KHÁI QUÁT VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT

Võ Ngọc Ánh

KHÁI QUÁT VỀ TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT

Hơn một thế kỷ trước, trong phần đầu của cuốn sách Việt Nam Sử Lược (một cuốn sách người Việt nên đọc), Trần Trọng Kim đã nhận xét về người Việt: Cần cù, chịu khó, học hỏi nhanh, thông minh nhưng thường học không đến nơi đến chốn, thích sĩ diện, lươn lẹo, ưa cờ bạc… Những ai chưa đọc cuốn sách này thì nên đọc.

Đây cũng là điều mà Phan Chu Trinh đã nhìn thấy, đã dấn thân để khắc phục… Dù chưa thành công, nhưng những điều ông nói đến hôm nay vẫn còn có giá trị.

Hắn có được chút kinh nghiệm để nhận xét trên thực tế về người Việt tại Mỹ.

Đa số người Việt cần cù, chịu khó làm lụng.

Đa số những người Việt đến Mỹ chưa đến 10 năm đều mua được nhà, dù họ đến đây với hai bàn tay trắng. Những người chưa mua được nhà là do dính vào cờ bạc. Điều này đúng cho vùng tiểu bang Washington hắn đang ở. Cờ bạc ở đây gần như tự do mà, vào đó còn được ăn uống miễn phí, đồ ăn ngon nhứt nách.

Những người Việt ở Mỹ vẫn thích tụm năm, tụm ba để nhậu nhẹt như kiểu ở Việt Nam thường khó hội nhập vào xã hội Mỹ hơn.

Nhiều người Việt thường làm việc một cách thiếu trách nhiệm nếu không có sự giám sát. Điều này rất dễ kiểm chứng. Tại các khu chợ người Việt, xe mua hàng được bỏ lung tung trên bãi đậu xe, ngoài bãi cỏ, theo kiểu tiện đâu vứt đó, có ai thấy đâu. Có rất nhiều người sau khi chất hàng vào xe không đưa xe mua hàng để vào chỗ đã được chuẩn bị sẵn. Nhiều người Việt sống ở Mỹ xem ra cũng không khác mấy Việt Cộng bên nhà!

CÒN ĐÂY LÀ MƯỜI ĐẶC ĐIỂM VÀ NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Đây là kết quả nghiên cứu được giới thiệu là của Viện nghiên cứu xã hội Mỹ (American Institute of Social Research)

Hắn đã tìm trên trang web của American Institute of Social Research nhưng chưa thấy được báo cáo của nghiên cứu này. Nhưng các nhận xét của nó khá đúng với người Việt.

Tuy nhiên, các trang khác thì đưa khá nhiều về 10 điều khái quát này và nhiều điều khác. Một trong hai trang tương đối chất lượng, có đầy đủ, hắn dẫn link ở cuối post.

“1/. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn (nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.)

2/. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.

3/. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

4/. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.

5/. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê).

6/. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.

7/. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).

8 /. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.

9/. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.

10/. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).”

https://factsanddetails.com/…/sub5_9c/entry-3385.html….

https://www.ipl.org/…/Vietnamese-Culture… 

Đúng quy trình cái đảng CSVN thối nát tham nhũng…

Lmdc Viet Nam

Đúng quy trình cái đảng CSVN thối nát tham nhũng đang là khổ dân hại nước.

* Câu chuyện nữ sinh lớp 12, nạn nhân vụ bị xe ô tô của một thiếu tá không quân tông tử vong.

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Thuận vừa thông báo đã có quyết định kỷ luật đối với 5 người liên quan đến “sai sót” trong xét nghiệm nồng độ cồn của nữ sinh lớp 12, nạn nhân nói trên.

Rất lạ là các cán bộ bệnh viện bị kỷ luật lại không bị nêu tên? Thông tin “mật” chăng

– Tại sao lại kiểm tra nồng độ cồn của nạn nhân, thật vô lý đến mức ngu xuẩn, nhằm đổ lỗi cho nạn nhân, say rượu tông vào xe và tử vong.

Đây rõ ràng là một vụ làm lệch lạc kết quả để chạy án

Cả đám cầm quyền, từ cảnh sát điều tra, giám đốc bệnh viện, quân đội… họp nhau hại dân, chà đạp công lý. Một lũ kên kên.

Đúng là 1 màn tấu hài có kịch bản tệ nhất thế giới của bọn lãnh đạo CSVN.

* Hồi tháng Sáu năm nay, Công an tỉnh Ninh Thuận cùng Cục Cảnh sát Bộ Công an đã tiến hành điều tra việc Bệnh viện Đa khoa và CDC tỉnh Ninh Thuận mua sắm bộ xét nghiệm và sinh phẩm trong phòng chống Covid-19 với Công ty Việt Á, rồi bọn lãnh đạo Bệnh viện này cũng không bị truy tố…

TL : BBC

Comment : Ngoan Lâm – Ta Quang Khải

Những con số báo động của ngành y tế tại Sài Gòn

Những con số báo động của ngành y tế tại Sài Gòn

Mai Lan (lược thuật)

(VNTB) – Lương y như từ mẫu, nhưng lương y mà đói khổ thì sao mà thực hiện nhiệm vụ của từ mẫu nổi

Lương bác sĩ ra trường còn thấp hơn nhân viên trung cấp. Mong sao các lãnh đạo nhìn ra được những bất cập trong hệ thống tiền lương của Việt Nam.

Sáng 5-8, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Văn Nên đã có buổi gặp gỡ và động viên cán bộ nhân viên y tế đang công tác tại các cơ sở y tế trên địa bàn TP.HCM.

Giám đốc Sở Y tế TP.HCM Tăng Chí Thượng tiếp tục lên tiếng cảnh báo như rất nhiều lần đăng đàn cảnh báo trước đó là tuy hiện dịch Covid-19 trên địa bàn đã được kiểm soát, nhưng ngành y tế của thành phố này lại gặp những thách thức, khó khăn mới, đó là dịch chồng dịch như sốt xuất huyết, dịch Covid-19, bệnh mới nổi…, thiếu thuốc và vật tư y tế, biến động nguồn nhân lực y tế do nhân viên y tế nghỉ việc, cùng sự lo lắng kéo dài trong một bộ phận nhân viên y tế.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thiếu thuốc và vật tư y tế tại TP.HCM, trong đó các nguyên nhân ngoài khả năng của hệ thống y tế thành phố, bao gồm một số thuốc thuộc danh mục thuốc hiếm nay lại ngừng sản xuất hoặc chưa được sản xuất trong nước, như dung dịch cao phân tử Dextran, huyết thanh kháng nọc rắn; một vài loại thuốc bị gián đoạn cung ứng do xung đột giữa Nga và Ukraine như Methotrexat (sản xuất tại Belarus) và một số thuốc do Trung tâm mua sắm tập trung quốc gia chậm đấu thầu hoặc đàm phán.

“Tôi có hai con cũng đã là nhân viên của ngành y tế. Khi con bước vào ngành này, một trong những điều đầu tiên tôi nói là nếu con muốn làm giàu thì hãy chọn ngành khác, đừng chọn ngành y tế, bởi ngành y tế con chỉ có thể giàu tình thương, sự chia sẻ.

Tuy không cần giàu nhưng cũng phải tương thích với sức lao động, học tập bỏ ra.

Bác sĩ đã học nhiều năm, điểm thi rất cao, nhưng ra trường lương chỉ có 7-8 triệu đồng/tháng. Có thể chấp nhận được trong 2 năm, 5 năm nhưng 10 năm, 20 năm thì không thể. Tôi biết là thành phố phải chịu sự trói buộc rất nhiều chính sách, nhưng mong thành phố có những cơ chế hỗ trợ thêm, để mỗi nhân viên y tế yên tâm cống hiến lâu dài và đặc biệt là hãnh diện khi làm việc cho ngành y tế thành phố” – Bác sĩ Hoàng Thị Diễm Tuyết giám đốc bệnh viện Hùng Vương, cho biết như vậy.

Một ghi nhận cập nhật thời sự cho biết về xếp hạng học phí y khoa niên khóa 2022 tại TP.HCM cho biết vị trí quán quân thuộc về Y đa khoa của Đại học Hồng Bàng, với hệ tiếng Việt là 105 triệu đồng/ học kỳ, 2 học kỳ là 210 triệu x 6 năm sẽ tương đương 1 tỷ 260 triệu đồng. Nếu chọn hệ tiếng Anh thì 6 năm học là 1 tỷ 500 triệu đồng.

Vị trí á quân thuộc về Đại học Văn Lang với 221 tín chỉ, đơn giá mỗi tín chỉ là 4.480.000 đồng, vị chi để hoàn thành chương trình, sinh viên cần phải chi trả mức học phí tối thiểu là 990.080.000 đồng.

Với khoa Y của Đại học Tân Tạo, giá bình quân mỗi năm học là 150 triệu đồng/ sinh viên.

Sinh viên trường Đại học Y Dược TP.HCM có mức học phí là 74.800.000 đồng/ năm/ sinh viên. Khoa Y của Đại học Quốc gia TP.HCM là 66 triệu đồng/ năm/ sinh viên…

Giám đốc Sở Y tế TP.HCM Tăng Chí Thượng cho biết, từ đầu năm đến nay có 891 viên chức, nhân viên các cơ sở y tế công lập xin nghỉ việc. Đồng thời cũng đã có nhiều nhân viên y tế mới tốt nghiệp xin vào làm việc. Theo thống kê, số người làm việc năm 2021 là 42.914 người, số người làm việc 6 tháng đầu năm 2022 là hơn 42.608 người. Như vậy, từ giai đoạn cuối năm 2021 đến thời điểm hiện nay, số nhân viên y tế tại các cơ sở y tế công lập đã giảm 306 người.

Tuy số nhân viên y tế nghỉ chênh lệch không nhiều, nhưng đã gây khó khăn không nhỏ cho cơ sở y tế công lập, vì hầu hết người nghỉ việc là người có thâm niên, có kinh nghiệm, còn những người mới được tuyển cần có thời gian đào tạo, thực hành.

Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Nên nhìn nhận câu hỏi sau đây đang rất cần sự đóng góp về giải pháp của tất cả các bên liên quan, đó là: phải làm sao để bác sĩ trong hệ thống y tế của Sài Gòn yên tâm chữa bệnh cứu người mà không phải lo lắng không chỉ về tài chính cho mâm cơm gia đình, cho tiền học phí của con cái, mà là đủ cả thuốc men đáp ứng kịp thời cho yêu cầu điều trị ngay tại bệnh viện.

Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Nên đã dẫn một kết quả khảo sát 500 bác sĩ, nêu ra 6 nguyên nhân khiến họ nghỉ việc tại cơ sở y tế công lập. Đó là lương thấp, không hài lòng với môi trường làm việc, cường độ làm việc quá cao, không có cơ hội học hỏi nâng cao tay nghề, không hài lòng với giám đốc hay cấp trên…

M.L.

CHUYỆN PHIẾM VỚI MỘT ANH XE ÔM CÔNG NGHỆ ĐÃ CÓ BẰNG ĐẠI HỌC (1)

CHUYỆN PHIẾM VỚI MỘT ANH XE ÔM CÔNG NGHỆ ĐÃ CÓ BẰNG ĐẠI HỌC (1)

(Ghi lại câu chuyện của một bác lớn tuổi và một cậu xe ôm công nghệ tốt nghiệp đại học)

Một bác lớn tuổi bực mình với một cậu Grab Biker:

– Sao tao đợi mày ở đây đến 20 phút mà mày cứ nói đến rồi là sao?

