Tiền đang phá nát môi trường giáo dục-Thái Hạo

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

4-10-2024

Từ đầu năm học tới giờ, tôi liên tục nhận được các tin nhắn của phụ huynh khắp nơi, chia sẻ những bất bình về các khoản thu trên trời dưới đất tại các nhà trường. Trên báo tất nhiên là cũng đang tràn ngập thông tin loại này. Như một đại dịch chưa có dấu hiệu sẽ dừng lại.

Về đại nạn này, trước mắt khi nhà nước chưa có một hành động gì dứt khoát để giải quyết thì chỉ còn biết trông cậy vào phụ huynh. Nếu phụ huynh không tự mình lên tiếng thì chịu, nạn dịch cứ thế lan tràn và ngày càng tàn phá kinh hoàng, làm băng hoại hoàn toàn môi trường giáo dục.

Phụ huynh cần nhớ, nhà trường chỉ được thu và phụ huynh chỉ phải bắt buộc nộp hai khoản tiền, là HỌC PHÍ và Bảo hiểm y tế (BHYT) học sinh.

Tất cả các khoản khác chỉ nộp khi có sử dụng dịch vụ hoặc TỰ NGUYỆN ủng hộ. Ví dụ, nếu con bạn không đi học thêm thì không phải nộp, nếu bạn không sử dụng dịch nhận tin nhắn thì không phải đóng tiền, v.v… Các khoản ủng hộ cũng thế, đó là tự nguyện, không ai có quyền chia đầu người và bắt các bạn nộp được.

Tóm lại là thế này, bạn chỉ nộp học phí và bảo hiểm y tế; từ chối tất cả các khoản tiền khác nếu bạn không dùng dịch vụ hoặc không ủng hộ. Ngoài hai khoản tiền trên, bất cứ trường nào có dấu hiệu ép buộc thì đều đang vi phạm pháp luật.

Bạn phải lên tiếng và đấu tranh. Một mình không được thì kêu nhau cùng đấu tranh. Xin xem thêm chi tiết các khoản được và không được thu ở văn bản luật đính kèm: https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/cac-khoan-nha-truong-duoc-thu-va-khong-duoc-thu-cua-hoc-sinh-nam-20232024-la-nhung-khoan-nao-104593.html

Để làm trong sạch trở lại môi trường giáo dục, cần giải tán Ban đại diện cha mẹ học sinh, vì tổ chức này đã bị biến tướng nặng nề, dưới danh nghĩa các loại quỹ và xã hội hóa, ngoài làm cánh tay nối dài để thu hộ nhà trường ra, Ban này hầu như không có tác dụng gì khác.

Tiền đang làm băng hoại môi trường giáo dục, phá nát quan hệ thầy trò, hủy hoại quan hệ nhà trường – phụ huynh, bóp méo và làm hỏng chương trình giáo dục quốc gia… Một cách căn bản, cần phải “trục xuất” tiền ra khỏi nhà trường, chỉ dùng thuế của người dân đã đóng góp để vận hành nền giáo dục.


 

Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (II)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2024

Xóm Củi, Quận 8, Sài Gòn 1965

Tiếp theo phần 1

Viết được nhận xét trên, quả thực Dương Văn Ba có cái khí chất miền Nam trong đó. Loại người dám nói, nói huỵch tẹt chẳng kiêng nể gì, dám làm, ngay cả làm bậy. Ông có phải là loại người có lý tưởng, theo lý tưởng cộng sản không? Theo tôi được biết là không!

Ngã rẽ thứ hai: Chương trình Xây Đời Mới ở Quận 8

Đây là một chương trình nhằm cải thiện đời sống dân nghèo rất là tốt đẹp; thành phần tham dự chủ chốt vẫn là thành phần giáo sư triết, tốt nghiệp đại học Đà Lạt và một số khác là người Bắc theo Thiên Chúa giáo như các anh Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Đoàn Thanh Liêm, Nguyễn kim Khánh và Nguyễn Đức Tuyên.

Chương trình quả thực là có một mục đích, một tầm vóc như một thí điểm làm một cuộc cách mạng xã Hội. Nhiều người đã mang thiện chí của mình ra, dấn thân nhập cuộc, đi tìm một lối đi cho Việt Nam.

Nhưng như mọi điều tốt đẹp khác trên đời này, chương trình Phát tiển Quận 8 trở thành một bước nhảy vào chính trị của một số người. Lý Quý Chung không dính dáng gì đến chương trình này lại được cài đặt ra tranh cử Quốc hội Lập hiến tại quận 8. Và do uy tín và sự vận động của các thành viên trong ban quản trị quận 8. Lý Quý Chung đắc cử. Mặc dầu một số người ra tranh cử dân biểu đã không dính líu gì đến chương trình xã hội này cũng coi chương trình ấy như của chung cả nhóm và họ đã ra tranh cử dựa trên cái vốn chính trị đó.

Lý Quý Chung, một người trẻ nhất trong bọn đã ra tranh cử Quốc Hội Lập Hiến đầu năm 1966 với sự ủng hộ công khai của chương trình Xây Đời Mới ở quận tám.

Lý Quý Chung được coi như một bài toán thử, một test mở đường cho những Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Hiệp, Ngô Công Đức thong dong bước vào nghị trường. Mục đích của chương trình thì tốt đẹp, nhưng sau này nó trở thành một bàn đạp chính trị cho một số người như Lý Quý Chung, bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận.(15)

Họ là những người trẻ làm chính trị mà không vốn.

Thật sự cũng như Lý Quý Chung, Dương Văn Ba đã không dính dáng gì trong Chương trình phát triển quận 8 cả.

Cũng cần nhắc lại rằng có hai loại thành phần sinh viên tham gia các sinh hoạt xã hội, chính trị lúc bấy giờ:

  • Một loại Sinh viên xuống đường

Đó là thành phần những sinh viên tranh đấu. Họ biểu tình, chống chiến tranh, chống chính phủ, đòi đủ thứ. Loại này không nhiều, nhưng lại gây tác động mạnh tới quần chúng và có ảnh hưởng chính trị đến tình hình miền Nam.

Bản chất của nó có tính cách phá hoại và gây rối.

Đó là thành phần sinh viên tranh đấu, biểu tình, chống chiến tranh, chống chính phủ, đòi đủ thứ

  • Nhóm sinh viên lên đường

Những sinh viên Lên Đường. Loại thứ hai âm thầm, thay vì chống đối, phá hoại thì họ âm thầm xây dựng mà trong đó có nhiều loại tổ chức khác biệt: Như các phong trào Du ca, phong trào Hướng đạo, phong trào Thanh niên Thiện chí, Phong trào Học đường mới.

Trong đó nhiều tổ chức do sự tài trực tiếp của Mỹ. Trong các phong trào đó có chương trình phát triển quận 8, do kỹ sư Võ Long Triều đứng ra xin với ông Kỳ mà số thành viên là các cựu sinh viên Triết Đà Lạt các khóa ba và bốn như các anh Uông Đại Bằng, hiệu trưởng ở quận 8, Võ Văn Bé hiệu trưởng ở quận 6 với anh Nguyễn Đức Tuyên. Cộng với một số nhà giáo khác như các anh Nguyễn Phúc Khánh, Dương Văn Long, Nguyễn Ngọc Thạch, Đăng Kỳ Trân. Bên cạnh đó có hai anh Quốc gia hành chánh là Nguyễn Ngọc Phan và Phạm Duy Tu. Ngoài ra một người không thể quên là anh Đoàn Thanh Liêm, một luật sư cùng với bác sĩ Hồ Văn Minh là những người quản lý chương trình phát triển quận 8.

Một trong những thầy giáo đầu tiên và hiệu trưởng đầu tiên của Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 8: (T) Hồ Công Hưng (2014, (P) Uông Đại Bằng (1966).

Phần Hồ Công Hưng, nếu tôi nhớ không lầm, anh cũng hoạt động ở quận 8. Họ đã cùng nhau chọn quận 8, một quận nghèo nhất ở Đô Thành làm thí điểm vào năm 1965, một năm sau lan sang các quận 6, quận 7. Họ giúp dân xây cầu đường trường học. Năm 1968, sau tết Mậu thân, họ phải giúp dân tái thiết xây dựng lại hàng ngàn căn nhà bị tàn phá vì bom đạn. Chương trình hình thành từ năm 1965-1971.

Các khu được chia ra thành các ‘hẻm ước’ ‘khóm ước’.

Tôi rất trân quý những tên gọi này. Nguyễn Cao Kỳ đã hưởng ứng tích cực và đã có lần đưa Phó tổng thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey đến thăm quận tám mà dại diện là Hồ Ngọc Nhuận ra tiếp đón.

Điều thứ hai là sau khi đã lập xong Phong trào chính trị Phục Hưng miền Nam, Võ Long Triều cùng với kỹ sư Nguyễn Bá Nhẫn, kỹ sư Nguyễn Khắc Thành đã đưa nhiều người trẻ của Phong trào ra tranh cử.

Vận động để có tiền yểm trợ các ứng cử viên này vẫn là kỹ sư Võ Long Triều. Nhưng nhiều người tự hỏi, kỹ sư Võ Long Triều lấy tiền ở đâu để tài trợ nhiều ứng cử viên như vậy?

Dương Văn Ba đã có câu trả lời là kỹ sư Võ Long Triều đã lấy một phần tiền từ Nguyễn Cao Kỳ, phần khác vận động sự tài trợ của các trí thức miền Nam. Tất cả điều này ngay chính những người nhận thụ hưởng số tiền tài trợ cũng không biết thì mọi chuyện suy đoán chỉ bằng thừa.

Một lần nữa, họ đã chính trị hóa các hoạt động xã hội như vận động xây đại học Cẩn Thơ, chương trình xây dựng quận 8 cũng như lợi dụng sự ngây thơ của tướng Kỳ để có đường vào Quốc Hội.

Khi những người này vào được Quốc hội rồi với sự tài trợ tiền bạc của tướng Kỳ, như Dương Văn Ba thố lộ, không một dân biểu đắc cử nào đứng về phe tướng Kỳ.

Sau đây là một danh sách đắc cử vào Hạ viện:

Thầy giáo Phan Xuân Huy ở Đà Nẵng, một con gà nòi của Phật Giáo. Một số các dân biểu trẻ khác, không có một ly ông cụ kinh nghiệm chính trị nào như Bành Ngọc Quý ở Gò Công, Nguyễn Hữu Hiệp tại Đà Lạt và Lê Thành Châu tại Lâm Đồng, Ngô Công Đức ở Trà Vinh, Dương Văn Ba ở Bạc Liêu, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung đơn vị quận một và hai. Bác sĩ Hồ Văn Minh ở quận 6 và Hồ Ngọc Nhuận ở quận 8.

Tôi còn nhớ khi nghe tin các ông Nguyễn Hữu Hiệp và Lê Thành Châu đắc cử ở Đà Lạt (cả hai anh đều học ở Đà Lạt), tôi đặt dấu hỏi phải chăng linh mục viện trưởng đại học Đà Lạt đã nâng đỡ, dùng ảnh hưởng và uy tín của mình để giúp cho Nguyễn Hữu Hiệp đắc cử? Không có một sự tài trợ cả về tiền bạc và ảnh hưởng uy tín cá nhân của linh mục Viện Trưởng, làm sao Nguyễn Hữu Hiệp có thể thong dong vào Hạ Viện? Bằng cách nào họ đã dành được phiếu thắng lợi, hơn phiếu những nhân vật chính trị có uy tín từ ngoài Bắc cỡ bác sĩ Hoàng Cơ Bình?

Những người khác được đắc cử dựa vào tính địa phương. Nhưng bác sĩ Hồ Văn Minh và Hồ Ngọc Nhuận hoạt động trong quận 8 và 6 nên lấy phiếu dễ dàng của các cử tri!

Tôi không hiểu những anh em giáo chức hoạt động ngày đêm, ăn ngủ ngay tại chỗ, đi sát với đồng bào, hy sinh thời giờ và ngay cả sự an nguy đến tính mạng để cho hai ứng viên trên vào Quốc Hội và nhất là Hồ Ngọc Nhuận sau đó trở thành dân biểu đối lập, rồi theo cộng sản, đã nghĩ gì?

Ông Hồ Ngọc Nhuận chỉ có bằng tú tài một, sĩ quan quân đội nay trở thành quận trưởng quận 8 đi trái với mọi thủ tục hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa?

Tôi đã có dịp gặp các anh Hồ Công Hưng (giáo sư triết Đà lạt, dân Kontum, công giáo) và Uông Đại Bằng (giáo sư triết Đà lạt, dân Bắc Kỳ, công gíáo) các anh Đoàn Thanh Liêm, anh Nguyễn Đức Tuyên cũng công giáo, xem ra các anh không để ý đến khía cạnh chính trị Liên Trường cũng như thành phần thứ ba và các anh chỉ biết bằng lòng với những kết quả xã hội đã thực hiện được.

Phải nhìn nhận các anh là người có lý tưởng thật. Chỉ biết phục vụ mặc ai làm gì thì làm.

Riêng anh luật sư Đoàn Thanh Liêm (luật sư, Bắc Kỳ, công giáo) còn ngây thơ và dớ dẩn gấp bội lần. Anh ngồi tù cũng làm thơ nghĩ về các công trình quận 8 và coi Quận tám như một thí điểm về một Xã hội Dân sự trong tương lai?

Ls. Đoàn Thanh Liêm, Tổng Quản lý thứ 2 (sau Bs. Hồ Văn Minh, trước ông Hồ Ngọc Nhuận) của Kế hoạch Xây Đời Mới.

Trong trận chiến tranh dành quyền lực giữa Nam Và Bắc, phải nhìn nhận rằng cánh Liên Trường qua Võ Long Triều, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung đã vượt xa cánh Bắc Kỳ với tướng Nguyễn Cao Kỳ và nhóm giáo sư công giáo, dạy triết nhiều phần.

Câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đây, Hồ Ngọc Nhuận khi làm dân biểu đối lập còn nhiều lần đưa Nguyễn Cao Kỳ vào bẫy như chính ông thú nhận.

Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận khi phản bác Võ Long Triều đã lật tẩy như sau:

“Tôi cũng dần hiểu ra, sau nhiều lần Triều gọi điện thoại thúc giục, là anh đã có liên lạc với ông Dương Văn Minh, đã được ông Dương Văn Minh cho biết về việc tôi đề nghị ông về nước, và việc Triều bỏ ra rừng đọc sách khi tôi đang ở nhà ông Minh là một sự giả vờ, một thứ hỏa mù.

Tôi cũng nhớ ra Triều là người, từ năm 1965, vừa tính chuyện hợp tác với Nguyễn Cao Kỳ, vừa luôn tính chuyện ‘đá bàn’, theo chính lời Triều.”(16)

Ông Hồ Ngọc Nhuận sang Pháp chơi có đi thăm ông Dương Văn Minh và ông Triều tình nguyện chở ông Nhuận đến nhà ông Minh. Nhưng để cho ông Nhuận nói chuyện riêng với ông Minh, phần ông Triều ra cánh rừng gần đó nằm đọc sách.

Cho nên Nguyễn Cao Kỳ sau này có thua Nguyễn Văn Thiệu cũng là điều xứng đáng lắm. Một con người như ông Nguyễn Cao Kỳ sau này cứ tức tối ông Nguyễn Văn Thiệu mà không liệu sức mình, không tự xét mình, đánh giá khả năng lãnh đạo của mình thì nói làm gì nữa!

Ngã rẽ thứ ba: Làm chính trị đối lập và làm báo

Trong một số suy nghĩ của Dương Văn Ba, ông đã bày tỏ những khát vọng tuổi trẻ, một khát vọng mà ông gọi là thái độ nổi loạn, một thái độ mà ông cho là đa số sinh viên thời đó chọn lựa.

Cái đa số mà ông nói đến ở đây không ra khỏi con số những người cùng học chung dưới mái trường đại học, môn triết thời đó.

Nay thì đã đến lúc, Dương Văn Ba nghĩ đến tương lai chính trị của ông qua cửa ngõ ra tranh cử dân biểu. Ông nhận định:

Chúng tôi hiện diện nơi đây giữa đồng bằng Nam Bộ, các thế lực chính trị, các thế lực chính quyền công khai hay bí mật, các anh nên nhớ và phải biết tới vùng sông nước và đầm lầy nơi đây.”(17)

Có khoảng gần 20 giáo chức trung học, một số không nhỏ tốt nghiệp ban Triết Đại Học Đà Lạt đã ra tranh cử và đắc cử. Họ thường chưa tới 30 tuổi, không có một chút xíu kinh nghiệm chính trị. Tiền bạc để tranh cử hầu như không có.

Bằng cách nào họ đã có thể đắc cử vào năm 1967?

  • Xét về trình độ văn hóa, trình độ chính trị của dân chúng kể như không có. Điều đó chính là lợi thế của mấy thầy giáo tại địa phương. Họ có cái lợi thế nhất định là người địa phương, có thể được nhiều người biết tới và nếu động viên được một đám đông học sinh, phụ huynh học sinh, họ có nhiều cơ may thắng cử. Người dân địa phương đã bỏ một phiếu tín nhiệm (vote de confiance) cho một thày giáo, một thày giáo đã từng dạy con cái họ, chứ không phải bỏ phiếu cho một chính khách, nhất là nhà chính trị thiên tả. Đây là một vấn đề ít ai lưu tâm tới. Nó chứng tỏ trình độ chính trị của dân chúng còn thấp kém và đơn thuần. Vì thế khi vào được Quốc hội rồi, mấy dân biểu thày giáo này không còn nghĩ tới ai đã bầu họ vào quốc hội. Khi họ đã đắc cử rồi, họ làm theo cái mục đích họ theo đuổi mà đôi khi phản bội lại những người đã đặt niềm tin vào ông thày giáo là họ.
  • Phiếu tín nhiệm và phiếu bầu cử là một bài test dân chủ chính trị Việt Nam ở giai đoạn sơ khởi.
  • Nhưng thiệt thòi là đám thày giáo phần đông đều nghèo, không có tiền để cho những chi phí vận động tranh cử. Nội tiền ký quỹ cho việc tranh cử không biết là bao nhiêu, nhiều khi họ cũng không có đủ tiền. Chi phí giao tế hoặc tiền để mua chuộc phiếu cử tri? Theo Dương Văn Ba, có 10 ứng cử viên ra tranh cử hai ghế dân biểu tại Bạc Liêu, nhưng ông và Thạch Phen là hai người yếu thế nhất. Vì họ không được sự hậu thuẫn của chính quyền Sài Gòn cũng như giới chức trong tỉnh. Họ không được sự hậu thuẫn của các quận trưởng, các cấp chỉ huy quân đội cũng như các xã ấp trưởng. Vậy bằng cách nào họ thắng cử?
  • Ai là người trách nhiệm tài trợ cho họ, dù là những số tiền tối thiểu. Theo Dương Văn Ba, ông được Võ Long Triều tài trợ cho một số tiền là 40 ngàn đồng bằng hai lạng vàng. Vợ chồng Dương Văn Ba gom góp thêm cũng được khoảng chừng 40 ngàn đồng. Các giáo sư bạn gom góp được 20 ngàn. Một bà dì bên vợ cho thêm 20 ngàn nữa. Ba má Dương Văn Ba góp thêm được 20 chục ngàn nữa. Cộng chung số tiền là 140.000, một số tiền quá ít để có thể ra tranh cử. Vậy mà Dương Văn Ba đã thắng? Tôi nghĩ rằng ngay khi thắng cử, Dương Văn Ba cũng không hiểu hết ý nghĩa của việc thắng cử này!
  • Dương Văn Ba có thêm một lợi thế ít người khác có được. Ông đã liên kết với Thạch Phen, một người Việt gốc Khờ Me, rồi gia đình Dương Văn Ba có gốc người Triều Châu và người Việt. Hai người đã lập ra một ban tranh cử chung, xin phiếu cả ba thành phần dân chúng địa phương. Cả ba yếu tố đó cộng lại khiến sau này cả Dương Văn Ba và Thạch Phen đều đắc cử dân biểu Hạ Viện.
  • Dương Văn Ba còn tiết lộ, ông được Võ Văn Kiệt ủng hộ ngầm ở bên trong dân chúng các xã. Tôi có cảm tưởng Dương Văn Ba là một Xuân tóc đỏ?

Vào Quốc hội với tư cách một dân biểu đối lập

Sau đây là nhận định tổng kết của Dương Văn Ba sau khi đắc cử ở Bạc Liêu như sau:

“Sự thắng cử của tôi ở Bạc Liêu, của Ngô Công Đức ở Trà Vinh, của Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ở Sài Gòn phải chăng gián tiếp có sự ủng hộ của phía bên kia. Đây là một cuộc chơi chính trị, phía Mỹ và phía Thiệu buộc phải đánh lá bài tự do dân chủ bề ngoài, phía bên trong mặt trận cũng tương kế, tựu kế lấy gậy đập lưng ông, còn phía các thanh niên trí thức chúng tôi lúc đó với bầu nhiệt huyết sẵn có, dựa vào biến chuyển của thời cuộc, cứ theo con đường lý tưởng mà xốc tới.”(18)

Với cái tinh thần đó, bọn họ vào Quốc Hội với mục đich chính là chống phá Thiệu và Mỹ. Tôi thiển nghĩ với sự tiết lộ này, các vị dân biểu trên chưa bao giờ là người đại diện cho nhân dân miền Nam cả. Họ đã đại diện cho một chính sách xâm lược xuất phát từ Hà Nội và đó là điều đáng tiếc nhất của thể chế dân chủ miền Nam.

