CSVN và nhận thức sai lầm, công khai xúc phạm Vua Gia Long

Ba’o Nguoi-Viet

October 24, 2025

Chuyện Vỉa Hè – Đặng Đình Mạnh

Những ngày gần đây, dư luận trong nước sôi nổi tranh luận quanh việc một số cá nhân công khai xúc phạm Vua Gia Long, tức Nguyễn Phúc Ánh, người sáng lập triều Nguyễn, đồng thời là đối thủ chính trị của Hoàng Đế Quang Trung, tức Nguyễn Huệ.

Nhiều ý kiến cho rằng, những lời xúc phạm như vậy là không thể chấp nhận được và cần phải bị xử lý theo pháp luật.

Pháo hoa chào đón năm mới trên bầu trời Đại Nội Huế, năm 2020. (Hình minh họa: Linh Pham/Getty Images)

Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, sự xúc phạm này không chỉ nằm ở hành vi của một vài cá nhân, mà phản chiếu một căn bệnh lịch sử kéo dài nhiều thập niên, khi đã chủ trương áp đặt và bóp méo lịch sử do chính chế độ Cộng Sản trong nước gây ra.

Khi lịch sử bị chính trị hóa

Trong suốt nhiều thập niên qua, lịch sử Việt Nam được viết không phải bởi những học giả độc lập, mà bởi những người phục vụ mục tiêu chính trị của chế độ. Những trang sách giáo khoa, những bài giảng, thậm chí những tượng đài, phim ảnh… của hệ thống tuyên truyền đã khắc sâu trong tâm trí của không ít người dân hình ảnh Vua Gia Long như một tên “tội đồ dân tộc,” một kẻ “cõng rắn cắn gà nhà,” “rước voi về dày mả tổ.”

Trong khi đó, lại thần thánh hóa Vua Quang Trung như một biểu tượng duy nhất của chủ nghĩa anh hùng dân tộc, với “áo vải, cờ đào” để đối lập lại với hình ảnh Vua Gia Long.

Cách diễn giải lịch sử một chiều, thiếu khách quan đó không chỉ biến sử học thành công cụ tuyên truyền và giáo dục, mà còn tước đi của người dân quyền được hiểu biết trung thực về quá khứ, về lịch sử của chính dân tộc mình. Người dân chỉ được dạy phải yêu ai, ghét ai, tin ai, và khinh ai… theo đúng định hướng chính trị của chế độ, chứ không được học cách đặt nghi vấn dựa trên dữ kiện có thật của lịch sử.

Sự đảo chiều của nhận thức và trách nhiệm

Đến nay, khi Việt Nam đã bước vào thời kỳ hội nhập, khi thông tin không còn bị bưng bít, nhiều nhà nghiên cứu, học giả độc lập đã chỉ ra rằng cách nhìn nhận về Vua Gia Long trong suốt nhiều thập niên qua là sai lầm nghiêm trọng.

Vua Gia Long, tức Nguyễn Phúc Ánh, không chỉ là người có công thống nhất giang sơn sau hơn hai trăm năm chia cắt, bị chia cắt Đằng Trong – Đằng Ngoài, mà còn là người đặt nền móng cho một nhà nước phong kiến tập quyền hiện đại nhất Đông Nam Á đầu thế kỷ XIX, xây dựng luật pháp, hệ thống hành chính, thuế khóa và ngoại giao một cách hết sức bài bản. Những đóng góp ấy từng bị cố tình lãng quên, thậm chí bị bôi nhọ.

Đến khi sự thật được phục hồi, chế độ chỉ âm thầm sửa sai bằng cách phục hồi tên đường, tu bổ lăng mộ một số nhân vật lịch sử triều Nguyễn. Thế nhưng, chế độ hoàn toàn tránh né mọi sự đối thoại công khai về trách nhiệm của mình trong việc làm sai lệch nhận thức lịch sử của hàng triệu con người, trải qua nhiều thế hệ.

Điều đáng nói là sai lầm về lịch sử không phải lỗi của người dân, mà là lỗi của bộ máy tuyên truyền và giáo dục của chế độ. Trong đó, người dân chỉ là sản phẩm của nền giáo dục và tuyên truyền một chiều đó. Người dân đã tin điều được dạy và ngày nay, họ lặp lại điều được dạy mà đôi khi không biết rằng mình đang xúc phạm đến tiền nhân, đến lịch sử dân tộc. Thậm chí, trái lại, họ cho rằng mình đang bảo vệ “sự thật” về lịch sử.

Nói khác, họ chỉ đang hành động theo niềm tin sai lầm mà chế độ đã gieo vào nhận thức của họ. Nếu vậy, việc chỉ trừng phạt người dân mà không thừa nhận sai lầm của chế độ là bất công và giả dối.

Lịch sử không có chỗ cho sự thù hận

Quang Trung và Gia Long, hai nhân vật lịch sử kiệt xuất trong lịch sử, họ đều là sản phẩm của thời đại và đều hành động theo niềm tin và bối cảnh lịch sử riêng. Mọi sự phán xét họ bằng tiêu chuẩn đạo đức của thế kỷ XXI đều không phù hợp.

Nếu Vua Quang Trung đại diện cho tinh thần phản kháng và ý chí độc lập từ phía Tây Sơn, thì Vua Gia Long lại đại diện cho sự thống nhất và tái thiết quốc gia sau nội chiến. Hai vị vua ấy là hai mặt của cùng một đồng xu/lịch sử Việt Nam, một bên là khát vọng độc lập, bên kia là khát vọng thống nhất.

Vì thế, lịch sử cần được nhìn bằng con mắt bao dung, khách quan và trí tuệ về bối cảnh lịch sử, chứ không thể bằng cảm xúc chính trị nhất thời.

Điều sai lầm lớn nhất không phải là sự tranh luận giữa hai phe Quang Trung – Gia Long trong công chúng, mà là việc chế độ từng áp đặt một “chính sử” duy nhất, buộc dân chúng phải tin vào một phiên bản lịch sử được tô vẽ theo cách thiếu khách quan và không trung thực.

Khi nhận trách nhiệm trở thành thước đo văn minh

Nếu một chính quyền thực sự muốn xây dựng một xã hội văn minh, tôn trọng pháp luật, thì trước khi xử lý những cá nhân xúc phạm nhân vật lịch sử, họ phải dũng cảm đối diện với trách nhiệm đạo đức của mình, công khai xin lỗi về việc từng xuyên tạc lịch sử.

Một lời xin lỗi không làm giảm uy tín của chế độ, mà trái lại, nâng tầm trí tuệ và nhân cách của quốc gia. Điều có giá trị như của hiếm hiện nay. Nhiều quốc gia trên thế giới đã làm như vậy, Nhật Bản xin lỗi về tội ác chiến tranh; Đức quốc xin lỗi về Holocaust; Canada xin lỗi thổ dân vì những chính sách đồng hóa. Những lời xin lỗi ấy không chỉ mang tính biểu tượng, mà còn giúp xã hội hàn gắn vết thương, phục hồi sự thật, và tái thiết lòng tin.

Còn ở Việt Nam, một lời xin lỗi, nhận trách nhiệm về cách tuyên truyền và giáo dục sai trái trong quá khứ, về việc biến một vị vua có công với dân tộc thành kẻ tội đồ, cũng chính là một hành động khai phóng. Nó chứng tỏ chế độ đã đủ trưởng thành để chấp nhận sai lầm, và đủ bản lĩnh để đặt chân lên con đường văn minh thật sự.

Nhật Hoàng Akihito và Hoàng Hậu Michiko đến thăm hoàng cung Huế, Tháng Ba, 2017. (Hình minh họa: HOANG DINH NAM/AFP via Getty Images)

Xử lý công bằng phải bắt đầu từ nhận thức đúng

Nếu chế độ đã từng gieo mầm sai lầm về lịch sử cho người dân qua giáo dục, tuyên truyền, thì trách nhiệm đầu tiên không phải là “trừng trị” những người xúc phạm nhân vật lịch sử, mà là chấn chỉnh lại toàn bộ nhận thức lịch sử quốc gia về hàng loạt sự kiện lịch sử. Dĩ nhiên, phải bao gồm cả sự kiện nội chiến huynh đệ tương tàn, kết thúc vào ngày 30 Tháng Tư 1975 và diễn biến sau đó.

Phải công khai nhìn nhận những giai đoạn tuyên truyền và giáo dục sai trái; Phải cải tổ chương trình giảng dạy lịch sử, tôn trọng sự đa chiều của nghiên cứu học thuật; Và quan trọng hơn, phải xin lỗi công khai vì đã khiến người dân hiểu sai trong suốt nhiều thế hệ.

Chỉ khi làm được điều đó, chế độ mới tạo dựng được nền tảng đạo đức và pháp lý để xử lý những hành vi xúc phạm lịch sử đang xảy ra. Bởi khi chế độ là nguồn gốc của sự sai lầm, thì công lý không thể chỉ áp dụng đối với người dân sai lầm.

Tóm lại, sự thật lịch sử không thể bị giam trong khuôn khổ của ý thức hệ. Theo đó, Vua Gia Long và Vua Quang Trung, hai con người từng ở hai chiến tuyến đến mức “Rừng không thể hai cọp, nước không thể hai vua,” thì giờ đây, đều là những trang lịch sử chung của dân tộc Việt Nam.

Nếu chế độ còn để sự thù hận, thiên kiến hoặc tuyên truyền và giáo dục chính trị xen vào việc giảng dạy và nhận thức về lịch sử, thì không chỉ là sự xúc phạm hai vị vua, mà còn phản bội lại trí tuệ và phẩm giá của cả dân tộc được hun đúc, kế thừa từ lịch sử ấy.

