Gửi nhiều sách góp ý xây dựng Đảng, cựu Viện trưởng SENA bị khởi tố theo Điều 331

Đài Á Châu Tự Do 

Ông Nguyễn Khắc Mai từ Hà Nội cho biết, ông là bạn thân với ông Nguyễn Sơn Lộ từ mấy chục năm nay.

Theo lời Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thì ông Lộ từng tham gia cuộc chiến với Mỹ và lập nhiều công trạng, tuy nhiên khi trở về thì ông nghiên cứu và tiếp nhận kiến thức đồng thời có những tình cảm đáng quý về tình hình của đất nước, về sự phát triển đời sống của nhân dân. Ông Nguyễn Khắc Mai nói với phóng viên Đài Á Châu Tự Do như sau:

“Gần đây thì anh ấy thành lập cái viện think tank về nghiên cứu và phát triển văn hóa.

Anh ấy khẳng định với chúng tôi là ‘bây giờ vấn đề văn hóa trở thành một vấn đề rất là lớn của thời đại và của dân tộc’ cho nên anh ấy muốn đóng góp vào lĩnh vực này, vào những hoạt động về văn hóa.

Anh ấy cũng là một số đầu sách nghiên cứu để kiến nghị một cách chân thành với những người lãnh đạo của đất nước, anh ấy thường cho in những tác phẩm ấy, những kiến nghị ấy về lĩnh vực kinh tế đặc biệt là về văn hóa cho những người lãnh đạo của đất nước.

Ban Kiểm tra Trung ương thì họ đã xuống làm việc với anh ấy và họ khẳng định rằng họ không cấm các anh ấy phát biểu ý kiến, kiến nghị nhưng mà họ chỉ đề nghị anh ấy đừng có phát tán rộng rãi.”

Theo đó, ông Nguyễn Sơn Lộ được khuyên không gửi các cuốn sách góp ý cho địa phương, các tỉnh thành, các Bí thư tỉnh ủy hay các Đại biểu Quốc hội mà chỉ nên gửi trong nội bộ, ví dụ như Ban Tổ chức, Ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo, Ban Bí thư, Bộ Chính Trị…

Cũng theo ông Nguyễn Khắc Mai thuật lại thì ông Lộ đồng ý chỉ gửi góp ý của mình tới những nơi có trách nhiệm, tuy nhiên không hiểu lý do gì dẫn đến chuyện bị khởi tố.

#RFAVietnamese #NguyenSonlo #SENA #Vietnam #VietnamHumanrights #MinhDuong

https://www.rfa.org/…/former-sena-chief-nguyen-son-lo…

Gửi nhiều sách góp ý xây dựng Đảng, cựu Viện trưởng SENA bị khởi tố theo Điều 331

RFA.ORG

Gửi nhiều sách góp ý xây dựng Đảng, cựu Viện trưởng SENA bị khởi tố theo Điều 331

“Nói là chống phá thì không đúng đâu, bởi vì anh ấy chỉ có cái tâm là xây dựng muốn đóng góp, muốn sửa lỗi, muốn cải tiến, muốn cho cái Đảng này, cái chính quyền này nó văn minh, văn hóa hơn”- ông Nguyễn Khắc Mai nói về người bạ…

Chuyện con bò trong tòa – Tuấn Khanh

Chuyện con bò trong tòa

Tuấn Khanh

Trong phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai ngày 20/7, luật sư Âu Quang Phục, người được gọi là bảo vệ cho bị hại Trần Ngọc Thảo tức ông Thích Nhật Từ, đã đặt một vấn đề với những người ở Tịnh Thất Bồng Lai, trước mặt phiên tòa, điều mà ai nấy đều phải ngỡ ngàng:

“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”

Luật sư Phục đưa ra câu hỏi này, bởi đơn tố cáo vì cho là bị xúc phạm của ông Trần Ngọc Thảo, nói rằng thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai đã phát biểu nói “Thích Nhật Từ ngu như bò”. Tức giận do bị so sánh với con bò nên ông Thích Nhật Từ đã làm đơn khởi kiện, nói bị xúc phạm danh dự cá nhân, nhất định hoàn toàn không thể là bò.

Thế nhưng câu hỏi được đặt ra mang tính đối chiếu của luật sư Phục khiến ai nấy ngỡ ngàng, thậm chí phải bật cười vì sự ấu trĩ – và phải nói rõ là ngu xuẩn về trình độ nhận thức – vì Chúa Giêsu dù được đặt ra ở bất kỳ vị trí nào cũng không hề liên quan gì với những người trong Tịnh Thất Bồng Lai.

Nhưng cần nhớ, câu hỏi kém cỏi của luật sư Phục cũng có thể đáng bị đặt vào tình trạng bị khởi tố theo Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, điểm C “Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị – xã hội”.

Chuyện cố ý đưa Đức Chúa Giêsu vào trong nội dung này chính là mang tính xúc phạm vô cớ, vì nhân vật Chúa Giêsu không liên quan đến vụ án, và không thể hiện bất kỳ sự suy luận kiến giải nào về việc so sánh ông Thích Nhật Từ ngu như bò, ngoại trừ khi ông Thích Nhật Từ tự coi mình ngang hàng với Chúa, và đặc biệt là hoàn toàn khác con bò.

Cần nói rõ là nội dung quyết định ở đây, đang được cân phân giữa ông Thích Nhật Từ và con bò, là hai thực thể rất rõ ràng.

Vấn đề là phía bị hại cần phải xác định rằng con bò có những điểm xấu như thế nào mà người ta so sánh với mình khiến mình cảm thấy bị xúc phạm, kể cả chuyện “ngu” ở mức nào là được so sánh với con bò.

Tuy vậy, ở một góc nhìn khác, việc so sánh một con người với một con vật đó là chuyện thường tình mang đầy tính văn hóa dân gian vẫn diễn ra trong xã hội, ví dụ người ta vẫn so sánh “Anh A làm việc chăm chỉ như một con ong” hoặc “Anh B suốt cuộc đời cặm cụi như một con kiến”, hoặc “Hắn làm việc như con trâu”. Sự kiện ông Thích Nhật Từ tức giận đâm đơn kiện, có thể coi là vụ kiện đầu tiên trong lịch sử tòa án Việt Nam về việc bất đồng so sánh với thú vật.

Trở lại câu hỏi rất “bò” của luật sư Âu Quang Phục, chắc chắn sẽ không ai ở phiên tòa xử Tịnh Thất Bồng Lai buồn nghĩ gì cả, vì câu chuyện này không liên quan với vụ án. Hơn nữa, câu hỏi này đầy tính khiêu khích, thể hiện chủ trương thù hằn tôn giáo.

Ông Trần Ngọc Thảo / Thích Nhật Từ trong các bài giảng của mình cũng đã có rất nhiều lần vô cớ công kích Chúa Giêsu và nội dung của tín ngưỡng Công giáo. Thế nhưng phía Công giáo Việt Nam đã đối xử với ông không khác gì người lớn thấu hiểu, nhìn thấy đứa con nít cứ chòi chọc tìm cách gây khó. Vì vậy không loại trừ là luật sư của ông Thảo cũng đã được hướng dẫn cách trình bày quan điểm so sánh tín ngưỡng như vậy ở phiên tòa này – dĩ nhiên trình bày kiểu như vậy thì rất “bò”.

T.K.

Nguồn: Tuấn Khanh’s Blog

Vụ Tịnh thất Bồng Lai và hệ thống lãnh chúa Việt Nam

Vụ Tịnh thất Bồng Lai và hệ thống lãnh chúa Việt Nam

Jackhammer Nguyễn

24-7-2022

Một người bạn vong niên của tôi tâm sự rằng, anh muốn về Việt Nam sống sau nhiều năm bôn ba xứ người. Anh bảo, Việt Nam bây giờ không phải sống dưới một chế độ khắc khe và ảm đạm như những năm anh bỏ nước ra đi.

Nhưng điều cuối cùng làm anh quyết định không quay về Việt Nam là… viên công an phường! Anh bảo, những câu nói lặp đi lặp lại về sự kiên định lập trường của ông Nguyễn Phú Trọng, hay là màu đỏ cộng sản bay phấp phới mọi nơi thì anh không… quan tâm, nhưng anh không thể cứ đi bia ôm hàng tuần với viên công an phường ấy được!

Câu chuyện viên công an phường đi bia ôm của anh bạn, theo tôi cũng chính là câu chuyện bản án tổng cộng mấy mươi năm tù mà các thành viên Tịnh thất Bồng Lai vừa lãnh. Viên công an bia ôm của anh bạn tôi, hóa thân thành công an huyện Đức Hòa, và một viên chức tu hành của chính phủ có tên là Thích Nhật Từ, có biệt danh trên mạng xã hội là ‘con bò’ (ông ta kiện Tịnh thất Bồng Lai ra tòa vì có người ở đó mắng ông ngu như bò).

Thích Nhật Từ (trái) và năm người ở Tịnh Thất Bồng Lai. Nguồn: RFA edit

Viên công an bia ôm, công an Đức Hòa, Nhật Từ ‘con bò’, chính là những viên lãnh chúa cỏn con ở địa phương của hệ thống cai trị Việt Nam hiện nay. Trên đỉnh của hệ thống này là các “đại công tước” ủy viên Bộ Chính trị. Phía dưới là 200 “công hầu” ủy viên Trung Ương đảng, cai trị các tỉnh và các bộ chuyên môn. Các vị công hầu này, tùy theo thời thế, lại là “bồi thần” (lãnh chúa đàn em) cho các “đại công tước” trên kia.

Xuống dưới cấp quận, làng, xã, phường là một hệ thống tương tự các lãnh chúa con con, nhưng đông đúc hơn, và đói ăn hơn. Các “đại công tước”, “công hầu” có nhiều bổng lộc hơn, “ăn chính sách” nhiều hơn, và có nhiều “bồi thần” cống nạp. Còn các lãnh chúa con con như viên công an bia ôm, công an Đức Hòa, hay Nhật Từ con bò, … phải bắt ép dân chúng như Tịnh thất Bồng Lai, hay gã “Việt kiều” tội nghiệp là bạn tôi.

