47 năm sau và tháng tư vẫn thế: Xảo trá, trâng tráo…(VOA)

47 năm sau và tháng tư vẫn thế: Xảo trá, trâng tráo…

13/04/2022

Một banner kỷ niệm 30 tháng Tư tại Việt Nam hồi 2010. Hình minh họa.

Đã là CAND thì từ người viết đến tòa soạn muốn viết sao cũng được, muốn nói gì cũng được và đặc biệt là không cần tri thức, không cần suy nghĩ?

Tờ Công an nhân dân (CAND) – cơ quan ngôn luận của Bộ Công an Việt Nam – vừa đăng “Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” (*). Nếu dành thời gian đọc bài viết vừa đề cập, có lẽ sẽ không ít người ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam tiếp tục thở dài vì 47 năm sau ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, cả nhận thức lẫn giọng điệu của “ta” qua hệ thống truyền thông chính thức vẫn thế: Vẫn xảo trá và trâng tráo!

***

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” là một chuỗi nhiều mâu thuẫn khó tin đến mức tội nghiệp vừa vì ngụy biện, vừa vì kém cỏi!

Tại sao đã thừa nhận… cộng đồng người Việt định cư và hội nhập ổn định ở nước ngoài, mỗi khi thiên tai, địch họa đe dọa cuộc sống và vận mệnh của tổ quốc, lập tức muôn người như một, kết thành khối vững chắc, sẵn sàng cống hiến công sức, xả thân vì lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, vì vận mệnh của tổ quốc và cuộc sống của đồng bào mình,… mà còn mỉa mai… một số người lầm lạc, chĩa súng vào đồng bào, gây nên nhiều tội ác, lại chọn cho mình con đường rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình để tiếp tục mưu lợi cá nhân, đi ngược lại lợi ích của dân tộc?

Nếu không có hàng trăm trại cải tạo sau 30/4/1975, không có tịch biên nhà cửa – sản nghiệp, không chia các thành phần trong xã hội thành “bốn nhóm, 21 đối tượng”, tước bỏ cả cơ hội học hành, nghề nghiệp của con cái những người thuộc “nhóm bốn”, lẫn sinh kế của nhiều giới tại miền Nam Việt Nam thì những người ở phía bên kia chiến tuyến, bao gồm cả cựu viên chức, cựu quân nhân và thường dân Việt Nam Cộng hòa có “rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của họ” không?

Đúng là “chiến tranh đã đi qua”, thậm chí đã “đi qua” rất lâu, chỉ vài năm nữa là tròn nửa thế kỷ nhưng vết thương chưa ‘liền da’ và quê hương chưa “hòa làm một” vì nhận thức và giọng điệu xấc xược, đểu cáng vẫn là chủ đạo như “Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người”. Vì sao xứ sở mà “những người lầm lạc” định cư cho phép họ “sử dụng lá phiếu cử tri buộc một số vị dân biểu nơi họ cư trú lên tiếng tạo sức ép với chính quyền các nước” về đối sách với Việt Nam, còn những người Việt Nam đang sống trên quê hương của chính họ lại không được dùng “thủ đoạn” như vậy?

Vì sao xứ sở mà “những người lầm lạc” định cư cho phép họ “lợi dụng mạng Internet để lập ra nhiều trang mạng, diễn đàn lấy danh nghĩa yêu nước” để bày ra đủ loại hình ảnh, thông tin, ý kiến mà “ta” khẳng định là “bóp méo sự thật, tuyên truyền xuyên tạc các chủ trương, đường lối chính sách” nhưng “ta” lại ban hành Luật An ninh mạng, nghiêm cấm dân ta làm như vậy? Vì sao những “Nhân dân”, “Quân đội nhân dân”, “Công an nhân dân” chỉ cung cấp… “sự thật” nhưng chẳng có bao nhiêu người đếm xỉa? Cứ cho là “sự thật” bị “bóp méo” sao “ta” không “vo cho tròn”? Ví dụ vì sao CAND không công bố “sự thật” liên quan đến sự kiện ông Tô Lâm và thuộc cấp thưởng thức “bò dát vàng”?

***

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” trên CAND đề cập đến cuộc sống của những Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), Tạ Phong Tần,… kèm một số thông tin nhặt nhạnh hoặc từ tâm sự của chính họ, hoặc từ mạng xã hội để cho rằng họ… “vỡ mộng” nơi xứ người và tiên đoán đó là… “đoạn đầu của con đường không tương lai của những kẻ phản bội đất nước, dân tộc để cầu vinh”!

Cần lưu ý, những Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), Tạ Phong Tần,… đều đã từng bị hệ thống chính trị, hệ thống công quyền, hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam cáo buộc là tội phạm “đặc biệt nguy hiểm” đã “xâm hại an ninh quốc gia”. Vì sao những Đài, Hà, Quỳnh, Hải, Tần đều đã bị phạt tù và đều xuất ngoại khi đang chấp hành hình phạt tù. Có gì quan trọng hơn sự nghiêm minh của công lý, sự đúng đắn của hệ thống tư pháp, thể diện của quốc gia? Tại sao đảng, nhà nước, chính phủ “ta” bấp chấp tất cả để giao họ cho “ngoại bang”. Cứ cho là họ… “cầu vinh” còn “ta”… “cầu” gì mà… bất chấp mọi thứ?

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” ấu trĩ tới mức tự thóa mạ như thế này: Đối với chủ quyền quốc gia và nền độc lập dân tộc, lòng yêu nước mãnh liệt chính là nền tảng vững chắc nhất để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giang sơn cha ông để lại. Giá trị đó không thể là điểm tựa để dung túng, kích động tinh thần dân tộc cực đoan, đề cao bá quyền, đe dọa sử dụng bạo lực và bất chấp thủ đoạn gian dối, hèn hạ, bất chấp đạo lý và luật pháp của văn minh nhân loại, cốt tranh đoạt trắng trợn và phi pháp lãnh thổ của người khác. Ðiều này đã và phải tiếp tục trở thành yêu cầu của lương tri, của đạo đức không chỉ với Việt Nam mà với mọi quốc gia – dân tộc khác trên thế giới

Nếu điều vừa kể đúng là nhận thức của “ta”, tại sao “ta” bỏ “phiếu trắng” khi cộng đồng quốc tế muốn lên án Nga xâm lược Ukraine? Tại sao “ta” bỏ “phiếu trắng” khi cộng đồng quốc tế muốn nhấn mạnh yêu cầu phải bảo vệ thưởng dân? Tại sao “ta” bỏ “phiếu chống” khi cộng đồng quốc tế muốn loại bỏ Nga khỏi Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc? Nếu điều vừa kể chỉ là nhận thức của tờ CAND, tại sao CAND không góp ý với đảng, nhà nước, chính phủ mà nhắm vào “những người lầm lạc”?

Tháng tư, nghĩ về những ‘giấc mộng tan vỡ’ nơi xứ người” còn một số những điều ngớ ngẩn khác. Chẳng hạn khi kể về hoàn cảnh của Lê Thu Hà, CAND cho biết, cô sống ở “thị trấn Bad Naheim, bang Hawai, Đức”. Đức chỉ có Bad Nauheim, một thị trấn thuộc khu vực Wetteraukreis ở tiểu bang Hesse. Còn “Hawai” (viết đúng phải là Hawaii) là một trong 50 tiểu bang ở Mỹ. Đã là CAND thì từ người viết đến tòa soạn muốn viết sao cũng được, muốn nói gì cũng được và đặc biệt là không cần tri thức, không cần suy nghĩ?

Chú thích

(*) https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/thang-tu-nghi-ve-nhung-giac-mong-tan-vo-noi-xu-nguoi-i649860/

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp (VOA)

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp

30/04/2022

Học sinh Việt Nam sau năm 1975 luôn được khuyến khích phấn đấu để trở thành “cháu ngoan Bác Hồ” và để được vào Đoàn, vào Đảng.

Như một công trình xây dựng, sau gần nửa thế kỷ, người ta bắt đầu nhìn thấy giá trị thực và chất lượng kết cấu của nó sau khi lớp sơn màu đẹp đẽ trôi dần đi. Việt Nam sau 47 năm miền Bắc Cộng sản chiến thắng và “thống nhất” với miền Nam, những mảng vỡ nứt từ cốt lõi nền giáo dục đang lộ dần lên bề mặt cấu trúc xã hội và mọi mặt đời sống…

Những câu chuyện nhỏ “rất quen” dưới đây của một cô giáo từng đau đớn tận trong tim khi trải qua những năm tháng trên bục giảng, từ một “giáo sư đệ nhị cấp” thời Việt Nam Cộng Hoà trở thành một giáo viên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, cho thấy phần nào những “đứt gãy” ấy…

Mời quý vị nghe cuộc trò chuyện của Khánh An với cô giáo đã trải qua cuộc chuyển đổi giáo dục này.

0:5815:4714:04

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp

Tháng 4-1975: Những ‘đứt gãy’ và câu chuyện của một giáo sư đệ nhị cấp

 VOA: Xin chào cô. Trước tiên xin cô giới thiệt một chút về cô nhé. Cô làm gì trước năm 1975?

Cô Nguyên Thiện: Trước tiên, xin chào Khánh An và xin chào tất cả quý vị thính giả của đài VOA. Xin cho tôi tự giới thiệu với pháp danh, là vì tôi đã nương vào Phật pháp để giữ được thân mạng của mình được tồn tại đến ngày hôm nay. Tôi là Nguyễn Thiện. Tôi tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Sài Gòn năm 1973, ngành huấn luyện giáo sư đệ nhị cấp. Những trường mà tôi đã đi dạy qua là trường Lương Văn Can ở quận 8 Sài Gòn, trường Lê Quý Đôn ở quận 3, và gần cuối là trường Hai Bà Trưng. Nó mang tên Hai Bà Trưng bây giờ nhưng trước đây nó là trường Thiên Phước Học Đường, sát bên nhà thờ Tân Định.

VOA: Được biết cô đã đi dạy từ trước năm 1975, sau năm 1975 cô có tiếp tục làm nghề giáo viên hay không?

Cô Nguyên Thiện: Trước năm 1975, đời sống của một giáo sư đệ nhị cấp tuy không giàu nhưng mà nó đủ để cho mình tươm tất và tự tin khi bước lên bục giảng, là hình tượng mẫu mực cho học sinh nhìn vào. Nhưng sau năm 1975 thì thầy cô giáo hầu hết bị sàng lọc, đuổi việc, đi vùng kinh tế mới, ra đạp xích lô hoặc là đi bán chợ trời, hay làm bất cứ việc gì để có đồng tiền đặng tồn tại. Tôi thì được cái may mắn là vì họ thiếu giáo viên ngoại ngữ cho nên được giữ lại với cái đồng lương gọi là lương chết đói, mà người ta thường ví von với câu vè dân gian là “Muốn sang thì lấy thợ tiện, muốn diện thì lấy thợ may, muốn ăn mày thì lấy thầy giáo”.

VOA: Vâng, nghe rất chua xót. Sau năm 1975, cô tiếp tục được giữ lại làm giáo viên thì cô thấy có những thay đổi nào so với thời trước năm 1975? Có những thay đổi nào đáng nhớ và đáng lưu ý?

Cô Nguyên Thiện: So sánh với trước năm 1975 thì học sinh có điểm số là do tự lực cá nhân của mỗi em. Nhưng sau năm 1975 thì giáo viên chủ nhiệm cho điểm học sinh bằng lý lịch từ ban giám hiệu gửi xuống. Hễ con cán bộ thì được cho lên thắng. Lúc đó, họ dùng những từ như “cho lên thẳng” và ở lại lớp thì gọi là “lưu ban”. Nhưng đã có lý lịch là con cán bộ thì được lên thẳng, giáo viên chủ nhiệm không được phép cho con cán bộ lưu ban. Còn có lý lịch là con của nguyên quân, nguỵ quyền là bị đánh rớt. Rất rõ ràng.

Tôi lấy ví dụ là có một lớp 12 do tôi làm chủ nhiệm lúc đó, học sinh của lớp năm đó rất giỏi. Nó học ban toán và nó rất xuất sắc, nhưng mà cái lớp năm đó bị đánh rớt gần hết cả lớp, chỉ vì cái tội là có cha đang ở trong tù cải tạo. Và còn một điểm nữa là cô giáo dạy môn toán năm đó, cô ấy là cán bộ miền Bắc vào. Lớp này là học sinh ban toán lúc đó, nó rất giỏi, nên khi cô cho bài toán trên bảng mà cô chứng minh không ra đáp số. Thế là có một em nó dám lên nó giải bài toán thay cho cô giáo, thì bà ta hơi bị quê. Từ đó, bà đì mấy đứa trong lớp. Em đó bị bà đì hỏng luôn, không được lên lớp ngay trong năm đó, mà bị loại ra khỏi trường luôn, với lý do là lý lịch em đó không trong sạch, có cha đi tù cải tạo.

VOA: Khi cô chứng kiến những trường hợp như vậy, mà bản thân cô là một giáo viên chủ nhiệm phải đánh rớt những học trò như vậy, cảm giác của cô lúc đó như thế nào?

Cô Nguyên Thiện: Tôi hơi cứng đầu. Tôi hơi bướng bỉnh, ở chỗ là cứ mỗi lần lên lớp là phải có soạn giáo án đàng hoàng, mà giáo án thì phải soạn luôn luôn phải đúng tiêu chuẩn là phải có ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ. Cho nên, nhiều khi soạn giáo án thì mình soạn một đường cho nó duyệt, nhưng mà khi lên lớp thì mình giảng theo trái tim của mình, theo kiến thức trung thực của mình, thì dễ bị Ban Giám hiệu nó khó dễ lắm.

