Tiền đưa hối lộ ‘chuyến bay giải cứu’ lên tới ‘hàng chục tỷ đồng, hàng trăm ngàn đô’

Tiền đưa hối lộ ‘chuyến bay giải cứu’ lên tới ‘hàng chục tỷ đồng, hàng trăm ngàn đô’

June 30, 2022

Nguoi-Viet

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – “Kết quả điều tra bước đầu chứng minh các bị can đã nhận hàng chục tỷ đồng và hàng trăm ngàn đô. Tuy nhiên, vụ án đang trong giai đoạn điều tra nên việc xác định mỗi bị can đưa bao nhiêu, nhận bao nhiêu cần chờ kết luận cuối cùng.”

Đó là lời Thiếu Tướng Trần Thanh, phó cục trưởng Cục An Ninh Điều Tra Bộ Công An, nói tại buổi họp báo chiều 30 Tháng Sáu về kết quả bước đầu điều tra vụ “đưa và nhận hối lộ” ở Cục Lãnh Sự Bộ Ngoại Giao và một số địa phương trong vụ án “chuyến bay giải cứu,” theo báo Thanh Niên.

Các bị can tại Cục Lãnh Sự “nhận hối lộ,” bị truy tố. (Hình: Đại Đoàn Kết)

Báo Thanh Niên cũng dẫn lời ông Thanh cho biết đến nay nhà chức trách đã khởi tố bảy bị can về tội “nhận hối lộ” và ba bị can về tội “đưa hối lộ,” trong đó có bị can Tô Anh Dũng, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam.

Đến nay, ông Tô Anh Dũng là giới chức cao cấp nhất bị bắt trong đường dây tổ chức các “chuyến bay giải cứu.”

Trước vụ bắt ông Dũng, hồi Tháng Giêng, Bộ Công An bắt và khởi tố các thuộc cấp của ông này, gồm bà Nguyễn Thị Hương Lan, cục trưởng Cục Lãnh Sự; Đỗ Hoàng Tùng, cục phó Cục Lãnh Sự; Lê Tuấn Anh, chánh Văn Phòng Cục Lãnh Sự; và Lưu Tuấn Dũng, phó phòng Bảo Hộ Công Dân Cục Lãnh Sự. Cả năm người đều bị cáo buộc “nhận hối lộ.”

Đến hôm 25 Tháng Ba, Bộ Công An khởi tố bị can, bắt tạm giam bà Hoàng Diệu Mơ, tổng giám đốc công ty Thương Mại Du Lịch và Dịch Vụ Hàng Không An Bình, về tội “đưa hối lộ.”

Và đến hôm 14 Tháng Tư, Bộ Công An đã khởi tố bị can, bắt giam ông Tô Anh Dũng; Vũ Anh Tuấn, cựu cán bộ Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh, Bộ Công An; và Phạm Trung Kiên, chuyên viên Vụ Trang Thiết Bị và Công Trình Y Tế thuộc Bộ Y Tế, về cùng tội danh “nhận hối lộ.”

Theo cơ quan hữu trách, từ năm 2020 đến nay, Bộ Ngoại Giao phối hợp với bộ, ngành thành lập “Tổ Công Tác Năm Bộ” đã triển khai hơn 1,000 chuyến bay và đưa 240,000 công dân Việt Nam từ 60 quốc gia, vùng lãnh thổ về nước, tổ chức cách ly tại cơ sở dân sự theo hình thức tự nguyện trả phí.

Tuy nhiên, trước đó hôm 5 Tháng Sáu, cộng đồng mạng bàn tán về tiết lộ của Trung Tướng Tô Ân Xô, chánh văn phòng kiêm phát ngôn viên Bộ Công An Việt Nam, được tờ Công An Nhân Dân đăng tải: “Gần 2,000 chuyến bay giải cứu, mỗi chuyến thu lợi khoảng 2 tỷ đồng ($86,236).”

Ông Xô cũng nhấn mạnh rằng con số nêu trên là “lợi nhuận” sau khi trừ các chi phí của chuyến bay.

Đến nay, ông Tô Anh Dũng, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, là giới chức cao cấp nhất bị bắt trong đường dây tổ chức các “chuyến bay giải cứu.” (Hình: Zing)

Nếu đúng như lời ông Xô nói thì các giới chức trong đường dây tổ chức “bay giải cứu” thu lợi bất chính tổng cộng đến 4,000 tỷ đồng ($172.5 triệu).

Tuy vậy, cả ông Xô lẫn báo Công An Nhân Dân không nói rõ khoản lợi nhuận ròng sau mỗi “chuyến bay giải cứu” rơi vào túi của những ai, có được thu hồi hay chưa, và liệu có phải tất cả những giới chức liên quan đường dây này đã bị bắt hoặc còn “trùm cuối” vẫn đang “vô sự.” (Tr.N) [qd]

Nguyễn Phú Trọng, người chiến sĩ sát cộng số một của Việt Nam

Nguyễn Phú Trọng, người chiến sĩ sát cộng số một của Việt Nam

Bởi  AdminTD

Nguyễn Tiến Dân

2- 7- 2022

1.- “Cộng sản sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực”. Tùy thời điểm, tùy sắc tộc và tùy vị trí địa lý, bọn chúng có thể khác nhau vài thứ râu ria. Riêng cái khoản bất nhân – thất đức và ăn tàn – phá hại, đứa nào cũng thế. Nhắc tới chúng, là phải nhắc tới những tội ác hủy diệt tự nhiên, nhắc tới những tội ác chống lại loài người. Dưới ách cai trị của Cộng sản, luân thường, đảo lộn – đạo lý, suy đồi. Quyền lợi, chúng riêng giành – quyền hành, chúng độc chiếm. Đi theo Cộng sản, Đất nước nào cũng lầm than và trì trệ – Dân tộc nào cũng lụn bại và luôn đối mặt với họa diệt vong. Bởi thế, “nó chỉ là giấc mơ của vài người. Nhưng nó lại là cơn ác mộng kinh hoàng của toàn nhân loại”. Khi đã nhìn ra cái bản chất tột cùng xấu xa và đê tiện của Cộng sản, ai cũng căm ghét chúng và ai cũng mong, sẽ góp được một phần công sức, để tru triệt chúng.

Nhưng than ôi! Cộng sản, chúng giống như loài cỏ dại. Triệt được chúng, nào có phải là cái công việc dễ dàng:

– Ngay sau khi Nga Xô được thành lập, thế và lực của họ, chỉ có thể gói gọn trong mấy chữ: “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình thế ấy, ai cũng tưởng, có thể dễ dàng “ăn sống – nuốt tươi” được họ. Nhân đó, triệt đi cái di họa cho nhân loại về sau. Hệ quả, 14 nước Đế quốc đã đồng sức – đồng lòng, đã góp quân – góp của cho lực lượng Bạch vệ của Nga. Những mong, đánh Nga Xô cho đến khi nó đổ sụp. Ai ngờ, chẳng những không sụp đổ, mà sau cuộc chiến, nó còn nuốt chửng thêm hàng loạt lân quốc, để trở thành một thế lực có số má trên vũ đài Chính trị Thế giới.

– Trong Đệ nhị Thế chiến, chỉ riêng nước Đức Quốc xã, họ đã mạnh vô cùng. Ngay sau khi dùng xe tăng và lưỡi lê đè bẹp châu Âu, thế và lực của ho, khác nào “hổ mọc thêm cánh”. Tấn công Liên Xô, họ tự tin: “sẽ hoàn thành nốt cái công việc, mà nội chiến ở Nga đã phải bỏ dở”. Kết quả, chẳng những Liên Xô không tan vỡ, mà trên đường phản công, nó còn thôn tính hàng loạt quốc gia Đông Âu. Dân chúng ở đó, họ chưa kịp vui mừng vì vừa tránh được cái vỏ dưa Phát xít, thì đã phải ôm trọn vào lòng cả một đống vỏ sầu riêng mang cái tên Cộng sản. Thê thảm, vô cùng.

Bất hạnh, nào đã dừng lại. Chế độ Cộng sản, nó còn nhuộm đỏ cả Trung Hoa, Bắc Triều Tiên và Việt Nam.

– Đến thời chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ đổ quân vào tham chiến tại Việt Nam. Lúc đó, mọi con số thống kê đều cho thấy, họ áp đảo đối phương. Nhưng cuối cùng, Hoa Kỳ vẫn buộc phải rút quân và bất lực nhìn miền Nam nước Việt rơi vào tay Cộng sản. Tuy không thắng, nhưng nhờ có họ, đại dịch Cộng sản, nó mới bớt ngông cuồng và chỉ còn có thể tự tung – tự tác ở xứ Đông dương. Vĩnh viễn, không có cơ hội, để bung ra và tràn tiếp xuống vùng Đông Nam Á.

– Liệt ra những sự kiện ấy, để minh chứng cho cái Chân lý phổ quát: “Chiến tranh, đó là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng Cộng sản. Bởi thế, chiến tranh không thể làm cho chúng yếu đi, mà ngược lại”. Sinh thời, Mao Trạch Đông cũng rất tâm đắc với luận điểm này. Có điều, nó được ông diễn đạt một cách hết sức thô lỗ: “Súng, đẻ ra chính quyền” và Thế giới chỉ có thể được cải tạo bằng súng đạn”. Tuy “bầu dục chấm mắm cáy”, nhưng nó vẫn nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của đám lâu la cuồng tín và lũ chư hầu bưng bô. Bởi, giống như Mao, tất cả bọn chúng, đứa nào cũng ưa bạo lực và phải thừa nhận, chúng rất mạnh về cái khoản này. Thế nên, dùng “nắm đấm” để phân thắng – thua với Cộng sản, đó chỉ là cách làm của những người, mà “trái tim nhầm chỗ, để trên đầu”.

Muốn ganh đua với chúng, phải đi đường vòng. Phải mở ra và kéo chúng vào những cuộc chiến, mà ở đó, sở trường của chúng không được phát huy. Trái lại, cái sở đoản ngu dốt và dối trá của chúng, nó phải bị bộc lộ.

2.- Người xưa, tổng kết: 狮子身中虫 自食狮子肉. Sư tử thân trung trùng, tự thực sư tử nhục. Tạm hiểu, Sư tử là chúa sơn lâm. Nó thắng tất cả mọi loài trong rừng sâu – núi thẳm. Nhưng cuối cùng, kẻ có thể hạ gục được nó, chính là cái loài dòi bọ được sinh ra ngay trong những vết thương đã nhiễm trùng của nó.

Cộng sản, cũng vậy. Không ai có thể thắng được chúng, trừ những khiếm khuyết được nảy sinh ngay trong lòng chế độ thối nát của chúng. “Cơ đồ xây dựng 75 năm có nguy cơ sụp đổ. Không ai mang máy bay, đại bác đến để lật đổ ta. Ta không làm tốt, thì ta tự lật đổ ta. Chẳng phải, do kẻ thù đâu” – Trần Quốc Vượng, nguyên thường trực Ban Bí thư.

Từ cái nguyên lý sâu xa này, ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev và những cộng sự, họ đã nhanh chóng vạch kế hoạch và khẩn trương bắt tay hành động. Tất cả, đều hướng tới mục đích: “xóa bỏ chế độ Xô viết”. Cách họ làm, là cấy những ấu trùng độc vào trong cái vết thương đã lở loét của chế độ Xô viết và cuối cùng, chính cách làm đúng đắn đó, nó đã góp phần quyết định, để hạ gục chế độ Xô viết.

Trong cuốn hồi kí của mình, Yakovlev nhớ lại: “Chúng tôi có thể xóa bỏ hệ thống chính trị Xô viết bằng nhiều cách khác nhau. Tỷ như, công khai ủng hộ và tôn vinh những người bất đồng chính kiến. Tuy vậy, biện pháp này không triệt để và hiệu quả không cao. Cần phải phá Liên bang Xô viết từ bên trong và cách duy nhất để đạt được mục đích, đó là: “Kết hợp công khai hóa với việc áp dụng cơ chế kỷ luật toàn trị của Đảng”.

Lợi dụng chiêu bài công khai hóa, họ bóc mẽ những yếu kém, lệch lạc và bệnh hoạn của nền kinh tế Xô viết – những thứ, mà chế độ Xô viết vẫn giấu, như “mèo giấu cứt”. Thay vì “khoan thư sức dân”, những đồng tiền thu được từ bán tài nguyên và thu được từ thuế, phần lớn được ném vào việc phát triển Quốc phòng và luôn coi đó là niềm tự hào, là nhân tố quyêt định, để bảo vệ Liên bang Xô viết. Qua đó, chỉ ra vực thẳm ngay trước mặt: “Sự thực, không ai có thể phủ nhận được sức mạnh quân sự khủng khiếp của chúng ta. Nhưng nó đang được vận hành, để đứng trên đôi chân kinh tế đã èo uột, lại còn được nặn bằng đất sét. Quốc phòng càng mạnh, sức ép của nó lên nền kinh tế càng lớn và đến một ngưỡng nhất định, đất nước sẽ đổ sập xuống, như trời long – đất lở”.

Với việc công khai hóa, cái mặt nạ của chế đô Xô viết được vén tới đâu, bộ mặt quái thai, phi nhân và thất đức của nó sẽ được phơi ra đến đó. “Chúng ta ăn cắp từ chính bản thân chúng ta. Chúng ta coi đưa và nhận hối lộ, là việc tất yếu. Chúng ta nói dối trong các báo cáo, nói láo trên báo chí và man trá trên các diễn đàn cấp cao. Đắm mình trong dối trá, rồi chúng ta trao huân chương cho nhau và trên hết, tất cả những điều này, nó diễn ra từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên” – Nikolai Kyzhkov, Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng của Liên bang Xô viết. Khi ma quỉ hiện nguyên hình, dân chúng sốc và suy sụp toàn tập. Từ đây, chẳng cần ai xúi dục, họ cũng quay lưng lại với nó.  众志成城, chúng chí thành thành. Mất đi sự ủng hộ của dân chúng, chế độ Xô viết, nó cũng chỉ như một con tàu đang nằm bờ. Ngày 18 – 8 –1991, những người cộng sản theo đường lối cứng rắn, họ đã làm một cuộc đảo chính, hòng lật đổ Gorbachev. Việc, bất thành. Nguyên do, ở đó.