Và đây cũng là bước khởi đầu cho cái choix malheureux của cuộc đời làm chính trị của họ.

Họ đã sai ngay từ đầu. Họ đã lạm dụng danh từ đối lập trong các thể chế dân chủ.

Sai lầm ấy có từ trước đó nơi các dảng phái chính trị. Các đảng phái đối lập thay vì tìm các phương tiện chính đáng hợp pháp, họ chỉ tìm những âm mưu lật đổ chính phủ.

Chữ đối lập của họ mang nội hàm đả phá hơn là xây dựng.

Tinh thần đối lập ấy mong muốn một sự lật đổ chính phủ, ngay cả thay đổi một thể chế.

Nên, đáng tiếc thay, một cách gián tiếp, qua nhóm dân biểu này Cộng sản Hà Nội đã có tiếng nói chính thức của họ tại diễn đàn Quốc hội miền Nam.

Và chính quyền miền Nam đã trả lương cho đại diện cộng sản để họ cơ hội chống phá lại miền Nam một cách hợp pháp!

Về điểm này, có bao giờ kỹ sư Võ Long Triều tự trách mình về nhận xét người và việc của ông một cách hồ đồ như thế không, khi ông nhân danh một người quốc gia chống cộng? 20 người ông vận động đưa vào Quốc Hội thì cả 20 người trở thành người của cộng sản sau này!

Vì không đủ túc số, chỉ có trên dưới 10 người cộng cả các đảng phái chính trị nên nhóm Hồ Ngọc Nhuận (Dân Tộc, ủng hộ Dương Văn Minh.) phải liên kết với nhóm dân biểu thân Ấn Quang (Khối xã hội) thành nhóm đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH). Để bầu ra Trưởng Khối thì sau này mọi người đồng ý mời luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ VNQDĐ làm trưởng khối.

Dân biểu Trần Văn Tuyên vốn là một người Quốc gia chân chính, có nhiều kinh nghiệm chính trị, nhưng liệu ông có thể điều khiển được hai thành phần dân biểu: Một bên Ấn Quang, một bên là ủng hộ Dương Văn Minh mà đằng sau có sự giật giây của cộng sản?

Lại thêm một người quốc gia chân chính, một chính trị gia hàng đầu lão luyện cầm đầu một đám người mà sau 1975 ông mới biết họ là ai? Phần ông Tuyên âm thầm đi học tập cải tạo và chết trong nhà tù cải tạo! Phần các dân biểu khối Ấn Quang, nhiều người là người quốc gia như dân biểu Trần Văn Sơn, sau này họ nghĩ sao về việc hợp tác này?

Thành phần dân biểu còn lại thuộc khối đa số gần 90 dân biểu thân chính quyền. Nhóm này do Phụ tá tổng thống, dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, điều động chi tiền và mua phiếu khi cần. Sau Nguyễn Cao Thăng bị ung thư chết thì phụ tá của ông là Nguyễn Văn Ngân lên thay.

Nhóm Võ Long Triều-Hồ Ngọc Nhuận-Ngô Công Đức-Dương Văn Ba-Lý Quý Chung làm báo

Trong số 5 người được nêu tên ở đây, có thể coi ông Võ Long Triều là người đầu đàn. Đầu đàn xét về mặt tuổi tác, học vấn, thế lực chính trị và tiền bạc. Cái thế lực chính trị được nói ở đây là cơ hội của ông Võ Long Triều quen biết Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ.

Làm thế nào để có sự quen biết này?

(Phỏng vấn Võ Long Triều – Người Việt TV 2011)

Chính ông Võ Long Triều cũng không hề bao giờ tiết lộ trong hồi ký của ông. Nhưng trong giới công giáo qua Chủ nhiệm báo Xây Dựng, linh mục Nguyễn Quang Lãm kể lại thì ông Kỳ khi đó muốn tìm một nhân vật công giáo sạch, nghĩa là không dính líu gì đến chế độ cũ, phải là người miền Nam. Linh mục Lãm đã nghĩ đến ông Võ Long Triều và giới thiệu ông với tướng Kỳ. Kỹ sư Võ Long Triều đã nhắc nhở nhiều lần đến mối giao thiệp giữa ông và tướng Kỳ- một mối liên hệ chính trị mà còn có mối liên hệ bạn bè toi-moi, rất gần gũi, gặp nhau bất cứ lúc nào, có thể cãi nhau nếu cần.(19)

Riêng phần tướng Kỳ, ít nhất trong hai cuốn sách của ông, tìm mỏi mắt mới thấy một đoạn ngắn trong cuốn “Buddha’s Child” nhắc đến ông Võ Long Triều trong chương trình phát triển quận 8.(20)

Theo tôi thì chương trình phát triển quận 8 là món quà duy nhất tạo được sự tin cẩn nơi tướng Kỳ của kỹ sư Võ Long Triều. Khi Phó tổng thống Mỹ Humphrey đến Việt Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã có dịp dẫn ông Humphey đến thăm quận 8 như một bằng chứng về một chương trình mang tầm vóc một cuộc Cách mạng Xã Hội cho người nghèo.

Sự quen biết đó sau này đưa đến chỗ tướng Kỳ tin tưởng và nhờ ông Võ Long Triều giới thiệu thêm ba người khác vào nội các chính phủ. Ông Kỳ cũng dễ dãi mỗi khi ông Võ Long Triều đề nghị các công việc khác như Chương trình phát triển quận 8 cũng như việc thành lập Viện Đại Học Cần Thơ.

Ông Triều cũng là người tài trợ tiền bạc cho một số dân biểu cánh miền Nam ứng cử dân biểu vào Hạ Nghị Viện. Ông cũng là người bỏ tiền ra cho các ông Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận làm báo.

Dưới đây, thử tìm hiểu cặn kẽ mối liên hệ cũng như sự xích mích đến đổ vỡ của họ diễn ra như thế nào?

Mối liên hệ Võ Long Triều-Lý Quý Chung

Theo Võ Long Triều, đại tá Lê Quang Hiền, đổng lý văn phòng của bộ Thanh niên đã nhận Lý Quý Chung là cháu -thật sự họ không có họ hàng gì- biết viết báo xin vào làm việc. Sau khi tiếp Lý Quý Chung, ông đã nhận cho làm phụ trách về báo chí. Thấy Lý Quý Chung là người trẻ trung lanh lợi nên sau này ông Triều cử làm Giám đốc tác động tâm lý. Làm việc chưa được bao lâu thì có quân cảnh đến bắt Lý Quý Chung về tội trốn quân dịch. Lại một phen vận động liên lạc của ông Võ Long Triều để xin hoãn dịch cho Lý Quý Chung. Và để tránh cho Lý Quý Chung khỏi đi quân dịch một lần nữa, ông Triều giới thiệu ông Chung ra tranh cử vào Quốc Hội lập hiến. Lý Quý Chung đã đắc cử ở quận 8.

Tất cả là công trạng của ông Võ Long Triều!(21)

Khi đắc cử, Lý Quý Chung đã không một lời cám ơn các người phụ trách ở quận 8 đã vận động cho anh như các ông Hồ Văn Minh, quản lý chương trình.

Nổi giận, ông Võ Long Triều đã gọi Lý Quý Chung vào văn phòng mắng cho một trận.

Cứ theo như Hồi Ký của Võ Long Triều thì dưới mắt ông cỡ Dương Văn Ba cũng như Lý Quý Chung chỉ là một thứ đàn em cắc ké, bội phản, làm bậy và vô ơn bạc nghĩa. Xin trích dẫn vắn tắt một vài đoạn:

  • Hai người mạnh miệng nài nỉ kết thân là Lý Quý Chung và Dương Văn Ba lại là hai người phản bội trước tiên.
  • Nhưng đối với con người thiếu đạo đức như anh [chỉ Lý Quý Chung – NVL] mà nên dù anh có thực hiện nhiều công tác đáng khen nhờ sự hăng say, liều lĩnh và sáng kiến. Trong ‘Hồi ký không tên’ của anh, anh viết nhiều điều sai trái. Vì thế, tôi tin tưởng, giao trọng trách này cho Dân Biểu Lâm Phi Điểu, con người chín chắn, hiền từ, biết hy sinh vì bạn bè nhứt là vì đại cuộc. Anh Điểu lại có tài khéo léo, giải tỏa mọi bất đồng, hàn gắn mọi rạn nứt giữa anh em và bao che mọi sai lầm của người khác. Tôi còn nhớ có một lần các anh phải thảo luận và biểu quyết một điều khoản nào đó của Hiến Pháp mà Lý Quý Chung và Bành Ngọc Quý vì quá nông nổi phát biểu sai lầm làm tôi bất bình. Sau đó, một mình Lâm Phi Điểu tới nhà giải thích và chịu mọi sự trách móc. Cuối cùng tôi nói thôi bỏ qua đi, anh về bảo với anh em tôi đã quên việc đó rồi. Anh Điểu liền nói: “Tụi nó ngồi trong xe chờ ngoài cửa không dám vô, nhờ tôi đỡ đòn thế, khi nào thuận tiện mới vào gặp anh, bằng không thì chuồn luôn chờ khi khác.”
  • Chỗ khác, ông Triều viết: “Sự thật, Lý Quý Chung chưa bao giờ thấy được phòng họp của nội các chiến tranh ra sao mà dám khẳng định rằng: ‘Trung tá Nguyễn Ngọc Loan tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ. Các phiên họp nội các có sự hiện diện của Trung tá Loan với khẩu súng ‘ru lô’ mang kè kè bên hông.’ Sự bịa đặt khôi hài như vậy mà Lý Quý Chung dám viết, tôi không hiểu nổi.”
  • Cũng theo Võ Long Triều, lý tưởng của Lý Quý Chung là tiền bạc, địa vị. “Có lần Lý Quý Chung rủ tôi chơi hụi 300.000 đồng cùng với những người bạn của tôi như Trương Thái Tôn, Nguyễn Chánh Lý và La Thành Nghệ. Cuối cùng mới khám phá ra rằng Lý Quý Chung đã ‘giựt hụi’. Tôi ra lệnh văn phòng tôi đưa Lý Quý Chung ra tòa. Hồ Ngọc Nhuận phải đến gặp tôi: “Tôi lậy ông, xin đừng bỏ tù thằng Chung.” Sau đành tha không kiện.”

Những nhận xét của Võ Long Triều về Lý Quý Chung có phần đúng. Sau này Hồ Ngọc Nhuận cũng nêu ra một số nhận xét tương tự.

Mối liên hệ Võ Long Triều-Dương Văn Ba

Ông Triều viết trong Hồi Ký của mình: Nói về Dương Văn Ba thì cũng đáng buồn cỡ đó.

Qua lời giới thiệu của Lý Chánh Trung, Võ Long Triều đã cử Dương Văn Ba làm Đặc Ủy Viên thanh niên vùng IV chiến thuật thay thế Lâm Phi Điểu, ứng cử dân biểu Vĩnh Long.

Việc đầu tiên là ông Võ Long Triều đã nhờ Dương Văn Ba cầm tiền mà ông gửi thêm cho vài ứng cử viên dân biểu như Bành Ngọc Quý, Lâm Phi Điểu, mỗi người 30.000 ngàn. Dương Văn Ba mê cờ bạc đã thua hết số tiền trên. Trách mắng Dương Văn Ba về vụ này xong, ông Võ Long Triều lại đưa thêm 90.000 để Dương văn Ba đưa lại cho ba ứng cử viên dân biểu. Và đễ gỡ mặt cho Dương Văn Ba, ông Võ Long Triều dạy Dương Văn Ba phải nói dối như sau:

Tao bận việc ở Sài gòn nên xuống văn phòng ở miền Tây trễ, tụi bay làm gì phải mét với ảnh để ảnh lo âu rồi rủa tao một trận thê thảm, tiền của ảnh gửi đây, tao có cắt xén đồng nào đâu mà tụi bay vội vàng la hoảng như vậy.”

Cũng chính Võ Long Triều thúc đẩy Dương Văn Ba nộp đơn ứng cử dân biểu khi chỉ còn hai ngày hết hạn nộp đơn. Nhờ đó Dương Văn Ba đã đắc cử cùng với Ngô Công Đức ứng cử ở Vĩnh Bình, Hồ Văn Minh ra ở quận 8.

Nhưng sau khi vào Quốc Hội, dù thuộc nhóm dân biểu đối lập. Nhưng theo Hồ Ngọc Nhuận nói lại cho Võ Long Triều viết:

Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân tổng thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi sự thật, anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co và cuối cùng phải thú nhận là có.”

Sau khi Dương Văn Ba thất cử lần tranh cử thứ hai vào Hạ Nghị Viện, cũng theo ông Võ Long Triều,

“Ông đã buộc Ngô Công Đức phải nhận Dương Văn Ba làm việc trong tờ Tin Sáng. Mặt khác, tôi nài xin với Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, cho anh Ba được hoãn dịch hai lần. Anh tiếp tục làm báo kiếm tiền nuôi gia đình. Rồi nghề dạy nghề, Dương Văn Ba trở thành ký giả sáng giá trong tờ báo Điện Tín. Cho đến ngày tôi xuất bản nhựt báo Đại Dân Tộc, gọi Dương Văn Ba về cùng làm việc chung với nhóm anh em, Ba yêu cầu tôi phải trả lương cho anh mỗi tháng năm trăm ngàn đồng thì mới về, bằng không anh vẫn làm việc cho báo Điện Tín, thoái thân của tờ Tin Sáng. Số tiền Dương Văn Ba đòi phải trả lớn gấp năm lần hơn lương của một tổng thư ký giỏi trong làng báo thời đó. Hồ Ngọc Nhuận tức giận tột cùng, nói với Ba rằng:’ Mầy dám bỏ lời thề, phản bội anh em, nhưng anh em sẽ không bao giờ phản bội, bây giờ tao hỏi mầy có bằng lòng làm việc với anh em không? Hay là mày chỉ biết đồng tiền mà bất kể tình bạn kết nghĩa? Câu trả lời của Ba là Không!” (hết trích).(22)

Trên đây, chúng tôi vừa trích dẩn Hồi Ký Võ Long Triều viết về hai người bạn trẻ của ông là Dương Văn Ba và Lý Quý Chung. Để cho đầy đủ, xin được trích dẫn Hồi ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba.

Theo thiển ý, Dương Văn Ba chưa có cơ hội đọc hai tập Hồi Ký của kỹ sư Võ Long Triều nên Hồi Ký Những ngã rẽ hầu như không đế cập đến trường hợp Võ Long Triều phê phán ông. Nếu có đọc thì tôi tin chắc sẽ có một cuộc bút chiến long trời lở đất.

Điểm thứ nhất: Hồi ký Những ngã rẽ cho thấy Dương Văn Ba tự mô tả là người thật thà, không ham tiền, ham bạc. Trái lại là một người lương thiện.

Ông viết như sau:

Chị Năm Jacqueline, chị của bà Thiệu, một lần vào Quốc Hội, thăm tôi tại phòng Đệ nhất Phó Tổng thư kỷ Hạ nghị Viện. Chị nói: ‘Thằng Ba, sao mày quên tình chị em. Mầy chống ông Thiệu làm chi, đó là mầy không khôn. Tình chị em, nếu mày muốn gì kể cả làm Bộ Trưởng thông tin, tao và con Bảy (vợ Thiệu) đủ sức lo cho mày. Bỏ đối lập đi cái gì em cũng sẽ có.”

Tôi đã vô cùng cám ơn chị Năm Jacqueline, vì nhớ tới những ngày ở Mỹ Tho đầy kỷ niệm. Nhưng tôi đã trả lời chị, “Chị đừng buồn, em đã lỡ đi theo con đường khác với ông Thiệu, không thể quay lại được.”

Ông luôn bị ám ảnh về chuyện lương thiện. Trong phần nhận xét về các đại tá Đẩu, thiếu tá Đường, thiếu tá Lộc, những sĩ quan thân cận của tướng Dương Văn Minh, ông Dương Văn Ba đề cao ba người ấy và ‘theo gương các anh, tôi vẫn cố giữ một nếp sống và nếp nghĩ của con người lương thiện và trung thực.’(23)

Sau đây, Dương Văn Ba có thuật lại việc dược sĩ Nguyễn Cao Thăng có mời ông đến ăn cơm chiêu dụ tôi theo chính quyền. Ông Nguyễn Cao Thăng có hứa ngoài việc trợ cấp bao thư ‘lì xì’ mỗi lần bỏ phiếu ủng hộ chính quyền, phủ Tổng thống sẽ can thiệp với Tỉnh trưởng Bạc Liêu chia phân nửa số quota đường, sữa, bột mì hàng tháng cho gia đình tôi. Mỗi tháng tỉnh Bạc Liêu có quota 1.000 tấn đường cát trắng, 1.000 tấn bột mì, 1.000 thùng sữa hộp. Lãnh được phân nửa số quota đó, tôi có thể bán cho các hiệu buôn lớn của người Hoa ở chợ Bạc liêu, làm giàu thật nhanh chóng.

Dĩ nhiên, Dương Văn Ba đã từ chối không làm. Và ông kết luận:

Ông làm thiện, hưởng thiện. Bản thân tôi đã hưởng được cái quả thiện. Tôi bị chế độ này kết án tù chung thân vào cuối năm 1987. Nhưng nhiều người, kể cả một vài ông lớn của chế độ, một số báo chí đã vận động thả tôi ra trước hạn tù. Tôi đã được thả sau khi ở tù 7 năm 4 tháng. Tôi đã được hưởng quả lành.”(24)

Điều thứ hai khi nói về việc ông được hoãn dịch, ông đã nói khác hẳn những gì mà ông Võ Long Triều đã viết trong Hồi ký. Theo Dương Văn Ba, khi thất cử lần thứ hai, ông sắp sửa bị bắt đi quân dịch nên ông mò vào dinh Phó tổng thống Trần Văn Hương, xin bác Hương can thiệp cho tôi được hoãn dịch một hoặc hai năm. Ông viết:

Ông Trần Văn Hương tiếp tôi niềm nở và nói với Nguyễn Thạch Vân (học trò thân cận của ông Trần Văn Hương): ‘Thằng Ba tôi rất thương nó. Nhớ lại lúc làm Thủ tướng, ra điều trần trước Hạ Nghị Viện, bị đám dân biểu gốc Bắc, thân Nguyễn Cao Kỳ la hét, đập bàn, đập ghế, mạt sát. Lúc đó, tôi nhớ mãi chỉ có thằng Dương Văn Ba dám đăng đàn binh vực cho thầy. Bây giờ Thầy phải trả ơn cho nó. Thạch Vân, em liên lạc với Bộ trưởng bộ Quốc phòng nói thầy xin cho Dương Văn Ba được hoãn dịch 6 tháng đến một năm.’”

Anh Nguyễn Thạch Vân đã sốt sắng làm việc đó. Chỉ mấy ngày sau, tôi được Nha Động viên gởi giấy thông báo cho tôi được hoãn dịch đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1972. Giấy hoãn dịch do Thiếu tướng Bùi Đình Đạm ký.(25)

Riêng về báo Đại Dân Tộc, tôi xin trích đăng lại Hồi Ký của Dương Văn Ba đã viết như sau:

Đầu năm 1968, tôi chính thức bước vào nghề làm báo với các bài xã luận thưởng xuyên đăng trên báo Tin Sáng. Chưa chịu dừng ở đó, tôi xin giấy phép xuất bản tuần báo Đại Dân Tộc.” [Xin ghi nhận ở đây là tuần báo chứ không phải nhật báo – NVL].

Nhưng vì không có quan hệ với dân buôn giấy nên ông đành để Ngô Công Đức lo liệu. Ông viết tiếp:

“Tuần báo là của tôi, nhưng lại do Ngô Công Đức bỏ tiền ra in, phát hành, thu lợi nhuận.

Chủ nhiệm kiêm chủ bút Dương Văn Ba ăn lương một tháng 30 ngàn đồng (lúc đó bằng 3 lạng vàng) […]

Tổng Trưởng Thông tin Ngô Khắc Tỉnh ký án tử cho Đại Dân Tộc sau 9 tháng hoạt động.”

Nhận xét: Về đoạn trích dẫn trên, cho thấy Dương Văn Ba hậm hực với Ngô Công Đức ngay từ trước 1975, vì cứ bị Ngô Công Đức hớt tay trên, ăn trọn gói.