Gã “Việt kiều” thì dù sao cũng có quyền định đoạt số phận mình, còn cụ Lê Tùng Vân và các thanh thiếu niên mồ côi của Tịnh thất Bồng Lai thì không có sự lựa chọn nào.

Nếu cụ Vân và Tịnh thất Bồng Lai không nổi tiếng, không nhận nhiều tiền của bá tánh đóng góp cho những chuyện xã hội của mình, thì có lẽ bàn thờ Phật, hay màu áo nâu sòng của họ chẳng làm phiền lòng viên chức tu hành Nhật Từ con bò. Nhật Từ cũng sẽ chẳng quan tâm đến chuyện Tịnh thất Bồng Lai có gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (bọn “xấu mồm” nói rằng đây là giáo hội quốc doanh) hay không. Hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn gia đình ở Việt Nam có bàn thờ Phật như thế, mặc áo nâu sòng như thế, chả ai đăng ký cả.

Bản án cuối cùng mà tòa Việt Nam phán cho Tịnh Thất Bồng Lai là “Lợi dụng quyền tự do dân chủ...”. Tất cả những “tội” được cơ quan tuyên giáo tung ra trước đây như là loạn luân (sic), lường gạt (sic) … đều không có.

Tội của Tịnh Thất Bồng Lai là nhận nhiều tiền quá, làm nhiều việc công đức quá, thế là “ảnh hưởng uy tín” của các viên chức tu hành. Các viên chức tu hành bèn cầu viện các viên công an Đức Hòa. Chuyện chỉ có vậy.

Phải chi Tịnh thất Bồng Lai … chia cho thùng phước sương của Nhật Từ con bò thì có lẽ sẽ không đến nỗi. Thùng phước sương này cũng có thể được chia cho các “bồi thần” công an Đức Hòa, thì mọi chuyện sẽ vui vẻ… cả làng!

Một viên chức Việt Nam giấu tên nói với tôi rằng, đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho chuyến về Việt Nam vào năm 2005 của Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị thất bại. Chỉ vì Thiền sư và Làng Mai nổi tiếng quá, các viên chức tu hành kiểu Nhật Từ, cảm thấy bất an, mà không chỉ bất an về tinh thần, họ còn cảm thấy bất an trong dạ dày nữa.

Thực ra chuyện dạ dày cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chế độ Việt Nam hiện nay được ổn định, vì hàng triệu nông dân bỏ quê lên phố, dù sao chăng nữa cũng có cái dạ dày đỡ lép hơn ngày trước, và họ chỉ mong có thế.

Nhưng đối với các viên chức tu hành thì nhu cầu cao hơn, theo đúng như tháp nhu cầu cơ bản của Maslow vậy. Ngoài chuyện ăn uống, ở… các viên chức này còn cần nổi tiếng nữa, cần nhiều tín đồ nữa. Cớ đâu mà ông Tùng Vân và Tịnh Thất lại ngáng đường như thế!

Tháp nhu cầu của Maslow

Câu đầu môi trong các quyển kinh Mác Xít mà các lãnh chúa Việt Nam, trong đó bao gồm cả các viên chức tu hành như Nhật Từ, leo lẻo lúc mới nhập môn là: Vật chất quyết định ý thức. Điều trớ trêu là các lãnh chúa ngày nay lại hay nói chuyện đạo đức, chuyện đốt lò, hơn là chuyện câu thần chú của ông tổ Karl Marx.

Đảng Cộng sản Việt Nam nên đưa vào “kho tàng lý luận” của mình cái tháp nhu cầu của ông Maslow nữa.

Anh bạn vong niên của tôi, đành phải sống buồn bả xa xứ, hơn là thỏa mãn nhu cầu bia ôm của viên công an phường vậy.

Mà nói cho cùng thì cái xứ ấy có còn là cái xứ của anh nữa đâu

Người mẹ Việt Nam và tử sĩ của hai miền Nam-Bắc

Người mẹ Việt Nam và tử sĩ của hai miền Nam-Bắc

Lê Nguyễn

27-7-2022

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,

Chinh phu, tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?”

(Chinh phụ ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn)

Sau hơn 20 năm chiến trận giữa hai miền Nam-Bắc, các bà mẹ của bên thắng cuộc được vinh danh ngất trời, có nơi dành vài trăm tỷ xây dựng tượng đài, vừa xây xong vội vàng gửi thư xin Trung ương rót tiền… cứu đói. Thôi thì, vinh danh các Mẹ cũng là điều hợp với đạo lý, nếu như bên cạnh việc làm này, người ta cũng biết cúi xuống cảm thông nỗi đau của những bà mẹ bên thua cuộc, ngày ngày quét bụi trên cái bàn thờ của thằng con tử sĩ VNCH hay tựa cửa mong ngóng ngày trở về của đứa con đi cải tạo nơi rừng xa, núi thẳm.

Sau cái ngày 30 tháng 4 ấy, người ta chứng kiến sự đoàn tụ của nhiều gia đình bị ly tán vì cuộc chiến. Một sự đoàn tụ kéo theo đủ niềm vui, nỗi buồn, có nhiều nụ cười, nhưng không thiếu nước mắt. Tôi vẫn thường kể lại trường hợp một bà mẹ hạnh phúc nhất trong những bà mẹ thời chiến, đó là bà mẹ người bạn đồng môn của tôi. Dưới chế độ VNCH, bà là mẹ một trung tướng kỳ cựu thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, sau 30.4.1975, được biết bà cũng là mẹ một thiếu tướng của bên thắng cuộc. Song đó chỉ là ngoại lệ. Bên cạnh bà mẹ hạnh phúc đó, có hàng chục, hàng trăm ngàn bà mẹ ứa nước mắt, ngày ngày thắp hương trên bàn thờ những đứa con không bao giờ trở về, dù của bên này hay phía bên kia.

Nhưng cay đắng và khó xử nhất lại là các bà mẹ có những đứa con trai mà hoàn cảnh xã hội đã đưa đẩy họ đứng ở hai bên chiến tuyến đối nghịch nhau. Cuộc chiến kết thúc, mẹ chứng kiến bao nhiêu cảnh xào xáo gia đình. Người anh đi tập kết trở về hằn học lên lớp thằng em trai theo “ngụy”, “ôm chân đế quốc”, “giết hại đồng bào”… người mẹ không kiên nhẫn được nữa, bà gào lên trong nước mắt: ”nó theo ngụy, nhưng nó nuôi tao sống tới bây giờ, mày theo cách mạng, mày có nuôi tao được ngày nào chưa?”. Nhiều tình huống gia đình như thế mà những bà mẹ sau cuộc chiến hẳn sẽ rất đau lòng khi chứng kiến.

Những ngày ở trại cải tạo Xuyên Mộc, một người bạn tù họa sĩ kể cho tôi nghe câu chuyện gia đình của một nữ viên chức cao cấp bên thắng cuộc, có người anh ruột là “ngụy dân” đang sống ở Sài Gòn. Cứ mỗi lần người phụ nữ này đến thăm nhà người anh là những con trai của ông này vừa nhác thấy bóng dáng người cô ruột đã đứng bật dậy, bỏ nhà đi chỗ khác. Hậu quả của sự ly tán lòng người khiến cho người nữ viên chức này ray rứt không yên.

Một người bạn đồng môn của tôi vừa qua đời cách nay mấy năm, vào thập niên 1970, từng trải qua những ngày cải tạo ở một trại thuộc vùng núi Châu Đốc. Bữa nọ, ban giám thị trại thông báo anh có một người anh ruột là Thiếu tướng NTB, tư lệnh phó một quân khu đến thăm, yêu cầu anh ra gặp. Anh trả lời thẳng thừng với họ: “tôi không có người anh nào tên NTB cả!”. Cuối cùng thì ông thiếu tướng đã thân hành vào tận nơi ở thăm cậu em “ngoan cố”. Câu chuyện đó nói lên lòng tự trọng của người thua cuộc, dẫu là trong chỗ ruột rà, nhưng quan trọng hơn, nó phản ánh một số thực trạng đáng tiếc của nhiều gia đình sau ngày 30.4 khi con cái họ từng ở hai chiến tuyến đối đầu nhau. Và người đau khổ nhất khi phải chứng kiến những thực trạng đó chính là những người mẹ.

Sáng nay (4.2019), mình đọc trên trang của bạn Báu Lại Thanh một bài viết ngắn thật ấn tượng. Bài viết trích dẫn truyện “Má Phải Sóc Trăng” của nhà báo Nguyễn Tiến Tường. Đó là câu chuyện về một người mẹ có mấy người con trai, thằng Tư đi lính VNCH, thằng Năm theo quân giải phóng, thằng Sáu đi đâu mất tích. Một đêm nọ, thằng Năm được lệnh công đồn, trong đồn có thằng Tư:

(trích) “Đêm công đồn thằng Năm tìm cho được anh mình trong những xác chết la liệt, nó đã hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Trên đường về nó tranh thủ ghé nhà cho Má nó hay.

– Anh Tư chết rồi Má” (hết trích).

Câu nói ráo hoảnh, sắc ngọt như một nhát dao bén, song chắc chắn đàng sau đó là rất nhiều nước mắt của người mẹ già nua!Nên chăng trong những ngày 30 tháng 4, 27 tháng 7 trên đất nước này, bên cạnh hàng triệu gia đình vui của bên thắng cuộc, hàng triệu gia đình buồn của bên thua cuộc, chúng ta hãy dành những phút lắng lòng tưởng nhớ đến những bà mẹ của thằng Tư, thằng Năm do mẹ rứt ruột sinh ra và đau đớn chứng kiến cảnh chúng chĩa súng, nã đạn vào nhau để hoàn thành những nghĩa vụ “thiêng liêng” nhất.

TỈNH NGỘ ĐÃ QÚA MUỘN

TỈNH NGỘ ĐÃ QÚA MUỘN

ĐOÀN VĂN TOẠI là một Sinh Viên thân cộng nổi tiếng, Ông trong Chủ tịch đoàn Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn , Và đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ TT Thiệu và sự dính líu của người Quân-Đội Mỹ tại VN, sau đây là một hồi ký ngắn của ông.