VOA: Cô đã bị khó dễ như thế nào?

Cô Nguyên Thiện: Có một đứa học trò tên là Nguyễn Ái Quốc. Nó học dốt vô cùng, mà khi họp để xét cho học trò lên lớp thì chỉ vì nó có tên Nguyễn Ái Quốc nên phải xét cho nó lên lớp. Chứ nếu mà giữ nó lại thì coi như bôi nhọ Bác Hồ, tại vì nó cùng tên với Bác Hồ. Có chi tiết rất buồn cười như vậy đó. Mà hầu hết con cán bộ lúc đó học dốt mà cứ phải cho lên lớp… Rồi thi đua lúc nào cũng ép học sinh, đưa vô khuôn mẫu là tụi nó phải phấn đấu để thành “cháu ngoan Bác Hồ”. Mà muốn thành cháu ngoan Bác Hồ là phải lao động tốt, học tập tốt, chữ gì cũng mang cái chữ tốt tốt… nhưng nó không cụ thể, chỉ lẩn quẩn ca ngợi Đảng với ca ngợi Bác Hồ, thì tôi làm cái đó không được. Cho nên, lớp của tôi lúc đó luôn luôn là hạng chót.

Nếu tham gia tiết mục văn nghệ, thì làm cô giáo, tôi chỉ biết dạy tụi nó đóng kịch thí dụ như “Ngao Sò Ốc Hến” hoặc những cái bài hát như “Bạch Đằng Giang”, hoặc bài hát “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến…” thì nó không có tính Đảng, không những vậy còn bị ghép cho là “phản động” bởi vì hầu hết học trò trong lớp nghe lời cô giáo. Học trò của mình hầu hết cha mẹ của nó đi cải tạo. Cho nên, ai có lâm vào cảnh thì mới hiểu được người trong cảnh. Mình thấy là mình dạy học trò lúc đó bằng cái tâm của một người thông cảm với nỗi đau của đồng loại. Có vậy thôi, nên không làm được cái việc là cho học trò thi đua để ca ngợi Bác, để được “cháu ngoan Bác Hồ”, nên hầu hết học trò trong lớp của tôi không có danh hiệu “cháu ngoan Bác Hồ”.

Mấy anh trong trong trường thì nói “thứ nhất là ngồi lì, thứ nhì là đồng ý”, chớ đừng nên nói ngược lại mà bị khó khăn rắc rối. Nhưng mà tôi không làm được những cái ngược lại lương tâm của mình. Thành ra không bao giờ có được danh hiệu “Giáo viên tiên tiến”. Không những vậy còn bị ban hiệu mời lên thường xuyên để nhắc nhở. Có cái may là không bị đuổi. Nhưng sự thật, họ không đuổi không biết là may hay rủi. Bởi vì người ta bung ra chợ trời người ta bán buôn, người ta còn giúp được con cái ăn học, tồn tại được. Còn mình với cái đồng lương chết đói mà mà cứ ráng chịu đựng, vừa nuôi con vừa đi làm trong hoàn cảnh đồng lương chết đói, thì cô Khánh An có biết là lúc đó tôi nuôi con bằng cách là, với đồng lương lãnh ra không đủ để nuôi con trong một tuần lễ chứ đừng nói chi một tháng, thành ra tôi cho tụi nó ăn gạo lứt muối mè. Cháo cũng muối mè, cơm cũng muối mè. Rồi nó đi học. Rồi trời cũng thương, lúc đó tụi nó khỏe mạnh, cũng học giỏi, cũng tròn trịa. Nhờ gạo lứt muối mè mà tụi nó sống. Ban Giám hiệu thì nói bà này có chồng đi nước ngoài mà bả nói bả cho con ăn gạo lứt muối mè để bả qua mặt mình thôi. Chứ họ không tin.

VOA: Cô đã giảng dạy ở mái trường xã chủ nghĩa. So với mái của thời Việt Nam Cộng hòa, cô thấy có những điểm gì mà cô là cô cho là đáng tiếc, hoặc ngược lại, cô cảm thấy nó tốt hơn?

Cô Nguyên Thiện: Bây giờ nói không phải mình chê hay mình vạch lá tìm sâu đâu. Mà những cái tệ hại của nhà trường sau năm 1975 đến bây giờ, mình nhìn thấy nó đau lòng hơn là các điểm tốt. Không thấy điểm tốt. Chưa có bao giờ mà thầy cô giáo lại có thể làm những việc như phải có tiền đút lót thì mới được đi vào trường, rồi đút lót thì con mới được tốt nghiệp, nhiều thứ…

Rồi học trò hồi xưa thì tình thầy trò thương yêu quý trọng lẫn nhau. Học trò rất kính trọng thầy giáo không phải vì có hay không có tiền, mà nó kính trọng vì phẩm chất đạo đức của nhà giáo. Bởi vì nhà giáo lúc đó được huấn luyện là mình làm việc dạy học không phải là vì đồng tiền, mà dạy học là vì thích “thiên chức”. Hồi xưa gọi là “thiên chức của nhà giáo”, phải có lương tâm nghề nghiệp. Còn bây giờ, học trò trong lớp, chưa bao giờ có hình ảnh mà học trò xăn quần xăn áo lên, con gái mà nắm đầu nắm cổ rồi quần thảo nhau như là bề hội đồng. Thấy mà thương tâm! Mà không phải một chỗ, mà gần như khắp nơi, rồi cách dùng từ ngữ bây giờ nó hoàn toàn khác với từ ngữ mà mình dùng cho học trò dạy ở học đường trước 1975…

Trong bài giảng, trong giáo án lúc nào cũng không thể thiếu hai cái tính là ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác. Cho đến những cái bài Toán của học trò học ở trong trường, mà sách giáo khoa nhà trường cũng soạn là hôm nay diệt được bao nhiêu lính Mỹ, hôm qua diệt được bao nhiêu lính Mỹ, như vậy trong tuần lễ này diệt được bao nhiêu lính Mỹ. Chỉ như vậy thôi thì mình thấy tính nhân bản, lòng nhân đạo đã không có, nó đã bị giết chết từ trong trứng rồi…

Từ trong môi trường giáo dục như vậy thì con người ta chỉ biết là ganh đua. Ganh đua chứ không phải thi đua. Người ta ganh nhau, rồi lòng đố kỵ… Bây giờ thì ai cũng muốn làm giàu học. Học trò nó học với mục đích làm sao ra trường là để nó chiếm được vị trí, nhất là làm sao phấn đấu để nó vô đảng. Vô Đoàn, vô Đảng là để nó ngồi trên, ngồi trước, đặng nó làm giàu. Chứ còn cái lương tri của con người thì bây giờ hiếm có…

VOA: Vâng, cám ơn cô đã dành thời gian cho VOA.

Cô Nguyên Thiện: Rất cảm ơn Khánh An đã tạo cho tôi cơ hội mà trong nước chưa bao giờ tôi có được điều kiện để nói như thế này. Cảm ơn quý vị thính giả đã lắng nghe. Xin chân thành cảm ơn quý đài.

Cô Nguyên Thiện đã giảng dạy tại Việt Nam cho tới năm 1988, khi cô được bảo lãnh sang Hoa Kỳ định cư. Hiện cô đang sống tại bang Florida.

Phú Quốc xây tượng đài Hồ Chí Minh trị giá 353 tỷ đồng

 Đài Á Châu Tự Do

Phú Quốc xây tượng đài Hồ Chí Minh trị giá 353 tỷ đồng

Hôm 29/4/2022, tỉnh Kiên Giang tổ chức lễ động thổ khởi công xây dựng “Tượng đài Bác Hồ” tại thành phố Phú Quốc với tổng kinh phí đầu tư là 353 tỷ đồng bằng nguồn vốn Trung ương và ngân sách địa phương.

Hồi tháng 6 năm ngoái, Sở Văn hóa và Thể Thao tỉnh Kiên Giang từng cho biết dự án xây tượng đài và quảng trường của ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ cộng sản sẽ được khởi công vào dịp lễ 2-9-2021 và phấn đấu hoàn thành toàn bộ dự án vào cuối năm 2023.

Tuy nhiên, trước đó Chính phủ cho thành lập và quản lý “Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19”, huy động tiền bạc từ người dân và doanh nghiệp để mua sắm vắc-xin, thông tin xây tượng đài được đưa ra sau đã vấp phải phản ứng của người dân và cho đến nay công trình này mới được khởi công xây dựng.

#RFAVietnamese #tuongdaiHochiMinh

Thế hệ hậu chiến với nỗ lực bảo tồn và quảng bá sách thời Việt Nam Cộng Hoà

 Đài Á Châu Tự Do 

Tự nhận mình là “người miền bắc thuần tuý” do có bố mẹ là đảng viên Đảng Cộng Sản, và sinh trưởng ở vùng nông thôn bắc bộ sau khi chiến tranh đã kết thúc, nhưng ông Trịnh Hữu Long cho biết bản thân đã tìm ra lời giải cho việc hoà hợp, hoà giải giải dân tộc, và sách thời Việt Nam Cộng Hoà là một công cụ hữu hiệu.

Thế hệ hậu chiến với nỗ lực bảo tồn và quảng bá sách thời Việt Nam Cộng Hoà
RFA.ORG

Thế hệ hậu chiến với nỗ lực bảo tồn và quảng bá sách thời Việt Nam Cộng Hoà

Một tổ chức do người Việt Nam sinh ra thời hậu chiến đang

Cụm từ “ngụy quyền Sài Gòn” vẫn được báo chí chính thống Việt Nam sử dụng…

BBC News Tiếng Việt 

Cụm từ “ngụy quyền Sài Gòn” vẫn được báo chí chính thống Việt Nam sử dụng, trong các bài đánh dấu sự kiện 30/4/1975 năm nay.

Trong vài năm qua, thỉnh thoảng lại có ý kiến ở Việt Nam dè dặt cho rằng không nên gọi chính quyền Việt Nam Cộng hoà là ngụy quân, ngụy quyền như trước.

Tuy vậy, điểm qua báo chí tháng Tư 2022, người ta thấy chữ “ngụy quyền” vẫn được sử dụng chính thức tại Việt Nam.

Ví dụ, một bài của Thông tấn xã ngày 30/4/2022 viết: “ Trên chiến trường miền Nam, mặc dù ngụy quân, ngụy quyền và đế quốc Mỹ dùng mọi thủ đoạn chia rẽ nhân dân với bộ đội, du kích nhưng mối quan hệ đoàn kết quân dân luôn được củng cố, ngày càng gắn bó.”

Tạp chí Tuyên giáo hôm nay 30/4 viết: “Nhân dân các địa phương toàn miền Nam kiên cường bất, khuất suốt cuộc kháng chiến, khi cuộc tổng tiến công nổ ra, đã dũng cảm nổi dậy phối hợp cùng các lực lượng vũ trang đập tan bộ máy ngụy quyền, thiết lập chính quyền cách mạng, giải phóng quê hương.”

Báo Quân đội Nhân dân ngày 28/4 viết: “Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam.”

Báo Tuổi Trẻ Thủ đô ngày 30/4 viết: “Vào lúc 11h30 ngày 30/4/1975, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên nóc dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn.”

Báo Long An ngày 30/4 có bài viết: “Sự sụp đổ của Ngụy quyền Sài Gòn là tất yếu vì chính quyền đấy đi ngược lại lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc.”

Như vậy có thể thấy cụm từ “ngụy quyền Sài Gòn” vẫn là ngôn ngữ chính thức được sử dụng để chỉ các chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước đây.

ANH GIẢI PHÓNG TÔI HAY TÔI GIẢI PHÓNG ANH?!

Van Pham

ANH GIẢI PHÓNG TÔI HAY TÔI GIẢI PHÓNG ANH?!

Nhân 47 năm ngày được chế độ mênh danh là “ngày giải phóng”. Chúng ta hãy nghe nhà văn miền Bắc Nguyễn Quang Lập kể lại chuyện cuộc sống của hoc sinh miền Bắc vào thời điểm ấy!!!!

*******

Sài Gòn giải phóng tôi….

Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp.

Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn.

Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kì diệu.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó.

Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Minh bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các nhà du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.

Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế.

Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à?

Thằng Minh tủm tỉm cười không nói gì, nó mở cassette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.

Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời.

Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.

Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.

Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác.

Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nội chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn. Với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy.

Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.

Nguyễn Thị Thanh Nhàn bị bắt, nghi ‘dắt mũi’ các ủy viên Trung Ương Đảng

Nguyễn Thị Thanh Nhàn bị bắt, nghi ‘dắt mũi’ các ủy viên Trung Ương Đảng

April 29, 2022

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị kiêm tổng giám đốc công ty AIC, bị bắt hôm 29 Tháng Tư vì “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” trong vụ đấu thầu dự án bệnh viện Đa Khoa Đồng Nai.

Bà Nhàn, 53 tuổi, quê ở Bắc Ninh, từng được nhận giải thưởng nữ doanh nhân tiêu biểu “Bông Hồng Vàng” cùng nhiều danh hiệu khác.

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty AIC. (Hình: Thanh Niên)

Không có bất kỳ ảnh nào đăng trên báo cho thấy bà Nhàn lúc bị bắt, khiến mạng xã hội dấy lên tin cho rằng bà này vẫn đang ở nước ngoài, và Bộ Công An chỉ ra lệnh bắt.