Cũng theo Dương Văn Ba:

Đến năm 1971, do yêu cầu của kỹ sư Võ Long Triều, tôi ký giấy nhượng tên Đại Dân Tộc để anh Triều đứng tên xin phép xuất bản tờ nhật báo cũng lấy tên Đại Dân Tộc. Vào khoảng cuối năm 1971, Đại Dân Tộc tái xuất giang hồ với tư cách báo hằng ngày. Ba nhân vật chính điều hành báo này là anh Võ Long Triều, (lúc đó là dân biểu quốc hội) dân biểu Kiều Mộng Thu, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.”

Ông Dương Văn Ba đã không nhắc gì đến những chi tiết đã được ông Võ Long Triều viết một cách chi tiết cả.

Ông Võ Long Triều đã xét đoán sai về người và việc và bỏ rơi những người xem ra xứng đáng hơn những người ông đã tài trợ về khả năng và đức độ.

Tôi được biết những người sau đây đều cộng tác làm việc một cách xả thân, hết mình, ăn ở tại chỗ, bất kể nguy hiểm ở quận 8 như luật sư Đoàn Thanh Liêm, các thầy giáo như Hồ Công Hưng, Uông Đại Bằng, Nguyễn Đức Tuyên. Những người này ông dư biết họ đều có học vấn đàng hoàng, có tư cách, có lý tưởng phụng sự xã hội. Và cho đến giờ phút này, họ đều là những người quốc gia chân chính.

Vậy mà ông đã không dùng một người nào chỉ vì họ là người Bắc? Trừ Hồ Công Hưng là người Kontum. Phải chăng vấn đề Nam-Bắc là một đề tài cấm kỵ mà mọi người đều tìm cách né tránh?

Phải chăng chỉ những người thuộc phe cánh miền Nam như vừa nêu trên thì bất kể họ theo cộng sản hay không, ông đều thu nhận, ủng hộ hết mình. Trong Hồi ký của ông, tôi không hề nhận thấy một lời xác nhận nào về việc này?

Nếu chỉ vì tình bạn bị sứt mẻ thì những nhân vật nêu trên có đáng để viết trong Hồi ký cho bạn đọc hay không?

Nhưng có một chi tiết lý thú tôi phải viết ra đây để sổ toẹt những nhà yêu nước, chống Mỹ, những lực lượng thứ ba như Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận do Dương Văn Ba tiết lộ. Ông Dương Văn Ba viết như thế này:

‘Bộ phận hoạt động thành của cộng sản có tiền nhiều hơn những tài phiệt lớn ở Sài Gòn đang đi theo Mỹ-Thiệu. Tiền của cộng sản hoạt động thành đến từ nhiều nguồn tài trợ, nhất là tài trợ Quốc tế. Nó đến từ Trung Quốc, đến từ Liên Xô, đến từ những phong trào Việt Kiều yêu nước thân cộng. Chính mắt tôi đã chứng kiến hai nhà yêu nước thật sự của Sài Gòn (nghèo thấy mẹ) mà cầm xấp đô la tài trợ cho một số sinh viên hoạt động biểu tình. Không biết tôi có nên nói tên hay không.

Dương Văn Ba hài đích danh hai người cầm đô-la phát cho sinh viên biểu tình,

“Cũng cứ nói, dù các đàn anh đáng kính của tôi có giận: Thầy Lý Chánh Trung và anh Hồ Ngọc Nhuận”(26).

Ông Hồ Ngọc Nhuận hình như chưa đọc đoạn văn này!

Dương Văn Ba đã đưa ra nhận xét:

Chế độ cũ phạm nhiều sơ hở về tình báo và kinh tài so với cộng sản. Sử dụng tiền để làm rào cản trong báo chí, Thiệu và các quân sư của ông đã sa vào cái hố to. To đến sau khi thất trận, mới thấm thía, đau đòn về chiến lược cài người đánh trên mọi mặt trận của phía cộng sản.”

Viết được nhận xét trên, quả thực Dương Văn Ba có cái khí chất miền Nam trong đó. Loại người dám nói, nói huỵch tẹt chẳng kiêng nể gì, dám làm, ngay cả làm bậy. Ông có phải là loại người có lý tưởng, theo lý tưởng cộng sản không? Theo tôi được biết là không! Cuộc đời đưa đẩy, hoàn cảnh bầy ra như thế, ông trôi theo. Vì thế, ông đặt tên cho Hồi ký của ông là Những ngã rẽ! Ông khôn ngoan, nhưng vẫn không tính hết được những cái bá đạo, tàn bạo, cái bẫy sập của cộng sản.

Tưởng bám vào Võ Văn Kiệt như cái dù hộ mệnh là xong. Dễ mấy ai leo lên được chức Phó thủ tướng, rồi thủ tướng? Người ta kể cho tôi, ông và một số người khác thường tụ họp ở Thủ Đức, đánh tennis vởi ông Võ Văn Kiệt, rồi ăn nhậu với nhau.

Nhưng guồng máy ấy khi cần, họ thanh toán nhau, khai trừ nhau mà ông là nạn nhân.

Trong thời gian ông ra tòa, rồi đi tù, Phó thủ tướng Võ Văn Kiệt đã không dám có một lời can thiệp trực tiếp.

Dương Văn Ba đúng là nạn nhân của cặp Nguyễn Văn Linh-Võ Văn Kiệt. Bảo rằng ông hối lộ, tham nhũng, hủ hóa cán bộ. Tôi nghĩ có thể là có. Làm ăn trong chế độ ấy mà không biết hối lộ, có ăn có chia chác phải quấy thì chỉ có dẹp tiệm!

Nhưng cuối cùng thì họ chỉ gán ghép ông vào tội chính trị thì hết đường đỡ. Tội cấu kết, phản động thì chẳng khác một bản án tử hình. Ông bị tù hơn 7 năm trời mới được cứu gỡ ra. Kể cũng là một thời gian khá dài đấy chứ.

Mối liên hệ Võ Long Triều-Ngô Công Đức

Theo nhận xét của Dương Văn Ba: Ngô Công Đức có số mệnh làm việc gì cũng thành công!(27)Nhận xét ấy có thể là tóm tắt cả cuộc đời hoạt động của Ngô Công Đức.

Học lực ít, nhưng lanh lẹn, tháo vát, chơi với đủ giới nhất là dân giang hồ, biết soay sở, nắm thời cơ. Ngô Công Đức vốn có bà con xa gần với tổng giám mục Nguyễn Văn Bình. Tôi được biết sau 1975, vị tổng giám mục bị nhiều áp lực tứ phía mà vốn bản tính hiền lành nên cũng lao đao nhiều chiều. Buổi tối rảnh rỗi có khi Ngài ra nhà Ngô Công Đức ăn cơm, hàn huyên trong tình gia đình đã làm ông thư giãn nhiều.

Cũng nhờ mối liên hệ này mà khi Ngô Công Đức ra tờ Tin Sáng viết bài chửi bới ‘nặng ký’ chế độ Nguyễn Văn Thiệu cũng hăng lắm. Nhưng vẫn được để yên. Không một lần bị đóng cửa cho đến 1975.

Phải chăng ông Nguyễn Văn Thiệu còn nể mặt Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình?

Sau 1975, Trần Bạch Đằng giao cho làm tờ Tin Sáng, đến 1981 thì tan gánh, được coi là đã: hoàn thành nhiệm vụ.

Ngô Công Đức có điều kiện tài chánh, cộng uy tín cá nhân, cộng tài làm ăn tháo vát đứng ra quy tụ anh em cũ lại trong đó có Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận và nhiều anh em khác như Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm, Nguyễn Hữu An, Nguyễn Văn Binh, Trần Ngọc Báu, Hoàng Ngọc Biên, Trương Lộc, Trần Trọng Thức, Phan Ba, Minh Đỗ, Hồ Ngọc Cứ. Và nhiều nữ cựu sinh viên luật hay Văn Khoa cũng có mặt trong tờ Tin Sáng.

Tôi vẫn nhận ra cái việc quần hào tụ họp chung quanh tờ Tin sáng là có ý nghĩa nhất. Cái ý nghĩa là trong lúc khốn quẫn, bị vây bọc và mất hết phương tiện mưu sinh. Ngô Công Đức vẫn là thứ hảo hán thu nhận mọi liên hệ anh em vào làm Tin Sáng.

Chưa có tòa báo nào như thế mà trí thức có, nhà báo có, nhà chính trị có, giáo sư có, cựu quân nhân có, tù cải tạo được thả về. Rồi vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, chị của bạn bè, cháu của bạn bè đều quây quần trong một tờ báo để người nào cũng có việc. Để không phải đạp xe xích lô, xe ôm không phải bán thuốc lá lẻ, bán vé số đầu đường, để không phải mở cà phê ‘ôm’ và nhất là không mất nhân phẩm làm vợ một tên cán bộ.

Việc làm của Ngô Công Đức sau này cũng y hệt khi Dương Văn Ba thu nhận người làm cho Cimexcol Minh Hải.

Nó có cái nét đẹp của nó trong cái hoàn cảnh cực đoan bi phẫn!

Đây cũng là hình ảnh nổi bật công việc làm báo bất đắc dĩ của mấy chị để khỏi mất nhân phẩm! Nào là các chị Đặng Thị Ánh Nguyệt (luật sư tập sự thời chế độ cũ), Huỳnh Thị Mỵ Cơ từng là vợ phó đốc sự hành chính, Lã Thị Kim Thoa (cử nhân luật), Phan Thị Kim Hoanh, Phạm Thị Minh Tánh, Hoàng Hữu Ly (cử nhân xã hội học), Phạm Thanh Vân (cử nhân luật), Huỳnh Thị Thanh Vân (cử nhân luật)(28).

Bà Huỳnh Thị Thanh Vân sau này lập gia đình với linh mục Nguyễn Ngọc Lan là một thái độ chọn lựa có nhân phẩm nhất.

Thật ra, Sài Gòn sau 1975, người ta đều sống bất đắc dĩ, làm bất đắc dĩ như thế cả.

  1. Trí Quang đang làm chính trị thì bất đắc dĩ phải trở lại chùa quy ẩn. TGM Nguyễn Văn Bình đang tu thì bất đắc dĩ ra làm chính trị.

Kẻ làm chính trị phải đi tu. Kẻ đi tu lại phải làm chính trị.

Thày giáo thì nay đi đạp cyclo. Kẻ trước đây đạp cyclo nay lên làm phường trưởng. Đại tá đi đánh giặc thì nay đi bán vé số hay vá xe đạp. Trong số gần 200 nhân viên của Tin Sáng, thật sự chỉ có độ 2, 30 chục người là có tay nghề còn tất cả đều làm bất đắc dĩ cả.

Và cả miền Nam làm những công việc bất đắc dĩ như thế! Có biết không?

Sau khi Tin Sáng ‘đứt phim’, Ngô Công Đức xoay ra buôn bán, làm chủ hãng sơn mài, đồ gốm vẫn được chính quyền mới giúp đỡ. Lại hái ra tiền chả thua gì lúc làm báo cả. Không lạ gì cả Võ Long Triều đến Dương Văn Ba trước đây khi ra báo đều phải nhờ đến một tay của Ngô Công Đức, vì ông có quan hệ đến dân buôn giấy, biết lo lót giới phát hành, biết phải quấy với nhóm Cựu chiến binh lo phát hành và cả với Trung Ương tình báo VNCH cũ. Ông cũng từng làm ăn với Mỹ, với chính quyền miền Nam cũ cũng trót lọt. Mà đi với cánh phản chiến miền Nam là hợp khẩu vị, vì Ngô Công Đức cũng như Lữ Phuong rất kỵ “rơ” với cán bộ miền Bắc. Nhiều phần do sự thúc đẩy và ảnh hưởng của Hồ Ngọc Nhuận mà Ngô Công Đức xoay trục.

Rơi vào vòng xoáy của cộng sản, tôi nói thật ông là người duy nhất không bị cái guồng máy đó nghiền nát.

Sau này là dân biểu được dịp sang Paris cùng với Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, ông có cơ hội móc nối với cộng sản và trở thành người của họ sau 1975.

Được Trần Bạch Đằng tin cẩn và giao cho làm tờ Tin Sáng bộ mới với điều kiện cứ làm báo như cũ. Do khéo xoay sở, ông đã được các linh mục gốc Bùi Chu giao lại cơ sở nhà in Nguyễn Bá Tòng với toàn bộ máy móc và một cơ sở đồ sộ 3 tầng ở đường Bùi Chu.

Ông đã thu tập được hầu hết các nhà báo cũ của các tờ Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc về hợp tác với Tin Sáng bộ mới. Một số đông trí thức miền Nam cũng thỉnh thoảng viết bài cho Tin Sáng như quý ông Phạm Hoàng Hộ, Trần Kim Thạch, Võ Tòng Xuân, Chu Phạm Ngọc Sơn, Nguyễn Xuân Oánh cũng như các cộng tác viên cũ như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân, Vũ Hạnh.

Một người có tài năng như thế xem ra trái ngược với những điều nhận xét của ông Võ Long Triều sau đây. Theo Võ Long Triều thì văn hóa của Ngô Công Đức rất kém, không có được văn bằng tú tài. Mặc dầu vậy, ông Võ Long Triều đã trao cho Ngô Công Đức một triệu rưởi để hùn làm báo Tin Sáng (báo Tin Sáng được độc giả thích đọc, nhất là mục ký tên Tư Trời biển do Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận và My Sơn Nguyễn Ngọc Thạch thay nhau viết). Nói là hùn nhưng Võ Long Triều cũng thừa biết rằng Ngô Công Đức làm gì có một triệu rưởi để hùn. Võ Long Triều chỉ đặt để Hổ Ngọc Nhuận làm Giám Đốc chính trị để kiểm soát Ngô Công Đức. Cũng theo ông Võ Long Triều thì tờ báo lời nhiều, nhiều lắm, nhưng Ngô Công Đức không hề chia một cắc lời, thậm chí không trả vốn.

Ông viết:

“Tôi có nhắc một lần, nhưng Đức làm ngơ. Tôi cũng không quan tâm, vì mục đích xuất bản báo là để tạo một vũ khí chính trị phục vụ lý tưởng chứ không phải để kiếm lời. Vả lại lợi tức của trại chăn nuôi, trường Anh Văn London School, trường Mẫu giáo Claire Joie cũng đủ cho việc chi tiêu trong gia đình.”(29)

Ở đây, ông Triều không nói rõ, lý tưởng gì, chăn nuôi gì? Theo Hồ Ngọc Nhuận thì ông Triều rất thành công trong việc nuôi heo và nuôi chim cút!(31)

Nói chung, Võ Long Triều đánh giá Ngô Công Đức là ‘tính nết quá khích và xảo quyệt’. Khi Võ Long Triều đòi 100.000 đồng để cho Hồ Ngọc Nhuận có tiền vận động ra tranh cử, Đức không đưa và chỉ đưa cho Nhuận chiếc xe La Dalat cũ kỹ để làm phương tiện đi vận động mà thôi.

Cái tính xảo quyệt của Ngô Công Đức đã có sẵn khi cùng học với Võ Long Triều, Hồ Ngọc Nhuận tại trường Saint Joseph Mỹ Tho rồi.

Vì thế, Võ Long Triều biết được bản chất của Ngô Công Đức nên xa dần lẩn tránh anh ta một cách nhẹ nhàng. Mọi giao dịch ít khi trực tiếp mà chỉ qua trung gian Hồ Ngọc Nhuận mà thôi.

Xem tiếp phần 3

(15) Theo Hồi Ký Võ Long Triều, ông đã cài đặt Lý Quý Chung về quận 8, để ứng cử vào Quốc Hội Lập Hiến, mặc dầu Lý Quý Chung không dính dáng gì đến sinh hoạt của chương trình này. Đây cũng là một việc làm tắc trách của ông Võ Long Triều, lạm dụng các anh em làm việc ở quận 8, vận động cho Lý Quý Chung. Sau đó, Lý Quý Chung đã không một lần bầy tỏ dù là một lời cám ơn với các anh em trong chương trình xây dựng quận 8. Sau này đến lượt bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ra ứng cử các quận 6 và quận 8 thì đều đắc cử cả.
(16) Hồ Ngọc Nhuận, Hồi Ký Đời, đã sửa chữa đăng trên diển đàn Forum, Chương 15-16
(17) Dương Văn Ba, Những ngã rẽ chính trị, Chương 5 . Làm chính trị-Vào Quốc Hội
(18) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 5
(19) Có thể tin cẩn vào lời nói của linh mục Nguyễn Quang Lãm, vì sau này cũng chính vị linh mục này giới thiệu đại tá Lê Quang Hiền làm đổng lý văn phòng cho Tổng trưởng Thanh niên võ Long Triều. Cũng chính đai tá Hiền giới thiệu Lý Quý Chung vào làm việc trong Bộ. Tất cả những chi tiết này được ông Triều viết lại trong Hồi Ký Võ Long Triều, bài 24: Hoạt động trong Nội các.
(20) Nguyễn Cao Kỳ, Buddha’s child, trang 127-138
(21) Hồi ký Võ Long Triều, Hoạt động trong nội các
(22) Tất cả phần Dương Văn Ba, Lý Quý Chung được trích dẫn trong Hồi ký Võ Long Triều, kỳ 26, 19-1-2007.
(23) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 12, Ngô Công Đức trở về Sài Gòn
(24) Dương Van Ba, Ibid., Chương 5, Làm chính trị- Vào Quốc Hội
(25) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm Báo Sài Gòn, phần 2
(26) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm báo Sài Gòn, Phần 2
(27) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm báo Sài Gòn, Phần 2
(28) Dương Văn Ba, Ibid.,Chương 3, Làm báo trong chế độ mới
(29) Hồi ký Võ Long Triều, bài 27 


 

Phú Yên bắt giữ 2 vợ chồng với cáo buộc ‘lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo’

Ba’o Nguoi-Viet

October 3, 2024

PHÚ YÊN, Việt Nam (NV) – Bị can Nguyễn Văn Trong, 54 tuổi, và vợ, bà Lê Thị Hòa, ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, vừa bị bắt, khởi tố với cáo buộc “lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, tố giác để làm đơn gửi nhiều cấp, nhiều ngành.”

Theo báo Thanh Niên hôm 3 Tháng Mười, hai vợ chồng bị can Trong bị Công An Huyện Sơn Hòa quy tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước…”

Bị can Lê Thị Hòa (thứ tư, trái qua) và chồng, ông Nguyễn Văn Trong (thứ nhì, phải qua), lúc bị bắt. (Hình: Minh Thanh/Thanh Niên)

Hồ sơ của công an cho biết, vợ chồng bị can Trong nhận quyền sở hữu một khu đất rộng 240 mét vuông tại thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, nhưng tòa án địa phương không công nhận điều này.

Do vậy, từ năm 2022 đến nay, vợ chồng bị can Trong làm 104 đơn tố cáo, đơn khiếu nại, đơn tố giác tội phạm, đơn đề nghị, đơn phản ánh, gửi đến nhiều cơ quan từ cấp huyện đến trung ương tố cáo, khiếu nại, tố giác các cán bộ, lãnh đạo địa phương.

Bản tin cho rằng, vợ chồng bị can Trong không chấp nhận rằng các đơn tố cáo, khiếu nại của họ “là sai sự thật” theo giải thích của nhà chức trách.

Vụ bắt giữ hai bị can diễn ra sau khi họ bị cho là “tiếp tục lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, tố giác trong thời gian dài.”

Trong một vụ tương tự xảy ra hồi đầu Tháng Tám, theo tờ Tuổi Trẻ, bị can Nguyễn Đình Trung, 66 tuổi, ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, bị bắt, khởi tố cũng với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước…”

Vụ kiện của vợ chồng bị can Nguyễn Văn Trong liên quan một khu đất tại huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. (Hình: Phú Yên)

Công An Thành Phố Đà Nẵng quy chụp cho bị can Trung “soạn thảo, lan truyền nhiều đơn tố cáo, tố giác sai sự thật, bịa đặt gửi nhiều cơ quan tổ chức từ trung ương đến địa phương.”

Ngoài ra, ông này còn bị khép cho hành vi “chia sẻ thông tin chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội.”

Các báo khác tại Việt Nam cũng đưa về vụ bắt giữ ông Trung nhưng không cho biết chi tiết về các đơn tố cáo của bị can này nhắm vào giới chức hoặc cơ quan nào.

Trước đây, cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước…” chủ yếu nhắm vào giới bất đồng, xã hội dân sự.

Gần đây, tội danh này được khép cho những người trung niên, cao niên khiếu kiện đất đai ở các địa phương. (N.H.K) 


 

 Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (I)

 Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (I)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

01/10/2024

Dương Văn Ba (thứ hai từ trái), cựu dân biểu đối lập VNCH, Tổng Thư Ký Tòa Soạn báo Tin Sáng, Phó Giám Đốc Cimexcol Minh Hải, bị cáo đầu vụ trong oan án Cimexcol Minh Hải.

Miền Nam những năm 1963-1970 gặp rất nhiều xáo trộn từ phía những người mà sau này có danh xưng  “ The 3rd“ (Lực lượng thứ ba). Họ có ăn học và họ quậy phá miền Nam đủ kiểu dưới danh xưng các dân biểu đối lập một cách hợp pháp.

