Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam

Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam

2022.07.22

RFA Tiếng Việt

Các tổ chức nhân quyền quốc tế hôm 22/7 lên tiếng phản đối bản án mà toà án Nhân dân huyên Đức Hoà, tỉnh Long An, vừa áp đặt lên sáu người thuộc một nhóm tu tại gia là Tịnh thất Bồng lai hay còn gọi là Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ. Human Rights Watch thậm chí gọi đây là một điểm mới trong chiến dịch trấn áp nhân quyền ở Việt Nam khi bỏ tù một cụ ông ngoài 90 tuổi chì vì ông dám bày tỏ chính kiến của mình.

Hôm 21 tháng 7, sáu thành viên thuộc Tịnh thất Bồng Lai bị tuyên phạt tổng cộng hơn 23 năm tù với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Khoản 2, Điều 331, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 117 về tuyên truyền chống Nhà nước và Điều 331 là các điều khoản về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự. Từ đầu năm đến nay, có ít nhất 19 người đã bị chính quyền Việt Nam bắt giam với cáo buộc vi phạm các điều này, theo thống kê mà RFA tổng hợp được.

Ông Lê Tùng Vân tại Toà án Nhân dân huyện Đức Hoà vào tháng 7/2022. Công An Nhân Dân

Việc toà tuyên những bản án nặng nề, đặc biệt là bản án năm năm tù giam đối với ông Lê Tùng Vân, người đã ngoài 90 tuổi, đã gây chú ý.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Long An cáo buộc những người thuộc Tịnh thất Bồng Lai cầm đầu bởi ông Lê Tùng Vân đã đăng tải nhiều bài viết, clip trên mạng xã hội Facebook và YouTube trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến năm 2021 có thông tin sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc, nhằm tuyên truyền, kích động xúc phạm uy tín của cơ quan Công an huyện Đức Hoà, xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của ông Trần Ngọc Thảo (tức Thượng toạ Thích Nhật Từ).

Điều 331 của Bộ luật Hình sự vốn được sử dụng trong các vụ án có yếu tố chính trị, nhằm buộc tội những người bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản. Các tổ chức nhân quyền quốc tế đã liên tiếp chỉ trích và yêu cầu chính quyền Việt Nam bãi bỏ điều luật này.

Trao đổi với Đài Á châu Tự do qua email, ông Phil Robertson, Phó giám đốc phân ban Châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền, cho biết bằng việc bỏ tù những người ở Tịnh thất Bồng Lai vì các phát ngôn của họ cho thấy chính quyền Việt Nam đã trở nên độc đoán hơn:

Tống một ông cụ 90 tuổi vào tù chỉ vì dám nói lên suy nghĩ của mình cho thấy chính quyền Việt Nam đã đưa chiến dịch trấn áp nhân quyền đến một điểm mới.

Bằng việc sử dụng điều luật hà khắc để bịt miệng những người dân bình thường, những người chỉ đơn giản đã than phiền về công chức địa phương, chính quyền Việt Nam cho thấy giờ đây họ không chỉ đàn áp những nhà hoạt động”.

Thông qua việc những cá nhân phi chính trị như các thành viên ở Tịnh thất Bồng Lai giờ đây cũng bị bắt bớ vì phát ngôn trên mạng, ông Phil Robertson cho rằng chế độ ở Việt Nam đang cho thấy họ càng ngày càng trở nên thù nghịch đối với những chỉ trích.

Vị đại diện của tổ chức nhân quyền có trụ sở tại Hoa Kỳ cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho những người bị cầm tù:

Việt Nam cần phải đảo ngược các phán quyết lố bịch và những bản án không thể chấp nhận được nhắm vào tất cả những cá nhân ở Tịnh thất Bồng Lai”.

Đồng thời, tổ chức Ân xá Quốc tế, một tổ chức nhân quyền quốc tế có trụ sở ở Anh Quốc, cũng bày tỏ sự phản đối trước kết quả phiên toà hôm 21 tháng 7. Bà Ming Yu Hah, Phó giám đốc khu vực Đông và Đông Nam Á của tổ chức Ân xá Quốc tế, cho biết:

Việc cáo buộc ai đó là lợi dụng các quyền tự do dân chủ, thực chất là cái cớ để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích chính quyền. Chỉ trong nửa đầu năm nay thì các điều 331 và 117 đã liên tục được lạm dụng để bắt bớ và truy tố bloggers, tín đồ tôn giáo, và người sử dụng Facebook vì những hoạt động của họ trên mạng xã hội.

Ngày nay, bất cứ ai ở Việt Nam đều có nguy cơ bị bỏ tù nhiều năm trời chỉ vì thực hành quyền tự do biểu đạt”.

Tình trạng này được bà Ming Yu Hah cho là “không thể chấp nhận và không thể dung thứ”. Bà cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam phải chấm dứt việc đàn áp quyền tự do biểu đạt, và trả tự do cho những người bị bắt bớ.

Điều 117 về tuyên truyền chống Nhà nước và Điều 331 là các điều khoản về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự. Từ đầu năm đến nay, có ít nhất 19 người đã bị chính quyền Việt Nam bắt giam với cáo buộc vi phạm các điều này, theo thống kê mà RFA tổng hợp được.

Nguồn: RFA Tiếng Việt

‘Trầm cảm’ và ‘thất nghiệp,’ một ông ở Phú Quốc giết vợ con

‘Trầm cảm’ và ‘thất nghiệp,’ một ông ở Phú Quốc giết vợ con

July 21, 2022

KIÊN GIANG, Việt Nam (NV) – “Không có việc làm” và “bị trầm cảm,” ông Hoàng Minh Vĩ, 37 tuổi, ở phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc, đã chém chết vợ cùng con trai 7 tuổi rồi gọi điện báo công an, theo VNExpress hôm 21 Tháng Bảy.

Báo này cho biết thêm, Công An thành phố Phú Quốc đã bắt ông Vĩ với cáo buộc “giết người.”

Nghi can Hoàng Minh Vĩ tại đồn công an. (Hình: An Thới/VNExpress)

Sáng cùng ngày, người vợ 37 tuổi của ông Vĩ chuẩn bị bữa sáng cho chồng trước khi ông này dự kiến ra phi trường bay đi Hà Nội, để khám bệnh trầm cảm. Bất ngờ, ông Vĩ cầm một cái chảo đánh vào đầu vợ rồi dùng dao chém chết tại chỗ.

Sau đó, ông Vĩ tiếp tục cầm dao qua phòng con trai 7 tuổi đang ngủ, chém cậu bé tử vong.

Tại đồn công an, ông Vĩ khai rằng mình đưa vợ con từ quê ở tỉnh Bắc Kạn vào Phú Quốc, giữ nhà nghỉ cho người quen. Nhiều tháng qua không có việc làm, ông rơi vào trầm cảm, lo không có tiền trị bệnh nên nảy sinh ý định sát hại vợ con rồi tự sát.

Trước vụ này, các vụ giết người thân hoặc tự sát do trầm cảm diễn ra thường xuyên tại Việt Nam, với tần suất gần như mỗi tháng.

Hồi tháng trước, tờ Tuổi Trẻ loan tin ông ĐMT, 33 tuổi, bị trầm cảm, đã giết con trai 5 tuổi trong phòng ngủ một căn hộ ở tầng 9 chung cư 4S Linh Đông, phường Linh Đông, thành phố Thủ Đức, Sài Gòn, rồi tự tử.

Tại hiện trường, công an thu giữ một lá thư tuyệt mệnh được cho là của ông T. để lại.

Ngoài vụ này, liên tiếp xảy ra các vụ mẹ giết con do “trầm cảm sau sinh” tại nhiều tỉnh thành.

Theo tờ Tuổi Trẻ hôm 8 Tháng Bảy, các nghiên cứu ở một số bệnh viện phụ sản tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ trầm cảm sau sinh là từ 11.6-33%. Đáng lo ngại là ước tính có gần 50% phụ nữ bị trầm cảm sau sinh không được chẩn đoán bởi chuyên gia y tế.

Phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc. (Hình minh họa: VOV)

Theo báo Dân Trí hôm 3 Tháng Bảy, bệnh trầm cảm là nguyên nhân khiến gần 40,000 người Việt tự tử mỗi năm, gấp bốn lần số ca chết do tai nạn giao thông.

Con số nêu trên được công bố tại buổi tọa đàm “Thực trạng sức khỏe-hạnh phúc của người Việt Nam và giải pháp kiến tạo nếp sống khỏe- sống an,” do Hội Tâm Lý Trị Liệu Việt Nam tổ chức tại Sài Gòn. (N.H.K)

Chỉ có một “Việt Á” trong Bộ Khoa học và Công nghệ?

Chỉ có một “Việt Á” trong Bộ Khoa học và Công nghệ?

21-7-2022

Ảnh trên mạng

Năm 2018, Công ty Thu Đức của ông Nguyễn Bình Dương đăng ký một loạt nhãn hiệu: Thu Đức Ga, My Tra Petro, OIRIGIN GAS, VINSIN trùng với tên viết tắt hoặc tương tự với tên thương mại của một số doanh nghiệp khác đã nổi tiếng trên thị trường hàng chục năm như THỦ ĐỨC GAS, MỸ TRÀ GAS, ORIGIN GAS, Vinashin.

Điều đáng ngạc nhiên là, cho dù hoạt động “cùng lĩnh vực kinh doanh”, lại sử dụng tên thương mại và nhãn hiệu “rất dễ gây nhầm lẫn” với những nhãn hiệu đã nổi tiếng nhiều thập niên, “có tính chất lừa dối về nguồn gốc, xuất xứ…” mà các nhãn hiệu của ông Nguyễn Bình Dương lập ra vẫn được Cục Sở hữu Trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ cấp “giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa”.

Không dừng lại ở mức độ “gian lận thương mại”, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, ngày 5-7-2021, khi kiểm tra một cửa hàng của Gas Thu Đức ở Hòa Bình, Đoàn kiểm tra liên ngành (Cục Quản lý thị trường phối hợp với PC03 Công an tỉnh Hòa Bình) đã bắt quả tang Công ty Thu Đức có hành vi làm giả, làm nhái nhiều loại thương hiệu gas nổi tiếng trên thị trường, như Thủ Đức gas, Mỹ Trà gas, ORINGIN GAS và Vinashin.

Ngoài việc làm giả, làm nhái, ông Nguyễn Bình Dương còn thu gom bình gas của nhiều doanh nghiệp về “cưa tai, mài vỏ, mài số chế tạo, bỏ logo cũ, dán lô gô của mình vào, rồi sang chiết gas không nguồn gốc rõ ràng để cung cấp ra thị trường”.

“Cưa tai, mài vỏ” không phải là “tội phạm mới” trong ngành kinh doanh gas. Nhưng, “cưa tai, mài vỏ” với “căn cước” được cấp bởi Cục Sở Hữu Trí Tuệ của Bộ Khoa học và Công nghệ thì hành vi gian lận đã được nâng lên một quy mô mới.

Các nạn nhân của Gas Thu Đức và Hiệp hội kinh doanh Gas đã nhiều lần gửi văn bản lên ông Cục trưởng Cục Sở hữu Trí tuệ đề nghị rút lại các giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; gửi C03 đề nghị “xử lý hình sự người đại diện pháp luật của công ty này, ông Nguyễn Bình Dương”. Nhưng, đến nay sự việc vẫn chưa giải quyết.

Giả mạo các nhãn hiệu nổi tiếng không phải là câu chuyện riêng của Việt Nam nhưng ít có ở đâu, việc giả mạo lại ngang nhiên tồn tại như ở Việt Nam.

Trong thập niên 1990s, không mấy ai tới Hà Nội mà không biết phố thịt chó Nhật Tân. Khởi nghiệp thành công ở “ngành công nhiệp” này là “Anh Tú”. Bắt đầu một mình với một “mái lều tranh” nhưng khi “Anh Tú” được nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng, Nhật Tân ngay lập tức trở thành “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội” với gần 50 quán khác. Không chỉ có Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang… “thương hiệu Anh Tú” đã bị nhái bởi những Anh Tú Xịn, Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá…

“Kinh đô thịt chó” vì nhiều lý do nay đã không còn nữa. Nhưng, ngay giờ đây ở Hà Nội, bên cạnh “Lạc rang húng lừu gia truyền bà Vân” vẫn có “Thương hiệu bà Vân lạc rang húng lừu gia truyền”. Ở Hà Tĩnh, bên cạnh cửa hàng của một thương hiệu cu đơ uy tín, Thư Viện, mọc thêm ngay sát một Thư Viện khác.