Cũng trong vụ này, ông Phan Huy Anh Vũ, giám đốc Sở Y Tế tỉnh Đồng Nai, bị bắt và khởi tố.

Theo báo Tuổi Trẻ, bà Nhàn và ông Vũ bị cáo buộc sai phạm liên quan đến việc mua sắm thiết bị y tế trong quá trình xây dựng bệnh viện Đa Khoa Đồng Nai với tổng giá trị hơn 476 tỷ đồng ($20.7 triệu).

Báo Thanh Niên cho biết, AIC được thành lập từ năm 2005, khởi thủy là doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực xuất cảng lao động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, đến nay doanh nghiệp đã mở rộng hệ sinh thái với hơn mười công ty thành viên và trở thành AIC Group hoạt động đa ngành với doanh thu hàng ngàn tỷ đồng.

Trong những năm gần, AIC Group trở thành đơn vị trúng nhiều thầu cung cấp trang thiết bị trong lĩnh vực y tế, giáo dục…

Đây cũng được biết đến là doanh nghiệp đa ngành chuyên cung cấp các thầu liên quan đến lĩnh vực y tế.

Đáng lưu ý, hồi Tháng Mười Hai, 2019, một bài đăng trên báo Xây Dựng ca ngợi bà Nhàn “là người thích dấn thân làm việc khó.”

Bài báo cũng ghi nhận bà Nhàn “là viện sĩ, tiến sĩ và cũng là người phụ nữ đầu tiên của khu vực Châu Á và Việt Nam được Viện Hàn Lâm Quốc Tế Về Các Nghiên Cứu Hệ Thống Liên Bang Nga trao tặng hai danh hiệu danh giá này.”

Liên quan bà Nhàn, từ hai năm trước, trên mạng xã hội xuất hiện một bài báo ký tên Thu Hà với nội dung tố cáo bà Nhàn “là người gây sóng gió chính trường trước Đại Hội 13.”

Ông Phan Huy Anh Vũ, giám đốc Sở Y Tế tỉnh Đồng Nai, từng được phong tặng danh hiệu “Thầy Thuốc Nhân Dân.” (Hình: Thanh Niên)

Theo bài báo, qua cầu nối từ bà Nguyễn Thị Kim Ngân (cựu chủ tịch Quốc Hội), bà Nhàn bắt đầu quen biết và “dắt mũi” hàng loạt ủy viên Trung Ương Đảng để sai khiến, lợi dụng họ để làm những phi vụ kinh thiên, động địa. Những cái tên đình đám được cho là dính líu đến bà Nhàn gồm: Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Thị Kim Ngân, Phạm Minh Chính, Nguyễn Thiện Nhân, Hoàng Bình Quân, Trịnh Đình Dũng, Nguyễn Nhân Chiến, Phạm Thị Thanh Trà, Nguyễn Xuân Thắng, Trần Bình Minh…

“Có tiền, có chức vụ, mua được học hàm học vị, từ một con buôn, ‘cò’ xuất cảng lao động ăn trên mồ hôi, nước mắt và cả máu của người lao động tha phương nơi xứ người, Nguyễn Thị Thanh Nhàn đã trở thành người đàn bà quyền lực, uy danh cả nước, trúng thầu các dự án ‘khủng,’ thu tóm hàng trăm ngàn tỷ đồng từ các dự án công béo bở. Hiện bà ta là cái tên gây sóng gió, chao đảo chính trường Việt Nam trước thềm Đại Hội 13 của đảng CSVN,” tác giả Thu Hà viết. (N.H.K) [qd]

Việt Nam chỉ còn đúng một nước chọn

Việt Nam chỉ còn đúng một nước chọn

Bởi  AdminTD

Blog RFA

VietTuSaiGon

29-4-2022

Cho đến lúc này, Việt Nam vốn dĩ quen đi hai chân trên hai thái cực và đã đến đoạn đường mà hai thái cực đó giãn rộng đến độ nguy cơ không thể tiếp tục đi được nữa, phải chọn một trong hai thái cực, Mỹ, phương Tây hay Nga, Trung? Có lẽ, Việt Nam không còn chọn lựa nào khác ngoài Mỹ, phương Tây.

Trích từ RFA: “Ngày 21/4, tại cuộc họp báo hàng tuần, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết, Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN – Hoa Kỳ nhân kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ hai bên sẽ diễn ra từ ngày 12 – 13/5 tại Thủ đô Washington DC (Hoa Kỳ). Thủ tướng Việt Nam (TT) Phạm Minh Chính đã nhận lời của Tổng thống Joe Biden, dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự hội nghị, thăm và làm việc tại Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc (LHQ). Đây sẽ là một chuyến xuất ngoại hết sức khó khăn của TT Phạm Minh Chính sau những biến cố đầy tai tiếng, cho thấy Hà Nội đã không còn che giấu việc chọn phe. Sau khi Nga xâm lược Ukraine từ ngày 24/2, Việt Nam đã đi theo sự dẫn dắt của Nga và Trung Quốc, ra mặt đối kháng với Hoa Kỳ, chống lại các nước dân chủ, chống lại hệ thống luật pháp quốc tế ở LHQ và trên bàn cờ địa-chính trị cả ở khu vực lẫn quốc tế”.

Nhìn từ bề ngoài, sẽ thấy việc chọn Mỹ, phương Tây là mơ hồ và khó xảy ra với Việt Nam lúc này, và các lá phiếu ở Liên Hiệp Quốc của Việt Nam ngầm ủng hộ Nga càng củng cố hơn lập luận cho rằng Việt Nam vẫn chọn Nga và Trung Quốc, kỳ thực, câu chuyện không chỉ 50/50 ngã về Mỹ, phương Tây mà có lẽ, tỉ lệ chọn Mỹ, phương Tây còn cao hơn nhiều. Vì đó là thế bắt buộc, dù muốn hay không muốn!

Bởi lựa chọn của Việt Nam lúc này tùy thuộc vào hai yếu tố vô cùng quan trọng gồm đối nội và đối ngoại, hai yếu tố này lại liên quan đến rất nhiều câu hỏi giữa Nhân Luân hay Ý Thức Hệ? Chấp nhận trở thành thái thú Tàu hay giữ cương vị lãnh đạo? Đi đến Tự Do Chính Trị trong khu vực hay Tùy Thuộc Chính Trị Bắc Quyền? Tất cả những câu hỏi này nhức nhối hơn bao giờ hết.

Về khía cạnh Nhân Luân hay Ý Thức Hệ, rõ ràng, Nhân Luân vẫn là vấn đề cốt lõi của phát triển thế giới loài người và đặc biệt phát triển quốc gia, dân tộc. Trong một quãng thời gian ngắn, ý thức hệ Cộng sản là vô cùng quan trọng đối với một dân tộc đã lún quá sâu trong loại hình chính trị trung ương tập quyền và có tâm tính tự phát như Việt Nam. Tuy cơ hội tiếp cận văn minh phương Tây là rất cao nhưng trong tư thế thuộc địa, việc cởi trói của một dân tộc nếu dựa vào sức mạnh của một “mẫu quốc” sẽ không toàn triệt. Rõ ràng ý thức hệ Cộng sản dù nhìn theo hướng nào thì đó cũng là ác chủ bài để triệt tiêu ý thức hệ trung ương tập quyền mà lâu nay người là quen miệng gọi chế độ phong kiến tại Việt Nam.

Nhưng sứ mệnh của ý thức hệ này đã chấm dứt cách đây hơn nửa thế kỉ tại Việt Nam, giai đoạn càng về sau, chiếc áo ý thức hệ Cộng sản đã bị người ta dán lên đủ các loại hoa hòe để bịp nhau trong khu vực và quốc tế, Liên Xô, Trung Quốc cũng đã khoác lên đảng Cộng sản Việt Nam những chiếc áo như thế. Và kết quả thì như thế nào?

Khi cần thiết, Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam; khi cần thiết, Liên Xô bỏ mặc người anh em Cộng sản Việt Nam. Bởi ý thức hệ Cộng sản với cái tên mỹ miều là Quốc tế Cộng sản chỉ là trò lừa bịp. Người Cộng sản Việt Nam thừa sức để hiểu như vậy. Nhưng Việt Nam thời đó chưa phát triển, nghèo đói, biết bám víu vào ai ngoài hai anh Cộng sản vừa tỏ ra quân tử và giấu bản chất ngụy quân tử và chơi bẩn này?

Và, cho đến lúc này, nói gì thì nói, lượng vũ khí viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là Liên Xô theo diện bánh ít trao đi bánh qui trả lại, anh cho em vũ khí, em cho lại anh lúa gạo, trái cây, chuối, bò heo gà… là nhiều vô kể. Và cơ số vũ khí ấy là nền tảng trong sức mạnh quốc phòng Việt Nam.

Thế nhưng trong gần ba tháng, chính các loại vũ khí Liên Xô – bây giờ là Nga cung cấp cho Việt Nam đã rụng như sung trên chiến trường Ukraine, một quốc gia nhỏ và văn minh kề cận Nga. Tuyên bố chiếm Ukraine trong một tuần của Putin trở thành câu nói giễu nhại của các chính khách quốc tế và hơn hết là Nga trở thành thằng hề khắm của quốc tế, Putin trở thành hung đế tàn ác… Điều này khiến cho mọi nước chơi với Liên Xô trước đây, và Nga bây giờ, phải nhìn lại, suy nghĩ lại.

Trích từ RFA: “[Sẽ trả lời như thế nào với] Hoa Kỳ, với các nước ASEAN? Cộng đồng quốc tế sẽ nhắc lại tuyên bố xanh rờn của TT Chính rằng, Việt Nam không bao giờ chọn phe, Việt Nam chỉ chọn lẽ phải. Vậy “lẽ phải” của Việt nam ở đâu? Là chiến tranh xâm lược? Là tàn sát dân thường? Là tự do áp dụng chính sách diệt chủng như ở Ukraine? Hội nghị thượng đỉnh Mỹ – ASEAN được coi là cơ hội để chính phủ Biden thúc đẩy quan hệ song phương với ASEAN, mở rộng tầm nhìn về một khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và rộng mở (FOIP) và kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Hơn ai hết, vị TT Việt Nam biết rằng, kinh tế Việt Nam tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường Hoa Kỳ với số xuất siêu lên tới $81 tỷ (đồng thời nhập siêu từ Trung Quốc $54 tỷ) trong năm 2021. Chỉ cần Mỹ đóng cửa một số mặt hàng xuất cảng của Việt Nam, cấm vận một số công ty và ngân hàng Việt Nam (đang đội lốt để tuồn hàng Tàu sang Mỹ) thì hậu quả sẽ khôn lường”.

Thế nhưng Việt Nam thì sao? Vì mục tiêu bảo trì, bảo dưỡng kho vũ khí đã mua từ Nga mà chấp nhận nhiều vấn đề trái khoáy. Đặc biệt, chấp nhận tập trận chung với Nga. Bởi hiện tại, sau gần ba tháng xâm lăng Ukraine, Nga đã cho thế giới nhận biết vũ khí của họ lợi hại cỡ nào, đâu là điểm mạnh và đâu là điểm yếu của vũ khí Nga, muốn triệt tiêu vũ khí Nga người ta cần làm gì…

Mối nguy của Việt Nam hết sức cao, bởi phép thử Nga – Ukraine cho thấy rằng vũ khí của Liên Xô – Nga chỉ còn là thứ đồ chơi cũ kĩ, không đáng nói, và ngay trong thời chiến tranh Nam – Bắc Việt Nam, Liên Xô cũng chỉ cung cấp cho Việt Nam tên lửa Sam, kĩ sư Việt Nam phải độ thành Sam II mới có cơ hội đánh nhau với không quân miền Nam. Vậy thì hiện tại, liệu kho vũ khí vốn có số lượng xuất xứ Nga đồ sộ như vậy, có gây sợ cho Trung Quốc hay không?

Vấn đề then chốt để Việt Nam phải thân Mỹ, phương Tây nằm ở khía cạnh Nhân Luân chứ không còn là Ý Thức Hệ, bởi ý thức hệ Cộng sản đã chính thức hết sứ mệnh lịch sử của nó, đã đến lúc người ta tự đặt câu hỏi rằng tiếp tục tiến bộ hay lùi trở về thời nô lệ, Bắc thuộc? Phát triển, cường thịnh hay trở thành bãi rác quốc tế? Hệ thống chính trị độc lập hay làm thái thú?

Bởi lẽ ngay lúc này, nếu đặt câu hỏi Mỹ có cần Việt Nam hay không? Mỹ có sẵn sàng bắt tay hợp tác với Việt Nam hay không? Thì rõ ràng, có nhắm mắt cũng nhìn thấy Mỹ rất cần Việt Nam và Việt Nam rất cần Mỹ. Mỹ cần Việt Nam đứng vai trò tiền trạm, người hợp tác tin cậy để ổn định khu vực Thái Bình Dương và hơn hết, Mỹ cần một đối tác chiến lược sâu bền trong vấn đề kinh tế hàng hải trên khu vực Thái Bình Dương.