***

Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng.

Nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách Việt Nam Ngục Tù của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?

Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi ngày tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc.

Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cũng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.

Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết, và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971.

Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu. Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp.Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo, nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân, nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.

Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình. Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù, và chính sách ngoại giao phi liên kết.

Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi.

Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản.

“Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?”

Tôi chấp nhận một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN

(Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).

Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%. Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, tôi đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh, và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ. Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản.

Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần, vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng: “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”.

Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố: “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam, và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức.

Nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản. Một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng, và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt. Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra.

Sau khi Sài Gòn thất thủ,rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân. Sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác, bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN. Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực.Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì.

Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác.Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.

Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”.

Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố:chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông. Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Nhưng trong khi đó,Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978:

“Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.”

Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000!Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thức ăn của tôi là cơm trộn với cát. Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy. Nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm.

Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ, và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam.

Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.

Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đã lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc.

Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.

Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng, nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn, Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979.

Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo.

Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980.

Đây là những người bị bắt, cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất, với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.

Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này, như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ.

Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi, thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam. Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản.

Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác, kể cả Joan Baez, phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội.

Kunstler nói:

“Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”.

Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập, “Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.

Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô.

Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam. Nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin:

‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin,

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin

Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi,

Hỡi ôi ông mất, đất trời có không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười.’

(Đời đời nhớ ông – Tố Hữu).

Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái. Và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội. Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976:

“Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế”, và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết: “dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.

Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ.

Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo: “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”. Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Một điều khoản của bản hiến pháp mới, được đưa ra vào năm nay, có nêu rằng: “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố: “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”.

Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles.

Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ.

Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966,các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông:“Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury:“Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam. Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975,Lê Duẩn đã nói:

“Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”. Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói:

“Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.

Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ, và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay, trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạc. Nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bàn hiến pháp mới ra đời. Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12, 1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5, 1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông.

Ông cụ đã hỏi ông:

-“Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con, và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?”

Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha:

“Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.

Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ, và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo:

“Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ dặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng. Nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”.

Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị,“Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền.Nhưng một khi đã nắm được quyền lực lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”.

Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay:

“Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.

Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự NGÂY THƠ CỦA MÌNH KHI TIN RẰNG CỘNG SẢN LÀ NHỮNG NGƯỜI CÁCH MẠNG và XỨNG ĐÁNG ĐƯỢC ỦNG HỘ.

TRÊN THỰC TẾ, HỌ ĐÃ PHẢN BỘI NHÂN DÂN Việt Nam và LÀM THẤT VỌNG CÁC PHONG TRÀO TIẾN BỘ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI. TÔI NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách ĐÓNG VAI NHÂN CHỨNG CHO SỰ THẬT NÀY HẦU CÁC NGƯỜI ĐÃ TỪNG ỦNG HỘ VIỆT CỘNG TRƯỚC KIA CÓ THỂ CÙNG CHIA SẺ TRÁCH NHIỆM VỚI TÔI.

Khi tôi còn trong tù, MAI CHÍ THỌ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi: “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”.

Ông ta đã kết luận: “ YẾU TỔ CHỦ CHỐT LÀ LÀM THẾ NÀO KIỂM SOÁT NGƯỜI DÂN VÀ Ý TƯỞNG CỦA HỌ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi? Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”.

Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong MỖI MỘT SỰ kiện ĐÓ, NGƯỜI CỘNG SẢN VẪN TỰ PHÁC HOẠ CHÂN DUNG CỦA HỌ MỘT CÁCH LY KỲ, là NHỮNG NGƯỜI GIẢI PHÓNG, NGƯỜI CỨU RỖI, NGƯỜI BẢO VỆ CHỐNG LẠI CÁC LỰC LƯỢNG XÂM LĂNG NƯỚC NGOÀI. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu. Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”.

Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu, và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi, “Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”.

Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi: “Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết. Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ.

Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976, “Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.

Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.

ĐOÀN VĂN TOẠI

Hình sự hóa và tranh cãi về “ngu như bò”: Nỗi buồn quy chuẩn tư pháp Việt Nam

 Hình sự hóa và tranh cãi về “ngu như bò”: Nỗi buồn quy chuẩn tư pháp Việt Nam

Luat khoa

Không phân biệt được hành vi biểu đạt và hành vi ngôn luận là nỗi xấu hổ của nền tư pháp.

On  21/07/2022

By  VÕ VĂN QUẢN

Minh họa: Luật Khoa.

Phiên tòa xét xử vụ án Tịnh thất Bồng Lai đang thu hút nhiều sự quan tâm, và một trong các từ khóa ngốn nhiều phím gõ nhất của dư luận những ngày qua là ba chữ “ngu như bò”.

Việc các luật sư của bị cáo, bị hại lẫn kiểm sát viên tranh cãi với nhau liệu câu chửi thông dụng “ngu như bò”có phải là hành vi “lợi dụng các quyền tự do ngôn luận”, từ đó xâm phạm “quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, thật sự khiến những nhà nghiên cứu pháp luật hình sự nói chung và pháp luật so sánh nói riêng bất ngờ. Sau bất ngờ là nỗi xấu hổ, nhất là đặt trong bối cảnh Bộ luật Hình sự Việt Nam đã được ban hành nhiều thập niên qua.

Những cuộc tranh luận trong vụ án của Tịnh thất Bồng Lai ngớ ngẩn đến ngẩn ngơ. Chúng bàn về những nội dung như “ngu như bò” có được tính là một sự xúc phạm trong pháp luật hay không; rồi một vị luật sư phản biện theo kiểu bây giờ tôi nói Chúa “ngu như bò” thì có xúc phạm hay không.

Những kiểu tranh luận đó cho thấy một khoảng trống kinh hoàng trong tư duy triết học pháp luật Việt Nam.

Hệ thống tư pháp Việt Nam, đến thế kỷ 21, vẫn từ chối xây dựng các quy chuẩn rõ ràng và hợp lý để phân biệt giữa những câu chửi bới, xúc phạm đời thường với những biểu đạt nguy hiểm, có khả năng gây hại thật sự cho quyền và lợi ích của công dân.

Cho đến nay, dường như các nhà lập pháp Việt Nam, các cơ quan tư pháp Việt Nam, và hệ quả phụ là một phần giới luật sư trong nước vẫn không thể nào phân biệt được sự khác biệt giữa “hành vi biểu đạt” (expressive act) và “hành vi ngôn luận” (speech act).

Chửi bới, xúc phạm với tư cách là một hành vi biểu đạt không có tác dụng đưa ra thông tin, làm sai lệch thông tin, từ đó cũng không tạo ra những hệ quả mà một hệ thống pháp luật cần bảo vệ người dân tránh khỏi.

Những câu chửi như “địt mẹ mày”, “thằng ngu”, “đồ đầu đất”, hay trong trường hợp này là “ngu như bò”, đều là những hành vi biểu đạt không đưa rất kỳ cáo buộc trọn vẹn nào về nhân phẩm, sự thật liên quan đến một cá nhân hay tổ chức.

Vì vậy, nó không thể được xem là một hành vi ngôn luận, hay “hành vi giao tiếp” (communicative act) – những thứ là đối tượng điều chỉnh của pháp luật liên quan đến ngôn luận.

Nói theo ngôn ngữ của triết gia Joel Feinberg trong quyển “Offence to Others”, [1] những lời chửi nói trên (như “you are a son of a bitch” trong ví dụ ông đưa ra) chỉ là một tập hợp ngôn ngữ thể hiện sự tức giận và miệt thị tức thời dành cho một cá nhân, tổ chức.

Chúng không thể truyền tải bất kỳ thông điệp nào hoàn chỉnh, và vì vậy không thể gây hại cho quyền – lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ông gọi chúng là “chửi bới thuần túy” (pure insults).

Tại Việt Nam, “ngu như bò” là kiểu miệt thị thuần túy, bình dân và phổ quát.

Ba mẹ chửi con cái. Thầy cô chửi học trò. Học trò chửi nhau. Người va chạm giao thông cự cãi. Đồng nghiệp trong công ty tranh chấp. Cùng vô số trường hợp khác.

Khẳng định những lời chửi bới thuần túy này có bất kỳ giá trị nào để được xem là một yếu tố cấu thành cho một tội danh của hệ thống pháp luật hình sự quốc gia là điều xấu hổ nhất về tư duy pháp lý mà tôi từng nghe.

***

Các tác giả Luật Khoa đã nhắc đi nhắc lại chủ đề này nhiều năm qua, từ các loạt bài nhiều kỳ cho đến những bài độc lập. [2] [3]

Những bài viết trên đã cố gắng giới thiệu, phân biệt và hệ thống hóa các khái niệm cơ bản trong pháp luật thế giới về ngôn luận như chửi thề, nói tục, xúc phạm, phỉ báng, bôi nhọ, phát ngôn thù hận, hay kích động lật đổ chính quyền. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa mang lại bao nhiêu tác dụng.

Sự mập mờ và thiếu quy chuẩn trong những quy định hình sự liên quan đến vấn đề ngôn luận tại Việt Nam, như rất nhiều nhà quan sát đã chỉ ra, quá có lợi cho các cơ quan thực thi pháp luật tại đây.

Và khi mà một xã hội còn bị ngăn cản, không thể đưa ra những giải pháp và quy chuẩn tư pháp nền tảng cho những vấn đề đơn giản như vậy, rất khó để chúng ta tạo ra những bước tiến căn bản nào về tư duy pháp lý, triết học pháp lý dân tộc và các kỹ thuật tư pháp khác.