Hẳn nhiều người còn nhớ, năm 2010, khi xuất hiện “thương hiệu Vincon” nhái Vincom, Chánh thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra quyết định xử Vincon với mức phạt tiền 14 triệu và yêu cầu loại bỏ “Vincon” trên biển hiệu, giấy tờ giao dịch… Không lẽ, Bộ Khoa học và Công nghệ giờ đây không còn khả năng vận hành như 12 năm trước.

Tôi không rõ, ông bà Thư Viện và “Bà Vân” chính hiệu đã từng đăng ký nhãn hiệu hay thưa kiện hay chưa; nhưng, trong một môi trường kinh doanh mà những kẻ lười biếng (sử dụng trí tuệ), kiếm tiền bằng làm nhái, ăn cắp, gian lận… được dung túng thì sẽ không bao giờ có kinh tế thị trường.

Trong nhiệm kỳ trước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thường xuyên nói đến “nhà nước kiến tạo”, cho đến nay, người dân vẫn chưa thực sự hiểu rõ nội hàm của nhà nước kiến tạo là gì. Trước khi có thể kiến tạo cơ hội kinh doanh cho người dân, người dân và doanh nghiệp chỉ mong nhà nước làm đúng trách nhiệm của mình, không tiếp tay cho các hành vi gian dối, lừa đảo để chiếm đoạt thành quả kinh doanh của họ.

Không chỉ có dấu hiệu gian lận thương mại, hành vi của Thu Đức Gas có nhiều dấu hiệu chiếm đoạt tài sản của các công ty như Thủ Đức Gas, Mỹ Trà Gas… Khởi tố những vụ án tương tự (ở nhiều ngành khác nhau) không chỉ là cách duy nhất để dần thiết lập một môi trường kinh doanh lành mạnh, để thực sự có kinh tế thị trường, mà còn có thể giúp phát hiện ở Bộ Khoa học & Công nghệ thêm những vụ án khác có “mùi Việt Á”.

CHUYỆN CON BÒ TRONG TÒA – Bài của Khanh Nguyen (Nhạc sĩ Tuấn Khanh)

CHUYỆN CON BÒ TRONG TÒA

Bài của Khanh Nguyen (Nhạc sĩ Tuấn Khanh)

Trong phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai ngày 20/7, luật sư Âu Quang Phục, người được gọi là bảo vệ cho bị hại Trần Ngọc Thảo tức ông Thích Nhật Từ, đã đặt một vấn đề với những người ở Tịnh Thất Bồng Lai, trước mặt phiên tòa, điều mà ai nấy đều phải ngỡ ngàng:

“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”

Luật sư Phục đưa ra câu hỏi này, bởi đơn tố cáo vì cho là bị xúc phạm của ông Trần Ngọc Thảo, nói rằng thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai đã phát biểu nói “Thích Nhật Từ ngu như bò”. Tức giận do bị so sánh với con bò nên ông Thích Nhật Từ đã làm đơn khởi kiện, nói bị xúc phạm danh dự cá nhân, nhất định hoàn toàn không thể là bò.

Thế nhưng câu hỏi được đặt ra mang tính đối chiếu của luật sư Phục khiến ai nấy ngỡ ngàng, thậm chí phải bật cười vì sự ấu trĩ – và phải nói rõ là ngu xuẩn về trình độ nhận thức – vì Chúa Giêsu dù được đặt ra ở bất kỳ vị trí nào cũng không hề liên quan gì với những người trong Tịnh Thất Bồng Lai.

Nhưng cần nhớ, câu hỏi kém cỏi của luật sư Phục cũng có thể đáng bị đặt vào tình trạng bị khởi tố theo Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điểm C “Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị – xã hội”.

Chuyện cố ý đưa Đức Chúa Giêsu vào trong nội dung này chính là mang tính xúc phạm vô cớ, vì nhân vật Chúa Giêsu không liên quan đến vụ án, và không thể hiện bất kỳ sự suy luận kiến giải nào về việc so sánh ông Thích Nhật Từ ngu như bò, ngoại trừ khi ông Thích Nhật Từ tự coi mình ngang hàng với Chúa, và đặc biệt là hoàn toàn khác con bò.

Cần nói rõ là nội dung quyết định ở đây, đang được cân phân giữa ông Thích Nhật Từ và con bò, là hai thực thể rất rõ ràng.

Vấn đề là phía bị hại cần phải xác định rằng con bò có những điểm xấu như thế nào mà người ta so sánh với mình khiến mình cảm thấy bị xúc phạm, kể cả chuyện “ngu” ở mức nào là được so sánh với con bò.

Tuy vậy, ở một góc nhìn khác, việc so sánh một con người với một con vật đó là chuyện thường tình mang đầy tính văn hóa dân gian vẫn diễn ra trong xã hội, ví dụ người ta vẫn so sánh “Anh A làm việc chăm chỉ như một con ong” hoặc “Anh B suốt cuộc đời cặm cụi như một con kiến”, hoặc “Hắn làm việc như con trâu”. Sự kiện ông Thích Nhật Từ tức giận đâm đơn kiện, có thể coi là vụ kiện đầu tiên trong lịch sử tòa án Việt Nam về việc bất đồng so sánh với thú vật.

Trở lại câu hỏi rất “bò” của luật sư Âu Quang Phục, chắc chắn sẽ không ai ở phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai buồn nghĩ gì cả, vì câu chuyện này không liên quan với vụ án. Hơn nữa, câu hỏi này đầy tính khiêu khích, thể hiện chủ trương thù hằn tôn giáo.

Ông Trần Ngọc Thảo / Thích Nhật Từ trong các bài giảng của mình cũng đã có rất nhiều lần vô cớ công kích Chúa Giêsu và nội dung của tín ngưỡng Công giáo. Thế nhưng phía Công giáo Việt Nam đã đối xử với ông không khác gì người lớn thấu hiểu, nhìn thấy đứa con nít cứ chòi chọc bám đít tìm cách gây khó. Vì vậy không loại trừ là luật sư của ông Thảo cũng đã được hướng dẫn cách trình bày quan điểm so sánh tín ngưỡng như vậy ở phiên tòa này – dĩ nhiên trình bày kiểu như vậy thì rất “bò”.

——–

Ảnh: LS Âu Quang Phục, trong vòng tròn

ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM -ĐÀ LẠT

Lịch sử sẽ không quên lũ ăn tàn phá hại.

_______________________________

NHỮNG TÊN TÂM THẦN.

ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM -ĐÀ LẠT

Bán 650.000 đô la.

Mua lại 1.200.000.000, một Tỷ hai đô la.

..………….

Đà Lạt vừa “giải phóng”, ông Phạm Khương thay mặt ban quân quản tiếp nhận ga Đà Lạt khi đầu máy, toa xe và toàn bộ tuyến đường đã nằm phơi sương suốt từ năm 1969 vì chiến tranh. Dầu mazut, thứ dầu đặc chủng để chạy đầu máy răng cưa, cũng không còn. Vậy mà chỉ hai tháng sau, ngày 6.6.1975, chiếc đầu máy răng cưa lại lần đầu tiên lăn bánh gần 70km, vượt D’ran, vượt Eo Gió, vượt Krongpha về tới Tân Mỹ, chỉ còn chờ cầu Tân Mỹ hoàn nhịp là lăn bánh về đến ga cuối Tháp Chàm. Không có dầu mazut, ông Khương đã cùng anh em kỹ sư còn lại ở ga Đà Lạt mày mò hoán đổi cho tàu chạy bằng than củi. Vậy mà tàu lăn bánh gọn gàng, công nhân đi hái trà ở Cầu Đất, cán bộ đi công tác xuống Phan Rang, rồi lâm nông sản xuôi ngược Phan Rang – Đà Lạt được tiếp tế cho nhau sau ngày giải phóng đều nhờ những toa tàu răng cưa vừa hồi sinh chở miễn phí.

Nhưng tàu chỉ chạy được đúng 27 chuyến. Cuối năm 1975, khi vừa chuyển giao tuyến đường cho Liên hiệp Xí nghiệp đường sắt VN thì ông nhận được lệnh sét đánh : ngừng chạy tàu, tháo toàn bộ tà vẹt trên tuyến đường Phan Rang – Đà Lạt để chuyển ra tu bổ cho đường sắt Thống Nhất đoạn Bình Định – Quảng Nam. Không chỉ ông Khương mà cả chính quyền tỉnh Lâm Đồng lúc đó cũng bàng hoàng. Một sự đánh đổi cấp tốc được đề ra, Lâm Đồng quyết định hạ cây rừng, cấp 230.000 thanh tà vẹt gỗ cho ngành đường sắt. Nhưng số tà vẹt ấy vẫn không làm thay đổi được quyết định ban đầu.

Tàu răng cưa ngưng chạy. Đường sắt răng cưa vẫn bị tháo tà vẹt. Ông Phạm Khương một lần nữa gửi công văn hỏa tốc năn nỉ lần cuối cùng : xin tháo 70% tà vẹt để những thanh ray còn có điểm tựa ( không bị gỡ đi vì khác kích cỡ với tuyến đường sắt Thống Nhất ). Nhưng tất cả đều bị khước từ. Sau đó thì gần như toàn bộ tuyến đường từ ga Trại Mát trở về Tháp Chàm đều bị gỡ sạch tà vẹt. Còn những thanh ray và cả những đoạn răng cưa mười mấy cây số thì được hóa giá đưa về các nông trường, nhà máy tận dụng làm các công trình và sau đó tiếp tục được người dân “tiếp sức” cho vào những xưởng phế liệu.

Quá khứ bị bán rẻ

Vậy là tuyến đường răng cưa huyền thoại đã tan hoang chỉ sau một quyết định. Bảy đầu máy Fuka lầm lũi nằm lại ga Đà Lạt, Tháp Chàm và Krongpha phơi sương gió. Những đầu máy răng cưa ấy có thể bị quên lãng trên chính xứ sở nó từng hoạt động, nhưng với những kỹ sư hỏa xa Thụy Sĩ, nơi cũng có một tuyến đường sắt răng cưa nhưng lại không còn chiếc đầu máy răng cưa hơi nước nào còn vận hành được, thì “đống sắt” trên những nhà ga ở miền cao nguyên Việt Nam là một báu vật.

Ông Khương nhớ đầu năm 1988, Ralph Schorno, một kỹ sư hỏa xa người Thụy Sĩ, đã tìm đến ga Đà Lạt và Tháp Chàm để xem những chiếc đầu máy răng cưa. Trong số bảy chiếc đầu máy, Ralph Schorno chấm được bốn cái còn tốt có thể khôi phục và một số toa tàu của Mỹ để lại. Và sau chuyến thị sát ấy của kỹ sư Ralph Schorno, những cuộc mặc cả đã được đẩy đi nhanh chóng với sự trợ giúp của Đại sứ quán Thụy Sĩ tại Hà Nội bởi một lý do rất đơn giản : cả một tuyến đường đã bị phá dỡ, chỉ còn mấy đầu máy hoen gỉ bỗng dưng có người mang đến những khoản USD lớn xin mua thì tại sao phải ngại ngần. Số tiền đề nghị bán là 1 triệu USD nhưng sau nhiều lần đàm phán đã được chốt giá 650.000 USD, cả lúc đó và muôn đời sau, đó là một cái giá rẻ bèo cho các báu vật nầy.

Thương vụ diễn ra nhanh chóng đến mức không ai kịp can thiệp. Ông Phạm Khương kể khi tỉnh Lâm Đồng một lần nữa hay biết về quyết định đó đã triệu tập một cuộc họp suốt 3 ngày liền để tìm cách giữ lại những chiếc đầu máy răng cưa. Nhưng “tiền trao cháo múc”, tháng 8.1990 khi mọi người đang họp thì phía Thụy Sĩ đã đưa xe đặc chủng lên tới Đà Lạt. Và cứ vậy, lần lượt những chiếc đầu máy và toa tàu răng cưa rời D’ran, rời Eo Gió, vượt Kronphra về Tháp Chàm rồi thẳng cảng Vũng Tàu, xuống tàu biển Thụy Sĩ. Câu chuyện về thương vụ bán những đầu máy răng cưa ấy đã vĩnh viễn đóng chặt giấc mơ nối lại tuyến đường xe lửa răng cưa trong ông Phạm Khương và rất nhiều người. Nhưng với người Thụy Sĩ lại mở ra một chương mới về sự hồi sinh của tuyến đường răng cưa mà từ nhiều thập kỷ trước đó, họ đã không còn đầu máy để chạy.