– Dạ, cháu tưởng số 2 Đồng Khởi là Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn nên cháu đứng đó đợi…

– Khổ quá… Mày không biết xem số à?

– Cháu có xem, nhưng chỗ Nhà thờ không có số. Cháu nghĩ số 2 là đầu đường nên chờ mãi. Đang tính báo “Hủy” thì bác gọi lại…

– Mày học hành sao mà đầu đường, cuối đường không biết?

– Dạ, cháu có đi học chứ. Cháu mới tốt nghiệp Đại học Luật bác ạ. Nhưng quê ở Tây Ninh. Giờ tốt nghiệp, xin việc hoài không được, phải chạy Grab kiếm cơm. Bác thông cảm . . .

– Thôi được, chạy đi. Tao dạy mày một lần cho biết nhé. Cái đó gọi là Kiến thức phổ thông, nhưng tao biết gần như 100% người Việt ở Việt Nam không biết. Từ xếp lớn đến thằng chạy xe ôm như mày. Vì có học đâu. 100 anh chạy xe ôm đều không biết trừ những anh tao nói thì biết thôi. Nhớ nhé:

Trong một đô thị đã có quy định: Mặc nhiên là số nhỏ luôn tính từ sông lên. Ví dụ: Số 2 đường Đồng Khởi là Cà phê Runam tao đang đứng đây là số nhỏ vì nó giáp sông Sài Gòn. Vậy, chỗ mày chờ lúc nãy là ở Nhà thờ Đức Bà là cuối đường Đồng Khởi. Số lẻ luôn bên tay trái, số chẵn bên tay phải khi mày đứng nhìn từ đầu đường đến cuối đường. Vậy khách Tây nó nói cho xe đến trung tâm Sài Gòn thì mày chạy đi đâu?

– Dạ… Chắc chạy ra Nguyễn Huệ phải không bác?

– Trật lất. Ở một đô thị, trung tâm là nơi có nhà ga xe lửa chính. Rồi nếu không có thì là Bưu điện Trung tâm. Tức là chỗ Nhà thờ Đức Bà vừa nãy đó.

Trước 1975, trung tâm Sài Gòn là Nhà ga xe lửa ở chỗ gần chợ Bến Thành, chứ không phải là Chợ Bến Thành. Sau năm 1980, nhà ga này dời về Hòa Hưng nên trung tâm Sài Gòn hiện nay là Bưu điện trung tâm Sài Gòn.

Đó là các kiến thức phổ thông. Mày biết thì đi đâu ở nước ngoài cũng không sợ bị lạc đường. Nó có những quy tắc phổ quát ở đô thị, trong một xã hội băn minh. Phải được dạy dỗ từ bé. Nhưng người ta không làm. Người ta dạy rất nhiều thứ vô bổ. Người Việt đi nước ngoài khổ lắm. Đi từng đoàn, xem bản đồ không biết, xem la bàn không biết. La hét inh ỏi. Xấu hổ ghê lắm . . .

Trong khi ở các nước khác, trước khi học toán, học lý, họ dạy người ta sống với nhau như thế nào. Gọi là học cách Cư xử, cách Đối nhân xử thế giữa người với người, giữa trẻ với người lớn tuổi. Rồi dạy kỹ năng sống, kỹ năng sinh tồn, nhóm lửa trong điều kiện khó khăn, cách dựng lều, trại, cách bắt cá, cách xử lý thịt sống… Rồi học bơi, học thoát khỏi đám cháy, nhà sập, động đất hay bị bắt cóc… Học cách ứng cứu y tế sơ đẳng… Nhiều lắm… Như trẻ con ở Nhật, từ lớp 1 đến lớp 6 chỉ học như vậy. Và một ít chữ. Toán, Lý, Hóa chỉ sau này mới học. Và nếu có năng khiếu có đam mê mới theo một ngành nào đó và học cấp cao hơn. Nhưng trước đó đứa bé đã biết mọi thứ để tự lo cho cuộc sống của mình.

Tao sang Canada… Người ta dạy lắp điện, sửa ống nước, thoát nước với những điều cơ bản từ trong trường phổ thông. Cái gì lo cho bản thân mình chính là phổ thông. Còn ở Việt Nam không có. Vì vậy, ở Việt Nam làm gì cũng mướn thợ. Ở nước ngoài, người ta ai cũng làm được hết, dù là phụ nữ hay đàn ông, từ điện đến cấp, thoát nước… Chỉ những người muốn công việc chuyên nghiệp và quá bận rộn mới mướn thợ.

Còn ở Việt Nam, rất nhiều đàn ông không biết lắp điện, không biết sửa ống nước. Vì có được học đâu?

Trẻ con Việt Nam yếu về mọi kỹ năng, cái gì cũng không biết. Vì chúng phải bỏ thời giờ để học yêu lãnh tụ, yêu đồng bào. Đó là sự xuẩn ngốc. Vì tình yêu không thể dạy để yêu được. Tình yêu là một tình cảm tự nhiên và lòng yêu nước cũng tự nhiên dù không dạy cũng vậy. Hôm qua, thằng cháu ngoại của tao mới vào lớp vỡ lòng về hỏi: Ngoại ơi, tổ quốc là gì hả ngoại, có phải là tổ con chim quốc không ngoại, sao cô giáo dạy phải yêu? Tao nhức đầu quá, chẳng biết giải thích sao.

Sao không dạy cho bọn nó trước hết yêu ông, bà, cha, mẹ, anh chị, bạn bè, kính trọng thầy cô, người lớn trước khi dạy nó những thứ khác? Đầu óc non trẻ của tụi nó sao kham nổi mấy khái niệm xa lắc xa lơ?

Lớn lên, chúng còn mất thì giờ học Toán cao cấp như Vi phân, Tích phân. Mấy đứa sau này làm ca sỹ, nhân viên bán hàng, cầu thủ đá banh như Công Phượng, Quang Hải hay chạy Grab như mày . . . cần gì những thứ này? Hầu hết đều vứt đi sau khi thi xong, quá lãng phí công sức người dạy lẫn người học. Cái không dùng tới trong đời sống hàng ngày sao gọi được là phổ thông? Nó chỉ nên dạy ở đại học . . .

Còn nhiều thứ vô bổ khác nữa được nhồi nhét vào đầu chúng. Chẳng biết nhằm mục đích gì? Cách dạy cũng vậy, từ cấp nhỏ đến đại học toàn đọc, chép, thầy cô bảo sao nghe vậy, đứa nào có ý khác một tý, cãi một tý thì mắng là hỗn, láo mặc dù mình sai lè lè! Chẳng khác gì biến chúng thành một lũ cừu dễ bảo.

Gíao dục bây giờ thật tệ hại. Cho nên nói cứ nói mà không có mục tiêu nào đạt được. Đại hội Đảng năm 1976, người ta nói đến 1980 cơ bản biến nước ta thành nước Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá. Và giờ đã 43 năm rồi mà vẫn còn xa vời…

Hôm nọ có một gã chức nhớn mới nói: Gíao dục của ta chưa bao giờ tốt như bây giờ, kể từ thời Vua Hùng đến giờ…

Một cậu bé bán vé số đứng cạnh mới hỏi:

– Có đúng không bác?

Ông bác lớn tuổi tự hào trả lời:

– Đúng chứ cháu. Cháu mới 10 tuổi mà biết sử dụng Ipad, Iphone nhoay nhoáy. Bác chắc là Vua Hùng sống lại cũng không giỏi như cháu đâu. Nên mới nói giáo dục của ta bây giờ hơn thời Vua Hùng nhiều lắm . . .

(theo fb HP)

NGƯỜI VIỆT RA ĐI VÌ KHÓ SỐNG TỬ TẾ TRÊN CHÍNH TỔ QUỐC MÌNH

NGƯỜI VIỆT RA ĐI VÌ KHÓ SỐNG TỬ TẾ TRÊN CHÍNH TỔ QUỐC MÌNH

Người Việt không có truyền thống khám phá, thám hiểm các vùng đất khác.

Dễ nhìn thấy từ trước khi người Pháp xâm lược Việt Nam không có những người Việt đi xa, khám phá.

Quan lại triều đình đi xuất ngoài chủ yếu đi cống nạp thiên triều, hoặc cầu viện quốc gia hàng xóm trong sự tranh giành vị trí cai trị.

Việt Nam có bờ biển dài nhưng lịch sử 4000 năm người Việt chỉ quanh quẩn trong bờ, đánh bắt trong bờ.

Dãy Trường Sơn phía Tây hùng vĩ, nhưng sau khi bình định được các quốc gia phương Nam người Việt chỉ quanh quẩn ở vùng đồng bằng. Tây Nguyên, phải chờ người Pháp khai phá, đặt nền móng nhà nước cho các chính quyền của người Việt sau này.

Những cái hang động ở Phong Nha, người Việt chưa bao giờ dám khám phá… vì coi đó là nơi linh thiêng.

Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, truyền thống của người Việt chỉ quanh quẩn trong làng. Có người cả đời chưa một lần ra khỏi cái xã.

Đầu thế kỷ 13, những hậu duệ của nhà Lý để bảo toàn tính mạng trước một Trần Thủ Độ cương quyết tiêu diệt đã phải tìm đường biển ra đi đến Đài Loan, Triều Tiên.

Họ ra đi mà không trở về, những hậu duệ nhà Lý cùng gia nô của họ trở thành những người Việt không còn dấu ấn Việt trên văn hóa, khuôn mặt.

Trong các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực Bắc – Nam cũng không ghi nhận lũ lượt người Việt rời bỏ quê hương ra đi. Dù bên này, bên kia vẫn có thể sống được, hay nhân danh việc yêu nước, bảo vệ lãnh thổ mà ở lại.

Ấy vậy mà, sau khi từ “giải phóng” người Việt không thể sống được ngay chính trên quê hương của mình. Họ phải rời bỏ ruộng vườn, họ hàng, mồ mả, quê hương… ra đi. Họ biết rằng chuyến đi là đối mặt với cái chết, hải tặc, cướp rừng… nhưng ít ra đi còn có cơ hội sống một cách tử tế.

Họ ra đi theo kiểu, mạnh ai nấy chạy.

Đã có những người vợ mất chồng, con mất cha… những gia đình đầy đau thương, trong một dân tộc đầy thương đau.

Đã có bao nhiêu người Việt bỏ mạng trong các chuyến đi từ sau biến cố 30/4/1975 đến đầu những năm 1990?

Lịch sử của người Việt không thể ‘không có trí nhớ’ trong việc này. Lịch sử của người Việt không thể không nhắc nhớ nhau về từ “thuyền nhân”.

Không quên để thấy đau thương của một dân tộc. Không quên để trong tương lai không lặp lại. Đừng rửa sạch lịch sử.

Lịch sử của người Việt càng không thể dấm dúi, hoặc lên án việc này.

Ngày nay người Việt tiếp tục ra. Người nghèo ra đi để bán sức lao động, mong tích góp chút vốn để có của trả nợ, chữa bệnh, xây nhà, tích lũy chút vốn cho con cái học hành.

Họ ra đi bởi hy vọng tìm cuộc sống tốt hơn, không phải trên quê hương.

Hôm nay, vẫn còn nhiều người Việt bỏ mạng trên đường, trên công trường, trong chỗ làm… nơi xứ người. Thật xót xa.

Chỉ có người vô cảm mới trách họ. Chỉ có người quá chuyên chế mới nói họ không yêu quê hương.

Họ chỉ mong tìm đường sống tốt hơn thôi mà.

