay vẫn không có người mua.

Theo các báo ở Việt nam, bà Trương Mỹ Lan là cổ đông lớn chi phối phần lớn cổ phần tại SCB.

Kể từ thời điểm bà này bị khởi tố vào hồi Tháng Mười, 2022, những khó khăn của SCB càng lúc càng lộ rõ.

Cũng hồi cuối năm 2022, đã có thời điểm hàng ngàn khách hàng trên phạm vi cả nước, ùn ùn kéo đến các phòng giao dịch rút sổ tiết kiệm và đòi quyền lợi do họ đã bị nhân viên nhà băng dẫn dụ mua trái phiếu SCB.

Đến giữa Tháng Tư, sau khi hãng Reuters tiết lộ chính phủ Việt Nam thực hiện cuộc giải cứu $24 tỷ “chưa có tiền lệ” cho ngân hàng SCB, giới chức Ngân Hàng Nhà Nước thừa nhận có chuyện này nhưng không xác nhận số tiền nêu trên.

Thời điểm đó, báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Đào Minh Tú, phó thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, cho hay cơ quan này có những giải pháp can thiệp vào SCB để “bảo đảm sự ổn định cho ngân hàng, ổn định hệ thống và bảo đảm an ninh trật tự xã hội.”

Tuy vậy, ông Tú không đả động gì đến bình luận của Reuters cho rằng chính phủ Việt Nam trong tình thế nếu không bơm tiền cho vay, SCB “sẽ sụp đổ,” nhưng nếu cứ bơm tiền thế này, kho bạc nhà nước “sẽ dần cạn kiệt.”

Bị cáo Trương Mỹ Lan (giữa), chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát, bị kết án tử hình với cáo buộc thao túng và “rút ruột” ngân hàng SCB. (Hình: ZNews)

Theo các tài liệu mà Reuters thu thập được, tốc độ bơm tiền vào SCB hiện đã “chậm lại một chút” nhưng đạt bình quân hơn $900 triệu mỗi tháng trong vòng năm tháng qua.

Đáng lưu ý, khoản bơm tiền mặt vào SCB được ghi nhận lên tới 5.6% sản lượng kinh tế hằng năm và tương đương 1/4 dự trữ ngoại hối của Việt Nam. (N.H.K) [kn]