Với việc áp dụng cơ chế kỷ luật toàn trị của Đảng, tất cả những kẻ không ăn cánh và những kẻ cuồng tín Mác – Lê, chúng đều bị đưa vào tầm ngắm và cuối cùng, đều bị thải hồi. Trong hơn sáu năm cầm quyền, Gorbachev đã thay máu toàn bộ Bộ Chính trị và các bộ phận chủ yếu của Ban Chấp hành Trung ương. Thế vào đó, là những người cùng chung chí hướng. Trong số đó, nổi bật nhất là Yakovlev và Shevardnadze. Khi nanh đã bị nhổ, vuốt cũng chẳng còn, con cọp Xô viết, nó chỉ hơn con mèo ở mỗi chỗ: Đó là, to xác.

Với chiến lược tổng thể này, không tốn một mũi tên – một hòn đạn, không hao một người lính – một cỗ xe, nhưng Gorbachev và những cộng sự, họ đã hãm Đảng Cộng sản Liên Xô vào thế, chỉ còn sống thực vật. Như rắn mất đầu, Liên bang Xô viết, nó phải tự tan rã.

Chớp thời cơ, tất cả các nước Cộng sản Đông Âu, họ đều đồng loạt đứng lên, để tự phá tan xiềng xích, ngục tù và sau hơn 30 năm đoạn tuyệt với cái mớ rác rưởi Mác – Lê, chửa thấy ai lưu luyến hồi đầu.

3.- Viết tới đây, không thể không nhắc tới luận điểm nổi tiếng của Tôn tử: 是故百战百胜,非善之善者也;不战而屈人之兵,善之善者也. Thị cố, bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện giả dã. Bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã. Tạm hiểu, “đánh thắng” hết Thực dân to này, đến Đế quốc nhớn khác, có gì gọi là giỏi. Bởi sau “chiến thắng”: đất nước, tan hoang – dân chúng, kiệt quệ. Không đánh mà hạ gục được đối phương, như cách mà Gorbachev đã làm, ấy mới tài.

Tài giỏi thế, nhưng Gorbachev và những cộng sự, họ cũng chửa được thiên hạ phong Thần. Bởi dẫu sao, Liên bang Xô viết, nó cũng được phát triển trên một nền tảng nhất định của Tư bản công nghiệp và mặt bằng dân trí ở đó, nó cũng không đến nỗi nào. Riêng Việt Nam, ngoài 2 trở ngại bất khả kháng nói trên, nó còn phải đối mặt với “tâm lí ngu trung” đã trở thành thâm căn – cố đế của vô số những kẻ mù quáng. Những kẻ, luôn cúc cung thần phục bề trên một cách vô điều kiện. Không đánh, mà vẫn phá tan được những bức tường thành kiên cố đó, ấy mới xứng, là bậc vĩ nhân.

Người xưa nói: “Mục đích, biện minh cho phương pháp”. Lịch sử, rồi sẽ phán xét mọi việc một cách công bằng và trước sau, sẽ dành vị trí xứng đáng cho Nguyễn Phú Trọng – một ông già “mặt nhân từ, mà ruột hiểm sâu”. Ngay từ những bước đi đầu tiên, cho tới những “mưu, hiểm độc – kế, xảo quyệt”, chàng luôn khiến cho quỷ khốc – thần sầu. Chỉ với cái mẹo vặt 假痴不癫, giả si bất điên – vờ lú lẫn, chàng cũng khiến cho bao cao thủ võ lâm phải lả tả rớt đài và lâm vào thảm cảnh “sống, không bằng chết”.

4.- Bàn về cái sự bất tài của Đảng Cộng sản Việt Nam, có lẽ, không ai thâm và sắc bằng Vũ Khoan: “Thụy sĩ không có gì, mà có tất cả. Trong khi, mình có tất cả, nhưng lại không có gì”.

Nôm na, Việt Nam là một trong những nơi hiếm hoi trên trái đất, mà cùng lúc, hội tụ được “tất cả” các yếu tố “thiên thời, địa lợi và nhân hòa”. Nhưng khi những thứ đó rơi vào tay lũ côn đồ có cái đầu đất, chúng đã đẩy cả Xã hội Việt Nam vào vòng hỗn loạn và làm băng hoại nó về mọi mặt:

Luật pháp, không còn – dối trá, lên ngôi – đồng tiền, thống trị.

Từ đường lối cho đến đường đi, chỗ nào cũng vá chằng – vá đụp như cái váy rách của nhà chị Dậu. Nền “công nghiệp hóa” mà chúng ta hằng ao ước, cho đến giờ, nó đang đánh vật với “những con ốc vít tiêu chuẩn”. Một nước nông nghiệp, mà từ giống má, phân bón, thuốc trừ sâu, cho đến giá nông sản, tất cả, đều bị thả nổi và chịu sự thao túng của thương lái nước ngoài. “Được mùa – mất giá” và ngược lại. Đó là thảm cảnh của người nông dân Việt Nam dưới thời Cộng sản. Công nông, nào phải là cá biệt. Mọi tầng lớp khác trong Xã hội, nó cũng đều y như thế.

Tài nguyên và khoáng sản, tất cả đều bị đám Cộng sản đào bới tới mức cạn kiệt. Đất đai, chỗ nào chưa sang nhượng hoặc chưa cho ngoại bang thuê, chúng đều nhăm nhe đem phân lô – bán nền, rồi nhượng lại cho dân chúng với cái giá cắt cổ. Kiều hối, đều như vắt chanh. Năm nào cũng tiệm cận ở mức 20 tỷ USD. Còn dân chúng, ai cũng điêu đứng, vì bị chế độ bóp nặn qua sưu cao – thuế nặng. Thu nhiều như thế, nhưng “ngân sách” Quốc gia, lúc nào nó cũng “như dòng sông đã cạn”. Trái lại, cán bộ Cộng sản, đứa nào cũng giàu ú ụ. Xe sang và biệt phủ khủng, xưa rồi. Cái mà chúng hãnh diện đem khoe, đó là những tài khoản ngoại tệ và những bất động sản ở nước ngoài. Hữu sự, chế độ “đóng cửa”, để xách bị gậy “đi ăn mày” ở khắp bốn phương trời. Thậm chí, sẵn sàng “đeo mo vào mặt”, rồi lân la đi ăn dỗ của những đứa trẻ miệng vẫn còn hoi mùi sữa và lừa đảo cả những ông bà già đã cập kề miệng lỗ. An sinh Xã hội ư? Đừng có hòng. Bước chân ra khỏi cửa, mỗi bước đi, là một bước phải xuống tiền.

Rõ ràng, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, chúng gồm một lũ bất tài – vô dụng. Chúng kinh doanh thứ gì, thứ đó lỗ chỏng cu. Chúng quản lí cái gì, cái đó đều tồi tệ và ngược lại. Chỉ cần so sánh việc cung ứng lương thưc và thực phẩm trước và sau thời bao cấp, chúng ta sẽ nhận ra ngay cái điều đó. Bởi thế, chừng nào chưa “giải thể cái đám ăn hại – đái khai Cộng sản” và “trả lại quyền lực thực sự cho Nhân dân”, chừng đó, Việt Nam còn sấp mặt. Trong bối cảnh đó, Phú Trọng được sinh ra, để “thế Thiên”, mà “hành” cái “đạo” triệt Sản.

5.- “Lượng đổi – chất đổi”. Người ta chẳng nên hấp tấp, để nặn một cái mụn, khi nó còn non. Thế nên, Lê nin mới đưa ra luận điểm: “Muốn cho chế độ Nga hoàng chóng sụp đổ, hãy đẩy nó tới tận cùng của sự khốn nạn”. Sang Nga du học, Phú Trọng rất tâm đắc với chiến lược này. Về nước, “vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê vào hoàn cảnh Việt Nam”, ông thay chữ “Nga hoàng”, bằng từ “Cộng sản” và kiên định, đẩy nhanh quá trình chín mõm của cái ung nhọt Cộng sản Việt Nam. Giống như bậc tiền bối, ông cũng dùng 2 thứ vũ khí: “Công khai hóa” và “Kỉ luật toàn tri”, để bẻ nanh – cắt vuốt và rút gân của cái Đảng Cộng sản Việt Nam. Có điều, Gorbachev phá Cộng sản theo cách, từ trong phá ra. Riêng Phú Trọng, ông phá nó, từ gốc rễ.

a- Hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh

– Chuyện dân gian, kể rằng: Nguyễn Sinh là một dòng họ nghèo kiết xác ở xứ ông Đồ. Muốn đổi đời, họ tìm đến nhà một thầy Địa lý nổi tiếng, để xin giúp đỡ. Nhìn thấu hoàn cảnh và âm đức của nhà đó, thày phán: “Ta vừa tìm được một huyệt mộ. Mả táng vào đó, phú quý tột cùng. Ngặt nỗi, kết cục sẽ là tuyệt tự. Các người, nghĩ sao?”. Còn gì, để mà mất. Cả nhà mừng quýnh, đồng ý liền. Việc, hoàn tất. Tạ ơn thầy xong, họ bỏ đi như chạy. Vì thế, chẳng nghe thấy thầy gọi với theo: “Này, ta nói đùa đó. Muốn không bị tuyệt tự, việc đầu tiên, là phải lấy vợ”.

– Theo chính sử, Hồ Chí Minh không có cả vợ lẫn con và có lẽ, đó chẳng phải là ước nguyện của ông ta. Bởi lẽ, “từ rốn trở xuống, bác cũng như các chú”. Làm ra cái việc thất đức này, là mưu đồ của đám đệ tử. Chúng muốn lợi dụng ông ta, để lôi kéo cái đám đông u mê, mà có lúc, nó chiếm tới 95% dân số Việt Nam. Vì thế, chúng buông xuống một bức màn sắt, rồi thêm râu – vẽ ria và bắt ông phải trở thành một vị Thánh nhân. Dĩ nhiên, không chút tì vết.

Đầu tiên, chúng khoác tấm long bào của Thiên tử lên vai ông Hồ: “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh Thánh” và giải thích bừa rằng: “Khi núi Đụn, chẻ đôi/ Nước chảy xuống từ khe Bò Đái, mất tiếng/ Sông Lam, phạm núi Lam thành/ Lúc đó, Nam Đàn sinh ThánhThánh ở đây, chính là bác Hồ (!)

Bước 2, chúng tìm một kẻ bẻm mép, rồi đôn y lên hàng Giáo sư và giao cho việc “sưu tầm” và “sáng tác” những mẩu chuyện có thật và kể cả không có thật về ông Hồ. Kế đó, mang chúng đi kể ở khắp hang cùng – ngõ hẻm. Đám quần chúng u mê, ai cũng há hốc mồm ra nghe và ai cũng tin, bác của họ, là Thánh sống. Bác của họ, tài đến mức, thông thạo “29 ngoại ngữ” – giỏi đến mức, “tiên tri được ngày ta thắng Mỹ” và nhân văn đến mức, gặp các cháu gái miền Nam, bác hỏi luôn: “Các cháu kinh nguyệt có đều không?”.

Tuy vậy, ối lúc y nhỡ mồm. Y kể, hồi ở Paris, bác đã từng tham gia sản xuất hàng giả. Đã từng, vì quyền lợi ích kỉ của mình, mà nhẫn tâm 移尸嫁祸 di thi giá họa cho dân lành. Khiến họ, tan cửa – nát nhà và nếu sống ở Việt Nam thời Sản trị, cái thòng lọng của giá treo cổ, chắc chắn, nó sẽ được tròng vào cổ họ.

Ở xứ Văn minh, nói láo như y, thiên hạ bôi vôi vào mồm. Nhưng ở chốn “thiên đường”, y và đám đồng đảng, chúng lại thành công rực rỡ. Hình tượng Hồ Chí Minh với những gam màu sáng, nó đã được khắc ghi đậm nét trong trái tim và khối óc của đa số dân chúng Việt Nam. Nó trở thành cái bình gốm đẹp đẽ, để những con chuột cống Cộng sản có chỗ chui vào và yên ổn hưởng thụ những gì mà chúng có được do ăn cướp. Ai cũng biết, nếu không đập vỡ cái bình, hoặc không dốc ngược nó lên, muôn đời, không bao giờ tiêu diệt được đàn chuột ở trong cái bình đó. Các bác “thế lực thù địch và phản động”, họ biết rất rõ về cái luận điểm này và diễn đạt nó dưới dạng: “Muốn giải Cộng, trước tiên, phải giải thiêng được hình tượng Hồ Chí Minh”.

Nhưng rồi, bao nhiêu thời gian và công sức mà các bác ấy đổ vào đó, nó đều như “nước đổ lá khoai”. Chẳng mấy ai tin các bác ấy cả. Phải đến khi Phú Trọng nhập cuộc, tình thế mới bắt đầu thay đổi. Vậy, Phú Trọng đã làm những gì, để người đời dần tin rằng, Hồ Chí Minh cũng hết sức tầm thường?

– Ai cũng biết, những “khai quốc công thần” của chế độ Cộng sản, từ Ba – Đồng – Chinh – Bằng – Tôn, cho đến Mười – Phương – Kiệt – Nguyên – Liệu, ai cũng đội ông Hồ lên đầu và tranh nhau nhận mình là “người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Riêng Phú Trọng, học hàm và học vị đầy mình, sao phải khuất thân mà nhận rằng, mình là học trò của cái ông chẳng có mảnh bằng nào giắt lưng? Tệ hơn, ông còn bật đèn xanh, để Võ Văn Thưởng thổi đít mình lên: “Tổng bí thư hiện nay, thực sự là nhà lý luận có tầm tư tưởng”. Nghe nói, dạo còn trốn trong núi rừng Việt bắc, có kẻ cũng đã nói ra câu đó với ông Hồ. Không ngờ, ông ta gạt phắt: “Bác không có tư tưởng gì cả. Mọi tư tưởng, là của ông kia, ông kia và ông kia”. Miệng nói, tay chỉ vào hình của Mác, Lê nin, Staline và Mao Trạch Đông. Cái mà ông nhận, chỉ là “tác phong Hồ Chí Minh”.