Nếu gọi họ là những kẻ nội thù kể cũng không sai. Hay nói nôm na, họ là những thành phần “ nối giáo cho giặc”..

Miền Nam có mất cũng một phần do bọn này.

Khi tôi viết những dòng này thì một trong những kẻ ấy¨ ông Dương Văn Ba ở trong tình trạng sức khỏe đáng lo ngại. Ông bị tai biến mạch máu não lần thứ ba và nằm liệt tại chỗ từ nửa năm nay trong hoàn cảnh gia đình không mấy khá. Họ có vài chục người, nhưng xin nêu ba tên sừng sỏ nhất:

Đó là Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Un choix malheureux – Một chọn lựa bất hạnh.

Gia đình ông sau nhiều nỗi gian truân của những lớp sóng chính trị xô đẩy vùi dập cuối cùng kết thúc là sự tù đầy. Ông bị kết án tù chung thân, nhưng chỉ ngồi tù hơn bảy năm và được thả ra nhờ sự vận động của nhiều người.

Nhưng tài sản của công ty Cimexcol lên đến bạc triệu cũng như nhà cửa của ông đều bị tịch biên hết.

Nay được tha ‘coi như trắng án’ thì theo lẽ phải trả lại hết tài sản của công ty Cimexcol – với tư cách phó Giám đốc – cho Dương Văn Ba mới phải.

Căn nhà riêng của ông ở đường Đinh Bộ Lĩnh không đòi lại được vì thủ tục hành chánh. Một căn nhà khác ở làng đại học Thủ Đức cũng mất luôn. Khi tịch biên, chính quyền cộng sản đã không quên bắt theo cả một đàn heo.

Lần đầu tiên, heo cũng bị ra tòa như chủ nó và chắc lãnh án tử?

Ra tù, ông toan tính xây dựng lại sự nghiệp từ đầu nên làm ăn lại như mở Restaurant, đấu thầu bếp ăn tập thể. Cuối cùng cũng thất bại luôn.(1) Nay tình trạng vật chất không khấm khá gì đến nỗi không có nổi một căn nhà, phải đi ở thuê. Phải nói là ông ở trong tình trạng túng quẫn theo một vài thông tin nhận được.

Hiện ông đang ở địa chỉ 78-31 đường Nguyễn Thị Tú, Khu công nghiệp Tân Bình T.p. Hồ Chí Minh.

Vì sao nên nỗi? Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi ấy.

Thật ra, tôi chỉ thực sự có ý định viết về ông khi được đọc hai cuốn hồi ký Hồi Ký Những ngã rẽ ông gửi cho viet-studies.info cách đây ít lâu, lúc mà ông biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Hồi ký ấy như muốn để lại một cái gì và tôi nghĩ nên được công bằng tìm hiểu, đồng thời giúp giới trẻ sau này biết tới một thời kỳ với rất nhiều biến động.

Biến động lớn nhất là đổi đời! Người xuống hàng trâu ngựa và trâu chó lên làm người.

Hồi ký thứ hai, cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận. Cuốn này tôi đã có dịp đọc bản thảo ngay từ khi chưa được phép xuất bản dưới dạng photocopy. Photocopy là một thứ dạng văn hóa chui để có mặt.

Chui ở Việt Nam là một nếp sống văn hóa.

Sau này bản photocopy này được sửa chữa khá nhiều, có chương mới liên quan đến những tranh chấp giữa Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận.

Bản hồi ký này của Hồ Ngọc Nhuận là để trả lời một số điều được coi là viết sai lầm trong hồi ký của Dương Văn Ba. Và sau đó được cho đăng trên Diễn Đàn Forum (diendan.org).

Bản hồi ký đã sửa chữa của Hồ Ngọc Nhuận, thêm nhiều chi tiết, đặc biệt chủ yếu nhắm vào việc phê phán Lý Quý Chung – từ những sự việc rất nhỏ đến không đáng nói – và một phần về Dương Văn Ba mà có thể trước đây ông đã cố tình im lặng để giữ hòa khí anh em trong lần đầu.

Lần này, ông xả láng như thể nói một lần cho xong. Khi một người theo cộng sản xả láng là lúc họ bắt đầu nói thật. Nói thật là thứ quý hiếm lắm nên cần phải đọc.

Cuốn hồi ký của Dương Văn Ba trên đây tôi nghe nói đã lâu, ngay từ khi Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung được cho xuất bản lần đầu trong nước. Tôi hỏi bạn bè trong nước thì được biết có hai cuốn Hồi Ký không được phép xuất bản là cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận và cuốn Những ngã rẽ của Dương Văn Ba. (Lúc đó tôi không được biết tên cuốn hồi ký này).

Cũng vì thế ở đây cũng phải cám ơn ông Trần Hữu Dũng, của viet-studies.info, đã cho đăng lại cuốn Hồi Ký do chính ông Dương Văn Ba gửi ra hải ngoại. Nhờ đó ít ra một lần, Dương Văn Ba được bày tỏ, viết lại những hoạt động của ông từ thời sinh viên đến lúc làm báo, làm chính trị và làm kinh tế với chức vị Phó chủ tịch công ty Cimexcol, rồi bị án tù chung thân, bị sa cơ thất thế, bị rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, mất nhà mất cửa và bệnh hoạn như hiện nay.

Hành trình nhận thức thời tuổi trẻ với “những ngã rẽ” như ông viết đã đưa đến một kết thúc khá bi kịch của một người trí thức miền Nam. Ông trôi theo dòng bị đẩy đưa từ một thầy giáo dạy triết, ông trở thành người khuynh tả, rồi lực lượng thứ ba.

Rồi đến lúc nước ngập đến chân vào năm 1975, cuối cùng ông bám vào cái đuôi cộng sản như cái phao cứu sinh. Cái đuôi ấy đã giúp ông qua một dòng sông đi một đoạn đường dài. Nhưng cũng chính cái đuôi ấy quất ông chết chìm trước khi qua được bờ sông bên kia.

Kết thúc cuộc đời chính trị của Dương Văn Ba cũng là kết thúc vai trò của thành phần lực lượng thứ ba – kết thúc một ảo tưởng.

Lý Quý Chung trước 1975 tự nhận ông là những người đứng giữa mà thực tế chính trị sau 1975 không thể nào cái lực lượng ấy có bất cứ vai trò gì cũng như lý do gì để tồn tại.

Đứng giữa tự nó là không đứng chỗ nào cả về mặt chính trị. Lực lượng thứ ba đối với phía cộng sản ví như con thuyền. Khi đã qua sông thì con thuyền chở qua sông sẽ trở thành gánh nặng nếu tiếp tục vác nó lên bờ.

Có ai dại khờ vác thuyền lên bờ không? Không. Cách tốt nhất là dẹp bỏ nó như một vật dư thừa.

Phải chăng tìm đọc lại hồi Ký Dương Văn Ba sẽ là một bài học muộn, bài học trễ cho tất cả những ai đã đang và không theo cộng sản?

Bất cứ ai cũng có thể rút ra một bài học cho mình. Ngay những người quốc gia như tôi thì giúp chúng tôi củng cố thêm niềm tin rằng cộng sản là một điều xấu – tồi tệ nhất trong các điều xấu. Vậy điều xấu nhất ấy là gì?

Là họ mất tính người.

Nó biểu tượng cho một cái bi kịch làm người-ở-đời-trong chế độ cộng sản mà lúc ‘ngộ’ ra thì đã quá muộn. Sự chọn lựa của những người trí thức lực lượng thứ ba là một chọn lựa bất hạnh ngay từ đầu.

Đối với miền Nam, họ là những kẻ bội phản. Và đối với cộng sản, họ trở thành kẻ dư thừa sau 1975.

Bất hạnh nằm ở chỗ đó.

Và những người như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận và Ngô Công Đức đều đã có một chọn lựa có thể là sai lầm lúc thời trẻ? Chọn lựa ấy đến ngày hôm nay trở thành một chọn lựa bất hạnh – choix malheureux-?

Ngô Công Đức đã chết. Nhiều người khác cũng đã chết: Nguyễn Trọng Văn đã chết. Nguyễn Ngọc Thạch đã chết. Bành Ngọc Quý đã chết. Lý Quý Chung đã chết. Lê Hiếu Đằng đã chết. Dương Văn Ba kể cũng như chết. Lý Chánh Trung cũng vậy.

Nhưng nỗi bất hạnh vẫn đeo dính vào cuộc đời họ! Họ ăn năn cũng trễ, họ muốn chuyển trục cũng không còn cơ hội nữa.

Nay chỉ còn Hồ Ngọc Nhuận còn sống đại diện cho ít nhất ba người trong số họ. Liệu ông có gánh vác nỗi cái nỗi bất hạnh thay cho những người đã ra đi?

Mới đây nhất, vào ngày 23-7-2015, Ông Hồ Ngọc Nhuận đã viết một lá thư gửi ông Nguyễn Phú Trọng lên án đảng cộng sản Việt Nam. Sự suy nghĩ lại của ông Hồ Ngọc Nhuận là điều đáng mừng.(2)

Trong Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, có một đôi dòng thú nhận mà tôi cho là thấm thía và chua xót nhất của thân phận những kẻ đứng giữa, cần được trích lại ở đây của tác giả như sau:

Nhưng trong 30 năm đó, tôi vẫn cảm nhận mình là người khách đặc biệt. Chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi cũng không hề phiền hà về cái quy chế không chính thức này. Là một người từng làm chính trị (dù là do thời cuộc mà làm), tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải của mình…

[…]

Trong các cuộc đấu tranh hay mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan mà tôi từng cộng tác, cái chuẩn ‘Người của Đảng’ đáng tin cậy hơn ‘người ngoài đảng’ vẫn thường đuợc vận dụng.”(3)

Sự thú nhận của Lý Quý Chung cũng đã được ông Trần Bạch Đằng, người giới thiệu tập hổi ký viết, “Thật ra, giới trí thức Sài gòn như Lý Quý Chung, ‘phơi phới sống với chế độ mới’ là chuyện không thể có, tức không thể đòi hỏi.”(4)

Họ đã chịu đựng âm thầm, nhẫn nhục cố khuôn mình trong cái khuôn cộng sản hẳn là có.

Vậy mà cũng không xong. Mà xong sao được. Họ làm sao ‘phơi phới’ được. Nếu có phơi phới thì chỉ là đóng kịch mà thôi. Cái không xong sẽ bám dính lấy họ trong suốt cuộc đời còn lại.

Hầu hết những người này đều là bạn bè mà tôi quen biết.

Nguyễn Ngọc Lan về chầu Chúa sớm nhất vẫn còn mang theo nỗi bực tức cộng sản. Bành Ngọc Quý chết lãng xẹt bị xe đụng. Nguyễn Hữu Hiệp chết quá trẻ khi bị sốt rét ác tính khi đi làm gỗ với Dương Văn Ba bên Lào. Nguyễn Ngọc Thạch, một người lúc trẻ lúc nào cũng sẵn những câu chuyện vui tếu giữa đám đông bạn bè, cũng lẳng lặng ra đi.

Còn một số đông bạn bè còn ở lại. Họ muốn giữ thái độ im lặng trong tuổi già.

Không biết trong tất cả những bạn bè, những người quen biết ấy, vào lúc này, có can đảm cho rằng sự chọn lựa đi theo ‘con đường cách mạng xã hội’ là một chọn lựa đứng đắn nhất?

Tôi không tin một ai đó dám trả lời, đó là một chọn lựa đúng.

Những người còn lại có lúc gắn bó, tưởng chừng như anh em một nhà. Rồi cũng chia rẽ nhau, lên án, kết tội nhau trước Đảng (trường hợp Lý Quý Chung, Dương Văn Ba kết tội Ngô Công Đức. Hồ Ngọc Nhuận)

Rồi còn bao nhiêu bạn bè, anh em họ hàng, vợ con họ cả trăm người sau 1975 sống bám vào tờ Tin Sáng, bộ mới để sống còn cho đến lúc tan đàn, tản mác mỗi người mỗi nơi.

Họ đành mỗi ngưởi tự tìm cho mình một lối thoát.

Lối thoát với dầy gian nguy và thử thách đó là vượt biên. Lối thoát không lối thoát chính là ở lại, tiếp tục cuộc sống lưu đầy trên chính quê hương mình.

Tôi sẽ lần lượt điểm mặt những khuôn mặt tiêu biểu để cho thấy chỉ là một đám người đối lập “phá làng, phá xóm”, chữ dùng của Hồ Ngọc Nhuận trước 1975 và sau 1975, chỉ là đám lục bình trôi.

Ở đây cũng xin bỏ trong ngoặc trừ một số nhà giáo có căn bản học lực, thầm lặng cộng tác làm báo như Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm, Trần Ngọc Báu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đồng và vợ Nguyễn Thị Hợp, v.v.Họ chọn sống thầm lặng..

Phần những người chủ chốt như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung kiến thức đều thuộc loại làng nhàng – học dở dang chưa ra ngô ra khoai! Hồ Ngọc Nhuận, chỉ đủ điều kiện theo học khóa sĩ quan Thủ Đức 14 ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Lý Quý Chung bỏ Quốc gia Hành Chánh khóa 10. (Võ Long Triều cho rằng Lý Quý Chung chưa có tú tài II) Riêng Ngô Công Đức thì kỹ sư Võ Long Triều trong Hồi ký của ông, chương 26 viết, “Dù biết rằng văn hóa của Ngô Công Đức rất kém, không có được văn bằng tú tài!”

Thật ra thì chuyện bằng cấp có chi quan trọng cần đến một sự miệt thị như thế! Nhưng cứ bình thường thì làm thế nào một chuẩn úy như Hồ Ngọc Nhuận ra trường, về dạy tại Trung Tâm Huấn Luyện vùng IV Chiến Thuật mãi miệt núi Thất Sơn, sau 1-11-1963, lại có công điện khẩn của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gọi về trình diện. Trong công điện lại thòng thêm chi tiết: Nếu cần sẽ cho trực thăng đến đón!(5)

Tất cả câu chuyện bức công điện khẩn này có nguyên do của nó và đã xoay chuyển cuộc đời sự nghiệp chính trị của Hồ Ngọc Nhuận sau này.

Chi tiết nảy cũng làm tôi chợt nghĩ đến Lý Quý Chung với cuốn Hồi Ký Không Tên đã gây biết bao tranh luận sóng gió, đã bắt buộc Ngô Công Đức, chủ nhiệm Tin Sáng, bộ mới phải lên tiếng về những lời kết tội ‘giết Người’ của Lý Quý Chung. Nó cũng bắt buộc ông Hồ Ngọc Nhuận phải viết lại, sửa chữa một số chương trong cuốn Hồi Ký Đời của ông đến như đọc cuốn Hồi Ký Đời của Hồ Ngọc Nhuận đã sửa như thể Hồi Ký đã mang một bộ mặt khác. Và cũng như thế khi đọc Hồi Ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba.

Tôi có cảm tưởng khi đọc những hồi ký này, những nhân vật trẻ trên chẳng khác gì trường hợp Vi Tiêu Bảo trong truyện Kiếm Hiệp của Kim Dung. Và có thể áp dụng cho Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức!

Vậy mà ông kỹ sư Võ Long Triều mà tôi gọi là ‘người hùng ngây thơ” vô số tội’ đã bao che, nâng đỡ, cất nhắc, tài trợ tiền bạc để cho đám này và nhiều dân biểu gốc miền Nam ra tranh cử, tài trợ ra báo, dùng trung gian Nguyễn Cao Kỳ cất nhắc bọn họ có những chức vụ lớn trong chính phủ cho Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức.

Ngay cả bao che trốn quân dịch cho Lý Quý Chung, Dương Văn Ba để cuối cùng bọn họ đều phản phé lại Võ Long Triều.

Hồi Ký của ông Võ Long Triều, theo người viết nên dành hẳn một chương Hồi ký viết về những kẻ bội phản.

Riêng phần Dương Văn Ba, đảng thưởng cho ông 20 năm tù chung thân, rút lại ngồi tù hơn 7 năm mà trong Hồi Ký, Những ngã rẽ, ông cũng chỉ dám dành chương chót – chương 20 với nhan đề: Vài chuyện nhỏ về ông Nguyễn Văn Linh, người đã ra lệnh bắt tôi.

Chuyện án tù chung thân, mất nhà mất cửa, thân bại danh liệt mà ông gọi là chuyện nhỏ? Ông viết vỏn vẹn chỉ có 4 trang giấy thì quả là chuyện nhỏ thật? Trong khi đó, tôi nhận được hẳn một cuốn sách in photocopy do Hồ Ngọc Nhuận chịu khó thu tập tài liệu để trình bầy lại toàn bộ vụ án của ông, dài mấy trăm trang. Không có Hồ Ngọc Nhuận, người ta sẽ không cách nào hiểu nội vụ, đầu đuôi câu chuyện vụ án Cimexcol như thế nào.

Lúc ấy, tôi cảm nhận được là Dương Văn Ba cần tuyệt đối im lặng đễ giữ được cái mạng sống của mình, gia đình mình – mạng chính trị thì kể như đã tiêu tan – để cho Hồ Ngọc Nhuận lên tiếng thay cho anh ta.

Sau đây, xin lần lượt khai triển lại những gì Dương Văn Ba viết trong Hồi Ký Những ngã rẽ, phần nào đúng, phần nào sai, phần nào cường điệu, phần nào nổ, phần nào che đấu, phần nào nói thật.

Dù thế nào đi nữa thì chúng tôi cũng từng học với Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Hữu Hiệp, Bành Ngọc Quý vv.., xuất thân từ cùng một ngôi trường, cùng học một thầy mà mỗi người đi theo những ngả khác nhau.

Phải chăng đó là cuộc đời, nhân sinh hệ lụy mà không một ai có thể biết trước được đời một người sẽ ra sao!

Dương Văn Ba và bạn bè thời sinh viên Triết Đà Lạt

Viện Đại học Đà Lạt

Trong Hồi ký của mình, Dương Văn Ba đã dành hẳn một chương nói về bạn bè thời còn đi học của mình. Phải nói Dương Văn Ba sống vì bạn bè, lúc nào cùng có bạn bè bao quanh, thứ bạn bè đàn đúm, có thể làm việc chung, có thể chửi thề, có thể nhậu nhẹt, ăn tục nói phét, có thể sống bạt mạng, ngay cả uống máu ăn thề, rồi nuốt lời thề như chơi.

Tôi nghĩ Dương Văn Ba có một thứ đạo lý hay một thứ triết lý sống được gọi là thứ đạo lý giang hồ, thấm đậm tình tự con người dân của vùng đất mới mà tổ tiên họ có thể là những kẻ lưu dân hoặc trôi sông lạc chợ hoặc Phản Thanh Phục Minh.

Dương Văn Ba gốc gác người Triều Châu ở Cà Mâu mà tổ tiên đã trôi dạt từ bên Tàu sang ta lánh nạn.

Gốc gác ấy ở mặt triết lý sống như thế có thể là đẹp.

Vì thế, cuộc đời một người đôi khi có những dấu ấn định đoạt mang tính tiền định như một sắp xếp, một nếp gấp của tờ giấy và điều đó phải chăng có thể áp dụng trong trường hợp Dương Văn Ba? Trước sau gì nó cũng phải đi đến chỗ đó thôi.

Có thể, không bao giờ Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn nghĩ rằng có một ngày nào đó họ sẽ đóng một vai trò xã hội, chính trị trong một đất nước dưới sự cai trị của một đảng (duy nhất)? Và theo tôi, phải nhìn nhận, tuy họ đều là những người thông minh và có tài, lại trở thành nạn nhân của chế độ ấy.

Nguyễn Trọng Văn bị cấm cầm bút ngay từ những năm đầu sau 1975. Điều đó, theo sự hiểu biết của tôi, nó là mội nỗi đau, nỗi nhục không nói ra được, vì cá tính Nguyễn Trọng Văn mạnh lắm.

Trước 1975, Nguyễn Trọng Văn viết như một kẻ bứt phá, ngòi bút lý luận sắc gọn, ngay cả khi cần viết truyện khiêu dâm.

Nghĩa là trước 1975, người cầm bút như Nguyễn Trọng Văn có một sự thỏa mãn trọn vẹn cá tính qua ngòi bút không bị cương tỏa. Nhưng khác hẳn Dương văn Ba, Nguyễn Trọng Văn vẫn là mẫu người khó tính không có bạn bè, cô độc và cô đơn một mình. Ngoài chuyện viết lách ra, Văn khó có thể chơi với ai mà có chơi rồi cũng đến lúc rã đám.

Dương Văn Ba cũng là một mẫu người cá tính mạnh, tung hoành không chỉ trong phạm vi làm báo, ngang dọc trong phạm vi chính trị, kết bè kết đảng xem ra đời sống phóng khoáng và thoải mái hơn Nguyễn Trọng Văn.

Nhưng tiếc thay, khi bỏ làm báo, ông lao vào vào việc kinh doanh gỗ, cấu kết với nhiều thành phần, cuối cùng lãnh bản án án tù chung thân và kể từ đó sống vất vưởng vay nợ, quỵt nợ để sống qua ngày cũng không xong.