Đất nước đã khá hơn, nhiều người đã thoát nghèo… chính nhờ sự đầu tư không phải của nước anh em XHCN mà của bọn tư bản, đa đảng. Việt Nam đang có thêm nhiều người khá hơn cho cái tỵ nạn giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội…

Nền giáo dục nửa quốc dân (bởi phải đóng tiền) nhiều khiếm khuyết dường như chỉ dành cho người nghèo. Bởi người có kinh tế thường cho con học trường tư, trường quốc tế.

Đảng lãnh đạo toàn diện dân tộc Việt Nam nói, “Tất cả vì con em của chúng ta”. Con chúng ta trước đây, được ưu tiên suất nhà nước, được xuất khẩu… giờ thì con chúng ta nhờ có tiền có thể chọ học trường quốc tế, đi du học…

Đảng không dại gì nói rõ, “còn con em chúng nó thì kệ”. Nhưng người Việt cần nhìn thấy.

Còn Hắn thấy người Việt cứ lại lũ lượt ra đi. Sao mà không buồn cho được.

Hắn cũng là một người đã ra đi. Ra đi để được tự do với chính suy nghĩ của mình.

Võ Ngọc Ánh

Xót ruột, sốt ruột nào đủ?

Xót ruột, sốt ruột nào đủ?

Lưu Trọng Văn

4.400 tỉ tiền của Dân, mà Dân lại đang rất nghèo, ở Thái Nguyên, chỉ còn là đống sắt rỉ.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thẫn thờ đứng trước hoang tàn tệ hại ấy thốt lên: Xót ruột! Sốt ruột!

Nhà báo Đào Tuấn, người theo dõi “trận đánh”này kể lại:

“Năm 2007, Tập đoàn Khoa học Công nghệ và Thương mại Luyện kim Trung Quốc (MCC) thắng thầu tại dự án trị giá 3.800 tỉ này. Theo hợp đồng: hơn 160 triệu USD, là giá trọn gói không thay đổi. Nhưng chỉ vài tháng, bọn Tàu quay xe, đòi “điều chỉnh“ thêm 138 triệu USD, đòi kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng EPC.

Và 11 tháng sau khi ký hợp đồng, sau khi được thanh toán tới 95% tiền mua sắm thiết bị với giá trị hơn 4.400 tỉ, MCC vẻ vang kéo quân về nước mà ko phải làm gì, và để lại một đống sắt vụn đúng nghĩa.

Suốt từ bấy, 4.400 tỉ giải ngân vẫn nằm đó, thù lù một đống”.

Trong khi đó Đất nước của 100 triệu Dân đang và sẽ rất cần thép. Một nền kinh tế sẽ què quặt nếu công nghiệp cốt lõi là thép đì đẹt.

Làm sao mà không xót ruột với sốt ruột?

Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam được Bộ Công Thương nhìn nhận là khá thấp khi phần lớn các nguyên liệu đầu vào để sản xuất thép phải nhập khẩu.

Bên cạnh đó, vẫn tồn tại nhà máy có công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường.

Bên cạnh đó, ngành thép của Việt Nam cơ bản phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài như: quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite… nên khi giá các nguyên liệu đầu vào biến động sẽ làm giá thép thành phẩm trong nước cũng phải điều chỉnh theo thị trường thế giới.

Làm sao mà không xót ruột với sốt ruột?

Theo dự báo sơ bộ, tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam giai đoạn đến năm 2030 có thể đạt tới 310 tỷ USD. Trong đó, nhu cầu thị trường từ cơ khí phục vụ công trình công nghiệp là 120 tỷ USD; cơ khí phục vụ xây dựng, nông nghiệp, chế biến là 15 tỷ USD; thiết bị tiêu chuẩn là 10 tỷ USD; giao thông đường sắt là 35 tỷ USD; tàu điện ngầm là 10 tỷ USD và ô tô là 120 tỷ USD.

Đây sẽ là thị trường rất lớn cho ngành thép trong nước, đặc biệt là các loại thép chế tạo, thép hợp kim chất lượng cao phục vụ các ngành công nghiệp chế tạo, vốn là phân khúc hiện nay Việt Nam chưa tự chủ được trong sản xuất thép nội địa.

Vậy mà cả một công trình xây dựng nhà máy thép – quả đấm sắt 25 năm nay trở thành sắt… rỉ.

Làm sao mà không xót ruột với sốt ruột?

Nhưng thưa thủ tướng lẽ nào chỉ xót ruột và sốt ruột?

Trong đêm 27.7 tưởng niệm các liệt sĩ đã ngã xuống cho Hoà bình của Dân tộc, thủ tướng đã bật khóc, thì không thể chỉ “xót ruột và sốt ruột” được nữa, lúc này Dân tộc cần, yêu cầu, thậm chí buộc thủ tướng phải tỏ thái độ mạnh mẽ hơn.

Vâng, quá rõ ràng, chỉ xót ruột và sốt ruột chưa đủ. Phải căm giận, phẫn nộ. Căm giận, phẫn nộ những kẻ khốn nạn mất nhân tâm đã gây nên, đồng loã, tiếp tay cho “trận đánh” thảm bại này.

Có thể nói công trình nhà máy thép mở rộng Thái Nguyên là một thảm bại của Việt Nam trước bọn Trung Hoa Đỏ với cái lưỡi sói bẩn thỉu, tham lam, lừa đảo của chúng.

Nguyên do chính của thảm bại đau đớn nhục nhã này là do một lũ quân tướng đầu sỏ trực tiếp điều khiển “trận đánh” đã phản bội Dân tộc.

Thưa bác cả Trọng, bọn chúng chính là thế lực thù địch mà bác hay nhắc đến chứ đâu?

Chúng chỉ vì túi tham của mình đã tiếp tay cho bọn Trung Hoa Đỏ ăn cướp tài sản của Dân Việt, tàn phá Đất nước Việt mà không cần tiếng súng.

Bài học ở Thái Nguyên đó là cuộc xâm lược của Trung hoa đỏ không chỉ ở Biển Đông mà từ lâu đã kéo vào mọi ngóc ngách của nền kinh tế Đất nước và trắng trợn huỷ diệt nó.

Chưa trắng mắt hay sao?

Lời khuyên của gã với thủ tướng:

Không thể phục hồi được đống sắt rỉ với công nghệ phủi ở Thái Nguyên đâu. Thép là công nghiệp hiện đại gắn sống còn với môi trường. Phục hồi đống sắt rỉ ấy với công nghệ cũ sẽ phải trả giá cho môi trường rất lớn. Chi bằng đấu thầu bán hết đống phế liệu ấy đi, liên kết với các nhà đầu tư công nghiệp thép hàng đầu thế giới xây dựng tổ hợp thép hàng đầu thế giới cho Đất nước.

Cái khó nhất là làm sao ngăn cho được bọn đầu trâu mặt ngựa phản bội Dân tộc nhan nhản, không cho chúng tiếp tục luồn lách điều hành các dự án kinh tế trọng điểm của Đất nước đây?

Khó! Quá khó! Nhưng Lịch sử Dân tộc đã chứng minh:

Dễ trăm lần không Dân cũng chịu.

Khó vạn lần Dân liệu cũng xong.

Dân- Dân chủ hoá bộ máy điều hành Đất nước, sẽ đủ sức để chọn đúng người tài đức và tống cổ bọn bất tài, bất nhân.

L.T.V.

SÀI GÒN…

8 SÀI GÒN

SÀI GÒN…

“Năm 1954, cả trăm ngàn dân Bắc di cư vào Sài Gòn, mang theo đủ loại kiểu sống bó trong luỹ tre làng đem nhét hết vô mảnh đất nhỏ xíu này, cũng gây xáo trộn cho người ta chứ. Phong tục, tập quán, ở đất người ta mà cứ như là ở đất mình. Nhưng người Sài Gòn chỉ hiếu kỳ một chút, khó chịu một chút, rồi cũng xuề xoà đón nhận.

Lúc đầu tụi bạn ghẹo tôi là “thằng Bắc kỳ rau muống”. Con nít đổi giọng nhanh mà, trong nhà giọng Bắc, ra ngoài giọng Nam. Thế là huề hết. Rủ nhau đi oánh lộn phe nhóm là chuyện thường. Khỏi cần biết đúng sai, mày đánh bạn tao, thì tao đánh lại, oánh lộn tưng bừng. Vài ngày sau lại rủ nhau đi xem xinê cọp. Dễ giận dễ quên.

Hè, tụi bạn về quê, Bến Lức, Vĩnh Long, Kiến Hoà … Cũng chia tay hứa hẹn, tình cảm ra rít: “Tao về quê sẽ mang lên cho mày ổi xá lỵ, xoài tượng…” Tôi ngóng cổ chờ bạn, chờ quà. Thực ra, tôi thèm có quê để về.

Tết đến, thầy cô, bạn bè về quê, nhiều người Sài Gòn xôn xao về quê. Tôi ở lại Sài Gòn mà thấy mình vẫn không phải dân Sài Gòn. Vậy ai là dân Sài Gòn chính hiệu đây? Chẳng lẽ phải tính từ thời mấy ông Pétrus Ký hay Paulus Của?

Sài Gòn trẻ măng, mới chừng hơn 300 tuổi tính từ thời Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền ở đây. Sài Gòn khi cắt ra khi nhập vào, to nhỏ tuỳ lúc. To nhất khi nó là huyện Tân Bình, kéo dài đến tận Biên Hoà. Nhỏ nhất là vào thời Pháp mang tên Sài Gòn. Ngay trước 1975, Sài Gòn rộng chừng 70km2, có 11 quận, từ số 1–11. Hồi đó Phú Nhuận, Tân Bình, Thủ Đức… còn được xem là nhà quê (tỉnh Gia Định). Bây giờ Sài Gòn rộng tới 2.000km2.

Sài Gòn đắc địa, có cảng nối biển, là đầu mối giao thương quốc tế, tiếp cận văn minh Tây phương sớm. Dân Sài Gòn không có địa giới rõ rệt. Nói tới họ có vẻ như là nói tới phong cách của dân miền Nam. Họ là những lưu dân khai phá, hành trang không có bờ rào luỹ tre nên tính tình phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, nói năng bộc trực… Ai thành đại gia thì cứ là đại gia, ai bán hàng rong thì cứ bán.

Sài Gòn không tự hào mình là người thanh lịch, không khách sáo, không mời lơi. Họ lấy bụng đãi nhau. Sài Gòn có mua bán chém chặt? Có, đúng hơn là nói thách. Cứ vô chợ Bến Thành xem mấy bà bán mỹ phẩm, hột xoàn hét giá mát trời ông Địa. Không cứ khách tỉnh, dân Sài Gòn lơ mơ cũng mua hớ như thường.

Ít nơi nào nhiều hội ái hữu, hội tương tế, hội đồng hương như Sài Gòn. Có máu lưu dân trong người, dân Sài Gòn thông cảm đón nhận hết, không ganh tị, không thắc mắc, không kỳ thị. Người ta kỳ thị Sài Gòn, chứ Sài Gòn chẳng kỳ thị ai.

Nhiều gia đình người Bắc người Trung ngại dâu ngại rể Sài Gòn, chứ dân Sài Gòn chấp hết, miễn sao ăn ở biết phải quấy là được.

Dân Sài Gòn làm giàu bằng năng lực hơn là quyền lực. Người ta nói “dân chơi Sài Gòn”. Trời đất! Sài Gòn mà “tay chơi” cái nỗi gì. Tay chơi dành cho những đại gia giàu lên đột xuất từ đâu đó đến. Sài Gòn a dua thì có, nhưng a dua biết chọn lọc. Coi vậy chứ dân Sài Gòn đâu đó còn chút máu “kiến nghĩa bất vi vô dõng giả”. Cứ xem dân Sài Gòn làm công tác xã hội thì biết, cứu trợ lũ lụt thấy người ta lạnh quá, cởi áo len đang mặc tặng luôn. Họ làm vì cái bụng nó thế, chứ không phải vì PR, đánh bóng bộ mặt.