Chẳng biết, lúc đó ông Hồ khiêm tốn, hay ông không muốn tự lâm vào tình thế hiểm nghèo, khi dám đặt mình ngang hàng với các tay kia. Trong khi, tầm của bọn kia, còn lâu chúng mới sánh được với những nhà tư tưởng và triết học vĩ đại của Trung hoa như Khổng tử 孔子, Mạnh tử 孟子. Nếu công tâm, Thưởng hãy nói xem, cụm từ “tư tưởng Hồ Chí Minh” nó xuất hiện trước hay sau khi ông Hồ từ trần? Ông Hồ còn không tự nhận mình là Hồ tử 胡子. Hà cớ gì, con ễnh ương Võ Văn Thưởng phải cố tự phình mình, để đẻ ra nhà tư tưởng Trọng tử 仲子. Tuy chưa chết, nhưng “tiếng vang như mõ”?

– “Miếng ăn, là miếng nhục”. Thiên hạ, thiếu gì kẻ, chỉ vì miếng nhục đó mà bán rẻ đi cái lương tâm của mình. Mượn sân khấu của Thưởng, chúng véo von hót rằng, Phú Trọng có cái tiết tháo của một bậc sĩ phu Bắc hà. Bởi thế, trừ Tập tiên sinh, ông không bao giờ khuất phục trước cường quyền và tà quyền. Khi đã ở trong cái chăn Cộng sản, hơn ai hết, ông ta phải biết rất rõ về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Nhưng đã lâu lắm rồi, thiên hạ thấy ông vẫn một mực lẩn tránh việc vào Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, để cúi chào người quá cố. Có lẽ, ông đã học được chiêu độc của các vị vua chúa nước Nam: Khi không muốn quì lạy, để nhận chiếu chỉ/ sắc phong của phương Bắc, ai cũng nại ra việc mình đi săn, bị ngã ngựa. Phú Trọng, cũng vậy. Ông ta có thể một lần nại ốm, để không phải lạy ông Hồ. Nhưng triền miên “ốm”, thì vấn đề, nó lại nằm ở chỗ khác. Xin độc giả hãy chiêm ngưỡng bức ảnh “Phú Trọng dâng hương trong nhà Bác”.

Hương dâng rồi, ông ta quay lại và điềm nhiên ngồi luôn lên cái ngai của Bác mình. Việc này, Phong kiến thời nào, họ cũng “nâng cao quan điểm”, để khép vào tội: “khi quân – phạm thượng”. Cố tình, thì bị chém đầu – vô ý, thì đem treo cổ. Đã thế, ông còn ngồi quay lưng vào bàn thờ, nơi mà khói hương vẫn đang nghi ngút.

Thế gian, nào ai mà biết, “chuyện ma ăn cỗ”. Bởi thế, “anh em, khinh trước – làng nước, theo sau”. Chắc ông Hồ cũng phải như thế nào, thì mới bị Tổng Trọng giỡn mặt đến mức ấy chứ?

– Nào, đã hết. Sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, nên khát vọng cháy bỏng của tầng lớp bần cố nông Cộng sản, nó cũng chỉ dừng lại ở cái nồi cám lợn nơi xó bếp. Vì thế, khi được ăn bo bo, ai cũng tưởng, mình đã đặt được một chân tới thiên đàng. Trong bối cảnh đó, họ tung ông Hồ lên tận chín tầng mây và “thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng”, nó đã làm lóa mắt tất cả cái lũ mù quáng ấy. Cơn lên đồng tập thể, nó chỉ chấm dứt, khi Thánh mới lừng lững xuất hiện cùng với xô nước đá trên tay. Thánh phán: “Nhìn một cách tổng quát, Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay”. Nôm na, từ thủa khai thiên – lập địa của nước Việt đến giờ, chưa một chế độ nào, chưa một triều đại nào có được những thành tích vẻ vang và đặc biệt xuất sắc bằng thời Phú Trọng.

Không phải nhỡ mồm, Thánh lặp đi, lặp lại nó ở mọi nơi, mọi lúc và có lẽ, ngay cả trong giấc ngủ. Lũ bê hồng, nghe rõ chửa: “Thánh Hồ, sao mà bằng Thánh TrọngCòn Thánh Trọng, đang ở ngoài bức màn sắt và đang sống trong thời @. Bởi thế, chỉ những kẻ đui mù và đần độn, chúng mới không đánh giá được những lời nói và những việc làm của ông ta.

b- Đưa Luật rừng vào, để phá nát Xã hội Việt Nam.

– Trên danh nghĩa, Việt Nam có một Nhà nước “Pháp quyền”. Ấy thế mà, đến Hiến pháp, nó còn bị Phú Trọng cho đặt ngồi bệt xuống dưới chân Cương lĩnh của Đảng. Đến lượt Cương lĩnh của Đảng, nó lại được ông nâng niu và sử dụng như một vật lót mông của mình. Bằng chứng, kệ con mẹ Điều lệ Đảng và mặc xác cái gọi là dư luận, ông lì lợm giữ rịt cái ghế Tổng Bí thư tới tận 3 khóa liền tù tì.

Lột mặt nạ của Đảng như thế, chưa đủ. Ông còn cố tình trì hoãn việc xây dựng Luật về Đảng và Hội, để bắt cái Đảng của ông, lúc nào nó cũng hoạt động trong tư thế bất hợp pháp. Quyền lãnh đạo, nó giành – trách nhiệm với Dân, nó bỏ. Có quyền rồi, chúng ngang nhiên lấy tiền của Ngân sách, để chi tiêu một cách vô tội vạ và tùy ý lèo lái Đất nước đi theo những cái sở thích riêng quái đản của mình. Tạm kể ra, 2 vụ:

Theo Hiến pháp: “Nhiệm kì của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng, đều theo nhiệm kì của Quốc hội”. Thậm chí, họ còn phải đương nhiệm cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra được người thay thế. Nhưng, Quốc hội khóa 13 còn chưa kết thúc, “tam trụ” kia, chẳng ai bị kỉ luật, chẳng ai bị liệt hoặc chết, cũng chẳng có ai làm đơn xin từ chức. Ấy thế mà, ông Tổng vẫn lùa họ lên toa xe lửa, đóng cửa lại, rồi cho họ “đi tàu suốt”. Lạ cái, từ 3 vị kia cho tới dân chúng cả nước, chẳng thấy ai dám hé răng, để bình phẩm lấy một lời. Hèn đến thế, là cùng.

Ăn cắp, quen tay – ngủ ngày, quen mắt”. Trong nước, chà đạp lên Luật pháp mà không sợ bị trừng trị, nó quen rồi. Ra nước ngoài, bệnh cũ, tái phát. Mồm nói, tôn trọng chủ quyền Quốc gia và Luật pháp của Đức quôc, nhưng ấm đầu lên, ông vẫn tìm mọi cách, để “khều” cho bằng được cừu thù Trịnh Xuân Thanh về nước. Bất chấp, vụ “khều” người này, nó sẽ còn “ám” mãi vào nước Việt.

Trên, vô pháp – dưới, vô luân. Từ đó, cả Xa hội được vận hành theo những “khẩu dụ”, theo những Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng – những thứ, luôn trong tình trạng “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng”. Khi không còn tiêu chuẩn để phân biệt trắng – đen; phải – trái; đúng – sai, cả Xã hội lộn tùng phèo: “Bây giờ, làm việc gì cũng sợ sai. Làm xong rồi, cũng không biết có sai hay không. Sai rồi, cũng không biết sai ở chỗ nào và thậm chí, không làm gì cũng có thể dẫn đến sai phạm(!)” – Mai Thị Phương Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội. Khi trói được chân – buộc được tay cán bộ, đó là lúc mà Phú Trọng đã đạt đến đỉnh cao của việc: “vô hiệu hóa bộ máy Nhà nước Việt Nam”. Gorbachev, tuổi gì.

Kỷ cương, không có – đường lối, ưỡn ẹo như cây tre trước gió và ông trùm, một tay thao túng tất cả. Đó là đặc điểm chung của mọi băng nhóm được tổ chức theo kiểu Mafia hoặc thổ phỉ. Phú Trọng, ông đã có công làm cho cả Thế giới thấy rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam, nó cũng đang tiệm cận với cái mức ấy.

c- “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Bần cùng hóa nhân dân, ép họ phải đối đầu với chế độ.

– Ở một nước nông nghiệp, tất yếu, phải lấy “Nông dân làm trụ đỡ”, phải đặt “Nông nghiệp vào trọng tâm”. Mồm thì nói thế, nhưng tay này cướp đất của nông dân, tay kia dựng lên cả một rừng thuế phí, để vặt lông người cày. Một quả trứng, chúng thu tới 14 loại phí. Đến con lợn, con số đó, nó đã nhảy lên thành 51. Nào, đã hết. Khi mang hàng hóa đi tiêu thụ, họ phải khóc ròng với giá cước vận tải. Do xăng tăng – xe đắt, do dày đặc những trạm cố định thu phí mãi lộ và do bị “ăn cháo hành” khi qua đầy rẫy những trạm di động, chuyên xin đểu “bánh mì”. Trừ hết chi phí, đồng tiền mang về, may lắm cũng chỉ đủ để nuôi vợ con. Làm gì có dư, để mà tái sản xuất mở rộng. Khi bị ép phải lựa chọn giữa “sống, hay là chết”, những người nông dân ở Văn Giang, Đồng tâm, Dương nội…, tất cả, đều không chọn vế sau. Cho dù, có bị đàn áp khốc liệt.

Nước lụt, thì lút cả làng”. Khi đại dịch cúm Tàu tràn qua nước Việt, nó đã phơi ra trước bàn dân thiên hạ: Một hệ thống truyền thông, dối trá. Một hệ thống quan chức, ngu dốt. Một hệ thống tham nhũng và thối nát, từ trên xuống dưới. Một sự vi phạm nhân quyền trắng trợn dưới rất nhiều hình thức. Cuối cùng, là một hệ thống nhóm lợi ích siêu quyền lực. Chúng đã tạo ra cả hệ thống chính sách, để trục lợi và trên hết, đó là một sự lũng đoạn Nhà nước, ở quy mô khủng khiếp…” – Nhà báo Nguyễn Vũ Bình.

Chỉ bằng vài tháng phong tỏa, ông Tổng và những cộng sự, họ đã khiến đồng bào ta: người chết – nhà tan – của tàn – đói khát. Giữa lúc tứ bề thọ khổ, cái mà dân chúng cần, đó là lương thực, thực phẩm, thuốc men, y bác sĩ và phác đồ điều trị. Nhưng chế độ, không làm thế. Trái lại, họ vẫn hối hả tăng giá xăng dầu, điện nước, khí gas… Mặt khác, tiếp viện cho họ: bộ đội, cảnh sát cơ động, cùng AK 47, xe bọc thép và hàng rào dây kẽm gai. Chẳng cần nói, ai cũng biêt nguyên nhân sâu xa của những việc làm thất nhân tâm này.

d- Xói mòn sức mạnh chiến đấu của Đảng CS Việt Nam, bằng cách bồi dưỡng và đề bạt những cán bộ vô tài – thất đức.

Muôn việc thành công, ở khâu cán bộ. Luận về cái việc này, Nguyễn Trãi viết: “Sĩ tốt, kén người hùng hổ. Bầy tôi, chọn kẻ vuốt nanh”. Đến thời Phú Trọng, ông không làm thế. Bỏ qua qui luật “chọn lọc tự nhiên”, ông “phát hiện, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ” theo kiểu “hôn nhân cận huyết”. Vì thế, nhắc tới bất cứ một cán bộ nào, nhân gian cười nửa miệng: “Đồng chí này, là con của đồng chí nào?”.

Trong khi, ghế thì ít, mà đồng chí đểu lại hơi bị nhiều. Dựa vào chiêu “luân chuyển cán bộ”, ông thay máu xoành xoạch trong những cơ quan đầu não của Đảng. Có điều, “hòn ngọc, ném đi – hòn chì, giữ lại”. Việc “dây thép” ông giao cho một thằng “bán trời không văn tự”. Không phụ lòng chủ, y “vén tay áo xô”, chỉ một phát, đốt trên ngàn tỉ tiền thuế vào cái “mạng xã hội Lotus” với lời hứa chắc như đinh đóng cột: “Lotus sẽ lật đổ facebook(!)”. Đến lượt, “Giáo dục và Đào tạo nhân tài cho Đất nước”, ông giao cho một kẻ đạo văn, có bằng đểu, lại còn nói ngọng. Kết quả nhãn tiền, thi gian – học dối, nó nở rộ ở khắp mọi nơi. “Phi công, bất phú – phi thương, bất hoạt”. Để mạnh giàu, thời nào cũng phải coi trọng Công thương. Biết thế, nên ông giao nó cho một cán bộ Đoàn, mà sở trường của y là chăng đèn, kết hoa và quét cống rãnh. Hệ quả, nghe chàng nói – nhìn chàng làm, dân chúng càng thêm tin yêu bọn… Tư bản.

Với cán bộ yếu kém, Gorbachev chọn cách thải hồi. Riêng Phú Trọng, ông biến chúng thành củi. Chính tay ông đã huấn luyện, nâng đỡ và đặt La Thăng ngồi trên cái núi vàng ở Sài gòn. Nhưng khi không lay chuyển được lòng trung thành của y với chủ cũ, ông trở mặt, đem những tội lỗi của y từ thuở “Naponeon còn cởi truồng” ra, để tống La Thăng vào lò. Hằng hà sa số những cán bộ khác, cũng thế, Tay này, ông bồi dưỡng và bổ nhiệm họ. Còn tay kia, ông bới lông – tìm vết, để kỉ luật họ. Sau đó, cười hềnh hệch và khoe thành tích chống tham nhũng với bàn dân thiên hạ. Khốn nạn ở chỗ, ông luôn coi mình, là kẻ vô can.

6- “Cùng trong một tiếng tơ đồng”. Nhưng ở Nga, Gorbachev đã hoàn thành việc giải thể cả Đảng Cộng sản lẫn Liên bang Xô viết và chứng kiến việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình. Riêng Phú Trọng, ông sẽ không có được cái cơ may đó. Ngày ra đi, cái mà ông để lại, chỉ là một đống đổ nát bừa bãi. Ước mơ Tự do và Dân chủ, đành gửi gắm vào những kẻ thay thế mình. Tiếc rằng, Trí của chúng, đều ngắn – Đức của chúng, đều mỏng. Bởi thế, giỏi lắm, chúng chỉ đóng vai trò trái độn như Hoa Quốc Phong ở Trung hoa. Có điều, sau Quốc Phong, đã có sẵn Tiểu Lọ. Còn Việt Nam, chẳng biết, ông có để lại cái túi gấm nào, hay không?