Tôi vẫn tự hỏi với cá tính của họ, học vấn của họ, khả năng của họ liệu có thể đưa họ tới một vị trí vững vàng trong một xã hội cộng sản không?

Câu trả lời là không. Hoàn toàn không.

Cá tính càng mạnh như một vật cứng trong cỗ máy nghiền thì càng chết mau. Guồng máy đảng sẽ nghiền nát họ như cám.

Nguyễn Trọng Văn rơi vào trường hợp đó.

Những phát biểu thẳng thừng như dao cắt của Nguyễn Trọng Văn trước đám đông cựu trí thức miền Nam và lãnh đạo Đảng trong các buổi họp. Nhiều người nghe thấy lạnh gáy, sợ thay cho Nguyễn Trọng Văn!

Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người dễ tính nhất cũng không chịu nổi Nguyễn Trọng Văn.

Biện pháp nhẹ nhất là cấm cầm bút. Nhưng phần Dương Văn Ba khôn khéo hơn nhiều rồi cũng chết.

Tôi vẫn còn giữ cái cảm thức về một Nguyễn Trọng Văn có vẻ vênh váo, hãnh tiến, cái vinh dự hão huyền vì còn được ngồi lại ở Đại Học Văn Khoa. Cũng như tôi vẫn còn giữ cái kỷ niệm trong khi tôi gò lưng dạp xe đạp vào một buổi trưa trên đường Bùi Thị Xuân, gần trường Nguyễn Bá Tòng, nghe tiếng gọi giật của Dương Văn Ba. Ông đang lái một chiếc xe Land Rover, mầu trắng, vẻ tự hào!

Sự cách biệt giữa chiếc xe đạp và chiếc xe Land Rover khác nhau xa quá.

Quả thực đã có hai thế giới giữa bạn bè? Sau này nghĩ lại thì khác, chúng tôi tất cả đều ngồi chung một nhà tù mà không biết.

Nhận xét đầu tiên có tính trổi bật đến như không chối cãi được là hầu như phần đông các sinh viên ấy đều thuộc một tầng lớp người có trí thông minh hơn người. Họ là những Nguyễn Đa, Vĩnh Đễ, khóa đàn anh, ngay từ thời còn sinh viên đã được anh em kính nể.

Nhưng có lẽ sự đánh giá họ trở nên chính xác hơn nếu ta dựa trên cái ta gọi là esprit de révolte, tinh thần phản kháng, theo Tây Phương. Khả năng ấy dấn xa hơn nữa trở thành thái độ ‘nổi loạn’, dấu hiệu của sự thông minh, trưởng thành?

Phần đông đám sinh viên ấy đều ít nhiều có sự phủ nhận như điều kiện ắt có và đủ để họ là họ.

Có nghĩa là họ khác người khác. Họ không bị lẫn vào đám đông.

Và nhiều khi người bàng quan nhìn vào họ như thể những hiện tượng không giống ai.

Mỗi người là một thế giới riêng -tôi là tôi và không là ai khác- tự tạo cho mình một nhân cách, một vóc dáng. Nói thẳng ra, họ tự coi như những đỉnh núi của đỉnh núi.

Có những ngọn núi như Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, Phùng Quyên. Cho đến bây giờ phong cách Huỳnh Phan Anh vẫn vậy, vẫn thấy ngông nghênh một mình, vẫn có phong cách nghệ sĩ khác người, những suy tư một mình một cõi. Ông viết nhiều, dịch vô số kể, nhưng tôi chưa hề đọc một tác phẩm nào của ông. Phần dịch thuật, tôi thầm nghĩ, đó có thể chỉ là món nợ trả áo cơm, bia rượu và thuốc lá sau 1975.

Hay dở, nó ngoài khả năng thẩm định của tôi!

Thứ hai phần đông đều là thứ ‘mọt sách’. Trong giao tiếp, họ gián tiếp cho biết điều đó. Dương Văn Ba trong Hồi ký Những Ngã rẽ đã cho thấy anh đọc đủ thứ ngay từ tiểu học. Nhưng không thiếu người khác cũng đã đọc Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh, đã đọc Tự Lực Văn Đoàn, đã đọc các nhà văn tiền chiến như Nam Cao, Trần Tiêu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. Đã say mê các nhà thơ như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên.

Nhưng đã ít người nói đến Sáng Tạo, đến Mai Thảo, v.v.

Và chưa kể, họ liệt kê, bầy hàng về sự hiểu biết của họ về các nhà văn, nhà tư tưởng Pháp, nhà văn Nga hay Mỹ.

Người được viện dẫn nhiều nhất có thể là J.P. Sartre. Không nói về Sartre thì như thể chưa là trí thức.

Phần Dương Văn Ba, 16 tuổi đã đỗ tú tài. Không biết có khai gian tuổi không?

Thứ ba, phần đông bọn họ có nếp sống ngoài khuôn khổ, khác người trong lối ăn mặc, lối suy nghĩ như thể mỗi người cố tạo cho mình một phong cách, một cái gì riêng độc đáo, cố biểu hiện một tư cách không giống ai, một cái gì ngoài quy củ. Như ngậm ống píp, để râu, quần áo bỏ ngoài quần cẩu thả, hút thuốc lá đến hai ngón tay ám khói, tối ngày ngồi cà phê.

Và xem ra họ tự hào về điếu ấy và sự trình diễn phái tính nam tính một cách công khai chẳng khác giới phụ nữ. Nếu phụ nữ phô bầy cái vẻ đẹp, nét dịu dàng.

Họ làm ngược lại! Họ phơi bày cái nam tính trong tính cách thô kệch của nó.

Họ cho thấy sự thô bạo trong ngôn ngữ, buông thả trong những lối nhận định và luôn luôn tỏ ra bất cần đời.

Và đặc biệt không hề biết ngượng.

Dương Văn Ba sống phô bầy một cá tính mạnh mẽ trong lối nói, lối suy nghĩ, trong thứ ngôn ngữ đôi khi sắc sảo, đôi khi đao búa, hạ đối phương bằng được ngay cả bằng sự nhạo báng, báng bổ cay độc, qua cách cười của ông.

Tiêu biểu cá tính ấy có thể tụ lại trong một vài mẫu hình tiêu biểu như Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn,

Họ chỉ một có một cái chung nếu gọi là cái chung. Đó là ‘thích’ triết học mà phần đông nghiêng về thái độ triết học tả phái, thái độ phủ nhận, hoặc thái độ hiện sinh vô thần hầu như trở thành một cái mốt.

Mốt sống hiện sinh! Là một thái độ sống phủ nhận tất cả.

Đối với họ, phủ nhận là thái độ tiến bộ, phủ nhận là đi tới, là khai phá, là tìm kiếm, là đi trên đường mà không phải là lối mòn, biết nói không trước nhiều sự kiện. Phủ nhận làm cho người đó lớn lên, nhân cách lớn lên. Ngay cả phủ nhận của phủ nhận. Phủ nhận điều mà ta phủ nhận và rơi vào hư vô.

Trên thực tế về mặt chính trị, họ phủ nhận và chống đối chiến tranh một cách gratuit! Họ là cực tả và việc theo cộng sản chỉ là bề mặt trái của sự cực tả.

May mắn thay là phần đông anh em sinh viên chúng tôi, đa số dù có là nạn nhân của chế độ cộng sản thì cuối cùng phần đông chúng tôi vẫn có một cuộc sống của người bình thường.

Sống bình thường đôi khi nghĩ lại mới thấy thực sự là khó và mới thực sự là có ý nghĩa của đời sống.

Bởi vì thế mới là sống thật. Những lo toan đời thường. Những bổn phận làm cha, làm chồng tưởng chừng dễ dàng lại là những mục đích ở đời, sống cho trọn kiếp người.

Lối sống kia mới thật là sống giả, sống vay mượn.

Phủ nhận trước hết và ngay cả tôn giáo mà đúng nghĩa ở đây là công giáo. Nơi một đại học được coi là công giáo. Phủ nhận thứ hai là các giá trị đạo đức, chính trị, xã hội đã được nhìn nhận.

Đi rốt ráo hơn là sự phủ nhận chính mình và rơi vào những suy tư siêu hình, trừu tượng, ảo tưởng như trường hợp Huỳnh Phan Anh, một người bạn thân thiết của Dương Văn Ba khi ngồi ở ghế đại học. Tôi nhớ không lầm thì Huỳnh Phan Anh khi viết cuốn Văn Chương và kinh nghiệm hư vô? Tôi tự hỏi mình kinh nghiệm hư vô là thứ kinh nghiệm gì?

Một vài dòng tóm tắt trên để thế hệ sau nảy hiểu được nếp sống của một số bạn bè chúng tôi trong môi trường đại học miền Nam. Lối sống ấy đã làm nền cho việc tìm hiểu cuộc đời Dương Văn Ba sau này đi vào những ngã rẽ.

Những ngã rẽ mà nhiều người trong chúng tôi tránh được trong khi Dương Văn Ba không tránh được. Dương Văn Ba không tránh được vì máu phiêu lưu mạo hiểm, máu liều, tính bạt mạng đã dẫn đường đến việc dấn thân vào chính trị thiên tả và cuối cùng theo cộng sản!

Theo tôi, thái độ cực tả là con đường ngắn nhất để đi tới chủ nghĩa cộng sản.

Cùng học một trường, cùng chịu ảnh hưởng một nền giáo dục lành mạnh, được giảng dạy bởi phần đông các vị giáo sư đủ quốc tịch, người ngoại quốc, mà đặc điểm của họ là sự hiểu biết thông thái, thái độ trí thức cởi mở, chấp nhận đối thoại, tinh thần khoan nhượng và khiêm tốn.

Họ diễn giảng như một mời gọi mà không có tính cách áp đặt hoặc tham vọng giảng đạo.

Nhưng quyết định chọn lựa một thái độ sống, thái độ hành động lại tùy thuộc vào mỗi người.

Điều này cũng đã được Nguyễn Trọng Văn kể lại khi anh ta dự kỳ thi nhập học ban Triết. Đề thi triết nhập học năm chúng tôi dự thi có nhan đề: Triết học là một thái độ luôn luôn đi trên đường (en route). Và vì thế, những câu hỏi thường quan trọng hơn những câu trả lời. Anh nghĩ gi về tư tưởng trên? Không biết Nguyễn Trọng Văn viết cái gì, chỉ biết bài viết của Nguyễn Trọng Văn có nhiều điều ‘chệch hướng’, đi ngược với hướng chung của phần lớn các triết gia hiện sinh. Người chấm bài của Nguyễn Trọng Văn là giáo sư André Gaultier, dạy môn triết sử. Mặc dù nếu cứ theo thường tình, ông có thể đánh rớt Nguyễn Trọng Văn, nhưng đã chấm đậu và cho Nguyễn Trọng Văn đậu cao. Sau này, giáo sư André Gaultier đã cho Nguyễn Trọng Văn biết điều đó. Dĩ nhiên là Nguyễn Trọng Văn cảm phục và nhớ ơn thầy.

Chính việc giới thiệu này có thể là nguyên cớ mở đường cho Hồ Ngọc Nhuận và một số người khác lăn vào chính trị sau này. (Mặc dầu Hồ Ngọc Nhuận không phải công giáo nhưng lại chơi và quen biết nhiều giới công giáo vì học trường Taberd).

Trước hết, hãy cứ viết lại những nhận định của ông:

Nhiều người đã nổi loạn và có lẽ đã may mắn gặp con đường đi làm cách mạng theo kiểu cộng sản. Trong giới sinh viên đại học Đà Lạt thời đó, không thiếu những chàng trai âm thầm đi theo tiếng gọi của cộng sản. Võ Văn Điểm, Nguyễn Trọng Văn, sau nữa Cao Thị Quế Hương… là thể hiện tích cực của những tình cảm nổi loạn, bức phá”.

Đại đa số đi theo chiều ngược lại. Hiện sinh, vô thần, không chấp nhận khuôn thước, rào cản, luôn đi tìm cái mới. Trong số những người này có Huỳnh Phan Anh, Huỳnh Đạt Bửu, Võ Văn Bé, Tô Văn Lai, Huỳnh Quan Trọng và nhiều thanh niên khác đứng giữa dòng cộng sản và tôn giáo.

Chúng tôi đi không bến bờ
Trước mặt là dòng sông, sau lưng là nghĩa địa
(Thơ Tô Thùy Yên, nhóm Sáng Tạo)

Não trạng sống của trí thức Sài Gòn, trí thức miền Nam lúc bấy giờ tương tự như thế. Còn ngày mai sẽ ra sao? Đó là những bến bờ không định trước được của lịch sử. Tôi và nhiều bạn bè đã rời ghế trường Đại Học trong hoàn cảnh suy tư đó. Chúng tôi đã bị xô đây và vùi dập bởi nhiều cơn sóng lớn nhỏ của lịch sử kể từ 1965 về sau này.”(7)

Theo tôi, từng là bạn cùng lớp với những bạn bè vừa kể trên, tôi cho phần nhận xét của Dương Văn Ba có tính cách tô hồng quá khứ tuổi trẻ, mặc cho nó một cái áo khoác quá rộng với một ngôn ngữ cường điệu, một thói quen của Dương Văn Ba!

Cuộc sống thực của chúng tôi hồi đó như thế nào? Chắc chắn không phải như Dương Văn Ba mô tả.

Số người cực tả là hiếm hoi lắm. Số người theo cộng sản đếm chưa đủ mười ngón. Đa số chúng tôi là những thày giáo dạy Triết, sống bình thường và thanh bạch.

Lớp chúng tôi là khóa 4, Đại học Sư phạm Triết Sài Gòn được lên học nhờ Đà Lạt.

Về vật chất với học bổng 1500 đồng/tháng. Bảo rằng thiếu vẫn là thiếu. Bảo rằng thừa vẫn là thừa. Tiền trọ 200 đồng, tiền ăn hai bữa, mỗi bữa 5 đồng. Nói chung ăn ở mất 500 đồng còn lại để chi tiêu. Ăn sáng tự liệu, mua bánh mì kẹp đường, uống sữa bột của viện trợ Mỹ.

Một cái bánh mì nóng hổi, hai đồng, mà tôi và Trương Đình Tấn, Nguyễn Văn Vũ thường ăn thêm, kẹp thêm mỡ shortening và đường trắng vào buổi tối. So sánh với giá một chiếc xe Solex là 3000 đồng một chiếc thì quả số tiền 1500 là một gia tài.

Phải nhìn nhận so với người lính VNCH, chúng tôi quá được ưu đãi. Chế độ Ngô Đình Diệm lo cho chúng tôi được ăn học, có tiền trợ cấp đầy đủ hơn cả lương một người lính.

Một người sinh viên hiểu biết nghĩ được tới cái chung phải biết điều đó mà bổn phận chính yếu của họ là lo chăm học sau ra giúp giới trẻ miền Nam được học hành tử tế. Tôi nhìn nhận rằng hơn 100 giáo sư Triết ấy đã tỏa ra khắp bốn vùng chiến thuật và dạy cho học sinh một giai đoạn vỡ lòng về triết học!

Những đóng góp nhỏ ấy có thể không được ai nhìn nhận, nhưng nó lại làm ra miền Nam là miền Nam và sau này cho thấy vốn văn hóa là cái vốn lớn nhất làm cho một dân tộc mạnh hay yếu!

Những trò khuấy động chính trị thật ra chỉ là nhất thời thôi.

Nhưng những người như Dương Văn Ba đã không nghĩ được như thế. Họ cũng như nhóm sinh viên phản chiến du học ở hải ngoại, nhận học bổng của chính phủ mà phản bội lại miền Nam. Dưới mắt tôi thì bọn những người như Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức thiếu hắn một tấm lòng đối với miền Nam.

Từ con người đến cuộc sống của họ đáng được nói lại ở đây. Họ đã làm gì cho miền Nam ngoài sự phá rối!

Trường hợp Nguyễn Trọng Văn thì tôi chơi khá thân với anh ta thời sinh viên; theo trí nhớ của tôi, Nguyễn Trọng Văn bàn cãi nhiều vấn đề triết lý với tôi, nhưng tên tuổi K. Marx là không thấy nhắc tới. Sau này, tôi đến nhà Nguyễn Trọng Văn tại khu Nguyễn Tri Phương, vào khoảng 1970 trở đi, Nguyễn Trọng Văn cho biết, anh được học trò ở Vĩnh Long móc nối và dọa rằng, “Nu thầy không theo MTGPMN thì việc đi đường từ Vĩnh Long-Saigon có thể gặp nguy hiểm.”

Sau này, sự móc nối chặt chẽ hơn với MTGPMN thế nào thì tôi không biết.

Nhưng khi Nguyễn Trọng Văn cho in bài nói chuyện tại trường Đại Học Văn khoa Saigon ngày 6-6-1971, sau đó cho in thành sách.(10) Cuốn sách có nhan đề: Phạm Duy đã chết thế nào. Tôi đọc xong cuốn sách, nhưng vẫn chưa nhận ra được con người thật Nguyễn Trọng Văn. Tôi vẫn cho là anh ta quá hăng say chỉ trích và bất mãn. Cũng như Nguyễn Trọng Văn khi cộng tác viết bài trên tờ Đất Nước do Nguyễn Văn Trung làm chủ nhiệm.,Trong một số Đất Nước, Nguyễn Trọng Văn viết bài: Hoàn cảnh những người cầm bút trước và sau 1963.(11)

Tôi vẫn cho rằng do ảnh hưởng lôi kéo của Nguyễn Văn Trung mà Nguyễn Trọng Văn viết như thế. Cũng trong số đó có bài thơ của nguyên Sa: Giã từ khóa đàn anh. Sự không nghi ngờ ấy cũng được hiểu tương tự như trường hợp anh Nguyễn Tử Lộc, một thày giáo dạy Triết khác lý tưởng, đầy lòng nhân ái, hòa nhã, đạo đức cũng có viết một bài khá danh thép: Vấn đề dân tộc đặt cho người công giáo.

Phải nhìn nhận rằng, ở cái thời kỳ đó, không dễ gì đánh giá ai là thiên tả, ai theo cộng sản, ai là quốc gia?

Chỉ sau này, tôi mới thực sự nghĩ rằng việc Nguyễn Trọng Văn phê bình Phạm Duy có sự điều động ngấm ngầm của cộng sản.

Phần tôi còn nhớ những kỷ niệm đẹp đời sinh viên nghèo. Những kỷ niệm rất tình người, rất bình thường của những con người bình thường.

Vào mùa hè, số tiền 1500 tiền học bổng không phải đụng đến, tôi mang xuống cho anh chị cả của tôi. nhà đông con, lương trung sỉ Bảo An Đoàn. Phải chăng đó cũng là cách nổi loạn của tôi?

Thật ra, những điều suy nghĩ của Dương Văn Ba chỉ là những suy nghĩ thuần túy sách vở, ngoài luồng và chỉ là sự nhái lại cái không khí thời thượng của thời thập niên 1945 bên Pháp?

Tôi thú thật nhiều khi ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi chán thứ chủ nghĩa hiện sinh đã mối mọt.

Tôi thích tìm về các tư tưởng đạo học trong triết học Đông Phương như của Lão Tử.

Việc học Triết nhiều khi là một công việc lao dịch, khổ sở, vất vả, kiên trì và tốn kém thời giờ. Không dễ dàng gì để hiểu hết. Nào những Apologie de Socrate trước tòa (biện luận của Socrate trước tòa án), Nào học thuyết lý tưởng của Platon, rồi sau đó tiếp đến các hệ thống của Descartes, rồi Kant và Hégel. Tiếp đến triết học kinh viện với thánh Thomas.

Học là để quên.

Ngay cả triết học Hiện Đại với Martin Heidegger đầy thi ca và thi vị mà tôi thích thú một thời rồi cũng trở thành những tư tưởng cứng đọng.

Triết học không phải là môn học mà không phải bất cứ ai cũng có thể bước vào ngưỡng cửa của ngôi trường Platon.

Triết học dạy tại trường Đại học Đà Lạt là có mục đích để đào tạo một số thầy giáo có thể chuyển tải một số kiến thức cơ bản về Triết như một thứ nhập môn triết học cho học sinh chứ không phải để đào tạo những triết gia hay nhà tư tưởng.

Những cao vọng và ước mơ của một số sinh viên ngay từ khi bước vào đại học đã tự cho mình một cái vai trò mà thực sự họ không xứng tầm! Nếu sau này họ có thể tiếp tục con đường ấy thì thật sự họ vẫn có đủ cơ hội để đi tiếp con đường mà đại học Đà Lạt chỉ là viên gạch lót đường.

Ngã rẽ thứ nhất của Dương Văn Ba: gia nhập nhóm Liên Trường

Câu hỏi đặt ra là có thể nào suốt đời Dương Văn Ba sẽ cặm cụi làm một thày giáo Triết không ? Câu trả lời của tôi nghĩ là không. Với cá tính con người ấy, với tham vọng và sự thông minh ấy, nó sẽ vùng dạy khi thời cơ đến. Đúng vậy, trong chương 5: Làm chính trị vào Quốc Hội. Dương Văn Ba đã viết:

“Chúng ta ngụp lặn trong dòng chảy cuộc sống không phải như cánh bèo. ‘Bèo dạt hoa trôi’. Mỗi người như con cá trong dại dương. Cá kình hay cá chép là do trong cọ xát của dòng chảy, mỗi người đã vận động như thế nào, đến mức nào, với những ai.

