Trịnh Bá Phương không phải người viết khẩu hiệu ở trong tù

Ba’o Nguoi- Viet

October 2, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Trịnh Bá Phương không viết những khẩu hiệu “Đả đảo Cộng sản” trong phòng giam nhưng chế độ Hà Nội vẫn áp đặt “án chồng án” để kéo dài án tù.

Cựu tù chính trị Nguyễn Bá Truyển nói như vậy trong một video clip công bố trên mạng xã hội ngày 28 Tháng Chín 2025, tức một ngày sau khi tòa án CSVN ở Đà Nẵng áp đặt thêm bản án 11 năm tù cho ông Trịnh Bá Phương với cáo buộc “tuyên truyền” chống chế độ độc tài đảng trị.

Ông Trịnh Bá Phương ra tòa sơ thẩm ở Hà Nội ngày 15 Tháng Mười Hai 2021. Ông bị kết án 10 năm từ vì bị vu cho tội “Tuyên truyền” chống chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Trong video clip đó, ông Nguyễn Bá Truyển nói rằng ông “hoặc tù nhân chính trị khác” đã viết hàng chữ “Đả đảo đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền. Đả đảo tòa án Cộng sản kết án oan tôi” trên bìa của tạp chí “Thời báo Kinh tế Sài Gòn”. Tờ tạp chí này được nhóm tù chính trị chuyền tay nhau đọc khi bị giam ở khu giam tù chính trị của nhà tù An Điềm tỉnh Quảng Nam.

Vợ ông Truyển đã mua tạp chí TBKTSG và nhật báo Tuổi Trẻ rồi gửi vào nhà tù An Điềm cho ông qua đường bưu điện. Ông và các bạn tù chính trị truyền tay nhau đọc.

Ông Truyển cho hay sau khi Trịnh Bá Phương bị kết án 10 năm tù trong một phiên xử ở Hà Nội, ông bị chuyển tới nhà tù An Điềm và ở chung phòng giam với ông Truyển khoảng một tháng trước khi ông Truyển chấp nhận sống lưu vong sang Đức thay vì chấp nhận ở tù tiếp tại Việt Nam và theo sự vận động của chính phủ Đức.

Thành viên Hội Anh Em Dân Chủ, ông Nguyễn Bắc Truyển, năm nay 57 tuổi, đã được thả ra khỏi nhà tù An Điềm ngày mùng 8 tháng Chín 2023, sau 6 năm ngồi tù với bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế. Ông bị vu cho tội “Hoạt động nhằm lật đổ” chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam. Loại bản án này được áp đặt lên đầu tất cả các thành viên Hội Anh Em Dân Chủ (AEDC) dù chỉ vận động nhân quyền, đa nguyên đa đảng, không kêu gọi bạo động.

Theo bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương thuật lại lời luật sư bào chữa và kể trên trang Facebook Thu Đỗ, trong phiên xử, ông Phương phủ nhận mình là người viết những khẩu hiệu đó và cũng không biết ai viết. Cai tù khám xét phòng ông khi ông đang tuyệt thực dài ngày, thấy tờ tạp chí có hàng chữ chống chế độ thì đổ ngay cho ông là thủ phạm.

Trong phiên xử ở Đà Nẵng ngày 27 Tháng Chín, luật sư biện hộ đã tố cáo phía công tố đã không làm giám định chữ viết và cũng không giám định dấu vân tay trên tờ tạp chí, mà chỉ đổ riệt tội cho ông Phương nhằm áp đặt thêm bản án 11 năm tù cho một người nông dân kiên cường chống lại chế độ độc tài.

Tại phiên xử ngày 27 Tháng Chín, khi ông Phương phát biểu những lời sau cùng, bà Đỗ Thị Thu kể lại rằng “phía luật sư và chồng tôi thường xuyên bị ngắt lời và không cho nói, chồng tôi còn bị Công An bóp mồm không cho nói lời sau cùng. Khi anh Phương và các luật sư bào chữa thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa Đinh Tấn Long cho là dài dòng và đe dọa dừng vai trò của luật sư tại đây, và xử chồng tôi vắng mặt.” Bà Thu còn cho biết, chồng bà không được tiếp cận hồ sơ vụ án để thực hiện quyền tự bào chữa. Còn các luật sư của ông cũng bị cản trở, không cho tham gia quá trình điều tra.

Còn cáo buộc ông Phương “làm, tàng trữ..” tài liệu, vật phảm chống phá chế độ thì vẫn không đủ căn cứ để khép tội vì “không có bất kỳ người nào tại trại giam An Điềm chứng kiến (nhìn thấy hoặc biết hoặc có thông tin” là ông Phương “là người làm/tạo lập ra dòng chữ trên tờ giấy A3 đã thu giữ ngày 18/11/2024”.

Dù vậy, chế độ Hà Nội muốn đè thêm một tảng đá nữa lên đầu ông Trịnh Bá Phương, năm nay 40 tuổi, kéo dài thêm thời gian cầm tù, tổng cộng trước sau 21 năm tù và thêm 5 năm quản chế nữa. Trên FB của bà Đỗ Thị Thu. hàng trăm người viết bình luận theo các thông tin về phiên tòa CSVN độc diễn tại Đà Nẵng không tiếc lời nguyền rủa một “chế độ man rợ bất nhân”, hay “không ác độc thì không phải là Cộng sản”.

Vợ con của ông Trịnh Bá Phương biểu tình tại nhà với những tấm bảng phản đối chế độ Hà Nội bỏ tù oan một người vô tội. (Hình: FB Thu Đỗ)

Ngày 2 Tháng Mười, Tòa Đại sứ Đức ở Hà Nội phổ biến lời phát biểu của ông Lars Castellucci về bản án mà CSVN áp đặt cho ông Phương là “Bản án kết tội nhà hoạt động vì quyền đất đai Trịnh Bá Phương thêm 11 năm tù đã phủ bóng đen lên tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Bản án này vi phạm quyền tự do ngôn luận. Tôi kêu gọi Chính phủ và Tư pháp Việt Nam thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ nhân quyền và xem xét lại bản án đối với ông Phương.” Ông Castellucci là Đặc phái viên về nhân quyền của Chính phủ Liên bang Đức.

Trên trang Facebook của bà Đỗ Thị Thu, người ta thấy đang có lời kêu gọi ký kiến nghị tập thể gửi nhà cầm quyền CSVN, Liên Hiệp Quốc và các Tổ chức Nhân quyền Quốc tế “Yêu cầu trả tự do ngay lập tức và đòi công lý cho chồng tôi Trịnh Bá Phương”.

[[https://sign.moveon.org/petitions/immediate-release-and-justice-for-vietnamese-human-rights-defender-trinh-ba-phuong?source=facebook&time=1759358089&utm_source]]

Ngày 1 Tháng Mười, bà Đỗ Thị Thu đến nhà tù An Điềm để thăm chồng thì nơi đây nói ông Phương không còn bị giam ở đây nữa nhưng cũng không cho biết ông bị đưa đi giam ở đâu. Theo luật tố tụng hình sự CSVN, ông Phương có quyền kháng án sơ thẩm trong vòng 15 ngày nhưng thân nhân của ông bị bưng bít tin tức hoàn toàn.(NTB)


 

Nềm tin của người dân chìm sâu hơn cả dòng nước- Nguyễn Thanh Sơn

Tiếng Dân News

Nềm tin của người dân chìm sâu hơn cả dòng nước

 Nguyễn Thanh Sơn

Thất bại lớn nhất của Hà Nội trong trận mưa hôm qua không phải là ngập đường mà là khoảng trống truyền thông khiến niềm tin của người dân chìm sâu hơn cả dòng nước.

Trong khủng hoảng, im lặng chính là thông điệp tệ nhất. Nhưng đó lại là điều mà người dân Hà Nội nhận được sau trận mưa lớn hôm qua. Khi phố phường biến thành sông, hàng nghìn phương tiện chết máy, hàng vạn người dân mắc kẹt, điều họ mong đợi không phải là báo cáo khô khan về lượng mưa. Họ cần những thông tin kịp thời, cụ thể và định hướng hành động: Đi đường nào an toàn, có hỗ trợ gì từ chính quyền, đâu là giải pháp tức thời. Đáng tiếc, những điều đó đã không đến.

Trận mưa tối qua có thể coi là một phép thử cho năng lực quản trị khủng hoảng của Hà Nội. Và phép thử ấy đã để lộ một khoảng trống lớn trong truyền thông chính thức. Trong khi nước ngập lên đến yên xe, người dân loay hoay trong hỗn loạn, các kênh chính thống gần như im lặng. Thông tin từ UBND thành phố hoặc các cơ quan chức năng chỉ xuất hiện nhiều giờ sau, dưới dạng báo cáo tình hình – vốn chẳng giúp ích cho ai đang kẹt giữa dòng nước.