Mưu sinh trên… bánh xe ở thành phố Hồ Chí Minh – BBC News Tiếng Việt

BBC News Tiếng Việt  

Hàng hóa họ bán rất đa dạng, từ đồ dùng trong nhà, vật dụng chăm sóc cá nhân, quần áo, cây cảnh, đến thực phẩm, rau củ, trái cây, thức uống, đồ ăn vặt…

Bạn có thể bắt gặp họ đang di chuyển trên đường hoặc dừng lại ở một góc đường và trong các con hẻm. Cũng có khi bạn thấy họ bán cố định tại một điểm nào đó trong một khoảng thời gian nào đó, phục vụ cho một nhóm khách riêng như dân văn phòng, du khách…

Điều đáng nói là kể từ cuối năm 2021, tức khi đại dịch vừa lắng xuống, ban ngày xuất hiện rất nhiều xe bán rong trái cây, thực phẩm ở những góc đường, lề đường, thậm chí trên mặt cầu… Họ len vào tận các con hẻm, đi cả vào những nơi có chợ họp trên lòng lề đường và trên xe không chỉ có rau củ, trái cây mà còn có cả thịt, cá…

Còn ban đêm, tại nhiều con hẻm xuất hiện rất nhiều xe bán cà phê, trà chanh, trà sữa, nước ép… và bán đồ ăn vặt như đồ chiên, bánh tráng trộn, phá lấu, khoai lắc… với màu sắc trẻ trung, vì người bán đa phần chỉ trên dưới 30, thanh niên trai tráng. Đó là nét mới. 

8 khuyết tật qua một phiên toà dị kỳ

8 khuyết tật qua một phiên toà dị kỳ

Nguyễn Văn Tuấn

Hai hồi mõ đã vang lên, điểm danh cho hai ngành bị tính sổ ở Việt Nam: Y TẾ và GIÁO DỤC. Hồi mõ thứ ba được thay bằng một tiếng động dữ dằn hơn, để điểm danh cho một ngành quan trọng vào hàng đầu: TƯ PHÁP VIỆT NAM. Đó là phát đạn vang lên giữa khuya một ngày đầu năm 2020 bắn vào tim cụ Lê Đình Kình. Từ nay trở đi sẽ còn nhiều hồi mõ giục giã khác làm lạnh buốt lương tri tất thảy chúng ta, những ai vốn là con dân nước Việt.

Bauxite Việt Nam   

Những ai từng theo dõi nền tư pháp Việt Nam không thấy ngạc nhiên với bản án dành cho Thiền Am hôm 21/7/2022. Nhưng diễn biến của vụ án và phiên toà cho thấy nhiều khuyết tật trong xã hội ngày nay. Ở đây, tôi chỉ nêu 8 khuyết tật liên quan đến thiết chế và văn hoá xã hội.

Người ta không ngạc nhiên với bản án là vì hầu như tất cả các bản án ở Việt Nam được xử theo điều luật 331 đều đã được định trước. Tất cả 6 người trong Thiền Am bị kết tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Đó là một tội danh mà các cơ quan nhân quyền quốc tế nhận xét là ‘rất mơ hồ’, hiểu theo nghĩa muốn kết tội ai cũng được.

Trong quá khứ nhiều người bất đồng chánh kiến đã bị giam cầm vì tội danh này. Ngay từ đầu, người ta dồn tổng lực từ an ninh, kiểm sát, toà án, dư luận viên đến báo chí hạ nhục Thiền Am.

Những lần ‘ra quân’ bức hại những người trong Thiền Am còn hơn cả ra quân chống khủng bố chưa làm người ta hết ngạc nhiên thì những vi phạm luật pháp của những con người kền kền đẩy tình hình lên một điểm cao mới. Những động thái đó cho thấy nhà cầm quyền quyết chí triệt tiêu một nhóm người tu tại gia và nuôi trẻ mồ côi. Phiên toà chỉ là một quy trình có tổ chức để thực hiện mục tiêu tiêu diệt đó mà thôi.

Nhìn lại toàn cảnh vụ án và phiên toà, tôi thấy nhiều ‘khuyết tật’ của nền tư pháp Việt Nam. Đó là những khuyết tật vừa mang tính thiết chế, vừa mang tính văn hoá xã hội. Chỉ xin nêu 8 khuyết tật nổi cộm như sau:

1. Khuyết tật lớn nhứt là thiếu sự độc lập giữa lập pháp, hành pháp, và tư pháp

Ngay từ giữa tháng 1/2022, trước khi đưa ra bất cứ cáo buộc nào, thì công an đã bắt giam 3 người trong Thiền Am. Điều đáng nói là một viên công an của tỉnh Long An tuyên bố rằng “Chúng tôi đang làm việc với Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân tỉnh để thống nhất các sai phạm của ông Lê Tùng Vân và người liên quan”.

Có lẽ nhiều người ở Việt Nam, nhứt là giới dư luận viên, thấy sự thông đồng đó là bình thường vì họ đã sống trong một môi trường như vậy quá lâu. Họ không thấy rằng đó là một khuyết tật chí mạng, bởi vì nếu ba thiết chế đó (lập pháp, hành pháp, và tư pháp) không độc lập thì làm sao có công lý, nhứt là công lý cho người ‘thấp cổ bé họng’?

Sự thật xảy ra trước mắt ở Thiền Am không phải là lần đầu, và chắc chắn sẽ còn xảy ra trong tương lai.

2. Khuyết tật về hình sự hoá một câu thành ngữ

Ai cũng biết câu ‘Ngu như bò’ chỉ là một cách nói về một hành vi kém cỏi hay ngu xuẩn. Đó là một câu thành ngữ rất phổ biến trong dân gian, phổ biến đến độ nó được dùng như là một câu nói đùa cho vui. Ấy vậy mà trong vụ án này, câu nói đó được một ông tu sĩ Phật giáo nâng tầm lên “xúc phạm” và vác đơn kiện mấy người trong Thiền Am ra toà. Và, ông ấy đã thành công đưa 6 người trong Thiền Am vào tù với tổng số năm tù tội là 23 năm 6 tháng. Không có nơi nào trên thế giới mà người ta đi tù vì câu thành ngữ đó. Chỉ có Việt Nam mới có khả năng tạo ra một tiền lệ như vậy.

Phải nói đây là một tiền lệ mang tính lịch sử.

3. Khuyết tật về chứng cớ

Các luật sư đại diện Thiền Am phát hiện một video được dùng để cáo buộc họ lại xuất phát từ một kênh youtube giả mạo những người trong Thiền Am. Kênh youtube này, theo cộng đồng mạng phát hiện, chỉ được lập ra để nói xấu Thiền Am và chỉ đăng được 3 cái video! Ấy vậy mà một video như thế được dùng làm bằng chứng để cáo buộc mấy người trong Thiền Am!

Thật ra, còn nhiều khuất tất khác về chứng cớ mà các luật sư đã nêu, nhưng toà án lờ đi những sai phạm đó!

4. Khuyết tật về trình độ của nhân viên tư pháp

Bất cứ ai chỉ cần nghe qua những câu hỏi và phát biểu trong phiên toà sẽ thấy ngay một khuyết tật liên quan đến trình độ văn hoá và kiến văn của các thẩm phán, và cả người “chủ toạ” phiên toà. Kiến văn của họ thấp đến độ kinh ngạc!

Phiên toà chỉ xét xử điều luật 331 đối với 6 người trong Thiền Am, chẳng có liên quan gì đến tôn giáo cả. Ấy vậy mà viên chủ toạ bỏ ra khá nhiều thời gian để hỏi những câu liên quan đến tôn giáo như:

“Ai đặt pháp danh cho bị cáo là Thích Tâm Đức?”

“Lý do vì sao những người trong hộ Cao Thị Cúc mặc áo màu nâu mà bị cáo lại không đăng ký sinh hoạt tôn giáo.”

Viên chủ toạ phiên toà trích từ một câu nói của ông Lê Tùng Vân rằng: “…đạo Phật chỉ khuyên người ta đừng làm ác và nếu người ta làm ác thì không có cái luật nào để trị tội người làm ác đó… trong tâm hai ngài đừng suy nghĩ đây là tôn giáo, đây là pháp luật; bỏ cái tôn giáo, bỏ cái luật pháp đó qua một bên đi…”, nhưng vấn đề ở đây là anh ta trích một cách không đầy đủ và có ác ý. Ông Lê Tùng Vân đã nhân dịp này giảng một bài cho ông chủ toạ biết thế nào là trích dẫn và học thuật [1].

Thử tưởng tượng một người kém về văn hoá, kém về kiến văn, kém cả về học thuật như thế mà lại làm chủ toạ phiên toà!

Cái khuyết tật về trình độ còn thể hiện qua phía luật sư đại diện cho phe ‘bị hại’. Các bạn thử tưởng tượng luật sư gì mà nói và viết không rành; luật sư gì mà thốt ra câu nào là người ta ngỡ ngàng câu đó. Chẳng hạn như có luật sư đặt câu hỏi:

“Nếu như bây giờ tôi nói Chúa ngu như bò thì các ông thấy sao?”

làm cho các luật sư của Thiền Am ngỡ ngàng và … cười ha hả. Nếu Chúa Jesus sống lại và nghe câu này chắc ngài cũng ngỡ ngàng. Một câu hỏi không chỉ quá ư là kém cỏi trí tuệ mà còn thể hiện một fallacy (nguỵ biện) hết sức căn bản. Ấy vậy mà người này là luật sư! Không thể tưởng tượng nổi trình độ của luật sư mà thê thảm như thế.

5. Khuyết tật của truyền thông Nhà nước

Trong hơn 3 năm trời, hệ thống truyền thông Nhà nước bịa đặt hay vặn vẹo thông tin để bôi nhọ và hạ nhục những người trong Thiền Am, đặc biệt là ông Lê Tùng Vân. Tất cả những thủ thuật misinformation (tin giả vô ý), disinformation (tin giả ác ý), và malinformation (tin độc) đều được tung ra với cường độ chỉ có thể nói là kinh hoàng.

Có thể nói rằng việc nguỵ tạo và phát tán thông tin về loạn luân là một hành vi thâm hiểm nhứt, độc ác nhứt, và trắng trợn nhứt.

Thâm hiểm là vì nó được bịa đặt ra để làm cho công chúng kinh tởm Thiền Am, và qua đó cô lập hoá họ. Độc ác nhứt là vì thông tin đó giống như một sự ám sát những trẻ em trong Thiền Am. Trắng trợn nhứt là vì nó không có bất cứ một cơ sở khả tín nào (ngoại sự ngụy tạo thông tin).