Do đó, một lời xin lỗi, nhận trách nhiệm từ chế độ hôm nay, về những sự tuyên truyền và giáo dục sai lầm trong quá khứ, không chỉ là trách nhiệm lương tâm, mà còn là món nợ phải trả cho quá khứ.

Tôi, tác giả, với sự hiểu biết về chế độ Cộng Sản trong nước, không tin rằng họ đã chuẩn bị gì cho một tâm thế đầy trách nhiệm như thế. [kn]


 

“Giúp đỡ ông già 70 tuổi”, “Con tôi bị ung thư…Cảm ơn.”

Lê Linh 

Giữa dòng xe ken đặc trên đường Đoàn Văn Bơ, phường Xóm Chiếu, TP.HCM (khu vực trước đây thuộc quận 4), một ông lão tóc bạc ngồi tựa lưng vào cột điện, tay cầm cây tiêu gỗ. Tiếng nhạc trầm, chậm rãi, len qua khói xe và tiếng còi buổi sáng.

Trước mặt ông là hai tấm bảng cũ, ghi dòng chữ nguệch ngoạc:

“Giúp đỡ ông già 70 tuổi”, “Con tôi bị ung thư…Cảm ơn.”

Bên cạnh là chiếc nón lá úp ngược, vài tờ tiền lẻ gói trong túi xách đen.

Mình dừng xe, ghé lại hỏi vài câu, nhưng ông không đáp. Một người bán nước gần đó nói nhỏ: “Ông bị nặng tai”. Mình chỉ kịp gửi vội ông ít ngân lượng có được, rồi lại hòa vào dòng người vì có hẹn. Đoạn đường này thường xuyên kẹt, nên mình chưa biết ông tên gì, nhà ở đâu, có thổi tiêu bao lâu rồi.

Tiếng tiêu của ông không kéo dài, cũng không cầu kỳ. Giữa muôn nỗi lo đầu ngày, tiếng tiêu của ông như liều thuốc khiến người ta lặng đi vài giây, thấy mình đang sống chậm lại giữa Sài Gòn vẫn cuồn cuộn.

Cre: Phong Bụi


 

 RƠI!

Đặng Nam is with Exile Hoài Thạch Sơn.

 RƠI!

Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Hải An chết do rơi từ tầng 8 xuống đất. Ông Lê Hải An là người ký quyết định kỷ luật một số cán bộ vi phạm, chạy điểm, tuy nhiên sau đó bị Bộ trưởng Nhạ hủy bỏ quyết định này.

Tháng 8 năm 2019, ông Phạm Văn Khương – phó giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội bị rơi xuống đất từ tầng 27 của tòa nhà Vinaconex 1 (quận Cầu Giấy).

Ngày 16/01/2019, Phòng Cảnh sát Hình sự (Công an tỉnh Quảng Nam) thông tin, ông Phan Tấn Nghị – Phó Chánh Thanh tra tỉnh Quảng Nam – tử vong là do rơi từ tầng 3 của trụ sở này xuống đất tử vong.

Ngày 29/10/2018, Nữ cán bộ y tế Bệnh viện đa khoa tỉnh Tiền Giang tử vong sau khi nhảy từ lầu 2 tại bệnh viện.

Ngày 13/7/2016, Công an tỉnh Đồng Tháp cho biết, thượng tá Huỳnh Hữu Khiêm (52 tuổi, Phó phòng Hậu cần) đã rơi lầu 6 của trụ sở tử vong.

Ngày 4/11/2016, ông Lê Hoàng Vân. (46 tuổi, ngụ Bình Dương),cán bộ công ty nhà nước rơi từ lầu 4 trường ĐH Bình Dương (P.Hiệp Thành, TP.Thủ Dầu Một, Bình Dương) xuống đất tử vong.

Ngày 12/10/2015, chị Nguyễn Thị Thanh (34 tuổi, cán bộ thư viện Trường ĐH Đồng Tháp) đã rơi từ lầu 5 của trường và tử vong tại chỗ.

Ngày 09/12/2012, Ông Lê Quốc Thái Cán bộ Sở GTVT Khánh Hòa rơi từ tòa nhà 6 tầng của Sở GTVT tỉnh xuống sân ở vị trí gần đường Hàn Thuyên, nằm bất động trên vũng máu.

Ngày 5/10/2011, ông Trương Mạnh Tuấn (51 tuổi, ở phường Phước Hải, TP Nha Trang, Khánh Hòa) bị rơi từ tầng 2 của trụ sở Công an phường Phước Hải.

Còn rất nhiều vụ cán bộ “tự tử” bằng vũ khí tại nhà riêng như vụ thiếu tá Nguyễn Văn Thanh (55 tuổi, cán bộ Phòng Hậu cần) tự sát bằng súng tại nhà riêng vào ngày 25/6/2016.

CÒN NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ:

Nhà báo chống tham nhũng Trần Quang Thanh bị tạt acid khiến dung mạo bị dị dạng, thân thể bị hủy hoại 81%.

Nữ phóng viên Đặng Tuyền (bút danh Hải Đường) phóng viên báo Pháp luật TP.HCM, bị tử vong tại bến đò thôn 1, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì.

Phóng viên báo Tuổi Trẻ Hoàng Khương, tác giả của bài điều tra về hành vi nhận hối lộ bị tuyên án 4 năm về tội đưa hối hộ…

MỘT ĐẤT NƯỚC ĐANG RƠI!


 

Câu chuyện của Trịnh Bá Phương

Kim Dao Lam

 Fb Cinta Bali Anda L

Câu chuyện của Trịnh Bá Phương và Đỗ Thị Thu (Thu Đỗ ) không chỉ là bi kịch của một gia đình bị đàn áp, mà là bản hùng ca về ý chí không khuất phục.

Dù bị tù đày, Trịnh Bá Phương vẫn giữ ánh mắt kiên định, không chấp nhận lùi bước trước bất công. Việc anh chính thức kháng cáo là hành động khẳng định quyền con người – quyền được nói lên sự thật và đòi hỏi công bằng.

Trong mười phút ngắn ngủi được gặp chồng, chị Đỗ Thị Thu không chỉ là người vợ đến thăm người thân bị giam, mà là người truyền lửa.

Chị đã mang đến cho anh niềm tin rằng cộng đồng vẫn dõi theo, rằng những gì anh làm không vô nghĩa. Sự điềm tĩnh, kiên gan của chị giữa bão tố cho thấy tình yêu không chỉ là cảm xúc, mà còn là một hình thức của đấu tranh – đấu tranh để giữ phẩm giá, giữ công lý cho người mình yêu.

Giữa bức tường sắt lạnh của nhà tù, hai con người ấy vẫn gặp nhau trong tự do của tâm hồn.

Họ chứng minh rằng tự do không phải là ân huệ ban phát, mà là quyền thiêng liêng mà con người phải kiên quyết giành lấy, dù bằng nước mắt hay bằng lòng can đảm.

Đó không chỉ là tình yêu giữa vợ và chồng – mà là tình yêu với công lý, với nhân phẩm, với Tổ quốc.

Ngọn lửa không tắt

Câu chuyện của họ là niềm cảm hứng cho những ai đang sống trong sợ hãi: rằng chỉ cần một người dám đứng lên, hàng ngàn trái tim sẽ nối theo.

Đỗ Thị Thu không đơn độc. Trịnh Bá Phương không gục ngã.

Ngọn lửa của họ vẫn đang cháy sáng, soi đường cho một ngày mai nơi tự do không còn là giấc mơ, mà là hiện thực được giành lại bằng lòng quả cảm và tình người.

Tự do không phải là ban phát.

Tự do là kết quả của những con người như họ – những người dám đứng, khi kẻ khác cúi đầu.


 

Con ơi, mẹ sẽ chờ con về!

Võ Hồng Ly

 21.10.2025

Nhật ký thăm tù của cô Nguyễn Thị Huệ, mẹ của người thanh niên yêu nước Huỳnh Đức Thanh Bình :

Cả tuần Sài Gòn mưa dầm. Hôm nay, 21/10/2025, mẹ đi thăm con Huỳnh Đức Thanh Bình ở trại giam Xuân Lộc lại là ngày nắng đẹp, thật là may mắn!                                                                                                                  

Với mẹ những lần thăm gặp con là một lần hạnh phúc, nhìn con khoẻ mạnh nở nụ cười khi nói chuyện với mẹ là bao mệt nhọc tủi buồn như tan biến. Con ơi, mẹ đếm từng ngày mong con về: còn gần 1.000 ngày nữa.                                                                                                   

Con và các chú, các anh gởi lời cảm ơn chị HLy và Nhạc sỹ TKhanh đã gởi thuốc, gởi dầu nóng cho anh em. Con kể từng món quà con nhận từ gói chà bông, đậu phộng rang của chú Tuyến đến hộp tóp mở nước mắm của chị Mai Trần, cá đù của chị Châu và cá một nắng của cô Bảo Liên… đều thấm đẫm tình thương yêu và sự quan tâm đến con và các chú, các anh chú. Còn nhiều nữa những sự quan tâm mà không sao kể xiết.                                                                           

Hôm nay mẹ kể về món quà thịt bò xào của cô Thu Vang. Cô mới ra tù chỉ khoảng hơn năm, buổi sáng bán thịt bò ở một chợ nhỏ, chiều cô giúp việc nhà theo tiếng. Cô đang ở nhà thuê nhưng tấm lòng dành cho con và các anh em trong đó thiệt là sâu nặng. Mẹ nhận 1,5 ký thịt bò từ cô, nhìn sự tảo tần và giọt nước mắt khi cô nói về con và các anh em, lòng mẹ thiệt sự xúc động… những món nợ ân tình này lớn quá, suốt cuộc đời mẹ con mình không trả nổi!                                                                                   

Mẹ kể chuyện về án tù “thêm 11 năm” của anh Phương. Nhìn ánh mắt thảng thốt của con, mẹ chỉ khuyên con thận trọng và thầm nguyện cầu cho gia đình cậu ấy được bình an. Bởi ngày cậu ấy ra tù thì đứa con mới sinh khi Phương bị bắt đã tròn 21 tuổi, còn gì đau xót bằng!                                               

Giữa những thị phi tranh chấp, những bất công phi lý vẫn còn những khoảng lặng bình an, những tốt đẹp giữa những con người với nhau, mẹ con mình biết ơn vì những duyên lành, những điều nhỏ nhoi đơn giản và dù chỉ là cỏ dại vẫn cố vươn về ánh sáng để nở những nhành hoa.                                                  

Con ơi, mẹ sẽ chờ con về!