Chỉ hai tháng sau khi những đầu máy răng cưa rời Đà Lạt, ông Phạm Khương đã nhận được bưu phẩm của kỹ sư Ralph Schorno từ nhà ga Jungfraujoch. Đó là một cuốn sách rất dày, in những tấm ảnh màu trên nền giấy tốt, kể lại hành trình tìm ra đầu máy răng cưa ở Đà Lạt, đưa về Thụy Sĩ. Và cuối sách là những hình ảnh về hai trong bốn chiếc đầu máy răng cưa mà họ đã khôi phục thành công đang nhả khói trên đường đèo vượt dãy Alpes. Và rất lịch sự, người Thụy Sĩ đã không quên đính kèm một tấm bảng trên thành đầu máy, với dòng chữ về mốc thời gian mà chiếc đầu máy từng chạy trên tuyến đường Phan Rang–Đà Lạt. Như một sự nhắc nhớ về nguồn cội, nhắc nhớ về cả một nỗi đau trong những người Việt Nam từng yêu mến và tự hào về con đường răng cưa đã mất.

* Trong quá trình xây dựng và khai thác Thiết lộ Lâm Viên, Công ty Hỏa xa nhà nước CFI nhập cảng vào Việt Nam các đầu máy chạy được trên đường rầy răng cưa theo bốn đợt như bảng bên. Các đầu máy HG 4/4 được xem là vật hiếm không thể tìm đâu ra ngoài Việt Nam vì công ty SLM ở Winterthur của Thụy Sĩ ( Schweizerische Lokomotiv und Maschinenfabrik ) chỉ chế tạo 7 chiếc đầu máy kiểu HG 4/4 và công ty MFE ( Maschinenfabrik Esslingen ) của Đức chế tạo thêm 2 đầu máy HG 4/4 dựa trên giấy phép nhượng quyền của SLM trong chương trình bồi thường chiến tranh cho Pháp khi Đức bại trận trong Đệ nhất Thế chiến theo hoà ước Versailles. Tất cả 9 đầu máy nầy đều được đem sử dụng ở Việt Nam và không có ở nơi nào khác trên thế giới. Tất cả cũng đều là những đầu máy hơi nước mạnh nhất thế giới chạy được trên hệ thống răng cưa Abt.

* Đây không phải chỉ là một sai lầm lớn mà còn thể hiện sự ngu xuẩn cực độ. Bởi vì đường rầy xe lửa đoạn Sông Pha – Đà Lạt được chế tạo đặc biệt cho đường xe lửa răng cưa với tính toán kỹ lưỡng về thiết kế cho địa thế dốc. Để có thể chịu được lực kéo khủng khiếp khi xe lửa leo núi trong một khoảng thời gian dài nên bản thân các tà vẹt đỡ phải được làm bằng thép có chất lượng cao nhất. Ngay cả đến những con ốc và bù lon cũng khác với loại dùng cho đường rầy xe lửa thông thường.

Do sự không hiểu biết về kỹ thuật cơ khí đường sắt của lãnh đạo, mặc dù có sự phản đối của các nhân viên hoả xa miền Nam cũ, Cục Đường Sắt vẫn ra lệnh tháo gỡ toàn bộ tuyến đường để đưa vào việc phục hồi tuyến đường sắt Xuyên Việt. Thời kỳ nầy tiếng nói của những nhân viên làm việc cho chính quyền cũ không được xem xét. Ngay cả phản ứng của chính quyền cấp tỉnh mới ở sở tại cũng không mang lại hiệu quả, họ đành nhìn địa phương mình mất đứt đi một báu vật mà ngay trong thời điểm khó khăn về kinh tế, đây là một tuyến giao thông kinh tế huyết mạch mang tính sinh tồn.

Và có thể đoán chuyện gì xảy ra tiếp theo sau đó. Đường rầy đặc biệt này không thể ăn khớp khi kết nối với loại đường rầy ở nơi bằng phẳng. Họ quyết định biến chúng thành sắt phế thải, chất đống tại các kho chứa, nơi lũ kẻ cắp cưa vụn ra và các quan tham bán chúng đi với giá sắt vụn rẻ như bèo. Đúng là một thảm kịch của lịch sử hỏa xa Đông Dương! Nếu đường xe lửa này không bị tháo gỡ, thì giờ đây đã có thể dễ dàng khôi phục để có những chuyến xe lửa du lịch kỳ thú từ các khu nghỉ dưỡng vùng duyên hải Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né đi lên cao nguyên Lâm Viên.

Copy từ Hung Phan

HÃY BÌNH SỬ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI TỬ TẾ, TÔN TRỌNG SỰ THỰC, SÒNG PHẲNG VẢ TIẾN BỘ…

HÃY BÌNH SỬ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI TỬ TẾ, TÔN TRỌNG SỰ THỰC, SÒNG PHẲNG VẢ TIẾN BỘ…

Anh tôn trọng người khác để nhận được sự tôn trọng ngược lại.

Nhiều người đang bụm miệng vì một ông tiến sĩ kinh tế nhận định về lịch sử Miền Nam, ông ta cho rằng Miền Nam là “tinh hoa Bắc Việt tụ lại, dồn vào theo dòng khai phá Phương Nam”.

Thiệt là…! Bậu không hề hiểu câu “Ăn theo thuở, ở theo thời” gì hết.

Dân gian Bắc Hà có câu:

“L.. bà bà tưởng l.. ai

Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền”

Tự nhận mình là “người liêm chính” và giảng moral, nói về năng lực, đạo đức và khơi về dòng họ mà đại bác thụt không tới.

Lý thuyết là cùng một dân tộc, cùng chữ viết, cùng tiếng nói, điều đó không ai phủ nhận.

Nhưng trời ơi! Thực tế Nam và Bắc hoàn toàn khác nhau về cách sống, tư duy, văn hóa ,ẩm thực. Bây giờ nói về “bà con” thì có lẽ chắc không ai còn nhớ đâu.

Máu pha nhiều quá.

Thí dụ như người Mỹ, nếu người Anh nói người Mỹ là người Anh thì dân Huê Kỳ sẽ cười vô mặt liền.

Cũng như danh xưng “Việt kiều”, người VN ở hải ngoại đời đầu, khi mà họ còn sanh đẻ và lớn lên ở VN rồi di tản ra hải ngoại thì còn dính chữ Việt Nam. Nhưng qua thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư thì con cháu đã thành người Mỹ, người Úc, người Châu Âu rồi, nói nó là người VN thì nó cười vô mặt. Nhìn bà con rồi kêu cháu hãy làm nghĩa vụ gửi tiền về VN cho họ hàng là cái không bao giờ có vì nó không thể có trách nhiệm như cha mẹ nó được, đây là sự thực.

Miền Bắc từng có 1000 năm Bắc thuộc, khi đó người Tàu di cư qua hàng hà sa số đặng cai trị, nhưng người Tàu không làm sao đồng hóa Lạc Việt được vì tinh thần dân quá cứng cỏi, thậm chí người Tàu di cư qua ở vài đời thành người Việt cũng đòi độc lập ,dính mẫu hệ cả dòng.

Nếu nhìn họ hàng thì Bắc Kinh giờ làm như Putin với Ukraine, nói rằng người VN ở Miền Bắc giờ là con cháu của “tinh hoa người Hoa Hạ xưa” thì nghe có vui không?

Mà ngẫm lại Bắc và Nam như âm với dương vậy, thời tiết Nam nóng thì Bắc lạnh và Bắc luôn dính cái lòng thòng từ Trung Hoa, bên đó có cái gì Bắc có cái đó, rõ nhứt là sĩ diện hảo và rất thích làm “anh cả”.

Vũ trụ là một dòng sông dài, cả một quá trình lịch sử cũng dài, con người qua bao khúc nhoi, thăng trầm có đủ hết, Nam Kỳ và Bắc Kỳ cũng vậy.

Mà ngộ!

Rất nhiều người cứ thắc mắc, tại sao kêu Nam Kỳ, Trung Kỳ, dân hai xứ này cười hề hề, không để ý gì hết. Còn kêu người Bắc nào là Bắc Kỳ, nếu người Bắc di dân vào nam 1954, hay gọi là Bắc 54 thì cũng không sao, nhưng Bắc 75, Bắc đang ở phên dậu thì đa số họ sẽ đưng đửng lên như bị con gì cắn, rồi chửi người kêu là phân biệt vùng miền, chửi người kêu là miệt thị.

Kỳ chỉ là đất một cõi mà ta? Thành đô một nước còn có tên là “Kinh Kỳ” đó thôi.

Trong lịch sử Việt Nam ta có một cái huyện được sử Nguyễn ghi chép là “Quý huyện”, trong đó có một ngoại trang gọi là “Quý hương”.

Vùng đất đó là Gia Miêu ngoại trang thuộc tổng Thượng Bạn huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa, là nơi phát tích của vương triều Nguyễn.

Là nơi quê nhà lão tướng Nguyễn Kim đã trung hưng thành công nhà Lê Trung Hưng.

Cũng là quê của Quận Công Nguyễn Hoàng ra đi trấn thủ xứ Thuận Hóa năm 1558, ông về Phương Nam, tiên khởi hùng mạnh khởi lập lên xứ Đàng Trong với 9 chúa, 13 vua.

Xin lật lịch sử vào những năm 1558-1600.

Chúng ta nghe giai thoại rằng chúa Nguyễn Hoàng vì “nghe lời” Trạng Trình “Hoành sơn nhứt đái, vạn đại dung thân” nên xuôi về Nam.

Tôi thì đọc giai thoại cho vui thôi, cái đám sĩ phu Bắc Hà rất thích đặt giai thoại, thiệt ra là tầm nhìn chánh trị của chính chúa Nguyễn Hoàng mà thôi, ông nhìn xa ra cái hướng mà dung thân, phát triển khi anh rể Trịnh Kiểm đã nuốt hết cơ nghiệp nhà vợ rồi giết anh trai Nguyễn Uông,sẽ giết tới Nguyễn Hoàng.

Đi vô vùng “Ô châu ác địa”, “Biên viễn xa xôi” là một cuộc thử thách thực sự chứ không phải đi du lịch chơi chơi như thời nay. Cái duyên này là Trời định, là Thiên Mệnh, để Việt tộc phát triển dài ra cương thổ.

Năm 1558 Nguyễn Hoàng ôm theo nhiều anh em, bà con, tùy tùng quê ở Tống Sơn.

Ta phải kể ra ba ông lớn có tiếng trong đời Nguyễn Hoàng mà lịch sử ghi là: Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị và Mạc Cảnh Huống.

Con cháu Nguyễn Ư Dĩ sau này đổi sang họ Nguyễn Khoa, với Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Khoa Đăng.

Dòng thứ hai là họ Tống của ông Tống Phước Trị.Tống Phước Trị là người mang họ Tống của chính “Qúy huyện” Tống Sơn. Khi Nguyễn Hoàng vào Nam thì ông đã có danh phận chức tước ngang hàng với chúa Nguyễn Hoàng, tước Luân Quận Công, làm Trấn thủ Thuận Hóa trước cả Nguyễn Hoàng.

Dòng Tống Phước Trị là đệ nhị công thần của chúa Nguyễn Hoàng.

Ông Tống Phước Trị là tổ của hai ông Tiền Hiền Tống Phước Hiệp, Tống Phước Hòa là bậc danh tướng, có công gìn giữ Vĩnh Long và Sa Đéc.

Đất Trung Kỳ là đất của Chàm. Người Việt kêu người Champa là người Cham, Chăm, Chàm, Chiêm, Thổ, Mọi , Hời.

Cham Pa gồm 5 tiểu quốc là:

– Indrapura (vùng Quảng Bình, Quảng Trị – tương đương với lãnh thổ Lâm Ấp)

– Amaravati (vùng Quảng Nam, Thừa Thiên)

– Vijaya (Bình Ðịnh)

– Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa)

– Panduranga (Phan Rang, Phan Rí)

Vua Chàm Chế Bồng Nga đánh Đại Việt 12 lần.Từ 1371 đến 1383, quân Chiêm Thành 4 lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390, lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư, thì Chế Bồng Nga bị tử trận.Cái chết vô cùng lãng nhách, thằng đầy tớ phản chủ qua bên Việt chỉ chiếc thuyền Chế Bồng Nga có một vết sơn xanh nhỏ và Trần Khắc Chân chỉ tập trung hỏa lực bắn vô thuyền nầy là Chế Bồng Nga tử trận.