Và, Việt Nam cũng cần Mỹ, rất cần Mỹ trong vấn đề cân bằng trọng lực quân sự trên Thái Bình Dương trước Trung Quốc và ngay cả trên đất liền. Bởi giả định có chiến tranh xảy ra, Trung Quốc xâm lược Trường Sa, Bắc Việt, thì vũ khí Nga – Xô sẽ chẳng là gì. Đương nhiên yếu tố con người, quân đội là quan trọng nhất, nhưng thời đại kĩ thuật, chiến tranh kĩ thuật, một cú bấm nút có thể tương đương với cuộc đổ bộ vài sư đoàn. Và các sư đoàn, con người chỉ đóng vai trò tiếp quản và trấn/ấn định chủ quyền là chính.

Hơn nữa, nói về tâm lý nhân dân, một khi chính phủ, đảng, nhà nước Việt Nam chọn hướng tiến bộ, chọn Mỹ thì nhân dân sẽ vỗ tay, sức sống dân tộc bừng dậy, ngược lại, chọn Trung Quốc thì đó là một lựa chọn khiến cho nhân dân thất vọng và không chừng, đó là cách chọc giận nhân dân. Và không có gì đáng sợ bằng việc đám đông nhân dân nổi giận.

Hơn nữa, kinh tế Việt Nam trong những năm sắp tới, hầu như mũi nhọn lại buộc phải dựa trên kinh tế biển và hàng hải. Nếu bây giờ Trung Quốc đánh nốt Trường Sa và thực thi đường chín đoạn một cách toàn triệt thì Việt Nam sớm muộn cũng thành một tỉnh của Trung Quốc, bởi lấy được biển rồi thì chẳng tốn viên đạn nào để tiến vào đất liền, lúc đó, những quả bom tiền sẽ lên tiếng thay cho súng đạn.

Một khi Trung Quốc nắm bá chủ biển Đông, Thái Bình Dương trở thành sân nhà, tài sản của họ thì rất khó để biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo trên thế giới. Và chỉ cần nắm biển Đông với trữ lượng đất hiếm, với vai trò cửa ngõ hàng hải thế giới và cũng là cánh cửa an ninh vô cùng quan trọng trên hải trình quốc tế, xem như Trung Quốc đã nắm bửu bối trong tay và việc làm thay đổi trục sức mạnh của thế giới không phải là khó khăn của họ. Đây mới là mối bận tâm lớn nhất của Mỹ, phương Tây. Và Mỹ cũng chẳng dại gì để Việt Nam lâm vào thế bí để rồi trở thành thuộc địa của Trung Quốc.

Và Mỹ chắc cũng không đến nỗi mù mờ về lịch sử ngàn năm Bắc thuộc của Việt Nam, họ cũng thừa biết lãnh đạo Việt Nam, cho dù là Cộng sản hay Cộng Hòa hay gì nữa thì chẳng có ai dại chấp nhận trở thành thái thú của Trung Quốc. Bởi chiêu bài vốn rất cũ kĩ của Trung Quốc lặp lại nhiều lần trong lịch sử là quan sát, chiêu dụ, đánh úp và nhốt vào chuồng, biến chư hầu thành vật nuôi, con thịt.

Một khi các lãnh đạo Việt Nam bị rơi vào tình thế làm thái thú cho Trung Quốc, thì đương nhiên mọi ưu tiên và chiêu dụ bấy lâu nay sẽ biến mất và thay vào đó là quân đội Trung Quốc có mặt khắp lãnh thổ Việt Nam kéo theo quyền giám sát tối cao của các thứ sử người Trung Quốc trên đất nước hình chữ S này, không chừng cả bán đảo Đông Dương. Và lúc đó, các thái thú lại trở thành con thịt mập béo đầu tiên của họ.

Với viễn cảnh như vậy, nhà lãnh đạo Việt Nam hình như không còn cách lựa chọn nào khác là ngả về phương Tây, tìm liên minh với Mỹ và tìm một lối đi tiến bộ. Bởi điều này vừa có lợi cho quốc dân, vừa có lợi cho quyền lực và chỗ đứng trên chính trường. Và, hình như chỉ có lựa chọn này mới chặn đứng được âm mưu xâm lược (mà khả năng xảy ra của nó rất cao) của Trung Quốc trên biển Đông và lãnh thổ Việt Nam trong thời gian sắp tới!

Ngày trở về của “người thua cuộc”- Cảm xúc 30 tháng 4- Lê Nguyễn.

Cảm xúc 30 tháng 4- Lê Nguyễn.

Ngày trở về của “người thua cuộc”

Người đàn ông râu tóc bạc phơ trong ảnh là Đại tá VNCH Nguyễn Công Vĩnh. 13 năm sau ngày chiến tranh kết thúc (1975-1988), ông từ trại cải tạo trở về theo chuyến xe lửa dừng lại ga Hòa Hưng, Sài Gòn.

Người vợ vẫn còn phảng phất nét xuân sắc một thời, duy chỉ có những chiếc răng đã rụng dần theo năm tháng chờ trông. Người con trai tóc ngã hoa râm đã nắm tay cha và khóc như một đứa trẻ. Nhiều người nhìn tấm ảnh này cũng đã khóc theo anh, như để chia sẻ nỗi đau ngút ngàn mà anh đã trải qua và niềm hạnh phúc mà gia đình anh đã tìm lại được sau những tháng năm đầy ác mộng. Dù sao “người thua cuộc” Nguyễn Công Vĩnh cũng còn có những năm tháng cuối đời được sống trong vòng tay thương yêu của gia đình. Nhiều người bạn tù của ông không có được diễm phúc này, họ vĩnh viễn gửi nắm xương tàn nơi đất lạ quê người như nhân vật trong bài thơ đầy cảm xúc dưới đây:

***

MẢ TÙ

Một đàn gọng vó chèo đò,

Dăm con nhái bén thập thò miệng hang.

Đầu thừa đuôi thẹo nghĩa trang,

Rào thưa nẻo tắt dọc ngang trâu bò.

Thanh minh còn thấy xanh ngô,

Mưa ngâu tháng bảy nhấp nhô nổi chìm.

Mộ phần chẳng thấy tuổi tên,

Dăm ba chữ số vạch trên ván thùng.

Hỏi “sao đắp chỉ lưng lưng”,

Rằng “nông choèn tiểu đất chừng ấy thôi”.

“Trẻ-già, trai-gái ngược xuôi ?”

“Đã nằm góc ấy chỉ người trại giam !”

Cỏ khâu ngoi nước úa tàn,

Kiếp người còn lại nhân gian chút này.

Chết rồi hết nợ sạch vay,

Nhúm xương tù tội biết ngày nào tha !

Sống thành nhân chết làm ma,

Ngậm ngùi kiếp nạn xót xa phận người.

Hương hoa – bẹ chuối thả trôi,

Biết rằng còn được luân hồi nữa chăng…

Nghĩa trang Phủ Lý, 2001

Thơ Nguyễn Thái Sơn

***

Đây có lẽ là một trong những bài thơ có tính nhân văn sâu sắc nhất về thân phận con người. Thật cảm kích khi lần đầu tiên có người thể hiện những cảm xúc tinh tế trước cảnh thê lương của ngôi mộ một người tù xa xứ, nép mình trong một góc nghĩa trang bị hoang phế giữa cái bộn bề của cuộc sống nhân gian, ngày Thanh minh tháng ba còn xanh mượt những hàng ngô mà tháng bảy đã nhấp nhô chìm nổi dưới những trận mưa rào.

Cỏ khâu ngoi nước úa tàn,

Kiếp người còn lại nhân gian chút này.

Chết rồi hết nợ sạch vay,

Nhúm xương tù tội biết ngày nào tha !

Người nghệ sĩ đáng trân trọng không phải là người chỉ biết ngẩng đầu lên, tụng ca ánh hào quang trên chiếc mũ triều thiên của đấng quân vương, mà là người biết cúi xuống, rung động và cảm thương từng số phận nghiệt ngã của những con người đã sống và chết đi trong sự lãng quên của người đời, như người tù nằm dưới ngôi mộ vô danh trong bài thơ này.

Càng cảm kích hơn khi chúng ta biết được rằng nhà thơ Nguyễn Thái Sơn từng là một bộ đội miền Bắc, cầm súng chiến đấu chống lại “bè lũ Mỹ-Ngụy” ở miền Nam. Tình cảm anh dành cho một “kẻ thù” cũ nay đã trở thành một nắm xương vô định thật đáng quý, nó nói lên một chuyển biến đáng mừng trong tâm thức những người Việt đã nhận chân được tính cách thiêng liêng của tình tự dân tộc, nghĩa đồng bào, vượt qua mọi giá trị phù phiếm khác của cuộc sống.

Quá khứ đau tủi của cả một dân tộc đã khép lại từ lâu, song nhiều vết thương vẫn chưa lành miệng. Chính vì thế, những cảm xúc chân thành của nhà thơ, dù rất đỗi bình thường, cũng có giá trị như một niềm an ủi tinh thần đáng quý đối với những “người thua cuộc” , nhất là vào mỗi 30 tháng tư hàng năm, khi âm vang “bài ca chiến thắng” cùng bao lời thóa mạ nổi lên như những nhát cứa vào lòng.

Con đường “hòa hợp hòa giải dân tộc” đích thực còn dài, lắm trắc trở, nhiều chông gai, đất nước vẫn còn cần rất nhiều những con người có tấm lòng nhân ái như Nguyễn Thái Sơn.

Bài của anh Lê Nguyễn.

KHÔNG NÊN GỌI 30/4 LÀ NGÀY GIẢI PHÓNG!

Nuong M Lam

Nam Phong

KHÔNG NÊN GỌI 30/4 LÀ NGÀY GIẢI PHÓNG!

Tôi sinh ra và lớn lên sau ngày 30/04. Trong khi phần lớn đất nước chìm trong khó khăn, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, trong khi phần lớn người dân thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ trong giai đoạn 1980-1990, thì tôi đã sống một cuộc sống đầy đủ và sung túc, vì ông bà tôi là những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông tôi là một người chân thành và có niềm tin sâu sắc với lý tưởng cộng sản. Ông có một người chị ở phía bên kia, và sau này di tản sang Mỹ. Ông không bao giờ liên lạc với bà, và đó là nỗi ân hận lớn nhất trong những ngày cuối đời của ông.

Là một ‘hạt giống đỏ” tôi lớn lên với niềm tin chân thành về những gì được dạy dỗ, về lý tưởng cộng sản với hình mẫu Pavel Korchagin – Hình mẫu chuẩn mực cho mọi thiếu niên lớn lên dưới mái trường XHCN khi đó.

Vì vậy, sự kiện 30/04 đối với tôi và các bạn tôi khi đó là một cái gì đó rất đẹp, rất anh hùng, cũng rất vẻ vang. Với thế hệ chúng tôi, Việt Nam đã đánh bại siêu cường số 1 thế giới làm “chấn động năm châu. rung chuyển địa cầu”.

Nhưng sau sự kiện bức tường Berlin, mẹ tôi trở về Việt Nam (vì là con của cán bộ cao cấp, mẹ tôi và các bác, cậu của tôi đều lần lượt học ở Đông Đức, Liên Xô, Bungari…).

Với những gì đã được chứng kiến ở nước Đức và Đông Âu, mẹ tôi không tán đồng quan điểm với ông tôi. Mẹ tôi từng kể với tôi rằng, những người bạn Đức của bà nói rằng ”Mỹ là những người bạn tốt, cả thế giới muốn chơi với nó mà người Việt Nam mày lại đuổi nó đi.”

Bà kể cho tôi về những người Đức cộng sản và không cộng sản khi thống nhất đất nước đã ôm hôn nhau như thế nào. Bà kể về những người lính biên phòng Đông Đức đã tự sát chứ nhất định không bắn vào những người phía Đông muốn chạy sang phái Tây như thế nào.

Đó là bước ngoặt trong suy nghĩ của tôi! Mỹ mà tốt à? Tại sao người ở phía Đông lại chạy sang phía Tây chứ không phải ngược lại? Thế giới của tôi bắt đầu có nhiều màu sắc hơn, không còn chỉ có hai màu, cộng sản và phản động nữa.

Tôi bắt đầu tìm đọc những tác phẩm viết về ngày 30/04/1975. Đọc những tác phẩm bị coi là “phản động” ở Việt Nam. Các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Độ, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Gia Kiểng…

Thông tin từ những tác phẩm này đã khiến tôi mở to mắt. Ngày 30/04 làm gì còn người lĩnh Mỹ nào ở Sài Gòn. Vậy sao còn gọi là kháng chiến chống Mỹ? Sao có thể gọi là “giải phóng”?

Và tôi khóc thương cho số phận dân tộc Việt. Khóc thương cho hàng triệu người Việt ở cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”. Khóc thương cho cả triệu người Việt vĩnh viễn nằm lại gữa biển khơi.

Và tôi khóc thương cho lòng yêu nước nhiệt tình nhưng ngây thơ của người Việt đã bị các cường quốc lợi dụng. Đất nước trở thành bãi chiến trường. Người Việt trở thành sỹ tốt xung phong. Việt Nam thành bàn cờ, nhưng người chơi là người Nga, người Trung Quốc và người Mỹ không phải là người Việt. Một bên chiến đấu để “giải phóng” và “nhuộm đỏ thế giới”. Một bên chiến đấu để bảo vệ “thế giới tự do”.

“Đại thắng mùa xuân” và “giải phóng miền Nam”. Đât nước thành một đống đổ nát, hoang tàn. Trường Sơn thành một nghĩa trang khổng lồ.