7- Này, ông Tổng!

Có đi có lại, mới toại lòng nhau”. Mọi lần khác, bỏ qua. Riêng lần này, lão viết ra bài điếu tân thời, để chiêu tuyết, để tế sống ông. “Sống khôn – thác thiêng”, hãy cười lên một tiếng. Sau đó, nhớ viết bài phản biện, để người trong thiên hạ, không ai phải lăn tăn về trình độ của một “nhà lí luận, có tầm tư tưởng” và cũng đừng hấp tấp, để làm những chuyện ngu ngốc, khiến người trong thiên hạ, ai ai cũng phải đàm tiếu: “Tưởng, sĩ phu Bắc hà. Ai ngờ, cũng chỉ là một thằng côn đồ nơi đất Bắc”.

Nguyễn Tiến Dân

Tel: 038 – 50 – 56 – 430

Địa chỉ: Vì tin vào cái lũ Cộng sản đê hèn, nên bị chúng lừa đảo và cướp sạch của cải. Bởi thế, mất nhà và trở thành dân du mục. Nay đây, mai đó, chưa có nơi ở cố định.

Gia tài của mẹ và chuyện chủ quyền biển đảo…

Gia tài của mẹ và chuyện chủ quyền biển đảo…

2-7-2022

Tình hình theo tôi là tuyên giáo “xử” vụ “gia tài của mẹ” như “đem con cá đi trấn nước”. Trấn cách mấy con cá cũng không thể chết ngộp. Vấn đề “hai mươi năm nội chiến từng ngày” là một sự thật lịch sử. Ngay cả khi lịch sử luôn được viết bởi phe thắng cuộc. Cây súng có thể giết người nhưng cây súng không thể giết chết sự thật.

 

Việc làm hồ đồ của tuyên giáo CSVN ảnh hưởng sâu sắc lên hồ sơ chủ quyền biển đảo của VN. Tuyên giáo càng lên gân VN càng tự bắn thêm vào chân mình. Nếu không thiết lập lại sự thật lịch sử VN có thể mất vĩnh viễn Hoàng Sa (HS) và Trường Sa (TS) cùng hàng triệu cây số vuông biển cho TQ.

Chiến tranh chống Pháp 1945-1954 là một cuộc “nội chiến”. VN gọi tên “chín năm kháng chiến chống Pháp” nhưng Luật quốc tế xếp loại các cuộc chiến “giải thực – décolonisation” thuộc thể loại “nội chiến”.

Chiến tranh 54-75 “chống Mỹ cứu nước”. Mỹ là “thực dân mới” và chính quyền VNCH là “chính quyền tay sai”. Thực dân là thực dân. Luật quốc tế không phân biệt cũ hay mới. Cuộc chiến này cũng là một cuộc nội chiến.

Răn đe người dân cách nào, phạt vạ hay cấm hát bài Gia tài của mẹ, tuyên giáo cũng không thể thay đổi thực chất “nội chiến” của hai cuộc chiến.

Luật quốc tế qui định từ “chiến tranh” chỉ dành cho “chiến tranh quốc tế”, tức xung đột vũ trang giữa “quốc gia với quốc gia”.

Luật lệ chiến tranh là luật hiện hữu từ thời thượng cổ. Chiến tranh có mục đích làm cho tất cả của cải, lãnh thổ… của một bên thành ra “vô chủ – res nullius”. Phe thắng trận có quyền chiếm hữu tất cả. (Phe thắng cuộc ở VN áp dụng tận tình luật này. Của cải của ngụy ta tịch thu, nhà của ngụy ta ở, vợ của ngụy ta lấy, con của ngụy ta bắt làm nô lệ còn ngụy ta bắt đi học tập cải tạo, đuổi đi kinh tế mới…)

Cả hai phe CSVN và VNCH (tức phe cộng sản và phe quốc gia) đều có chung quan điểm: chiến tranh VN (1954-1975) không phải là cuộc “nội chiến”.

Cả hai cùng tự bắn vào chân mình.

Lập trường của phe cộng sản đã nói rồi. Chính nghĩa của cuộc chiến (jus ad bellum) là mục tiêu “giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước”.

Còn phe quốc gia mỗi người mỗi ý.

Lập luận (áp đảo) của phe quốc gia hiện nay cho rằng VNDCCH và VNCH là “hai quốc gia độc lập có chủ quyền”. Vấn đề là lập luận của nhóm học giả này không thuyết phục. Họ không chứng minh được cuộc chiến 1954-1975 là “chiến tranh quốc tế, nước này xâm lược nước kia”.

Chiến tranh – War là một vấn đề quốc tế. Chiến tranh – War là quốc gia (state) này xâm lược quốc gia (state) kia.

So sánh với chiến tranh Nga xâm lược Ukraine. Chính nghĩa của phe Nga (jus ad bellum) trong cuộc chiến này là gì?

Trước khi phát động “chiến dịch quân sự đặc biệt” thì Putin tuyên bố nhìn nhận độc lập có chủ quyền của hai quốc gia tự phong Donetsk và Luhansk. Chính nghĩa của Nga khi phát động cuộc xâm lược là giúp hai quốc gia Donetsk và Luhansk “tự vệ” đồng thời bảo vệ những người nói tiếng Nga sinh sống ở hai cộng hòa tự phong này. Quyền “tự vệ” này “chính đáng” nếu (và chỉ nếu) hai cộng hòa Donetsh và Luhansk là hai quốc gia thực sự độc lập có chủ quyền. Đại đa số các quốc gia, ngay cả các quốc gia thân cận nhứt với Nga, không nước nào nhìn nhận thực tế này. Cuộc chiến của Nga vì vậy không có chính nghĩa. Nga bị cô lập trên trường quốc tế.

VNCH chưa bao giờ tuyên bố “quốc gia độc lập” như hai cộng hòa tự phong Luhansk và Donetsk. Lập luận “tự vệ đa phương” của VNCH rõ ràng thiếu thuyết phục.

Tương tự như Đài Loan – lục địa, Nam-Bắc Hàn. Hai miền Nam-Bắc VN chỉ là những “quốc gia bị phân chia – divided state”. Quốc gia bị phân chia là những “quốc gia chưa hoàn tất”. Tư cách pháp nhân của VNDCCH (và VNCH) trước luật quốc tế là không hoàn chỉnh.

Ông Ngô Đình Diệm là tổng thống VNCH duy nhứt được quốc tế tiếp đón như là một “nguyên thủ quốc gia”, với lễ nghi dành cho “quốc khách”. Dĩ nhiên lãnh thổ của quốc gia VNCH này bao gồm luôn miền Bắc.

Sau khi ông Diệm bị quân đảo chánh giết chết, các thủ lĩnh chính quyền quân sự hay dân sự sau này không ai được quốc tế tiếp đón với thủ tục dành cho nguyên thủ quốc gia. Ông Thiệu chưa bao giờ được Mỹ tiếp đón như là “quốc khách”, với tư cách nguyên thủ quốc gia. Ông Thiệu chỉ được Nixon tiếp đón ở trại David, như một “cá nhân đặc biệt”. Tư cách pháp nhân của VNCH trước trường quốc tế đã bị sụp đổ từ 1-11-1963.

Nhiều bài viết cố gắng chứng minh VNCH và VNDCCH là “hai quốc gia độc lập có chủ quyền”. Các học giả vịn đủ thứ luật lệ quốc tế, điển hình Công ước Motevideo về quốc gia.

Các học giả rành về luật quốc tế nhưng dường như đã bỏ sót nhiều điều cơ bản cấu thành luật quốc tế. Nếu Công ước Motevideo là “luật” thì Hiệp định Genève 1954 hay Hiệp đinh Paris 1973 về chiến tranh VN cũng là “luật”. Các học giả chỉ dựa vô công ước Motevideo mà không tính tới hai hiệp định Genève 1954 và Paris 1973. Theo nội dung hai hiệp định này thì quốc gia VN chỉ có một. Cả hai bên VNDCCH và VNCH từ 1954 luôn hành sử như là “Quốc gia duy nhất – Etat Unitaire”. Quốc tế, nước nào công nhận VNCH thì sẽ không công nhận VNDCCH và ngược lại.

Lập luận “hai quốc gia VN” của các học giả là có vấn đề.

Giả sử bây giờ “thượng đế” ban phép lạ cho phe quốc gia “xóa bài làm lại”. Theo tôi phe VNCH vẫn thua. Thua vì đến nay nhiều người (còn sót lại) vẫn không hiểu được thực chất của cuộc chiến 1954-1975 là gì?

Làm cách nào để chống lại chính nghĩa “thống nhất đất nước”? Càng dựa vô Mỹ càng đánh càng thua. Mỹ can thiệp vào VN là can thiệp vào chuyện nội bộ của một quốc gia. Càng đánh Mỹ càng bị quốc tế chống đối và VNCH càng bị cô lập.

Ngoại trừ việc tuyên bố VNCH độc lập và làm trưng cầu dân ý để sự tham dự của Mỹ vào cuộc chiến có tính chính đáng. Điều này hoặc ra ngoài kiến thức của phe VNCH hoặc đa số lãnh tụ chính trị VNCH là dân miền Bắc.

Khẳng định chiến tranh 1945-1954 và chiến tranh 1954-1975 là nội chiến VN có nhiều cái lợi. VN kế thừa di sản của Pháp về lãnh thổ HS và TS. Sau này VN kế thừa di sản VNCH về “danh nghĩa chủ quyền” tại HS.

Tư cách pháp nhân của VNDCCH không phải (hay chưa phải) là quốc gia. Vì vậy tuyên bố 1958 của Phạm Văn Đông không có hiệu lực ràng buộc trước pháp lý quốc tế.

Một bà ở Huế giả Việt kiều Mỹ lừa đảo triệu đô, lãnh 20 năm tù

Một bà ở Huế giả Việt kiều Mỹ lừa đảo triệu đô, lãnh 20 năm tù

April 27, 2022

Nguoi-viet

ĐÀ NẴNG, Việt Nam (NV) – Sau ba ngày xét xử sơ thẩm, hôm 27 Tháng Tư, Tòa Án Nhân Dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên bị cáo Đoàn Thị Vy, ở Thừa Thiên Huế, 20 năm tù; bị cáo Ngô Thị Cúc Hoa, ngụ quận Hải Châu, 14 năm tù, cùng về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản.”

Báo VNExpress dẫn cáo trạng cho biết đầu năm 2017, bà Vy vào thành phố Đà Nẵng trốn nợ thì gặp bà Hoa đang làm tạp vụ ở khách sạn nên rủ cùng nhau đi lừa đảo.

Bị cáo Đoàn Thị Vy (trái) và Ngô Thị Cúc Hoa tại tòa án. (Hình: Nguyễn Tú/Thanh Niên)

Qua thông tin biết được dự án khu thương mại dịch vụ Vina Universal Paradise Sơn Tịnh Quảng Ngãi của công ty Phim Trường Vina đầu tư, sắp bị thu hồi do thiếu vốn, chậm tiến độ và đang bị cơ quan hữu trách xem xét chấm dứt hoạt động. Thế là bà Vy cùng bà Hoa lập các công ty ghi danh vốn điều lệ lớn, cung cấp hồ sơ ma chứng minh năng lực tài chính để có được chủ trương của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Ngãi cho nhận chuyển nhượng cổ phần dự án.

Cụ thể, bà Vy lập công ty Cổ Phần Đầu Tư Xây Dựng Bất Động Sản Thành Đạt, có vốn điều lệ là 90 tỷ đồng ($3.91 triệu) và công ty Cổ Phần Đoàn House, vốn đầu tư chủ sở hữu 119 tỷ đồng ($4.74 triệu), đồng thời làm hối phiếu xác nhận nguồn tiền vay 100 triệu euro nhưng thực tế hai công ty không có tài sản. Bà Hoa sau đó được bổ nhiệm làm giám đốc công ty Thành Đạt.

Tháng Tám, 2018, bà Vy hẹn đại diện công ty Phim Trường Vina tại Sài Gòn để “ký hợp đồng mua lại dự án.” Nhằm tạo lòng tin với đối tác, bà Vy giới thiệu mình là Nguyễn Thị Trúc Phương, Việt kiều Mỹ về Việt Nam sinh sống và làm ăn.

Dù không có tiền trả cho các cổ đông của công ty Phim Trường Vina để được nhận chuyển nhượng dự án, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần chưa có hiệu lực, các lô đất thuộc dự án chưa được cho phép bán, nhưng bà Vy và bà Hoa đã liên hệ với bà Lê Thị Thủy, đại diện công ty Cổ Phần Đầu Tư và Phân Phối Bất Động Sản Lộc Sơn Hà Miền Trung, chào bán 182 lô đất của dự án khu thương mại dịch vụ Vina Universal Paradise với giá hơn 102 tỷ đồng ($4.4 triệu). Bà Vy cũng hứa cho công ty Lộc Sơn Hà làm đơn vị phân phối độc quyền.

Do nghĩ bà Vy là “Việt kiều Mỹ” làm ăn đàng hoàng, bà Thủy tin tưởng nên hôm 30 Tháng Tư, 2018, đã ký hợp đồng với công ty Thành Đạt, thanh toán gần 23 tỷ đồng ($1 triệu) và bị hai bà Vy, Hoa chiếm đoạt.

Phiên tòa xét xử vụ án Việt kiều “dỏm” lừa đảo chiếm đoạt tài sản. (Hình: Đ.C/Tuổi Trẻ)

Tháng Mười Một, 2018, khi công ty Lộc Sơn Hà nhận cọc bán đất ra thị trường thì bị công ty Phim Trường Vina tố cáo.

Trong khi đó bà Vy nói dối đi nước ngoài “chữa bệnh” nhưng bỏ trốn. Đến Tháng Chín, 2020, thì bị bắt theo lệnh truy nã về tội lừa đảo tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (Tr.N) 

Cục Nghệ Thuật Biểu diễn lên tiếng vụ Khánh Ly hát bài ‘Gia tài của Mẹ’ ở Đà Lạt

 

Cục Nghệ Thuật Biểu diễn lên tiếng vụ Khánh Ly hát bài ‘Gia tài của Mẹ’ ở Đà Lạt

Đại diện Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa- Thể thao- Du lịch Việt Nam, ông Trần Hướng Dương, vào ngày 30/6 lên tiếng về vụ việc ca sỹ hải ngoại Khánh Ly hát bài Gia tài Của Mẹ trong một chương trình tại Đà Lạt.