Người Chàm rất xui khi lập quốc cạnh người Việt vì nằm ngán đường của người Việt. Bắc là Tàu, tây là dãy Trường Sơn cao ngút,đông là biển, chỉ còn hướng Nam là con đường sanh tồn của Việt tộc. Nên Chàm bị vong quốc m.

Nhưng Chàm vẫn còn đâu đây trong huyết quản người Miền Trung.

Khi ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống VNCH nhiều người già nói sấm ám chỉ có một ngày một người có máu Chàm làm vua người Việt.

Nhiều người hỏi, vậy dân Chàm hồi xưa ở VN đi đâu mất tiêu hết vậy?

Chiến tranh, loạn lạc, có những vụ đánh nhau, kể cả tận diệt, nhưng người Việt không thể nào giết hết dân tộc này như nhiều người kết tội, dân tộc này không có nhỏ.

Thực ra người Chàm nào chịu ở lại định cư chung với người Việt đã bị đồng hóa, pha máu từ từ, lần hồi thành người Việt hết ráo. Trước tiên đàn ông Việt lấy vợ Chàm, cái phụ hệ của Việt khuất phục mẫu hệ Chàm, rồi đàn bà Việt lấy chồng Chàm, cái “mẫu hệ” ngầm trong gia đình Việt cũng khuất phục luôn dân tộc này.

Nói về đồng hóa bằng hôn nhân thì dân Tàu cũng quỳ lạy dân Việt chúng ta. Người Việt không nề hà, đụng đâu lấy đó, Chàm quất tuốt, Miên không tha, Tàu quất sạch.

Người Trung mang nhiều máu Chàm trong người. Người Trung có da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, mắt sâu, má cao, mắt một mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Rồi cái âm Trung lơ lớ với mô, tê, răng, rứa, hè… ảnh hưởng rõ rệt người Chàm.

Một nhúm Chàm ở Phan Rang, Phan Thiết do co cụm, sống tách biệt nên vẫn còn bản sắc.

Thế hệ đầu tiên ngoài Bắc vô Trung của Nguyễn Hoàng thành dân Trung Kỳ đã phai lợt từ từ “gốc gác”, tới những thế hệ sau thì họ đã là người Đàng Trong, khác hoàn toàn tâm tánh, ăn ở, văn hóa Đàng Ngoài .

Chưa kể lại đối nghịch nhau về chánh trị.

Lịch sử Việt Nam ta có cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh rất nhiều giai thoại thú vị.

Khi họ Nguyễn tạo ra xứ Đàng Trong ly khai vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài thì hiểu rằng người ở phía Nam đã muốn độc lập, cắt đứt với người phía Bắc.

Trịnh, Nguyễn đánh nhau từ 1627 tới 1672 với 7 lần đánh nhau với đại quân.

Trong bảy lần đó quân Trịnh chủ động tấn công đánh quân Nguyễn tới sáu lần, quân Nguyễn chỉ chủ dộng tấn công quân Trịnh trong lần giao tranh thứ năm (1655-1660).

Họ Trịnh dựa vua Lê, người Bắc rất lơ láo, họ chuyên lấy vua Lê ra làm bình phong cho sự chính danh của họ khiến quân Đàng Trong rất ghét.

Tương truyền trong một trận đánh, hai bên dàn trận rồi mà Đàng Ngoài còn chơi trò lấy lông gà làm lịnh tiễn “vua Lê”.

Một ông quan Bắc chạy xe ngựa có cờ lộng uy nghi ra giữa trận tay giơ cao tờ chiếu la lớn “Chiếu chỉ vua Lê tới đây, quân họ Nguyễn nghênh đón”.

Thoáng ngỡ ngàng, quan bên Nguyễn thấy rằng hai bên đang đánh nhau thì mang chiếu chỉ vua Lê ra làm chi, Đàng Trong đã thực tế là đất của chúa Nguyễn.

Quan Bắc vẫn gân cổ, là thần tử vua Lê thì phải nhận chiếu.

Rốt cuộc súng của quân Nguyễn chỉa thẳng vô ông quan cầm chiếu vua Lê ngay giữa trận.

Nhớ tới Quốc Phụ xứ Đàng Trong Đào Duy Từ nửa đêm ôm bè chuối vượt sông giới tuyến vô Nam giúp chúa Nguyễn giữ đất Đàng Trong độc lập.

Đào Duy Từ hay Nguyễn Hoàng là bỏ xứ ra đi rồi, bỏ luôn rồi, kiểu “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”.

Thuận Quảng là đất chó ăn đá gà ăn muối lúc bấy giờ. Kinh tế thấp kém, đất đai rộng nhưng hoang vu, lam sơn chướng khí, lại bị người Chàm đánh miết để đòi lại, vô đó chỉ có nước chết mà Nguyễn Hoàng tồn tại được là cái không ai ngờ.

Bản thân Nguyễn Hoàng từ năm 1600 đã từng đốt quán trọ, hạ nhục sứ họ Trịnh là Lê Nghĩa Trạch để phản kháng. Sự bất mãn, phân ly và phản kháng đã từ từ phát diện.

Rốt cuộc, Phú Xuân (Huế) từ năm 1687 thành kinh đô của Đàng Trong.

Chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài.Đàng Ngoài năm nào cũng có đói, thời chúa Trinh các năm 1557, 1559, 1570, 1571, 1572, 1577 hàng loạt trận đói xảy ra.

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các vị sau đó còn làm bộ nhún nhường thần tử, song tới đời Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1714-1765 ) mở ra một thời kỳ mới.

Năm 1744 lên ngôi vương xưng là Võ Vương cho đúc ấn Quốc Vương với cương vực từ sông Gianh tới Cà Mau, vạch rõ san hà Nam-Bắc khác nhau.

Ta nhớ tới bài thơ của Đào Duy Từ viết thay chúa Nguyễn trả lời cho chúa Trịnh.

Năm 1762 chúa Trịnh bắt họ Nguyễn Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên và đòi Sãi Vương phải cho con về Thăng Long chầu, đồng thời phải nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền làm lễ vật cống nạp nhà Minh.

Sãi Vương không chịu nhận chiếu chỉ, không thuận theo điều gì hết, Đào Duy Từ viết bài thơ trả lời:

Mâu nhi vô dịch,

Mịch phi kiến tích

Ái lạc tâm trường

Lực lai tương địch

Phùng Khắc Khoan phải ra tay dịch ra bốn chữ: Dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc phong).

Họ Nguyễn không chịu thần phục triều đình, không nhận sắc vua Lê cho nên làm ra bốn câu thơ đó.

Đào Duy Từ là người Đàng Ngoài, giỏi nhưng bị chà đạp, nửa đêm ôm bè chuối vượt sông Gianh vô Nam làm Lộc Khuê Hầu giúp chúa Nguyễn độc lập, cắt đứt Đàng Ngoài.

Họ Trịnh biết, tiếc nên cho người ôm vàng bạc vô Nam dụ họ Đào về Bắc, chúa Trịnh viết thư ưỡm ờ:

“Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay”

Đào Duy Từ trả lời rằng:

“Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Tháng 1 năm 1775 khi Tây Sơn nổi dậy đánh chúa Nguyễn, quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc cầm quân đã tiến vô nam đánh chiếm Phú Xuân.

Quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân trong 11 năm với 3 vạn quân, cai trị mạnh tay, dân Thuận Hóa ná thở, oán khí ngập trời.

Nếu coi nhau là đồng bào thì đã không có sự cai trị kinh khủng như vậy.

Năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ tiến ra đánh bật quân Trịnh giải phóng Phú Xuân. Tây Sơn xua quân giết quân Trịnh, tàn sát gần hết, một số chạy thoát ra khỏi thành thì bị dân Huế bản địa căm thù ra tay giết.

Trong một ngày khắp Phú Xuân xuất hiện ăn mày nhưng toàn là á khẩu, câm để giấu cái giọng Bắc, tìm đường chạy ra Bắc thoát thân.

“Lịch Triều Tạp Kỷ” của Ngô Cao Lãng ghi rằng:

“Các lính thủ chạy đi các xóm làng để xin trú ngụ đều bị thổ dân giết sạch…. giết hại tất cả đến vài vạn người, chỉ còn vài trăm người là qua được sông Gianh trở về Bắc Hà thôi”.

Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngô Thời Nhiệm, Đặng Trần Thường đều đã về Nam tìm gió mới, Nguyễn Du cũng từng đi nhưng không thành công.

Đặng Trần Thường một nho sanh Bắc Hà xuất sắc cũng đã vượt đường cái quan, qua sông núi biển xa vạn dặm vào đến Gia Định.

Đất Bắc với nạn nhân mãn, anh cả, nhà thờ họ, lũy tre làng, những con đê khổng lồ chặn hết phù sa, những ông lý như tiểu vương đã là nỗi ám ảnh của nhiều người Việt lúc đó.

Xuôi Nam là con đường mà họ chọn để theo nước đẩy thuyền.

“Tiếng ai than khóc nỉ non

Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông”

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, lập phủ Gia Định gồm hai huyện: Phước Long kể từ tả ngạn sông Sài Gòn ra bờ biển Đông và Tân Bình kể từ hữu ngạn sông Sài Gòn tới sông Vàm Cỏ Đông.

Người Miền Nam là con cháu Nam Kỳ, vốn là xứ của lưu dân Ngũ Quảng hiệp cùng người Minh Hương, Chàm, Khmer và bổn địa như Stieng tạo ra.

Cái máu Bắc trong người Miền Nam khai hoang không có bao nhiêu.

Ông bà ta nói đất sanh ra người, người là hoa của đất, là tinh túy của xứ sở, đất tạo ra tâm tánh người dân.

Chúa Nguyễn áp dụng những chánh sách cai trị rất khôn khéo, trước khuyến khích tạo điều kiện cho dân vào Nam khai hoang lập ấp, nói chung làm ăn ổn định cuộc sống trước đã. Sau khi cuộc sống của dân cư đi vào ổn định, Chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách thuế trên đất Miền Nam.

Người Nam Kỳ là dân khai hoang tứ xứ, vì kinh hoàng với xứ Bắc nên họ tạo ra văn hóa Nam Kỳ khác văn hóa Bắc rất nhiều, ví dụ chuyện dòng tộc, lũy tre làng là không có ở xứ Nam.

Miền Nam không có Thị Mầu, không có Chị Dậu, không có Chí Phèo, không có cảnh người dân ngụ cư, làng này đánh làng khác.

Người Miền Nam không lập gia phả, không có chế định nhà thờ họ. Nam Kỳ thời chỉ thờ cúng trực hệ tổ tiên trong 4 đời.Nam Kỳ bỏ “cả”, chỉ công nhận “hai”, cũng không lấy cái đình làng làm nơi dọa nạt người dân.

Lịch sử lưu dân Nam Kỳ quá trẻ, quá gần, không có nhiều quá khứ, nhưng quá khứ huy hoàng.

Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc. Tánh Nam Kỳ lửa rơm dễ nóng, dễ cháy. Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn.

“Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mượn chén ăn cơm

Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi”

Đất Nam Kỳ không dễ dàng mà có, ông bà cũng nẻ chưn tét da, rướm máu, mẻ xương, mất mạng mà giành nó, giữ nó và xây dựng, phát triển nó. Quá trình dài và đầy máu, nước mắt, ai đọc sử cũng sẽ biết quá trình này.

Một hột giống gieo xuống đất, đất đó phải xới, phải vun bồi, tưới tẩm, phải dẫn nước, xẻ mương, mưa thuận gió hòa qua sự điều hòa của trời đất thì hột mới nẩy mầm cho ra cái cây, sanh bông kết trái.

Miền Nam có những mùa hạn khô queo không còn một miếng nước cực khổ thấu trời. Có những vùng nước tù đọng muỗi mòng rắn rít, những vùng phèn vàng khè cháy da cháy tóc. Ông bà Miền Nam phải đổ xương máu ra khai phá, đào kinh, xẻ mương, lên liếp.

Nói gọn lại là đất Nam Kỳ không phải tự dưng trên trời rớt xuống cái chủm cho người Việt, đất này gốc của Phù Nam rồi Cao Miên, người Việt phải trầy vi tróc da giữ nó, khai phá nó mới có cơm gạo.

Prei NoKor, Phiên Trấn, Gia Định, Phan An, Sài Gòn đã thành một đô thị an vui, no ấm, thạnh vượng của Nam Kỳ Lục Tỉnh, là đô thành của Lục Tỉnh.

“Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn

Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi.

Lạc thổ nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc”

Đất Nam Kỳ từ khi lưu dân cắm đất khai phá và Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược thì cha ông chúng ta luôn hướng tới tự do, dân chủ, tôn trọng và muôn đời là như vậy.

Sài Gòn là sản phẩm của người yêu chuộng tự do, của tinh hoa Nam Kỳ Lục Tỉnh.

“Sài Gòn dễ ở khó về

Trai đi có vợ, gái về có con”

Sài Gòn là cái đỉnh cao của văn minh kiểu Lục Tỉnh, cách chơi Lục Tỉnh, tâm hồn Lục Tỉnh.

Tây Sơn tràn vào, không phải tự dưng mà có “Thảm sát cù lao Phố”, “Thảm sát Chợ Lớn”, “Hủy diệt Mỹ Tho đại phố”.Mục đích là kiếm một mớ rồi nhân tiện tiêu thổ luôn.

Những ngày đầu từ Phú Xuân vô Nam thì chúa Nguyễn Ánh cũng không là cái gì, chẳng có danh gì ngoài cái danh “cháu Chúa Nguyễn”.

Lúc này Nam Kỳ đã có quân đội, dân và hào phú Ba Giồng vì chống sự cướp bóc, giữ an xóm làng đã hùn tiền của, góp con cháu lập ra đạo quân Đông Sơn 3.000 người do Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy.

“Năm nầy Thanh Nhơn mới có 42 tuổi, khí lực cường tráng, tánh nết thẳng ngay, dám nói dám làm, không kiêng không vị”(Đỗ Nương Nương báo oán-Tác giả: Hồ Biểu Chánh)

Khi Tân Chánh Vương lẫn Thái Thượng Vương bị Tây Sơn bắt giết ở Sài Gòn thì chúa Nguyễn Ánh nổi lên như người kế thừa khôi phục sự nghiệp của họ Nguyễn.

Năm 1777 Đỗ Thanh Nhơn đưa Nguyễn Phước Ánh lên làm tôn chủ cho chánh danh. Năm 1780 chúa Nguyễn Ánh xưng vương.

Và chúa Nguyễn Ánh lập mưu giết Đỗ Thành Nhơn đặng đoạt binh quyền.

Chúa Nguyễn Ánh đụng ngay sự phản kháng và bất hợp tác của thuộc hạ ông Nhơn là Võ Nhàn, Đỗ Bảng là những phó tướng, đầu lãnh của ông Nhơn, họ dẫn quân đi gần hết, cát cứ vùng khác.

Một thời gian dân Nam Kỳ tẩy chay chúa Nguyễn Ánh. Tây Sơn lại hành quân vào, chúa Nguyễn Ánh đánh không thắng được trận nào, chỉ biết chạy lòng vòng.

Võ Tánh là em Võ Nhàn, Võ Nhàn chống lại Nguyễn Ánh và cũng bị giết chết, vì vậy Võ Tánh phải bỏ đi chổ khác, sau cùng dẫn binh về cát cứ ở Gò Tre Gò Công.

Từ năm 1784, quân đội Võ Tánh với đạo quân “Khổng Tước nguyên võ” là lực lượng duy nhứt dám dàn trận công khai đánh chận Tây Sơn ở Gia Định. Chúa Nguyễn Ánh nhiều lần “chiêu dụ” Võ Tánh nhưng ông làm ngơ, không thèm nhìn vì thù anh, ông tự mình đánh Tây Sơn.

Năm 1788 Võ Tánh nghe theo lời các tướng thân cận như Mạc Văn Tô, Nguyễn Văn Hiếu mới đồng ý theo Nguyễn Ánh vì hai chữ “chính danh”.

Tức là Võ Tánh bỏ qua tình riêng.

Nhà Nguyễn được thành lập là nhờ dân Miền Nam.

Chúng ta hiểu rằng với dân Nam Kỳ, họ Nguyễn Phước là họ tượng trưng nhưng không phải là số một.

Tỷ dụ vua Gia Long biết ông Lê Văn Duyệt là người ít học nhưng thẳng thắn và làm kinh tế giỏi nên đối với ông Duyệt có sự biệt đãi, ông Duyệt trung thành nhưng lại có cái cách “thinh thang” kiểu Nam Kỳ khi Nam Kỳ cho tự do tôn giáo, mua bán,thông thương, dân an vui no đủ.

Vua Minh Mạng tìm cách phá bỏ ảnh hưởng của phe Nam Kỳ trong Gia Định sau cái chết của ông Duyệt.

Vua đã đưa vào đất Nam “người của mình”, đám này chủ yếu có quê gốc ở Trung và Bắc để thực hiện những đường lối chánh sách mới,kiểm soát và nắm kinh tế, bỏ những ảnh hưởng của phái Gia Định và xóa bỏ mọi uy tín của vị Tả Quân trong dân chúng.

Dân Nam Kỳ đã trả lời bằng cuộc đảo chánh của Lê Văn Khôi.Bộ sậu có con cháu Nguyễn Văn Tồn, Nguyễn Văn Thoại, Mạc Cửu… những vị khai quốc công thần xưa.

Mắc cười thay! Lê Văn Khôi là người gốc Bắc. Điều này chứng tỏ rằng người Miền Nam không bao giờ câu nệ xuất thân, gốc gác, máu mủ. Cứ cùng chung suy nghĩ, cùng bảo vệ quyền lợi thì cứ mặc sức mà thể hiện.

Cuộc đảo chánh này không có phương hướng rõ, do dự, chần chừ và bị vài phần tử phản bội do “hèn” sau lưng nên rốt cuộc không thành công.

Dù trấn áp được cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi thành công, nhưng từ thời Minh Mạng triều đình Huế đã không còn “uy tín” như thời vua Gia Long.

Sau 1862 Nam Kỳ thành thuộc địa của Pháp.

Nghị định 82 ký ngày 6.4.1878 toàn Nam Kỳ phải chuyển sang chữ Quốc Ngữ, tức chữ La Tinh.

Tức là thủ tiêu chữ Hán và phải học chữ Quốc Ngữ.

Năm 1878 chữ Quốc Ngữ áp dụng ở Nam Kỳ đầu tiên, các “tổ sư” chữ Quốc Ngữ áp dụng đầu tiên toàn dân Nam Kỳ như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản…

“Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện…”(Trương Vĩnh Ký “Vần quốc ngữ” xuất bản năm 1876).

Trong văn hóa Việt tộc ta, vì xài chữ Quốc Ngữ nên Việt Nam được coi là nước theo hệ chữ La Tinh, nhưng Việt khác các quốc gia Tây khác như Anh hay Pháp là chữ Quốc Ngữ có rất nhiều dấu.

Chúng ta đã có chữ viết, chữ La Tinh tuy là “vay mượn” Tây, nhưng nó thể hiện đúng nhứt về cấu trúc cách nói, ngữ âm của dân tộc Việt, chỉ có 24 chữ ráp lại, thêm dấu là xong, thể hiện đúng hình và thanh của dân tộc Việt.

Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo, do Pháp lập năm 1865, với chủ bút Trương Vĩnh Ký, rồi Huỳnh Tịnh Của. Tiếp đó đến tờ Nam Kỳ Nhật Trình (số 1 ra ngày 21/10/1897), Nông Cổ Mín Đàm (số 1: 1/8/1901), Lục tỉnh tân văn (số 1: 15/1/1907) v.v…

Theo tài liệu của Nguyễn Văn Trung (công bố năm 1987), cuốn tiểu thuyết quốc ngữ sớm nhứt viết theo lối Tây phương là “Thầy Lazzaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, xuất hiện ở trong Nam ngay từ 1887 và bản dịch Tam Quốc Chí đầu tiên, cũng khởi đăng trên Nông Cổ Mín Đàm, số một. (Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học).

Ông Phạm Quỳnh vào Nam năm 1918 hết hồn thấy báo chí, nhựt trình trong Nam nhiều quá.

Người Bắc 54 vô Nam ngạc nhiên khi có cảnh người đạp xe xích lô ở Sài Gòn, buôn gánh bán bưng vào buổi trưa tìm chỗ mát nghỉ ngơi, ngồi gác chân đọc nhựt trình, cảnh không thể có ở ngoài Bắc.

Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì Miền Nam có truyền thống đọc sách báo của người bình dân mà ở ngoài Bắc không có, bởi Miền Nam đã là vùng đất của quốc ngữ và báo chí, tiểu thuyết, ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khiến nền văn chương bình dân phát triển mạnh ở trong Nam, trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học trung lưu.

Tới năm 1910 chánh phủ Đông Pháp mới áp dụng chữ Quốc Ngữ ở Bắc Kỳ.

Nhớ hồi năm 2009 dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng muốn hiến tặng tượng cha A Lịch Sơn Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cho Hà Nội.

Linh Mục Alexandre de Rhodes (1591 – 1666) là người có công lớn nhứt với chữ “Quốc Ngữ” Việt Nam ta.

Tuy nhiên sau đó ông Phạm Văn Hạng đã bị một số người lên án thất kinh. Trong khi Sài Gòn đã có đường Alexandre de Rhodes từ xưa rồi.

Hà Nội không thể chấp nhận một con đường mang tên Alexandre de Rhodes nhưng lại có đường Mạc Đăng Dung thì cũng đã thể hiện suy nghĩ Nam Bắc khác nhau rồi.

Đi sau Miền Nam nhưng vẫn thích ta đây là anh cả, vẫn thích bố đời.

Thí dụ nữa là, đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho có từ năm 1885 (ngưng chạy năm 1958). Dân Nam Kỳ kêu và đặt tên là “xe lửa” là từ chuẩn.

Xe vì nó chạy trên bộ, nhưng nó chạy bằng đường ray sắt và đầu máy hơi nước phun ra khói lửa nên kêu là xe lửa, trúng bài.

Sân bay Tân Sơn Nhứt xây ở Nam Kỳ đầu tiên, dân Nam Kỳ kêu sân bay là phi trường, phi cơ, phi công.

Không biết vì sao từ máy bay thành tàu bay, từ xe lửa thành tàu hỏa?

Bắc thời đó là xứ kém văn minh, bị bỏ quên, tới những năm 1900 vì toàn quyền Paul Doumer muốn lấy Hà Nội làm bàn đạp tấn công qua Vân Nam nên mới dời thủ đô từ Sài Gòn về Hà Nội và bắt đầu xây hạ tầng.

Nên nhớ thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers và ông Paul Blanchy, Chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ đều chống đối chuyện đem ngân sách Nam Kỳ đầu tư ra Bắc.

Hà Nội toàn đi sau Nam Kỳ.

Nam Kỳ định hình, khái niệm xe lửa, dầu hôi, xe hơi, phi trường, phi cơ là của người Nam đặt ra đầu tiên.

Bắc đi sau nhưng rất khoái dạy đời, sửa chữ.

Sửa sạch sẽ, từ “nhựt” thành nhật, “bịnh” thành bệnh, “bổn” thành bản, “lộ” thành đường, “nhứt” thành nhất, “bịnh” thành “bệnh”, “dòng” thành “giòng”….

Cái gì mà tàu bay, tàu hỏa, cảng hàng không, dầu hỏa?

Và nay lại sửa chữ Quốc Ngữ theo âm Bắc, dám nói đọc kiểu Nam là sai? Bắc đứng ở chuẩn nào mà dám nói mình chuẩn nhứt?

Trong gần 100 năm dân Nam Kỳ chỉ biết có Paris mà không nhớ Huế chứ đừng nói tới Hà Nội.

Vua Nguyễn chỉ là một chút hoài niệm của người Nam Kỳ. Dân Nam Kỳ chỉ biết có Thống Đốc, quan chủ tỉnh, chủ quận, đốc phủ sứ, ông hội đồng.

Thành ra giai đoạn Quốc Gia VN, Quốc trưởng Bảo Đại đâu có ở Sài Gòn lâu, ông thích ở Đà Lạt nhiều hơn, ông thích ở bên Pháp, bên Cannes nhiều hơn VN.

Đến độ lúc bị ông Ngô Đình Diệm làm trưng cầu dân ý lật đổ mà Bảo Đại có mặt ở Sài Gòn đâu.

Quốc trưởng Bảo Đại dính với Nam Kỳ nhờ lấy bà Nam Phương hoàng hậu, nếu soi kỹ ông không có dấu ấn nào với đất Nam Kỳ Lục Tỉnh.