Những người mẹ mất con. Khăn trắng trên đầu trẻ thơ. Và một hết thương hằn sâu trong lòng dân tộc. 47 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa…bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước… vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Một tượng đài nhỏ thôi, giản dị thôi nhưng tinh xảo. Và một nghĩa trang của những người lính ở cả hai phía cho thế hệ trẻ có thể tỏ lòng thành kính cho những người đã ngã xuống vì dân tộc. Hy vọng là như thế!

Còn thống nhất lãnh thổ mà không thống nhất được lòng người thì có ích gì? Nhất là khi phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp đang trỗi dậy. Bài học mất nước của Hồ Quý Ly còn đó.  

Bạc tóc tuổi hai mươi

Bạc tóc tuổi hai mươi

Muôn Nẻo Đường Đời

Bài viết này, của một cô giáo, đã miêu tả chi tiết bức tranh “chạy giặc” hỗn loạn vào những ngày thời điểm VC tràn vào miền Nam. Bài viết không chỉ có giá trị như một phóng sự báo chí mà còn thể hiện đậm chất văn học của một tác giả trưởng thành và được giáo dục trong một nền văn hóa miền Nam một thời rực rỡ. Tác giả nói lên tâm sự và cảm xúc cá nhân nhưng cùng lúc tác giả cũng lột tả được tâm trạng của hàng triệu người miền Nam vào những ngày mà không chỉ chính thể VNCH sụp đổ mà theo đó còn là sự tan nát và ly tán của vô số gia đình miền Nam mà đến tận giờ hậu quả của nó vẫn còn có thể thấy được sau gần 50 năm ròng kể từ thời điểm được đánh dấu bằng hai từ đầy mỉa mai: “Giải phóng”.

Bài viết đã giành giải nhất cuộc thi Ký ức 30 Tháng Tư – Như chỉ mới hôm qua do Saigon Nhỏ tổ chức năm 2021. Xin mời đọc lại.

_______________

(Kính tưởng nhớ ba tôi, nhà thơ Việt Trang Phạm Gia Triếp; thầy Đạt, hiệu trưởng trường tiểu học Đa Phước Trại Mát)…

… “Ngày mai, hai cha con tôi sẽ thuê xe về Sài Gòn, tôi có gặp được các anh chị trong đoàn quân di tản? Anh trai tôi trong đoàn quân tan tác miền Trung có về kịp hay bị bắt, bị chết ở đâu? Hai cha con về Sài Gòn để làm gì khi anh chị không ai về được. Cuộc chiến sắp kết thúc hay chỉ bắt đầu! Sự trầm luân của hai cha con tôi mới khởi sự và bao giờ thì kết thúc. Tiếng khóc, tiếng cười ồn ào xung quanh mà không ai trả lời câu hỏi đó… Tôi ngậm ngùi nghĩ tháng ngày này thật khủng khiếp khi tôi mới ở tuổi hai mươi”…

Tác giả cùng các em học trò (ảnh của tác giả)

Từ giã mái trường thân yêu (ngày 15-3-1975)

Đà Lạt, tháng 3-1975, thành phố tôi ở vốn bình yên, an lành trong các tỉnh thành miền Nam ngay cả những ngày chiến tranh khốc liệt nhất, bỗng trở nên xáo trộn. Người ta bàn tán, thì thầm to nhỏ về cuộc chiến, tính chuyện tản cư. Dù không hiểu hết điều gì sẽ xảy ra nhưng ai cũng cảm nhận không khí chiến tranh đang tới gần, tới rất gần. Để trấn an nỗi sợ hãi, người dân đổ tiền ra mua đồ dự trữ: gạo cơm, thuốc men, xăng dầu, nhất là mì ăn liền, phòng khi cuộc chiến xảy ra. Bề ngoài thành phố bình yên đến lặng lẽ, người ta giấu nỗi sợ hãi vào lòng. Dọc các con phố chính, các cửa hiệu lần lượt đóng cửa, báo hiệu chủ nhân đã đi tản cư. Người ta ra đi, không ồn ào sôi động.

Sáng nay, tôi và các bạn đồng nghiệp vẫn đến trường trên chiếc xe lam đưa rước hàng tháng. Ngôi trường tiểu học Đa Phước nằm tận Trại Mát, cách trung tâm thành phố 10 km, dưới chân ngọn đồi cao làm trung tâm huấn luyện Cảnh Sát Dã Chiến. Đường đi rất thơ mộng, len qua những rặng thông xanh thẳm, vòng quanh những ngọn núi chập chùng. Mấy hôm nay, chúng tôi không cảm thấy vẻ đẹp của giọt sương mai ướt đẫm lá cây hay tia nắng sáng rọi qua tán lá. Dẫu không nói ra, nhưng mọi người đều e ngại nhìn hai bên sợ bóng những người mặc áo bà ba đen xuất hiện, lo lắng nhìn trên lòng mặt đường xem có cây cối chắn ngang đắp ụ.

Chiếc xe lam bỏ chúng tôi trước cổng trường rồi vội vàng quay về lại thành phố. Sân trường không bóng dáng học sinh. Chúng tôi hoang mang nhìn nhau, vội vàng vào văn phòng. Ông hiệu trưởng già dường như chờ chúng tôi từ lâu. Ông nhỏ giọng:

– Tôi muốn liên lạc với các cô mà không được. Tình hình an ninh không xuôi lắm. Cha mẹ học sinh không cho con đến trường, họ sợ có chuyện gì, con họ còn nhỏ về nhà không kịp.

Giọng ông nhỏ hơn, lo âu:

– Với lại ở dưới này xa quá, tôi có nghe trong Tây Hồ, Trạm Hành, buổi tối V.C. đã về. Thôi các cô mau quay lại, khi nào tình hình sáng sủa hãy xuống. Giờ không còn xe lam, các cô qua đón xe đò nghe.

Chúng tôi nặng trĩu lòng, đứa nào cũng mới ra trường nên đối với ông như một người cha. Chúng tôi chào ông và băng qua bên kia đường. Chờ chúng tôi ra khỏi cổng, ông lấy chiếc xích lớn khóa cổng rồi đi về hướng chợ. Dáng ông nhỏ lại, hai vai trĩu xuống, như vác một gánh nặng trên lưng. Đứng chờ xe, tôi chưa hoàn hồn, tiếc nuối vì chưa một lời từ biệt học sinh, những em học sinh đầu tiên của tôi. Hình ảnh 28 em hiện rõ từng nét mặt, dáng người.

Võ Quang Nam nhỏ con nhưng chững chạc, ngồi ngay bàn đầu, em giỏi và ngoan nhất lớp, chẳng khi nào nói chuyện khi tôi giảng bài. Hôm Nam bị ốm, tôi rủ cả lớp đi thăm, cả lớp thưa:

– Cô ơi! Vào nhà trò ấy sợ lắm, ba trỏ chết rồi, mẹ trỏ hay nổi cơn điên cầm dao chém người. Mọi chuyện ở nhà, trỏ đều tự làm lấy. Thảo nào khuôn mặt em mang vẻ cam phận, nhẫn nhục mỗi khi bạn bè tị nạnh bảo tôi thiên vị.

Nguyễn Mẹo thông minh, giỏi toán, chăm học nhưng viết chữ xấu, không chú ý nên bài làm ít được điểm cao. Mẹo tốt với bạn bè, lễ phép với tất cả thầy cô. Đôi khi em làm tôi bối rối vì những câu hỏi thông minh bất ngờ. Tôi thực sự thương em hơn, khi biết nửa năm ngoái, em phải nghỉ học đi làm thuê, vậy mà khi đi học lại vẫn không chịu kém ai.

Nguyễn Văn Mỹ mồ côi cha mẹ, ở với cậu mợ. Khi người chị ruột duy nhất của em chết vì bệnh thì khuôn mặt em tắt tiếng cười, học hành sút hẳn, người như ở trong mê.

Trần Phương có khuôn mặt luôn cười. Mấy ngày đầu vào nhận lớp, tôi cho bài tập, em không làm. Bực mình, tôi hỏi:

– Ba em làm gì?
– Thưa cô! Ba em đi lính ở xa.
– Má em làm gì?
– Thưa cô! Má em đi làm thuê.
– Em có anh chị không?
– Thưa cô, không. Em là anh đầu.
– Ba em đi lính biết sống chết ra sao, má em đi làm thuê cực khổ mà em không chịu học để buồn lòng ba má. Em là anh đầu sao không làm gương cho các em.

Tôi bất ngờ khi thấy em khóc, từ đó em học ngoan hơn. Danh sách 28 em học sinh nam được tôi viết trên những miếng bìa cứng treo sau lưng với bảng đen; trong đó ghi địa chỉ học sinh, tên học sinh được khen thưởng. 28 em đầy đủ cá tính. Có em ngoan hiền như Ngô Đình Vân, Nguyễn Tấn Đạo; nghịch ngợm như Kiều Phương, Bùi Đức Danh… Ở ngôi trường tiểu học nằm ven đô thành phố này, học sinh đều nghèo, rời cuốn vở là về phụ với cha mẹ làm vườn. 28 em tuổi mới lên 10 mà số mồ côi cha không ít. Một số ghi cha mất nhưng mẹ ở nhà vẫn sinh thêm em, có phải trong đêm tối cha đã về đâu đó.

Nhìn cổng trường bị khóa chặt, tôi xót xa, biết rằng không bao giờ còn được dạy hay nhìn lại đầy đủ các em. Buổi chia tay cuối cùng không học trò, không chiếc bánh liên hoan, cũng không có lễ phát thưởng. Giờ mới giữa tháng Ba, còn hơn tháng nữa đến tháng Năm nghỉ hè. Tôi đi dạy chưa trọn năm, lương tháng vừa nhận hôm qua, biết còn tháng lương nào để được nhận nữa không? Tôi không thể hình dung mình sống ra sao khi không còn được đi dạy. 14 năm ăn học để có một nghề sinh sống, giờ không biết mình còn cơ hội nào đứng trên bục giảng nữa. Bỗng dưng tôi thấy mình thật nghèo nàn đáng thương. Buồn cười thật! Cuộc chiến sắp tới, ngày mai biết sống chết ra sao mà còn nghĩ chuyện dạy dỗ. Giờ mới giữa tháng Ba, tôi chưa tròn tuổi hai mươi. Tháng sau mới đến sinh nhật.

Cảnh chạy giặc kinh hoàng của đồng bào Đà Nẵng những ngày cuối Tháng Ba 1975 (ảnh: Bettmann/Getty Images)

Để lại thành phố phía sau (ngày 20-3-1975)

Sự hoảng sợ của mọi người lên đỉnh điểm khi Đài BBC loan tin Buôn Mê Thuột thất thủ. Tin dữ lan nhanh như ngọn lửa giữa mùa Hè nóng bỏng. Buôn Mê Thuột cách Đà Lạt khoảng 200 cây số, tính theo đường chim bay còn ngắn hơn. Không khí cuộc chiến đã lởn vởn thành phố có lẽ yên bình nhất nước này. Chính quyền không thông báo về tình hình chiến sự. Người dân mù mờ tự tìm hiểu nên càng rối rắm, hoang mang.

Chị ruột tôi dạy học và lấy chồng, một sĩ quan bộ binh đóng quân trên Quảng Đức. Chị mới về ăn Tết với gia đình mà không có anh rể vì anh phải cắm trại. Chị vừa trở về trường nay phải quay lại Đà Lạt một mình. Anh rể hứa nếu tình hình khó khăn sẽ đón chị về Sài Gòn. Chị tôi vô tư lên trường Bùi Thị Xuân vào ngày 17-3-1975, dự buổi cắm trại mừng kết thúc đệ nhị cá nguyệt và họp mặt cựu học sinh. Buổi lễ đang vui, nhà trường được lệnh cho bế mạc khi nghe tin V.C. về đến ngoại ô thành phố.

Người dân Đà Lạt sống trong nỗi sợ hãi. Ban ngày họ hạn chế ra khỏi nhà; đêm về thành phố im như chết. Viện Đại Học đóng cửa để sinh viên ở xa về với gia đình. Tất cả học sinh tiểu và trung học được lịnh nghỉ học vô thời hạn. Sĩ quan và khóa sinh các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến cắm trại 100%. Dân chúng đi tản cư khá nhiều, nhất là gia đình có thân nhân ở Sài Gòn, Nha Trang…

Buổi chiều, ba tôi từ công sở về. Khuôn mặt ba đăm chiêu, bồn chồn khi bạn bè đi tản cư gần hết. Ba lo lắng vì con cái đông đúc, tiền bạc không nhiều, nếu về Sài Gòn không biết tá túc ở đâu. Mọi người đồn đoán: có thể vĩ tuyến 17 sẽ dời đến Đà Nẵng. Vì vậy, ba quyết định cho gia đình về lánh nạn ở Nha Trang với cậu T., em ruột mạ tôi. Tuy trời đã tối, mạ tôi cũng thuê được một chiếc xe G.M.C. mui trần, dắt các con nhỏ ra đi. Ba và người anh trai đầu sẽ đi sau. Tác phong, nề nếp công chức ăn sâu vào nếp sống, suy nghĩ nên ba không thể bỏ nhiệm sở khi chưa có lệnh.