Ngay cả trước và sau phiên toà, họ vẫn không có khả năng viết những bản tin khách quan và công tâm, mà vẫn là những câu chữ gieo nghi ngờ, thậm chí sai lệch về những câu phát biểu trong toà. Thật khó tưởng tượng được báo chí gì mà ác độc như thế.

6. Khuyết tật về đạo đức xã hội

Vụ án Thiền Am là một ‘phiên toà mạng xã hội’ mà trong đó đóng vai quan toà là hàng ngàn người sử dụng Youtube và Facebook. Những người này ngày đêm phát tán những thông tin do họ tưởng tượng hay bịa đặt ra, rồi từ đó tha hồ đưa ra những kết tội mà họ muốn những người trong Thiền Am phải phạm tội. Họ tưởng tượng ra những vụ án rùng rợn để kích động trí tò mò của người xem, và từ đó có thu nhập.

Có vài người khoe rằng họ làm giàu nhờ nói xấu Thiền Am! Có thể nói không ngoa rằng những kẻ dã tâm này đã làm tiền trên máu và nước mắt của Thiền Am. Và, điều quái đản nhứt là họ tự hào bằng cách kiếm tiền như thế! Xã hội gì đã tạo nên những con người với những khuyết tật đạo đức như thế?

Vụ án còn cho thấy một số người trong công quyền đánh mất tánh người. Họ thoá mạ người của Thiền Am là “lũ bay sống bầy đàn”, là “đồ hỗn tạp”. Những câu nói đó chẳng khác gì những sĩ quan Nazi nói với người Do Thái trước đây.

Cái khuyết tật lớn nhứt là họ không có khả năng nhìn sự vật bằng cái nhìn của người khác, họ không có khả năng cảm nhận nỗi đau của người khác, và chính vì yếu tố này đã biến họ thành những người rất khác biệt: thiếu tánh người.

Vụ án còn biểu hiện một xã hội có phản ứng theo kiểu bầy đàn và bạo lực. Những kẻ dễ dãi trong suy nghĩ đã bị truyền thông Nhà nước dẫn dắt và tự biến họ thành những con người ác độc đối với Thiền Am.

Quái gở một điều là có những người xem mặt mũi không đến nổi tệ mà đòi xét nghiệm DNA để loại trừ tội loạn luân. Cái khuyết tật của mấy người này là nguỵ biện có tên là “Burden of Proof”. Kẻ phạm lỗi nguỵ biện này vu cáo người ta, rồi bảo người ta chứng minh rằng họ vô tội! Đó là một nguỵ biện thô thiển mà kẻ có học không thể nào phạm phải, nhưng trong vụ án Thiền Am thì rất nhiều người, kể cả người khoác áo ngành y, phạm phải.

Một số người sống và hành xử như những con kền kền đột nhiên nhảy tót lên bàn nghị luận xã hội và xâm nhập vào những nơi tôn nghiêm như pháp đình. Xã hội gì mà loạn chuẩn đến độ những cặn bã xã hội có khả năng đặt ra phán xét người đàng hoàng, hay loại ‘cóc nhái nhảy lên làm người’ như thế?

7. Khuyết tật về văn hoá đàn áp

Theo dõi diễn biến trong phiên toà làm cho người ta nhớ phiên toà liên quan đến Linh mục Nguyễn Văn Lý năm xưa.

Dạo đó, khi LM Lý ra toà, ông phát biểu một câu mà có lẽ nhà cầm quyền (hay toà án?) không muốn nghe, và thế là một viên an ninh bịt miệng ông một cách thô bạo. Tôi còn nhớ bức hình LM Lý bị bịt miệng được truyền khi khắp thế giới, và ở bên Mỹ người ta còn cho dán bích chương trên xa lộ!

Tưởng rằng cái văn hoá đàn áp đó là quá khứ, nhưng ai ngờ đâu nó lại được áp dụng cho phiên toà Thiền Am vừa qua nhưng với một phương tiện khác.

Theo luật sư Nguyễn Văn Miếng, “Các phóng viên phản ánh: ‘khi luật sư Thiền Am phát biểu, âm thanh kịp thời rọt rẹt. Còn những người khác nói, nghe rất rõ. Một phiên toà qua loa”. Ngoài ra, khi ông Lê Tùng Vân nói đến phần “xuyên tạc công an huyện Đức Hòa” thì video chỉ còn hình ảnh! Tương tự, nhiều câu nói của bị cáo cũng bị ‘tắt tiếng’ một cách trắng trợn như thế.

Không thể nào tưởng tượng một phiên toà vào thế kỷ 21 ở một nước có truyền thống văn hiến lâu đời mà hành xử thô thiển và thô bạo như thế.

8. Khuyết tật trong Giáo hội Phật giáo

Qua vụ án này, công chúng trong và ngoài nước chú ý đến một nhân vật trong Giáo hội PGVN rất đình đám: TT Thích Nhật Từ. Ông này được những người ủng hộ xem là một bậc “chân tu”, nhưng những hành vi của ông thì không nhứt quán với phẩm hạnh của một bậc chân tu.

Ông có vẻ không ưa Công giáo và đã nhiều lần xúc xiểm đạo Công giáo, thậm chí xúc xiểm cả Đức Giáo Hoàng! Luật sư Sỹ cho rằng thái độ đó của ông Thích Nhật Từ là “gần như là phá sản” và “không thể chấp nhận được”.

Ông là người đã tung tin rằng có hiện tượng loạn luân trong Thiền Am. Với vị thế lãnh đạo của ông trong Giáo hội, ông đã tạo nên một cơn bão truyền thông hạ nhục Thiền Am và ông cụ Lê Tùng Vân. Báo chí Nhà nước và hàng ngàn người dùng mạng xã hội trích dẫn lời nói của ông, và họ tiếp tục vu khống loạn luân trong Thiền Am.

Nhưng các luật sư khẳng định những phát biểu đó của ông Thích Nhật Từ hoàn toàn là bịa đặt, vì Thiền Am không hề phạm tội loạn luân. Theo cách lý giải của các luật sư, những gì ông ấy xúc phạm những người trong Thiền Am thì còn gấp 100 hay 1000 lần câu nói ‘Ngu như bò’ của ông Lê Tùng Vân.

Các luật sư của Thiền Am nhận xét rằng hành vi bịa đặt về tội loạn luân đó là một tội ác cần phải trừng trị. Ấy vậy mà Giáo hội PGVN im lặng trước tội ác đó. Phải xem sự im lặng của Giáo hội là một khuyết tật vậy.

***

Vấn đề giáo dục

Có thể thêm một khuyết tật khác nữa: giáo dục. Bởi một nền giáo dục đàng hoàng không thể nào cho ra những luật sư, thẩm phán hay quan toà kém kiến thức và thiếu học thức như thế. Ở nước ngoài, luật sư là nghề được xã hội quý trọng, bởi họ có khả năng học thuật tốt ngay từ bậc trung học, và họ phải qua một thời gian dài được tôi luyện trong môi trường đại học và sau đại học. Họ là nhóm có khả năng lãnh đạo quốc gia, và họ là tấm gương cho xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì theo LS Trần Đình Triển:

“Cách đào tạo luật sư ở VN hiện chưa thể tương xứng với điều kiện và không thể hành nghề tốt được nếu theo như cách đào tạo của VN hiện giờ”.

LS Triển nói thêm tình trạng án bỏ túi ở Việt Nam như sau:

“Trong luật pháp VN cũng nói là hội đồng xét xử và thẩm phán độc lập xét xử chỉ tuân theo pháp luật, và mọi chứng cứ chỉ đánh giá tại phiên tòa. Tôi cho là tất cả những điều đó tại VN chỉ đang là lý luận, chứ trong thực tiễn chưa bảo đảm được tính độc lập của thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Khi luật sư đưa ra những lập luận, những tài liệu luật pháp thích hợp thì thẩm phán họ “mặc”, bởi vì hình như họ đã quyết định bản án ở đâu đó rồi. Thực tiễn nó như vậy.

Thành ra việc tổ chức phiên tòa mang tính chất hình thức. Chứ thực ra bản án người ta đã có trong túi rồi”.

Những khuyết tật trong vụ án, những sai phạm về tố tụng, cùng những lời kêu oan của bị cáo đã được gởi cho các vị có vai trò lãnh đạo Nhà nước và Quốc hội, thậm chí cả cấp trung ương đảng. Chắc chắn là các vị ấy đã biết đến vụ án, nhưng họ đã làm gì thì chẳng ai biết. Họ có hồi đáp luật sư hay là những lời tường trình của luật sư và của nạn nhân đều rơi vào không khí. Dù sao thì các vị ấy không thể nói “Chúng tôi không biết” hay “Chẳng liên quan gì đến chúng tôi.” Công chúng đang chờ một tiếng nói của các vị ấy.

_____

[1] Nguyên văn của ông Lê Tùng Vân nói là:

“Vậy chứ ngày ngày xưa Đức Phật hành đạo như thế nào? Có phải rằng Đức Phật không có làm cái gì sai trái? Ngài nhớ xưa Đức Phật không hề ăn trộm, không hề ăn cướp, không hề giết người. Tức là gì? Tức là Đức Phật tuân theo luật pháp. Ngài về lại trần gian ngài phổ biến: Tất cả tuân theo luật pháp. Các ngài phải ý thức được tầm quan trọng của luật pháp. Luật pháp thì bắt buộc con người ta không được làm ác; làm ác là phải bị tội, bị trừng phạt. Còn các ngài thấy đấy, đạo pháp chỉ khuyên người ta đừng làm ác, và nếu người ta có làm ác cũng hổng có luật nào để trị tội người làm ác đó.