Truyền thông Nhà nước dẫn phát biểu của ông Trần Hướng Dương- Cục phó Cục Nghệ thuật Biểu diễn rằng, cơ quan của ông đã biết vụ việc và đang chờ Sở Văn hóa- Thể thao- Du lịch tỉnh Lâm Đồng xử lý. Sau đó Cục sẽ có biện pháp tiếp theo.

Bài hát Gia Tài Của Mẹ của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn được ca sỹ Khánh Ly hát trong đêm nhạc “Dấu chân địa đàng” tổ chức tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đêm 25/6.

Truyền thông Nhà nước đưa tin bài này không có trong danh sách 24 bài hát được ban tổ chức sự kiện đăng ký và được nhà chức trách địa phương đồng ý duyệt.

Ngay sau đêm diễn, Sở Văn hoá-Thể thao-Du lịch tỉnh Lâm Đồng đã phối hợp với cơ quan chức năng để làm việc với ban tổ chức đêm nhạc là Công ty TNHH Mây Lang Thang. Sở đã lập biên bản xử lý hành chính và đang cân nhắc mức xử phạt đối với doanh nghiệp này vì cho rằng việc công ty này tự ý để ca sỹ Khánh Ly biểu diễn bài hát trên là vi phạm quy định của pháp luật trong hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

Nhiều người cho rằng bài hát Gia Tài Của Mẹ, được Trịnh Công Sơn sáng tác vào năm 1965, còn bị cấm ở Việt Nam là trong bài hát có câu “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” ám chỉ thời gian 1945-1965. Trong thời gian này có cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kéo dài chín năm từ năm 1945 đến 1954.

Trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do, bác sỹ quân y Đinh Đức Long, từ thành phố Hồ Chí Minh nói:

“Theo tôi biết bài hát mà bà Khánh Ly hát mà bị người ta nhắc nhở không nằm trong chương trình. Nếu một bài hát không nằm trong chương trình mà ca sỹ cứ hát còn ban tổ chức cứ để việc đó xảy ra thì cả hai bên đều có sai phạm và việc xử lý là đúng pháp luật.”

Bác sỹ Long cũng cho rằng nội dung bài hát Gia Tài Của Mẹ xuyên tạc lịch sử dân tộc vì đánh đồng cuộc kháng chiến chống Pháp với nội chiến, và do vậy việc nhà chức trách Việt Nam cấm bài hát này là đúng.

Tuy nhiên, những người dân khác như ông Nguyễn Quang Vinh ở Hà Nội và Quang Hữu Minh ở thành phố Hồ Chí Minh lại có quan điểm khác. Cả hai ông cho rằng việc nhà chức trách Việt Nam cấm bài hát này là vi phạm quyền tự do ngôn luận và ảnh hưởng xấu đến hoà giải dân tộc.

Trong tin nhắn với RFA, ông Nguyễn Quang Vinh cho biết:

“Nghị định số 144/2020/NĐ-CP của Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ VH-TT&DL) được Chính phủ ban hành thay Nghị định 79 trước đây bỏ quy định cấp phép phổ biến ca khúc miền Nam trước 1975. Như vậy ca khúc “Gia tài của mẹ” của Trịnh Công Sơn nằm trong điều chỉnh của Nghị định này. Tôi không rõ lý do của việc ‘xử lý’ của Sở Văn hóa TT& DL tỉnh Lâm Đồng như thế nào, vì lý do gì nhưng việc ‘xử lý’ này là trái với Nghị định 144.”

Một nhà kinh tế ở tỉnh Nghệ An nói trong điều kiện ẩn danh vì lý do an ninh, rằng việc Lâm Đồng xử lý ban tổ chức đêm nhạc của Khánh Ly là: “một hành động dại dột và phản tác dụng vì trong thời đại thế giới thông tin phẳng, việc xử phạt càng gây ra sự tò mò cho dân chúng và kích thích sự phát tán. Nếu không xử phạt thì nhiều người không biết nhưng sau sự việc này thì rất nhiều trong số họ tìm hiểu về bài hát.”

Ông cũng cho rằng lý do việc xử phạt cũng là do sự máy móc và sợ trách nhiệm của viên chức nhà nước. Họ thường hành động theo văn bản chỉ đạo mà không hiểu hậu quả sẽ đến sau đó.

Ông nhấn mạnh mọi cấm đoán ở Việt Nam, trong đó có cấm nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật biểu hiện sự độc quyền chân lý của Đảng.

Ông nói thêm, Nhà nước Việt Nam hiện tại hay nói về chính sách hoà giải dân tộc, tuy nhiên, Chính phủ chỉ nói đầu môi để tuyên truyền chứ không có một kế hoạch hay chương trình cụ thể hoặc biện pháp thực hiện.

“Họ cứ nói hoà giải hoà hợp suông thế nhưng những gì không có lợi cho Đảng hay một phe nhóm nào đó trong đảng hoặc thậm chí cho chính những người thực hiện trực tiếp, thì họ không làm.”

Ông Quang Hữu Minh nói nhiều bài hát bị nhà chức trách Việt Nam cấm vì nội dung nói lên thực trạng của Việt Nam.

Gia Tài Của Mẹ là một trong ba bài hát của Trịnh Công Sơn hiện chưa được nhà chức trách Việt Nam cho phép biểu diễn ở Việt Nam. Hai bài kia là Bài Ca Dành Cho Những Xác Người và Hát Cho Người Nằm Xuống.

Có hơn 50 ngàn lượt tìm kiếm từ khóa “Gia tài của mẹ” trên công cụ tìm kiếm Google chỉ trong ngày 29/6, sau khi có thông tin người tổ chức đêm diễn của ca sĩ Khánh Ly bị mời lên làm việc vì bà hát ca khúc chưa được cấp phép của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Hồi năm 2020, chính quyền bỏ quy định cấp phép phổ biến ca khúc trước năm 1975, thay vào đó, Nhà nước sẽ quản lý tác phẩm bằng cách hậu kiểm.

https://www.rfa.org/…/performing-arts-department-on-the…

Ai bảo dân VN không có óc sáng tạo

Ai bảo dân VN không có óc sáng tạo…

Sẵn dịp đang có vụ ăn tô phở gà bị tính 300.000 đ, khách phản đối thì chủ quán nói ăn sao không hỏi giá trước, để tôi kể bạn nghe chuyện này, thật 100%, đọc thôi bỏ qua, đừng kể ai nghe nhé!

Có anh bạn người Miền Nam ra Bắc công tác, vào ăn phở, bị tính 80.000 đ, trong khi mọi người xung quanh chỉ trả 40.000 đ, anh hỏi tại sao thì được trả lời: giá nó thế ai bảo anh không hỏi trước!

Anh cay lắm nhưng rút kinh nghiệm, mai đi chùa, ghé vào mua dừa uống. Lần này anh kinh nghiệm hỏi kỹ : bao tiền một trái! 20.000 nghìn! Ok cho hai quả!

Chút tính tiền, hai quả 100.000đ! Anh nói tôi hỏi rõ là 20.000 một quả mà! Đúng, quả này 20.000đ còn quả kia 80.000đ, 2 quả 100.000đ giờ có trả không hay ăn dao chặt dừa?

Anh trả tiền xong cay lắm! Mai ghé ăn ốc ghẹ ở quán lề đường! Anh gọi hai ba đĩa, bày lên mâm hỏi rất rõ: tất cả mâm này bao nhiêu tiền? Chủ quán nói 150 nghìn! Anh đắc chí ngồi ăn!

Ăn xong tính tiền, cho xin 300.000 ạ, đồ ăn 150.000 đ, chỗ ngồi 150.000 đ ai bảo không hỏi trước!

Anh ấy bỏ dở công tác bỏ về nhà luôn!

Vậy đó, một dân tộc chả lo để đầu óc suy nghĩ làm ra của cải vật chất, chỉ toàn nghĩ cách đẽo tiền của nhau thôi thì bao giờ mới khá được!

Từ fb Dennie Lam

Việc ướp xác Hồ Chí Minh – Tác Giả: Trần Gia Phụng

Nhật Duy is with Ulitmate Quạt  

Việc ướp xác Hồ Chí Minh

Tác Giả: Trần Gia Phụng

Lăng HCM, một công trình gây tranh cãi.

Tuần qua, nhà nước cộng sản Việt Nam quyết định thành lập một hội đồng khoa học gồm người Việt và người Nga để kiểm tra, đánh giá trạng thái thi thể Hồ Chí Minh (HCM) đặt trong lăng mộ ở Hà Nội. (BBC News – Tiếng Việt, ngày 20-6-2019.) Nhân đây, xin trình bày lại diễn tiến việc ướp xác HCM.

Hồ Chí Minh chết ngày 2-9-1969. Ngày 2-9 là quốc khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam trước 1975, nên Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) đã đổi ngày chết của HCM là 3-9-1969.

Hồ Chí Minh để lại 3 di chúc khác nhau. Di chúc đầu tiên do HCM đánh máy và ký tên ngày 15-5-1965, có chữ ký “chứng kiến” của Lê Duẩn, trong đó HCM viết: “Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến…Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây 1 cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi…” (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc chủ tịch Hồ Chí Minh, TpHCM: Nxb Thanh Niên, 2000, tt. 13-16, 26-29.)

Trong bản di chúc viết sau đó vào năm 1968, HCM sửa đổi đôi chút về việc chôn tro cốt, theo đó “…Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là hỏa táng… Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.” (Hồ Chí Minh, sđd. tt. 13-16, 26-29.)

Di chúc thứ ba của HCM đề ngày 10-5-1969 bị Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao Động, ra lệnh “cắt bỏ, sửa chửa vài chỗ” rồi cũng do Lê Duẩn công bố trong ngày lễ tang HCM là ngày 9-9-1969. (Hồ Chí Minh, sđd. tt. 13-16, 26-29.) Bản di chúc sửa đổi nầy của HCM hoàn toàn không đề cập đến việc chôn cất HCM.

Giữa hai thời điểm HCM viết các bản di chúc (1965-1968), vào tháng 8-1967, Viện lăng Lenin (Liên Xô) được thông báo cho biết tình hình sức khỏe HCM càng ngày càng suy yếu, và nhận được chỉ thị đặc biệt từ Bộ chính trị đảng Cộng Sản Liên Xô ra lệnh chuẩn bị ướp xác HCM.

Ngày 14-9-1967, một phái bộ đặc biệt gồm ba bác sĩ Việt Nam đến Moscow. Đó là các ông Nguyễn Gia Quyền, Chủ nhiệm Khoa Giải phẩu Quân y viện 108; Lê Ngọc Mẫn, Chủ nhiệm Khoa Nội tiết Bệnh viện Bạch Mai; Lê Điều, Chủ nhiệm Khoa Ngoại bệnh viện Việt Xô. Các bác sĩ nầy ở lại Moscow 7 tháng để học tập cách ướp và bảo vệ xác trong giai đoạn đầu từ 15 đến 20 ngày.

Giai đoạn kế tiếp là phần việc sẽ do các chuyên gia Liên Xô đảm trách. Tổ ướp xác Việt Nam chính thức được thành lập vào tháng 6-1968 do bác sĩ Nguyễn Gia Quyền đứng đầu. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000. Báo Á Châu, Paris, số 43, tháng 3-2000, tt. 9-10, trích thuật lại)

Như thế, việc ướp xác HCM đã được Bộ chính trị đảng Lao Động đặt ra ngay khi HCM còn sống vào năm 1967. Khi đó HCM còn sáng suốt, làm bài thơ chúc Tết năm 1968, và đảng Lao Động đã dùng bài thơ nầy làm lệnh cho bộ đội CS tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) ở Nam Việt Nam, do chính HCM đọctrên làn sóng đài phát thanh Hà Nội. Chắc chắn HCM phải biết quyết định ướp xác của Bộ chính trị đảng Lao Động, nhưng HCM không tỏ một dấu hiệu nào ngăn cản. Bài thơ chúc Tết năm 1968 như sau:

Hồ Chí Minh làm thinh, tránh có ý kiến về việc ướp xác, có nghĩa là HCM đồng ý với quyết định của Bộ chính trị đảng Lao Động. Hồ Chí Minh hành xử rất khôn khéo, vì không lẽ HCM tự nói ra rằng hãy ướp xác mình sau khi chết. Hồ Chí Minh để cho các thuộc hạ tiến hành quyết định của họ, rất hạp với ý thích sùng bái cá nhân của HCM.

Dầu biết rõ sẽ được ướp xác, nhưng trong di chúc viết năm 1968, HCM lại viết rằng: “…Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”… Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam…” Hồ Chí Minh không nghĩ đến việc đi thăm cha mẹ, ông bà sau khi chết, mà HCM lại lo đi thăm người nước ngoài chưa một lần gặp mặt. Trung thành với các lãnh tụ CS quốc tế đến thế là cùng. Lời di chúc nầy một lần nữa cho thấy suốt đời, cho đến khi gần chết, HCM luôn luôn thiếu thành thật, không thẳng thắn trong lời nói và việc làm, nếu không muốn nói là HCM luôn luôn đạo đức giả.

Gần ba tháng sau khi HCM chết, trong cuộc họp ngày 29-11-1969, Bộ chính trị đảng Lao Động chính thức ra quyết định ướp xác HCM và xây dựng một lăng mộ phản ảnh những nét hiện đại, nhưng vẫn giữ đuợc đặc tính dân tộc cổ truyền. (William J. Duiker, Ho Chi Minh, Nxb. Hyperion, New York, 2000. tr. 565, và phần chú thích số 3 tr. 669.) Nếu để đến ba tháng mới ướp xác, thì cái xác HCM đã bị ung thối, nên chắc chắn việc ướp xác đã được Bộ chính trị đảng Lao Động cho thi hành ngay sau khi HCM chết.

Theo tiết lộ từ các chuyên viên Viện lăng Lenin, ngày 28-8-1969, đoàn chuyên viên y khoa Liên Xô gồm 5 thành viên của Viện lăng Lenin là các giáo sư Debov (trưởng đoàn), Polukhin. Michaelov, Kharascov và Saterov đến Hà Nội.