 

Ngân 98 và chiếc bẫy của Bộ Công an: Ai mới thật sự phạm tội?

Thai Pham

Chan Dung Lanh Dao

Ở Việt Nam, làm doanh nhân không chỉ là chuyện kinh doanh,  đó là một cuộc chơi sinh tồn trong ranh giới mong manh giữa luật pháp và quyền lực. Người ta phải đổ mồ hôi, trí tuệ, thậm chí cả “mưu mẹo” để tồn tại trong một hệ thống mà luật đôi khi chỉ là công cụ phục vụ cho phe mạnh hơn. Và khi đã “béo” đủ, khi có tiền, danh, hoặc tiếng, họ có thể bị “thịt” bất cứ lúc nào.

Vụ Ngân 98 chỉ là một lát cắt của cả cơ chế đó. Cô bị bắt vì bán thực phẩm chứa chất cấm, nhưng nghịch lý ở chỗ: mọi sản phẩm của cô đều có giấy phép, chứng nhận, kiểm nghiệm, tất cả đều do chính cơ quan nhà nước cấp. Nếu sản phẩm thật sự độc hại, thì lỗi nằm ở ai? Ở người kinh doanh, hay ở hệ thống đã cấp phép, kiểm định, và thu phí từ nó suốt nhiều năm?

Câu hỏi khó chịu hơn: tại sao 5 năm qua không ai động đến? Phải chăng vì cô vẫn “đóng phí bình thường”? Phải chăng vì đến một thời điểm nào đó, khi cần một “con dê tế thần”, một “vụ án điểm”, hoặc một màn dằn mặt trong nội bộ quyền lực, thì cái tên Ngân 98 được rút ra khỏi ngăn kéo?

Đây không còn là câu chuyện riêng lẻ. Những vụ việc từ Thùy Tiên, Quang Linh Vlog đến Shark Bình đều cho thấy một quy luật âm thầm: khi pháp quyền không minh bạch, doanh nhân chỉ là quân cờ. Người nào “biết điều” thì sống, người nào “lên tiếng” hoặc “chạm phe” thì bị xử lý,  nhân danh “chống sai phạm”.

Đó không phải là pháp trị, mà là pháp quyền có chọn lọc — nơi quyền lực điều khiển luật pháp, chứ không phải ngược lại.

Ở các quốc gia thật sự có pháp quyền, một vụ việc như Ngân 98 sẽ dẫn đến điều tra cả hệ thống: ai cấp phép, ai kiểm định, ai giám sát. Nhưng ở Việt Nam, chỉ có “người nhỏ” bị trói tay, còn “người cấp phép” thì lặng lẽ biến mất khỏi radar.

Khi công lý không còn là cán cân, mà là con dao, thì doanh nhân không còn làm kinh tế, họ đang chơi trò sinh tồn trong chuồng mổ của quyền lực. Và trong trò chơi ấy, ai “được nuôi” hôm nay, sẽ “bị thịt” vào ngày mai.

Chân dung lãnh đạo

#chandunglanhdao


 

NÓI VỚI CÁC BẠN AN NINH CỘNG SẢN – Đặng Đình Mạnh

Chân Trời Mới Media

Đặng Đình Mạnh

Có lẽ, trong cuộc sống hôm nay, giữa bao nhiêu âm thanh hỗn độn của thời cuộc, những lời nói thẳng thắn thường sẽ là thứ khó nghe nhất. Tôi biết điều đó. Nhưng có những điều, nếu không nói ra, thì sẽ mãi là sự vô trách nhiệm, sự im lặng nhức nhối giữa những con người gọi nhau là đồng bào được sinh ra từ cùng một quê hương, xứ sở.

Cho nên, tôi xin phép nói đôi lời với các bạn an ninh.

Tôi bình thường, và đã từng là một luật sư vô danh bình thường trong hàng vạn luật sư đang hành nghề trên khắp miền đất nước. Có lẽ khác chăng là tôi chọn hành nghề theo cách mà phần đông đồng nghiệp bĩu môi, chê bai không làm là bảo vệ cho các tù nhân chính trị, dân oan. Vô tình, cách hành nghề ấy lại chạm vào lĩnh vực mà các bạn – những người làm công tác an ninh – đặc biệt quan tâm.

Và thế là tôi trở thành khách mời bất đắc dĩ uống trà, cà phê cùng các bạn không ít lần. Nhờ những lần gặp gỡ đó, tôi có dịp quan sát các bạn gần hơn, không chỉ qua hình ảnh của người mặc sắc phục, mà là qua ánh mắt, lời nói, nụ cười, cả những nỗi băn khoăn rất con người đằng sau bộ sắc phục.

Phần lớn các bạn, những người mà tôi tiếp xúc đều rất thông minh, nhạy cảm. Tôi nhớ, điểm tuyển sinh vào các trường an ninh, công an thường luôn ở mức cao. Có vẻ như, những người giỏi giang nhất, mạnh khỏe nhất trong thế hệ trẻ đã chọn ngành của các bạn để lập thân với niềm tin rằng đang góp phần bảo vệ xứ sở của chúng ta.

Thế nhưng, cuộc đời, như chúng ta đều biết, hiếm khi giống với các giấc mơ.

Một lần, tại phòng làm việc ở gần cổng số 235 Nguyễn Văn Cừ, giữa giờ nghỉ ít phút, C., một bạn trẻ bất ngờ cao giọng nói với tôi: “Sao bất công quá, tôi làm người bảo vệ đất nước này, mà sao nhiều người lại không thiện cảm với tôi?”

Tránh câu trả lời trực diện, tôi đáp: “Anh biết lý do mà!”. Có lẽ nghĩ rằng mình hớ sau câu hỏi có vẻ quá riêng tư và bộc lộ về mình, nhất là trong căn phòng có gắn camera theo dõi, nên C. im bặt.

Cuộc đời không như mơ đối với các bạn lúc này. Phần thưởng là những ưu quyền mà Đảng dành cho bạn như bả vật chất, bả quyền lực để các bạn hãnh diện, hách dịch lên mặt với nhân dân đều có mặt trái, là sự hoang mang, sợ hãi trong tâm trí các bạn và sự khinh rẻ của nhân dân.

Vì lẽ, dù thông minh, nhưng sự tuyên truyền của Đảng đã làm các bạn mờ mắt, thay vì các bạn ngộ nhận, tưởng rằng mình là người sáng mắt nhất, là người khôn ngoan nhất, đang gánh vác trọng trách vinh quang nhất. Đảng đã trộn lẫn đất nước, tổ quốc, nhà nước, chính quyền, chính phủ, Đảng, nghị quyết, Hiến pháp… vào chung một bệ thờ, rồi choàng nó như một thánh tích vào đôi vai của các bạn, rồi bảo “Còn Đảng, còn mình”. Các bạn đã tin đó là lời thánh và đã ra sức đàn áp nhân dân để bảo vệ thánh tích.

Đàn áp nhân dân! Quá dễ để mà thực hiện. Vì sau ngần ấy năm cai trị bằng bàn tay sắt máu, thất nhân tâm, nhân dân đã nhũn mình như con chi chi. Chưa kể, các bạn còn được giao quyền, giao súng, giao luôn cả thú tính, để nếu cần thực thi “nghiệp vụ” ngành.

Sau đàn áp, đất nước đã trở nên hình hài gì?

Có bao giờ, cả đất nước như một trại tập trung của quân phát xít? Có bao giờ, đến cả than thở cũng phải nhìn trước, ngó sau? Có bao giờ, chỉ chí thú làm ăn mà cũng phải lo cướp ngày, cướp đêm, cướp ngoài chợ, cướp trên đường bởi những kẻ có thẻ ngành? Có bao giờ, đất nước tham ô, tham nhũng nhung nhúc như thế? Có bao giờ, bất công tràn lan, dân oan tràn khắp, xã hội chỉ còn biết tôn trọng quyền và tiền? Có bao giờ, người hành xử với người mà như thú hoang, kể cả trong gia đình, học đường, ngoài xã hội? Có bao giờ, dòng người tìm mọi cách trốn chạy khỏi đất nước đã từng dừng lại trong 50 năm qua? Có bao giờ, đất nước tan hoang đến tận cùng như ngày hôm nay? Có bao giờ? Có bao giờ?…

Và có bao giờ, các bạn đã thấy rằng mình vô tình hoặc hữu ý góp công tạo nên sự tan hoang đó?

Nhân dân có thể không thông minh bằng các bạn, nhưng may mắn, nhân dân không bị nhiễm tuyên truyền đến mức để nhầm lẫn những thứ đặt trên bệ thờ của chế độ là một.

Rằng đất nước, tổ quốc là của nhân dân, không phải là của riêng của đảng phái nào cả, kể cả Đảng. Cho nên, Đảng không có tư cách độc quyền về đất nước, tổ quốc.