[…]

Vậy thì hai bên, bên nào mạnh, bên nào yếu, cái nào bắt buộc hơn, cái nào quyết chí hơn Có phải là sự bắt buộc và quyết chí không? Còn cái lời khuyên? Khuyên thì người ta có thể nghe theo, hoặc là người ta có thể không nghe theo. Cho nên hai ngài hãy nên nhớ kỹ điều đó. Trong tâm hai ngài đừng suy nghĩ đây là tôn giáo, đây là luật pháp. Bỏ cái tôn giáo, bỏ luật pháp qua một bên đi; cái nào mà buộc người ta phải quyết tâm, quyết chí làm một đường, làm cho có hiệu quả. Cái mà hiệu quả đó mới có ích cho nhân loại. Phải hông ngài?”

Lời phát biểu sau cùng của bị cáo Lê Thanh Trùng Dương trong phiên toà vừa qua. Xem ra anh này còn có ý thức lịch sử rất sâu sắc so với những quan toà đang luận tội của anh ta. Đa số báo chí Nhà nước thích viết xách mé rằng các thành viên trong Thiền Am chỉ học lớp 7/12 hay 8/12. Nhưng tôi thấy trình độ văn hoá và kiến văn của họ hơn hẳn những thẩm phán hay luật sư loại “mickey mouse”.

clip_image005

Câu nói đáng chú ý nhứt trong phiên toà Thiền Am. Thật ra, nguyên văn câu ông ấy nói là:

“Không có đăng ký Giáo hội Phật giáo (GHPG) bởi vì GHPG đối với tôi là không xứng đáng. Xứng đáng thì tôi mới bái phục để cầu xin nghe, còn không xứng đáng thì biểu tôi nghe, ra lệnh tôi nghe, thì tôi không nghe”.
Nếu tôi là người của GHPGVN thì sẽ xem câu này là một bài học sâu sắc, là tiền đề để nhìn lại mình và cải cách.

N.V.T.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Đọc thêm:

Những câu nói của ông Lê Tùng Vân trước tòa

Đàn Chim Việt

24/07/2022

ĐCV: Cộng đồng mạng mấy hôm nay dậy sóng vì bản án tù khắc nghiệt dành cho các chân tu tại Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ, trong đó ông Lê Tùng Vân ngoài 90 tuổi bị án nặng nhất với 5 năm tù giam, các đồng tu khác 3-4 năm tù với tợi “lợi dụng quyền tự do dân chủ”. Đây là tội danh nhố nhăng nhất trong số các tội mà nhà nước Việt Nam khoác cho những người mà họ cho là cứng đầu, không nghe hay không muốn theo họ, dù những người này chưa làm gì phương hại tới quyền lợi của họ.

Điều đáng nói, báo chí nhà nước, và một số thông tin trên mạng internet, khi các bị cáo mới bị bắt giữ đã đưa ra các thông tin về “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Loạn luân”. Những những tội danh này không được đề cập tới trong mấy này xét xử vừa qua.

Hình ảnh một ông già râu tóc bạc phơ khảng khái trước tòa và bản án tù quá nặng đã khiến nhiều người xúc động. Đi tù, chỉ vì không theo phật giáo quốc doanh, nói sư quốc doanh “ngu như bò” có lẽ chỉ có ở Việt Nam.

Dưới đây là những câu nói được ghi chép bởi các luật sư bảo vệ ông Lê Tùng Vân ở tòa.

– “Tôi không đăng ký gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vì tôi nhận thấy GHPGVN không xứng đáng!”

– “Tôi có mặc áo vàng cũng là bình thường, phẩm hạnh của tôi xứng đáng mặc những chiếc áo hơn thế nữa…!”

– “Tôi già, không ra khỏi nhà, suốt ngày nằm võng, kể cả lúc khách tới thăm, tôi không biết bấm điện thoại, không biết sử dụng mạng xã hội, chỉ lo dạy bảo đệ tử cùng tu tập, không có xâm phạm lợi ích của Nhà nước hay tổ chức, cá nhân nào…”

– “Nói tôi chủ mưu là sai không phải 100% mà sai 1.000%, không ai nghe tôi một ông già trên 90 tuổi, già khú đế, khi nhớ, khi quên…”.

– “Tôi không mạo nhận mình là đức Phật, không mạo danh đức Phật, không phỉ báng đạo Phật. Nói tôi xuyên tạc giáo lý nhà Phật là nói sai, nói bậy. Mọi người Việt Nam đều có quyền xây dựng đức tin, chọn tôn giáo cho mình…”

– “Tôi không xúc phạm Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An, cũng không xúc phạm Công an huyện Đức Hòa, ngược lại tôi và một số người ở Thiền Am là nạn nhân bị làm nhục và bị vu khống trong thời gian dài, rất thậm tệ. Ai tố cáo tôi xúc phạm họ, thì cần có mặt tại tòa án, đứng lên đối chất, nói rõ, đừng lừa dối tòa án!”

– “Những ai là giám định viên tư pháp đưa ra kết luận giám định nội dung các video clip mà đệ tử của tôi quay cảnh sinh hoạt trong nhà hay các cảnh dàn dựng làm phim hài, phục vụ thiếu nhi…, cho là vi phạm pháp luật, quả thật họ là những người bất xứng vì kiến văn quá nông cạn và ác tâm, hại người…”

– “Ngày xưa dân gian có câu “Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình, cả 3 Bộ đồng tình…”, nay tôi và các đệ tử của tôi bị tới 5 “bộ” ở tỉnh Long An cùng đồng tình truy bức chúng tôi.”

Đàn Chim Việt tổng hợp

Nguồn: danchimviet.info

Một ông ở Hải Phòng tự sát sau khi giết và cắt đầu nhân tình

Một ông ở Hải Phòng tự sát sau khi giết và cắt đầu nhân tình

July 23, 2022

Báo Nguoi-viet

HẢI PHÒNG, Việt Nam (NV) – Thi thể nghi can TVH, 59 tuổi, ở huyện Thủy Nguyên, được nhà chức trách phát hiện trên đoạn sông qua huyện An Dương, hôm 23 Tháng Bảy.

Trước đó một ngày, người dân Hải Phòng kinh hoàng về vụ thi thể đầu lìa khỏi cổ của bà NTH, 54 tuổi, ngay tại quán “Đại Sư Huynh” ở khu đô thị Cựu Viên ở quận Kiến An, do con gái bà H. làm chủ.

Người dân tụ tập gần hiện trường vụ án. (Hình: VTC)

Theo báo VTC News, nghi can TVH có hai tiền án, tiền sự. Ông này đã ly hôn vợ, đang sống cùng mẹ già 80 tuổi tại xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên.

Báo này dẫn lời hàng xóm cho hay bà NTH về nhà ông TVH sống như vợ chồng. Tuy vậy, giữa hai người thường xuyên xảy ra cãi vã, nhất là sau những lần uống rượu, ông H. thường đánh đập bà.

Gần đây, bà H. đã chuyển về sống cùng con gái để phụ giúp việc bán quán. Ông H. cũng tìm sang quán để phụ giúp.

Chiều 22 Tháng Bảy, con gái bà H. đến quán thì phát hiện mẹ tử vong trong tình trạng đầu lìa khỏi cổ.

Bản tin của báo Zing cho biết thi thể bà H. có nhiều vết thương, được phát hiện ở tầng hai. Khám nghiệm hiện trường, công an thấy phần đầu của bà H. ở khu vực bếp tầng một.

Công An quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xác định ông TVH là nghi can nên truy tìm ông này.

VTC News dẫn nguồn công an cho biết sau khi gây án, ông H. đã lên một chiếc thuyền của gia đình đang neo đậu ở xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên, rồi chích điện tự tử. Do chiếc thuyền không có người lái nên đã trôi đến địa phận xã An Hồng, huyện An Dương.

Vụ giết bà NTH xảy ra tại quán “Đại Sư Huynh” do con gái bà làm chủ. (Hình: VOV)

Tờ Thanh Niên hôm 22 Tháng Bảy nhắc lại chuyện cách đây 11 năm, tại quận Kiến An cũng xảy ra vụ án mạng tương tự khi dân khu tái định cư chợ Đầm Triều, phường Quán Trữ, phát giác thi thể một phụ nữ không đầu, bị chặt mất hai cánh tay.

Nạn nhân khi đó là một phụ nữ sinh sống ở quận Lê Chân, đã bị nghi can Nguyễn Dũng Giang ở quận Hải An, sát hại để quỵt nợ. Ông này sau đó bị Tòa Án thành phố Hải Phòng tuyên án tử hình do tội “giết người và cướp tài sản.” (N.H.K)          

Ngành y khủng hoảng trầm trọng

Ngành y khủng hoảng trầm trọng

Mạc Văn Trang

Ngành y tế và ngành giáo dục Việt Nam trong giai đoạn từ chế độ bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường đã gặp những khủng hoảng trầm trọng.

Đáng lẽ Việt Nam phải nghiên cứu học tập xem tại sao các nước Đông âu như Ba Lan, Tiệp khắc, Hungary… khi chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa bao cấp sang chế độ dân chủ, tư bản mà y tế và giáo dục mau chóng ổn định và phát triển tốt hơn thời trước đó, thì lại thả lỏng cho trôi nổi phát sinh tiêu cực tràn lan.

Mọi thứ đều đổ tại “mặt trái của kinh tế thị trường” và “cơ chế”!?

Rồi quản lý theo kiểu độc tài, áp đặt, chỉ lo xử lý những chuyện bung bét trước mắt, không tìm căn nguyên và giải quyết tận gốc một cách khoa học, căn cơ, bền vững. Những khuyết tật từ bên trong không cho bộc lộ ra một cách tự nhiên, để thấy bản chất vấn đề, chữa cho căn bản; ngược lại còn che giấu, bưng bít, nên bệnh ủ lâu ngày càng trầm trọng.

Qua thử thách của đại dịch covid-19, thì ngành Y đã “bung”, “toang”, khủng hoảng trầm trọng.

Thử nhìn nhận toàn diện lúc này xem sao.

1. Khủng hoảng về triết lý

Ngành y từ trước chỉ nêu khẩu hiệu “LƯƠNG Y NHƯ TỪ MẪU”, thầy thuốc như mẹ hiền, chăm sóc bệnh nhân với tâm lý ban ơn và có đến đâu thì chăm sóc đến đó. “Mẹ” nghèo khó mà đông con thì đành cơm cháo, khoai sắn chăm nhau.