Ngược lại, Facebook, TikTok và các diễn đàn cộng đồng lại trở thành “trung tâm điều phối” tự phát. Người dân cập nhật cho nhau tuyến đường ngập, chỗ nào có thể tránh, thậm chí kêu gọi hỗ trợ nhau qua các nhóm cư dân.

Khoảng trống mà chính quyền để lại đã nhanh chóng bị mạng xã hội lấp đầy. Trong khủng hoảng, công chúng không cần lý do. Họ cần một điểm tựa thông tin – một nguồn tin đáng tin cậy, cập nhật liên tục và có khả năng dẫn dắt hành động. Khi điểm tựa này vắng bóng, hỗn loạn là điều tất yếu.

Im lặng, trên thực tế, là một thông điệp. Và đó là thông điệp tồi tệ nhất mà một chính quyền có thể gửi đi trong khủng hoảng. Người dân cần biết phải tránh tuyến đường nào, làm gì để bảo vệ bản thân và tài sản. Khi không có thông tin chính thức, tin đồn và hình ảnh chưa kiểm chứng lan nhanh gấp bội. Nỗi lo và bức xúc nhân đôi: Vừa sợ thiên tai, vừa giận dữ vì thiếu minh bạch.

Một chính quyền hiện đại không chỉ xử lý ngập mà còn phải xử lý thông tin. Ngay cả khi chưa có giải pháp triệt để, việc xuất hiện sớm, thừa nhận vấn đề và cam kết hành động đã là một liều thuốc trấn an mạnh mẽ. Điều công chúng chờ đợi không phải là lời hứa “sẽ xem xét”, mà là một tín hiệu đồng cảm và chủ động.

Nếu nhìn sang Singapore, chúng ta sẽ thấy một cách tiếp cận hoàn toàn khác. Đây cũng là một đô thị nhiệt đới, thường xuyên đối mặt với mưa lớn và ngập úng. Nhưng công dân Singapore không bao giờ phải mò mẫm trong bóng tối thông tin. Ứng dụng MyENV cung cấp cảnh báo theo thời gian thực về thời tiết, lượng mưa, chất lượng không khí và thậm chí cả bản đồ ngập theo từng khu vực.

Bên cạnh đó, kênh Gov.sg hoạt động như một trung tâm truyền thông khẩn cấp, liên tục phát đi thông điệp ngắn gọn, rõ ràng, đa kênh – từ SMS, ứng dụng, mạng xã hội cho tới email.

Nguyên tắc ở đó rất rõ ràng: Lấy người dân làm trung tâm. Truyền thông khẩn cấp không nhằm bảo vệ hình ảnh chính quyền, mà để bảo vệ sự an toàn và niềm tin của công chúng. Đây chính là bài học cho Hà Nội: Thành phố cần một trung tâm truyền thông khẩn cấp, hoạt động 24/7, có quyền phát ngôn tức thời và sử dụng đa kênh.

Thời đại số không cho phép sự chậm trễ. Một giờ im lặng có thể bằng một ngày mất niềm tin. Sự thật là Hà Nội không thất bại vì mưa. Một thành phố hàng triệu dân khó tránh khỏi những trận ngập úng khi hạ tầng còn hạn chế. Người dân có thể chấp nhận cảnh ngập đường, nếu họ được thông báo kịp thời và hướng dẫn cách ứng phó.

Thất bại lớn nhất không nằm ở cơn mưa, mà ở chỗ niềm tin cũng bị nhấn chìm trong dòng nước. Niềm tin ấy khó xây lại, vì nó không dựa trên một công trình chống ngập, mà trên sự đồng cảm và minh bạch thông tin.

Nếu hôm qua là một cơn mưa, thì ngày mai có thể là một khủng hoảng lớn hơn: Một vụ cháy, một sự cố môi trường hay một dịch bệnh bất ngờ. Câu hỏi đặt ra là: Hà Nội sẽ tiếp tục im lặng, hay sẽ học cách dẫn dắt thông tin như những đô thị hiện đại?

Bởi quản trị đô thị không chỉ là xây thêm cống thoát nước. Đó còn là khả năng xây dựng một “hệ thống thoát khủng hoảng” trong tâm trí công chúng – nơi niềm tin có thể chảy thông suốt, không bị tắc nghẽn bởi sự im lặng.

https://baotiengdan.com/…/nem-tin-cua-nguoi-dan-chim…/

Ảnh: Đường phố Hà Nội biến thành sông. Nguồn: Báo Dân Trí


 

CHỢ RẨY – NƠI ĐÔNG ĐÚC NHẤT, CŨNG LÀ NƠI CÔ ĐƠN NHẤT… Lm. Anmai, CSsR

8 SÀI GÒN

 Lm. Anmai, CSsR

Đâu ai muốn phải vào đây! Đâu ai muốn mình có mã định danh ở chốn này?

Tôi, trong thân phận là người đau yếu và tôi đã có ở nơi này để rồi cảm nhận được cái phận người. Có điều tôi may mắn được điều dưỡng Th, được bác sĩ Ái (một vị bác sĩ hiếm gặp) đã lo lắng cho tôi trong tình thương thật sự của một Nhà Thương ngang qua bác sĩ Ái cho tôi.

Có một sự nghịch lý lạnh lùng và cay đắng luôn tồn tại giữa lòng thành phố náo nhiệt. Khi những khu chợ truyền thống dần thưa vắng vì sự lên ngôi của thương mại điện tử, khi những trung tâm thương mại lộng lẫy cố gắng níu chân khách hàng bằng ánh đèn và khuyến mãi, thì có một “khu chợ” duy nhất, lạ lùng và khắc nghiệt, luôn quá tải, luôn tấp nập, và không cần bất kỳ chiêu trò quảng cáo nào: Đó chính là Bệnh viện Chợ Rẩy hay cái từ mà tôi vẫn thích gọi hơn đó là Nhà Thương Chợ Rẩy.

Nếu bạn muốn thấy nơi nào con người phơi bày bản chất mong manh nhất, nếu bạn muốn thấy nơi nào tiền bạc trở nên vô nghĩa nhất, nếu bạn muốn thấy tận mắt những người thực sự cần sự giúp đỡ không phải bằng lời nói mà bằng hành động, hãy đến Bệnh viện Chợ Rẩy, đặc biệt là lúc nửa đêm.

Nơi đây không buôn bán hàng hóa, họ buôn bán hy vọng. Và giá của món hàng ấy, đôi khi, đắt đến mức không thể trả nổi.

Những ngày tháng sống trong khuôn viên Chợ Rẩy – không phải với tư cách bệnh nhân mà là người chứng kiến – đã để lại một vết hằn sâu trong tâm hồn tôi. Khung cảnh nơi đây là một thứ nghệ thuật siêu thực: bên ngoài cổng, xe cộ vẫn lao đi với tốc độ của cuộc sống mưu sinh; nhưng ngay khi bước qua cánh cửa bệnh viện, mọi thứ chùng xuống trong một nhịp thở chậm rãi, nặng nề của sự chờ đợi.

Nửa đêm, Chợ Rẩy trở thành một thành phố thu nhỏ của những thân phận.

Không còn những dãy ghế đá lạnh lẽo thưa thớt như ban ngày. Thay vào đó, hành lang chật chội của các khu cấp cứu, hồi sức, và các khoa phòng đặc biệt biến thành một khu lều trại tự phát. La liệt người thân trải những tấm chiếu cũ mòn, những tấm bìa carton mỏng manh, san sát nhau. Họ không phải là người vô gia cư; họ là những vệ sĩ trung thành nhất đang canh gác hy vọng sống còn của người thân.

Không gian ngột ngạt này không có sự thoải mái, chỉ có sự sẻ chia vô hình. Hàng trăm chiếc chiếu nhỏ trải dọc lối đi, nhường nhịn nhau từng tấc đất. Họ nằm co ro, gác đầu lên những chiếc ba lô cũ kỹ, hoặc đơn giản là bó gối ngồi tựa vào bức tường lạnh lẽo. Ánh đèn huỳnh quang trắng nhợt từ hành lang dường như không đủ sức xua tan bóng đêm của nỗi lo âu. Tiếng ho khan, tiếng trở mình trên chiếu, tiếng xe đẩy cấp cứu vun vút qua lại, và tiếng sụt sùi nén lại của những người đang cố gắng không khóc thành tiếng, tạo nên một bản giao hưởng buồn bã mà chỉ nơi đây mới có.

Chiếc ghế đắt giá

Những dãy ghế đá dài, chật kín người từ chiều tối, là nơi tá túc không tốn phí nhưng lại là nơi đắt giá nhất về mặt tinh thần. Họ ngồi đó, vai chạm vai, đầu gục xuống, nhưng không ai ngủ say được. Họ là thân nhân chờ tin bệnh nhân nặng đang hồi sức cấp cứu hoặc phải cách ly điều trị. Họ phải chấp nhận mọi khó khăn, ăn vội vàng suất cơm hộp nguội lạnh, thậm chí là nhịn đói, chỉ để giữ lấy chút hy vọng níu kéo sự sống.