Biết bao văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung vào đất này “quậy” tưng, tạo ra cái gọi là văn học miền Nam hậu 54 coi cũng được quá chứ ? Nhạc sĩ Lam Phương, quê Rạch Giá, mười tuổi đã lưu lạc lên Sài Gòn kiếm sống. Năm 17 tuổi nổi danh với bản Kiếp nghèo và khá giả từ đó.

Tiếp cận văn minh phương Tây sớm, nên dân Sài Gòn có thói quen ngả mũ chào khi gặp đám ma, xe hơi không ép xe máy, xe máy không ép người đi bộ, chạy xe lỡ va quẹt nhau, giơ tay chào ngỏ ý xin lỗi là huề. Những thói quen này giờ đây đang mất dần, nhưng dân Sài Gòn không đổ thừa cho dân nhập cư. Họ cố gắng duy trì (dù hơi tuyệt vọng) để người mới đến bắt chước. Chợ hoa là một chút văn hoá của Sài Gòn, có cả nửa thế kỷ nay rồi, có dân nhập cư nào “yêu” hoa mà ra đó cướp giựt hoa đâu.

Sài Gòn nhỏ tuổi nhiều tên, nhưng dù thế nào Sài Gòn vẫn là Sài Gòn. Nhiều người thành danh từ mảnh đất này. Sài Gòn nhớ không hết, nhưng mấy ai nhớ đến chút tình của Sài Gòn? May ra những người xa Sài Gòn còn chút gì nhức nhối. Tôi có thằng bạn Bắc Kỳ chín nút, xa Việt Nam cũng gần 40 năm. Tên này một đi không trở lại, vừa rồi phone về nói chuyện lăn tăn, rồi chợt hỏi: “Sài Gòn còn mưa không?” – “Đang mưa”. Đầu phone bên kia thở dài: “Tao nhớ Sài Gòn chết… mẹ!” Sài Gòn nay buồn mai quên, nhưng cũng có nỗi buồn chẳng dễ gì quên.

Mới đây đi trong con hẻm lầy lội ở Khánh Hội, chợt nghe bài Kiếp nghèo vọng ra từ quán cóc ven đường. Tôi ghé vào gọi ly cà phê. Giọng Thanh Thuý sao da diết quá: “Thương cho kiếp sống tha hương, thân gầy gò gởi theo gió sương…” Chủ quán, ngoài 60 cầm chồng báo cũ thẩy nhẹ lên bàn “Thầy Hai đọc báo …” Hai tiếng “thầy Hai” nghe quen quen… Tự nhiên tôi thấy Sài Gòn như máu chảy từ tâm, Sài Gòn bao dung. Tôi chợt hiểu ra, mình đã là người Sài Gòn từ thuở bào thai rồi, cần gì phải xin nhập tịch?”

(Khuyết Danh)

Thằng Bờm st

Sài Gòn Xưa

So với Thái, ta ở đâu? – Đỗ Ngà

So với Thái, ta ở đâu?

Đỗ Ngà

Có một thực tế lâu nay là tại Thái Lan, người dân có thể dễ dàng gởi ngoại tệ qua ngả ngân hàng, Western Union, Money Gram rất dễ dàng. Không biết giới hạn là bao nhiêu nhưng chuyển ra nước ngoài khoảng $5,000 rất đơn giản mà không cần thủ tục phức tạp nào.

Nếu so sánh với Việt Nam thì sẽ thấy, lâu nay Nhà nước Cộng sản rất khó khăn trong vấn đề chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Dù qua ngả ngân hàng hay qua ngả các công ty chuyển tiền đều bị chặn bởi hàng rào “thủ tục”. Để chuyển tiền đi nước ngoài, Nhà nước CS buộc người chuyển phải cung cấp giấy tờ chứng minh cho mục đích chuyển. Ví dụ, để chuyển tiền cho con đang du học nước ngoài thì phụ huynh phải cấp đầy đủ giấy tờ chứng minh con đã được du học, dù đó là chuyển số tiền chỉ vài ngàn USD cũng phải làm thủ tục rất phức tạp.

Sự dễ dãi hay khó khăn trong vấn đề cho phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài nó thể thể hiện điều gì? Nó nói lên rằng quốc gia đó đang khan hiếm ngoại tệ hay đang dồi dào ngoại tệ. Thực tế cho thấy, Việt Nam khan hiếm ngoại tệ hơn Thái Lan, đó là điều mà tôi có thể cảm nhận được và cần đi sâu phân tích để đánh giá sức khỏe nền kinh tế mỗi nước.

Nguồn cung ngoại tệ cho một quốc gia sẽ quyết định chính sách ngoại hối của Ngân hàng trung ương quốc gia đó. Hiện nay có 5 nguồn cung ngoại tệ lớn, đó là: từ hoạt động ngoại thương; từ kiều hối; từ đầu tư nước ngoài; từ nguồn vay quốc tế; từ bán tài nguyên v.v.. Những nguồn tiền đó sẽ đổ vào Việt Nam và nằm trong dân chúng, nếu dồi dào thì Ngân hàng Nhà nước sẽ mua vào dự trữ để thực hiện chức năng giữ cho tỷ giá nội tệ ổn định. Còn nếu quá dư thừa ngoại tệ trong dân thì Ngân hàng Trung ương mở cho dân dễ dàng chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ nhu cầu của người dân.

Nguồn ngoại tệ trong dân và ngoại tệ trong kho dự trữ của Ngân hàng Nhà nước đều quan trọng như nhau. Nếu giả sử như lượng ngoại tệ trong dân ít mà ngân hàng nhà nước còn bung tiền nội tệ ra vét cho vào kho thì ắt giá ngoại tệ chợ đen sẽ tăng, lúc đó thị trường ngoại hối sẽ loạn không tốt cho nền kinh tế. Mà muốn ổn định tỷ giá để cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu yên tâm làm ăn thì Ngân hàng Nhà nước phải xuất kho bán ngoại tệ để hạ giá chợ đen xuống tương đương với giá niêm yết tại ngân hàng. Nói tóm lại, không phải Nhà nước muốn mua bao nhiêu ngoại tệ thì mua mà nó tùy thuộc vào nguồn cung ngoại tệ của quốc gia đó mạnh hay yếu.

Với chính sách nới lỏng việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài như Thái lan thì điều đó có nghĩa là nguồn cung ngoại tệ của Thái Lan mạnh hơn Việt Nam rất nhiều. Mà nguồn cung ngoại tệ mạnh, chứng tỏ nền kinh tế họ mạnh.

Hôm nay là ngày 30 Tháng Bảy, giá vàng tại Việt Nam là $2,382/ounce, giá vàng thế giới là $1,783/ounce và giá vàng tại Thái Lan chỉ $1,600/ounce. Nếu người dân Việt Nam mua vàng vào sẽ mất nhiều tiền hơn người Thái đến 50%. Nếu ai “buôn lậu” vàng từ Thái về Việt Nam là siêu lợi nhuận. Như vậy là dân Việt Nam phải mất rất nhiều do chính sách về giá vàng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đặt ra.

Nếu Ngân hàng Nhà nước cho nhập vàng về để cho giá vàng trong nước ngang bằng với giá vàng thế giới thì ngoại tệ trong kho lại vơi. Nếu ngoại tệ trong kho dư giả không nói gì, còn nếu thiếu trước hụt sau mà xuất ngoại tệ nhập vàng để bình ổn giá vàng thì lúc đó Ngân hàng Nhà nước mất công cụ giữ tỷ giá hoái đoái đồng nội tệ. Không giữ được tỷ giá đồng nội tệ nguy hiểm cho nền kinh tế nhiều hơn là không ổn định giá vàng. Với lại tính thanh khoản của vàng không bằng USD nên Ngân hàng nhà nước đành hy sinh chính sách giữ giá vàng để ổn định tỷ giá đồng nội tệ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam không có nhiều dư địa để làm tốt đồng thời chính sách giữ giá và và chính sách giữ giá đồng nội tệ. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho Ngân hàng nhà nước không chịu thả cho nhập khẩu vàng ồ ạt.

So sánh hành động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Trung ương Thái Lan thì thấy rằng Ngân hàng Trung ương Thái đang có quá nhiều dư địa để thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái nới rộng và chính sách tự do kinh doanh vàng. Còn với Ngân hàng nhà nước Việt Nam, từ nhiều năm nay vẫn cứ chới với với chính sách tỷ giá hối đoái mà hy sinh mọi chính sách khác để người dân phải chịu thiệt trường kỳ. Theo tôi đoán, Ngân hàng Nhà nước sẽ không xóa chính sách độc quyền nhập khẩu vàng vì tôi không tin lượng USD dự trữ của Ngân hàng Nhà nước đủ dư giả để làm điều đó.

Tôi vốn không tin con số của Chính quyền thông báo, chỉ quan sát chính sách ở hai quốc gia thì thấy nền kinh tế Thái Lan khỏe hơn nền kinh tế Việt Nam nhiều lần. Đấy là thực tế không thể chối cãi. Nhìn 2 nền kinh tế, tôi thấy, Việt Nam đang bị Thái bỏ càng ngày càng xa chứ không xích lại gần hơn như con số thống kê./.

Đ.N.

Nguồn: SOI

Thư Cho Con – Sổ tay thường dân – Tưởng Năng Tiến

Thư Cho Con – Sổ tay thường dân – Tưởng Năng Tiến

Tôi không thân thiết chi với Bùi Bảo Trúc và cũng chả mặn mà gì với chuyện văn nghệ/văn gừng nên mãi tới bữa rồi mới (tình cờ) được biết thêm rằng ông không chỉ là một nhà báo, nhà văn mà còn là một nhà thơ hơi nặng tình đất nước:

  • Tôi cũng như ông đời biệt xứ
    Trẻ ra đi già vẫn tha hương
    Mấy chục năm buồn trên xứ lạ
    Tôi đọc thơ ông nát cả hồn …  (“Xa Nhà Đọc Thơ Hạ Tri Trương”)
  • Hãy tưởng tượng trong hộp thư ngoài cửa
    Mấy bức thư đọng lại những năm qua
    Một tấm thiệp báo tin người yêu nhỏ
    Đã tìm ra hạnh phúc dưới trời xa …  (“Gửi Căn Nhà Cũ”)

Ngoài khuynh hướng hoài hương, Bùi Bảo Trúc còn là một người hoài cổ. Trong hàng chục ngàn Thư Gửi Bạn Ta mà ông viết đều đặn hằng ngày, ròng rã qua mấy thập niên – có hôm – tác giả đã tỏ ý tiếc nuối những Lá Thư đã cũ của Từ Linh & Đoàn Chuẩn:

Nhớ tới mùa thu năm xưa gửi nhau
Phong thư ngào ngạt hương
Nét bút đa tình lả lơi …

Tôi sinh sau đẻ muộn nên chưa hề gửi đi (hay nhận được) một phong thư nào lãng mạn và trang trọng tới cỡ đó. Những lá thư nắn nót trên “giấy trắng mực thường” cũng khỏi có luôn:

  • Có gì đâu một lá thư
    Giấy trắng như giấy, mực như mực thường
    Cũng chưa một chữ rằng thương
    Mà tôi đọc suốt đêm trường sang mai
    Không nhớ nữa ngắn hay dài
    Hình như tôi đã đọc ngoài trang thơ
    .