Chật chội quá thì đành 2-3-4 bệnh nhân một giường; rồi bệnh nhân nằm cả dưới gầm giường, hành lang, gốc cây.

Nếu thay đổi triết lý: Bệnh nhân là khách hàng, thầy thuốc là người phục vụ và phương châm phục vụ là: “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, thì mọi chuyện sẽ khác.

Từ đó ngành y sẽ cố gắng phát huy mọi nguồn lực, mọi sáng kiến để đáp ứng nhu cầu của khách hàng; Và bệnh nhân cũng với tư thế người được phục vụ, chứ không phải kẻ quỵ lụy được ban ơn.

2. Hệ thống cơ sở y tế rối loạn

Trước hết bệnh viện công, bệnh viện tư, bệnh viện làm phúc không rõ ràng. Trong một bệnh viện công mà thể hiện sự bất công, bất bình đẳng giữa các bệnh nhân giàu và nghèo quá trắng trợn.

Hệ thống các cơ sở y tế ở xã/phường, quận/ huyện và các tỉnh nhỏ không được đầu tư đáp ứng nhu cầu của cộng đồng địa phương. Do vậy bệnh nhân các nơi đều kéo về những bệnh viện lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, khiến cho các bệnh viện này chẳng khác gì cái chợ đầu mối, người người chen chúc, rối loạn, làm sao phục vụ tốt được!

3. Y học, dược học sa sút

Từ thời Pháp thuộc, nước ta có cơ sở y học và dược học hơn các nước khu vực; y học cổ truyền cũng không kém. Nhưng trong những năm qua ngành y của ta đã có những đóng góp gì đáng kể? Ngành dược càng quá tệ, việc nghiên cứu sản xuất thuốc ở trong nước quá yếu, trong khi nhập thuốc thì vô tội vạ. Trong đó có những nhóm lợi ích đã nhập thuốc giả, thuốc gần hết hạn về phân phối độc quyền.

Mấy cơ sở nghiên cứu hô “quyết tâm, quyết liệt” sản xuất vaccine ngừa covid-19 mà không thấy tăm hơi; hẹn hò liên kết sản xuất vaccine với Nga, Cuba, rồi với mấy công ty lớn nước ngoài mà tịt hết!? Tất cả chỉ thấy nổi lên vụ test kit Việt Á, làm tan hoang ngành y.

4. Nhân cách thầy thuốc tha hóa nghiêm trọng

Lỗi này căn bản thuộc về thể chế. Người làm nghề lương thiện không đủ sống bằng lương kéo dài mấy chục năm, nên sinh ra thói “làm nghề gì, ăn nghề ấy”: giáo viên “ăn” vào học sinh; bác sĩ “ăn” vào bệnh nhân; chính quyền “ăn của dân không chừa thứ gì”!

Sự tha hóa đã chạm đáy rồi: Bộ trưởng, Thứ trưởng y tế, giáo sư viện sĩ, giáo sư bác sĩ thầy thuốc nhân dân, quản lý ngành Y các cấp… lũ lượt vào tù; gần 10.000 bác sĩ, nhân viên y tế bỏ việc! Chưa bao giờ diễn ra một bức tranh y tế đáng sợ và đáng buồn đến thế!

5. Các giải pháp mà báo chí nêu ra, vẫn chỉ đối phó, chưa hy vọng gì nhiều

Cần phải có chiến lược cải cách ngành y – dược nước ta một cách căn bản.

Trước hết cần phải phân tích một vài mô hình của các nước thành công nhất về xây dựng, phát triển ngành y – dược để ta học theo.

Thật vớ vẩn, mới ngày nào anh Đinh La Thăng bảo, thành phố Hồ Chí Minh phải có giải Nobel y học! Cái cần làm thì không làm, cứ mơ tưởng viển vông!

Phải củng cố lại hệ thống nghiên cứu Y học, Dược học chuyên sâu, bài bản; phải đầu tư nhân lực và cơ sở khoa học xứng tầm cho nghiên cứu.

Phải điều chỉnh, cải thiện lại hệ thống, mạng lưới cơ sở y tế phục vụ cộng đồng từ cơ sở đến trung ương.

Phải làm lại chính sách lương bổng, đãi ngộ với các bác sĩ và nhân viên y tế để họ đủ sống, tận tâm phục vụ mà không cần “ăn” bệnh nhân.

Phải làm sao có hệ thống y tế và chính sách bảo hiểm y tế giúp cho người nghèo có cơ hội chữa bệnh, giảm bớt sự bất bình đẳng quá đáng trong việc chăm sóc y tế giữa người giàu và nghèo, nhất là dân nghèo ở vùng sâu vùng xa.

Tôi dân ngoài ngành, thấy gì nói đấy, cái gì sai xin bỏ qua; cái gì có ích thì tham khảo. Chỉ mong ngành y mau vượt qua khủng hoảng, khôi phục và phát triển tử tế cho dân nhờ.

23/7/2022

M.V.T.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dép Râu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Dép Râu

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe rằng: “Giầy dép cũng đều có số, nói chi đến con người.”

Quả là có thế!

Chả thế mà tiếng Việt không thiếu những hạn từ liên quan đến vận mạng, định mệnh, số kiếp, số mạng, số phận, vận số, mệnh số, phần số: số xui, số hên, số đen, số đỏ, số mạt, số nghèo, số giầu, số làm quan, số làm đĩ, số ăn mày, số xa nhà, số đi tu, số ở tù …

Tuy thế, loại dép râu (hay còn gọi là dép lốp, dép cao su, dép Bình Trị Thiên) thì chả có số má gì ráo trọi. Mẫu mã cũng không luôn. Đôi nào ngó cũng vậy. Cứ nhắm vừa chân ai là người đó xỏ đại vô – one size fit all – già trẻ, lớn bé, gái trai đều giống như nhau.

Thô kệch, trần trụi vậy thôi nhưng đôi dép lốp đã từng được thi hào Tố Hữu cho “lên tầu vũ trụ” và có tên trong Wikipedia, phiên bản tiếng Anh: 

“The Ho Chi Minh sandals (Vietnamese dép lốp ‘tire sandal’) are a form of sandal made from discarded tires. Along with the khăn rằn scarf, they were a distinctive clothing of Viet Cong soldiers. These shoes were often called ‘Ho Chi Minh sandals’ or ‘Ho Chis” by Americans.”

Vỏn vẹn có đôi ba câu ngắn ngủi (chỉ gồm 48 từ) như vậy thì e chưa đủ liều lượng để ba hoa thiên tướng nên Wikipedia – phiên bản nội hóa – tự động chêm vào vài ba đề mục nữa (Đôi Dép – Dép Lốp – Đôi Dép Bác Hồ) tổng cộng là ba ngàn bốn trăm từ, với không ít hình ảnh, và toàn là những lời có cánh:

  • Đôi dép ấy rất đỗi bình dị, mộc mạc đơn sơ, nhưng thật nhiều ý nghĩa như chính cuộc đời Bác kính yêu. Bởi đôi dép cao su đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước của Bác. Ngày nay, đôi dép ấy đã trở thành kỉ vật thiêng liêng và vô giá của dân tộc ta.
  • Đôi dép này được xem như là một trong những biểu tượng về “cuộc đời cách mạng” của Hồ Chí Minh, được đề cập trong nhiều bài báo cũng như một số bài hát, bài thơ.

Tự điển bách khoa toàn thư của người ta mà Ban Tuyên Giáo vẫn thản nhiên nhẩy xổ vào thêm thắt/thêu dệt trắng trợn tới cỡ đó thì thiệt là quá đáng, và quá quắt! PTT Vũ Đức Đam, Chủ Tịch Hội Đồng Chỉ Đạo Biên Soạn Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam, đã từng tuyên bố (không ngượng miệng) rằng:

“Bộ Bách khoa toàn thư phải là tri thức cơ bản về Việt Nam đặc biệt là tri thức ứng dụng cho đất nước, phải đúng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Tạm thời, khi chưa có bộ sách này thì cứ nhào nặn Wikikipedia tiếng Anh thành ra tiếng Việt (luôn) cho nó khoẻ. Mẹ nó, sợ gì ?

Tuy không có gì đáng sợ nhưng cũng chả có hiệu quả chi. Bên cạnh những lời lẽ thương râu nhớ dép hết sức thiết tha của đám văn nghệ sỹ cung đình (Hà Nội) vẫn có những câu thơ truyền miệng, phổ biến trong văn hóa dân gian: Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ/ Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai.

Nghe vậy tưởng đã quá tệ nhưng blogger Trương Nhân Tuấn còn diễn giải sự việc một cách tệ hại hơn vậy nữa: “Nón cối hay nón tai bèo, cùng đôi dép râu, đã ‘viết nên trang sử’, trên lý thuyết là đưa cả nước lên ‘xã hội chủ nghĩa’. Mà thực tế là đưa tất cả ‘xuống hàng chó ngựa’, như hai câu ‘thơ’ thời thế : ‘Đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ, Chiếc nón tai bèo phủ kín nẻo tương lai.”  

Thế mới biết dép râu tuy không có số má chi nhưng kẻ xỏ chân thì đều có cả. Tuy tuyệt đại đa số đều “xuống hàng chó ngựa” nhưng lại có kẻ được cơ hội xưng vương, và xưng tụng như thần:

“Vào năm 1970, một năm sau ngày Bác đi xa, nhà thơ Nam Yên đã viết một bài thơ lời lẽ dung dị nhưng rất mực thắm thiết, gợi lên cảm xúc thương mến Bác vô bờ. Bài thơ được nhạc sĩ Vân An phổ nhạc: Dép Bác, đôi dép cao su/ Bác đi từ ở chiến khu Bác về/ Phố phường trận địa/ Nhà máy đồng quê/ Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi…

Bác Hồ là biểu trưng của tất cả những gì dung dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo, đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ, mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở thành một hình tượng thân quen, thắm thiết đối với chúng ta…” (Trung  Đức. “Đôi Dép Bác Hồ Đôi Dép Cao Su.” Việt Nam Mới).