Sự khắc nghiệt ở đây không phải do thiếu vật chất, mà là do sự bất lực trước sinh tử.

Không khí tại các khu vực chờ đợi là một thực tế khắc nghiệt mà không ai muốn đối mặt. Nó là sự pha trộn kinh hoàng giữa nỗi sợ hãi tột cùng và tia hy vọng mong manh như sợi chỉ mành.

Chờ đợi trong mòn mỏi

Việc chờ tin người thân cứ thế diễn ra liên tục, kéo dài trong sự mòn mỏi. Mỗi tiếng đồng hồ trôi qua mang theo sức nặng của hàng thập kỷ.Mỗi khi cánh cửa phòng Hồi sức Cấp cứu (ICU) hé mở, hàng chục con mắt lập tức đổ dồn vào. Người y tá, bác sĩ bước ra như một vị thần nắm giữ sinh mệnh. Tiếng gọi tên người bệnh là âm thanh có khả năng làm ngưng đọng cả không gian và thời gian.

Nếu là tin tốt – dù chỉ là dấu hiệu sống còn ổn định hơn chút – một tiếng thở phào nhẹ nhõm, một cái nắm tay siết chặt. Đó là chiến thắng nhỏ nhoi, là dầu bôi trơn giúp họ tiếp tục thức trắng đêm sau.

Nếu là tin xấu – một sự chuyển biến đột ngột, một lời khuyên chuẩn bị tinh thần – thì đó là lúc sự tĩnh lặng vỡ òa thành tiếng nấc bị kìm nén.

Bình yên là điều không có mặt ở nơi đây. Chỉ có những lời cầu nguyện thầm thì, những tiếng thở dài nặng trĩu, và đôi khi là sự im lặng tuyệt đối của những người đã quá kiệt sức để khóc thêm nữa.

Cái giá của hy vọng

Tại Chợ Rẫy, người ta mới hiểu rõ một câu nói đã trở thành chân lý: “Chiếc giường đắt nhất là chiếc giường bệnh viện.”

Nó không đắt bởi giá phòng hay dịch vụ, mà bởi cái giá của sự đánh đổi:

Đánh đổi tài sản: Những gia đình đã bán đi mảnh đất, chiếc xe máy, hay thậm chí vay mượn khắp nơi để có đủ tiền chạy chữa. Tiền bạc ở đây không còn là phương tiện tận hưởng, mà là vũ khí chiến đấu sinh tử.

Đánh đổi công việc: Người thân bệnh nhân phải bỏ lại công việc, mất đi nguồn thu nhập, chấp nhận cuộc sống tạm bợ ngủ ngoài trời để làm “lá chắn” tinh thần và vật chất cho người bệnh.

Đánh đổi tương lai: Những đứa con phải nghỉ học, những người già phải chịu đựng sự đau đớn thể xác vì phải nằm co ro trên nền đất.

Họ đang cố gắng vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của cuộc đời, với mong muốn thoát khỏi nguy cơ tử vong đang rình rập.

Chợ Rẩy không chỉ là bệnh viện hay ngày xưa gọi là nhà thương; nó là một phòng trưng bày nhân loại, nơi sự giàu có và địa vị bị tước bỏ hoàn toàn. Mọi người ở đây đều bình đẳng dưới một áp lực duy nhất: áp lực của sự sống còn.

Những người thân vật vã, những người phải ăn chung suất cơm từ thiện, những người mặc đi mặc lại bộ quần áo nhàu nát nhiều ngày liền, họ mới chính là những người thực sự cần sự chung tay và giúp đỡ thật nhiều từ cộng đồng.

Sự giúp đỡ ở đây không chỉ là vật chất. Nó còn là:

Một suất cơm nóng hổi: Giúp họ có thêm năng lượng để thức thêm một đêm dài.

Một chiếc chăn mỏng: Giúp họ giữ ấm cơ thể trong hành lang lộng gió lúc sáng sớm.

Một lời hỏi thăm chân thành: Nhắc nhở họ rằng họ không đơn độc trong cuộc chiến này.

Chợ Rẩy, nơi vốn đã quá tải và ngột ngạt, là một lời nhắc nhở thẳng thắn nhất: hãy trân trọng sức khỏe của mình. Và khi cuộc sống của chúng ta có đủ đầy, đừng quên rằng ngay tại trung tâm thành phố này, có hàng ngàn người đang chiến đấu trong một cuộc chiến sinh tử không có ngày nghỉ.

Đó là nơi mà lòng trắc ẩn và tình người phải được phát huy mạnh mẽ nhất, để chia sẻ bớt gánh nặng vô hình trên vai những người đang mòn mỏi chờ đợi giữa những hành lang lạnh lẽo.

Thật tình tôi chẳng muốn vào cái chốn này. Nhưng bệnh thì không tránh khỏi

Lm. Anmai, CSsR


 

Tư Pháp CSVN phơi bày tha hóa, vết nhơ không thể gọt rửa

Ba’o Nguoi- Viet

September 24, 2025

Minh Hải

“Chạy án” không chỉ là hành vi tiêu cực, mà là biểu hiện tột cùng của sự tha hóa trong hoạt động tư pháp. Khi tiền và quan hệ đủ sức bẻ cong bản án, khẩu hiệu “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật” của nhà cầm quyền CSVN chỉ là trò hề, sáo rỗng.

Vụ 28 thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư tham gia đường dây chạy án là vết nhơ không thể gọt rửa cho cái gọi là nhà nước pháp quyền, nơi công lý được cán bộ mặc cả, niềm tin của người dân bị đem bán. Tất cả là một sân khấu mị dân, tuyên truyền dối trá.

Theo thông tin của các cơ quan chức năng CSVN, từ tháng Ba năm 2022 đến tháng Năm 2024, một đường dây chạy án quy mô lớn bị phanh phui, xảy ra ở nhiều tỉnh thành của Việt Nam, bao gồm: Đà Nẵng, Đắk Lắk, Gia Lai, Thừa Thiên-Huế. 28 bị can đã tham gia, phần lớn là những người có thời gian công tác trong ngành tư pháp, còn lại là một số cá nhân khác.

Cụ thể một số trang truyền thông của CSVN còn nêu thẳng, trong số 28 bị can thì có 10 người nguyên là lãnh đạo, thẩm phán, công chức tòa án; 3 kiểm sát viên, nhân viên ngành kiểm sát; 2 chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự; 4 luật sư, nhân viên văn phòng luật và 9 bị cáo, đương sự trong các vụ án.

Họ đã nhận, đưa và môi giới hối lộ với tổng số tiền lên đến 11.4 tỷ VND, nhằm can thiệp vào kết quả xét xử hình sự, dân sự và kinh doanh thương mại theo hướng có lợi cho người đưa hối lộ. Đây là những bản án không còn đúng với lẽ phải, đã biến thành món hàng để kinh doanh-thương mại.

Đáng chú ý, nhiều kẻ trong số đó từng giữ vị trí quan trọng trong ngành tư pháp như Phạm Việt Cường và Phạm Tấn Hoàng là hai cựu phó chánh án Tòa Án Cấp Cao tại Đà Nẵng; Nguyễn Đức Tuấn, cựu thẩm phán, chánh tòa hình sự Tòa Án tỉnh Đắk Lắk; Vũ Văn Tú, cựu thẩm phán Tòa Án tỉnh Đắk Lắk. Với vai trò quan trọng có thể định đoạt số phận con người, thay vì phải bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật thì họ lại tha hóa cấu kết thành một đường dây, có tổ chức chặt chẽ từ địa phương đến cấp cao để biến thành những con buôn, “cò” hối lộ, nhận hối lộ để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo ở nhiều vụ án, trong đó có vụ án giết người.

Đây rõ ràng một vụ án gây chấn động dư luận, bởi nó không chỉ là vụ án hình sự đơn thuần, mà còn là đòn giáng mạnh mẽ vào niềm tin của xã hội vào nền tư pháp Việt Nam.

Ngay ở cáo trạng của vụ án có nêu vài trường hợp điển hình như; Tại Gia Lai, một người phụ nữ đã bỏ ra 300 triệu VND chạy án cho hai người con trai, để mỗi người được giảm 2 năm tù tại phiên xét xử phúc thẩm; Hoặc tại tỉnh Đắk Lắk, cũng một phụ nữ bỏ ra số tiền 150 triệu đồng để em trai ruột được giảm án từ 15 năm tù xuống còn 13 năm 6 tháng.

Thông tin về ông này, bà nọ chạy án cho người thân vốn đã là điều dư luận xì xào từ lâu nay ở Việt Nam chẳng có gì là lạ lẫm, thậm chí đã trở thành câu chuyện thường ngày ở huyện. Tuy nhiên, lần này nó được phơi bày bằng hồ sơ điều tra với sự thật không lấy gì là trần trụi hơn.