Rằng nhà nước là thực thể bất biến, dù chế độ có thể thay đổi từ Quân chủ Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa hoặc Cộng Sản Việt Nam. Cho nên, chế độ Cộng Sản Việt Nam có sụp đổ thì vẫn có chế độ khác thay thế và dù chế độ nào thay thế, vẫn sẽ tốt lành hơn chế độ mà các bạn đang phụng thờ, bảo vệ.

Rằng chính quyền chính danh phải được thiết lập từ lá phiếu bầu cử tự do thể hiện nguyện vọng của người dân, do người dân quyết định. Chứ không phải từ “Cướp chính quyền”, hoặc từ các kỳ đại hội đảng mà nhân dân chỉ là kẻ đứng ngoài lề như khán giả.

Cho nên, dù có “Cướp chính quyền”, có “Đại hội đảng” thì lẽ ra, vẫn phải khôi phục lại bầu cử tự do để có một chính quyền chính danh trước nhân dân và trước thế giới văn minh.

Rằng chính phủ là bộ máy điều hành đất nước vì lợi ích nhân dân, chứ không phải vì lợi ích đảng phái. Trong đó, quân đội là lực lượng bảo vệ đất nước trước ngoại bang và cảnh sát là lực lượng giữ gìn trật tự trị an trong nước.

Ngày nào còn đất nước, còn nhân dân là còn quân đội, còn cảnh sát. Cái gọi “Còn đảng, còn mình” chỉ là sự tiếm quyền phản động, lũng đoạn chính phủ và là lý lẽ của kẻ ngụy biện. Vì lẽ, Đảng có giải tán thì lực lượng quân đội, cảnh sát trong một quốc gia vẫn cần phải được duy trì vì sự cần thiết của các lực lượng này trong một quốc gia.

Rằng nghị quyết là văn bản nêu ý chí của một đảng phái, một nhóm người, chứ không phải là ý chí của nhân dân. Cho nên, nghị quyết chỉ có giá trị trong đảng, trong nhóm. Nghị quyết không có giá trị với nhân dân và càng không có quyền đứng trên hiến pháp. “Nghị quyết đứng trên hiến pháp” là quan điểm phản động, là sự phá hoại mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền.

Rằng hiến pháp được ban hành từ quốc hội, mà quốc hội ấy được hình thành từ bầu cử tự do, thì hiến pháp ấy mặc nhiên là văn bản pháp lý cao nhất, chi phối mọi hành xử trong quốc gia, là cơ sở của một nhà nước pháp quyền. Theo đó, nhân dân có quyền tham chiếu hiến pháp để thực hiện các quyền công dân mà không cần chờ văn bản hướng dẫn thi hành từ chính phủ.

Nhân dân hiểu tất cả những điều nêu trên. Thông minh như các bạn còn hiểu điều đó nhanh hơn, chính xác hơn nhân dân. Trừ phi, các bạn cố tình nhắm mắt để bảo vệ Đảng, bảo vệ đặc quyền mà Đảng trả công cho các bạn.

Các bạn thừa biết, đặc quyền của các bạn đều phải đánh đổi bằng đồng lương còm cõi mà tất cả các ngành khác đang phải gánh chịu.

Các bạn thừa biết, việc tăng quân số một cách bất thường trong lực lượng an ninh, công an đã lên đến một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ bác sỹ, giáo viên… trên dân số quốc gia.

Các bạn thừa biết, lực lượng an ninh, công an đã chi tiêu những nguồn lực khổng lồ trong ngân sách quốc gia vốn như một giòng sông đang cạn trơ đáy.

Các bạn thừa biết, để nuôi lực lượng an ninh, ngành công an phải chiếm dần các ngành nghề “hái ra tiền” trong đất nước.

Các bạn thừa biết, nhân danh an ninh, cán bộ an ninh chiếm giữ dần các chức vụ chính quyền, đẩy những nhà kỹ trị ra ngoài chuyên môn của họ. Biến chính quyền thành một bộ máy an ninh khổng lồ.

Các bạn thừa biết, tuy lực lượng an ninh ngày càng gia tăng về số lượng, nhưng trật tự trị an vẫn ngày càng kém cỏi.

Các bạn thừa biết, nhân dân đã oán ghét chế độ mà các bạn đang bảo vệ đến dường nào. Và dĩ nhiên, các bạn cũng biết, nhân dân đang nghĩ gì về các bạn.

Các bạn thừa biết quy luật “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” thì với một chế độ tham tàn, thất nhân tâm, nhân dân sẽ đẩy hay lật con thuyền?

Hôm nay, nhân dân nhũn như con chi chi để đổi sự tạm yên thân. Nhưng bạn có nghĩ, khi có cơ hội, thì họ có băm vằm các bạn ra không? Hãy nghĩ đến ngày đó. Hãy nghĩ đến con cái bạn và nhìn vào mắt chúng tự hỏi rằng: “Bạn có muốn chúng sống cuộc đời sợ hãi như bạn? Bạn có muốn chúng sống trong một xã hội mà con người hành xử với nhau như thú hoang? Và, bạn có muốn chúng sống trong đất nước tan hoang như thế này?”.

Ngẫm thêm, Đảng nói “Còn Đảng, còn mình”, như thủ đoạn để lung lạc suy nghĩ của các bạn theo hướng giữa các bạn và Đảng có mối quan hệ “Đồng sinh, đồng tử”. Thực tế, vắt tay lên trán, cán bạn có nghĩ rằng Đảng tin cậy các bạn đúng như mối quan hệ “Đồng sinh, đồng tử” đấy không?

Nếu Đảng tin cậy các bạn, tại sao Đảng lại cấm các bạn xuất cảnh? Phải chăng Đảng không muốn các bạn thấy rằng thế giới bên ngoài đã văn minh đến mức độ nào so với đất nước mà Đảng đang tiếm quyền? Rằng Đảng đã tuyên truyền dối trá như thế nào về hiện tình thế giới bên ngoài? Phải chăng Đảng muốn giữ các bạn trong sự “ngu dân” vĩnh viễn để dễ bề dối trá, thao túng, lợi dụng?

Thông minh như các bạn là để cứu quốc, để kiến quốc, để tạo dựng lại niềm tin, niềm hy vọng… cho quê hương xứ sở, chứ không phải để làm kẻ ngu trung, làm công cụ cho tập đoàn tội ác và phản động.

Các bạn đã từng biết về số phận bi thảm của những kẻ độc tài đầu sỏ, như hai vợ chồng Ceaușescu của Nam Tư, Gaddafi của Libya, Saddam Hussein của Iraq; Hoặc ít ra, cũng phải trốn chui, bỏ chạy trước cơn căm giận của đồng bào mình để sống đời lưu vong như Ben Ali của Tunisia, Assad của Syria, Sheikh Hasina của Bangladesh, K.P.Sharma của Nepal…

Nếu còn chút tự trọng, hãy đứng về phía nhân dân, vì chỉ có nhân dân mới luôn luôn là người ở bên các bạn.

Và nếu một ngày nào đó, chế độ này sụp đổ – như quy luật về tất cả các chế độ độc tài phải sụp đổ – thì ít ra, trong trang sử của dân tộc, vẫn còn chỗ cho những người lính an ninh biết quay đầu đúng lúc, biết chọn xứ sở, chọn phẩm giá, thay vì chọn Đảng.

Tỉnh lại đi các bạn, để mà còn cứu lấy nhân phẩm của chính mình, cứu lấy tương lai tốt lành cho con cháu mình, cứu lấy đất nước tội nghiệp, khốn cùng của chúng ta. Nếu không, ngẫm xem, xứ sở mấy nghìn năm văn hiến, lịch sử vẻ vang đến thế, không ngờ, nó sẽ biến mất trong thế hệ chúng ta phải không các bạn?

Hoa Thịnh Đốn, ngày 11 Tháng Mười 2025

Đặng Đình Mạnh


 

SỰ TÀN BẠO VÔ GIỚI HẠN

Luân Lê

SỰ TÀN BẠO VÔ GIỚI HẠN

Nhìn hình ảnh cháu bé bị đánh đập và tra tấn man rợ khiến tôi bủn rủn chân tay. Theo tin bé bị tên cha dượng tra tấn với thời gian dài khi vết thương mới hằn lên vết thương cũ (dày đặc). Xét về sự tàn bạo thì đây hẳn là điều hiếm có thể thấy xưa nay (hắn còn dùng búa đập vào đầu bé). Nhưng xét về hiện tượng bạo lực trong xã hội hiện nay có thể thấy chúng ta đều không bình thường về tâm thần. Sự bạo lực man rợ ở mọi mặt và trong mọi ngành đều có cả.

Thật khiếp đảm với cảnh tượng mà ngay cả loài thú vật cũng sẽ không làm một cách tương tự như trong trường hợp này. Trước đó một bé đã từng bị dì ghẻ và cha đẻ bạo hành tới chết ở TP HCM, cũng mới đây cha đẻ đánh con ruột một cách tàn nhẫn ở Hưng Yên (Thái Bình cũ), mấy bữa trước thì người vợ phải giết chồng vì bị đánh đập nhiều lần rồi hắn còn đe doạ giết cả hai con ở Đà Nẵng, gần hơn thì kẻ làm bố giết hai con bằng cách mang con ra sông để nhảy tự tử ở Nghệ An, nay bé bị tra tấn như hình ảnh thương tâm này được cho là ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Trông thôi ta đã không thể không rùng mình thay cho bé, vì ai sẽ chịu đựng được cảnh bị đánh đập tàn khốc này trong thân thể một đứa bé đây chứ? Nếu không trừng trị bằng nhiều năm tù với loại tội bạo lực và bạo hành thì những cảnh này sẽ còn tiếp diễn trong các gia đình, và cần phải ngay lập tức thay đổi cả tiêu chí đánh giá, cách tiếp cận trong giải quyết cũng như các biện pháp can thiệp của những vấn đề bạo hành trong nhận thức một cách có hệ thống.