    (“Có Gì Đâu” – Trần Ninh Hồ)
  • Thư thì mỏng như suối đời mộng ảo
    Tình thì buồn như tất cả chia ly
    Giấy phong kỹ mang thầm trong túi áo
    Mãi trăm lần viết lại mới đưa đi
    .
  • (“Tình Thư Thứ Nhất” – Xuân Diệu)

Tôi bước vào tuổi dậy thì cùng lúc với Bridgestone, Kawasaki, Suzuki, Honda … đang tràn ngập khắp miền Nam. Đám choai choai chúng tôi như được chắp cánh, bay lượn tá lả bùng binh, đâu có đứa nào rảnh để thư từ (vớ vẩn) nói chi đến cái dzụ “viết lại trăm lần.” Nghe mà phát mệt!

Khi đời về chiều thì nhịp sống còn hối hả và bận rộn hơn nữa. Sau máy fax, thiên hạ email, rồi inbox, và text (liền liền) cho nó lẹ. Chả còn ai đủ bình tâm hay kiên nhẫn ngồi bên bàn viết, hoặc bàn phím để thư từ gì nữa. Ấy thế mà trong những ngày qua, tôi vẫn đọc được đôi ba bức thư (mỗi chữ đều như róc/ từ xương thịt cuộc đời/ từ bi thương phẫn uất …) của mấy ông bố trẻ gửi cho những đứa con thơ.

Bức thư thứ nhất của ông Nguyễn Lân Thắng, viết hôm 30 tháng 7 năm 2014, gừi cho con gái vừa 2 tuổi – mới được lan truyền rộng rãi trên mạng – sau khi nhân vật bất đồng chính kiến này bị bắt giữ vào hôm 5 tháng 7 vừa qua. Xin ghi lại đôi ba đoạn ngắn:

Con thương yêu của bố…

Bố có thể có nhiều lựa chọn. Nếu chấp nhận cuộc sống giả dối, tung hô những điều dối trá, tận dụng những quan hệ và lợi thế sẵn có thì sẽ chả thiếu thứ gì. Rồi khi mai này đất nước tan hoang, ta có thể ra nước ngoài sinh sống không cần biết nước Việt ra sao. Rồi con sẽ được sống trong môi trường bình yên với những điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa tốt nhất.

Nhưng con ơi, không ai chọn được tổ quốc, không ai lựa được gia đình. Bố yêu con như thế nào thì bố cũng yêu mảnh đất này như thế. Bố không thể chấp nhận làm kẻ bỏ chạy mà phải chiến đấu bằng được để giữ mái nhà tổ quốc này cho con.

Bố không thể nhởn nhơ sống cho riêng mình khi xung quanh toàn khổ đau và nước mắt. Đối với bố đó không phải là hạnh phúc. Bố ước gì con được sống trong một tương lai tốt đẹp hơn bố. Con được sống trong tình thân ái, trong niềm tin, niềm hân hoan và những thứ mà một con người đáng được hưởng.

Có thể bố sẽ thất bại. Có thể bố sẽ không được ở bên con ba mươi năm còn lại như dự tính. Nhưng dù thế nào bố cũng đã quyết định thế rồi, và nếu cuộc đời con gặp những khó khăn vì bố gây ra thì xin con hãy nhớ về một ông bố đã tuyệt vọng chiến đấu để con có cuộc sống hạnh phúc đích thực mà tha thứ cho bố.Bố yêu con rất nhiều, bé Đậu tuyệt vời của bố!

Bức thư thứ hai của nhà giáo Bùi Văn Thuận, viết hôm 5 tháng 1 năm 2017 (cho con gái đầu lòng mới mở mắt chào đời) và cũng chỉ vừa được phổ biến, sau khi ông bị bắt giữ vào hôm 30/8/2021:

Con gái à, hôm nay con đã được 3 tháng 18 ngày, con chưa thể đọc những dòng chữ ba viết cho con, nhưng ba vẫn viết ra đây để sau này con có thể đọc, con có thể cho bạn bè con đọc… 

Khi con ngủ (tối qua con ngủ khá ngoan, con gái ạ), ba mẹ nấu cơm và ăn cơm tối lúc hơn 12h đêm. Mẹ con đói lắm vì con bú nhiều, một lần nữa ba lại muốn khóc. Khi ăn ba và mẹ con đã nói rất nhiều chuyện, trong đó có chuyện khi đi “làm việc” với an ninh, nhỡ ba không về với hai mẹ con nữa thì sao?

Ba rất khó lựa chọn, thật sự rất khó con gái ơi! Nếu ba chấp nhận sống vì hai mẹ con con, cúi đầu im lặng để có thể chạy vạy lo toan cho hai mẹ con, thì đến thế hệ con, không biết các con làm sao mà sống được?

Nhưng nếu ba lựa chọn lên tiếng, lựa chọn đấu tranh cho những quyền và nhu cầu căn bản của con người, thì ba lại là người vô trách nhiệm với hai mẹ con. Nếu ba vì lên tiếng mà bị bắt, bị những kẻ xấu bỏ tù thì hai mẹ con con sẽ sống ra sao?

Đó là một sự lựa chọn rất khó khăn cho ba con gái ơi! Sau khi bàn bạc với mẹ con, ba mẹ đã quyết định: Bình thản đón nhận những gì sẽ đến…

Quyết định “bình thản” của ông Bùi Văn Thuận khiến tôi nhớ đến thái độ và sự lựa chọn của một tù nhân lương tâm khác, Lê Anh Hùng – theo tường thuật của một nhà báo nước ngoài:

Every time Le Anh Hung starts to write he thinks of his three young children. The 38-year-old has already been imprisoned twice for blogging about human rights and corruption from his home in Hanoi and lives half-expecting another fateful knock at the door. And yet “I’m not scared,” he says, “I know what I choose to do is risky but I accept the fight. Cứ mỗi lần cầm bút là Lê Anh Hùng nghĩ đến ba đứa con thơ. Người đàn ông 38 tuổi này đã hai lần vào tù, vì viết blog về nhân quyền và nạn hối lộ, hiện đang sống phấp phỏng trong căn nhà của ông ở Hà Nội. Tuy thế, ông nói, ‘Tôi biết điều mình lựa chọn là nguy hiểm nhưng tôi chấp nhận cuộc đấu tranh này.” (Charlie Campbell. “Internet Censorship Is Taking Root in Southeast Asia.” Time 18 Jul 2013).

Thái độ quyết liệt và sự lựa chọn can trường của Lê Anh Hùng, cũng như của những tù nhân lương tâm đồng hành, khiến cho vợ con cùng thân nhân của họ phải chịu rất nhiều thiệt thòi và phiền toái. Nhưng nếu không có sự hy sinh cao cả như thế thì dân Việt biết trông vào đâu để vẫn còn có thể giữ được chút niềm tin về tương lai của dân tộc, và đất nước này!

Tưởng Năng Tiến
7/2022

Việt Nam phát triển?

Việt Nam phát triển?

Lâm Bình Duy Nhiên

29-7-2022

Có lẽ đã từ lâu, từ cái ngày Việt Nam được hoàn toàn “thống nhất”, đã có nhận định mệt mỏi rằng ai tin cộng sản tự thay đổi thì cứ tin.

Hay ai muốn tin vào sự phồn hoa tráng lệ và giàu sang phát triển vượt bậc tại Việt Nam thì cũng cứ việc tin.

Nhưng những ai không dám hay không chịu nhìn vào sự thật rằng tất cả những thứ ấy chỉ là sự hào nhoáng bên ngoài và nó vẫn ẩn chứa trong lòng xã hội những bất công và cách biệt giàu nghèo một cách thảm khốc và tàn nhẫn thì đó là một sự bất lương đáng trách!

Cộng sản Việt Nam đã “giải phóng” miền Nam và “thống nhất” đất nước đã 47 năm thì hẳn nhiên cũng phải có những thay đổi tích cực dẫu chỉ tối thiểu sau gần nửa thế kỷ. Bằng không, có cái nhục nào hơn nữa nếu đời sống người dân vẫn còn như thời bao cấp, ăn bo bo và tem phiếu hợp tác xã?

Nếu sau chừng ấy thời gian mà vẫn không xây được nhà cửa, trường học, bệnh viện, đường xá,… cho ra hồn thì đó mới chính là trò cười cho thiên hạ!

Cho nên, tất cả những thay đổi mà có người cho là “vượt bậc” hay “tột đỉnh” nghĩ cho cùng cũng chỉ là bề ngoài, không có nền móng vững chắc. Phát triển vô tội vạ, giàu sang, diễm lệ, sang trọng cũng chỉ đến với một bộ phận nhỏ, rất nhỏ những người được ưu ái bởi chế độ và những chốn trung tâm đô thị. Nếu đi xa ra khỏi những nơi “văn minh không kém phương Tây” thì hẳn cái sự giàu sang, phát triển rực rỡ ấy không còn nữa. Thay vào đó là một sự thật đau lòng, đáng buồn hơn với những mảnh đời bươn chải vất vả mưu sinh với những đồng lương ít ỏi so với con số hàng chục triệu của giới “thành công” mà người ta đang miệt mài ca ngợi.

Có gì phải ngạc nhiên hay trầm trồ thán phục khi có xe hơi, thậm chí đắt tiền chạy trên đường phố các đô thị lớn? Cũng có không ít người Việt đi du lịch tứ xứ, tiêu xài tiền đô thoải mái, gởi con đi du học nước ngoài từ nhỏ, thậm chí mua nhà cửa ngay tại các quốc gia phương Tây,… Tất cả cũng chỉ là tương đối so với mặt bằng chung của toàn xã hội. Không thể lấy những hình ảnh ấy làm thước đo cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.

Gần nửa thế kỷ, cả nhân loại đều phát triển. Nhanh, chậm, vững chắc hay dễ vỡ, các yếu tố ấy tuỳ thuộc vào hệ thống chính trị của các quốc gia. Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất phát triển nên ca tụng hay tự hào cũng nên từ tốn. Câu hỏi quan trọng gắn liền với tương lai dân tộc là liệu những sự phát triển ấy có khoa học, có cân đối và có bền vững hay không? Và liệu mọi công dân Việt Nam có được thừa hưởng những thành quả của sự phát triển ấy không? Hay chỉ một bộ phận nhỏ, rất nhỏ mới có đặc quyền sống trong “cái thế giới tiến bộ ấy”?

Câu trả lời không khó để thấy rằng sự phát triển tại Việt Nam là không đồng bộ và chỉ có môt thiểu số mới có đặc ân hưởng thụ trong khi toàn xã hội vẫn còn sống trong nghèo khổ và khó khăn. Sự tồn tại về giai cấp xã hội là điều không thể chối bỏ khi giấc mơ của người cộng sản là đấu tranh và xoá bỏ giai cấp. Một sự mâu thuẫn cơ bản của nhà cầm quyền!

Gốc rễ của mọi vấn nạn trong xã hội chính là sự tồn tại của một thể chế chính trị độc tài toàn trị. Khi không có sự đa nguyên, đa đảng, sẽ không có sự đối lập, phản biện để ngăn chặn mọi chính sách độc đoán cho tiến trình xây dựng một xã hội dân chủ.

Không có một thể chế chính trị dân chủ, mọi sự phát triển chỉ mang tính tương đối, không bền vững và không có tính chiến lược, nếu không nói là phản khoa học.

Trung Quốc được cho là cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới nhưng chỉ có hơn 100 triệu dân được sống trong sự giàu có và phát triển. Gần 1,3 tỷ người Trung Quốc vẫn phải sống trong sự nghèo khổ. Đó có phải là mô hình kinh tế, chính trị để các quốc gia khác theo đuổi?