Bản thân tôi lúc còn ở Đà Nẵng, nhà nằm cách hai trụ sở Tòa Án TP.Đà Nẵng và Tòa Án Cấp Cao khoảng 2km, nên có đôi lần tôi ghé vào quán xá gần đó để nhâm nhi ly cà phê thư giản. Tại đây, tôi thường nghe những vị khách của quán ra vào bàn tán sôi nổi các vụ chạy án.

Câu chuyện mới nhất mà tôi còn nhớ là vào khoảng Tháng Giêng 2024, chị B, có con trai nằm trong vụ án hai nhóm thanh niên đường phố ẩu đả. Dù không xảy ra án mạng, nhưng do có cầm hung khí nên con trai của chị B phải nhận bản án 3 năm tù giam.

Chị B cùng người thân của những thanh niên trong cùng vụ tập hợp lại, đi gặp luật sư nhờ tìm cách chạy án, cũng như được tại ngoại ăn Tết ở nhà. Luật sư sau đó móc nối với một người tự xưng là cán bộ viện kiểm sát, và từ người này tiếp đến liên lạc với nhân viên tòa án.

Sau khi các bên thỏa thuận thủ tục xong, từng bước chạy án như thế nào được cán bộ viện kiểm sát và nhân viên tòa án bằng trực tiếp hoặc gián tiếp đều thông tin cho nhóm chị B một cách thường xuyên. Mục tiêu của nhóm người chị B, bỏ ra khoảng mấy trăm triệu để sửa lại nội dung bản án, làm nhẹ đi tình tiết phạm tội của những bị cáo. Tuy nhiên, tôi được biết vụ chạy án này không thành do khả năng tài chính của vài người bị hạn chế. Bản thân chị B chỉ thành công khi bỏ ra vài chục triệu để chạy cho con trai được thi hành án ở trại giam gần nhà.

Dẫn chứng những phi vụ chạy án để thấy, dù thành công hay thất bại thì hành vi của 28 bị can trong vụ án nêu trên đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Nhận tiền chạy án, tức là họ cố tình làm sai lệch bản án, biến bản án thành sản phẩm mua bán, đây là hình thức tham nhũng tư pháp, pháp luật trở thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân.

Vụ án phản ánh một phần của cuộc đấu tranh quyền lực ngầm trong nội bộ ngành. Việc các thẩm phán và kiểm sát viên nhận hối lộ không chỉ là hành vi tham nhũng cá nhân, sự tha hóa bản thân mà còn là biểu hiện của sự đồng lõa có tổ chức, thao túng quyền lực từ bên trong hệ thống.

Sự tha hóa của các bị can chính là phản ánh sự thiếu sót trong cơ chế giám sát và kiểm tra trong hệ thống tư pháp. Dẫn đến việc các bản án bị can thiệp bằng hối lộ nếu không kịp phanh phui, không sớm ngăn chặn sẽ tạo tiền lệ xấu, khuyến khích hành vi tham nhũng, chạy án tương tự trong tương lai. Điều này đe dọa đến sự ổn định và phát triển xã hội.

Trước khi vụ án được khởi tố, người dân đặt niềm tin vào những bị can để được bảo vệ lợi ích hợp pháp, nhưng khi cả hệ thống phạm tội thì niềm tin ấy bị phản bội, công lý bị bóp nghẹt, thay vào đó là sự ngờ vực phải có tiền và quan hệ mới được đối xử công bằng trước pháp luật. Dư luận có quyền nghi ngờ tính minh bạch, công bằng của các vụ án mà họ từng ở vai trò tố tụng.

Với số tiền hối lộ hơn 11.4 tỷ VND, vụ án có thể xếp vào loại “đặc biệt nghiêm trọng.” Dựa theo quy định của Bộ luật Hình sự, hành vi nhận hối lộ với số tiền trên 1 tỷ VND có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, nhiều bị can trong vụ án này có thể đối diện với mức hình phạt khá nặng.

Để ngăn chặn và loại bỏ tham nhũng trong ngành tư pháp, nhà cầm quyền CSVN cần thiết phải thực hiện một cuộc cải cách toàn diện. Trước hết, phải biết lắng nghe những ý kiến đóng góp phản biện để tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm tra độc lập, đảm bảo tính minh bạch lẫn công bằng trong quá trình tố tụng. Các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong ngành tư pháp. Đặc biệt, nhà cầm quyền CSVN phải để báo chí được tự do điều tra, nếu không những vụ án như thế này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Chỉ khi nào công lý được thực thi một cách công bằng và minh bạch thì xã hội mới có thể phát triển bền vững, người dân Việt Nam mới thực sự tin tưởng vào pháp luật nước nhà.


 

Bão Bualoi tàn phá nhiều tỉnh miền Trung, hàng chục người chết, mất tích

Ba’o Nguoi-Viet

September 29, 2025

HÀ TĨNH, Việt Nam (NV) – Hôm 29 Tháng Chín, bão Bualoi (bão số 10) đánh vào các tỉnh phía Bắc Miền Trung Việt Nam như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị,… làm hàng chục người chết, mất tích, bị thương, hàng trăm ngàn nhà cửa bị tốc mái, cột điện, cây xanh gãy đổ…

Theo báo Người Lao Động, đêm 28 rạng sáng 29 Tháng Chín, cơn bão Bualoi mang theo lượng mưa rất lớn từ 250 mm-300 mm và gió rít từng hồi.

Nhiều mái tôn, ngói đỏ bị hất tung, cột điện dọc đường gãy đổ do bão Bualoi. (Hình: Việt Hoàng/VNExpress)

Sáng 29 Tháng Chín, tại các tuyến đường khu vực trung tâm tỉnh Hà Tĩnh, nhiều cây xanh bị gãy đổ, nhiều bảng quảng cáo bị hư hỏng, trong đó kho than của nhà máy Nhiệt Điện Vũng Áng 2 đã bị bão quật đổ sập.

Tại xã Thiên Cầm, sau một đêm bị bão Bualoi quần thảo, khu du lịch biển Thiên Cầm chịu thiệt hại nặng nề, nhiều công trình bị tàn phá, ngổn ngang với mái tôn nằm chắn la liệt, cây xanh, cột điện gãy đổ. Hàng loạt nhà hàng, quán ăn làm bằng khung thép đổ sập, mái tôn bị gió bão cuốn bay…

Theo phúc trình của Sở Nông Nghiệp và Môi Trường Tỉnh Hà Tĩnh, ngoài việc làm một người chết, chín người bị thương, bão Bualoi khiến hơn 42,900 ngôi nhà tốc mái, hư hỏng, ngập sâu. Gần 1,000 hécta hoa màu đổ ngã, 158 hécta ao nuôi ngập nước, hơn 20 tấn cá lồng chết…

Trong khi đó, cùng lúc tại miền núi tỉnh Nghệ An nước lũ dâng cao.

Cột điện gãy đổ ở tỉnh Quảng Trị. (Hình: Hải Sâm/VietNamNet)

Di tản tới các điểm trú bão Bualoi, nhiều người dân ở tỉnh Nghệ An không chợp mắt ngủ được khi bên ngoài gió rít gầm gào.

Bà Trinh Thị Mừng ở thành phố Vinh, bật khóc khi căn nhà cấp bốn lợp ngói bị tốc mái, nước mưa tràn vào làm hư hỏng toàn bộ tài sản.

“Bão đổ bộ tôi sang nhà con ở, sáng nay trở về thấy mái nhà bị cuốn mất, đồ đạc ướt hết,” bà Trình nói.

Tương tự, bão Bualoi vào đất liền đã gây mưa to và gió lớn kéo dài ở tỉnh Thanh Hóa khiến rất nhiều xã, phường xảy ra ngập lụt, nhiều nhà dân bị đổ sập, nhiều tuyến đường giao thông ngập sâu biến thành sông, xe cộ không thể qua lại.

Trong khi đó, bờ biển xã Hoằng Tiến bị sóng đánh tan hoang. Nước biển ngập bờ kè tràn vào khu dân cư ở Hải Tiến…

Chiếc xe hơi Toyota 7 chỗ ở xã Hoằng Giang, tỉnh Thanh Hóa, bị gió thổi bay hơn 100 mét, nằm dưới ruộng. (Hình: Lê Hoàng/VNExpress)

Đáng lưu ý, nước lũ dâng cao khiến 13 công nhân tại một trang trại nuôi heo ở xã Ngọc Lặc mắc kẹt, phải nhờ lực lượng cứu hộ đến giải cứu.

Tại Quảng Trị, khoảng 11 giờ 30 phút khuya 28 Tháng Chín, hai tàu cá đang neo đậu ở tổ dân phố Xuân Lộc, phường Bắc Gianh, bị đứt dây neo, trôi tự do. Trên hai tàu có 13 ngư dân, trong đó bốn người bơi được vào bờ, chín người mất tích.