Mạ xếp một loạt bao gạo dự phòng trên sàn xe, cột chặt nệm, mùng mền. Chúng tôi xếp quần áo, sách vở vào trong túi sắc, ba lô, bao tải; đứa em ngây thơ xì xẹp quả banh da nhét giữa quần áo. Mỗi người một tay nải. Cơ nghiệp của ba mạ gầy dựng 25 năm trời chất được một góc xe. Ba vào bàn thờ, thắp nhang khấn vái tổ tiên, rồi lấy tấm di ảnh của ông bà nội cùng cuốn băng magnétophone lưu giọng ông nội tụng kinh khi còn sống, để vào chiếc cặp da trao cho đứa em tôi giữ. Chị gái của tôi gói ghém vài bộ quần áo đi cùng các em. Cả nhà như đang trải qua cơn mê.

Phút chốc gia đình tôi chia đàn xẻ nghé: bố mẹ, anh chị em chia tay nhau mà không chắc có ngày gặp mặt, đoàn tụ; còn anh trai thứ đóng quân ở Qui Nhơn không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu. Chúng tôi chất xong đồ đạc lên xe khi trời còn mù sương. Các em chạy quanh xóm từ giã bạn bè.  Tôi đi vòng quanh sân. Căn nhà nơi lưu dấu tiếng khóc chào đời của anh em chúng tôi trống trơn đến lạnh người. Mạ gởi nhà cho hàng xóm trông giùm vì nghĩ có ngày trở lại. Dân Lò Gạch thuộc xóm lao động nên nhiều người không có điều kiện ra đi phải ở lại. Ông Tư Mạnh, bác Lợi, o Liên… ra tiễn, nhìn theo gia đình chúng tôi nửa ao ước có cơ hội được đi, nửa thương xót vì đích đến thật mông lung. Tình cảm xóm giềng thật sâu đậm. Đêm qua tôi viết thư từ giã ba đứa bạn thân nhưng sáng ra lại xé bỏ. Kẻ đào tẩu biện minh đâu có giá trị. Tôi không biết mình còn được gặp lại các bạn, những người bạn chí cốt từ thuở bé, san sẻ với nhau biết bao buồn vui tuổi học trò.

Xe nổ máy, từ từ lăn bánh. Bóng người ở lại khuất dần trong khói xe. Xe chạy lên đường Duy Tân. Phố xá hai bên đường vắng vẻ cùng khu Hòa Bình bình yên trên con dốc cao của thành phố; rồi xuôi theo đường Lê Đại Hành. Hồ Xuân Hương lặng im in bóng nhà Thủy Tạ. Bên kia hồ, cỏ và thông đồi Cù xanh ngắt. Cảnh vật chung quanh không thay đổi, chỉ có lòng người là bất an.
Sáng nay, chúng tôi vội vã ra đi. Bỏ lại thành phố, nhà cửa, bạn bè, xóm giềng và muôn vàn kỷ niệm dấu yêu phía sau lưng.

Nghe nói cộng quân đến đâu, bà con miền Nam bỏ chạy trước ở đó (ảnh: Jean-Claude FRANCOLON/Gamma-Rapho via Getty Images)

Nha Trang, ngày hoảng loạn (ngày 1-4-1975)

Chịu nửa ngày dưới cái nắng cháy người của miền Trung, chúng tôi đến Nha Trang với khuôn mặt đỏ bừng như tôm luộc. Nhà ông cậu không lớn, chúng tôi chỉ ăn uống tại đó, tối đi ngủ nhờ chỗ khác. Qua cơn mệt mỏi, các em tôi theo đám em họ háo hức xuống biển, tưởng như để lại mọi nguy hiểm trên Đà Lạt.

Sau khi Quảng Đức bỏ ngỏ, anh rể tôi đi đường bộ về Đà Lạt. Ba tôi bảo anh nghỉ ngơi vài hôm để ba đi đón chị lên, tiện thể thăm vợ con. Ba tôi xuống được một hôm, Nha Trang trở nên hỗn loạn hơn vì lính các nơi đổ dồn về. Dân Nha Trang cũng bắt đầu tản cư. Gia đình cậu tôi và người bạn cho gia đình tôi tá túc những ngày qua quyết định về Sài Gòn. Cậu rớm nước mắt khi ra đi vì chính bản thân cậu cũng khó có thể cưu mang nổi gia đình cậu, nói chi đem theo gia đình tôi. Sau khi tiễn cậu, ba mạ tôi đưa cả nhà quay lại Đà Lạt, bởi gia đình tôi thực sự không biết đi đâu khi mà đứa lớn nhất mới tròn hai mươi, đứa bé nhất chỉ lên mười. Giữa cái chết đói, chết vì súng đạn, dường như chọn cái chết trong nhà mình thì vẫn dễ hơn.

Mạ tôi cùng chị và các em lên trước với ít quần áo trong người. Ba và tôi thu dọn đồ đạc thuê xe lên sau. Mạ và các em đi rồi, tôi gói quần áo của mạ lại, chỉ lỏm loi vài bộ. Tôi nhớ bà ao ước có một chiếc áo dài nhung màu hạt xay, và tôi tự hứa khi nào có tiền sẽ may cho mạ một chiếc áo dài nhung đủ màu. Dọn xong đồ đạc, trong lúc chờ ba thuê xe quay lại, như có linh tính, tôi lấy chiếc cặp da đen mà ba đựng tấm hình của ông bà nội, gói ghém thêm vài bộ quần áo. Tôi thay chiếc quần tây đen, áo chemise trắng, chân mang đôi giày Bata trắng; dưới lòng bàn chân, trong chiếc bít tất, tôi lót ba mươi ngàn đồng tiền lương vừa lãnh.

Đúng lúc ba tôi vừa về, bảo tìm xe không có. Hai cha con hốt hoảng chạy ra đường. Như một luồng bão thổi qua, thành phố vắng hoe, thay đổi đến không ngờ, không khí lặng ngắt, ngột thở. Ba và tôi chạy đến bến xe đi Cam Ranh. Chỉ thấy người chen nhau mà không có một chiếc xe. Hai cha con lại chạy về bến xe đi Đà Lạt nhưng ở đó cảnh tượng không khác. Đường phố thấp thoáng tù vượt ngục đầu trọc, cỡi trần, tay mang súng, bắn chỉ thiên, nổ vang trời. Ba và tôi hoảng sợ núp vào một chiếc xe đậu dọc đường. Ngớt tiếng súng, hai cha con chạy xuống bãi biển.

Bất ngờ ba đón được chiếc xe Minh Tâm của một người thuê đón gia đình về lại Đà Lạt. Hai cha con mừng rỡ leo lên. Tiếng súng nổ khắp nơi. Thành phố giờ thêm những người lính đeo ba lô, súng ống đầy đủ nhưng khuôn mặt hoang mang.

Ra khỏi Nha Trang vài chục cây số, xe không thể chạy tiếp vì phía trước ngổn ngang xe cộ. Tôi luôn miệng hỏi ông tài xế:

– Đà Lạt có gì không bác?         

– Lúc bảy giờ tôi đi xuống đây thì Đà Lạt vẫn bình thường.       

Xe chạy ngang qua Trung tâm II. Con đường tràn ngập tân binh xả trại. Ai cũng tìm đường về nhà. Trong số đó có hai người quen của tài xế, họ mừng rỡ trèo lên xe. Những chiếc xe nhích từng mét một, xe nào tắt máy bị kéo bỏ sang hai bên đường. Chiếc xe chúng tôi đi cũng hết xăng. Ba tôi nóng lòng muốn xuống đi bộ, nhưng hành lý còn ở trên xe không thể mang theo. Chung quanh hỗn quân hỗn quan, khuôn mặt đằng đằng sát khí; tôi lại là con gái nên cuối cùng hai cha con đành ở lại trên xe.

Tôi thấp thỏm nguyện cầu cho mạ, chị và các em về Đà Lạt bình an. Nhìn cảnh loạn lạc, súng nổ rền trời, khó biết được chuyện gì xảy ra nếu mạ và các em còn ở đây. Một chị trên xe nấu được miếng cơm chia cho hai cha con. Bấy giờ tôi mới cảm thấy cái đói, nhớ hôm qua đến giờ không cái gì bỏ bụng.

Mười giờ đêm, ba tôi sốt ruột không chịu nổi, hai cha con bỏ lại hành lý lần mò đi bộ hướng về Đà Lạt.

Hoảng loạn và sợ hãi cộng sản (ảnh: Bettmann/Getty Images)

Đường về nhà (ngày 2-4-1975)

Hai cha con đi suốt đêm. Tôi ôm chiếc cặp như một đứa trẻ lạc nhà. Hết đêm qua sáng, Mặt trời xứ biển lên mau và nắng gay gắt nhưng hai cha con không cảm thấy khát. Chân tôi mỏi nhừ, tưởng chừng như bị bỏng thì ba vẫy được chiếc xe hồng thập tự quân đội. Hai cha con được quá giang, đứng trên hai chiếc bánh xe sơ cua. Tới một ngã ba, xe rẽ hướng khác, hai cha con đi bộ thêm vài cây số đến Cam Ranh. Thành phố đầy người đi hôi của, dân địa phương tản cư, lính lạc đơn vị, tù phá ngục phá kho… Họ vác gạo, sữa, đồ hộp quân tiếp vụ… Hỗn loạn kinh hoàng. Hai cha con tôi ngơ ngác nhìn, quên bẵng mình đang rất đói.

Hai cha con đón được chiếc G.M.C. chở người tản cư ở Qui Nhơn đến. Xe chạy đoạn đường khá xa, đến một chiếc cầu dài bị gãy mấy nhịp, có lẽ sau khi rút quân, quân đội bỏ bom cho sập cầu. Đoàn xe dân sự dừng lại. Người đứng, kẻ ngồi theo từng nhóm dọc hai bên cầu. Đồ đạc, quần áo, máy móc, gạo cơm, sách vở, thậm chí những tập album hình vương vãi khắp nơi; người ta vội vã bỏ đi trước khi kịp cúi xuống nhặt nhạnh. Hai cha con đứng lặng bên cầu, nhìn dòng nước chảy, cuối cùng xắn quần lội qua sông.

Qua bên kia cầu, chúng tôi đón được xe về Phan Rang. Trên xe, người ta bàn tán về tình hình chiến sự. Một người cho biết đoàn quân của các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến di tản xong. Đà Lạt là thành phố chết, không chính quyền lẫn quân đội. Không ai biết điều gì đang xảy ra trong thành phố tôi ở; và sự tan rã lan dần đến Phan Rang. Tôi cố an ủi ba:

– Mới có một ngày thì không thể mất Đà Lạt mau như vậy được. Vả lại đâu thấy đánh nhau, mà không thể nào không có đánh nhau.

Trung tâm thành phố Phan Rang tràn ngập người tản cư. Họ ngồi hai bên lề đường, trong chùa, trong trường học. Niềm vui tràn ngập khi tôi gặp được bác Hai Dĩ, một người hàng xóm. Bác cho biết:

– Mạ và các em con đã về đến Đà Lạt tối hôm trước, nhưng không biết sáng nay có di tản theo đoàn quân hay không. Chị con đã gặp được anh rể. Như vậy anh chị con và anh đầu chắc theo đoàn quân về Sài Gòn rồi.

Hoang mang, tôi để ba ngồi dựa vào gốc cây, còn mình chạy vào trường học, vào chùa để kiếm mạ và các em; tôi không trông mong thấy được anh chị, vì đoàn quân đã đi qua. Và tôi biết mình đang tự lừa dối vì mạ tôi không dám đưa đàn con còn nhỏ ra đi lần nữa; mạ sẽ chờ cha con tôi trở về. Một người đàn ông tốt bụng thấy tôi chạy loăng quăng, lên tiếng khuyên:

– Cháu tìm ai, giờ này sao không về nhà, còn cắp cặp đi đâu nữa. Về nhà đi cháu ơi! Coi chừng lạc bố mẹ đó.

Tôi không thể giải thích với ông lý do mình đi tìm mẹ. Ba tôi ngồi bên hiên chùa trông thảm hại. Ba như một cây cổ thụ bị đốn ngã. Trước đây ba luôn tự hào mình là người thành đạt: từ một cậu học trò nghèo ham học vươn dần lên thành người đứng đầu một cơ quan trong tỉnh. Ba muốn tìm lại mạ và các em nhưng đoán trước hậu quả khi bước chân về nhà. Ba chùn chân, suy nghĩ với trăm bề khổ đau.

Trước cổng chùa, có người dỗ dành một em bé ngồi khóc nức nở:

– Mẹ bảo cháu ngồi đây để mẹ đi tìm cha mà giờ này không thấy mẹ quay lại.

Chẳng biết người mẹ đó cuống cuồng chạy ngược xuôi tìm con hay nằm lại một góc đường nào đó. Không tìm thấy mẹ và các em, tôi tuyệt vọng. Hai cha con khóc ròng ở ngã ba Phan Rang. Bỗng một đoàn lính đi ngang chào ba tôi. Vài người đóng quân gần trường tôi dạy nhận ra tôi. Thành phố Đà Lạt quá nhỏ, mọi người hầu như biết nhau. Đó là những anh lính Địa Phương Quân được lệnh về đóng ở Ninh Thuận, hỗ trợ cho trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị rút quân. Khi đoàn quân di tản đi qua, các anh không biết đơn vị mình đi đâu nên trở về Đà Lạt vì gia đình còn trên đó.