Xót xa và thật sự kinh hoảng quá.


 

HAI ĐỨA TRẺ – VÀ MỘT XÃ HỘI ĐÃ VÔ CẢM ĐẾN TẬN CÙNG

Nguyễn Quốc Chính 

HAI ĐỨA TRẺ – VÀ MỘT XÃ HỘI ĐÃ VÔ CẢM ĐẾN TẬN CÙNG

Cầu Bến Thủy – dòng sông Lam năm nay chảy chậm hơn, như thể chính con nước cũng không nỡ cuốn trôi hai sinh linh bé nhỏ vừa rời khỏi trần gian.

Người cha ôm hai đứa con nhảy xuống sông.

Người đời thương hai đứa trẻ, giận người cha.

Nhưng nếu chỉ dừng ở đó, thì ta chưa hiểu hết bi kịch của chính mình – của một xã hội đã để con người bế tắc đến mức giết con rồi chết theo.

Tôi không viết để xúc phạm người đã chết. Tôi viết để hỏi: chúng ta đã làm gì để con người không còn muốn sống?

Một người cha không tự nhiên biến thành kẻ sát nhân. Trước khi gieo mình xuống nước, hẳn đã có hàng trăm đêm mất ngủ, hàng nghìn lần bị khinh miệt, bị dồn ép, bị lạc lõng giữa cuộc đời. Xung quanh anh ta là gì? Là những cái nhìn lạnh lùng của họ hàng, những lời gièm pha của xóm làng, những tòa án đạo đức rẻ tiền trên mạng xã hội, và cả một thể chế quản trị gia đình – hôn nhân – xã hội quá thờ ơ với nỗi đau tinh thần của con người.

Hai đứa trẻ chết vì người cha. Nhưng người cha ấy cũng chết vì chúng ta, vì một xã hội coi “ly hôn” là thất bại, coi “trầm cảm” là yếu đuối, coi “đàn ông” là phải gánh hết mà không được gục ngã.

Chúng ta sống giữa thời đại của những “giá trị gia đình” được hô hào, nhưng không có lấy một nơi trú ẩn cho linh hồn đang tuyệt vọng.

Làm cha làm mẹ, làm chồng làm vợ — xin hãy nghĩ đến con trẻ trước khi giận hờn nhau, trước khi nhẫn tâm đẩy nhau ra xa.

Và những người cầm quyền, những người làm luật, xin hãy nhìn lại xem, vì sao đất nước này chưa có nổi một hệ thống tư vấn tâm lý cộng đồng, một đường dây nóng có thật sự lắng nghe, một nền giáo dục dạy con người cách sống với tổn thương thay vì chôn vùi nó trong im lặng.

Hai đứa bé kia  – các con không đáng phải chịu cái chết này.

Thế gian này có thể quá khổ, quá lạnh, nhưng Chúa là Đấng thương xót.

Cầu xin Thiên Chúa đón nhận linh hồn hai con về bên Người – nơi không còn nước mắt, không còn nỗi sợ, nơi cha mẹ các con sẽ thôi oán giận mà chỉ còn tình yêu thuần khiết.

Còn chúng ta – những người sống – xin đừng để có thêm một cái chết nào nữa chỉ vì xã hội này không chịu học cách yêu thương.


 

*BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ CỦA ÔNG TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ TRONG NGHĨA TRANG ĐÔ THÀNH – SÀI GÒN

Xen Pham

 *BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ CỦA ÔNG TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ TRONG NGHĨA TRANG ĐÔ THÀNH – SÀI GÒN

Trước năm 1975, ngoại ô Sài Gòn có một nghĩa trang rộng lớn, được đặt tên là “Nghĩa trang Đô Thành”, nằm trên đường Lê Văn Duyệt (nối dài Sài Gòn) – đối diện là trại lính Nhảy dù Nguyễn Trung Hiếu, và sau lưng là Cư xá Sĩ Quan Chí Hòa (Bắc Hải).

Nghĩa trang này bị giải tỏa vào năm 1998, một phần đất phía sau bị chia chác biến thành nhà ở, còn một phần mặt tiền trở thành Công viên Lê Thị Riêng.

Khi làm việc đào phá tại nghĩa trang này vào ngày 4.1.1999, lao công bất ngờ tìm thấy mộ của ông Trần Phú (Tổng bí thư đầu tiên của đảng CSVN).

Qua đó, sau 68 năm ngày ông Trần Phú chết, nhà cầm quyền ở thành Hồ mới “phát giác” ra một “chứng tích lịch sử” vô cùng quan trọng – để rồi ngày 12.1.1999 vội vã đưa số xương cốt này về tái an táng tại quê nhà của ông ở tỉnh Hà Tĩnh.

Câu chuyện “bí ẩn’ là ở chỗ, tại sao mộ của một Tổng bí thư đảng CSVN lại nằm trong khu Nghĩa trang Công Giáo, ở phía sau Nghĩa trang Đô Thành (sát với con rạch của Cư xá Sĩ quan Chí Hòa).

Nơi  dành riêng cho những người có đạo (có tên Thánh) mới được chôn cất.

Và tại sao tư liệu và lịch sử Đảng CSVN chỉ viết ông bị bắt và mất vào cuối năm 1931, ngoài ra “không ai biết ông mất trong hoàn cảnh nào và chôn cất ở đâu”.

Theo lịch sử hình thành Đảng Cộng Sản ở VN, thì ông Trần Phú là “học trò xuất sắc của Chủ tịch HCM”, được ông Hồ đưa về từ Quảng Châu vào tháng 4 năm 1930.

Cuộc đời làm “Kách Mệnh” của Trần Phú thật ngắn ngủi.

Vào ngày 18.4.1931 ông Phú bị Pháp bắt giam, nhưng đến ngày 6.9.1931 (tức chỉ sau 5 tháng) đã qua đời tại bệnh viện Chợ Quán vì bệnh lao, lúc mới 27 tuổi

(như vậy khó mà có thể tạo hào quang cho ông Phú là đã bị Thực dân hành hạ dã man đến chết trong tù).

Mới đây trên facebook của ông Trần Đăng Phiệt có nói đến việc mộ của ông Trần Phú được tìm thấy ở Đất Thánh họ đạo Chợ Quán nằm sau Nghĩa trang Đô Thành, với mộ bia và tên tuổi đầy đủ.

Nhà cầm quyền CSVN cũng bán tín bán nghi, nhưng sau khi thử DNA thì xác nhận đây chính là hài cốt của ông Trần Phú nên mới cho đem về Bắc, để lập khu tưởng niệm.

Câu chuyện ly kỳ ở chỗ:

“Một cụ già lão thành Cách mạng (bị giam chung với ông Trần Phú)

ở Trà Vinh khi tình cờ biết tin “tìm được mộ TBT Trần Phú” trên báo SGGP đã viết một lá thư dài tường thuật đầy đủ quá trình bị giam giữ, theo đạo, rửa tội, chết  và an táng của ông Trần Phú tại nhà thương Chợ Quán rồi gởi cho Cha sở xứ đạo Chợ Quán vào ngày 03.7.2018″.

Cha sở họ đạo Chợ Quán lúc đó là Linh mục FX Lê Văn Nhạc; Ngài đã kiểm tra lại tài liệu lưu trữ của Giáo xứ giai đoạn 1930-1940 thì phát giác sổ rửa tội năm 1931 có ghi tân tòng Phê-rô Trần Phú.

Sau đó ngài cho sao chụp hồ sơ lưu sổ rửa tội, và bức thư của cụ lão thành Cách mạng Trà Vinh ra làm ba bản. Một gởi cho Chính quyền TP, một gửi lên tòa Tổng Giám mục SG, một lưu tại giáo xứ.

Hiện nay tại bệnh viện Nhiệt Đới (nhà thương Chợ Quán cũ) số 764 Võ Văn Kiệt, P.1, Q.5; bước vào cổng phía tay trái có một công viên nhỏ và tượng đài Đức Mẹ nay vẫn còn lưu giữ, là nơi các dì phước thời xưa mỗi buổi chiều đến thăm nom, chăm sóc bệnh nhân và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân có đạo được rước Chúa.

Vào các chiều thứ bảy, các dì tổ chức dạy Giáo lý và có các Cha đến giải tội.

Ông Trần Phú là một trong những bệnh nhân được cảm hóa, tin Chúa và cảm mến Chúa để được rửa tội tại đây.

Đi vào hành lang bên tay phải, nhà cầm quyền cho dựng lại “một chuồng cọp”

nói là nơi giam giữ ông Trần Phú lúc được đem đến đây chữa bệnh.

Người ta cũng dựng lên một bức tượng của ông tại đó.

Một nữ y tá làm việc lâu năm tại nơi này cho biết:

“Cái nhà đá nói là nơi giam giữ ông Trần Phú là chuyện tưởng tượng.

Bởi thời đó Bệnh viện là bệnh viện, và nếu là phạm nhân thì họ chỉ cần còng tay vào giường và có người canh gác là đủ”.

Riêng Cha sở Lê Văn Nhạc nay đã 80 tuổi. Ngài đang nghỉ hưu tại GX Hạnh Thông Tây, Gò Vấp”.

(Hết trích).

Cần biết, một người trưởng thành xin rửa tội vào đạo Công Giáo thủ tục còn khó hơn đứa trẻ sơ sinh.

Giáo hội đòi hỏi người tân tòng phải học đạo, có người “đỡ đầu”,

và trí óc còn minh mẫn (nếu là bệnh nhân).