Theo phúc trình của Ban Chỉ Huy Phòng Thủ Dân Sự Tỉnh Quảng Trị, bão đã khiến hệ thống thủy lợi, đê điều chịu ảnh hưởng lớn. Nhiều đoạn sông như Kiến Giang ở xã Lệ Thủy; Vĩnh Định, Long Đại ở xã Trường Sơn, bị sạt lở nghiêm trọng hàng trăm mét, có nơi ăn sâu vào đường nhựa. Một số tuyến đê biển ở xã Vĩnh Hoàng, Triệu Cơ, Cửa Tùng bị xói lở, sạt lở vào thân đê, trong đó đoạn đê sông tại xã Hoàn Lão bị vỡ 2 mét…

Bão cũng tạo ra tám lốc xoáy chỉ trong một ngày ở tám tỉnh thành khác nhau gồm Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hóa, Thái Bình, Quảng Ninh và Hà Nội. Trận nào cũng lớn.

Người phụ nữ làng chài ở xã Thiên Cầm, tỉnh Hà Tĩnh, chỉ còn biết òa khóc giữa gian nhà tan hoang. (Hình: Nguyễn Khánh/Tuổi Trẻ)

Trong đó, trận dông lốc quét qua các xã Quỹ Nhất, Thịnh Long, Hải Thịnh, Hồng Phong, Gia Hưng, Chất Bình và Hải Anh, tỉnh Ninh Bình, làm nhiều ngôi nhà bị đổ sập, gãy 30 cột điện, khiến chín người thiệt mạng, 18 người bị thương.

Sau 13 giờ quần thảo từ Quảng Trị ngược ra Bắc tới Nghệ An, bão Bualoi đã làm 13 người chết, 17 người mất tích, 41 người bị thương. Nhiều nhà cửa, cơ sở sản xuất bị tốc mái, thiệt hại nặng, song chưa thống kê được thiệt hại do mất điện, gián đoạn thông tin liên lạc.

Đến 2 giờ chiều cùng ngày, bão di chuyển sang khu vực Thượng Lào, suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mưa bão, Trung Tâm Dự Báo Khí Tượng Thủy Văn Quốc Gia cảnh báo nhiều xã, phường tại 10 tỉnh, thành gồm: Lai Châu, Sơn La, Phú Thọ, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất. (Tr.N) [kn]


 

Bị công an triệu tập, cựu chủ tịch thị trấn ở Cà Mau treo cổ chết

Ba’o Nguoi-Viet

September 28, 2025

CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Nhà chức trách xác nhận ông Đặng Văn My, cựu chủ tịch thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước trước đây, tỉnh Cà Mau, treo cổ chết tại tư gia.

Theo tờ Thanh Niên hôm 28 Tháng Chín, thi thể ông My được con trai ông này phát giác phía sau căn nhà tọa lạc tại xã Cái Nước.

Cựu chủ tịch thị trấn Cái Nước, tỉnh Cà Mau, bị tố cáo biển thủ tại chợ Cái Nước. (Hình: Dân Việt)

Khi còn tại vị ghế chủ tịch Cái Nước, ông My bị nhiều tiểu thương chợ Cái Nước làm đơn tố cáo.

Hồi Tháng Tám năm ngoái, Công An Cà Mau khởi tố vụ án vi phạm về quy định đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng, xảy ra tại Ủy Ban Nhân Dân Cái Nước trước đây, trong việc thực hiện xây dựng chợ Cái Nước.

Trước khi treo cổ, ông My từng bị triệu tập nhiều lần và có khả năng bị khởi tố.

Liên quan vụ này, báo Dân Việt hồi Tháng Chín năm ngoái cho hay, ông Đặng Văn My bị tố cáo thu 9.6 tỷ đồng ($363,498) tiền “dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ” của các tiểu thương nhưng không ra biên lai. Ngoài ra, ông ta còn được xác định có nhiều sai phạm khác trong việc xây chợ.

Do vụ này mà hồi Tháng Bảy, 2020, ông Đặng Văn My bị lột hết các chức vụ trong đảng và chính quyền.

Trước cái chết của ông My, nhiều quan chức các địa phương được ghi nhận tự sát hay tại cơ quan do đối mặt việc bị bắt hoặc bị mất ghế.

Theo báo Thanh Niên hồi năm ngoái, ông Lê Viết Thống, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Nga, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, treo cổ chết ngay tại cơ quan vào hôm 14 Tháng Hai, tức Mùng Năm Tết Giáp Thìn 2024. Sự việc được một số công chức phát giác khi họ đến cơ quan trực Tết.

Trụ sở Ủy Ban Nhân Dân thị trấn Cái Nước. (Hình: Thanh Niên)

Bản tin cũng dẫn lời một cán bộ xã Lộc Nga rằng ông Thống “không có biểu hiện gì bất thường.”

Trước đó, theo báo Lao Động hồi trung tuần Tháng Mười Hai, 2023, ông Lê Văn Đây, 40 tuổi, phó trưởng Phòng Nội Chính, Văn Phòng Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Cà Mau, treo cổ chết ngay tại tầng bốn của cơ quan này.

Bản tin dẫn lời người nhà của ông Đây cho biết, trước khi sự việc xảy ra, ông này “có biểu hiện thường xuyên mất ngủ” nhưng không rõ liệu ông có bị trầm cảm hay không.

Người nhà đã tìm kiếm ông Lê Văn Đây từ ngày hôm trước cho đến khi được cơ quan gọi thông báo tin buồn. (N.H.K) [kn]


 

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Chân Trời Mới Media

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Không nói tới những bịnh nhân (hay người nhà) hung hăng, những bác sĩ dùng bạo lực, mình chỉ xét chung những người bình thường không quá khích, nóng nảy hoặc xấu tính.

Bác sĩ là người cung cấp dịch vụ, bịnh nhân là khách hàng, nhưng đây là dịch vụ đặc biệt liên quan đến sức khỏe, tính mạng nên nên đặc biệt hơn những dịch vụ khác, cả hai bên đều có mối quan tâm rất nhiều đến y đức, lương tâm nghề nghiệp, ơn nghĩa cứu mạng, “thiên chức” v.v…

Trong mối quan hệ này thì người bịnh là người bị động. Người bịnh không có chuyên môn, không có hiểu biết nên mọi việc đều phó thác cho bác sĩ: chẩn đoán, điều trị và kết quả.

Ngày xưa, nửa thế kỷ trước, thuở chưa quá độ lên XHCN thì ở miền Nam này bịnh nhân gần như tin tưởng tuyệt đối vào bác sĩ, cũng chính là tin vào tay nghề, vào lương tâm của bác sĩ. Bác sĩ tận nhân lực thì bịnh nhân tri thiên mạng, hiếm khi trách móc hay nghi ngờ bác sĩ.

Ngày nay sau nửa thế kỷ độc lập thống nhứt tiến lên XHCN thì mối quan hệ bác sĩ và bịnh nhân ngày càng tệ. Bịnh nhân  ngày càng mất lòng tin nơi bác sĩ và bác sĩ thì coi bịnh nhân là chỗ để kiếm tiền! (Dĩ nhiên bác sĩ và bịnh nhân đều có this có that)

Nói có sách mách có chứng. Năm ngoái, cách nay đúng một năm ba tui ngã bịnh. Gia đình đưa vô bv tư gần nhà thì bs KHÔNG chẩn đoán ra manh mối gì. Ông cụ tiểu ra máu mà bs cứ hỏi dồn là ông đi cầu ra máu phải không? Ông nhớ lại coi! Ông cụ lớn tuổi, lúc quên lúc nhớ nên bị dồn thì liền ừ theo bs. Thế là bs ghi bịnh án viêm tắc ruột.

Khi tui từ xa về tới nơi liền chuyển cụ vào bịnh viện tỉnh. Vô đó xét nghiệm, siêu âm, chụp CT suốt một buổi chiều thì bs chẩn đoán là có khối u ruột, phải mổ (bs có dựa vào chẩn đoán của bv tư khi chuyển viện). Tui không tin vì cụ không hề có triệu chứng gì về tiêu hóa trước đó, vẫn ăn ngon tiêu hóa tốt.

Cụ phát bịnh buổi sáng, cả ngày xét nghiệm chụp chiếu thì chiều tối có kết luận như trên. Tối tui lại thấy cụ tiểu ra máu và bàn tay chỗ ghim truyền dịch bị bầm đen nên báo bs, khi đó bs mới làm thêm xét nghiệm, hội chẩn và báo là cụ bị rối loạn đông máu (RLĐM). Thế nhưng bv vẫn đưa cụ lên khoa ung bướu để chữa RLĐM xong rồi mổ. Tui bèn xin chuyển viện lên Chợ Rẫy.