May mắn chợt đến, ba và tôi vững niềm tin. Chúng tôi hòa vào đoàn người. Một người lính bắt một chiếc xe tải dừng lại, may mà ông tài xế có ý định lên Đà Lạt. Mọi người trèo qua thành chiếc xe tải phủ kín mui. Người nào đó chìa chiếc bánh lương khô cho ba và tôi. Tôi cảm động biết ơn. Những người lính lạc đơn vị từ khắp nơi đổ về, không người chỉ huy. Ai có súng là có sức mạnh. Thành phố kinh hoàng bởi tiếng súng nổ rền trời, không có chính quyền, tù hình sự phá ngục thoát ra phá phách và hôi của.

Một toán lính khác lên cò súng bắn chỉ thiên, bắt chiếc xe tôi đang chạy dừng lại. Hai toán lính đối đầu nhau, cuối cùng toán lính đứng dưới bỏ đi, sau khi lột chiếc đồng hồ của ông tài xế. Sợ hãi không dám đi tiếp, ông tài xế bỏ xe lẫn vào dân. Mọi người xuống xe lại tiếp tục đi bộ đến gần tối thì đón được một chiếc xe chở thuốc tây cho pharmacie Đà Lạt ngay trung tâm thành phố. Ông tài xế rộng rãi cho tất cả mọi người lên xe.

Xe chạy ra khỏi Phan Rang, không khí yên tĩnh, người đi đường thưa thớt, không có đoàn người chạy ngược xuôi. Đêm buông dần xuống, xe dừng giữa đèo Song Pha trong không khí lặng đến ghê người. Một chiếc xe lambretta bỗng xuất hiện trong đêm tối mịt mùng. Khuôn mặt một người đàn ông vẫn còn nét hoang mang, ông nhận ra ngay ba tôi:

– Anh ơi! Quân đội rút đi hết rồi. Không còn chính quyền trên đó, nghe nói V.C về rồi. Họ đã đặt đại diện. Anh không nên lên, không nên…

Báo tin xong, ông hối hả chạy tiếp. Mọi người trên xe nửa tin nửa ngờ, còn đang bàn tán thì trong rừng, bóng hai người đàn ông khác xuất hiện. Họ là hai cha con, tay đeo nải, khoác ruột tượng đựng gạo trên vai. Dáng người cha to lớn in trong rừng cây tối đen. Ba tôi nhận ra bác Ngãi, một công chức đồng sự với ông. Chỉ vài câu nói, bác xác nhận tin trên là đúng sự thật. Bác khuyên ba tôi không nên trở lại Đà Lạt. Ba tôi sụp xuống, giãy giụa. Bác Ngãi quay qua tôi nói nhỏ:

– Bác nói cho cháu nghe, cháu phải cản không để ba cháu lên Đà Lạt nữa, nguy hiểm lắm.

Tôi òa khóc, người như mê đi. Trong tiếng mọi người bàn tán, tôi nghe bác Ngãi an ủi, vỗ về.

Con đường phía trước không còn lối thoát. Đà Lạt không còn là đất cho ba tôi dung thân, không có cơ may sống sót hay thoát cảnh tù tội. Tôi không nghĩ có thể thoát chết trong cuộc chiến này nhưng không muốn tự mình đưa ba đến chỗ khốn khó. Ba tôi không biết quyết định ra sao. Ông khóc than, tự trách không lên chuyến xe cùng vợ con; nay gia đình ly tán, ông không cùng vợ chia sẻ nỗi nhọc nhằn, thậm chí không biết họ vất vưởng ở đâu. Tôi cũng khóc hết nước mắt giữa đèo Sông Pha vì không biết mình còn gặp lại mẹ và các em được không.

Tôi nhớ từng khuôn mặt mỗi đứa em. Hoành nhỏ nhất mới lên mười, ít nói có đôi mắt to buồn. Phương nhí nhảnh, lên xe về Đà Lạt mặc bộ đồ mới tôi vừa mới may trông thật dễ thương. Sâm chính là đứa em đặt trái banh giữa bộ quần áo để tôi không thấy bắt bỏ lại; em còn có tên Sâm Banh. Cẩn đi xe đạp đến trường xa hơn năm cây số mà không than thở. Ngày xưa còn bé, tôi bồng Chi suốt trên tay; mỗi khi em đòi tôi bế, giọng ngọng nghịu: Gương ơi! Gương! Lạc, Lâm tuy lớn nhưng ngoan. Gần nhà có một điểm bán bạch phiến mà các em không hề ghé mắt nhìn qua. Quyền chăm lo học hành, lúc nào sách vở cũng trên tay.

Một đêm hãi hùng giữa đèo Sông Pha! Bỗng nhiên tôi trở thành người tứ cố vô thân không một mái nhà, hay có một mái nhà mà không dám về; có người thân chờ đợi mà không dám ghé. Tôi không dám nghĩ ba tôi sẽ sống như thế nào nếu cha con thoát thân về đến Sài Gòn. Tôi cố tự nhủ: nếu lạc mạ và các em thì cố đưa ba tìm gặp các anh và chị, vì tôi tin họ đã về đến Sài Gòn. Tôi nghiến răng thầm bảo hãy để nước mắt ở lại giữa đèo. Với một con bé suốt tháng quanh năm chỉ biết ăn học, ra đời chưa được bao lăm, nay phải tự mình quyết định một việc như thế, tôi biết tóc mình đã bạc dẫu chưa qua tuổi hai mươi.

Một nơi nào đó ở miền Nam, Tháng Tư 1975 (tác giả ảnh không chú thích rõ – ảnh: Jean-Claude FRANCOLON/Gamma-Rapho via Getty Images)

Con đường tìm sự sống (ngày 3-4-1975)

Sáng sớm, ông tài xế e dè hỏi cha con tôi có muốn lên Đà Lạt nữa không. Mọi người đã xuống xe. Ba muốn trèo lên nhưng tôi níu lại. Xe chạy, hai cha con chạy theo một đoạn rồi đứng nhìn chiếc xe mất hút, đem theo niềm hy vọng trở về nhà. Toán người đi xuống đèo. Ngoài cha con tôi, hai cha con bác Ngãi, còn có ba người lính địa phương đóng trong trường tôi dạy; hai người tên Phụng và Tân, còn người kia thì tôi không biết. Ba người lính muốn về Sài Gòn để trình diện tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Trên đoạn đường đi, mỗi người một suy nghĩ. Cha con bác Ngãi hăng hái nhất, bởi gia đình bác đã về Sài Gòn mấy hôm, bác đi sau vì không dám bỏ nhiệm sở. Ba người lính tuy từng trải trong chiến trường nhưng không hình dung nỗi việc mình đang làm; không biết mình muốn và đang muốn cái gì. Ba đi như người mộng du. Tôi nhìn mặt đường, lòng chỉ cầu nguyện: anh chị tôi thuyết phục mạ chạy theo đoàn quân và cũng về được Sài Gòn. Trong thâm tâm, tôi tự biết điều đó là không thể. Nước mắt đã cạn ở giữa đèo. Trong tôi có một sức cứng rắn đến tàn nhẫn; tôi kéo mũ sụp che khuất khuôn mặt, tay cầm cặp, tay dìu ba, đi nhanh cố theo kịp những người nam đồng hành để không bị bỏ lại phía sau. Cuối đèo có một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát nhỏ cạnh đường, mọi người đứng lặng, ba tôi chắp tay cầu xin Phật phò hộ. Tôi không biết mình ao ước điều gì vì mỗi bước chân là cách xa mạ và các em.

Đoàn người đón được chiếc xe đò từ Đơn Dương xuống. Đến ngã ba xe rẽ đường khác, chúng tôi lếch thếch đi bộ. Khác với hôm qua, con đường đi vào Phan Rang đầy nghịt người. Nhóm đi tới đụng đoàn đi lui: người muốn trở về nhà, kẻ ao ước đến Sài Gòn. Phan Rang thực sự là một thành phố kinh hoàng. Hôm qua chỉ là hôi của, giờ là sự thống trị của cướp bóc. Đoàn người chúng tôi không có hành lý. Tôi giấu tháng lương mới lãnh dưới bít tất, tay cầm chiếc cặp da nhỏ. Ba có mười ngàn đồng. Hai cha con bác Ngãi đeo tay nải lương thực. Ba anh lính với chiếc ba lô. Chúng tôi đi giữa sự hỗn loạn và nắng nóng. Tưởng chừng không chịu nỗi, chúng tôi đón được xe vào thành phố.

Lính tráng có mặt khắp nơi, đủ các binh chủng. Họ đi thành từng nhóm, mặt mày căng thẳng. Một toán lính đứng trên thành cầu, nhóm khác lố nhố hai bên vệ đường. Một người ra giữa đường chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên buộc xe chúng tôi dừng lại; chiếc xe ngang ngạnh không chịu dừng, một tràng súng bắn ngang. Cuối cùng xe dừng, vì có người trúng đạn. Xác chết bị kéo xuống đặt dưới đường, không tiếng khóc, có lẽ là một người đi lẻ loi. Tội nghiệp!

Toán lính dưới đất trèo lên. Xe tiếp tục chạy. Ngồi giữa những người lính đầy súng ống, tôi sợ điếng vì đối mặt với bộ mặt tàn nhẫn của chiến tranh. Những người lính lạc đoàn quân từ miền Trung chạy vào. Họ không biết cấp chỉ huy ai còn ai mất và nay ở đâu. Cuộc phục kích khi lui quân khiến đơn vị tan tác. Những người lính bình tâm lại, hỏi thăm những người trên xe, tỏ ra thương hại cha con tôi. Tôi chẳng dám nhìn ai, không nói một lời. Mọi người chắc nghĩ tôi là một con bé trung học lạc nhà. Xe ngừng lại ở Phan Rí. Đoàn người đi từ đèo Song Pha giờ như gia đình nhỏ, tá túc dưới một mái hiên. Mấy anh lính Địa Phương Quân cho ba tôi mượn chiếc poncho, đưa tôi nắm cơm. Tôi bẻ nắm cơm với bàn tay mấy ngày không rửa nước, ăn đến hạt cuối cùng.

Đoạn đường kinh hoàng (ngày 4-4-1975)

Sáng hôm sau, xe chạy ngang Phan Thiết. Xe chở đầy lính tráng không bị chặn lại nhưng đi rất chậm vì trên đường đủ các loại phương tiện: xe ba gác, xe đạp, xe gắn máy, xe tải, xe quân đội, người đi bộ gồng gánh… lấn ra cả lòng đường… Đến ngã ba vào Bình Tuy, đoàn người phải xuống đi bộ. Đoạn đường dài, nắng nóng, không nhà cửa, cây cối. Ba và tôi nhắm mắt cố uống nước đục ngầu ở những vũng lầy cho qua cơn khát.

Con đường đầy xác chết. Mới nhìn tưởng người ngoại quốc vì thân xác to lớn, nhưng nhìn lại đó là người lính, dân thường xấu số chết trương phình, đám ruồi xanh bay vo ve. Tôi cúi mặt sát đường hơn, nhìn kỹ từng bước chân, tránh đạp nhầm súng ống ngổn ngang. Ba cũng chẳng hơn, bởi vốn là công chức dân sự, thêm sự mơ mộng, nên ba sống không thực tế, tất cả mọi việc trong gia đình đều một tay mạ tôi lo toan. Thiếu mạ bên cạnh, ba hụt hẫng không quyết được việc gì. Hai cha con dìu nhau đi trên đoạn đường địa ngục. Sự sợ hãi quá sức khiến mọi xúc cảm không còn, tôi lẩn thẩn tự hỏi: chắc gì mình may mắn hơn những người nằm xuống.

Buổi tối bên hiên nhà trên con đường vào Bình Tuy, trời mưa, tôi nằm dưới đất, gối đầu trên chiếc cặp, mình mẩy lấm lem đất cát. Đoàn người chạy loạn nay chịu ướt càng thêm khốn khổ. Trên bầu trời, hỏa châu soi sáng, tiếng súng ầm ì. Tôi mong một trái đạn pháo rớt trúng. Nếu chết, hồn tôi linh thiêng, tôi sẽ phù hộ cho ba mạ và các em.

Một trong những người lính cuối cùng, Tháng Tư 1975 (ảnh: Jean-Claude FRANCOLON/Gamma-Rapho via Getty Images)

Miền đất hứa (ngày 5-4-1975)

Tôi thức giấc khi bầu trời còn tinh tú và không ngờ mình vẫn còn sống. Tôi dẫn ba lầm lũi đi sau cha con bác Ngãi. Mấy lần ba thối chí muốn dừng lại bên lề đường nhưng tôi không cho. Tôi níu tay không cho ba dừng hỏi chuyện với ai, bởi một lần gặp, ông lại khóc. Có lúc ba bảo tôi ông mới thấy người nào đó mặc chiếc áo len của anh rể do chính tôi đan tặng. Tôi không cho ba hỏi thăm, bởi nếu đúng thì chỉ báo điềm không may mà thôi.

Giờ ba lại xem tôi là người có tội khi hai cha con lâm vào tình thế khó khăn này. Ba trách móc, kết tội tôi không cho ông lên đèo. Ba hỏi tại sao tôi lại là con gái mà không phải con trai! Người tản cư khắp miền Trung và Tây Nguyên dồn về đây. Ai nấy yên tâm, cảm giác mọi chuyện trở nên bình yên nếu về được Sài Gòn, thánh địa cuối cùng. Đường đi về bãi biển nóng, khá nguy hiểm vì đồ đạc lẫn súng ống ngổn ngang, còn lựu đạn nằm lăn lóc đến đáng sợ. Người ta chen lấn thuê ghe máy vào Long Hải.