Câu chuyện trên, chắc chắn không được nhà cầm quyền CSVN công nhận, bởi Lm Lê Văn Nhạc cho biết, ngài từng được Cán bộ CS đến hỏi thăm khi nhận được “hồ sơ” về việc rửa tội xin vào đạo Công Giáo của ông Trần Phú, và yêu cầu ngài không phổ biến tin tức này.

Và nếu phải nói về việc “ngoài dự kiến” không hay ấy, các văn nô viết lịch sử Đảng cũng sẽ nói “bọn thực dân và tay sai” đã ép buộc Đ/c Trần Phú vào đạo,

để phá bỏ hình ảnh “vô thần” của Tổng Bí Thư.

Cho đến nay CSVN đã có 12 người làm TBT, nhưng rất nhiều ông khi chết đã bị hé lộ chuyện vẫn tin tưởng có thế giới bên kia, chứ không “vô thần” như lúc tuyên thệ vào Đảng.

Ông HCM cũng nói khi chết sẽ đi gặp Các Mác và Lê Nin.

Ông Lê Khả Phiêu trong nhà có bàn thờ Phật to tướng, và khi hạ huyệt có nhiều sư tụng kinh gõ mõ..v.v.

Hiện nay, khi đi vào Công viên Lê Thị Riêng, người ta sẽ thấy phía bên trái có một tượng đài được xây dựng vào tháng 9.2005 dành cho ông Trần Phú với phù điêu mang hình cờ Đảng, cùng câu nói “nổi tiếng” của ông: 

“Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.

Cần biết, trước 1975 đây là nơi đầy “oan khiên, chướng khí”.

Vào năm 1963, gần trăm xác của các binh lính trung thành với TT Ngô Đình Diệm bị quân đảo chính bắn chết, và được đưa về đây.

Đến năm 1968 hơn 2 ngàn xác của Cộng quân bị hạ sát trong trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân cũng được “tập kết” thành một lỗ.

Thê thảm hơn, vào ngày 30.4.1975 trên 3 ngàn xác chết của binh lính hai bên, và thường dân cũng được kéo về bỏ chất đống ở nghĩa địa, khiến dân chúng quanh vùng Ngã Ba Ông Tạ phải “ngộp thở” vì mùi tử khí trong nhiều ngày.

Và tất cả những người xấu số chết vào giờ thứ 25 này, đều đã được vùi chung trong một hố chôn tập thể.

Chưa hết, sau Tháng Tư Đen 1975, nhiều chuyến vượt biên không thành với vài chục xác chết của dân vượt biển (ở ấp Hàng Dầu) cũng được chở về đây, chờ người thân đến nhận.

Bên trong Công viên Lê Thị Riêng hiện nay còn có một hồ nước,  nhưng không ai dám cho con em đến gần, bởi “các hồn ma nghĩa địa” đã kéo nhiều em chết chìm khi chơi dưới hồ, dù nước không sâu!

*Nguyễn Vy Túy

(posted by Người Viễn Tây )


 

Bệnh viện Bà Rịa bị tố không cấp cứu, bỏ mặc nạn nhân đến chết

Ba’o Nguoi-Viet

October 17, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Gia đình một nam thanh niên 19 tuổi, tố bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa không cấp cứu, khiến con họ chết oan sau khi bị tông xe trong lúc nhà thương này bác bỏ cáo buộc.

Trong bài đăng trên mạng xã hội, Facebooker Thanh Xuân kể, hôm 12 Tháng Mười, anh Điểu Đặng Quan Tâm, 19 tuổi, sinh viên trường Đại Học Văn Lang, Sài Gòn, về thăm nhà tại xã Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây, nay thuộc TP.HCM.

Anh Điểu Đặng Quan Tâm và bài đăng của gia đình tố bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa tắc trách. (Hình: Chụp qua màn hình)

Khi từ nhà quay lại Sài Gòn, nam thanh niên bị đụng xe, nằm co giật trên đường và được đưa vào bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa.

Theo bài đăng, nhà thương này chờ thân nhân anh Tâm đến thì mới tiến hành cấp cứu cho nạn nhân trong lúc gia đình anh này không hề hay biết sự việc.

Một bác sĩ sau đó kể lại giây phút cuối, anh Tâm thều thào gọi “Chúa, Chúa” rồi qua đời vào sáng hôm sau.

Đến trưa hôm 13 Tháng Mười, cha mẹ anh Tâm thấy tin con trên Facebook nên đến nhà xác của bệnh viện đón về lo hậu sự.

Nhiều Facebooker sau đó chia sẻ bài đăng, kêu gọi công lý cho nạn nhân.

Tờ Người Lao Động hôm 17 Tháng Mười dẫn phản hồi của Bác Sĩ Dương Thanh, giám đốc bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa rằng bài đăng của người nhà anh Tâm là “chưa chính xác, gây ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động chuyên môn của bệnh viện.”

Nhà thương này đề nghị Công An TP.HCM điều tra và xử lý các thông tin sai sự thật được đăng tải trên mạng xã hội.

Thông cáo báo chí của bệnh viện Bà Rịa cho biết vào chiều ngày 12 Tháng Mười, Khoa Cấp Cứu tiếp nhận một nam thanh niên chưa rõ họ tên, được xe cứu thương đưa vào trong tình trạng “bệnh kích thích, không tiếp xúc được, không có thân nhân đi cùng.”

Bệnh viện này cho rằng nam thanh niên, tức anh Điểu Đặng Quan Tâm “đã được khám bệnh, chỉ định thực hiện cận lâm sàng và chữa trị” trước khi rơi vào hôn mê sâu và thiệt mạng.

Bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa. (Hình: Người Lao Động)

Bệnh viện sau đó làm thủ tục chuyển thi thể vào nhà xác do chưa xác định được thân nhân của anh Tâm.

Facebooker Diễm Đặng, chị của anh Điểu Đặng Quan Tâm, viết trên trang cá nhân: “…Tại sao bệnh viện [Bà Rịa] lại không cứu người khi chưa có người nhà?  ‘Lương y như từ mẫu’ để làm gì? Bệnh viện lập ra để cứu người hay để chỉ cứu những ai có người nhà, có tiền? Một mạng người ra đi, không ai báo tin cho gia đình, không ai đứng ra giúp đỡ. Công lý ở đâu? Lương tâm ở đâu?” (N.H.K) [kn]


 

TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC CỦA ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH

Kimtrong Lam                                                   

TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC CỦA ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH.

       Trong ký ức của người Sài Gòn-Gia Định sinh trưởng vào những thập niên 1940 -1950 trở về trước, hình ảnh “Lăng Ông Bà Chiểu” là một trong những biểu tượng đậm nét, nhất là vào những ngày lễ Tết, việc đi viếng Lăng Ông trở thành một tập quán thiêng liêng mà mỗi gia đình đều không bao giờ sơ suất. Trong nghi ngút khói hương thành kính, lòng mỗi người nhớ về Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Thành, như một nhân vật lỗi lạc đã góp công lớn trong việc gầy dựng vương triều Nguyễn, mang lại thái bình thịnh trị cho một dải đất trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên và tạo được thế mạnh trong quan hệ với các nước láng giềng.

* LÊ VĂN DUYỆT – HỔ TƯỚNG THỜI NGUYỄN ÁNH – GIA LONG.

      Năm 1763, khi cư dân Lê Văn Toại, người gốc Quảng Ngãi, chứng kiến sự ra đời của cậu bé Lê Văn Duyệt tại vàm Trà Lọt – Định Tường (nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), nhìn thấy tình trạng bất túc (về cơ quan sinh dục) của con trai, ông chẳng bao giờ nghĩ rằng có một ngày nào đó, con mình trở thành một nhân vật hiển hách bậc nhất triều đình.

     Trong thời thơ ấu, cậu bé Duyệt chỉ có một đam mê lớn nhất là … đá gà. Thế rồi năm 1780, một bước ngoặt xảy ra khi ông tình cờ gặp được chúa Nguyễn Ánh đang trên đường ẩn lánh trước sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Với thể trạng bất túc bẩm sinh, Duyệt chỉ có thể làm một Thái giám tầm thường chuyên phục vụ nội cung. Thế nhưng, ông đã không cam lòng với thân phận đó, vì sau những bước gian truân cùng chúa Nguyễn nơi đất khách, ông đã chứng tỏ cho mọi người một nhãn quan nhạy bén về quân sự, một khả năng cầm quân đầy hứa hẹn.

      Nhờ đó, vào năm 1793, từ một Thuộc nội Cai đội (chánh ngũ phẩm), Lê Văn Duyệt được thăng Thuộc nội Vệ úy (chánh tam phẩm), một biệt lệ chưa từng thấy trong giới hoạn quan lúc bấy giờ.

      Những năm cuối thập niên 1790, khi nhà Tây Sơn, sau cái chết của nhà lãnh đạo kiệt xuất Quang Trung-Nguyễn Huệ (1792), đã để lộ những khiếm khuyết trầm trọng, từ sự lộng quyền của Thái sư Bùi Đắc Tuyên đến những mâu thuẫn nội bộ hoàng gia, Lê Văn Duyệt tỏ rõ là một dũng tướng dưới trướng chúa Nguyễn Ánh, không một trận đánh nào do ông cầm quân mà thất bại. Hiển hách nhất là trận Thị Nại vào tháng giêng âm lịch năm 1801, trận đánh quyết định cho cả một cuộc chiến.