Lên bv CR, vô khoa cấp cứu. Các bs ở đây chỉ dựa vào các kết quả cận lâm sàng ở bv tỉnh đưa lên là chẩn đoán ngay bịnh RLĐM, hoàn toàn KHÔNG có u iếc gì ở ruột!

Điều trị ở khoa huyết học BVCR được đúng một tuần là ba tui hoàn toàn hết bịnh và hết luôn tới bây giờ. Từ ngày ra viện bs dặn không cần tái khám. Tui tâm phục khẩu phục bs phòng cấp cứu ở CR quá giỏi quá kinh nghiệm, chẩn đoán đúng cái “bụp” từ những dữ liệu mà bv tỉnh đã chẩn đoán không ra. Khi điều trị ở khoa huyết học thì bs cũng thường xuyên xét nghiệm để đánh giá kết quả điều trị.

Nhìn ngoài xã hội thì vừa rồi có vụ ở bv đa khoa Tây Nguyên, máy tán sỏi hư mà bv vẫn tán cho vài trăm bịnh nhân suốt hai năm. Vụ này rõ là bác sĩ nói trời bịnh nhân hay trời, nói đất bịnh nhân hay đất. Không có sỏi mà bác sĩ phán có để tán thì cũng đành phải chịu thôi!

Chuyện cũ thì có vụ bịnh viện Bạch Mai lấy một kết quả xét nghiệm rồi sao y ra cho hàng hà sa số bịnh nhân. Mày bịnh gì kệ mày, tao đưa kết quả ma vậy đó, mày đâu có trình độ về y khoa đâu mà biết, sống chết có số nghe con!

Và còn bao nhiêu vụ chưa bị khui? Dù khui hay chưa tui cũng không dám tin cái ngành y của xứ mình mà cứ phải tin khả tin phòng khả phòng!

Nằm bịnh ở bịnh viện Chợ Rẫy là một cơn ác mộng thật sự, có dịp tui kể sau. Thật thương cho bác sĩ và bịnh nhân ở CR, ai cũng khổ quá khổ. Muốn hiểu đời là bể khổ nghĩa là gì thì vô Chợ Rẫy!

Hình: may quá, tui mần thú y, đỡ nhức đầu hơn bác sĩ trong thời buổi nhiễu nhương này!

BS Hồ Phương Trinh

Hình: admin

May be an image of ‎one or more people and ‎text that says '‎ا" #chan l0 moi media THIẾU Y ĐỨC, BỆNH NHÂN NGHÈO LÀ NẠN NHÂN CHỊU KHỔ NHIỀU NHẤT‎'‎‎


 

NÔNG DÂN CAN TRƯỜNG- Huynh Ngoc Chenh

Huynh Ngoc Chenh

Hôm nay tòa án Đà Nẵng đưa người nông dân can trường hiếm có Trịnh Bá Phương ra xét xử vì đã viết mảnh giấy nhỏ “đả đảo cộng sản” cất trong phòng giam.

Án chắc đã có sẵn, án chồng lên án 10 năm tù giam và 5 năm quản chế mà người thanh niên nông dân can trường này đã lãnh trước đó vì dũng cảm đứng lên giữ đất cùng gia đình.

Hồi đảng nổi dậy chống Pháp rồi đánh Mỹ rất cần những người nông dân can trường như thế, chính họ đã không biết sợ gì, sẵn sàng lao vào lửa đạn, vượt qua tra tấn, chịu dựng đau đớn và hy sinh cả tính mạng để giúp đảng cộng sản đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Không có những người nông dân tinh hoa can trường này, đảng sẽ chẳng làm được gì nên chuyện để có như ngày hôm nay.

Hồi đó nông dân can trường nhiều lắm, bây giờ sau 80 năm, chẳng còn nhiều, có thể kể hết ra đây được vài dòng.

Đó là gia đình chị Cấn Thị Thêu với hai con trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư cùng với chị Nguyễn Thị Tâm ở Dương Nội. Đó là anh em Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, đó là tập thể dân làng Đồng Tâm đứng dầu là gia đình cụ Kình …

Những người đó là tinh hoa của đất nước, là gen trội của dân tộc, lẽ ra phải được nuôi dưỡng để phát huy và nhân rộng. Nhưng không, cụ Kình đã bị bắn chết, con cháu cụ bị xử tử hình hoặc bị tù đày đến chung thân, anh em Đoàn Văn Vươn cũng phải đi tù vài năm suýt tiêu tan gia đình và của cải, còn gia đình chị Cấn Thị Thêu và chị Nguyễn Thị Tâm vẫn còn chịu án tù lâu dài.

Đảng bây giờ đã có được giang sơn rồi nên đảng không cần những người nông dân can trường dũng cảm nữa, đảng cần những người nông dân sợ hãi và tuân phục luôn chấp hành mọi mệnh lệnh của đảng dù đúng hay sai. Quân xử thần tử thần bất tử bất trung.

Ngày xưa phải chống lại Tây Sơn để phục hồi ngai vàng của dòng họ, Nguyễn Ánh đã ra sức xúi giục, chiêu dụ, tập hợp những người nông dân can trường, bỏ vợ con, ruộng vườn để đi theo ông. Không có những người nông dân can trường phản kháng chế độ Tây Sơn thì Nguyễn Ánh không thành vua Gia Long.

Sau khi cướp được chính quyền khôi phục được ngôi vàng của tổ tiên, vua Gia Long và con cháu ông không cần những người nông dân phản kháng và can trường nữa, triều đình chỉ cần những người nông dân tuân phục để dễ cai trị và quan trọng là để bảo vệ muôn năm ngai vàng dòng họ Nguyễn.

Những hình phạt nặng nề du nhập từ các triều đại phong kiến phương Bắc được áp dụng để đe nẹt, trấn áp, dập tắt, tiêu diệt mọi mầm mống phản kháng của người nông dân. Những người nông dân can trường nào xuất hiện là bị bắt ngay, bị xử lăng trì (là xẻo từng miếng thịt cho đến chết), bị tru di tam tộc để tiêu diệt sạch gen trội can trường.

Nhờ vậy mọi cuộc nổi dậy của nông dân trong suốt 80 năm độc tài toàn trị của nhà Nguyễn đều bị dập tắt trong biển máu.

Sau 80 năm, đất nước chỉ còn tồn tại những nông dân sợ hãi tuân phục.

Từ tuân phục chuyển qua hèn nhát u mê chỉ một bước chân. Một thế hệ nông dân hèn nhát ngu muội ra đời. Ngai vàng nhà Nguyễn được bảo vệ nhưng nước mất.

Quá sức nhục nhã và đau đớn, chỉ vài phát súng đùng đoàng của lính Pháp, quân dân ta mà nòng cốt là những người nông dân hèn nhát và u mê đã bỏ chạy sạch. Pháp thôn tính Nam Kỳ dễ như trở bàn tay.

Tệ hơn nữa, hai lần Pháp ra Bắc Kỳ với vài trăm quân chỉ nổ vài phát súng, những người nông dân hèn nhát và ngu muội làm nên đội quân chính quy đông đúc của chiến tướng Nguyễn Tri Phương và của tổng dốc Hoàng Diệu buông vũ khí chạy sạch, bỏ lại thành Hà Nội trống không với chủ tướng đơn độc.

Trong suốt 100 năm Pháp đóng chiếm, rất nhiều cuộc nổi dậy của nông dân nhưng hầu hết đều bị thất bại do thiếu lực lượng, thiếu những người nông dân can trường. Cuộc khởi nghĩa nào cũng chỉ quy tụ chừng vài chục nông dân can trường thì làm sao chống lại giặc Pháp hùng mạnh.

Bây giờ, đảng CSVN, tổ chức độc quyền toàn trị đất nước, đang dẫm vào những bước chân lầm lỗi của Triều đình nhà Nguyễn. Đảng cũng chỉ cần những người nông dân tuân phục.

Chính vì lẽ đó mà thanh niên nông dân can trường Trịnh Bá Phương đã bị 10 năm tù nay lại phải ra tòa để nhận thêm nhiều nằm tù giam nữa. Chính vì lẽ đó mà Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Nguyễn Thị Tâm, anh em Đoàn Văn Vươn phải đi tù. Chính vì lẽ đó mà cụ Kình và một số con cháu phải bị tử hình, số còn lại và những người nông dân Đồng Tâm can trường khác phải ngồi tù lâu dài.

Với cách làm này sẽ thành công cho đảng, đất nước chỉ còn lại các thế hệ nông dân tuân phục cùng với các tầng lớp người dân khác cũng tuyệt đối tuân phục.

Mà “tuân phục” chỉ cách “hèn nhát” một sợi tóc.

Đảng sẽ được tồn tại khá lâu, nhưng…


 

Vụ án Hồ Duy Hải, chứng cứ vô tội đã có ở trong hồ sơ

Ba’o Đàn Chim Việt

Tác Giả: Đàn Chim Việt

25/09/2025

Hồ Duy Hải trong một phiên tòa. Ảnh: CTV.