Nào có riêng gì “với chúng ta!” Người nước ngoài cũng thế, cũng mê mẩn chết bỏ:

“Chuyện là, khi Bác tiếp các quan chức cấp cao trong Chính phủ Ấn Độ, họ đều chú ý nhìn vào đôi dép dưới chân Người, họ luôn liếc nhìn với vẻ lạ lùng và rất đỗi trân trọng. Báo chí nước ngoài khi đó thì nói về đôi dép cao su của Bác như một chuyện lạ, một huyền thoại về một con người tuyệt vời của thế kỷ lúc bấy giờ. 

Người dân Ấn Độ đã tỏ rõ lòng ngưỡng mộ đến lạ kỳ về đôi dép cao su. Khi Bác tới thăm một ngôi đền lớn và cổ kính của Ấn Độ, lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập đến vây kín đôi dép cao su của Bác. Họ như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng.” (Huyền Chi. “Huyền Thoại Hồ Chí Minh Trong Trái Tim Các Nhà Báo Quốc Tế.” Công An Nhân Dân).

Sự “ngưỡng mộ” mà bạn bè quốc tế đã dành cho đôi dép của Bác – thực ra – chả là cái đinh gì, nếu so với lòng sùng kính của người dân bản địa (nơi vùng xa, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng) ở Việt Nam:

 “Không dối lòng đâu, mỗi lần đi ‘dép Bác Hồ’ là thấy bụng không nghĩ điều trái, chân không đi hai đường. Chẳng riêng mình, cả làng này ai cũng vậy. Chiến tranh khỏi nói, hòa bình rồi có biết bao chuyện khó… Bông Rẫy hồi chiến tranh chỉ có 50 hộ, bây giờ đã lớn lên gần 120 hộ mà không còn ai đói, chỉ còn 10 hộ nghèo. Ai cũng có xe máy, hơn một nửa đã làm được nhà xây.

 Không ai nghe lời kẻ xấu vượt biên trái phép… Không nhờ phép lạ ‘dép Bác Hồ’ sao được thế? Có ‘dép Bác Hồ’ là thắng tất! Đinh Ngút cất lên một tràng cười sảng khoái. Ông nâng niu đôi dép mòn vẹt trên tay nói tiếp:

– Bông Rẫy bây giờ hãy còn gần hai chục người giữ được ‘dép Bác Hồ’ năm sáu chín như mình. Năm ngoái huyện đội vào xin mấy đôi, nói để làm bảo tàng, dân làng mới cho…” (Lê Quang Hồi. “Làng Bông Rẫy Mang Dép Bác Hồ.” Quân đội Nhân dân).

Trời ơi! Tưởng gì? Chớ dép lốp thì cần chi phải đi xin để bỏ vô viện bảo tàng. Thiếu mẹ gì đây nè, theo như những bản tin nhan nhản hàng ngày qua báo chí:

Cuộc chiến đã chấm dứt gần nửa thế kỷ, xương cốt của đám con bỏ xác dọc Đường Trường Sơn đã trở thành mùn đất (các bà mẹ tìm con nay cũng đều đã khuất) nhưng những chiếc dép cao su thì hẳn vẫn còn nguyên, và còn nhiều lắm:

  • Nhà văn Xuân Vũ: “ Để vun bồi ‘uy tín’ (hão) cho một người hoặc một vài người trên dãy Trường Sơn này, núi rừng đã phải nhận hàng vạn bộ xương khô, hằng vạn nấm mồ, không có nấm, không có bia.”  
  • S. Nguyễn Văn Lục: “Người ta phỏng đoán có khoảng 300.000 vừa là TNXP, vừa là cán binh bộ đội đã đào ngũ hay mất tích hoặc chấm dứt đời sống. Bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét đã nhanh chóng hoàn tất cuộc đời của họ mà có thể chưa một ngày lâm trận.”
  • Nhà báo Rajiv Chandrasekaran cũng ghi nhận con số tương tự: “Chừng 300 ngàn người lính miền Bắc chết trong chiến tranh mà di hài của họ vẫn chưa tìm được – và chắc sẽ không bao giờ tìm ra cả. About 300,000 North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not yet been located – and likely never will be. (“Vietnamese Families Seek Their MIAs.” Washington Post 3 April 2000: A01).

Nhà đương cuộc Hà Nội chỉ muốn mọi người biết đến và tôn thờ một đôi dép râu duy nhất của Hồ Chí Minh thôi nhưng dân Việt sẽ không bao giờ quên số phận thảm thương của hằng triệu sinh linh (chả may) buộc phải xỏ chân vào cái thứ dép oan nghiệt này.

Tưởng Năng Tiến

Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam

Tịnh Thất Bồng Lai: Bỏ tù cụ ông 90 tuổi – một điểm mới trong trấn áp nhân quyền ở Việt Nam

2022.07.22

RFA Tiếng Việt

Các tổ chức nhân quyền quốc tế hôm 22/7 lên tiếng phản đối bản án mà toà án Nhân dân huyên Đức Hoà, tỉnh Long An, vừa áp đặt lên sáu người thuộc một nhóm tu tại gia là Tịnh thất Bồng lai hay còn gọi là Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ. Human Rights Watch thậm chí gọi đây là một điểm mới trong chiến dịch trấn áp nhân quyền ở Việt Nam khi bỏ tù một cụ ông ngoài 90 tuổi chì vì ông dám bày tỏ chính kiến của mình.

Hôm 21 tháng 7, sáu thành viên thuộc Tịnh thất Bồng Lai bị tuyên phạt tổng cộng hơn 23 năm tù với cáo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Khoản 2, Điều 331, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 117 về tuyên truyền chống Nhà nước và Điều 331 là các điều khoản về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự. Từ đầu năm đến nay, có ít nhất 19 người đã bị chính quyền Việt Nam bắt giam với cáo buộc vi phạm các điều này, theo thống kê mà RFA tổng hợp được.

Ông Lê Tùng Vân tại Toà án Nhân dân huyện Đức Hoà vào tháng 7/2022. Công An Nhân Dân

Việc toà tuyên những bản án nặng nề, đặc biệt là bản án năm năm tù giam đối với ông Lê Tùng Vân, người đã ngoài 90 tuổi, đã gây chú ý.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Long An cáo buộc những người thuộc Tịnh thất Bồng Lai cầm đầu bởi ông Lê Tùng Vân đã đăng tải nhiều bài viết, clip trên mạng xã hội Facebook và YouTube trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến năm 2021 có thông tin sai sự thật, bịa đặt, xuyên tạc, nhằm tuyên truyền, kích động xúc phạm uy tín của cơ quan Công an huyện Đức Hoà, xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của ông Trần Ngọc Thảo (tức Thượng toạ Thích Nhật Từ).

Điều 331 của Bộ luật Hình sự vốn được sử dụng trong các vụ án có yếu tố chính trị, nhằm buộc tội những người bất đồng chính kiến với Đảng Cộng sản. Các tổ chức nhân quyền quốc tế đã liên tiếp chỉ trích và yêu cầu chính quyền Việt Nam bãi bỏ điều luật này.

Trao đổi với Đài Á châu Tự do qua email, ông Phil Robertson, Phó giám đốc phân ban Châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền, cho biết bằng việc bỏ tù những người ở Tịnh thất Bồng Lai vì các phát ngôn của họ cho thấy chính quyền Việt Nam đã trở nên độc đoán hơn:

Tống một ông cụ 90 tuổi vào tù chỉ vì dám nói lên suy nghĩ của mình cho thấy chính quyền Việt Nam đã đưa chiến dịch trấn áp nhân quyền đến một điểm mới.

Bằng việc sử dụng điều luật hà khắc để bịt miệng những người dân bình thường, những người chỉ đơn giản đã than phiền về công chức địa phương, chính quyền Việt Nam cho thấy giờ đây họ không chỉ đàn áp những nhà hoạt động”.

Thông qua việc những cá nhân phi chính trị như các thành viên ở Tịnh thất Bồng Lai giờ đây cũng bị bắt bớ vì phát ngôn trên mạng, ông Phil Robertson cho rằng chế độ ở Việt Nam đang cho thấy họ càng ngày càng trở nên thù nghịch đối với những chỉ trích.

Vị đại diện của tổ chức nhân quyền có trụ sở tại Hoa Kỳ cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho những người bị cầm tù:

Việt Nam cần phải đảo ngược các phán quyết lố bịch và những bản án không thể chấp nhận được nhắm vào tất cả những cá nhân ở Tịnh thất Bồng Lai”.

Đồng thời, tổ chức Ân xá Quốc tế, một tổ chức nhân quyền quốc tế có trụ sở ở Anh Quốc, cũng bày tỏ sự phản đối trước kết quả phiên toà hôm 21 tháng 7. Bà Ming Yu Hah, Phó giám đốc khu vực Đông và Đông Nam Á của tổ chức Ân xá Quốc tế, cho biết:

Việc cáo buộc ai đó là lợi dụng các quyền tự do dân chủ, thực chất là cái cớ để bịt miệng những tiếng nói chỉ trích chính quyền. Chỉ trong nửa đầu năm nay thì các điều 331 và 117 đã liên tục được lạm dụng để bắt bớ và truy tố bloggers, tín đồ tôn giáo, và người sử dụng Facebook vì những hoạt động của họ trên mạng xã hội.

Ngày nay, bất cứ ai ở Việt Nam đều có nguy cơ bị bỏ tù nhiều năm trời chỉ vì thực hành quyền tự do biểu đạt”.

Tình trạng này được bà Ming Yu Hah cho là “không thể chấp nhận và không thể dung thứ”. Bà cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam phải chấm dứt việc đàn áp quyền tự do biểu đạt, và trả tự do cho những người bị bắt bớ.

Điều 117 về tuyên truyền chống Nhà nước và Điều 331 là các điều khoản về an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình sự. Từ đầu năm đến nay, có ít nhất 19 người đã bị chính quyền Việt Nam bắt giam với cáo buộc vi phạm các điều này, theo thống kê mà RFA tổng hợp được.

Nguồn: RFA Tiếng Việt