     Lúc này, ông đã là Đô Thống chế Tả dinh quân thần sách, hàm Tòng nhất phẩm. Trong trận thủy chiến sống mái với hổ tướng Tây Sơn Võ Văn Dũng, bộ tướng của ông là Võ Di Nguy bị trúng đạn tử thương, chúa Nguyễn Ánh muốn lui binh, nhưng ông thân hành cầm quân xốc tới, dùng hỏa công thiêu cháy hầu hết thuyền chiến Tây Sơn. Sử xác định đây là võ công lớn nhất trong cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn.

      Sau khi vua Gia Long lên ngôi (1802), kết thúc một thời kỳ biến động dài trên đất nước, võ nghiệp của Lê Văn Duyệt không vì thế mà kém hào hùng. Ở Quảng Ngãi, có người Man Thạch Bích thường gọi là “Mọi Đá vách”, rất nhiều lần nổi lên đánh phá, quan quân địa phương không trừ nỗi, cứ mỗi lần như thế, dù ở triều đình hay ở Gia Định Thành, Lê Văn Duyệt đều được điều ra đó để dẹp yên. Đặc biệt năm 1819, ông được cử đi kinh lược đất Thanh Hóa, Nghệ An, nghe oai danh ông, bọn giặc cướp tại địa phương vừa ra hàng, vừa giải tán, chỉ sau một thời gian ngắn, tình hình rối ren chấm dứt; ông dâng sớ xin chấn chỉnh bộ máy cai trị ở địa phương, tha thuế cho dân, từ đấy hai trấn này yên hẳn (Quốc triều sử toát yếu – NXB Văn học, Hà Nội 2002, trang 138).

* LÊ VĂN DUYỆT – NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC.

     Cùng với Bắc Thành, Gia Định Thành là tổ chức hành chánh đặc biệt thời Gia Long, gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên), trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên, phần lớn là đất mới thu phục, dân cư ô hợp từ khắp nơi tụ hội về sinh sống. Năm 1812, Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành, quyền hạn cao hơn cả cấp Thượng thư. Ông không chỉ là một hổ tướng, mà còn là một nhà cai trị lỗi lạc. Tính chung, thời gian ông đảm trách chức chưởng Tổng trấn là hơn 15 năm, gồm 3 năm thời Gia Long (1812-1815) và 12 năm thời Minh Mạng (1820-1832), đủ để ông làm được nhiều điều, cả ở cương vị một quan cai trị lẫn người đại diện triều đình trong giao dịch, ứng xử với lân bang.

        Nhận thấy đất Gia Định phần nhiều là dân tứ chiếng giang hồ, đời sống phức tạp, dễ gây ra tình trạng rối loạn về trật tự trị an, ông cho thành lập các đồn điền, dồn những kẻ du thủ vào đó, vừa tiện giúp đỡ họ mưu sinh, vừa dễ kiểm soát. Chẳng bao lâu, số dân đinh tại những nơi này tăng lên rõ rệt. Có lần, vua Minh Mạng đã ban dụ khen ngợi Tả Quân về việc này, vì sự gia tăng số cư dân kiểm tra được chứng tỏ chính sách an dân thực hiện có hiệu quả. Riêng đối với giặc cướp tại địa phương, “Duyệt đặt ra những điều luật ngăn cấm minh bạch, ra lệnh cho các quan chức sở tại mật báo quan biết những tên giặc cướp đó để bắt ngay chúng về trừng trị, lại ra thông cáo cho giặc cướp biết nếu chúng tự mình ra thú, thời sẽ được thu dụng. Từ đó trở đi, giặc cướp mới hết, dân cư nhờ thế mà được yên …”. (Giá Sơn Kiều Oánh Mậu – Bản triều bạn nghịch liệt truyện – Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn – 1963 – trang 23).

      Về bản thân nhà cai trị, cho dù là quan đại thần nhất phẩm triều đình, ông luôn tỏ ra khắt khe, nghiêm cẩn với chính mình. Năm 1825, một viên chức thuộc tào Binh tại Gia Định là Bùi Phụ Đạo lỡ tay đóng triện ngược trong sổ binh dâng về triều, vua Minh Mạng giao cho đình thần nghị xử, cho dù sơ suất đó không có gì là lớn lao. Được tin này, Tả quân cho rằng đó là lỗi mình không trông nom nên dâng biểu xin nhận tội. Vua Minh Mạng đã miễn trách và ban dụ rằng: ”Duyệt là bậc đại thần ở nơi bờ cõi, phàm trong hạt việc lợi thì làm, việc hại thì bỏ, người có tài thì tiến lên, người không tài thì bãi đi, khiến quan lại được xứng chức, nhân dân được yên nghiệp, như thế thì quan to sợ phép, quan nhỏ giữ liêm, ai là không biết khuyên răn, phép làm cho quan lại trong sạch như thế chẳng là đẹp tốt sao? Điều mà trẫm đòi ở Duyệt là ở đó, mà Duyệt làm được xứng chức cũng là ở đó …”. (Đại Nam thực lục – tập 2 – NXB Giáo Dục – 2004 – trang 464).

     Nhận xét về ông, những lời lẽ trên của vua Minh Mạng tưởng là đã quá đủ. Tinh thần trách nhiệm mà ông thể hiện đến nay vẫn còn có giá trị thực tiễn cho hậu thế. Bản tính ông thẳng thắn và trung thực nên có những việc làm không chính đáng của triều đình là ông phản ứng ngay.

    Những năm 1826 -1827, triều đình lấy cớ hai viên chức người Pháp là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đã xin về Pháp, không còn ai làm thông ngôn, yêu cầu các địa phương vận động giáo sĩ Pháp về Huế đảm trách giúp việc này. Trong chức trách của mình, Lê Văn Duyệt vận động hai giáo sĩ Gagelin và Odorico ra Huế; nhưng không lâu sau, ông được biết việc tìm thông ngôn chỉ là cái cớ, mục đích chính của triều đình Huế là giam lỏng hầu hết các giáo sĩ tại kinh thành, trong đó có cả Giám mục Taberd.

     Cảm thấy có trách nhiệm trong chuyện này, ông vội vàng cho sao một số trong 14 bức thư mà chúa Nguyễn Ánh đã viết gửi cho Giám mục Bá Đa Lộc cùng một số giáo sĩ và viên chức Pháp (để yêu cầu hỗ trợ đánh nhà Tây Sơn) vào những thập niên cuối thế kỷ 18, rồi xin ra Huế bệ kiến nhà vua. Sau một thời gian chờ đợi, ông được vua Minh Mạng cho về triều để dự lễ lục tuần khánh tiết (mừng thọ 60 tuổi) của Thuận Thiên Hoàng Thái hậu. Mấy tháng sau chuyến đi đó của ông, Giám mục Taberd và các giáo sĩ được thả về địa phương.

Trong bức thư đề ngày 8.2.1828 đăng trên Tập san Truyền bá Đức tin (tập IV), Giám mục Taberd đã viết về ông như sau: ”… Ông xứng đáng được người Pháp nhớ ơn …Ông được gọi là Thượng công, là người đầu tiên và cũng là người duy nhất trong số các quan lại được nhà vua nễ sợ … Những quan lại khác cũng rất yêu mến ông, bởi vì họ biết rằng ông là người chính trực; bọn trộm cướp rất sợ ông vì chúng biết là rơi vào tay ông sẽ bị chém đầu, mà không có hi vọng gì dùng tiền bạc để mua chuộc ông, như đã mua chuộc nhiều người khác …”. (Bulletin des Amis du Vieux Hue số 1 năm 1926, trang 2-3).

* Về mặt giao dịch với lân bang.

Ông là người đã mang lại cho triều đình Huế một uy tín lớn lao nhất trong con mắt các láng giềng. Năm 1813, trong lúc nội tình Chân Lạp (Campuchia ngày nay) rối ren, nước Xiêm (Thái Lan) có ý mang quân sang thực hiện những ý đồ định sẵn, ông thân hành dẫn hơn 13.000 quân đưa quốc vương Chân Lạp là Nặc Chân về nước. Đến nơi, ông ban ngay quân lệnh nghiêm cấm cướp phá dân lành, vỗ về trăm họ, quân Xiêm thấy thế vội rút về nước.

      Từ đó, vua Chân Lạp xem triều đình Huế là chỗ dựa vững chắc trước sự đe dọa của những lân quốc khác. Hàng năm, cứ vào chiều 30 Tết, quốc vương Chân Lạp thân hành đến Sài Gòn để sáng mùng một Tết, cùng Tả Quân Lê Văn Duyệt tới Hành cung trong thành Gia Định vọng bái hoàng đế Việt Nam và sau đó ra Đồng Tập Trận (sau Pháp gọi là Plaine des Tombeaux: Đồng mả mồ) xem binh sĩ thao diễn. Đó cũng là dịp để Tả quân cho người lân quốc tỏ rõ sức mạnh quân sự của Việt Nam.

     Tuy nhiên, không chỉ giao dịch với lân quốc trên thế mạnh, ông còn biết hành xử hợp với lẽ phải ở đời. Có lần Chân Lạp mang tặng nước ta 80 con voi, ông thấy nước bạn còn nghèo, lại không thể không nhận voi, nên tâu xin và được vua Gia Long cho xuất kho tặng lại họ một khoản tiền tương xứng với số voi nhận về … Vào thời ấy, các sứ bộ Việt Nam đi sang Diến Điện (Miến Điện, nay là Myanmar) trở về kể rằng khi tiếp sứ, quốc vương nước này vẫn thường bắt đầu cuộc nói chuyện bằng câu hỏi: ”Lê công có khỏe không?”. Điều này cho thấy oai danh ông khiến cả vùng Đông Nam Á nễ phục.

* LÊ VĂN DUYỆT – ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG.