Ngày 2-9, lúc 11 giờ các giáo sư nầy đến Quân y viện 108 khám nghiệm xác HCM vừa được đưa đến đặt ở đây, với sự có mặt của Nguyễn Lương Bằng, Lê Quang Đạo, Phùng Thế Tài. Hai bác sĩ Polukhin và Mikhaelov bắt đầu mổ xác HCM với sự phụ tá của hai bác sĩ Việt Nam. Sau ba ngày theo dõi, người ta di chuyển xác HCM đến Hội trường Ba Đình tối 5-9-1969. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000.)

Lúc đầu, các chuyên gia Liên Xô muốn đưa xác HCM về Moscow ướp, vì theo họ việc nầy không thể thực hiện được ở Hà Nội do điều kiện kỹ thuật ở đây không đầy đủ. Giáo sư trưởng đoàn Debov đã báo cho Lê Duẩn biết ý kiến nầy, nhưng Lê Duẩn sợ Liên Xô đem xác HCM về Liên Xô làm con tin, nên phản đối.

Lúc đó, thủ tướng Liên Xô là Alexei Kosygin, đang qua Hà Nội viếng tang HCM, yêu cầu toán chuyên gia tìm cách ướp xác HCM tại Hà Nội, và chính phủ Liên Xô sẽ cung cấp đầy đủ tiện nghi để làm việc. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000.) Chiến tranh càng ngày càng ác liệt. Hà Nội bị máy bay Hoa Kỳ oanh tạc, nên xác HCM cũng như toán chuyên gia Liên Xô phải sơ tán lên một hang động rộng rãi bên bờ sông Đà.

Cuối cùng, sau 8 tháng ướp xác với những điều kiện khí hậu nhiệt đới và phải di chuyển vì sơ tán, các chuyên gia Liên Xô tin rằng xác HCM có thể duy trì được trong thời gian dài. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ ngưng hẳn cuộc oanh tạc Bắc Việt Nam, xác của HCM mới được đưa về Hà Nội năm 1975. (Tuần báo Phụ Nữ, Hà Nội, 6-1-2000.)

Khi Bộ chính trị đảng Lao Động lúc đó quyết định xây lăng mộ và ướp xác HCM, có hai câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng họ làm thế vì kính trọng HCM? Và tại sao CS duy vật lại xây lăng như kiểu các vua chúa ngày xưa?

Thứ nhứt, HCM là lãnh tụ tối cao của đảng Lao Động. Bề ngoài HCM luôn luôn được các thuộc hạ tôn kính, nhưng thực tế bên trong đảng Lao Động, các thuộc hạ của HCM nhiều lần chứng tỏ thiếu kính trọng HCM trong những năm cuối đời.

Ví dụ cụ thể là vụ bà Xuân, vợ HCM bị Trần Quốc Hoàn hiếp dâm rồi giết. Theo một tài liệu tiết lộ sau năm 1975, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn lại còn âm mưu sát hại HCM vào năm 1967. Tài liệu nầy cho biết người phi công tên là Thắng, lái chuyến bay đưa HCM từ Bắc Kinh trở về đến Hà Nội ngày 23-12-1967, khi đáp xuống phi trường thì “… thấy đèn hiệu đường băng chệch 150 không hạ cánh được, đã điện hỏi nhiều lần nhưng không trả lời. Anh bèn hạ cánh theo trí nhớ. May mà an toàn.” (VietBao Online, California, số 2359.) Sau đó, khi HCM chết năm 1969, các thuộc hạ của HCM chẳng kính trọng di chúc của HCM và làm trái với những điều HCM đã dặn.

Thứ hai, CS chủ trương duy vật vô thần, chống lại các tín ngưỡng, tiêu diệt các tôn giáo, triệt hạ các đền đài, chùa chiền và nhà thờ, tại sao lại đi ngược di chúc HCM, xây lăng, ướp xác HCM để người dân chiêm bái?

Trước khi chết, HCM viết trong di chúc: “…Vì vậy tôi để sẵn mấy lời nầy, fòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin và các vị c. m. đàn anh khác…” (Ban nghiên cứu lịch sử đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, Hà Nội: Nxb Sự Thật, 1975, tr.71.)

Điều nầy có nghĩa là trước khi chết, HCM tin rằng linh hồn con người còn hiện hữu sau khi qua đời, và cũng có nghĩa là HCM đã phản bác lại chủ nghĩa duy vật, quay về với tín ngưỡng linh hồn cổ xưa của con người và của dân tộc.

Về phía bộ chính trị đảng Lao Động, chắc chắn không phải vì tin vào sự hiện hữu của linh hồn, mà bộ chính trị đảng Lao Động, quyết định xây lăng mộ cho HCM. Để bào chữa cho việc sửa đổi di chúc HCM của ban lãnh đạo đảng Lao Động năm 1969, không hỏa táng mà lại ướp xác HCM, thông báo của ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1989 (20 năm sau) viết như sau: “Sở dĩ trước đây chưa công bố đoạn Bác viết về yêu cầu hỏa táng là vì thể theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) thấy cần thiết phải giữ gìn lâu dài thi hài của Bác để sau nầy đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện tới viếng Bác, thể hiện tình cảm sâu đậm với Bác. Chính vì lẽ đó mà chúng ta đã xin phép Bác về điểm này được làm khác lời Bác dặn.” (Hồ Chí Minh, Toàn văn di chúc…, sđd. tr. 8.)

Hồ Chí Minh đã chết thì làm sao còn xin phép được nữa? Đó chỉ là cách ngụy biện để che đậy những ý đồ riêng tư của đảng Lao Động mà thôi. Chẳng cần tìm hiểu ý đồ xây lăng mộ cho HCM là ý đồ gì, nhưng chắc chắn việc ướp xác rồi bảo trì xác ướp HCM trong 50 năm qua rất khó khăn và rất tốn kém. Riêng ngân sách vận hành lăng mộ HCM năm 2016 ngốn hết 318,730 tỷ đồng Việt Nam, tương đương với ngân sách một bộ trong chính phủ trung ương. (Báo điện tử Tiếng Dân, ngày 22-6-2019.) Đó là tiền thuế của dân chứ của ai vào đây?

Đảng Lao Động đổi tên thành đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1976, muốn giữ gìn xây lăng để “để sau nầy đồng bào cả nước, nhất là đồng bào miền Nam, bè bạn quốc tế có điều kiện tới viếng”. Tuy nhiên ngày nay, những khách quý biết tự trọng như tổng thống Pháp, tổng thống Hoa Kỳ, khi đến thăm Việt Nam, có ai đến thăm lăng HCM đâu? Còn thường dân Việt Nam thì ít thăm quá, đảng CS phải ra lệnh tổ chức phát bánh mì cho trẻ con đến thăm lăng HCM, mới có khách vãng lai.

Rồi một ngày kia, khi bão nổi lên rồi, thì không biết số phận cái xác của tên tội đồ bán nước sẽ như thế nào?

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 23-6-2019)

Thói kiêu ngạo và bảo thủ

Thói kiêu ngạo và bảo thủ

29/06/2022

Thái Hạo

Thế giới vận hành tất yếu theo bản chất và quy luật khách quan. Phương Tây hiểu được điều ấy, vì thế họ mới ban bố và bảo vệ Quyền con người. Trong các quyền ấy, có quyền tư hữu mà Hồ Chí Minh dẫn lại trong Tuyên ngôn độc lập, gọi là “quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Trước đây, vì duy ý chí, kiểu như “tư bản mới lạm phát, CNXH không bao giờ lạm phát”, nên mới hùng hổ rằng “không có tiền thì in ra, in ra”; cũng vì duy ý chí mà người ta lùa tất cả vào hợp tác xã, sống theo cơ chế bao cấp. Suýt chết sạch, nếu năm 1986 không kịp sửa.

Từ chỗ đang tư hữu (nửa vời), cải cách ruộng đất đã chuyển hẳn sang công hữu. Tất cả mất sạch ruộng đất, trở thành những người làm thuê trên chính mảnh đất của mình. Ngạo nghễ được 30 năm, đến nửa sau thập niên 80 mọi thứ mục nát hết. Thế là người ta vội vàng sửa lại cho gần với quy luật hơn. Nhưng lại là vẫn sửa nửa vời. Đến bây giờ đất đai vẫn là “sở hữu toàn dân”. Tức người dân không có quyền tư hữu.

Cái sự chống lại quy luật này đã không chỉ gây đau khổ cho hàng triệu con người suốt mấy chục năm trước Đổi mới, mà còn tiếp tục kéo dài đến bây giờ với bao nhiêu ngang trái, bất hạnh, bất công. Không những thế, chống lại quy luật tư hữu còn kéo ghì nền kinh tế xuống, khiến đất nước không ngóc đầu lên được.

Cái việc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” ở ta thật kỳ khôi. Đầu tiên là đánh địa chủ, đánh tư bản cho tan hoang nát nhừ, sau đó thì từng bước cho “tư nhân làm giàu”, bây giờ thì vinh danh doanh nhân! Người ta không nhận ra rằng mình đã sai để mà “rộp” một cái thay đổi luôn toàn bộ, mà cứ từng bước, từng bước… trở lại cái ban đầu. Mà mỗi cái “từng bước” ấy phải mất hàng chục năm. Không vội. Cứ nghèo, cứ khổ, cứ đau thương cái đã. Đau thương mãi cho đến nay thì có ngày “Doanh nhân Việt Nam”, ghê chưa!

Đất đai và nông dân thì không có được cái may mắn ấy, đến bây giờ vẫn là “quyền sử dụng không phải quyền sở hữu”.

Đã biết, đã thấy việc chống lại quy luật là chết, thế mà vẫn cứ rù rì, ê a mãi. Phải nói thẳng ra rằng, tư hữu về đất đai là tất yếu, không thể cưỡng lại được; vậy thì thay vì đến năm 2050 hay 2090 mới làm việc ấy để kéo dài thêm 30 năm – 70 năm oan trái, nghèo khổ, tang thương, thì tại sao không làm luôn?

Những bài học còn đó, nó phơi trắng ra rồi. Nhưng cái gì làm những người cộng sản không chịu thay đổi? Tôi nghĩ không phải chỉ là vấn đề lợi ích nhóm, nó còn thuộc về thói ngạo nghễ. Không chịu thừa nhận, và làm lại, dù có tự thấy đã sai đến mười mươi.

Trong đại dịch, bao nhiêu tiếng nói đã cất lên, thống thiết, rằng không thể lùa dân cách ly kiểu ấy; không thể ngoáy mũi đại trà; không thể phong tỏa đến tê liệt…; nhưng không, họ vẫn cứ làm. Đến khi người chết, kinh tế kiệt quệ, không thể nào duy ý chí được nữa thì họ mới buộc phải thả ra. Hình như họ không biết học hỏi, không biết lắng nghe; chỉ có mấp mé bờ vực của cái chết, bó tay rồi họ mới chịu nhượng bộ. Y như thời 86, không khác.

Việc chống tham nhũng cũng thế. Rõ ràng, càng chống mạnh càng sinh ra lắm, càng chống càng nở rộ, nhưng họ không chịu nhìn vào cái gốc của vấn đề, là cơ chế. Mà vẫn vừa trồng cây (củi), vừa đốt lò, rồi tự hào ca ngợi chính mình.

Giáo dục cũng thế, đáng ra cứ như các nước tiên tiến mà làm; nhưng không, vẫn một mình một ngựa, cục cựa, hí hoáy, mãi rồi be bét hết cả. Nhưng giáo dục là thứ mơ hồ, nó không làm chết người hay đói bụng tức thì như y tế và kinh tế, nên họ vẫn kiên trì, kiên gan, kiên quyết “đổi mới”. Đổi mới mãi, sau mấy chục năm thì thành một cái nồi lẩu thập cẩm, bền bệt, ghê ghê.

Thói bảo thủ, kiêu ngạo và không bao giờ nhận sai của họ do đâu sinh ra? Thật khó trả lời, chỉ biết rằng những thứ ấy không bao giờ có trong những đầu óc sáng láng trí tuệ. Dốt thì sinh tàn tệ.

T.H.

Nguồn: FB Thái Hạo

CÔNG AN XHCN VN VỚI CÁT TẶC DÙNG MỘT BĂNG ĐẢNG

Van Pham

CÔNG AN XHCN VN VỚI CÁT TẶC DÙNG MỘT BĂNG ĐẢNG

Bị phạt 10 năm tù vì bắt người hút trộm cát trên sông sau khi gọi công an không đến

Bị phạt 10 năm tù vì bắt người hút trộm cát trên sông sau khi gọi công an không đến

HÌNH; – Nhóm Cường- Nguồn hình Danh Lam, Vnexpress

Tin Vietnam. – Báo Vnexpress ngày 28 tháng 6 năm 2022 loan tin, sau khi bắt trói nhóm người dùng thuyền hút cát trộm cạnh đất nhà mình, Nguyễn Văn Cường, 40 tuổi bị Toà án huyện Sóc Sơn, Hà Nội tuyên phạt 30 tháng tù giam về tội Bắt giữ người trái pháp luật, và 7 năm 6 tháng tù về tội Cướp tài sản. Cùng bị phạt chung tội danh với Cường là 3 người gồm, Nguyễn Anh Tuấn, 21 tuổi bị phạt 7 năm tù; Dương Văn Quý, 28 tuổi, và Dương Văn Cương, 28 tuổi đều bị phạt 9 năm tù giam.

Theo cáo trạng, khoảng 12 giờ 22 phút khuya 11 tháng 7 năm 2018, ông Đào Công Thành, 56 tuổi, cùng 4 người đi trên 2 thuyền đến gần đất của nhà ông Cường để hút cát trộm trên sông. Sau khi phát hiện sự việc, ông Cường gọi điện báo công an nhưng không ai đến nên Cường rủ thêm Tuấn Anh, Quý và Cương đi đuổi nhóm ông Thành. Sau khi dùng thuyền áp sát được thuyền của nhóm ông Thành, thì nhóm ông Cường hô lớn, rồi cầm tuýp sắt nhảy lên thuyền ông Thành khiến ông và bà Nguyễn Thị Anh hoảng sợ bỏ trốn vào trong khoang, 3 người khác nhảy xuống sông bỏ chạy.