Khi đánh giá sự phát triển ”vượt bậc” của Việt Nam, chúng ta cần cẩn trọng, không nên để bị cảm tính chi phối. Không phủ nhận nhưng tất cả những sự phát triển ấy đã diễn ra sau gần nửa thế kỷ cầm quyền nên không có gì để phải ”tự sướng”, để tự tâng bốc lên tận mây xanh.

Ngược lại cần hiểu xã hội Việt Nam vẫn còn tồn đọng rất nhiều bất công và khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng một cách thảm khốc. Khái niệm “quốc gia phát triển” thậm chí “đang phát triển” đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện tại vẫn còn xa vời và còn lắm vấn nạn phải xoá bỏ.

Một xã hội phát triển là một xã hội luôn tự khắc khoải và trăn trở về những vấn đề cấp bách liên quan đến cuộc sống của người dân và của thời cuộc.

Chính vì thế, những tiếng nói của lương tâm trong nước vẫn không không ngừng lên tiếng để lên án những chính sách tàn bạo của chế độ và đấu tranh cho một xã hội dân chủ đa nguyên. Một xã hội tiến bộ cho toàn dân chứ không chỉ dành riêng cho một thiểu số hay nhóm lợi ích nào đó.

Đó mới chính là thái độ cần thiết và dứt khoát với một chính quyền độc tài, thay vì hùa nhau, vỗ tay tán thưởng những “thành tích” của nhà cầm quyền.

Để rồi tự rơi vào cái bẫy của sự hào nhoáng có chủ đích của người cộng sản…

Cựu viện trưởng SENA bị khởi tố vì ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ’ (VOA)

Cựu viện trưởng SENA bị khởi tố vì ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ’

29/07/2022

Đài truyền hình VTC loan tin việc Bộ Công an khởi tố ông Nguyễn Sơn Lộ. Photo chụp từ VTC.

Bộ Công an Việt Nam vừa ra quyết định khởi tố ông Nguyễn Sơn Lộ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghệ và Phát triển SENA, về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”.

Ông Nguyễn Sơn Lộ, 74 tuổi, bị khởi tố, khám xét chỗ ở và nơi làm việc, cấm đi khỏi nơi cư trú, và tạm hoãn xuất cảnh, theo thông cáo trên trang web chính thức của Bộ Công an hôm 27/7.

Bộ Công an không nói rõ lý do khởi tố này, nhưng cho biết thêm rằng “đang tập trung điều tra, thu thập tài liệu, củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của bị can và các cá nhân có liên quan để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật”.

Với tội danh “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự, ông Lộ sẽ phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất là 7 năm tù.

Viện SENA do ông Nguyễn Sơn Lộ thành lập từ năm 1992, là đơn vị có tư cách pháp nhân độc lập, hạch toán độc lập, trực thuộc Liên hiệp Các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp các Hội KHKT).

Hồi đầu tháng 7, Liên hiệp các Hội KHKT có quyết định đình chỉ hoạt động của Viện SENA. “Việc đình chỉ nhằm thực hiện thủ tục giải thể Viện SENA do vi phạm quy định về thành lập, đăng ký hoạt động và giải thể tổ chức khoa học và công nghệ”, theo trang Pháp Luật Tp. Hồ Chí Minh Online (PLO).

Trang này cho biết rằng chính quyền thành phố Hà Nội từng có quyết định thu hồi căn nhà nơi đặt văn phòng của Viện SENA để mở rộng trụ sở làm việc cho Công an quận Ba Đình, nhưng ông Lộ đã phản đối quyết định này và gửi thư khiếu nại đến nhiều nơi.

Cuộc tọa đàm về Ukraine được tổ chức ở trụ sở của viện SENA, Hà Nội, ngày 16/7/2022. Photo Facebook Dang Bich Phuong via Asia News.

Hơn một tuần trước khi ông Lộ bị khởi tố, văn phòng của ông được một số văn sĩ trí thức dùng làm nơi tổ chức hội đàm về văn hoá Ukraine và bày tỏ tình cảm với nhân dân và đất nước Ukraine, với sự hiện diện của tham tán chính trị sứ quán và phu nhân đại sứ nước này. Sự kiện này đang diễn ra thì bị công an cắt điện, trang AsiaNews dẫn lời những người tham dự sự kiện này cho biết. Đồng thời trang này cho biết thêm rằng một số người tham dự buổi tọa đàm bị ngăn chặn trước khi đến đó.

“Việc cắt điện này là hành động bẩn thỉu”, ông Nghĩa Vi Toàn, một công dân ở Hà Nội, nói với VOA.

VOA đã liên lạc Công an quận Ba Đình để tìm hiểu về việc cho là sách nhiễu này, nhưng chưa được phản hồi.

Theo nhận định của cựu tù nhân chính trị Lê Thăng Long viết trang Facebook cá nhân, nhiều thành viên thuộc nhóm SENA “có nhiều tinh thần cấp tiến, dân chủ, tiến bộ”.

“Những điều dân chủ, cấp tiến, tiến bộ ấy nếu đem lan tỏa ra cộng đồng thì là sự cống hiến rất tốt cho xã hội”, ông Long viết. “Trong nhiều năm qua tới nay viện SENA có tầm ảnh hưởng không nhỏ tới chính trị Việt Nam”.

Ông Nguyễn Sơn Lộ, người còn có tên khác là Minh Đường, trước đây đã gửi nhiều văn bản và sách góp ý xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.

Truyền thông Việt Nam xác nhận việc ông Lộ ở viện SENA gửi thư ngỏ góp ý xây dựng văn kiện Đại hội 13 của Đảng, nhưng nói thêm rằng “thực chất là một hình thức thể hiện quan điểm sai trái, phụ họa cho những luận điệu xuyên tạc chống Đảng, Nhà nước”.

Một bài viết của một quan chức công an đăng trên trang web của chính quyền cho biết: “Những luận điệu sai trái đó có tác động tiêu cực, gây tâm lý nghi ngờ, mơ hồ, mất cảnh giác ‘a dua’ theo tư tưởng phản động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”.

YouTube player

Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy – NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Tưởng niệm một giáo sư đáng kính. “… Vì sanh trong một nước Việt Nam không độc lập, thiếu tự do và chìm đắm trong sự loạn lạc, nên tôi phải dấn thân vào cuộc tranh đấu chính trị, và do đó mà phải học về chính trị, dạy về chính trị, và đứng ra lãnh đạo một đoàn thể chính trị.

Dầu cho có được làm lại cuộc đời từ đầu mà hoàn cảnh Việt Nam không khác hoàn cảnh tôi đã trải qua, thì tôi cũng sẽ làm như tôi đã làm…” (Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy)

  • Tháng 7 tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy-

NGƯỜI ĐI, NON NƯỚC Ở LẠI

Chu Lynh

Nén hương lòng của kẻ hậu sinh

Kính dâng anh linh nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy (1926-1990)

“Những dữ kiện trong bài này được thu thập từ những tài liệu, bài viết, tiếp xúc, phỏng vấn các nhân chứng đã từng kề cận nhà ái quốc Nguyễn Ngọc Huy: ông Nguyễn Ngọc Diệp, nhà văn Đỗ Tiến Đức, ông Trần Sĩ Hải, ông Vương Từ Mỹ, ông Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa, Giáo sư Tạ Văn Tài, cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, Giáo sư Nguyễn Toản, ông Nguyễn Phước Trang, ông Trần Cẩn Trọng, và ông Nguyễn Cao Tuấn”.

Chuyến bay định mệnh

Phi trường Zaventem, Brussels,Vương Quốc Bỉ

Khởi hành từ New York, chiếc Boeing đáp xuống phi trường Zaventem trễ ba mươi phút. Trong lúc chuẩn bị rời máy bay, hành khách bỗng phát giác một người bất tỉnh trên ghế ngồi. Người đàn ông lớn tuổi, ốm yếu, da mặt xanh xao. Một lát sau, ông tỉnh lại. Một tiếp viên thấy ông không thể di chuyển được, liền gọi xe cấp cứu.

Hôm ấy là ngày 20 tháng 7 năm 1990. Người hành khách bất tỉnh đi trên chuyến bay mang số 34 của hãng hàng không Pan Am mang tên: Nguyễn Ngọc Huy. Người Việt hải ngoại thường gọi ông là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, người ngoại quốc thích gọi ông là Tiến sĩ Nguyễn. Ông ghé Brussels theo lộ trình tham dự Đại Hội Thế Giới tại Hòa Lan của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, một tổ chức chính trị do ông thành lập từ mười năm qua.

Khi nhân viên xe cứu thương hỏi ông cần đi bệnh viện không, ông từ chối và yêu cầu chở vào phòng đợi, viện lẽ đã hẹn người nhà ra đón.

Ba người đến đón ông: Nguyễn Kim Luân, Trần Qúy Phong, Nguyễn Ngọc Vinh. Họ đã không tìm ra ông trong đám hành khách đang đứng quanh quẩn bên thang máy bay chờ nhận hành lý. Họ chia nhau tìm kiếm.

Khi được nhân viên phi trường cho hay tin, họ trở lại phòng đợi, thấy ông Nguyễn Ngọc Huy đang đứng với một người Việt Nam. Nhưng xem ra ông quá mệt mỏi chẳng nghe người bên cạnh nói gì.

Trên đường về nhà ông Nguyễn Ngọc Diệp, một đoàn viên Liên Minh Dân Chủ, với giọng rất yếu, ông hỏi có ai biết cạo gió không. Một người lễ phép thưa sẽ cạo gió cho ông khi về đến nhà.

Khoảng 12 giờ 30, chiếc xe về đến nhà. Ông Diệp thực sự xúc động khi nhìn thấy cơ thể của ông quá tiều tụy. Ông bắt đầu cạo gió. Không có gió ở phía sóng lưng bên trái, nhưng bên phải và cổ, da thịt đỏ ửng lên. Nhờ xoa bóp toàn thân, người ông ấm lên, ông cho biết đã đỡ hơn.

Giọng nói của ông thều thào, phát âm không rõ, hậu quả của chứng ung thư lưỡi từ tám năm nay. Ông cho hay: “Trước khi đi bị cảm lạnh, rồi mất ngủ suốt đêm, trên phi cơ cũng không ngủ được. Qua đây lại bị trúng gió …”

Trong căn phòng gia đình đã chuẩn bị cho ông, để sẵn hai tờ báo Le Monde và Le Soir, có lẽ chủ nhà biết thói quen của ông. Qua cửa kính mờ, hình ảnh một ông già ốm yếu lom khom đọc báo, tay phải cầm cây viết ghi chép, khiến mọi người muốn rơi lệ. Bên ngoài phòng, các đoàn viên của ông đã hội ý nhau và quyết định mời bác sĩ Hoàng Thị Ngọc Quỳnh đến chăm sóc cho vị lãnh đạo của mình.

Tuy mệt, ông vẫn ra phòng khách nói chuyện, vẫn trả lời thông suốt các câu hỏi, nhưng luôn luôn hỏi lại “Tôi nói các anh nghe có rõ không?”

Bác sĩ Ngọc Quỳnh khám rất kỹ. Bà cho biết, áp huyết bệnh nhân rất thấp, mạch tim đập yếu, các bộ phận khác cũng yếu. Muốn hồi sức, phải tiếp nước biển. Nhưng nếu tiếp nước biển ở nhà, luật lệ y tế ở Bỉ đòi hỏi phải thử nghiệm máu, và một số thủ tục khắt khe khác, nên cấp thời chỉ còn cách chích thuốc khoẻ. Bà cũng không có sẵn loại thuốc này.