Dòng chảy trong cuộc đời thầy giáo của tôi sớm gặp nhiều khúc quanh.”(12)

Lý Chánh Trung là người gốc gác ở miền Nam nên đã cùng với Võ Long Triều tổ chức một buổi họp mặt vào năm 1965. Trong buổi họp mặt này dĩ nhiên là những quan hệ quen biết đều là cánh miền Nam cả. Từ một khởi đầu mang tính dịa phương, tính miền và tham vọng đóng góp vào sự phát triển và thăng tiến cho miền Nam. Và một lúc nào đó, nó biến thành mộ tham vọng và một lực lượng chính trị.

Trong số những người có mặt hôm ấy có ba anh em giáo sư là: Trần Bá Phẩm, Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba. Thật ra còn có cả Bành Ngọc Quý (Triết khóa 3), giáo sư Nguyễn Văn Trường, giáo sư Lê Thanh Liêm, Cao Thắng, kỹ sư Lê Văn Danh, đại học Bách Khoa và ký giả thể thao Lý Quý Chung.

Sau này Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Bành Ngọc Quý. Cả bốn người sau đó đều tham gia sinh hoạt chính trị khởi đầu bằng cách ra một tờ báo ở Mỹ Tho với sự tham dự của một số giáo sư như Lê Thanh Liêm, Phan Công Minh, Trần Bá Phẩm, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Văn Điểm. Báo Tiếng gọi miền Tây, theo Hồ Ngọc Nhuận sau đó phải tự đóng cửa vì những bài viết đặc sệt mùi kỳ thị Nam Bắc của bác sĩ Trần Văn Tải, chủ nhiệm báo. Nhưng theo Dương Văn Ba thì báo Tiếng Gọi Miền Tây xuất bản được 8 tháng với 30 số báo thì bị Nguyễn Cao Kỳ rút giấy phép. Cho đến nay thì tôi không có chút xíu tài liệu nào về tờ báo này.

Từ chỗ nghỉ làm báo, họ xoay ra làm chính trị.

Thứ chính trị khuynh đảo, một thứ chính trị thời thượng được nhiều người trân trọng. Họ đều nộp đơn ứng cử dân biểu Quốc Hội. Và cả bốn đều đắc cử do sự tài trợ tiền bạc của ông Võ Long Triều và bà vợ ông Triều là bà Tô Thị Viễn, học ở Anh Quốc về, hiệu trưởng trường London School.

Nhiều yếu tố đã giúp họ thành công trong việc đắc cử vào Hạ Nghị Viện như yếu tố miền, yếu tố tôn giáo, sự ủng hộ của phụ huynh học sinh và ngay cả sự ủng hộ ngầm của cộng sản. Tiền thì không có, nhưng đã có tổ chức cung ứng đầy đủ. Từ chỗ đó họ trở thành một lực lượng, một phong trào!

Tôi có nhận xét rất sát thực là một trong những câu ý nghĩa nhất, nó gói ghém trọn vẹn ý đồ của nhóm Liên Trường nằm trong câu phát biểu của Võ Long Triều như sau:

“Đã tới lúc anh em mình nên hợp tác lại làm một cái gì đó có lợi cho dân miền Nam. Không thể để cho nhóm Nguyễn Cao Kỳ muốn làm gì thì làm trên phần đất quê hương của chúng ta”(13).

Nguyễn Cao Kỳ đinh ninh là mua chuộc được phe cánh miền Nam, đặc biệt giới trí thức khoa bảng Nam Kỳ, qua trung gian Võ Long Triều để cân bằng lực lượng với Nguyễn văn Thiệu.

Lá bài của Nguyễn Cao Kỳ đã hoàn toàn thất bại nếu không nói là ông đã trở thành con cờ cho phái Liên Trường xoay sở ông. Câu phát biểu của Võ Long Triều, nếu đúng như ở trên, cho thấy ông Triều chơi lá bài hai mặt: Đi với Nguyễn Cao Kỳ để lợi dụng và đồng thời hạ bớt tay chân của Nguyễn Cao Kỳ.

Nhờ những sự vận động ấy, qua trung gian Võ Long Triều-Nguyễn Cao Kỳ. Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh thành lập đại học Cần Thơ và bổ nhiệm giáo sư Phạm Hoàng Hộ làm Viện Trưởng đầu tiên.

Đây là một điều đáng mừng và hãnh diện cho các tỉnh phía Nam. Cũng như sau này mở thêm cái đại học Cao Đài, Đại học Hòa Hảo mà phẩm chất giáo dục đáng nghi ngại, chỉ là sự vá víu vay mượn giáo sư ở Sài Gòn.

Nhưng đây cũng là một bước tiến thêm nữa về mặt ảnh hưởng chính trị cho Dương Văn Ba và Lâm Văn Bé theo cái kiểu rượu gọi thêm rượu, một công đôi ba việc. Sau này, ông Lâm Văn Bé trở thành Khu trưởng Khu giáo dục miền Tây kiêm nhiệm thêm chức Tổng Thư Ký Viện đại Học Cần Thơ. Cũng phải nói thêm là theo lời Dương Văn Ba, qua quen biết với bà chị của vợ ông Nguyễn Văn Thiệu là bà chị Năm Jacqueline nên Dương Văn Ba và Lâm Văn Bé thường ghé nhà bà Năm ăn nhậu. Và đến cuối tuần, Trung tướng, chủ tịch Ủy Ban lãnh đạo Quốc gia về thăm nhà bên vợ, đánh cách tê hoặc đánh xì phé với các anh em bạn rể, trong đó có cả Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba. Dương Văn Ba viết: Tôi thường đến chơi nên lần lần mặc nhiên được các bà chị của phu nhân trung tướng Thiệu xem như người thân.(14)

Có một nhận xét mà tôi thấy cần đưa ra ở đây là, ngoại trừ hồi ký của Dương văn Ba, trong các Hồi Ký Võ Long Triều cũng như trong cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận, Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung, nhất là Lý Chánh Trung, tôi không thấy họ nhắc đến hai chữ Liên Trường. Không hề đả động đến các buổi họp mặt, các sinh hoạt ra báo, các vận động của Liên Trường, v.v. Xem ra đó là trò ném đá dấu tay.

Người húy kỵ và né tránh vấn đề này nhất lại chính là Lý Chánh Trung. Nó không có một chữ nào trong các bài viết của ông. Nhưng người phát động phong trào ấy cũng chính lại là ông.

Họ có nói tới một số vấn đề vận động Viện Đại Học Cần Thơ. Nhưng như không nhắc tới Nhóm Liên Trường. Lý Chánh Trung cũng vậy mà tất cả những thành viên khác như Lâm Phi Điểu, Lâm Văn Bé, cũng như Bành Ngọc Qúy, Lê Thanh Liêm đều tránh né, im lặng, v.v.

Nếu Dương Văn Ba không bộc lộ rõ ra trong Hồi Ký, chắc câu chuyện Liên Trường sẽ không được ai biết tới nữa!

Xem tiếp phần 2, 3


 

Tàu cá Việt Nam bị Trung Quốc tấn công ở Biển Đông, 10 ngư dân bị thương

Ba’o Dat Viet

October 1, 2024

Vào ngày 29/9, một tàu cá Việt Nam đã bị tấn công khi đang hoạt động tại vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa, khu vực tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sự việc khiến 10 ngư dân trên tàu bị thương, trong đó có ba người bị gãy tay chân và bảy người khác gặp phải những chấn thương khác, theo thông tin từ tờ Tiền Phong và các viên chức địa phương ở xã Bình Châu, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện tại, vẫn chưa rõ tàu nào đã tấn công tàu cá Việt Nam, và lực lượng biên phòng Việt Nam đang tiến hành điều tra vụ việc.

Quần đảo Hoàng Sa, nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 km và cách tỉnh Hải Nam của Trung Quốc khoảng cùng khoảng cách, là điểm nóng tranh chấp chủ quyền giữa hai nước. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này, khiến khu vực thường xuyên xảy ra các xung đột và va chạm trên biển, đặc biệt giữa các tàu cá Việt Nam và các tàu tuần tra của Trung Quốc.

Biển Đông, nơi Hoàng Sa tọa lạc, có vị trí chiến lược quan trọng với nhiều tuyến đường thủy thương mại quan trọng, ước tính khoảng 5 nghìn tỷ USD hàng hóa toàn cầu đi qua hàng năm. Đây cũng là vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên, với trữ lượng khí đốt và dầu mỏ khổng lồ. Trung Quốc, với yêu sách chủ quyền bao trùm hầu hết khu vực này, đã liên tục tăng cường các hoạt động kiểm soát, trong đó có việc xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự trên các đảo tranh chấp.

Trong khi đó, Hoa Kỳ không có yêu sách chủ quyền tại Biển Đông nhưng thường xuyên tiến hành các cuộc tuần tra tự do hàng hải, thách thức yêu sách chủ quyền “quá mức” của Trung Quốc. Năm ngoái, Mỹ đã điều tàu khu trục đi qua khu vực Hoàng Sa, khiến Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ, đe dọa sẽ có “hậu quả nghiêm trọng”.

Sự kiện tàu cá Việt Nam bị tấn công lần này chỉ là một trong nhiều sự cố đã xảy ra tại khu vực tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc đã kiểm soát thực tế quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974, sau khi chiếm quần đảo này từ tay Việt Nam Cộng hòa trong một trận hải chiến ngắn. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã không ngừng xây dựng các công trình quân sự tại đây, bao gồm đường băng, bến cảng và các cơ sở radar, dù Bắc Kinh luôn khẳng định rằng mục đích của họ chỉ nhằm đảm bảo an toàn hàng hải.

Vụ tấn công mới này càng làm tăng thêm căng thẳng giữa các quốc gia tranh chấp ở Biển Đông, đồng thời khiến tình hình an ninh hàng hải tại khu vực này trở nên phức tạp hơn. Kết quả điều tra của Việt Nam về vụ việc có thể sẽ làm rõ thêm về tác nhân và bối cảnh dẫn đến cuộc tấn công này.


 

Người Việt vô địch về cúng tổ tiên xây mộ tiền tỷ

Người Việt vô địch về cúng tổ tiên xây mộ tiền tỷ

Đối với Luke Digweed, một chàng trai từ thị trấn Andover, Anh quốc, tập tục cúng giỗ ở Việt Nam để lại cho anh nhiều ấn tượng thú vị.

Digweed hiện là sinh viên cao học tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London (LSE), đồng thời là cây viết về xã hội, nhân chủng và du lịch cho trang web Vietnam Coracle.

Anh đã sinh sống tại Việt Nam từ năm 2011 tới nay và sống ở Huế trong khoảng thời gian 2016 – 2022. Digweed sẽ quay về Anh vào tháng 9/2024.

Thừa Thiên-Huế là nơi có nhiều khu nghĩa trang hoành tráng, như tại làng An Bằng tại huyện Phú Vang, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 30 km – nơi thu hút du khách trong nước lẫn quốc tế bởi những ngôi mộ có họa tiết tinh xảo, cầu kỳ, được khảm sành sứ như các kiến trúc cung đình.

Nhiều người lần đầu đến đây cứ ngỡ như đang đi thăm khu lăng mộ dành cho vua chúa, chứ không hề nghĩ rằng đó chỉ là những nơi an nghỉ của thường dân.

Khu nghĩa trang này được mệnh danh là “thành phố ma” hay “thành phố của người chết”.

Theo Sở Du lịch Thừa Thiên-Huế, nhiều ngôi mộ tại đây có kinh phí xây dựng từ vài trăm triệu đến vài tỷ đồng. Năm 2013, VnExpress cho biết có những ngôi mộ tại khu nghĩa trang này được xây với kinh phí lên tới 10 tỷ đồng.

Để so sánh, giá chung cư TP HCM theo số liệu mà công ty bất động sản CBRE công bố vào tháng 7/2024 là 2.800 USD/m2, tức khoảng 71 triệu đồng.

Như vậy, với 10 tỷ VND, người dân có thể mua được hai căn hộ 70 m2 ở TP HCM hiện nay.

Hàng đầu khu vực

Trong báo cáo được xuất bản vào đầu tháng 7/2024 của Trung tâm Nghiên cứu Pew (Mỹ), Việt Nam đứng hàng đầu trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á ở các chỉ số liên quan đến việc thờ phượng ông bà, tổ tiên.

Khảo sát được Pew tiến hành trong năm 2022 và 2023.

Trong số những người được khảo sát, 85% người Nhật Bản và 84% người Việt Nam cho biết họ có khu mộ dành cho gia đình, dòng họ. Đây cũng là hai nước đứng đầu bảng xếp hạng này.

Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa hai quốc gia. Trong khi người Nhật vừa hỏa táng vừa chôn cất người đã khuất thì khảo sát cho thấy hầu hết người Việt Nam chọn cách chôn cất và chỉ số ít chọn phương pháp hỏa táng.

Phần lớn người được khảo sát trả lời chính họ hoặc các thành viên khác trong gia đình sẽ chăm lo những ngôi mộ này thay vì trả tiền cho bên nào khác.

Trong số các tập tục, nghi lễ thờ phượng tổ tiên ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, khảo sát của Pew cho thấy việc cúng đồ mã, những thứ mà người dân nghĩ ông bà mình sẽ dùng tới ở thế giới bên kia, ít được thực hiện nhất .

Tuy nhiên, điều này lại phổ biến ở Việt Nam và Đài Loan. Có tới 73% người Việt được khảo sát cho biết họ có đốt đồ vàng mã, đứng đầu bảng xếp hạng.

Không chỉ các loại vàng mã theo phong cách truyền thống như thỏi vàng, áo binh, nhiều gia đình Việt Nam đã chọn đốt những món đồ mã với thiết kế hiện đại như nhà lầu, xe hơi đời mới, các mẫu iPhone vừa trình làng.

Theo một số cách giải thích, người Việt có quan niệm “trần sao âm vậy”, nên nhiều người cúng đốt linh đình để người âm “không thiếu thốn” và phù hộ cho họ những điều họ mong muốn.

Nhiều trường hợp đặt làm đồ mã xe máy phân khối lớn và xe hơi với kích thước thật có giá lên tới hàng triệu đồng.

Bảo Trâm, một nhân viên văn phòng ở Quảng Bình: “Tôi cũng không rõ tập tục này bắt nguồn từ đâu. Xưa nay tôi thấy nhà mình làm như thế nào thì mình làm theo thế đấy. Tôi cũng có tâm lý muốn cho ông bà mình được hưởng ở thế giới bên kia và mong ông bà phù hộ để mình thành đạt.”

Trâm nói thêm mình vẫn mua các loại đồ mã phong cách truyền thống.

Giải thích về giá trị văn hóa của đồ mã, Tiến sĩ Trần Đình Hằng, Phân Viện Trưởng, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế, bình luận News Tiếng Việt vào tháng 8/2023: “Từ khát vọng tương sinh Trời – Đất, nhân loại đã có tín ngưỡng phồn thực để tiếp thu ánh mặt trời, với nghi lễ hiến sinh, nhờ chất xúc tác làm tối ưu hóa sự thông linh đó là máu quý giá từ Đồng loại (hài nhi, trinh nữ, tù binh), rồi Động vật (voi – trâu – dê – gà), đến Đồ vật (hàng mã).”

Theo ông, vàng mã mang tính biểu tượng, thể hiện qua hình ảnh trong bộ tranh cúng hoặc các vật phẩm thu nhỏ mô phỏng thế giới nhân sinh. Việc đốt vàng mã hay thả xuống nước tượng trưng cho phương thức “hóa” (đốt) và “thủy” (thả xuống nước) để người dương chia sẻ với người âm, thể hiện niềm tin rằng tấm lòng thành kính của họ đã được người âm tiếp nhận.

Tiến sĩ Trần Đình Hằng nói rằng từ thời Lê – Nguyễn, vàng mã đã được triều đình và dân gian công nhận, trở thành vật dụng quan trọng phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh. Ngành thủ công làm vàng mã cũng phát triển mạnh mẽ, hình thành nên những làng nghề truyền thống độc đáo như làng tranh cúng Sình (Lại Ân), làng hoa giấy Thanh Tiên (trang thờ Bà, Bếp), hay hàng mã Bao Vinh, An Cựu (Huế)…

Tùy theo nhu cầu của người sử dụng, tài năng và cảm xúc của người thợ, sản phẩm vàng mã được làm ra vô cùng đa dạng, từ đơn giản mộc mạc đến tinh tế cầu kỳ, mang giá trị nghệ thuật và tâm linh sâu sắc, theo tiến sĩ.

Theo khảo sát của Pew, những người theo Kitô giáo nhìn chung ít đốt vàng mã. Tuy nhiên, nhiều Kitô hữu Việt Nam đã đốt nhang, dâng hoa hoặc thắp nến để chăm sóc tổ tiên trong năm qua.

Quỳnh Giang, một cư dân ở quận 7, TP HCM, chia sẻ: “Trước kia tôi theo đạo Phật thì đốt vàng mã nhiều. Ngày giỗ, tôi còn đốt cho cha mình bộ com lê hàng mã. Nhưng từ khi cưới chồng và cải đạo sang Kitô giáo, vào ngày giỗ cha, tôi chỉ tới nhà thờ và cầu nguyện, sau đó về nhà, thắp nến và nhang, đặt một nhành hoa trước di ảnh cha là xong. Tôi cũng không bày mâm cúng hay mua trái cây gì cả.”

Ngoài việc xếp đầu trong số các nước, khu vực được Pew khảo sát về việc cúng đồ mã, Việt Nam còn đứng đầu trong việc đốt nhang; cúng đồ ăn thức uống; cúng hoa và thắp nến.

Những ngôi mộ hàng tỷ đồng

Người này yêu cầu giấu tên vì độ nhạy cảm của câu chuyện và kể: “Người dân An Bằng trước kia sống bằng nghề chài lưới. Sau khi chiến tranh kết thúc, đời sống trở thiếu thốn, nghèo đói, có lúc phải luộc xương rồng chấm muối để ăn. Lúc đó mùa đánh cá cũng liên tục thất bát và họ thì không có ruộng đồng để canh tác.

“Đến khoảng năm 1977, nhiều người chỉ còn hai lựa chọn: phải đi hoặc ở lại và chịu chết. Họ đã chọn cách vượt biên. Và như những thuyền nhân khác, nhiều người trong số họ đã bỏ mạng dưới đại dương.

“Đa số những người may mắn thì đến được Mỹ và Úc. Họ tiếp tục nghề đánh cá với các tàu nước ngoài và kiếm được nhiều tiền. Họ nghĩ mình sống sót và trúng mánh là phúc phận lớn, là nhờ có ông bà, tổ tiên phù hộ. Thế nên họ gửi tiền về quê nhà để xây lăng tẩm.”

“Dần dần cũng hình thành hiện tượng ‘con gà tức nhau tiếng gáy’ ở trong làng. Khi một gia đình xây một ngôi mộ hoành tráng, các nhà khác có xu hướng tân trang mộ ông bà mình để trông bề thế hơn, thậm chí có trường hợp đập đi xây mới hoàn toàn dù đã bỏ hàng trăm triệu đồng xây ngôi mộ trước đó.”

Người này cho biết dù lăng mộ của ông bà, tổ tiên tốn nhiều tiền là thế, những người dân ở đây vẫn sống trong các căn nhà bình thường, vừa đủ tiện nghi chứ không phải các biệt phủ xa hoa, lộng lẫy.

“Phần lớn người nhà của những lăng mộ này ở An Bằng không làm nghề gì cả. Họ được bà con bên nước ngoài gửi tiền về nuôi và chăm lo mộ phần tổ tiên.

“Có người đang còn sống nhưng đã xây trước lăng mộ cho mình. Cũng tốn vài tỷ đồng.”

“Khi so sánh nền văn hóa quê hương của tôi với cách nhìn về cái chết ở Việt Nam, tôi cảm thấy rằng Việt Nam dường như thể hiện một cách tốt hơn để tưởng nhớ và thương tiếc những người thân đã khuất,” Digweed cho biết.

From: Tu Phung

https://baomai.blogspot.com/2012/05/nghia-ia-giau-co-bac-nhat-vn.html

Trần Huỳnh Duy Thức-Tác Giả: Hồ Phú Bông

Ba’o Nguoi-Viet

Tác Giả: Hồ Phú Bông

26/09/2024

Trần Huỳnh Duy Thức ngày đầu từ nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn. Ảnh FB Chieu Anh Nguyen

Người bất đồng chính kiến với đảng cộng sản Việt Nam đều vui khi ông Trần Huỳnh Duy Thức bị đặc xá cưỡng bức trở về gia đình sau 15 năm 4 tháng trong ngục thất của bản án phi pháp 16 năm. Điều đáng nói là suốt trong thời gian tù ông Thức vẫn tranh đấu không ngừng vì ông hoàn toàn vô tội. Không những thế ông còn tranh đấu chống chế độ giam giữ khắc nghiệt đối với tù nhân. Vì thế hình ảnh tù nhân Trần Huỳnh Duy Thức cũng là hình ảnh tù nhân nổi tiếng Nelson Mandela của Nam Phi.