 Trại tạm giam công an tỉnh Long An được đặt ở xã Mỹ Phú, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, cách không xa sông Vàm Cỏ Tây, quanh năm uốn lượn ôm ấp vỗ về.

 Tháng tư năm 2023 tôi đã đến đây với mong muốn được vào gặp tử tù Hồ Duy Hải. Sau khi liên hệ thủ tục ở cổng trại và xuất trình giấy tờ, nhân viên trực ban gọi điện thoại đi đâu đó rồi quay ra trả lời từ chối luật sư.

 Mặc dù đã dự liệu về việc bị từ chối nhưng tôi không khỏi ngậm ngùi xót xa khi nghĩ về người tử tội đang bị giam cầm nơi này. Không có việc gì khác để làm tôi đứng ngồi loanh quanh một lúc rồi ra về.

Chứng cứ bỏ sót

 Khi nhận lời bà Nguyễn Thị Loan nhờ kêu oan, bản thân tôi nhiều lần đã tự hỏi liệu mình có thể làm được gì khi mà vụ án đã được đông đảo dư luận xã hội biết đến.

 Vụ án đã quá nổi tiếng với những tình tiết chứng cứ trong hồ sơ đều đã được các luật sư, nhà báo, và những người am hiểu trên mạng xã hội, đưa ra phân tích công khai với những nhận định đánh giá rất có sức thuyết phục.

 Bối cảnh của vụ án là như vậy khi mà cũng đã xảy ra được 15 năm, bản thân tôi nghĩ rằng mình sẽ khó thể tìm ra được chứng cứ nào mới, điều có thể làm là đưa ra những nhận định phân tích từ góc độ kinh nghiệm kiến thức bản thân, để làm rõ thêm bản chất của vụ án.

 Sau quá trình nghiên cứu về vụ án tới thời điểm này tôi cho rằng cơ sở chứng cứ chứng minh Hồ Duy Hải bị oan đã có ngay trong hồ sơ vụ án. Nhưng để mọi người hiểu ra được vấn đề thì trước tiên xin dẫn lại câu chuyện về một vụ án xảy ra ở nước Anh.

 Tôi biết đến vụ án này qua một bộ phim có tựa đề Nhân danh Cha (In the Name of the Father), nội dung phim dựa theo một vụ án oan có thật ở nước Anh, một số người bị bắt với cáo buộc đã tiến hành một vụ đánh bom một quán rượu ở Luân Đôn khiến nhiều người chết.

 Trong số những người bị bắt có hai người đàn ông là cha con, dù đã bị kết án có tội họ vẫn không ngừng kêu oan. Sau nhiều năm sự vụ của họ được một nữ luật sư chú ý đến, bà đã nhận lời theo đuổi vụ việc của họ.

 Nữ luật sư đã đi tìm kiếm lại những manh mối chứng cứ, cô tìm đến nơi lưu trữ hồ sơ vụ án, đó là một khu lưu giữ tài liệu rộng lớn được quản lý chặt chẽ, sau khi làm thủ tục theo quy định, nhân viên cơ sở lưu giữ đưa cho cô tập tài liệu vụ án.

 Một lần khi xem nữ luật sư đã phát hiện ra một tập tài liệu đã không được trưng ra trước tòa tại những phiên xét xử trước đó, trong đó có lời khai nhân chứng có thể cho thấy sự ngoại phạm của các bị cáo.

Từ cơ sở này, nữ luật sư đã đấu tranh để yêu cầu tòa án xét xử lại vụ án, vì những chứng cứ mới chưa được thẩm tra khi xét xử trước đó. Với cơ sở bằng chứng hợp lý mới, cộng với việc bấy lâu bị cáo kêu oan, tòa án Anh đã cho rằng cảnh sát trước đó đã cố tình giấu đi những thông tin có lợi cho nghi phạm, làm sai lệch sự thật khiến cho bồi thẩm đoàn khi ấy kết tội oan.

 Bởi vậy phán quyết mới được đưa ra bởi một bồi thẩm đoàn mới, tuyên án tha bổng cho nhóm người bị kết án, nhưng lúc này người cha đã chết vì bạo bệnh trong chốn lao tù.

 Vụ Hàn Đức Long

 Việc cảnh sát điều tra bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án những chứng cứ có lợi cho bị cáo là điều đã từng xảy ra ở Việt Nam, cụ thể là trong vụ án của tử tù Hàn Đức Long tôi đã minh oan trước kia.

 Mặc cho bị cáo kêu oan đến khi ra tòa xét xử, cả hai phiên sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án vẫn tuyên là có tội với án tử hình. Sau đó Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã ra quyết định giám đốc thẩm hủy bỏ các bản án để điều tra lại từ đầu.

 Quá trình điều tra lại xảy ra sự việc là một điều tra viên thụ lý chính của vụ án bị chết, khi mở tủ hồ sơ của người này thì phát hiện ra một số tài liệu liên quan đến vụ án Hàn Đức Long nhưng bị bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án, khi ấy liên ngành tư pháp đã ngồi họp lại với nhau và thống nhất đưa lại các tài liệu này vào hồ sơ khi đó đang được giải quyết.

 Trong tập tài liệu được đánh số từ 1 đến 49 này có một số tài liệu cho thấy giữa ông Hàn Đức Long và hai mẹ con bà cụ hàng xóm là những người đã tố cáo ông Long hiếp dâm đã xảy ra mâu thuẫn đánh nhau.

Do tranh chấp lối đi chung liền kề giữa hai nhà, ông Long đã có hành vi bạo lực tấn công hai mẹ con bà cụ, vụ việc đã được công an xã giải quyết buộc ông Long phải bồi thường cho mẹ con nhà kia.

Thời điểm khi ấy vụ án giết người hiếp dâm cháu bé 5 tuổi mới xảy ra trước đó chừng đôi ba tháng, cảnh sát đang truy tìm thủ phạm, sau thời điểm xảy ra mâu thuẫn đánh nhau chừng một tháng thì hai mẹ con bà cụ có đơn gửi cơ quan điều tra tố cáo từng bị ông Long hiếp dâm.

 Từ lời tố cáo ấy ông Long bị triệu tập điều tra bắt giam đã khai nhận hành vi hiếp dâm hai mẹ con bà cụ, ngoài ra còn thừa nhận là thủ phạm giết hại cháu bé 5 tuổi.

 Những tài liệu này đã được thu thập ngay từ quá trình điều tra ban đầu nhưng lại không được đưa vào hồ sơ phục vụ quá trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trước đó.

 Dựa trên cơ sở bằng chứng mới khi ấy tôi đã trình bày ý kiến bào chữa cho rằng việc tố cáo hiếp dâm do mâu thuẫn hằn thù gia đình là không đáng tin cậy, nhưng phiên tòa xét xử lại vụ án vẫn bỏ qua, vẫn tuyên bị cáo có tội với án tử.

 Sau đấy việc kêu oan vẫn tiếp tục cho tới khi Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao có quyết định giám đốc thẩm lần thứ hai tuyên bố hủy bỏ các bản án để điều tra lại từ đầu.

 Quá trình sau đó tôi vẫn kiên trì ý kiến kêu oan cho rằng với chứng cứ mới được đưa lại vào hồ sơ cho thấy lời tố cáo không đáng tin, cộng với việc bị cáo kêu oan trong khi căn cứ buộc tội không có được nhân chứng vật chứng rõ ràng nào ngoài những lời khai báo nhận tội.

 Cuối cùng các cơ quan tư pháp đã có nhận định đánh giá lại, cho rằng không đủ cơ sở căn cứ kết tội nên đã đình chỉ điều tra, trả tự do và minh oan cho tử tù.

 Lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải

 Trở lại với vụ án Bưu điện Cầu Voi, hồ sơ vụ án khi đưa ra xét xử thể hiện lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải là vào 21 tháng 3 năm 2008, biên bản ghi lời khai đó và các lời khai về sau đều có nội dung bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình.

 Chỉ cho đến khi có Quyết định Kháng nghị Giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nội dung kháng nghị mới giúp nhiều người biết được là lời khai đầu tiên của Hải là vào ngày 20 tháng 3 năm 2008.

Tại bản khai này Hồ Duy Hải đã khai về diễn biến việc làm vào tối hôm xảy ra vụ án Bưu điện Cầu Voi, Hải khai tối ngày 13 tháng 1 năm 2008 đã đến đám tang nhà ông Tư Lan gần nhà, trong lời khai đã nhắc đến gần chục người đã tiếp xúc tại đám tang để có thể xác nhận về sự có mặt của Hải.

 Lý giải về chứng cứ này, Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã lý giải cho biết, lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải trình bày về việc sử dụng thời gian tối hôm xảy ra vụ án, kết quả xác minh Hải khai không đúng sự thật nên cơ quan điều tra không đưa vào hồ sơ xét xử vụ án nhưng được lưu trong hồ sơ nghiệp vụ của cơ quan công an.