    Sử chép rằng Tả quân Lê Văn Duyệt là người tính tình bộc trực đến độ ngang tàng. Năm 1800, trong một trận đánh, ông là Phó tướng của Nguyễn Văn Thành, trước khi xung trận, Thành rót rượu mời ông: ”Uống rượu để thêm sức mạnh”, ông từ chối thẳng thừng: “Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt coi không trận dữ, cần chi phải uống rượu …”. (Quốc triều chánh biên – Nhóm nghiên cứu Sử Địa Sài Gòn – 1972 – trang 37). Ông Thành cả thẹn, từ đấy hai người ít gần gủi nhau như trước.

     Trong thời gian ông tại chức Tổng trấn Gia Định Thành, dinh cơ của ông trải dài từ đường Thái Văn Lung ngày nay đến sau dinh Thống Nhất. Tư thất phu nhân Tả quân, bà Đỗ Thị Phẫn (vốn là một cung nữ, được vua Gia Long thưởng cho ông để làm bầu bạn), nằm trong khuôn viên dinh Thống Nhất ngày nay. Vườn hoa nơi ông đến để ngắm hoa, người đương thời gọi là Vườn Ông Thượng (thời Pháp thuộc là vườn Bồ-Rô, sau là vườn Tao Đàn, nay là Công viên văn hóa thành phố) vì danh nghĩa Thượng công là tiếng xưng hô phổ biến nhất trong dân gian.

    Cuộc sống thanh đạm, bình dị của Tả quân được George Finlayson, một thành viên trong phái bộ Crawfurd của Anh đến Sài Gòn năm 1822, miêu tả trong một bút ký kể lại lần được diện kiến ông và được ông cho xem trận voi hổ quyết đấu: …”Tư thất của ông to lớn nhưng giản dị, cả bên trong lẫn bên ngoài đều không có trang trí gì … Quan Tổng trấn ngồi ở cuối phòng, trên một cái sập rất đơn giản, rộng khoảng 4 m2, có trải chiếu và đặt một, hai chiếc gối tựa. Trên một cái sập thấp hơn, kê ở phía trái, là chỗ ngồi của ông Phó Tổng trấn, một cụ già dung mạo tao nhã, có lẽ tuổi đã quá thất tuần … Quan Tổng trấn, như lời thiên hạ kể, là một hoạn quan, vẻ mặt của ông xác định điều đó. Ông vào khoảng 50 tuổi (năm 1822, ông Duyệt 59 tuổi – LN), có cái nhìn thông minh và một vẻ năng động mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần. Gương mặt ông tròn trịa và hiền lành, không râu và có những nếp nhăn. Trang phục của ông chẳng những giản dị mà còn có vẻ thiếu chăm chút, như áo quần của những kẻ nghèo khổ nhất …”.

* CHÚT HUYỀN SỬ VỀ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT

      Sau khi Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 âm lịch năm 1832, trong con mắt người dân Sài Gòn – Gia Định xưa, ông là hiện thân của sự oai linh và hiển hách. Năm 1835, cuộc nổi dậy do người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi và các tướng sĩ tại thành Phiên An khởi xướng bị triều đình Huế đánh tan, dù mất đã lâu, ông vẫn bị triều đình khép vào 7 tội trảm (xử chém), 2 tội giảo (treo cổ), ngôi mộ ở lăng Ông ngày nay bị xiềng lại và dựng tấm bia khắc tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ”. (Nơi chịu tội của tên hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt).

     Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện kể rằng: ”Mộ của Duyệt ở bên thành Gia Định từ Minh Mạng năm 16 (1835) trở đi, những lúc trời âm u, đêm yên tĩnh, có tiếng ma quỷ khóc than, hoặc tiếng ồn ào người ngựa; dân cư nơi đó không dám lại gần, người đi đường đều dời lối khác để tránh đi. Đến lúc ấy, vua sai quan địa phương đem giấu bỏ tấm bia và cho con cháu tự ý sửa chữa ngôi mộ, thì tiếng ma quỷ trong ban đêm mới dứt …”. (Sđd – trang 67, 69).

     Những câu chuyện truyền tụng đó không có thật về mặt khoa học, nhưng về mặt tâm linh, nó phản ảnh sự đồng cảm của cư dân đất Gia Định trước nỗi oan khuất của một lão thần từng vào sinh ra tử, góp công lớn trong việc xây dựng vương triều Nguyễn, nhưng chỉ vì sự u mê, hẹp hòi của đấng quân vương mà sau khi mất rồi, vẫn còn bị đối xử như một kẻ tội đồ …

****

VÌ SAO ĐÃ CÓ MỘT THỜI TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT ĐƯỢC COI LÀ NHÂN VẬT “CÓ VẤN ĐỀ”?

     Năm 2009, trong một cuộc trả lời phỏng vấn của tạp chí Đương Thời số 4 (28), tháng 4.2009, trước yêu cầu trình bày quan điểm về các “nhân vật phức tạp” Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, tôi đã trình bày ý kiến về nhân vật Lê Văn Duyệt như sau:

   “… – Những gì xảy ra trong quá khứ cho chúng ta thấy rằng các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, thường được nhìn dưới nhiều lăng kính khác nhau, song có một thứ lăng kính không bao giờ méo mó hay sai lạc, đó là “lăng kính nhân dân”. Sự tồn tại của lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông Bà Chiểu), đền thờ Kinh lược sứ Phan Thanh Giản, sau nhiều biến chuyển của thời cuộc, đã nói lên điều đó.

    Có một thời, chúng ta quá “rạch ròi” trước cái tốt và cái xấu, cái gì chúng ta cho là tốt thì tốt toàn diện, cái gì chúng ta cho là xấu thì xấu triệt để. Nhưng lịch sử không có cái gì tuyệt đối cả. Chúng ta đánh giá nhà Tây Sơn là “toàn diện” nên cái gì đi ngược lại, chống lại quan điểm, sự tồn tại của nhà Tây Sơn thì đều là “phi nghĩa” hết. Nếu bình tâm mà xét, bên cạnh chiến công hiển hách mà người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ đã lập được trong công cuộc chống ngoại xâm năm 1789, nhà Tây Sơn sau năm 1792 chỉ còn là một bóng mờ của quá khứ, vua Cảnh Thịnh còn quá nhỏ, không tạo được một dấu ấn nào, đại thần lộng quyền làm điều xằng bậy, anh em trong nhà chống lại nhau …

Trong tình cảnh đó, sự sụp đổ của nhà Tây Sơn trước lực lượng quân sự hùng mạnh của chúa Nguyễn Ánh là điều dễ hiểu. Cứ nhìn cách cư xử của người dân Bắc hà đối với vua tôi Cảnh Thịnh trong bước khốn cùng (năm 1802) cũng thấy được điều này. Tôi cho rằng chính quan điểm coi nhà Tây Sơn là “toàn diện” đã gián tiếp đưa những người từng góp công lớn trong việc kết thúc triều đại này vào hàng ngũ “phản diện”.

    Lê Văn Duyệt là một ví dụ tiêu biểu. Khi cư xử với ông như vậy, người ta quên rằng ông không dính dáng gì đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp, vì khi đó, ông đã mất gần 30 năm rồi; mảnh đất miền Nam trải dài từ Bình Thuận vào đến Hà Tiên giặc cướp không dám nổi dậy, người dân an cư lạc nghiệp, các lân bang hết sức tôn trọng triều đình Huế, là nhờ có ông. Khi còn nhỏ, đi học gần lăng ông, tôi thường nhìn thấy rất nhiều người Hoa đến đó thắp hương với tất cả niềm thành kính, và tôi ngộ ra rằng lòng biết ơn của con người thật kỳ diệu, nó không phân biệt quốc tịch, giai cấp hay những giá trị phù phiếm nào khác.

Tôi nghĩ rằng có lẽ cũng do quan điểm “toàn diện” trên, mà có một thời, các chúa Nguyễn cũng được xếp vào hàng ngũ những kẻ “phản động nhất trong lịch sử” và không ít người nhất định cho rằng triều Nguyễn để mất nước là do đã bế quan toả cảng (đến nay vấn đề này vẫn còn tranh cãi) và cấm đạo, cứ làm như thể nếu không có hai chính sách đó thì thực dân Pháp sẽ khoanh tay ngồi yên để chúng ta duy trì sự độc lập dài dài vậy. Sự chú tâm vào một quan điểm bảo thủ duy nhất khiến đôi lúc chúng ta quên đi một yếu tố quá rõ ràng là hành động của thực dân Pháp nằm trong khuôn khổ một kế hoạch tranh giành thuộc địa gay gắt với thực dân Anh tại châu Á lúc bấy giờ; và vào giữa thế kỷ XVIII, nghĩa là khoảng 100 năm trước ngày Pháp chiếm Việt Nam, theo đề xuất của một lái buôn Pháp là Pierre Poivre, Chính phủ Pháp từng cử người (Bá tước d’Estaing) mang quân đánh úp Phú Xuân của ta (cuộc hành trình bị bỏ dở nửa chừng tại eo biển Malacca vì những nguyên nhân khách quan).

    Cuối cùng, chỉ xin nhớ một điều là năm 1558, khi Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá thì giang sơn của ta chỉ mới đến Bình Định ngày nay, nếu các chúa Nguyễn không có những chính sách nội trị và ngoại giao sáng suốt, nếu đất nước không có những con người tài năng và tâm huyết như Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thoại, … thì chúng ta không thể có được dải giang sơn kéo dài đến tận mũi Cà Mau như bây giờ. Chỉ cần quên đi điều này, chúng ta đã biến mình thành những kẻ vô ơn đối với người đi trước rồi …”. (hết trích).

     Đã hơn 16 năm qua rồi, song hẳn là những quan điểm ấy vẫn chưa phải là thừa!

Sài Gòn 17.10.2025

    Lê Nguyễn

—– 

Nguồn: FB Lê Nguyễn.