Quốc trưởng Bảo Đại không đủ uy tín để cầm đầu đất Nam Kỳ.

Sử dạy cho chúng ta trước nhứt là kinh nghiệm vì lịch sử không chỉ có quá khứ, sử nối liền quá khứ với hiện tại và tạo ra nền tảng tương lai.

Bạn nhìn quá khứ, cảm nhận hiện tại, hiểu hiện tại và hình dung ra tương lai, hết thảy nó đi theo một quy luật nhứt quán.

Lịch sử chánh trị Việt Nam xưa nay là lịch sử của biến động, chánh trị của binh đao, máu và nước mắt.

Nhứt là khi xuất hiện xứ Đàng Trong, xứ Nam Kỳ thì người Bắc hết còn vai trò “độc quyền” trong chánh trị nữa, sĩ phu Bắc Hà không thể khua môi múa mép nữa.

Nam, Bắc, ta có nhiều điều vui và buồn từ ngày đó.

Sài Gòn là đô thành, đẹp tuyệt vời, đẹp từ những cái tên đường.

Một nhạc sĩ đã viết rằng:

“Cùng nhau đi tới Saigon

Cùng nhau đi tới Saigon

Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do

Dừng chân trên bến Cộng Hòa

Người Trung Nam Bắc một nhà

Về đây chung sống hát khúc hoan ca”

Xin ghi nhớ Trần Đại Định, Võ Tánh,Tả Quân Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy,Cha Cả Bá Đa Lộc, Lê Quang Định,Trịnh Hoài Đức, Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hui Bon Hoa, Quách Đàm… đã ghi dấu ấn ở đất này.

Đất Miền Nam là đất dân chủ, tự do, biết vị nhân tâm, hễ ai theo luật chơi thì cứ ở lại.

Người Miền Nam không bao giờ nhìn họ hàng xa, cũng không bao giờ lấy số đông dòng họ ra “đè” người ta.

Người Miền Nam không quan trọng huyết thống kiểu “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

Ai cũng biết câu đặc tánh Miền Nam “Bán bà con xa mua láng giềng gần”. Đi đám hay đi ra dường tự dưng có người lạ hoắc xấn xổ nhào lại nhìn bà con xa thì người ta sẽ cảnh giác liền, muốn cái gì đây?

Miền Nam cũng như Huê Kỳ là một hợp chúng quốc tứ xứ, ai có khả năng, tôn trọng luật chơi, biết giữ đạo lý, biết giữ quyền lợi là cứ chơi.

Vũ Tài Lục nói rằng: “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chánh trị” nên chúng ta phải siêng tìm sử.

Và thêm một câu nữa xin góp là: “Hãy đọc sử với tư cách của người tử tế”.

Lịch sử dân tộc này khá phức tạp, Nam Bắc vốn đã từng là hai quốc gia riêng và cách suy nghĩ cũng có nhiều khác biệt.

“Tinh hoa” Bắc V gì mà “tụ lại”, “dồn vào” khi mà văn hóa, cách sống, hát xướng, cấu trúc xóm làng, cúng tế, lễ nghi Nam Bắc đều khác nhau.

Bà bóng và cách thức lên đồng Nam Bắc cũng khác nhau mà.

Nội ẩm thực, ăn uống cũng khác nhau nữa. Hãy nhớ, đoàn kết là sự tôn trọng, tử tế chứ không phải dạy đời và áp đặt.

Không bàn tới yêu hay ghét kiểu lý tính, không nói ý thức hệ, bỏ hết, cũng không làm “phản động” như người ta hay nói, cứ nhìn lịch sử thôi và so sánh, ai không dám nhìn là đã thua nặng.

Lịch sử rất công bằng, nếu cứ cố níu kéo, cứ phá, cứ làm nó nát bấy tất sẽ có sự trừng phạt, khi đó còn tàn khốc hơn trong thực tế.

Lịch sử đã cho người đọc sử thấy rõ ràng là xứ Bắc thời cuối nhà Lê trung hưng đã rất uể oải và không còn cái gì thì lấy đâu ra “tinh hoa” xuôi Nam. Khi mà Lê Chiêu Thống ôm Tàu về, khi mà một anh “sơn dã” người phía nam sông Gianh như Nguyễn Huệ vô Thăng Long, một anh buôn trầu như Nguyễn Nhạc nhìn vua tôi nhà Lê khinh khỉnh coi thường trước hình ảnh ông vua già tàn tạ Lê Hiển Tôn lê lết lấy hơi lên sắp chết.

Thiệt là dở khi cố đào mồ mả tìm cho ra huyết thống. Để làm gì? Mọi sự là con người thực tại, là đầu óc thực tại, nó không phải chỉ là quá khứ.

Không ai cạp quá khứ ra ăn hoài để no bụng.

Thế giới văn minh luôn xiển dương sự tôn trọng nhau, có tôn trọng mới hiểu biết được.

NGUYỄN GIA VIỆT

 Ghi chú: Nên đọc thêm ” Khẩn Hoang Miền Nam” của Sơn Nam để hiểu về đất phương Nam. (Phùng Văn Phụng)

Cây kim may – Đào Hiếu

Nhân vụ rùm beng “Việt Nam sắp sản xuất ô-tô-con hiện đại” do ông chủ mì ăn liền làm sếp, tôi xin kể lại câu chuyện về cây kim may mà tôi từng là người trong cuộc. Chuyện kể rằng:

Ngày xửa ngày xưa, vào khoảng năm 1978, 1979 gì đó, khi còn làm phóng viên báo Tuổi Trẻ tôi được (hay bị) đưa đi “vô sản hoá” tại nhà máy Sinco ở Sàigòn.

Nhà máy này vốn của chế độ cũ để lại, chuyên sản xuất máy may lấy hiệu là Sinco. Khi các “tồng chí” tiếp quản được ít lâu thì hết mẹ nó phụ tùng nên đếch hoạt động được.

Lúc tôi đến xin làm công nhân ở đó thì thấy Giám đốc cùng mấy anh kỹ sư, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội… đang ngồi bàn cách phục hồi hoạt động của nhà máy, để chế tạo cho được một cái máy may mang thương hiệu Việt Nam chính cống.

Các linh kiện của một chiếc máy may bàn đạp khá đơn giản nên không bàn tới. Mọi người đều tập trung nghiên cứu làm cái ổ thuyền, vì đó là bộ phận khó làm nhất.

Muốn làm cái ổ thuyền phải qua rất nhiều công đoạn: thiết kế bản vẽ, chọn nguyên liệu. Sau đó là thi công: những thợ phay, thợ tiện, thợ mài… giỏi nhất làm đi làm lại nhiều lần, rồi tới thợ nguội đo đạc chính xác từng “zem”, rồi đánh bóng, kiểm tra… rồi cho chạy thử.

Sau nhiều lần trục trặc, chiếc máy may nhãn hiệu Sinco do Việt Nam sản xuất cũng ra đời. Tuy nhiên hôm họp báo công bố sản phẩm, giám đốc nhà máy đã làm tôi ngạc nhiên khi nói:

“Thưa các đồng chí, chúng tôi có thể tự hào tuyên bố rằng chúng ta đã sản xuất được một chiếc máy may hoàn chỉnh trừ… cây kim!”

Bỏ mẹ! Tôi nghĩ thầm, cái ổ thuyền khó như vậy mà còn làm được, sao cây kim lai chịu thua?!

Kể từ đó đến nay, cái sản phẩm đầy tâm huyết, đầy tim óc của tập thể giám đốc, kỹ sư, công nhân nhà máy Sinco, cái “niềm thự hào thương hiệu Việt Nam” kia biến mất tăm và nhà máy Sinco chắc cũng đã bị phù phép thành cái quỷ quái gì rồi.

Bốn mươi năm sau, tôi gặp một cô bé công nhân trên xe buýt, nó nói:

-Con làm trong một nhà máy của Nhật tại khu chế xuất Tân Thuận.

-Chế cái gì?

-Cái kim may

Thưa quý vị,

Như vậy là cho đến năm 2018 này. Sau 40 năm, Việt Nam chúng ta cũng chưa chế tạo được cái kim may. Và cái máy may Sinco (không có kim) mà Việt Nam chế tạo được chắc cũng đang nằm trong viện bảo tàng!

Không phải nòi giống ta đần độn. Không phải dân tộc ta lười biếng…

Vậy thì vì cái gì?

Bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế từng nói:

“Thế giới gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển! Đầu tư nhiều đến thế, ODA nhiều đến thế (20 năm qua lượng ODA đổ vào Việt Nam lên tới gần 90 tỉ USD) nhưng đến bây giờ vẫn không phát triển được thì chỉ có thể là… không chịu phát triển!”

Sao vậy?

Vì thực ra “Đảng ta” không có khả năng lãnh đạo đất nước. Và vì chẳng biết làm cái cóc khô gì cả nên họ đã chọn công việc dễ nhất và hiệu quả nhất là tham nhũng.

Bây giờ tới chuyện “sản xuất ô-tô hiện đại” xem ra cũng chỉ là lắp ráp theo dây chuyền công nghệ và linh kiện của nước ngoài.

Chuyện đó cũng chẳng mới mẻ gì vì Toyota. Huyndai, Fiat, Samsung, Sony… đã và đang làm.

Tôi ủng hộ anh bạn Mì Gói và cầu chúc anh thành công. Nhưng tôi muốn anh hiểu rằng đừng khoác lác. Đừng nổ. Vì nó rất kỳ!

Con đuòng còn dài lắm, chúng ta còn phải học hỏi nhiều, nhiều, nhiều, nhiều lắm.

Rất mong chúng ta đừng quên câu chuyên về nhà máy Sinco.

Họ đã cố gắng hết sức để làm cho được cái ổ thuyền vậy mà còn cái kim may cho đến giờ vẫn chưa làm được, đủ hiểu con đường công nghiệp gian khổ đến nhường nào!

Cây kim may –

Đào Hiếu

ngày 3/10/2018

LeVanQuy sưu tầm 

Rúng động cung đình Cộng sản

Rúng động cung đình Cộng sản

Lê Văn Đoành

15-7-2022

Nhiều người dự báo, đại hội lần thứ 13 của đảng CSVN là con số “tử”, không tốt, sẽ lắm nhiễu nhương. Thực tế xảy ra đúng vậy.

Từ sau đại hội 13 đến nay, Bộ Chính trị đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, cựu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Hàng loạt Uỷ viên Trung ương bị kỷ luật đảng, bị cách chức, khai trừ, bị khởi tố bắt giam, như: Nguyễn Thành Phong, Trần Văn Nam, Nguyễn Thanh Long, Chu Ngọc Anh…

Tất nhiên con số nêu trên chưa dừng lại ở đó, khi mà cuộc thanh trừng nội bộ và tranh giành quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của đảng đang đến hồi “một mất một còn”.

***

Trong hai ngày 12 và 13-7-2022, tại thành phố Nam Ninh, khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc, ông Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, đã cùng Vương Nghị, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc đồng chủ trì Phiên họp lần thứ 14 Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc. Thế nhưng tin nội bộ “rò rỉ” cho biết, Phạm Bình Minh đang tìm kiếm sự ủng hộ từ các đồng chí “bạn vàng” bên kia biên giới vì sinh mạng chính trị của ông ta đang bị đe doạ.

Từ Trung Quốc trở về, Phạm Bình Minh phải dự cuộc họp Bộ Chính trị do Nguyễn Phú Trọng chủ toạ vào chiều 14-7-2022.

Nội dung cuộc họp gói gọn trong vấn đề nhân sự:

– Nguyễn Hòa Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chánh án tối cao, làm Bí thư thành uỷ Hà Nội

– Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương, Tổng Kiểm toán Nhà nước, làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội

– Ngô Văn Tuấn, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình làm Tổng Kiểm toán Nhà nước

– Nguyễn Văn Thể, Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng GTVT, làm Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương

– Trần Văn Sơn, Uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (VPCP), làm Bộ trưởng GTVT

– Nguyễn Xuân Ký, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh, làm Bộ trưởng Chủ nhiệm VPCP

– Đào Hồng Lan, Uỷ viên Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, giữ quyền Bộ trưởng Bộ Y tế

Bộ đôi Nguyễn Hoà Bình (trên) và Trần Sỹ Thanh (dưới). Ảnh trên mạng

Tại cuộc họp này, Ủy ban kiểm tra Trung ương yêu cầu xem xét kỷ luật các ông:

– Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh do liên can trách nhiệm Vụ án “Đưa và nhận hối lộ tại Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao” liên quan đến các chuyến bay “giải cứu”.

– Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam liên quan đến hàng loạt sai phạm trong ngành y tế, giáo dục và vụ án test kit Việt Á.

– Đinh Tiến Dũng, Bí thư thành uỷ Hà Nội, sai phạm giai đoạn làm Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Tài chính nhiệm kỳ 2016-2021 về quy chế làm việc, công tác cán bộ, chính sách, quản lý, sử dụng vốn vay và ngân quỹ nhà nước; thiếu lãnh đạo, chỉ đạo thanh tra, kiểm tra đối với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Sở Giao dịch chứng khoán.

Như vậy số phận của một số Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương khoá 13 đã được định đoạt.

– Phạm Bình Minh có thể nhận mức kỷ luật “khiển trách”, vẫn yên vị đến hết nhiệm kỳ. Tuy nhiên, cuộc đua vào “tứ trụ” khoá 14 của ông Phạm Bình Minh xem như đã hết.

– Đinh Tiến Dũng tội nặng hơn, sẽ nhận mức “cảnh cáo”, bay chức Bí thư Hà Nội, sẽ bị điều về Học viện Chính trị quốc gia làm “tham mưu” cho Nguyễn Xuân Thắng.

– Vũ Đức Đam cũng sẽ nhận mức “khiển trách” để ngồi đến hết nhiệm kỳ, sau đó về đuổi gà.

– Nguyễn Văn Thể, người trước đây suýt bị khởi tố hình sự vì liên can đến Út “trọc” và công ty Yên Khánh, nay sẽ được điều về làm Phó Trưởng ban Ban kinh tế Trung ương, trám chỗ Nguyễn Thành Phong, kẻ sẽ bị khởi tố, bắt giam trong nay mai.

Sau nhiều đồn đoán, tranh chấp đến nỗi Uỷ ban MTTQ Hà Nội phải gây sức ép, đề nghị Thành uỷ Hà Nội kiến nghị Bộ Chính trị chốt nhân sự Chủ tịch UBND TP đang bỏ trống. Và chiếc ghế trống nay đã có chủ. Ngồi vào đó là Trần Sỹ Thanh, Uỷ viên Trung ương khoá 13, Tổng kiểm toán nhà nước.

Giấy mời họp của Thành ủy Hà Nội lúc 3h chiều nay. Ảnh: Lê Văn Đoành

Trần Sỹ Thanh là cháu của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Cha của Trần Sỹ Thanh và Nguyễn Sinh Hùng là anh em cô cậu ruột.

Trần Sỹ Thanh sinh năm 1971, tốt nghiệp đại học Tài chính kế toán Hà Nội. Trong vòng 18 năm (từ năm 2004 – 2022) ông Thanh đã kinh qua 18 chức vụ quan trọng. Nhưng thực tế, ông ta chẳng tài cán gì, chỉ là bác Nguyễn Sinh Hùng đã đưa cháu mình đi “tráng men” trên khắp các tỉnh thành cả nước.

***

Nhà nước cộng sản luôn rêu rao đây là “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, họ công kích chế độ phong kiến, nhưng thật ra, họ còn kinh hơn chế độ phong kiến rất nhiều. Câu ca dao xưa vẫn đúng trong chế độ cộng sản:

“Con vua thì lại làm vua/ Con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Bao giờ dân nổi can qua? Ngày đó sẽ đến rất gần. Nhìn Sri Lanka, khi mà tổng thống cùng gia đình bỏ chạy như những tên cướp, thì chắc chắn những người cộng sản đang run sợ, không biết lúc nào phong ba bão tố sẽ đến với họ.

Đảng CSVN lo sợ là phải, khi mà càng cố cũng cố quyền lực, càng thối nát rệu rã từ trung ương đến địa phương.

 STTD Tưởng Năng Tiến – Gia Tài Của Đảng

 STTD Tưởng Năng Tiến – Gia Tài Của Đảng

Tôi vừa được biết thêm (chút xíu) về sinh hoạt của giới thanh niên/sinh viên hiện nay, qua trang mạng của HaNoi University of Industry:

“Trong các ngày từ 22/4 đến 24/4/2022, đoàn cán bộ Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã tổ chức tham quan, dâng hương tại các ‘địa chỉ đỏ’ – địa danh lịch sử cách mạng tại dải đất miền Trung …  Đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa của Đại học Công nghiệp Hà Nội trong những ngày tháng tư lịch sử.

Đến với các ‘địa chỉ đỏ’ trong những ngày này, các thế hệ cán bộ, viên chức được trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc, cảm nhận sâu sắc hơn sự hy sinh anh dũng, lòng yêu nước và ý chí cách mạng của các thế hệ đi trước.”

Sao mà phải ra tới tuốt miền Trung, xa xôi dữ vậy kìa? Ngay tại Sài Gòn, “những địa chỉ đỏ” cũng đâu có ít. Báo Thanh Niên cho biết:

Bên phải góc đường Hai Bà Trưng – Lý Chính Thắng (TP.HCM) có một “địa chỉ đỏ” của chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mu Thân 1968. Đó là quán phở Bình nổi tiếng của vợ chồng ông Ngô Toại (Ngô Duy Ái).

Vì có vị trí chiến lược nên ngôi nhà số 7 Yên Đỗ (Lý Chính Thắng hiện nay) từ năm 1967 đã được chủ nhân cho cách mạng sử dụng làm cơ sở bí mật của Sở Chỉ huy tiền phương phân khu 6, tập kết các chiến sĩ biệt động để trực tiếp tham gia chiến đấu…

Ông Ngô Văn Lập, con trai ông Ngô Toại, nhớ lại: “Khi đó tôi mới 12 tuổi. Từ 20 tháng chạp năm 1968, mỗi khi có ai đến ăn phở đáp đúng mật khẩu theo quy định là tôi đưa họ lên tầng 2 cho các chú cấp cao …

Ngày 16.11.1998, ngôi nhà số 7 Lý Chính Thắng (quán phở Bình) được Bộ Văn hóa trao bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành niềm vinh dự cho gia đình ông Ngô Toại…Mang mấy tập hồ sơ dày cộp ra bàn, ông Ngô Văn Lập đưa chúng tôi xem bằng khoán điền thổ, trong tờ lược giải ngày 4.8.1967 có ghi rõ việc sang nhượng của chủ cũ cho ông bà Ngô Toại – Trần Thị Mỵ với giá tiền tương đương 3.600 lượng vàng.

Sau này, cả ba anh em tôi đều đi bộ đội, tham gia chiến trường Campuchia. Giải ngũ, tụi tôi về tiếp quản tiệm phở Bình buôn bán cho đến giờ kiếm sống mà không được hưởng chế độ gì. Bao năm qua vất vả, ba hộ gia đình chúng tôi gồm 16 người sinh sống trong khuôn viên quá chật hẹp do dành hết 1 tầng làm khu trưng bày di tích, phải cải tạo bếp ăn cũ ngày xưa để làm nơi trú ngụ.

Tôi bị bệnh nan y không có tiền chạy chữa, mà nhà cửa là di tích quốc gia nên không làm giấy tờ sở hữu hợp pháp để cầm cố ngân hàng vay mượn được. Mỗi khi tôi mang hồ sơ lên phường xin hợp thức hóa đều bị bác vì lý do “nhà đã xếp hạng di tích”, ông Lập bức xúc.

Ông Lập, tất nhiên, không phải là người đầu tiên hay duy nhất “bức xúc” như vậy. Quanh ông thiếu gì những kẻ đồng cảnh ngộ. Cách Phở Bình không xa là một “địa chỉ đỏ” khác – quán Thanh Bò Tơ, của Mẹ Việt Nam Anh Hùng Đỗ Thị Bê, ở Hốc Môn – cũng đang lâm vào trường hợp oái oăm tương tự.

Quán vắng tanh. Hình chụp ghế úp vào bàn (chắc cho đỡ bụi) nhưng vì đây là “di tích quốc gia” nên không sang nhượng được. Trước tình trạng sống dở (chết dở) của chủ nhân, nhà báo Uyên Vũ góp ý:

“Ông Lập cứ xé quách cái quyết định di tích lịch sử đi, đồng thời đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống ai, rồi cho thuê mặt tiền để người khác kinh doanh những thứ bổ ích và sinh lợi. Chắc chắn ông sẽ có tiền chữa bệnh, có tiền thuê một chỗ khác sống cho thoải mái cuộc đời. Giữ mãi cái vòng kim cô làm gì!”

Rồi ra – có lẽ – cũng sẽ đến lúc chủ nhân của những cái địa chỉ đỏ trên toàn quốc buộc phải hành sử thế thôi (“đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống aiđi” – mẹ nó, sợ gì?) chứ cứ dính mãi với gia tài của Đảng thì chắc chết, chết chắc.

Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị thượng dẫn nhưng vẫn còn rất băn khoăn về tình cảnh (thê thảm và bi đát hơn nhiều) của vô số những nạn nhân khác, nhất là phụ nữ. Tuy không có bất động sản bị in dấu (sao vàng) nhưng xác thân của chính họ thì đã mang đủ thứ thương tật về thể lý, cũng như tâm lý, không thể xóa nhòa.

Xin nghe qua mẩu chuyện nhỏ sau, về một cựu thanh niên xung phong – quê ở Nga Sơn, Thanh Hoá – đã từng “tình nguyện” phục vụ tại đường mòn Hồ Chí Minh:

Mỏi chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện, tiếng máy nổ ầm ì ở trong mỗi biệt thự.

Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang”. Cụ bạn bèn đến bên:

– Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
– Không ạ!
– Cô thấy nó đẹp không?
– Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…

Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khoát, đanh thép này chút nào.

Người phụ nữ nói tiếp: “Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

François Guillemot còn viết cả một thiên tiểu luận (Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)) về “hàng vạn thân thể phụ nữ bị hủy hoại, tàn phai, tật nguyền, và chao đảo mãi mãi.” Công trình nghiên cứu này đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas (*).

Chúng tôi xin phép ghi lại đôi câu để rộng đường dư luận, cùng với ước mong cũng được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả và dịch giả:

  • “Họ là những người đi trước mà về sau. Trước những trận đánh, họ luôn luôn đi trước để mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng, họ lại chính là những người về sau thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất liệt sĩ.”
  • “Đối với những cựu TNXP tuổi đời chỉ khoảng 20, việc quay về đời sống dân sự ở quê nhà là rất phức tạp. Sự hy sinh, khắc kỷ, dũng cảm trong những năm tháng chiến tranh tương ứng với thương tật, đớn đau và rối loạn tinh thần trong thời gian hòa bình… Những người này trở thành 5 không, sau khi cha mẹ mất đi: ‘không chồng, không con, không nhà, không chế độ, và độc thân.

Thực là một “gia tài đồ sộ” mà “đến đời con chắc chắn chưa trả được” – theo như nhận nguyên văn lời của nhà báo và nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng, trước khi ông bị bắt giữ vào hôm 05 tháng 7 vừa qua: “Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được”

TNT

(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.

Nguyễn Đức Chung, ví dụ cho ‘hàng gian, hàng giả’ mới… có giá trị!

Nguyễn Đức Chung, ví dụ cho ‘hàng gian, hàng giả’ mới… có giá trị!

Trân Văn

15-7-2022

Ông Nguyễn Đức Chung khi còn là Giám đốc Công an Hà Nội, ngày 20/05/2013. Nguồn: Reuters

Kết quả phiên xử phúc thẩm ông Nguyễn Đức Chung “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” chứng minh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chuyên sản xuất, sử dụng “hàng gian, hàng giả”.

Kết quả phiên xử phúc thẩm ông Nguyễn Đức Chung “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (1) chứng minh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chuyên sản xuất, sử dụng “hàng gian, hàng giả”.

***

Ông Chung, một… Tiến sĩ Luật, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (BCH TƯ) đảng CSVN, Đại biểu Quốc hội, Thiếu tướng công an, Chủ tịch thành phố Hà Nội kiêm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội đã trở thành bị can, rồi là bị cáo trong ba vụ án hình sự. Vụ thứ nhất là “chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước”. Vụ thứ hai là “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Vụ thứ ba là “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Sở Kế hoạch Đầu tư (Sở KHĐT) thành phố Hà Nội.