Cuối tuần, chỉ có nhà thuốc trực, nên nửa giờ sau, mới tìm mua được thuốc. Việc chích thuốc cho ông cũng không mấy dễ dàng. Mười phút sau, bác sĩ khám lại. Bệnh nhân có phần tươi tỉnh.

Gia đình bưng đến một chén súp. Mỗi lần đưa được một muỗng súp vào miệng là ông ho sặc sụa, phải uống thêm nước cho thông cổ.

Trước đây, ông xin mọi người đừng hỏi khi ông đang ăn. Lần này, không ai lên tiếng, nhưng ông vẫn cứ ho liên tiếp, có khi không nuốt được phải nhả ra. Mồ hôi từng giọt hai bên cổ. Ông cúi đầu xuống, nhắm mắt lại chịu đựng cơn đau. Mọi người nhìn ông ứa nước mắt. Khoảng nửa giờ sau, ông đưa vào miệng được gần một chén súp nhỏ. Sau đó, ông dùng một ly crème flanc, nuốt vào ít khó khăn hơn.

Ăn xong, ông tiếp tục hỏi thăm mọi người, kể cả những người vắng mặt. Ông Diệp còn nhớ, những lần đến Brussels, ông Nguyễn Tấn Liêm thường tiếp ông Nguyễn Ngọc Huy tại nhà, tâm đắc nhắc những kỷ niệm xa xưa, vì hai người cùng tuổi, cùng học trường Petrus Ký Sài Gòn. Có lần ông Nguyễn Tấn Liêm tâm sự:

“Bây giờ chỉ còn có anh là thỉnh thoảng tôi gặp, còn mấy người khác chẳng bao giờ tôi thấy..” Ông chậm rãi đáp lại: “Còn chút sức khỏe, tôi còn cố gắng đi. Vài ba năm nữa thôi, cũng sẽ hết đi nổi. Mỗi năm tôi ở nhà bốn tháng, còn tám tháng ở nhà anh em..”

Đêm hôm đó, dù đã khuyên thầy mình đi ngủ sớm, ông Diệp vẫn thấy bóng ông lờ mờ sau cửa kiếng. Ông đang viết, khom người trên nệm. Đồng hồ chỉ 1 giờ 30 sáng.

Mọi người sắp xếp đưa ông về Paris, vì điều kiện chăm sóc y tế ở đó khả quan hơn ở Bỉ. Hơn nữa, ngày Thứ Bảy 21-7-1990, ông có cuộc họp quan trọng ở Paris.

Khoảng 1 giờ trưa ngày 21-7, các ông Trần Cẩn Trọng, Thái Quan, và Lê Chí Thiện đến dùng cơm chung với ông và gia đình. Ông cũng chỉ nuốt được một muỗng cơm.

5 giờ 40, ông chuẩn bị rời Brussels. Hành trang của ông gồm mấy cái xách tay, cặp da đầy sách vở, áo quần, thuốc men, và một máy xay thức ăn nhỏ. Ông để lại một số vật dụng, dự tính sẽ trở lại Brussels để đi Hòa Lan sau đó.

Ông đưa tay chào gia đình. Không ngờ đó là lần cuối cùng gia đình ông Nguyễn Ngọc Diệp tiếp người thầy của mình.

Paris ngậm ngùi

Thứ Bảy 21-7-1990. Ông Trần Cẩn Trọng đưa ông về nhà mình, và gọi điện thoại ngay cho một bác sĩ quen đến vào nước biển cho bệnh nhân. Nhưng khi vào được khoảng 300cc thì bệnh nhân than mệt phải ngưng lại. Buổi chiều, ông ăn được cơm và cho biết đã khỏe lại một chút.

Thứ Ba 24-7-1990, ông họp toàn thể Liên Khu Bộ Âu Châu đến 11 giờ khuya.

Thứ Tư, ngày 25-7-1990. Thức dậy, ông cảm thấy bình thường. Nhưng đến trưa thì ông than mệt. Bác sĩ Nguyễn Minh Tân đến chích nước biển cho ông, nhưng chỉ được 250cc rồi ngưng lại.

Tối đó trưởng nam của ông, Nguyễn Ngọc Quốc Thụy đến thăm. Bác sĩ Tân đề nghị gia đình nên đưa bệnh nhân về Hoa Kỳ chữa trị. Cô Nguyễn Ngọc Thúy Tần, ái nữ của ông, từ New York gọi điện thoại qua, ông nói không ngủ được, vì thời tiết Paris quá nóng.

Thứ Năm, 26-7-1990. Ông cố gắng nuốt được hai muỗng súp, nhưng vẫn chưa mất hết vị giác, vẫn còn muốn dùng thức ăn như bí, cá mòi. Bác sĩ Tân chích một liều thuốc an thần.

Thứ Sáu, 27-7-1990. Ông có cảm giác buồn ngủ. Bác sĩ chích một mũi thuốc Kenacort. Ông ngủ được đêm hôm đó.

Thứ Bảy, 28-7-1990. Sáng thức dậy, ông nói với ông Trọng đã ngủ ngon đêm qua. Ông Trọng làm cho ông một ly sữa hột gà. Ông căn dặn ông Trọng xem lại bài thuyết trình ông đã soạn sẵn để tiến hành Đại Hội Hòa Lan.

Quốc Thụy đi mua vé máy bay cho ông trở về Hoa Kỳ. Chiều trở về dùng cơm với ông. Bác sĩ Tân chích thêm nước biển, nhưng ông từ chối vì mệt.

Đến chiều, bác sĩ tiếp tục chích nước biển. Nhưng khi chích vào gân nào, thì bể mạch máu đến đó, nơi chích bị sưng phù lên. Bác sĩ đành phải chích vào thịt loại Cortine Naturale.

Khoảng 8 giờ tối, ông ra phòng khách nói chuyện với bác sĩ Tân, ông Trọng và một số đoàn viên. Bác sĩ Tân hỏi ông cần dùng gì thêm không, ông nói muốn uống hết lọ Renutryle để thay cho thức ăn. Bác sĩ kiếu từ ra về.

Khi người nhà bưng ly trà sâm lên, ông không thể uống được vì còn quá nóng. Nghe xong, ông Trọng đi xuống bếp.

9 giờ 15, Quốc Thụy gọi ông Trọng cho hay ông mệt và hơi thở có dấu hiệu khác thường. Ông Trọng thấy ông hắt hơi, khó thở. Cả ba người, ông bà Trọng, và Quốc Thụy cùng đở ông lên giường. Ông Trọng gọi điện thoại cho bác sĩ Tân.

Bác sĩ Tân đến ngay. Người thầy thuốc tận tụy những ngày cuối cùng với bệnh nhân, cũng là nhân chứng cho giờ phút lâm chung của người bạn chí thiết Nguyễn Ngọc Huy. Ông thở hắt hơi ra vài lần. Rồi lịm dần, lịm dần…

Ông trút hơi thở cuối cùng trên tay người con trai, kết thúc một định mệnh sáu mươi sáu năm trên cõi nhân gian này, vĩnh biệt các môn sinh và bằng hữu, để bước qua một thế giới khác lúc 9 giờ 30 tối ngày 28-7-1990.

Trên bầu trời hải ngoại, ngọn hải đăng Nguyễn Ngọc Huy đã vụt tắt.

Nỗi đau sâu thẳm

Cuối thập niên 1970, và đầu thập niên 1980, trong lúc người Việt tỵ nạn cộng sản khắp nơi náo nức với phong trào trở về chiến đấu giải phóng quê hương, thì ông Nguyễn Ngọc Huy là người đi tiên phong mở mặt trận nhân quyền làm vũ khí đấu tranh, vì ông nhận thấy giải pháp quân sự rất khó thực hiện.

Ông thành lập Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, quy tụ nhiều thành phần trí thức và tâm huyết. Rồi ông vận động các chính khách ngoại quốc, tướng lãnh, dân biểu, nghị sĩ của nhiều quốc gia để thành lập Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do. Hai thành quả vượt bực của nhà vận động Nguyễn Ngọc Huy.

Có thể ví ông như “Thiên tài là cái đồng hồ đi trước” khi ông đi trước quần chúng một khoảng cách xa. Không phải dễ dàng hướng dẫn dư luận. Nhưng các thành viên của hai tổ chức này lạc quan về triển vọng cuộc tranh đấu sẽ thành công. Trong cuộc nói chuyện tại Calgary, Canada ngày 21-12-1986, ông tin rằng cộng sản sẽ sụp đổ, nếu người Việt biết vận dụng các yếu tố: tổ chức lực lượng trong nước, người Việt hải ngoại yểm trợ, và vận động quốc tế yểm trợ cuộc đấu tranh chính nghĩa của người Việt.

Nhưng mệnh trời đã không cho ông đi nốt cuộc đấu tranh mà ông đã khổ công đeo đuổi hơn bốn mươi năm qua. Căn bệnh ung thư lưỡi kéo dài nhiều năm, nay đã đến giai đoạn cuối. Bác sĩ kinh ngạc khi thấy ông đã coi thường căn bệnh hiễm nghèo, vẫn sống, vẫn bôn ba khắp nơi, vẫn lạc quan về tương lai Việt Nam.

Hình ảnh của ông những ngày cuối cùng trên giường bệnh, không phải trong bệnh viện đủ tiện nghi, mà tại nhà một người bạn, mới biết ông đã chiến đấu với tử thần, dũng cảm như một chiến sĩ ngoài trận địa. Vẫn đọc, vẫn viết, vẫn hội họp. Như thể ông có thể thắng trong cuộc chạy đua với thời gian. Nhưng hơn ai hết, ông linh cảm tử thần đã lảng vảng bên mình khi nhận ra cuộc chiến đấu với căn bệnh đã đến hồi kết thúc.

Đức độ và tài năng của ông Nguyễn Ngọc Huy đã khiến dân biểu Canada, ông David Kilgour đã ví ông như một Gandhi Việt Nam. Nhưng ông lại đảm trách quá nhiều vai trò, từ trên chính trường đến hậu trường. Là con người nhìn xa trông rộng, hẳn ông đoán được đoàn thể của ông sẽ đối diện với nhiều khó khăn nội bộ lẫn với bên ngoài khi ông nằm xuống.

Nhiều người hối thúc ông dự liệu một truyền nhân thay thế ông tiếp tục lèo lái hai tổ chức quan trọng này. Nhưng, theo nhà văn Đỗ Tiến Đức cho biết, nhiều lần được hỏi, ông Nguyễn Ngọc Huy vẫn chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là nỗi ưu tư lớn nhất những ngày cuối đời của ông.

Ngày 16-4-1974, bà Dương Thị Thu, người vợ của ông do bạn bè mai mối, đã chết trong một tai nạn tại bãi biển Vũng Tàu. Người đàn bà đảm đang, không bao giờ xen vào công việc của chồng, chăm sóc và dạy dỗ con cái để ông có thì giờ hoạt động. Trong mọi hoàn cảnh, bà đã chu toàn bổn phận người vợ trong âm thầm, như một anh hùng vô danh trong bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” của ông.

Ông mang nỗi đau khổ này trong lòng, suốt phần đời mười sáu năm còn lại. Nghĩ đến tình yêu, lòng chung thủy và hy sinh của bà đã dành cho ông trong nghĩa vợ chồng hai mươi hai năm, từ đó ông không còn tha thiết người đàn bà nào nữa.