Cáo trạng cáo buộc nhóm ông Cường đã đánh và trói ông Thành, rồi thu giữ 2 chiếc điện thoại, sau đó đưa ông Thành và bà Anh về nhà để viết tường trình. Khoảng 30 phút sau, công an Sóc Sơn có mặt nhà ông Cường để giải cứu ông Thành.

Theo cáo trạng, ông Cường bị một người trong nhóm hút cát trộm chém vào cánh tay, gây thương tích 8%. Nhưng đến nay, công an chưa tìm ra được ai trong nhóm ông Thành đã chém ông Cường nên không được tính trong vụ án này.

Tại toà, nhóm ông Cường đã phản đối tội danh trên, và khẳng định không có ý định bắt trói ai, nhưng khi nhắc nhở thì bị nhóm ông Thành cầm dao lao đến chém nên mới bắt người, và việc giữ điện thoại chỉ để ngăn không cho nhóm ông Thành gọi thêm người đến để tránh đánh nhau lớn.

Vụ án Tịnh thất Bồng Lai: Rốt cuộc họ phạm tội gì?

Vụ án Tịnh thất Bồng Lai: Rốt cuộc họ phạm tội gì?

Các cáo buộc đối với Tịnh thất Bồng Lai cho đến nay chỉ là những quy chụp chắp vá.

Luat-Khoa

 22/06/2022

By  VĂN TÂM

Năm trong sáu thành viên Tịnh thất Bồng Lai đang bị khởi tố theo Điều 331, Bộ luật Hình sự. Ảnh: Tịnh thất Bồng Lai. Minh họa: Luật Khoa.

Ngày 12/5/2022, sau khi Công an tỉnh Long An bắt tạm giam bà Cao Thị Cúc trong vụ án Tịnh thất Bồng Lai, Lê Thanh Nhị Nguyên đã lên tiếng trong một video trên Youtube: [1]

“Ngày hôm nay, công an đã tới đây nói khởi tố và bắt tạm giam cô Cúc… Không biết cô Cúc đã làm gì mà bị khởi tố nữa… thì công an mới đưa cái này là thông báo kết luận giám định… Nói rằng cô Cúc có mấy câu nói [trong clip] mà đã phạm vô Điều 331.”

15 ngày sau đó, Nhị Nguyên bị bắt tạm giam, trở thành người thứ sáu bị khởi tố theo Điều 331 Bộ luật Hình sự, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, với án phạt có thể lên đến 7 năm tù giam. [2]

Điều 331 là một điều luật đặc biệt nguy hiểm. Nó cho phép chính quyền kết tội bất kỳ ai bị cho là đã “lợi dụng các quyền tự do” – hay nói cách khác là đã sử dụng các quyền tự do vượt quá mức độ mà chính quyền có thể chấp nhận được.

Bất cứ ai đều có thể bị tống vào tù theo Điều 331. Năm nhà báo thuộc nhóm Báo Sạch bị kết án tù vì chỉ trích các quan chức địa phương. Doanh nhân Phương Hằng đang bị khởi tố sau các video bị cho là xúc phạm các cá nhân. Hay ông chủ một cửa hàng sim số ở TP. Cần Thơ bị phạt 1,5 năm tù giam sau khi bị chính quyền truy tố về hàng loạt hành vi của ông trên Facebook, trong đó có bình luận về vụ việc Đồng Tâm, đăng ảnh một chiếc quần lót cùng với ảnh cổng chào năm mới của TP. Cần Thơ. [3]

Và giờ đây là sáu thành viên của Tịnh thất Bồng Lai, những người không hiểu vì sao họ lại bị chính quyền khởi tố. Tuy nhiên, chính quyền thì lại hiểu rất rõ vì sao chuỗi ồn ào ở Tịnh thất Bồng Lai phải chấm dứt bằng những bản án tù.

Tịnh thất Bồng Lai đã làm gì?

Sau khi bà Cao Thị Cúc đưa Lê Thanh Huyền Trân, một cô bé mồ côi, tu theo đạo Phật, tham gia Giọng hát Việt nhí năm 2014, [4] Tịnh thất Bồng Lai bắt đầu được hình thành với nhiều trẻ em được cơ sở này cưu mang. [5]

Năm 2017, Tịnh thất Bồng Lai bắt đầu nổi tiếng khi Lê Thanh Nhất Nguyên và Lê Thanh Hoàn Nguyên cất giọng hát trong chương trình Tuyệt Đỉnh Song Ca. Lúc này, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Long An đã lên tiếng đòi chính quyền xử lý Tịnh thất Bồng Lai vì cho rằng những người ở đây “giả dạng nhà tu”, cơ sở này không trực thuộc giáo hội, gây ảnh hưởng đến uy tín Phật giáo. [6]

Năm trong sáu thành viên Tịnh thất Bồng Lai đang bị khởi tố theo Điều 331 Bộ luật Hình sự. Ảnh: Tịnh thất Bồng Lai.

Năm 2019, Tịnh thất Bồng Lai càng nổi tiếng hơn khi có năm em bé đoạt giải thưởng cao nhất trong chương trình truyền hình Thách thức Danh hài. [7]

Danh tiếng luôn đi kèm với rắc rối. Năm 2019, các thành viên ở Tịnh thất Bồng Lai đã đăng tải clip tranh cãi với công an tại trụ sở Công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An khi truy tìm một cô gái có tên “Diễm My”. Cô này đã bỏ nhà ra đi và từng ở Tịnh thất Bồng Lai. [8]

Đến tháng 6/2020, Diễm My lại trốn khỏi nhà của ba mẹ mình. [9] Cuộc truy tìm lại nổi lên trên mạng xã hội, trở thành một trào lưu đùa cợt liên quan đến Diễm My và Tịnh thất Bồng Lai. Sự việc ồn ào này dấy lên nghi ngờ rằng nơi này dùng trẻ em và tôn giáo để trục lợi. [10]

Tháng 11/2021, Ban Tôn giáo Chính phủ và chính quyền tỉnh Long An cho biết sẽ xử lý Tịnh thất Bồng Lai. [11]

Ban Tôn giáo Chính phủ khẳng định Tịnh thất Bồng Lai có dấu hiệu “lợi dụng tôn giáo để trục lợi” trong một buổi họp báo vào tháng 11/2021. Tuy nhiên, đây không phải là một tội danh trong Bộ luật Hình sự. Ảnh: Chụp màn hình.

Lúc này, Tịnh thất Bồng Lai đã cực kỳ nổi tiếng. Kênh Youtube “5 Chú Tiểu – Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ” với khoảng 800 triệu lượt xem, ngoài ra họ còn có hàng loạt các kênh khác trên mạng xã hội. [12] Các thành viên nơi đây đặc biệt nổi tiếng nhờ giọng hát, khả năng diễn xuất trong các video trên mạng xã hội.

Đến đầu tháng 1/2022, chính quyền khởi tố vụ án và bắt giữ bốn thành viên ở Tịnh thất Bồng Lai, trong đó có ông Lê Tùng Vân, 90 tuổi. Báo chí lập tức đưa tin cơ sở này bị công an khởi tố vì tội loạn luân, lừa đảo. [13] Tuy nhiên, đến nay vụ án này chỉ bị khởi tố theo Điều 331, nghĩa là không phải loạn luân, cũng không phải lừa đảo. Việc đưa tin sai lệch khi đó đã khiến công chúng phẫn nộ đối với Tịnh thất Bồng Lai. Giờ đây, dư luận nên bắt đầu hoài nghi về tính chính đáng của việc khởi tố vụ án này.

Những cáo buộc chắp vá

Dựa trên thông tin từ báo chí nhà nước, có thể thấy các cáo buộc đối với Tịnh thất Bồng Lai cho đến nay chỉ là những quy chụp một cách chắp vá, đầy miễn cưỡng.

Đầu tháng 6/2022, báo Công an TP. Hồ Chí Minh đăng bài viết “Sự thật kinh hoàng ở ‘Tịnh thất Bồng Lai – Thiền am bên bờ vũ trụ’” để tóm tắt kết luận điều tra vụ án. Tuy nhiên, nội dung bài viết không có gì là kinh hoàng. [14]

Bài viết dẫn ra ba cáo buộc chính trong vụ án. Thứ nhất, các thành viên tịnh thất đã gây rối, quay phim, đăng tải clip tại trụ sở Công an huyện Đức Hòa vào năm 2019 với nội dung xúc phạm cơ quan công an.

Thứ nhì, họ đã tham gia chương trình truyền hình, làm các video “mạo danh Phật giáo”, có nội dung xuyên tạc, xúc phạm tổ chức, cơ quan, cá nhân, có tính kích động nhằm kiếm tiền từ Youtube, thu hút từ thiện.

Thứ ba, có bốn cá nhân tố cáo tịnh thất, trong đó có hai chức sắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thượng tọa Thích Nhật Từ và Trưởng ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An Thích Minh Thiện. Hai vị này tố cáo Tịnh thất Bồng Lai xúc phạm họ, xúc phạm Phật giáo. Hai người tố cáo còn lại cho rằng nơi này gây mất an ninh trật tự, xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.

Ba cáo buộc trên hoàn toàn có thể xử lý theo một chiều hướng khác hợp lý hơn, tôn trọng quyền tự do của các bên. Ví dụ như việc tại trụ sở Công an huyện Đức Hòa có thể xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây rối trật tự nơi công cộng. Các tố cáo của các cá nhân đối với Tịnh Thất Bồng Lai có thể giải quyết ở tòa dân sự. Nhưng vì sao chính quyền chọn cách gộp chung để khởi tố theo Điều 331?

Chính quyền được gì?

Việt Nam là một trong những nước có tình hình tự do tôn giáo tồi tệ trên thế giới. Sau năm 1975, một số tôn giáo đã bị cấm hoạt động hoàn toàn. Ngày nay, chính quyền kiểm soát vô cùng chặt chẽ các hoạt động tôn giáo.

Năm 2004 và 2005, chính phủ Mỹ đã đưa Việt Nam vào danh sách “các quốc gia cần quan tâm đặc biệt” về tự do tôn giáo. Sau đó, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, thuộc Quốc hội Mỹ, liên tục đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách này. [15]

Báo cáo năm 2021 của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ khẳng định chính quyền Việt Nam tiếp tục cầm tù các thành viên của các nhóm tôn giáo độc lập không đăng ký, tín đồ và các nhà vận động cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam. Ảnh: USCIRF.

Năm 2014, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về tự do tôn giáo, tín ngưỡng Heiner Bielefeldt đã báo cáo sau chuyến làm việc tại Việt Nam: “Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng [tôn giáo, tín ngưỡng độc lập, không được công nhận ở Việt Nam] bị vi phạm rõ ràng với sự giám sát, đe dọa, sách nhiễu và đàn áp liên tục”. [16]

Báo cáo viên Đặc biệt Heiner Bielefeldt làm việc với Ban Tôn giáo Chính phủ trong chuyến làm việc chính thức tại Việt Nam vào năm 2014. Ảnh: Báo Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 2015, hơn 35 tổ chức xã hội dân sự ở Đông Nam Á đã kêu gọi Việt Nam phải sửa đổi dự thảo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo khi dự thảo này đặt ra những quy định trái với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế về tự do tôn giáo. [17] Một năm sau, dự thảo trở thành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo mà không có sửa đổi nào đáng kể.

Đối với Phật giáo, chính quyền Việt Nam chỉ công nhận duy nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các tổ chức Phật giáo khác đều bất hợp pháp, kể cả Làng Mai của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Các pháp môn, cơ sở Phật giáo muốn hoạt động công khai đều phải gia nhập giáo hội này. Đây là khuôn khổ mà chính quyền cố gắng duy trì, nhưng Tịnh thất Bồng Lai đạp đổ nó.

Nhiều năm qua, chính quyền dù muốn nhưng không có căn cứ xử lý Tịnh thất Bồng Lai. Các thành viên nơi đây chỉ nhận cơ sở của mình là nhà riêng để tu hành. Tuy nhiên, khác với các cơ sở “lấy nhà làm chùa” khác thường hoạt động âm thầm để tránh bị chính quyền, giáo hội can thiệp, Tịnh thất Bồng Lai lại hoạt động công khai.

Việc Tịnh thất Bồng Lai không đăng ký với chính quyền theo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo nhưng vẫn hoạt động công khai, đặc biệt là trên mạng xã hội là điều chính quyền không mong muốn. Nó tạo ra một tiền lệ, và có thể thúc đẩy các hoạt động Phật giáo độc lập khỏi sự quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Mặt khác, Tịnh thất Bồng Lai sở hữu cùng một thứ với những người bị truy tố theo Điều 331, đó là năng lực làm truyền thông đại chúng. Việc kiếm tiền từ các video giải trí vô thưởng vô phạt như ca hát, vui chơi của các em bé ở tịnh thất có thể không phải là thứ chính quyền quan ngại. Tuy nhiên, các thành viên nơi đây trong một vài dịp đã sử dụng sức ảnh hưởng trên mạng xã hội của mình để đáp trả công an, chính quyền địa phương, các chức sắc của giáo hội.

Từ việc sử dụng quyền tự do để chỉ trích các cá nhân, quan chức đến việc chỉ trích luật pháp, hệ thống chính trị chỉ cách nhau một gang tay. Những vấn đề trên đây đã biến Tịnh thất Bồng Lai thành một mối nguy hiểm tiềm tàng đối với chính quyền, cần phải bị loại bỏ ngay khi có cơ hội.

Hình sự hóa việc thực hành quyền con người

Vụ án Tịnh thất Bồng Lai theo hướng khởi tố vụ án hiện tại cho thấy xu hướng hình sự hóa việc thực hành các quyền con người tại Việt Nam. Hiểu nôm na ở khía cạnh quyền tự do ngôn luận là khi bạn bình luận về ai đó mà người đó không đồng ý, họ đi báo công an thì bạn có thể bị bắt và phải ngồi tù.

Tịnh thất Bồng Lai từng nhiều lần bị các chức sắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam chỉ trích trước công chúng, nhưng các thành viên tịnh thất không báo công an. [18] Tuy nhiên, khi các thành viên tịnh thất phản bác lại thì lại bị các chức sắc cho là xúc phạm họ, [19] và họ tố cáo lên công an. [20]

Những mâu thuẫn loại này hoàn toàn có thể được giải quyết bằng việc khởi kiện ra tòa dân sự. Khi đó, tòa án sẽ xem xét các phát ngôn có căn cứ hay không, có phạm luật hay không, và đáp ứng yêu cầu bồi thường nếu có tổn thất thật sự.