Ở vụ án đầu tiên, ông Chung bị phạt năm năm tù. Trong vụ án thứ hai, lúc đầu, ông Chung bị phạt tám năm tù nhưng khi phúc thẩm, hệ thống tư pháp giảm cho ông ba năm tù vì đã cùng các đồng phạm “khắc phục hết hậu quả” (tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại được xác định là 36,1 tỉ) nên hình phạt chỉ còn ba năm tù (2). Sang vụ án thứ ba, Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm phạt ông Chung ba năm tù nhưng mới đây, HĐXX phúc thẩm giảm cho ông một năm tù.

Theo HĐXX phúc thẩm, sở dĩ hệ thống tư pháp tiếp tục giảm hình phạt cho ông Chung thêm một lần nữa vì đại diện Viện Kiểm sát – nơi nhân danh nhà nước (tập thể đại diện cho nguyện vọng và lợi ích của dân chúng) truy tố những cá nhân vi phạm luật pháp – cho rằng có… “tình tiết mới” để… “giảm hình phạt”Ông Chung vừa bổ sung 85 “tài liệu” là… bằng khen, giấy khen, kỷ niệm chương, huân chương của ông cũng như của… cha mẹ ông,…

Cần lưu ý, ở vụ án thứ hai, ông Chung tự nguyện nộp lại 25 tỉ trong 36,1 tỉ được xác định là thiệt hại do “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” để tác động đến việc chọn chế phẩm khử trùng sông rạch, ao hồ nhằm giúp gia đình ông thu lợi từ việc độc quyền nhập cảng – phân phối chế phẩm này (3), nhờ vậy, ông Chung được giảm ba năm tù. Còn trong vụ án thứ ba, dù vẫn là “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”để tác động đến việc chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ “số hóa” hoạt động của hệ thống công quyền ở Hà Nội, gây thiệt hại cho công quỹ hơn 26 tỉ nhưng hệ thống tư pháp chỉ buộc các thuộc cấp của ông Chung phải nộp tiền bồi thường (tổng cộng hơn sáu tỉ). Ông Chung vừa không phải chịu “trách nhiệm dân sự”, vừa được giảm hình phạt nhờ… “85 ‘tài liệu’ là… bằng khen, giấy khen, kỷ niệm chương, huân chương…” Điều đó có nghĩa là sau hai lần được giảm hình phạt trong ba vụ án mà tổng thiệt hại gây ra cho công quỹ được xác định khoảng 60 tỉ và rũ sạch toàn bộ “trách nhiệm dân sự” bất kể công quỹ vẫn còn tổn thất khoảng 20 tỉ, theo qui định của pháp luật, lúc thụ án (hình phạt tổng hợp từ ba vụ án giờ chỉ còn 12 năm), ông Chung sẽ sớm được xét giảm hình phạt thêm nhiều lần nữa! Khoan bàn đến mức độ công minh của hệ thống tư pháp, chỉ nhìn vào những “tài liệu” được tuyên bố là “tình tiết mới”, chẳng lẽ giá trị của chúng xấp xỉ… 20 tỉ?

***

Cả hệ thống chính trị, hệ thống công quyền, lẫn hệ thống tư pháp, hệ thống truyền thông chính thức đều đã lờ đi yếu tố, ông Chung chỉ từng là Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, Thiếu tướng công an, Chủ tịch thành phố Hà Nội kiêm Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội. Ai cũng có thể tính được mức thu nhập bình quân của những cá nhân đảm nhận các vai trò này, thế thì tại sao những hệ thống vừa kể không thắc mắc, vì sao ông Chung có tới 25 tỉ để “khắc phục hậu quả” trong vụ án thứ hai?

Nếu 25 tỉ mà ông Chung đã dùng để “khắc phục hậu quả” trong vụ án thứ hai là do phạm tội mà có, tại sao không điều tra – truy cứu trách nhiệm hình sự của ông Chung vì “tham ô” hay “nhận hối lộ” (hình phạt vốn là chung thân hay tử hình) mà lại chọn “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”? Tuy không dễ chứng minh ai đó đã “tham ô” hay “nhận hối lộ” nhưng dựa vào thu nhập bình quân của viên chức với khoản tiền của những cá nhân như ông Nguyễn Đức Chung tự nguyện “khắc phục hậu quả”, có thể kết luận ngay lập tức những viên chức ấy thuộc loại “giàu có bất minh” hay không. Tuy thiên hạ có thể dễ dàng xử lý những viên chức “giàu có bất minh” nhưng Việt Nam thì không bởi theo chủ trương của Bộ Chính trị và BCH TƯ đảng, Quốc hội khăng khăng từ chối làm như thiên hạ: Xem “giàu có bất minh” là tội phạm. Năm 2015, khi sửa Luật Hình sự, Quốc hội gạt bỏ đề nghị xem “giàu có bất minh” là tội phạm theo tinh thần Công ước Chống tham nhũng của Liên Hiệp Quốc (4). Năm 2018, khi sửa Luật Phòng chống tham nhũng, Quốc hội tiếp tục gạt bỏ đề nghị xử lý những viên chức không thể giải trình hợp lý về nguồn gốc tài sản (5). Với tư cách là Ủy viên BCH TƯ đảng, Đại biểu Quốc hội, ông Chung là một trong những cá nhân đã tham gia vào tiến trình vô hiẹu hóa các hình thức xử lý viên chức “giàu có bất minh”.

Đặt những danh hiệu kiểu như… Anh hùng các Lực lượng vũ trang, những phần thưởng kiểu như… Huân chương Bảo vệ tổ quốc Hạng NhấtHuân chương Chiến công Hạng Nhất,… của ông Chung và những tuyên bố kiểu như: Không tử hình viên chức tham nhũng là không công bằng (5) của ông Chung bên cạnh các tình tiết của ba vụ án như đã biết, có thể dễ dàng kết luận ông Chung là “hàng thiệt” hay… “hàng gian, hàng giả”. Không có những danh hiệu, phần thưởng, tuyên bố kiểu đó, ông Chung không thể leo cao, luồn sâu, tự tung, tự tác, gây ra những thiệt hại như vậy. Có lẽ chỉ ở Việt Nam, những chứng cứ chứng minh yếu tố “gian, giả” mới được gom lại để dùng như “tình tiết mới” nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo! Có lẽ cũng chỉ ở Việt Nam mới có chuyện các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền, thay vì xin lỗi, nhận trách nhiệm, tự xử vì đã sử dụng “hàng gian, hàng giả” gây họa cho quốc gia, dân tộc thì lại công khai bày tỏ sự đau xót do phải loại bỏ “hàng gian, hàng giả”! Chống tham nhũng không có vùng cấm, không chấp nhận ngoại lệ mà cương quyết không công bố các tờ khai tài sản của viên chức bởi đó là… “vấn đề nhạy cảm”, chỉ khăng khăng chọn xài “hàng gian, hàng giả” vì “gian, giả” không “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, không thắc mắc về sự bất toàn của thể chế thì đó là chống thật hay… chống giả?

Chú thích

(1) https://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/tuyen-an-cuu-chu-tich-ha-noi-nguyen-duc-chung-c46a1377409.html

(2) https://vnexpress.net/ong-nguyen-duc-chung-duoc-giam-3-nam-tu-4478905.html

(3) https://laodong.vn/su-kien-binh-luan/chu-dong-khac-phuc-hau-qua-la-su-khon-ngoan-cua-nguyen-duc-chung-1059583.ldo

(4) http://dantri.com.vn/phap-luat/giau-bat-thuong-co-the-bi-tich-thu-tai-san-1386181152.htm

(5) https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat/chinh-sach-moi/21990/quoc-hoi-thong-qua-luat-phong-chong-tham-nhung-sua-doi

(6) https://vietnamnet.vn/tuong-chung-tham-nhung-thoat-an-tu-thi-khong-cong-bang-239485.html

(7) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/tong-bi-thu-ke-khai-tai-san-can-bo-la-van-de-rat-kho-nhay-cam-1286576.tpo

Mafia đỏ Việt Nam

Mafia đỏ Việt Nam

12-7-2022

Đằng sau mỗi tay triệu/tỷ phú đỏ Việt Nam là một thế lực chính trị tại Hà Nội. Cho nên cứ mỗi khi có tranh giành quyền lực là có chuyện một tay triệu/tỷ phú đi tù.

Không biết có ai còn nhớ tay bầu Kiên làm bóng đá đình đám, tự tin và huênh hoang một thời? Anh chàng này vẫn đang ở tù đó thôi.

Riêng bầu Đức cũng ồn ào không kém nhưng có lẽ biết thân, biết phận nên im re dạo này.

Cướp, cưỡng chiếm đất đai. Tàn phá, đốn chặt rừng để thực hiện các dự án tiền tỷ bất chấp môi trường sinh thái bị đe doạ. Kết cấu với nhau để thao túng thị trường chứng khoáng hay kinh doanh bất động sản, phát hành trái phiếu, huy động tiền nhà đầu tư nhằm chiếm đoạt tài sản,… đó chỉ là bề nổi của tản băng tội phạm mà giới mafia tài chính Việt Nam bị truy tố bởi luật rừng, bởi sự thanh trừng lẫn nhau, dưới cái gọi là chống tham nhũng.

Đừng nguỵ biện nói đến sự thành công từ những ý tưởng hơn người của giới tỷ phú Việt Nam. Trong một môi trường tù tội, một cơ chế cứng nhắc và tham nhũng, không thể có tự do sáng tạo để khơi dậy những ý tưởng siêu việt như tại Silicon Valley chẳng hạn.

Hãy thử nhìn lại những ý tưởng của Phạm Nhật Vượng và Elon Musk thì ắt chúng ta sẽ rõ giá trị của sự thành công của họ.

Cái tài của giới tỷ phú đỏ Việt Nam là mánh mung, là xảo trá và biết chớp lấy cơ hội để chiếm đoạt và gây dựng ảnh hưởng chính trị.

Trong một môi trường tiến bộ, đó là tất cả những gì mà xã hội tẩy chay và lên án.

Những Đỗ Anh Dũng (Tân Hoàng Minh) hay Trịnh Văn Quyết (FLC) đang trong tù cũng như tất cả các triệu/tỷ phú Việt Nam khác có thể cũng đang lo lắng chờ đợi đến lượt mình…

Khó có thể hình dung những tay tội phạm kinh tế, tài chính ấy có thể đơn thân hành động, lũng đoạn nền kinh tế và làm giàu một cách bất chính nếu không có sự yểm trợ và bảo kê của các thế lực chính trị đằng sau.

Số tài sản kếch xù được cho là của họ nhưng chắc chắn rằng không ít cũng thuộc về các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Những khối tàn sản khổng lồ ấy, đôi khi được cướp đoạt từ xương máu và công sức lao động của người dân nghèo, có lẽ cũng đã được tẩu tán ra ngoài, nơi các thiên đường quốc tế về rửa tiền. Bọn tội phạm kinh tế chắc chắn đã toan tính và dự trù những kịch bản tệ hại nhất trong cuộc tranh giành quyền lực này.

Và một khi đã làm giàu một cách bất hợp pháp thì các tranh chấp tài sản, quyền lực sẽ rất tàn bạo và không còn chỗ cho tình đồng chí chuyên chính vô sản gì cả!

Họ thanh trừng nhau, bất chấp đời sống nghèo khổ của người dân lương thiện trong một xã hội đầy bất công và dối trá!

LONG AN: ĐƯỜNG ĐƯA VÀO SỬ DỤNG MỚI KHOẢNG 2 TUẦN THÌ LÚN SÂU TỚI 5 MÉT

*** Những công trình MADE IN CSVN

– LONG AN: SỞ NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÀM CHỦ ĐẦU TƯ LÀM ĐƯỜNG NÔNG THÔN – ĐƯỜNG ĐƯA VÀO SỬ DỤNG MỚI KHOẢNG 2 TUẦN THÌ LÚN SÂU TỚI 5 MÉT

Dự án đường liên xã Tuyên Bình Tây – Vĩnh Bình cặp sông Vàm Cỏ Tây do Ban Quản lý dự án nông nghiệp – thuộc Sở NN-PTNT Long An – làm chủ đầu tư. Tuyến đường dài 6 km – mặt đường rộng 4 m – có 1 cây cầu gần 40 m – tổng vốn đầu tư 10 tỉ đồng. Dự án khởi công năm 2021 – vừa hoàn thành đưa vào sử dụng cách đây khoảng 2 tuần. (Trích Thanh Niên)

Tưởng đâu Sở NN&PTNT thì sẽ làm ra các công trình chất lượng – hóa ra còn tệ hơn tư nhân làm….

TL Thoi luan.