Thật lạ lùng, cùng ngày tháng ấy, đúng tám năm sau, 1982, tai nạn thứ hai lại đến với ông. Đứa con út 17 tuổi, Nguyễn Ngọc Khánh Thụy, chết ngộp trong xe hơi trong nhà để xe của một người bạn Mỹ, ông William Littauer, tại Iang Larchmont, New York. Lúc đó, ông đang ở Cambridge, Massachusetts, và ái nữ Nguyễn Ngọc Thúy Tần đang học ở Albany, New York.

Đây là đứa con ông yêu thương nhất, vì cậu bé mồ côi mẹ từ nhỏ, thường xuyên vắng cha, và người chị lại đi học ở xa. Cậu đã tự vận bằng hơi thán khí xe tỏa ra. Nỗi đau của người cha biến thành nỗi ân hận suốt đời.

Trong một lần nói chuyện với ông Tạ Văn Tài, người cộng tác với ông những năm khảo cứu tại Đại Học Harvard, khi nói về cái chết của đứa con, ông đã tâm sự: “Tôi luôn luôn lo việc đoàn thể và đất nước, nhưng đời riêng của tôi gặp nhiều bất hạnh”

Phải chăng, những câu thơ của ông trong tập thơ nổi tiếng Hồn Việt ngầm báo trước một định mệnh khắc nghiệt:

Éo le thay muốn phụng sự quê hương

Phải dẫm nát bao lòng mình kính mến

Trong cuộc phỏng vấn tại California, ông Vương Từ Mỹ đã nói về một phiên họp đặc biệt của đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, được tổ chức tại đường Bà Triệu ở Chợ Lớn, vài ngày trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Lần đầu tiên, thủ lãnh Nguyễn Ngọc Huy đã khóc trước những người đã từng sát cánh hoạt động với ông trong một giai đoạn lịch sử đầy giông bảo. Ông cương quyết ở lại cùng sống chết với anh em. Ông nghĩ rằng thuyền trưởng phải chết theo con tàu. Nhưng tổ chức đã phân tích lợi hại, và quyết định vị thủ lãnh phải ra đi.

Nhìn bức hình của ông, được chụp lại từ một đoạn phim tài liệu. Đôi mắt nhân chứng, đôi mắt hồi tưởng về một quá khứ đầy những hoài bảo xây dựng đất nước.

Hồi tưởng những năm giảng dạy ở Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo các cán bộ cho nhu cầu hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa. Vào năm 1974, cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Ngôn, Bác sĩ Mã Xái, Tiến sĩ Phan Văn Song, Tiến sĩ Đỗ Thành Chi, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Trinh, và Giáo sư Trần Minh Xuân, ông đã thành lập Trường Cao Đẳng Thương Mại Minh Trí nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có kiến thức và chuyên môn để lãnh đạo đất nước trong giai đoạn hậu chiến tranh.

Đôi mắt ấy chắc cũng hồi tưởng về một quê hương thân yêu trên đường xây dựng tương lai, với một chính nghĩa sáng rực, bỗng chốc bị cướp sạch, bị đào xới tận gốc rễ bởi bàn tay người cộng sản. Làm sao thấu được nỗi đau đoạn trường bên trong con người ấy? Hẳn đây là nỗi đau lớn nhất của ông và cũng là nỗi đau của bao người Việt tỵ nạn cộng sản nơi xứ người.

Để lại cho đời

Ông Nguyễn Ngọc Huy ra đi, để lại cho đất nước và các thế hệ đi sau một tấm gương phục vụ đất nước, những công trình nghiên cứu về chính trị và văn hóa, chủ trương xây dựng tương lai Việt Nam, và các tổ chức chính trị do ông thành lập vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.

Nhưng có thể tóm gọn lại hai di sản quan trọng nhất ông để lại cho hậu thế: Sự hy sinh cho đất nước và nỗ lực quảng bá nền văn minh pháp trị các bậc tiền bối để lại.

Di sản thứ nhất rất cần cho những người lãnh đạo chính trị, những nhà tranh đấu cho tương lai Việt Nam. Ông đi xe buýt, ngủ nhà anh em. Nơi ông, không có chỗ cho danh vọng bạc tiền, chỉ có đất nước, chỉ có Quốc Dân. Ông là người “Làm việc nước chỉ thấy nước” như câu nói của ký giả Phạm Thái. Với ông, “Tổ Quốc Trên Hết”, không mơ hồ, mà thể hiện cụ thể bằng chính đời sống hiện tiền của ông.

Ông coi đảng phái chỉ là phương tiện. Ông chưa bao giờ xưng danh chức vụ lãnh đạo của mình khi đi diễn thuyết. Ông thuyết phục người khác không phải bằng tài năng hay kiến thức lỗi lạc của mình, mà bằng lý lẽ và tấm chân tình của ông.

Có những tài năng người ta chỉ đứng xa xa mà thán phục. Còn tài năng Nguyễn Ngọc Huy, người ta lại muốn gần gũi. Giáo sư Jerome Cohewn, Giám đốc đầu tiên của Chương Trình Luật Á Châu đã nói về ông:

“Ông là người uyên bác, phong nhã, và dí dỏm, ai gần gũi ông đều vui thích”

“He was a learned, gentle, humorous person who was always a joy to be near”

Đọc những tác phẩm ông để lại về khảo luận, nghiên cứu cả hai lãnh vực chính trị và văn hóa, mới thấy sự uyên bác của học giả Nguyễn Ngọc Huy. Không thể không nói đến thi ca của ông, với những vần thơ đầy ắp tình yêu nước, sáng tác để ca tụng các anh hùng lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Giữa những tác phẩm đa dạng ấy, chỉ cần dẫn chứng một bộ sách hiện trưng bày tại thư viện trường Luật Đại Học Harvard, thành phố Cambridge của Hoa Kỳ: The Le Code: Law in Traditional Vietnam. Đây là một công trình nghiên cứu rất công phu gồm 3 tập, trên 1000 trang, viết bằng Anh ngữ cùng với ông Tạ Văn Tài, vừa dịch thuật, vừa chú giải bằng các dữ kiện lịch sử và luật pháp đối chiếu.

The Le Code chính là di sản về nền pháp trị cổ truyền, là nền tảng của nhân quyền và dân chủ có giá trị trường cửu. Công trình của ông đã đóng góp vào việc vinh danh nền pháp trị cổ truyền của Việt Nam, không những là di sản cho các học giả người Việt, mà còn cho thế giới Tây phương. Giáo sư Alexander Barton Woodside, một học giả nổi danh tại Đại Học Harvard cho rằng bộ sách này là:

“Một trong vài cuốn sách rất hiếm về Việt Nam có giá trị hoàn hảo. Chắc chắn đó là thành tích học thuật quan trọng nhất xuất phát từ hàng ngũ trí thức Việt Nam lưu vong ở hải ngoại sau năm 1975. Đó cũng là tiêu mốc đánh dấu kỷ nguyên mới trong tương quan văn hóa Việt Nam và Tây Phương, “One of those very rare works about Vietnam that may claim to be definitive. This is undoubtedly the most important single achievement in scholarship to come thus far from the ranks of Vietnamese intellectuals exiled from Vietnam since 1975. It also represents a significant landmark in Vietnamese-Western Cultural relations”

Bổ túc cho giá trị của tác phẩm, Giáo sư Douglas Pike của Đại Học University of California-Berkeley đã phê bình:

“Đây là tác phẩm học thuật gây ấn tượng mạnh mẽ nhất trong thập niên vừa qua”

“The most impressive piece of Vietnamese scholarship in the past decade”

Trong một xã hội cộng sản đầy ảo tưởng muốn nhào nặn mọi lãnh vực theo quan điểm Mác Lê, hôm nay bộ sách The Le Code đang được trưng bày tại Viện Sử Học ở Hà Nội, đã nói lên vừa là giá trị bền vững về công trình nghiên cứu của học giả lỗi lạc Nguyễn Ngọc Huy, vừa là một nghịch lý cho người cộng sản hiểu rằng họ không thể nào tiêu diệt được văn hóa dân tộc. Chỉ có trở về nguồn dân tộc mới mong bảo vệ được non sông Việt Nam.

Nguyện vọng của ông Nguyễn Ngọc Huy là muốn được hỏa táng và đem tro cốt về quê nhà. Dù nguyện vọng chưa thực hiện được, nhưng sự hiện diện tác phẩm The Le Code đã nói lên sự kính trọng công trình trí tuệ của ông ngay tại trung tâm quyền lực của một nước cộng sản, đồng thời như một điềm báo trước, sớm muộn cộng sản Việt Nam sẽ cáo chung và dân tộc sẽ sinh tồn như đã sinh tồn mạnh mẽ bốn ngàn năm nay.

Non nước ở lại

Nhìn chiều dài cuộc tranh đấu, sự nghiệp của nhà lãnh đạo chính trị Nguyễn Ngọc Huy đã nửa đường đứt gánh. Nhưng nếu nhìn toàn phía cuộc đời ông, thì đây là một bức tranh hoàn hảo với một nội dung sống động, những đường nét và màu sắc ý nghĩa, làm nên một tác phẩm giá trị gần như khó tìm được tác phẩm thứ hai.

Nỗi đau về những mất mát trong gia đình, nỗi buồn về công lao bao nhiêu năm tranh đấu tan tành sau ngày cộng sản cướp đoạt miền Nam, nỗi đau thể xác ròng rã tám năm chiến đấu với trọng bệnh, và những chướng ngại trên đường hoạt động, ông đã vượt qua, đã chiến thắng nghịch cảnh.

Ông đã sống, đã tranh đấu, đã cống hiến cho đất nước Việt Nam trong mọi thời điểm của lịch sử, từ tham gia kháng chiến đến lãnh đạo các tổ chức chính trị, từ giảng huấn đến biên khảo, từ hợp tác bước qua vận động quốc tế. Ông đã làm nên tấm gương một nhà lãnh đạo đức độ và tài năng, đầy viễn kiến và thuyết phục, đem lại cho những người theo ông niềm tin về triển vọng thành công cuộc tranh đấu dân chủ hóa Việt Nam. Ông đã tạo được ảnh hưởng sâu rộng, không những trong cộng đồng người Việt, mà cả trên thế giới.

Hình ảnh một nhà lãnh đạo chính trị sức cùng lực kiệt, lại mang trọng bệnh ung thư, lầm lũi trên đường thiên lý bất kể nắng mưa sương tuyết, để tìm phương cứu vớt đồng bào khỏi xiềng xích cộng sản, là hình ảnh của tình nhân ái vô cùng lớn lao trong thời đại ngày nay.

Ông Trần Sĩ Hải cho rằng sự ra đi của ông là tổn thất lớn nhất của Cộng Đồng Người Việt hải ngoại, vì sự nghiệp chính trị của ông quá lớn lao, con người ông quá vĩ đại, con đường ông vạch ra quá rõ ràng.

Ông đã dành trọn cuộc đời phụng sự đất nước, từ tuổi thanh xuân đến hơi thở cuối cùng. Không có gì dang dở nơi ông. Những kẻ ở lại, những người từng theo ông, cần tiếp tục đi nốt phần còn lại của cuộc tranh đấu ông đã vạch ra. Như một lời tự vấn mà Giáo sư Nguyễn Toản muốn trong lòng mỗi người Việt: “Hãy làm gì để khỏi hổ thẹn với người quá cố”

Người đi, đã ra đi vĩnh viễn, để lại cho các thế hệ Việt Nam những thông điệp mạnh mẽ, tiềm tàng trong hai di sản vàng ròng: Sự hy sinh cho Đất Nước và nền Dân Chủ Pháp trị cho tương lai Việt Nam.

Chu Lynh