Trong LỜI CHÀO ĐẦU TIÊN gửi đến công luận, ông Thức kể:

Duy có một điều khá khôi hài mà tôi muốn kể ngay với quý bạn lúc này. Đó là việc tôi bị ĐẶC XÁ CƯỠNG BỨC, một chuyện có thể nói là vô tiền khoáng hậu ở đất nước này.

Ngày 19/9/2024, đại diện của Trại giam số 6, thừa lệnh Bộ Công an, thông báo với tôi rằng, Chủ tịch nước muốn đặc xá cho tôi trước thời hạn và yêu cầu tôi làm đơn xin đặc xá.

Tất nhiên, ngay lập tức tôi từ chối nhận đặc xá, và không ký vào đơn từ nào cả. Lý do là vì tôi phải được trả tự do theo đúng quy định mới của Bộ luật Hình sự hiện hành về hành vi mà tôi bị cáo buộc vi phạm, chứ tôi không cần ra tù nhờ sự đặc xá đó.

Vậy mà vào lúc 17g45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người của Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam đọc thông báo, rằng Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá số 940 ngày 20/9/2024 về việc “đặc xá” cho tôi. Vì vậy, tôi trở thành người tự do và không có quyền tiếp tục ở lại trại giam. Tôi phản ứng ngay rằng, tôi không có tội cũng như lý do gì để nhận đặc xá và sẽ không đi đâu cả.

Thế là họ cưỡng bức, khiêng tôi ra khỏi cổng nhà tù trước sự phản đối của các anh em tù chính trị ở đó, rồi đưa tôi lên xe ra sân bay Vinh. Cuối cùng tôi bị buộc phải lên máy bay trong chuyến muộn vào Sài Gòn.” (hết trích)

Đúng là chuyện khôi hài khi công an cho biết Chủ tịch nước đã ký quyết định đặc xá nên tù nhân Trần Huỳnh Duy Thức không có quyền tiếp tục ở lại nhà tù. Nói cách khác, bằng mọi giá họ phải trục xuất ông. Và họ dùng đến 20 công an cưỡng bức khiêng ông ra, áp tải đến tận sân bay Vinh!

Khi thời thế đổi thay mọi người sẽ có dịp được xem đoạn video clip lý thú ghi lại sự kiện này. Và từ điển tiếng Việt từ nay có thêm chữ “đặc xá cưỡng bức”.

Công luận xác nhận ông Trần Huỳnh Duy Thức là một nhân tài, không những về tri thức thời đại tin học mà còn về tầm nhìn chính trị ông viết trong Con Đường Việt Nam, nên ảnh hưởng của ông rất lớn với công luận. Chính vì thế ông Tô Lâm mới đặc xá ông và thêm bà Hoàng Thị Minh Hồng, người bảo vệ môi trường từng được Tổng thống Obama chụp hình chung, để tìm cách rửa bớt bộ mặt lem luốc của chế độ và của cá nhân ông khi còn giữ chức bộ trưởng công an, về Nhân quyền.

Nhưng chuyện ông Tô Lâm trực tiếp chỉ huy tổ chức bắt cóc quốc tế Trịnh Xuân Thanh tại Đức vẫn còn đó. Chuyện “công an vì nhân dân quên mình” mà ông há miệng đớp miếng thịt bò dát vàng khoảng 1200 USD của “Thánh rắc muối” Salt Bae ở nước Anh, vẫn đầy trên internet. Hóa đơn bữa tiệc đó giá 37.023 bảng Anh (49.000 USD)

Còn quốc nội thì có hơn trăm nghi can bị giết ngay tại đồn khi vừa bị bắt mà theo tường trình, người thì tự tử “vì ân hận”, người thì dùng lưỡi dao cắt giấy tự cắt cổ, người thì dùng dây điện thoại để bàn… Vụ nổi tiếng là dùng 3.000 công an giữa khuya tấn công vào xã Đồng Tâm, giết rồi mổ bụng đảng viên già Lê Đình Kình vì cụ quyết giữ đất đồng Sênh.

Với các phong trào tranh đấu như công nhân biểu tình, chống Formosa đầu độc môi trường, chống luật an ninh mạng và dự luật đất đai… đều ôn hòa vì đó là quyền sống, quyền tự do dân chủ nhưng bị công an đàn áp dã man. Người chết, người bị đánh đến tật nguyền như trường hợp nhà báo Phạm Đoan Trang và cụ thể đang có 160 tù nhân lương tâm.

Sơ lược về “thành quả” của bộ trưởng công an Tô Lâm như thế thì bộ mặt của tân đảng trưởng cộng sản Việt Nam và chủ tịch nước của ông liệu có sớm rửa sạch được hay không?

Nhưng, bản chất khôn vặt cộng sản, đặc xá ông Trần Huỳnh Duy Thức và cho bà Hoàng Thị Minh Hồng ra tù sớm cũng chỉ là món quà “miếng trầu đầu câu chuyện” khi ông gặp Tổng thống Biden bên lề Đại hội đồng Liên hiệp quốc ở New York.

Mọi người đều biết và hiểu sự kiện vì không phải mới xảy ra lần đầu.

Vấn đề là ông Trần Huỳnh Duy Thức ra tù và quyết tâm tiếp tục tranh đấu.

Công an hành hạ nhưng không dám ám hại ông trong tù. Trái lại, rất lo sợ ông chết vì bệnh. Vì nếu xảy ra thì chế độ có nguy cơ lớn. Nhưng khi đã ra tù thì mọi “tai biến” đều có thể. Con Đường Việt Nam mà trở thành đảng, thành phong trào lớn mạnh thì “tai biến” càng dễ xảy ra. Vì bản chất cộng sản là man trá, ám muội.

Như Nga, dù đang có chế độ tổng thống, nhưng Putin, từng là trùm KGB, vẫn tổ chức ám sát đối thủ chính trị gần như công khai. Không những thế, ám sát khi họ đã thoát ra nước ngoài.

Tại Việt Nam thì những cái chết bí ẩn tầm cỡ như Chủ tịch nước Trần Đại Quang từng là bộ trưởng công an, Phạm Quý Ngọ, Thượng tướng công an, Nguyễn Bá Thanh mới nhận chức Trưởng ban nội chính, đặc biệt là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, một tên tuổi nguy hiểm về gián điệp cung đình… Tất cả họ đều chết vì “bệnh hiểm nghèo” mà y học bó tay! Tại sao? Và do bàn tay của ai?

Rất khó xác định nhưng phải nằm trong ba nhóm: Đặc tình Tàu cộng, phe Công an và phe Quân đội. Tùy từng trường hợp họ phải thanh toán nhau để bảo vệ quyền và lợi ích riêng của phe mình. Riêng bọn đặc tình Tàu cộng thì chắc chắn đang có mặt ở mọi cấp, mọi nơi để kiềm giữ Việt Nam không thể thoát khỏi lá bùa “4 tốt và 16 chữ” (vàng!) của Bắc Kinh.

Những nhân vật tầm cỡ của chế độ được bảo vệ an ninh tối đa mà vướng “bệnh” như thế thì liệu ai có thể bảo vệ ông Trần Huỳnh Duy Thức và mấy người cùng nhóm?

Ông Nelson Mandela, sau khi ra tù, dù gì cũng được pháp luật dân chủ bảo vệ nên trở thành tổng thống. Còn ông Trần Huỳnh Duy Thức, dù chỉ mong Việt Nam sớm thoát khỏi đại nạn độc tài cộng sản để dân tộc sớm theo kịp đà văn minh của nhân loại, liệu có thoát được ba nhóm đặc tình chỉ vì quyền và lợi ích riêng của chúng?

Xin chấp tay cầu nguyện. Vì sự thật không ai có thể bảo vệ được ông Trần Huỳnh Duy Thức giữa hỗn mang chính trị hiện tại ở Việt Nam.

(25/9/2024)


 

Việt Nam tuyên án 8 năm tù đối với người kêu gọi từ bỏ học thuyết Marx-Lenin

Ba’o Dat Viet

September 27, 2024

Một tòa án ở tỉnh Lâm Đồng vừa tuyên án 8 năm tù đối với một người đàn ông bị khép vào tội “tuyên truyền chống nhà nước”, do ông ấy đăng bài trên Facebook kêu gọi chính quyền Việt Nam từ bỏ học thuyết Marx-Lenin mà đảng cộng sản cầm quyền theo đuổi hơn 90 năm qua.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm 24/9, hội đồng xét xử tuyên phạt án tù trên đối với ông Hoàng Việt Khánh, 41 tuổi, cáo buộc ông tạo, đăng 126 bài viết và một video clip trên Facebook chỉ trích các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước về chính trị, kinh tế và xã hội, các báo mạng nhà nước đưa tin.

“Ông cũng xuyên tạc lịch sử dân tộc, phỉ báng và lăng mạ các nhà lãnh đạo, vu khống các quan chức cấp cao của Đảng, cũng như phát tán thông tin sai sự thật”, báo chí trong nước dẫn cáo trạng tường thuật.

Với tài khoản trên Facebook mang tên Hoàng Dũng, từ tháng 6/2018 đến tháng 9/2023, ông Khánh bị cho là đã “tham gia các hội nhóm kín, kêu gọi từ bỏ học thuyết Marx-Lenin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, trang ANTV của Bộ Công an đưa tin.

Tài khoản Facebook của ông Khánh, người bị bắt hồi 2/2024, thu hút hơn 45.000 người đăng ký và theo dõi, cáo trạng cho biết.

Chủ nghĩa Marx-Lenin được Liên Xô áp dụng để diễn dịch và xây dựng chủ nghĩa xã hội từ đầu những năm 1920, tiếp đến được thực thi ở các nước Đông Âu và sau đó lan sang các nước như Cuba, Venezuela, Trung Quốc, Triều Tiên, và Việt Nam.

Dù học thuyết này bị một số quốc gia phương tây chỉ trích là mô hình để các nhà lãnh đạo cộng sản thể hiện tính độc tài, chuyên quyền, và toàn trị, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn theo đuổi nó từ lúc thành lập vào năm 1930 đến nay.

Chính quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản cai trị thường bác bỏ các cáo buộc vi phạm nhân quyền và không dung thứ những tiếng nói chỉ trích đảng cầm quyền hay các nhà lãnh đạo của đảng.

Hồi đầu tháng này, một tòa án ở Hà Nội tuyên phạt ông Hoàng Tùng Thiện 6 năm tù sau khi ông lập các trang web bị xem là nhằm “tuyên truyền đa nguyên, đa đảng” và có ý định sáng lập đảng Lạc Hồng để cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cũng như ông Khánh, ông Thiện bị án tù với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Hình sự 2015.

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế, các quốc gia phương tây và cả các báo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc nhiều lần khuyến nghị chính quyền Việt Nam bãi bỏ điều luật này, cùng với các điều luật khác của Việt Nam về an ninh quốc gia, cho rằng chúng được sử dụng rộng rãi để hạn chế quyền tự do ngôn luận của người dân.

Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam bác bỏ khuyến nghị này, biện hộ rằng chúng được xây dựng “hoàn toàn hợp hiến” và phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền.

(Theo VOA)


 

Tô Lâm trong vòng vây các phe phái đòi chia sẻ quyền lực- Bình Thiên/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

September 25, 2024

Bình Thiên/SGN

Bước vào hội nghị Trung Ương 10, Tổng Bí Thư Tô Lâm đang đứng trước một thử thách lớn: duy trì sự ổn định và kiểm soát quyền lực trong bối cảnh các phe phái đối thủ đang tìm cách củng cố ảnh hưởng. Kết quả của cuộc đấu tranh quyền lực này sẽ quyết định tương lai chính trị của ông Tô Lâm và định hình cục diện chính trị Việt Nam trong những năm tới.

Tháng Chín năm nay mang theo hai sự kiện quan trọng có ý nghĩa đặc biệt đối với chính trường Việt Nam: hội nghị Trung Ương 10 và chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí Thư, kiêm Chủ Tịch Nước Tô Lâm. Trước đó, ông Tô Lâm đã tập trung quyền lực đáng kể khi nắm giữ cả hai chức vụ quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước sau hội nghị Trung Ương 9 thông qua các phiên họp bất thường.

Với việc ông Tô Lâm sẽ phải thôi kiêm nhiệm chức vụ chủ tịch nước, hội nghị Trung Ương lần này có nhiệm vụ quan trọng là quyết định các vấn đề nhân sự cấp cao, trong đó có việc lựa chọn người kế nhiệm tại vị trí này. Động thái này được cho là nhằm tạo sự đồng thuận và thống nhất trong Đảng trước chuyến thăm Mỹ quan trọng của ông Tô Lâm, nơi ông sẽ tham dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và có thể có các cuộc gặp gỡ cấp cao khác.

Kết thúc hội nghị Trung Ương 10, dự kiến cuộc chiến giành quyền lực sẽ tiếp diễn, tạo nên vòng xoáy tranh giành quyền lực vốn đã trở thành đặc điểm của chính trường Việt Nam. Việc ông Tô Lâm nắm giữ vị trí tổng bí thư, cùng với sự thăng tiến của phe Hưng Yên, đã tạo nên những xáo trộn trong cán cân quyền lực. Sự trỗi dậy của phe Hưng Yên, với 2 ủy viên Bộ Chính Trị là ông Tô Lâm và Thượng Tướng Lương Tam Quang, đều xuất thân từ lực lượng Công an, đang là mối quan ngại của các phe phái khác.

Các phe phái chịu thiệt hại sau các kỳ đại hội, đặc biệt là phe Nghệ An và Hà Tĩnh, đang tìm kiếm cơ hội để lấy lại vị thế. Tuy nhiên, việc đối đầu với phe Hưng Yên, do ông Tô Lâm lãnh đạo, là một thách thức lớn. Ông Tô Lâm không chỉ nắm giữ chức vụ cao nhất trong Đảng mà còn kiểm soát chặt chẽ lực lượng Công An, cùng với sự hỗ trợ từ Bộ Trưởng Lương Tam Quang.

Hiện tại, ít nhất ba thế lực đang chờ thời cơ để phản công phe Hưng Yên bao gồm phe Nghệ An, Hà Tĩnh và phe Thanh Hóa của Thủ Tướng Phạm Minh Chính. Bên cạnh đó, quân đội, dù đang phân tán quyền lực với mâu thuẫn âm ỉ giữa phe Tổng Cục Chính Trị do Thượng Tướng Lương Cường đứng đầu và phe Tổng Tham Mưu Trưởng do Đại Tướng Phan Văn Giang lãnh đạo nhưng vẫn là một đối trọng tiềm tàng. Sự chia rẽ nội bộ này khiến quân đội khó có thể hình thành một mặt trận thống nhất để chống lại sự bành trướng quyền lực của ông Tô Lâm và phe Hưng Yên, đồng thời cản trở khả năng trở thành một lực lượng chính trị đủ mạnh. Việc quân đội thất thế trước công an trong thời gian qua một phần cũng xuất phát từ sự thiếu đoàn kết này.

Việc ông Tô Lâm phải nhường lại chức vụ chủ tịch nước cho phe quân đội được coi là một thắng lợi bước đầu của lực lượng này trong cuộc cạnh tranh quyền lực nội bộ. Tuy nhiên, để thực sự trở thành một thế lực chính trị đủ tầm ảnh hưởng, quân đội cần phải vượt qua nhiều thách thức, trước hết là vấn đề thống nhất nội bộ.

Sự liên kết chặt chẽ giữa các tướng lĩnh trong Bộ Chính Trị với bộ trưởng Bộ Quốc Phòng là yếu tố then chốt để tạo nên một khối quyền lực đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh với phe Hưng Yên – nhóm đang nắm giữ lực lượng Công An hùng hậu. Nếu không thể đoàn kết nội bộ, phe quân đội sẽ khó có thể duy trì được ưu thế vừa giành được.

Bên cạnh đó, tham vọng thanh trừng phe Nghệ Tĩnh, nhằm thay thế toàn bộ hệ thống nhân sự do cố Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng để lại, cũng đang gặp trở ngại. Các nhân vật cốt cán như Trần Cẩm Tú, Phan Đình Trạc, Trần Hồng Hà vẫn giữ vững vị trí của mình. Điều này phản ánh rõ nét tình thế hạn chế quyền lực của Tổng Bí Thư Tô Lâm trong việc củng cố quyền lực.

Đối thủ tiềm tàng của ông Tô Lâm không chỉ giới hạn trong nội bộ Bộ Công An, mà còn trải rộng khắp các lĩnh vực. Từ Bộ Quốc Phòng, nơi có những tướng lĩnh có thể dè chừng trước sự lớn mạnh của lực lượng Công An và ảnh hưởng ngày càng tăng của ông Tô Lâm trong hệ thống chính trị, đến Ban Bí Thư, nơi một số ủy viên có thể lo ngại về sự tập trung quyền lực vào tay ông Tô Lâm, Chính Phủ với các thành viên có thể thuộc các phe phái chính trị khác, và ngay cả trong lòng Bộ Công An, nơi tồn tại các nhóm lợi ích và phe cánh cạnh tranh nhau.

Ông Tô Lâm đang phải đối mặt với một bài toán khó: làm thế nào để kiểm soát và xử lý những đối thủ tiềm tàng, cả trong và ngoài Bộ Công An? Mặc dù ông sở hữu kinh nghiệm chính trị dày dạn và đang kiểm soát chặt chẽ bộ máy, nhưng việc duy trì sự cân bằng quyền lực và vô hiệu hóa ảnh hưởng của các phe phái đối thủ không phải là điều dễ dàng. Đặc biệt, việc xử lý những nhân vật có liên hệ mật thiết với các phe phái khác, như trường hợp bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công Ty AIC, sẽ là một thử thách lớn, cho thấy khả năng thực sự của ông Tô Lâm trong cuộc chiến quyền lực này.

Nếu các phe phái đối lập, như Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa, vượt qua được những mâu thuẫn và bất đồng, thành công liên kết với một lực lượng quân đội thống nhất và hùng mạnh, cán cân quyền lực sẽ thay đổi đáng kể. Sự kết hợp này có thể tạo nên một liên minh đủ sức đối trọng với phe Hưng Yên, đe dọa sự kiểm soát của lực lượng Công An và vị trí quyền lực của ông Tô Lâm.

Tuy nhiên, khả năng này vẫn còn bỏ ngỏ, bởi lòng tham, sự ích kỷ, tính toán cá nhân, và những mâu thuẫn lịch sử có thể ngăn cản sự hình thành một liên minh vững chắc. Mỗi phe phái đều có những toan tính riêng, và việc đặt lợi ích chung lên trên hết là một bài toán khó. Nếu không thể vượt qua được rào cản này, các phe phái đối lập sẽ tiếp tục bị chia rẽ, tạo điều kiện cho ông Tô Lâm và phe Hưng Yên củng cố quyền lực.

Gần đây, xuất hiện thông tin về một kế hoạch được cho là nhằm củng cố quyền lực và tấn công vào phe cánh của Thủ Tướng Phạm Minh Chính và quân đội, thông qua việc xử lý bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, nhân vật nắm giữ nhiều bí mật động trời liên quan đến cả Thủ Tướng Chính và bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phan Văn Giang. Theo đó, phe cánh ông Tô Lâm đang ráo riết xúc tiến một kế hoạch xâm nhập vào Đức và thực hiện việc bắt cóc bà Nhàn về Việt Nam “tự thú,” tương tự trường hợp Trịnh Xuân Thanh trước đây.

Cụ thể, bộ trưởng Bộ Công An Lương Tam Quang được cho là đã có chuyến công du sang Belarus, với mục đích phối hợp với Cơ Quan Tình Báo Nga (GRU) và Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga (FSB) để bắt bà Nhàn. Bộ Công An Việt Nam cũng được cho là đã kích hoạt cơ sở nằm vùng tại Hungary của Cục Tình Báo (B04), đồng thời tăng cường nhân sự thâm nhập vào Đức thông qua các con đường du học, học nghề và tu nghiệp sinh.

Thời điểm tiến hành kế hoạch này được dự kiến trùng với thời gian Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước Tô Lâm sang Hoa Kỳ dự kỳ họp thường niên của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc.