Trời về chiều, ba người lính có lẽ tìm bạn bè cùng đơn vị đi mất. Cha con bác Ngãi ái ngại hoàn cảnh ba và tôi nên dọc đường có ý chăm sóc, thuê giùm ghe máy đến Long Hải. Chiếc ghe máy chật người, nước mấp máy vào mạn ghe. Miền đất hứa hiện ra trước mắt! Lòng tôi khô cứng lại, tôi biết không thể nào mình gặp mẹ và các em nữa. Ba tôi như một người điên. Ba ôm, đánh, cấu véo như thể tôi là nguyên nhân gây cho ông nỗi khổ này, rồi ba lại khóc ôm tôi, quay quắt gọi tên từng đứa con.

Ghe cập bến. Mọi người nhìn nhau cười. Chúng tôi xuống ghe với tâm hồn nặng trĩu. Bờ biển Long Hải đầy người. Không muốn nhìn niềm hạnh phúc của cha con bác Ngãi và ba tôi lại phát rồ nổi cơn khủng hoảng khi thấy bác sắp lại gia đình, tôi kéo ba lẫn vào đám đông mà không cám ơn cha con bác.

Trời sập tối, tôi ra bể nước giặt cho ba tôi chiếc áo chemise của người chạy loạn cho. Hai cha con mua một dĩa cơm. Dĩa cơm đúng nghĩa sau mấy ngày chạy loạn khiến tôi ngạc nhiên về sự ngon miệng. Đêm đó, cha con tôi thuê ghế bố ngủ trên bãi biển. Chung quanh tôi rất đông người. Giờ nơi này là nơi hội tụ của trăm ngàn người tản cư khắp nơi. Tình cảnh thê lương như cha con tôi không là gì so với người chung quanh. Những người giàu có may mắn đi bằng máy bay; người đi bộ thất lạc, chết chóc dọc đường. Một ông đứng tuổi nằm gần bên ba tôi khóc nức nở: vợ con chết ngay trước mắt, ông thấy xe cán lên mà không thể dừng lại để chôn cất. Tiếng khóc, tiếng than, tiếng kể lể vang khắp nơi. Con xa cha mẹ, vợ lạc chồng. Tiếng người bàn luận về cuộc chiến, không biết vĩ tuyến 17 sẽ đặt lại ở đâu.

Tôi nhìn trên trời cao, tìm ngôi sao bản mệnh của mình. Ngày mai, hai cha con tôi sẽ thuê xe về Sài Gòn, tôi có gặp được các anh chị trong đoàn quân di tản? Anh trai tôi trong đoàn quân tan tác miền Trung có về kịp hay bị bắt, chết ở đâu? Hai cha con về Sài Gòn để làm gì khi anh chị không ai về được? Cuộc chiến sắp kết thúc hay chỉ bắt đầu? Sự trầm luân của hai cha con tôi mới khởi sự và bao giờ kết thúc? Tiếng khóc, tiếng cười ồn ào xung quanh mà không ai trả lời câu hỏi đó… Tôi ngậm ngùi nghĩ tháng ngày này thật khủng khiếp, khi tôi chỉ mới ở tuổi hai mươi…

Nhật ký tháng 4-1975

Những trang nhật ký này nằm trong tủ rất lâu vì tôi không muốn khơi gợi những kỷ niệm đau lòng và tránh làm ba tôi tổn thương. Khi ba mất năm 2008, tôi mở ra xem lại, và dẫu thời gian trôi qua rất lâu, tôi vẫn cảm nhận những ngày của tháng 4-1975 ấy thật đáng sợ, đủ để bạc cả mái tóc…

Bắt hàng loạt đại gia bất động sản có giúp thị trường tài chính VN thăng hạng? (RFA)

Bắt hàng loạt đại gia bất động sản có giúp thị trường tài chính VN thăng hạng?

2022.04.25

Các “đại gia” chứng khoán vừa bị bắt, gồm ông Đỗ Anh Dũng, Đỗ Thành Nhân, Đỗ Đức Nam và Trịnh Văn Quyết (từ trái qua)

 Mạng báo Finance Magnates hôm 21/4 đưa tin về việc Việt Nam bắt giam, khởi tố các đại gia trong ngành chứng khoán, bất động sản. Tờ này đồng thời đưa ra nhận định rằng hành động trên của Chính phủ Việt Nam là nhằm nâng cao vị trí của thị trường chứng khoán nước này trong mắt quốc tế. Tuy nhiên, một số chuyên gia kinh tế – luật trong ghi nhận sau đây nhận định khác, khi cho rằng các vụ bắt bớ trên đều có sự chống lưng, dính líu đến các quan chức Nhà nước cấp cao.

Nâng hạng thị trường tài chính Việt Nam? 

Có thể điểm lại hàng loạt nhân vật nổi bật trong ngành bất động sản và tài chính tại Việt Nam bị bắt gần đây như ông Đỗ Thành Nhân – Chủ tịch Louis Holdings, và Đỗ Đức Nam – Tổng giám đốc Chứng khoán Trí Việt bị bắt vào ngày 20/4, với cáo buộc “Thao túng thị trường chứng khoán”.

Trước đó, ông Trịnh Văn Quyết – cựu Chủ tịch tập đoàn FLC và ông Đỗ Anh Dũng – cựu Chủ tịch tập đoàn Tân Hoàng Minh cũng đã bị bắt tạm giam và bị khởi tố. Việc bắt hai ông Quyết và Anh Dũng được nhiều người quan sát tình hình xã hội, chính trị và kinh tế Việt Nam cho rằng, đó là động thái “mạnh tay” mà chính quyền  Việt Nam thực hiện nhằm xử lý sai phạm liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu và bất động sản.

Truyền thông Nhà nước cùng lúc lên tiếng cho rằng các cuộc trấn áp trên, theo lệnh của Thủ tướng Phạm Minh Chính, nhằm cải thiện hình ảnh Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế.

Việt Nam có thể được nâng hạng từ thị trường cận biên (frontier market) lên thị trường mới nổi hạng hai (secondary emerging market), đó là lý do tại sao Thủ tướng Chính phủ ra lệnh trừng phạt, theo tờ Finance Magnates nhận định.

Tuy vậy, với góc nhìn của chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, nếu Việt Nam muốn làm trong sạch, nâng hạng thị trường chứng khoán, thì Chính phủ VN không chỉ thực hiện các vụ bắt giữ, mà cần phải thay đổi các chính sách để thị trường tài chính của Việt Nam thông thoáng và được tín nhiệm. Ông nói tiếp:

“Cho nên phải giải quyết những vấn đề mà nó còn ấu trĩ, chưa làm tới nơi tới chốn. Thứ nhất Chính phủ phải theo dõi một cách sát sao hơn những việc làm theo quy định của luật pháđương thời.

Đồng thời nghiên cứu những cơ chế luật pháp khác để cho chặt chẽ hơn để cho thị trường chứng khoán và thị trường tài chính nó thông thoáng và minh bạch.

Ngoài ra, để thu hút đầu tư nước ngoài, theo ông Bùi Kiến Thành, Việt Nam cần phải giải quyết vấn đề tham nhũng, “lót tay” đối với các doanh nghiệp (DN) nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam:

“Không chỉ riêng gì FLC hay Tân Hoàng Minh, mà đa số các tậđoàn có mặt ở Việt Nam đều có ít nhiều có mối quan hệ với các viên chức Nhà nước, có vấn đề đi đêm với ông này, ông kia. Cho nên Nhà nước Việt Nam cần phải làm sạch vấn đề tham nhũng là ưu tiên hàng đầu để thu hút đầu tư nước ngoài.

Mỹ không đầu tư vào Việt Nam nhiều là bởi vì không giải quyết được vấn đề tham nhũng. Luật về tham nhũng ở bên Mỹ là nó phạt hình sự đối với những công ty lo lót, quà cáở Việt Nam. Cho nên Mỹ không làm việc được với Việt Nam bởi vì bị kẹt cái vấn đề tham nhũng.”

Hình minh hoạ. Một nhà đầu tư nhìn màn hình thị trường chứng khoán ở Hà Nội hôm 20/7/2015. Reuters

Đại gia bất động sản có được quan chức “chống lưng”?

“Chiến dịch” trấn áp như vừa nêu của Chính phủ VN được luật sư, học giả và là cựu tù nhân chính trị Cù Huy Hà Vũ, người có kinh nghiệm 30 năm là cán bộ Ngoại giao ở Việt Nam, cho rằng cần được nhìn trên nhiều góc ngách khác nhau.

Ông lý giải, xét về bề nổi thì các đại gia bất động sản đều liên quan đến chứng khoán, vì một lẽ ngoài ăn chênh lệch giá giữa đất mà họ mua từ chính quyền với giá rẻ rồi bán lại cho dân với giá cao, sau đó họ lại đưa những sản phẩm của họ lên sàn chứng khoán. Như vậy là họ lại ăn tiếp thêm một lần nữa theo phương thức thao túng thị trường bất động sản, bằng cách cùng nhau phối hợp mua bán giả tạo, đẩy giá công ty lên cao, rồi có một số lượng lớn các nhà đầu tư nhỏ lẻ lao vào và họ lại xả hàng và đánh sập xuống, rồi họ lại quay vòng. Ông Vũ bình luận thêm:

“Việc bắt các đại gia đấy tôi công nhận là có góp phần làm thanh lọc thị trường chứng khoán. Những tay đại gia không lấy kinh doanh sản xuất là nền tảng mà chỉ toàn chơi trò lừa đảo các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ lẻ.”

Theo luật sư Cù Huy Hà Vũ, bản chất của các vụ án này cần được nhìn nhận ở một mức độ sâu xa hơn, đó là mối quan hệ giữa quan chức Nhà nước và các DN “thân” chính quyền.

Tại sao vậy? ông Vũ giải thích thêm vì Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam quy định “Đất đai là tài sản của toàn dân nhưng lại do Nhà nước quản lý”. Thực tế có nghĩa là Chính phủ này có quyền ban phát tài sản đó cho những ai thân cận với họ. Cho nên, ông nói, điều đó đã khiến hình thành nhóm lợi ích hay là nhóm thân hữu có quan hệ chặt chẽ với chính quyền để trục lợi từ các chính sách:

“Bản thân tôi khi còn làm ở văn phòng luật thì đã có rất nhiều kinh nghiệm cụ thể về việc chính quyền câu kết với các doanh nghiệp thân hữu để lấy đất của người dân, hay nói cách khác là cướđất của người dân giao cho các DN thân hữu. Cụ thể là trường hợp Nguyễn Bá Thanh, cựu bí thư Đà Nẵng đã cướđất của dân.

Những dự án đến hàng chục, hàng trăm hecta như FLC và Đỗ Anh Dũng thì rõ ràng là phải có chuẩn thuận từ Chính phủ. Cho nên tôi khẳng định trong các vụ án này có sự dính líu và chống lưng của các quan chức cấChính phủ, chứ không phải chỉ ở cấp tỉnh và thành phố. Tôi tin rằng nếu làm theo đúng pháp luật thì những quan chức đó chắc chắn sẽ phải bị khởi tố.”

Chống tham nhũng hay đấu đá nội bộ?

Quay trở lại với nhận định rằng thật ra những vụ khởi tố, bắt giam lãnh đạo các DN “thân” Nhà nước gần đây đều là do các phe cánh trong đảng đấu đá, tranh giành quyền lực, chứ không phải chính quyền thực lòng muốn chống tham nhũng, thao túng trong thị trường tài chính, ông Cù Huy Hà Vũ cho biết ý kiến:

“Nói một cách công bằng thì có cả hai khía cạnh. Cái đầu tiên là về ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi chưa bàn đến chuyện theo đường lối Chủ nghĩa Xã hội là đúng hay sai, tôi chỉ nói về chính sách chống tham nhũng của ông ấy thì tôi tin là ông Trọng thật lòng chống tham nhũng.

Bởi vì theo đánh giá của tôi, cho đến giờ tôi chưa có một thông tin cụ thể nào việc ông ấy dính líu đến các bê bối nào, giống như Nguyễn Tấn Dũng.

Tuy nhiên, khía cạnh thứ hai rằng phải chăng việc bắt các đại gia vừa rồi, bản thân tôi khẳng định là các đại gia bất động sản bị bắt đều có các quan chức chống lưng. Vậy thì đánh các đại gia bất động sản này cũng đồng nghĩa với việc là đánh những kẻ chống lưng, sẽ dẫn đến chuyện là các mảnh đất màu mỡ sẽ được chuyển cho các quan chức chính quyền khác.

Đối với những ý kiến cho rằng đó là việc đấu đá nội bộ, tôi cho rằng cái “miếng ăn” rất màu mỡ bị chuyển từ nơi này sang nơi kia, bằng cách triệt hạ các đại gia, có thể dẫn đến triệt hạ các đối thủ trong chính quyền. Cho nên người ta nói rằng chuyện đó là đấu đá nội bộ để ăn chia thì tôi thấy rằng chuyện đó hoàn toàn có lý.”

Từ những ý kiến của luật sư Cù Huy Hà Vũ có thể liên tưởng đến nhận định trong một bài viết được đăng tải trên tờ Nikkei Asia Hôm 13/4, rằng các công ty lớn của Việt Nam đang lọt vào ‘tầm ngắm” trong chiến dịch chống tham nhũng của Đảng và Chính phủ Hà Nội.

Và rằng đó là do người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng, đang đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng, vì lo ngại tình trạng đút lót lan tràn sẽ làm lung lay thể chế độc đảng của Việt Nam.