 Như thế là suốt mười mấy năm kêu oan nhưng gia đình và luật sư đã không biết tới bản khai ban đầu này, rất nhiều người, trong đó bao gồm cả các cán bộ tư pháp đã tham gia công tác xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trước đó, đều đã lầm tưởng rằng mọi lời khai của Hải từ đầu đến cuối chỉ là khai nhận tội.

Về sau mới biết lời khai đầu tiên của Hải không những không nhận tội mà còn khai ra những nội dung mà nếu làm rõ có thể chứng minh được sự ngoại phạm của Hải.

 Quyết định giám đốc thẩm cho biết cơ quan điều tra đã thẩm tra xác minh cho kết quả Hải khai không đúng sự thật nhưng không cho biết là cơ quan điều tra đã thẩm tra xác minh như thế nào.

Sau khi có quyết định giám đốc thẩm, khi thông tin về lời khai đầu tiên được nêu ra, luật sư Trần Hồng Phong là người giúp kêu oan cho tử tù khi ấy đã tìm về địa phương, tìm gặp và lấy lời khai của bảy người tham dự đám tang.

 Mọi người đã xác nhận rằng đúng là Hải đã có mặt tại đám tang nhà ông Tư Lan trong buổi tối hôm xảy ra vụ án.

 Nhưng nội dung xác nhận của các nhân chứng này chỉ có được sau khi quyết định giám đốc thẩm đã ban hành và giá trị pháp lý chưa rõ liệu sẽ được đánh giá ra sao.

 Đến bây giờ sau khi nghiên cứu về vụ án, tôi cho rằng chứng cứ biên bản lời khai đầu tiên không nhận tội đã giúp củng cố niềm tin nhận định về việc oan sai.

 Cộng với việc bằng chứng dấu vân tay của Hải không trùng khớp với dấu vân tay của nghi phạm thu giữ được ở hiện trường vụ án, tổng hợp lại chính là những bằng chứng cho thấy Hồ Duy Hải vô tội.

 Luật sư Ngô Ngọc Trai

 Nguồn Facebook


 

 BÁN TÔI 20 NGÀN NIỀM VUI…

Những Câu chuyện đời ý nghĩa – Lệ Thúy Hoàng

3 ngày nay mệt và ho nhiều nên giờ trưa, tôi dạo bộ ra tiệm thuốc tây gần bệnh viện để mua thuốc ho ngậm cho đỡ rát họng.

Khi đang soạn tiền chuẩn bị trả cho 2 hộp tyrotab, tôi nghe giọng 1 người phụ nữ “Chị ơi, con em nó sốt quá, chị bán cho em 2 ngày thuốc sốt”. Tôi giật mình và hy vọng chị bán thuốc sẽ từ chối bán thuốc mà khuyên vào BV để khám. Nhưng …

“Có ho không?” – “Dạ có”

“Có sổ mũi không?” – “Dạ có”

“Có tiêu chảy không?” – “Hôm nay đi ra bọt 4 lần rồi”

“Còn gì nữa không?” – “Dạ bé mệt nhiều nên chị cho thuốc gì mạnh mạnh chút nha chị”.

Cứ mỗi câu trả lời của người mẹ bán vé số là một loại thuốc được lấy ra bỏ vào bịch. Tôi ngó sang toàn là kháng sinh, kháng viêm và có cả Smecta cầm tiêu chảy… Thực sự tôi kinh hãi quá. Không một động tác khám, cũng không vạch khăn ra xem đứa bé thế nào. Chỉ hỏi, hỏi và lấy thuốc. Mấy chuyện này nó làm mình khó chịu, ráng đứng lại vờ như đang nhắn tin điện thoại, tôi thấy đứa bé đừ nhiều, vẻ mặt mệt mỏi lắm.

Tổng cộng gói thuốc cho bé là 117 ngàn đồng. Tôi đợi chị xách bịch thuốc ra 1 góc vỉa hè đang ngồi soạn thuốc cho bé uống. Mình lại gần. Chị thấy mình, dơ cọc vé số lên “Mua giúp chị tờ vé số đi em trai”. Tôi cười và nói “Em sẽ mua cho chị. Em có ông anh là bác sĩ ở bên kia. Giờ chị qua đó đi, em nói anh em chụp cho bé 1 tấm phim phổi rồi chị trả em 1 tờ vé số chịu không?”. Chị thoáng lúng túng. Tôi biết rõ chị lúng túng không phải vì tôi xa lạ, từ sâu trong mắt chị, tôi thấy chị lúng túng như kiểu lần đầu tiên gặp việc như vậy.

“Ở đâu em?”

“Bên kia đường, chị thấy chữ Khu Khám Bệnh không? Qua đó chụp 1 phát cho chắc chứ em sợ bé chị nó bệnh đó. Đừng cho uống gói thuốc này vội. Lát anh em xem phim rồi kê toa cho”

Quay lại, tôi vốn quen thân với ông anh cử nhân chụp phim phổi, 2 anh em hay cà phê sáng nên anh rất cởi mở giúp tôi chụp cho bé 3 phim ngực thẳng – ngực nghiêng và cột sống. Sau đó nhờ anh điều dưỡng lấy 1 ống máu xét nghiệm dịch vụ trả kết quả ngay.

Xong tôi dẫn chị qua nơi tôi khám. Khi tôi mặc áo blouse vào, tôi thấy chị lúng túng thật sự, trưng trưng mắt nhìn tôi, còn cô bé cứ ngủ ngon trên đôi vai chị. Tôi chẳng biết vì sao mình lại nói dối chị, nhưng lúc đó, tôi nói tôi là bác sĩ sợ chị không tin. Bác sĩ gì lại đi mua thuốc tây?

Khám hết toàn diện cho bé. Kết hợp với xét nghiệm máu, phim XQ, bé hoàn toàn bình thường. May mắn chỉ là sốt + tiêu chảy do siêu vi. Tôi giải thích và đề nghị chị đổi bịch thuốc chị đang giữ cho bé bằng thuốc của tôi. Và chị đồng ý. Tất cả kháng sinh tôi bỏ ra vì tôi nghĩ nó chưa cần thiết. Thêm 1 ít thuốc bổ dạng siro cho con.

Xong xuôi. Chị đứng dậy cảm ơn tôi rối rít mà mặt thì chăm chăm xuống sàn nhà, không ngẩng lên. Tôi nói “Giờ trả tôi 1 tờ vé số tiền công”

Chị nói “Em đưa bác 2 tờ luôn”. Chưa kịp từ chối chị đã bỏ đi. Để lại 2 tờ vé số trên bàn.

Anh cử nhân X quang nhìn tôi cười

Anh điều dưỡng cũng nhìn tôi cười

Còn tôi nhìn 2 mẹ con chị đi tất tả mà tôi cười

Cảm ơn chị đã bán tôi 20 ngàn niềm vui…

NGUYỄN THANH SANG


 

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ – VŨ VĂN QUÝ

VŨ VĂN QUÝ

( Một tấm gương tốt lành rất đáng tôn vinh.)         

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ

   “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG –
một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”

BÀI CA KINH HÒA BÌNH
VŨ VĂN QUÝ

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những bậc lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân và chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời sùng bái tôn thờ chẳng hạn như thánh Maximilian Kolbe… (*). Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích. 

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng phục. 

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG  được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị. 

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thượng tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó. 

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12/9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây. 

Ngược dòng thời gian gần 3 thập kỷ, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH. 

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi được thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho đội Tuyên Úy ra ngoài lao động; tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có 2 khách mời là tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm kính ái trọng vọng. 

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi. 

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo đúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về trại tù Thanh Phong. 

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung  tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng? 

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Lúc nào thầy cũng tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê”.  Đúng như vậy. 

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và kẻ nào là tên ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (**) bị bỏ quên trong trại. 

 Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt, á khẩu, tay chân co rút. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới tập nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh Khương như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh. 

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị bán thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết. 

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên điên khùng  và bị loại ra khỏi đội. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc. 

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noel hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại. 

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả. 

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại. 

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỷ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo để lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha, công an việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết : 

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?” 

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

“À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.” 

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33). 

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại, trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992). 

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poóc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về sum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990. 

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.                                                                    

                                                    *    *     *

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi. 

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy. 

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”  

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn. 

VŨ VĂN QUÝ

(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân Thái Sơn tại Sài Gòn.

(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người thăm viếngthiếu thốn.


 

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập…

Nguyễn Gia Việt

 Chợ Thủ Đức là một khu chợ cổ gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Thủ Đức từ thuở lập ấp, lập làng đến hôm nay.

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập, ngập lút là của hôm nay khi quy hoạch chung quanh đã bít đường nước, hướng dòng nước mưa tập trung vào chợ Thủ Đức như cái ao.