Điều 331 là một điều luật mơ hồ và không có căn cứ rõ ràng để xác định như thế nào là “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”.

Tiền thân của Điều 331 vốn là Điều 258 trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về tự do tôn giáo Heiner Bielefeldt đã lên án về tính mơ hồ của Điều 258: “Ngay cả các thành viên của một tòa án địa phương cấp tỉnh và Tòa án Nhân dân Tối cao [của Việt Nam] cũng không thể làm rõ ý nghĩa của thuật ngữ ‘lợi dụng’ và không xác định được những hành vi nào sẽ cấu thành vi phạm pháp luật”. [21]

Không một tổ chức nhân quyền nào đồng ý với Việt Nam về việc thực thi Điều 331. Tổ chức Ân xá Quốc tế cho rằng Điều 331 hoàn toàn vi phạm các nghĩa vụ quốc tế về quyền con người của Việt Nam. [22] Đến nay, 54 người đã bị khởi tố theo tội danh này, theo thống kê của tổ chức nhân quyền The 88 Project. [23]

Những người bị khởi tố theo Điều 331, Bộ luật Hình sự theo thống kê của của The 88 Project. Ảnh: Chụp màn hình.

Chính quyền hay các chức sắc Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định Tịnh thất Bồng Lai hoạt động tôn giáo bất hợp pháp – điều này là đúng với pháp luật Việt Nam, nhưng sai so với chuẩn mực về quyền tự do tôn giáo.

Báo cáo viên đặc biệt Heiner Bielefeldt sau chuyến làm việc tại Việt Nam cũng đã bình luận rằng: “Việc thực hiện các quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không thể bị thu hẹp do phụ thuộc vào bất kỳ hành vi phê duyệt hành chính nào; là một quyền con người phổ quát, quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng vốn có trong tất cả mọi người, trước bất kỳ hành vi đăng ký hoặc công nhận chính thức”. [24]

Đặc biệt, ông Heiner Bielefeldt nhấn mạnh rằng: “Việc phải đăng ký chính thức với Chính phủ [Việt Nam mới được phép hoạt động] không đảm bảo tôn trọng đầy đủ tự do tôn giáo, tín ngưỡng.”

Tiếp đến, theo tường thuật về kết luận điều tra vụ án Tịnh thất Bồng Lai, công an đã chỉ trích việc các thành viên ở tịnh thất quỳ lạy, sùng bái ông Vân. Đây rõ ràng là quyền thực hành tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Tịnh thất Bồng Lai. Chính quyền cần tôn trọng, không nên cho mình quyền được can thiệp vào thực hành này.

Ngay cả khi Tịnh thất Bồng Lai có thực hành, phổ biến sai lệch giáo lý đạo Phật, đó cũng là vấn đề của cộng đồng Phật giáo chứ không phải là việc của chính quyền.

Bản chất của quyền tự do tôn giáo là sự khoan dung đối với các thực hành tôn giáo, tín ngưỡng khác biệt. Bất cứ quy định nào trái với điều này thì không còn là tự do tôn giáo mà là đàn áp tôn giáo.

Khi bị khởi tố theo Điều 331, vụ án Tịnh thất Bồng Lai không dừng lại ở việc trừng phạt các cá nhân nữa, mà nó là phát súng của chính quyền hướng về xã hội, đe dọa bất cứ ai dám bước qua vạch giới hạn do chính quyền vẽ ra. Nhưng chẳng ai biết cái vạch đó nằm ở đâu, ngoài chính quyền.

CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG GIẤC MƠ TAN NÁT- Tác giả: Bùi Bảo Trúc

Chau Nguyen Thi

CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG GIẤC MƠ TAN NÁT

BOULEVARD OF BROKEN DREAMS

Tác giả: Bùi Bảo Trúc

Ghana là một quốc gia ở tây Phi châu nằm cạnh Côte D’Ivoire , Togo và Burkina Faso. Đọc một hai tài liệu về xứ này thì tôi nghĩ là nếu chọn một nơi để du lịch, chắc chắn tôi không bao giờ chọn đi Ghana. Có chăng là … kiếp sau vậy. Kiếp này thì đành đi chỗ khác chơi.

Đi chơi thì đã như vậy. Đi làm thì tại sao lại chọn lối đoạn trường mà đi. Thế nên đi làm cũng không chọn Ghana. Có bị coi là kỳ thị thì đành nhận vậy. Đi chơi hay đi làm thì cũng chọn nơi nào khá hơn chứ dại gì mà vác xác đến Ghana.

Mà tại sao hôm nay tôi lại nhắc đến Ghana? Tại vì tôi đã tìm ra được một nơi tồi tệ khủng khiếp hơn là những cái cũi ở Mumbai (tên mới của Bombay) trên đường Falkland. Những cái cũi nhốt người, những nhà điếm mà nhiếp ảnh gia Mary Ellen Mark đã ghi lại trong cuốn sách ảnh của bà. Bạn có thể vào inernet, tìm cage girls of bombay thì sẽ thấy những hình ảnh và bài viết về khu địa ngục này.

Vậy mà Falkland Road còn khá hơn là một khu nhà thổ tại Ghana rất nhiều. Ở thành phố Takoradi thuộc phía tây Ghana, nhà chức trách, nhờ một phóng sự của Anas Aremeyaw Anas, đã giải thoát được 6 phụ nữ Việt Nam khỏi một ổ điếm. Các phụ nữ này đã bị hai người Hoa dụ dỗ hứa cho công ăn việc làm rồi bị buộc phải bán dâm, mang tiền về cho hai người này.

Báo chí Ghana cho biết tất cả đều trong hạng tuổi 30, đã sống là làm việc ở Ghana từ hơn một năm nay. Sứ quán Trung quốc tại Ghana đã không bình luận gì về tin này nhưng người ta biết rằng các Hoa kiều tại Ghana đã dính líu vào rất nhiều hành động bất hợp pháp và trong năm qua, chính phủ Ghana đã trục xuất hơn 120 người Hoa ra khỏi Ghana vì tội nhập cảnh lậu và các hoạt động phạm pháp khác, từ khai khẩn mỏ không có giấy phép tới buôn bán ma túy giả và nhiều việc khác.

Những phụ nữ Việt Nam, với những cái tên đẹp như Hoa, Thi, Mai, Anh… chắc chắn cũng từng có những năm thơ ấu rất đẹp, những mơ ước cho đời sống tử tế hơn. Tất cả đều bị bọn Tầu bất lương sang tận Việt Nam dụ dỗ đem sang Ghana bắt làm điếm kiếm tiền cho chúng. Các phụ nữ này cho biết giấy tờ tùy thân của họ đã bị bọn ma cô giữ hết, ngôn ngữ xa lạ, không cách nào liên lạc được với gia đình hay người quen để nhờ giúp đỡ.

Tôi có một tấm poster in hình của James Dean đang co ro trong chiếc áo lạnh bước trên một con đường ướt sũng nước mưa với nhan đề mà tôi rất thích. Nghe thật lãng mạn và thơ mộng: Boulevard Of Broken Dreams. Con đường của những giấc mơ tan nát.

Lời của bài hát thì buồn thảm, không liên quan gì đến câu chuyện khổ đau của sáu người phụ nữ Việt bị buộc phải làm điếm ở Ghana để đem tiền về cho mấy thằng Tầu khốn nạn. Những người phụ nữ ấy cũng là người Việt đấy chứ. Cũng có gia đình, cha, mẹ, anh em, có thể cả chồng con nữa. Ra đi họ có kịp ngó nhà mấy cột ngó cau mấy buồng không? Có sót người tựa cửa hôm mai không? Có bao giờ nhìn những đám mây Ghana mà nhớ quê cũ không? Cảnh bước chân đi của họ có giống như của Kiều trên xe với Mã Giám Sinh không?

Những giấc mơ của họ cũng đều đã tan nát từ cái chuyến đi theo mấy thằng Tầu khốn kiếp đó.

Chao ôi đi làm điếm ở đâu cũng đã là địa ngục. Làm điếm ở cái xứ Phi châu Ghana ấy thì còn gì tang thương hơn!

Thế nhưng bọn Tầu khốn nạn vẫn được cho tự do ra vào đất nước Việt Nam, vẫn làm đủ mọi chuyện khốn nạn trên quê hương của chúng ta, trên thân xác của phụ nữ Việt. Chúng vẫn đang tiếp tục làm những chuyện đó. Đầu độc người dân bằng những hàng hóa đầy chất độc, hãm hại nông dân bằng đủ mọi trò. Rồi vẫn ra vào thong thả. Chúng không còn chỉ mua phụ nữ Việt đem sang Tầu bán cho các ổ điếm nữa, mà còn đưa cả những phụ nữ xấu số sang tận Phi châu để mang thân xác ra nuôi chúng nó.

Đất nước Việt Nam sao lại khổ đến như thế!

Bùi Bảo Trúc

¤¤¤¤¤

NĐK

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Lính Miền Nam

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Lính Miền Nam

18/06/2022

Tưởng Năng Tiến

Bạn tôi, phần lớn, đều là lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm súng, và một quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều… cố tật! Hễ gặp nhau là uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi cũng xoay quanh kỷ niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những thằng đã chết, những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu đó) nơi đất lạ xứ người. Thỉnh thoảng, khi (quá) vui, chúng tôi cũng hay mang những vị thượng cấp cũ ra làm đề tài giễu cợt. Hai ông huynh trưởng thường bị nhắc tới để cười chơi là Trần Hoài Thư, và Phan Nhật Nam. Lý do: cả hai vị vẫn nhất định chưa chịu giải ngũ, dù cuộc chiến đã tàn tự lâu rồi!

Trung Úy Trần Hoài Thư vẫn thản nhiên đưa quân Qua Sông Mùa Mận Chín. Đại Úy Phan Nhật Nam vẫn la hét um sùm qua máy truyền tin (giữa Mùa Hè Đỏ Lửa) cứ như thể là cái mùa Hè năm 1972 đó vẫn còn kéo dài đến bây giờ, dù 50 năm đã lặng lẽ trôi, với cả đống nước sông – nước suối, nước mưa, nước mắt… – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống.

Sau khi cạn mấy ly đầy, rồi đầy mấy ly cạn (và sau màn trình diễn “một ngàn bài Bolero”) tôi hay xin “trân trọng tuyên bố cùng toàn thể các chiến hữu các cấp” rằng:

– Ai viết cái gì tôi cũng đọc tuốt luốt, trừ hai vị thẩm quyền (nhí) này thì khỏi!

Sao vậy cà?

Bởi vì thơ với văn của hai ổng có nhiều câu mà “lỡ” đọc một là nó bị kẹt luôn trong đầu, gỡ không ra, nên tui không dám đọc thêm nữa:

 Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm

Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam?

(Trần Hoài Thư, “Ta Lính Miền Nam”)

Không chỉ bi tráng, bi hùng, hay bi phẫn mà (đôi khi) người lính miền Nam còn phải đối diện với lắm nỗi bi thương:

“Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám… Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo tôi cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà…

 – Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?

 Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy… Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai.

 – Của chị đây hả? – Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.

 – Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên…

 Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.

 – Chị kia quay lại đây tôi trả cái này…  Tôi nói vọng theo.

 Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi… Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.

 Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta:

 – Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo… Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ…  Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa… Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực…

 Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi… Người đàn bà đã hiểu lầm tôi…

 Chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này.

 Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này…”

(Phan Nhật Nam. Dấu Binh Lửa. Sài Gòn: Hiện Đại, 1969).

Ở thời điểm này, có lẽ, Phan Nhật Nam không hề biết rằng “sự ngộ nhận đớn đau tủi hổ” của dân chúng với những người lính miền Nam chả phải là “ngẫu nhiên” đâu. Nó đã được đối phương chuẩn bị rất kỹ, và tuyên truyền rất công phu – theo như nhận xét (gần đây) của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người…

Và đây cũng chả phải chỉ là chuyện “ngày xưa ở miền Bắc” đâu. Sau khi thắng cuộc “bộ máy tuyên truyền” vẫn tiếp tục bôi bẩn và xỉ nhục những người lính miền Nam, như thể họ vẫn còn là những kẻ thù ác độc và nguy hiểm.

Rảnh, thử xem qua vài đoạn trong một truyện ngắn (“Chuyện Vui Điện Ảnh”) của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bà viết viết về “tai nạn nghề nghiệp” xẩy đến cho một tài tử nghiệp dư, chỉ vì lỡ thủ vai một thằng lính miền Nam:

“Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên thôi cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát trẻ nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết vì bị chó điên cắn…

Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình rồi, ông đạo diễn không chê vào đâu được. Long Xưởng hô máy một cái là nét mặt chú Sa lạnh như người chết, con mắt trắng dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc quay cận cảnh khuôn mặt chú còn ghê nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân đầy lông lá, cái răng cửa gãy chìa ra một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun hút.

 Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc toi đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm Cựa Gà đi, chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Đảng mình đang mang thai.

 Tới chừng biết đứa bé kia không phải con mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng đã giết chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó cũng không chết bình thường như người ta, nó chết trong dằn vặt. 

 Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co giật méo xệch, bọt mép sùi sụt. Nó cắn vô mấy thằng lính đứng quanh nó. Điên dại tới lúc bị bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết, vừa hể hả vừa ghê tởm…

 Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc cọc thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó hỏi nhau: ‘ổng đi chưa?’, cũng tại má tụi nó nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị chú Sa ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng tượng, rõ ràng là người ta bị giật mình bởi tội ác.

 Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa chú … Chú Sa thấy đây đúng là một tai nạn …”

Cái “tai nạn” riêng của chú Sa chỉ xẩy ra trong phạm vi của một con hẻm nhỏ và sẽ không kéo dài lâu. Còn hàng triệu thằng lính miền Nam thật –  cùng vợ con, thân nhân của chúng – không chỉ phải chịu đựng sự “ngại ngần ác cảm” của đám đông mà còn bị Nhà Nước Cách Mạng kỳ thị (và miệt thị) không biết đến bao giờ!

Thời gian, may thay, đã không đứng về phe thắng cuộc, và đã dần hé mở dần chân dung của những người lính miền Nam:

Cho tôi thắp một nén nhang
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa!
Năm tháng đi qua
Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra
Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy
Trừ những thằng bán nước – đi đêm

– Tưởng Năng Tiến