Kế hoạch bắt cóc và đưa bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn về Việt Nam “tự thú” được xem là một canh bạc ngoại giao rất lớn của ông Tô Lâm. Hậu quả của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức vẫn còn đọng lại. Nếu tiếp tục tiến hành một chiến dịch tương tự nhằm vào bà Nhàn, Việt Nam có thể phải đối mặt với phản ứng quyết liệt từ Đức và các nước liên quan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và hình ảnh của đất nước trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, đối với ông Tô Lâm, đây là một canh bạc mà ông buộc phải chơi. Nếu thành công, việc đưa bà Nhàn về nước sẽ là “quân bài tẩy” giúp ông giành chiến thắng trong cuộc chiến quyền lực nội bộ, củng cố quyền lực “tuyệt đối” của mình. Bà Nhàn không chỉ là một nhân vật quan trọng trong vụ án AIC, mà còn có mối liên hệ mật thiết với phe cánh của Thủ Tướng Chính và quân đội. Việc xử lý bà Nhàn sẽ là một đòn chí mạng nhằm vào đối thủ, đồng thời cảnh báo những ai có ý định chống đối ông Tô Lâm.

Giai đoạn hơn một năm trước thềm Đại Hội 14 hứa hẹn sẽ là một giai đoạn đầy biến động và kịch tính trong chính trường Việt Nam. Cuộc chiến giành quyền lực sẽ tiếp diễn với những toan tính, dàn xếp, và đấu tranh ngầm phức tạp. Kết quả của cuộc chiến này sẽ quyết định tương lai của đất nước trong những năm tới, và phụ thuộc vào sự tương quan lực lượng, khả năng liên kết, và những toan tính chiến lược của các phe phái. 


 

Có nên vạch những thói xấu của người Việt không?- Hà Sĩ Phu

Ba’o Tieng Dan

Hà Sĩ Phu

24-9-2024

Câu hỏi ấy tưởng là thừa, vì ai chẳng biết muốn một người hay một cộng đồng thay đổi để tiến lên, tất nhiên phải biết cả ưu và nhược điểm của đối tượng đó. Nhưng nói ưu điểm thì quá dễ, được hoan nghênh ngay. Quan trọng và khó khăn là vạch những nhược điểm, những thói xấu của dân tộc mình.

Cụ Phan Châu Trinh và cụ Hồ Chí Minh đều phải làm việc đó, vạch NHỮNG THÓI XẤU CỦA NGƯỜI VIỆT. (Chính ban Tuyên giáo của ĐCSVN cũng viết một bài “Giả dối – thói xấu tệ hại, người cộng sản cần loại bỏ”).

Phải nêu những dẫn chứng rất thừa như thế để nói điều rất ngạc nhiên là HSP cũng làm điều vạch thói xấu của Đảng và Dân một cách rất tế nhị, thì lại bị quy tội “Phản bội tổ quốc”, tội nặng nhất trong Luật Hình sự, với lệnh khởi tố, giam tại nhà 8 tháng và hỏi cung 400 buổi trước khi ra Tòa (xem hình chụp).

Điều vô lý ấy khiến 2000 trí thức trong và ngoài nước đã ký một kiến nghị đòi trả tự do cho tôi (http://hasiphu.com/vuanIII_31.html).

Cuối cùng vụ án ấy đã bị hủy bỏ, thay bằng nghị định 31-CP (kết tội không cần Tòa án) giam tại nhà, hàng tháng phải lên trình diện và kiểm điểm. Ngoài 1 năm tù chính thức đã qua, còn 3 lần khám nhà, tịch thu 3 máy vi tính, 3 lần đấu tố trước phường, khu phố và Tổ Dân phố, cắt 2 điện thoại bàn và 20 SIM di động.

Chuyện cũ đã qua rồi, nay tôi 84 tuổi đã được tự do, nhưng cũng xin VUI VẺ NÓI LẠI để cùng nhau rút kinh nghiệm, mong làm sáng tỏ một điều gì hữu ích chăng?

Bây giờ xin nói cụ thể một chút việc, nói “thói xấu” của người Việt thế nào mà phải trừng trị đến tội phản quốc? Năm 2000, thấy khối CS Đông Âu đã đổ, trí thức trong và ngoài nước nghĩ rằng, CSVN sẽ tiếp tục đổ theo nên thảo một Tuyên bố, gọi là “Kết ước năm 2000” để chuẩn bị cho cuộc đổi đời. Nhiều người hưởng ứng và đã ký, nhưng HSP không ký! Bạn bè hỏi “Tại sao không ký? HSP trả lời “CS Đông Âu đổ chứ CS Việt Nam còn lâu mới đổ”. Bạn bè yêu cầu tôi giải thích quan điểm của mình, nên tôi phải viết hai bức thư (nhưng nhà không có Internet nên phải nhờ bạn tôi là ông Mai Thái Lĩnh gửi đi giúp).

Bức thư hơi dài (http://hasiphu.com/vuanIII_20.html ), nhưng có thể nói gọn: Vốn là thân phận nhỏ bé nên muốn tồn tại phải chọn kiểu sống khôn vặt. Đảng cũng từ dân mà ra nên cũng mang tính cách ấy. Cuộc kết hôn giữa anh khôn vặt với chị khôn vặt tất nhiên chẳng lý tưởng gì, nhưng họ không đánh nhau và còn sống với nhau đến “bách niên giai lão”, bên nào cũng giả vờ yêu, nhưng tìm cách lợi dung và khai thác nhau, vẫn ve vãn nhau, ra chiều hạnh phúc!

Khi đã khôn vặt thì lòng tự trọng và nhân cách phải xếp xuống dưới nhu cầu tồn tại để sống còn. Nếu ngược lại là chết. Khi đã thành thói quen thì không phải do nhu cầu sinh tồn lớn lao gì mà cứ thấy lợi là ăn cắp hàng hóa ở siêu thị nước ngoài, người Việt đã nổi tiếng thế giới về tính ăn cắp nhục nhã đó.

Tính khôn vặt cũng đi đôi với sự dối trá, tạo ra một trạng thái bùng nhùng như bùn nhão, không đứng lên để có một hình thể rõ ràng. Xã hội cứ như trên con đường hẹp mà cả đoàn người cứ ấm ức đi sau một con trâu mộng có sừng nghênh ngang.

Người Nhật xưa để lòng tự trọng cao hơn sự sống còn, nên nhiều khi đã tự mổ bụng để quyên sinh (Samurai).

Tôi quả thực không dám khen chê về cách sống ở đời, nhưng câu nói “Dù mâu thuẫn thế nào, hai kẻ khôn vặt vẫn sống bên nhau đến bách niên giai lão” có thể là câu “thậm xưng” để ví von, nhưng CS Đông Âu đổ, mà ¼ thế kỷ qua rồi, CSVN có đổ đâu, thì dự đoán ấy thế mà đúng chứ nhỉ? Dự đoán đúng thế mà mà bị tội phản quốc? (Một nhà báo Công an đã bảo: Phê cả Đảng và Dân đều khôn vặt thì anh sống với ai, chẳng phản quốc là gì?). Đấy, phê phán tận gốc quả là việc khó, nhưng không thể tránh né nếu muốn thay đổi số phận một Dân tộc.

Kết luận:

1/ Chúng ta phải bảo nhau đừng thực dụng quá, để cho tính khôn vặt khôn vặt  làm lu mờ nhân cách và lòng tự trọng của người Việt Nam.

2/ Tính khôn vặt còn phát sinh sự giả dối, sợ sự thật, nên đã thần thánh hóa những điều không có thật, coi điều tưởng tượng không có thật ấy là thiêng liêng “bất khả xâm phạm”, ai vạch điều đó ra phải bị trừng trị thật nặng nề. Ngoại giao uốn éo kiểu “cây tre” cũng là thứ khôn vặt mà thôi.

3/ Chủ nghĩa “Mác-Lê thiêng liêng” làm khổ nhân dân nhưng đem lại ngai vàng quá béo bở cho Đảng cầm quyền, từ đó phát sinh bao tệ nạn. Giới cầm quyền Đông Âu bỏ được Mác-Lê vì nhân cách của họ cao hơn sự khôn vặt, chứ kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam bỏ cái ngai vàng béo bở ấy thì …hơi bị khó.

H.S.P. (24/9/2024)

(Hình minh họa: Hồ sơ Tội Phản quốc dành cho người dám nhẹ nhàng vạch thói xấu khôn vặt và giả dối của người Việt).


 

Tổng bí thư đảng CSVN đã khai tử lịch sử Việt Nam?

Ba’o Nguoi-Viet

September 25, 2024

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong chuyến công du đến Hoa Kỳ để tham dự cuộc họp thường niên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, vào ngày 23 Tháng Chín 2024, ông Tô Lâm được mời đến phát biểu tại trường Đại Học Columbia, về chính sách của ông ấy trong tư cách tân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam kiêm tân Chủ Tịch nước.

Ngay trong những lời đầu tiên của bài diễn văn, ông Tô Lâm nói: “Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”.

Giáo Sư Nguyễn Thị Liên Hằng (trái) điều hợp buổi hội thảo có mặt ông Tô Lâm, Tổng bí thư Chủ tịch nước CSVN, tại đại học Columbia University, New York, ngày 23 Tháng Chín 2024. (Hình: Chụp từ màn hình trang web Columbia University)

“Sau gần 80 năm lập nước”!

Với lời khẳng định ấy trước quốc tế, tính ngược lại, lịch sử dân tộc với ông Tô Lâm chỉ bắt đầu được tính từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản thực hiện cuộc “Cướp chính quyền” mà thôi. Cũng theo đó, quá trình lập nước và giữ nước của tổ tiên nước Việt Nam từ nhiều nghìn năm trước đó đã bị ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản của ông ấy khai tử, loại bỏ hoàn toàn ra khỏi trang lịch sử dân tộc.

Chưa nói đến lịch sử dân tộc dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ, thì những trang sử giữ nước từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, rồi đến thời Lê, thời Lý, thời Trần, thời hậu Lê, thời Tây Sơn với những Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… cùng với những chiến công giữ nước oai hùng của những vị vừa nêu trên … Kể cả 3 lần thắng quân Nguyên Mông hầu như đều không có chỗ trong lịch sử “lập nước” của ông Tô Lâm.

Phải chăng “Thiên triều” Trung Cộng đã yêu cầu Cộng sản Việt Nam khai tử lịch sử dân tộc để xóa đi nỗi nhục nhã của họ trong quá khứ khi xâm lược Việt Nam: Tại sông Như Nguyệt, Bạch Đằng Giang, Hàm Tử quan, Ngọc Hồi, Đống Đa…

Từ đâu và khi nào mà ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản bắt đầu mang những mầm mống thoát ly khỏi lịch sử dân tộc để rồi công bố công khai điều ấy trước cộng đồng quốc tế vào chiều ngày 23 Tháng Chín?

Chúng ta hẳn còn nhớ, vào thượng tuần Tháng Hai 2020, Nhị Lê, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Phó Tổng Biên tập Tạp Chí Cộng Sản, một lý thuyết gia của Đảng Cộng sản đã từng phát biểu công khai trên truyền thông đại chúng, cho rằng: “Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc”, gây rất nhiều tranh cãi trong dư luận.

Khi ấy, lý giải về phát biểu của mình, lý thuyết gia Cộng sản Nhị Lê cho biết: “Trong Tuyên ngôn, Các-Mác và Ăng-Ghen lưu ý: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mang tính quốc tế nhưng giai cấp vô sản mỗi nước phải hoàn thành nghĩa vụ trước hết với dân tộc mình. Yêu cầu đặt ra là “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” và: “Tôi gói các ý tưởng khoa học rất toàn diện và sâu sắc của Các-Mác và Ăng-Ghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Điều lệ Đảng, một cách hệ thống và căn cơ, để rút tít gồm 11 từ cho bài báo đã đăng”.

Cho thấy, chủ trương nâng Đảng Cộng sản lên rồi đồng hóa trở thành dân tộc, “Dân tộc Cộng sản”, đã có từ trong lý thuyết Cộng sản và thảo luận trong Đảng từ nhiều năm qua. Bất chấp khái niệm dân tộc chỉ về chủng tộc hơn là một đảng phái chính trị.

Theo thống kê, hiện nay, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản có khoảng hơn 5.2 triệu người. Tương đương 5% dân số Việt Nam. Là con số đáng kể nếu số đảng viên được nâng lên và đồng hóa thành một dân tộc riêng biệt, hiện diện bên cạnh hơn 50 dân tộc khác như Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm, Tày, Ê Đê… đang sinh sống trên cùng lãnh thổ. Theo đó, dân số của “Dân tộc Cộng sản” hiện nay chỉ đứng sau dân tộc Kinh mà thôi?!

Trong trường hợp đã là dân tộc, thì cần phải xác định lịch sử của dân tộc ấy. Qua phát biểu của ông Tô Lâm tại trường Đại học Columbia, thì Đảng Cộng sản đã lấy sự kiện “Cướp chính quyền” vào năm 1945 làm mốc thời điểm lịch sử “lập nước” của “Dân tộc Cộng sản”.

Sự tự tôn một cách kiêu ngạo của Đảng Cộng sản hiện nay, đến mức độ phủ nhận cả lịch sử dân tộc, thì ngay chính người du nhập Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam, đồng thời cũng là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản là ông Hồ Chí Minh cũng chưa từng dám nghĩ đến.

Trong dịp đến thăm đền Hùng tại Phú Thọ vào trung tuần Tháng Chín 1954, ông Hồ Chí Minh được cho là đã phát biểu: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cho thấy, trang lịch sử dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ của các vua Hùng vẫn tồn tại trong tư duy của ông Hồ Chí Minh.

Điều khá khôi hài khi một mặt phủ nhận sạch trơn lịch sử dân tộc, thì mặt khác, trong bài phát biểu của mình, ông Tô Lâm lại nhắc đến ý tưởng “Lấy chí nhân thay cường bạo” của Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử thời hậu Lê trong bài Bình Ngô Đại Cáo.

Tự tạo trang lịch sử riêng bằng cách nâng mình lên và đồng hóa thành một dân tộc ưu quyền là “Dân tộc Cộng sản” và thoát ly hoàn toàn khỏi lịch sử chính thống của dân tộc từ hàng nghìn năm. Đảng Cộng sản ngày càng tự tôn và kiêu ngạo một cách lố bịch so với những hậu quả nặng nề mà họ đã gây ra cho đất nước.

Điểm về tính chất đảng viên Cộng sản và vài con số trích từ những báo cáo của chính cơ quan Đảng cho thấy họ có xứng đáng gì với sự tự tôn, kiêu ngạo đến mức trở thành “Dân tộc Cộng sản”?

Người Việt Nam biểu tình chống Tô Lâm trước trụ sở LHQ ở New York ngày 22 Tháng Chín 2024. (Hình: Việt Tân)

Một bài trên trang Tuyên giáo từ Tháng Hai 2019 thừa nhận số lượng đảng viên đông không nhất thiết phản ánh chất lượng: “Cũng cần nhìn nhận rõ hơn động cơ vào Đảng của một bộ phận đảng viên có phải vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì dân, vì nước hay để có chức quyền, để mưu lợi riêng”.

Bên cạnh đó, chỉ riêng số ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII có tới 26 người bị kỷ luật hoặc khởi tố hình sự vì tham nhũng, 5 ủy viên Bộ Chính trị và 3 thành viên trong nhóm tứ trụ cũng bị vạch mặt tương tự.

Tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2024, trên cả nước đã khởi tố mới, điều tra 2,836 vụ án với 5,975 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 841 vụ, 1,487 bị can so với cùng kỳ năm 2023), trong đó có 475 vụ án với 1,094 bị can về các tội tham nhũng.

Đảng viên cao cấp của Đảng Cộng Sản, rờ đến đâu phát hiện ra tham nhũng đến đó, đất nước tan hoang, đạo đức xã hội xuống cấp, hàng loạt thiết chế cơ bản để điều hành, quản lý của đất nước bị vô hiệu hóa… Không lẽ tất cả những điều đó trở thành thành tích vẻ vang, đến mức làm cho Đảng Cộng sản hãnh diện, phủ nhận lịch sử cả hàng nghìn năm của dân tộc chăng?

DC, ngày 24 Tháng Chín, 2024

Đặng Đình Mạnh 


 

Nhận hối lộ triệu đô, cựu chủ tịch Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam sắp bị truy tố

Ba’o Nguoi-Viet

September 23, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An đã đề nghị truy tố bị can Nguyễn Đức Thái, cựu chủ tịch Hội Đồng Thành Viên Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam, về tội “nhận hối lộ.”

Theo báo đài trong nước hôm 23 Tháng Chín, cùng vụ án, năm bị can khác là cán bộ Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam gồm: Hoàng Lê Bách và Lê Hoàng Hải, phó tổng giám đốc; Phạm Gia Thạch, thành viên Hội Đồng Thành Viên; Nguyễn Thị Thanh Thủy, cựu trưởng Ban Kế Hoạch Marketing; và Đinh Quốc Khánh, phó Phòng In, Phát Hành của Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội, bị đề nghị truy tố về tội “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.”

Ông Nguyễn Đức Thái khi đương chức. (Hình: VNExpress)

Ngoài ra, hai bị can Tô Mỹ Ngọc, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty Phùng Vĩnh Hưng, và Nguyễn Trí Minh, giám đốc công ty Giấy Minh Cường Phát, bị đề nghị truy tố về tội “đưa hối lộ.”

Báo VNExpress dẫn kết luận điều tra cho hay đầu năm 2017, khi được bà Ngọc và ông Minh nhiều lần gặp, đề nghị “tạo điều kiện” cho công ty Phùng Vĩnh Hưng và Minh Cường Phát tham gia đấu thầu, chào giá, cung cấp giấy in cho Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và hứa hẹn “sẽ cảm ơn,” ông Thái đều nhận lời giúp đỡ.

Từ Tháng Bảy, 2017, sau khi được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội Đồng Thành Viên, ông Nguyễn Đức Thái như “ hổ thêm cánh,” nắm trọn quyền quyết định trong việc mua sắm giấy in phục vụ in ấn sách cho Bộ Giáo Dục.

Tháng Mười Một, 2017, ông Thái đã chỉ đạo nhân viên thực hiện việc mua sắm giấy in thông qua hình thức “chào hàng cạnh tranh rút gọn” để đưa công ty Phùng Vĩnh Hưng, Minh Cường Phát vào danh sách các nhà thầu được tiết lộ thông tin về thông số kỹ thuật, khối lượng hàng hóa,… nhằm giúp hai công ty này hợp thức các thủ tục đấu thầu trái quy định.

Sau khi hai công ty trên trúng thầu và ký hợp đồng với Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam, ông Thái đã nhận số tiền 3.2 tỷ đồng ($130,000) từ bà Ngọc; nhận 2.9 tỷ đồng ($117,812) từ ông Minh.

Với cách thức trên, từ năm 2018-2021, ông Thái đã thông đồng, thống nhất trước với ông Minh, bà Ngọc để sắp xếp, tạo điều kiện cho công ty của hai người được trúng thầu cung cấp giấy in cho Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam.

Theo báo VNExpress, trong bốn năm đó, đều đặn hàng năm, bà Ngọc đều đến phòng làm việc của ông Thái đưa số tiền 4 tỷ đồng ($162,500) để “cảm ơn” sau khi trúng thầu.

Cách thức đưa tiền các năm đều giống nhau, thường vào dịp cuối năm hoặc đầu năm Dương Lịch, bà Ngọc tự chuẩn bị 4 tỷ đồng gồm tám cọc, mỗi cọc 10 thếp, mỗi thếp 50 triệu đồng ($2,031), được bọc kín, đựng vào một túi đựng quà Tết, có hai quai xách và được buộc lại, sau đó úp ngược lại cho vào túi giấy cùng loại.

Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam có dấu hiệu “lợi ích nhóm” trong in, phát hành sách giáo dục. (Hình: Phạm Tuấn/Dân Việt)

Bà Ngọc xách túi tiền và một mình đến phòng làm việc của ông Thái, đều ngồi đúng ghế đầu tiên, để túi tiền cạnh bàn nước và nói có chút quà biếu cảm ơn ông Thái. Khi bà Ngọc đưa tiền, không có ai chứng kiến.

Ngoài ra, vào dịp Tết Nguyên Đán các năm 2018-2022, bà Ngọc đều đưa “cảm ơn” ông Thái số tiền 200 triệu đồng ($8,124)/năm.

Ông Thái khai tất cả những lần đưa tiền hối lộ, bà Ngọc và ông Minh đều đi một mình nên lúc đưa tiền không có ai biết và chứng kiến. Nhận tiền xong, ông ta đều cất tiền vào két sắt sau bàn làm việc và sử dụng để chi tiêu cá nhân.

Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra cáo buộc, ông Nguyễn Đức Thái đã nhận hối lộ với tổng số tiền là gần 24.9 tỷ đồng ($1 triệu) để cho hai công ty trên trúng 13 gói thầu trái quy định với tổng trị giá 2,100 tỷ đồng ($85.3 triệu).

“Việc mua giấy in này được thực hiện hằng năm, giá giấy in chiếm 30%-40% cơ cấu giá bán sách giáo khoa, việc mua giấy in với giá cao sẽ làm tăng giá sách, tạo thêm gánh nặng cho nhiều gia đình có con em đang đi học, làm hạn chế sự tham gia của các đơn vị cung cấp có năng lực, có phẩm chất tốt và giá bán thấp, không bảo đảm sự cạnh tranh, tính công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế,” kết luận điều tra nêu. (Tr.N)