Định hướng “Xã hội chủ nghĩa” nào?

 Bởi   AdminTD

Huy Đức

3-11-2022

Tôi không hề định kiến với “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng tôi muốn biết, nhà nước ta đang định hướng “kinh tế thị trường” theo loại xã hội chủ nghĩa nào.

Nếu chúng ta để xăng (hàng hóa) vận hành theo đúng kinh tế thị trường, giá có thể tăng thêm một lít vài nghìn đồng (và có thể giảm hơn), nhưng chắc chắn xã hội, nền kinh tế, không phải chi phí rất lớn cho việc “xếp hàng cả ngày”; chưa kể những tổn thất khi những ngành kinh tế khác không thể vận hành vì xăng thiếu.

Vài tuần trước, khi đọc bài phát biểu của Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Kim Sơn, tôi cứ băn khoăn, sau 30 năm kể từ Hiến pháp 1992, bộ trưởng của ta vẫn muốn làm tư lệnh, làm CEO hay muốn làm chính khách. Bộ trưởng là người làm chính sách cho cả một ngành vận hành hay bộ trưởng muốn đứng ra điều hành từng công việc từ địa phương, cơ sở.

Ảnh chụp màn hình

Và, làm sao ông Bộ trưởng Bộ Công thương có thể đi tìm nguồn cung ứng hay ngồi tính giá xăng. Đừng làm thay công việc của các doanh nhân. Hãy để thị trường vận hành. Thay vì định mức “chiết khấu” cho các cây xăng, có thể kiểm soát giá bằng một mức thuế lũy tiến để cây xăng nào bán giá quá cao hơn “mặt bằng”, thì sau khi chịu thuế không còn lời lãi.

Đừng nhân danh định hướng xã hội chủ nghĩa mà trì hoãn việc “phát triển nền kinh tế thị trường”. Nếu muốn có thứ chủ nghĩa xã hội mà người nghèo không bị bỏ quên, ai cũng có thể tiếp cận với phúc lợi như nhau thì phải có một “nền kinh tế thị trường lấy hiệu quả làm chủ đạo”.

Thay vì dân túy bằng cách tiếp tục bao cấp giá xăng, giá điện, giá nước sạch… phải hình thành cho được thị trường ở ngay cả những hàng hóa thuộc nhóm dịch vụ công này thì mới có được sự tham gia của các nguồn lực trong xã hội; mới có đủ xăng, đủ điện và đủ nước sạch… cho người dân.

Định hướng xã hội chủ nghĩa mà bằng cách xây dựng kinh tế thật sự thị trường thì vừa có thị trường vừa có phúc lợi cho xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa mà bằng cách duy trì một nền kinh tế thị trường nửa vời thì sẽ thất bại cả thị trường và vừa không có tiền cho phúc lợi để thực hiện “công bằng xã hội”.

Van Hoang Dang

Nếu như không bám giữ danh nghĩa xã hội chủ nghĩa với luật định : đất đai , tài nguyên..của đất nước là thuộc sở hữu công cộng , của toàn dân ( thực chất là một nhóm người của Đảng Cộng Sản quản lý ) thì các băng nhóm lợi ích ( là sự cấu kết của bọn quan chức cao cấp là các đảng viên ĐCS Việt Nam và bọn gian thương) làm sao có thể cướp , trộm , bớt xén đất đai , tài nguyên , tiền bạc của công khố để chia chác ? Chúng lũng đoạn đất nước , gây nên nhiều bất công trong xã hội ( những kẻ nắm giữ quyền lực là những kẻ trộm cướp ngày càng giàu , người dân lao động ngày càng khó khăn ) chúng giẫm đạp lên pháp luật , làm cho đất nước không phát triển được , so với thế giới văn minh vẫn bị lạc hậu.

TBTNguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc phủ bóng lên Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt? – BBC News Tiếng Việt 

BBC News Tiếng Việt

GS Carl Thayer, Đại học New South Wales, Úc nói với BBC hôm 1/11 rằng nếu thông tin, hiện chưa được xác nhận, rằng Việt Nam đang vận động Hoa Kỳ cho chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Joe Biden vào tháng 11 là sự thật, thì Việt Nam có thể bất ngờ trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang.

Bình luận của GS Carl Thayer được đưa ra trước Đối thoại nhân quyền Hoa Kỳ-Việt Nam lần thứ 26 diễn ra tại Hà Nội vào 2/11, đúng một ngày sau khi Tổng bí thư ĐCS VN Nguyễn Phú Trọng trở về nước sau chuyến thăm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.

Trong khi Việt Nam nhấn mạnh ‘Trung Quốc là ưu tiên ngoại giao hàng đầu’, và ông Tập nhấn mạnh ‘không để ai can thiệp’ vào tiến trình phát triển của hai nước, có thể trông đợi gì ở Mỹ trong việc cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam?

Đọc toàn bài tại:

https://bbc.in/3TUkryd

BBC.COM

TBTNguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc phủ bóng lên Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt? – BBC News Tiếng Việt 

Đối thoại nhân quyền Mỹ-Việt lần thứ 26 tại Hà Nội, diễn ra ngay sau khi TBT Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc, liệu có mang lại điều gì tích cực cho nhân quyền Việt Nam?

Vì sao người Việt lại cứ bỏ ra đi?

Đài Á Châu Tự Do 

Bất chấp những chỉ số rực rỡ mà Hà Nội vẫn giới thiệu với thế giới, thực tế có khoảng trên 10% trong số 95 triệu người Việt Nam sống trong nghèo đói, đôi khi trong cảnh “nghèo cùng cực”, Chuyên gia kinh tế trưởng Rajiv Biswas của IHS Markit châu Á – Thái Bình Dương cho biết. Ông Biswas cũng bày tỏ sự bất lực khi nói đến sự nghèo khó của của các khu vực miền núi và xa đô thị, bởi căn bệnh tập trung phát triển đô thị theo cái nhìn thiếu chiến lược đã quá lớn.

Mức lương của một người công nhân Việt Nam hiện nay chỉ trên dưới 200 USD mỗi tháng, vì vậy, khi biết rõ, thật khó mà có thể cao giọng miệt thị những người Việt Nam khốn khổ đó là tại sao chọn cách bỏ ra đi, tìm một cơ hội “việc nhẹ- lương cao” ở xứ người. Không chỉ vậy, các đường dây đưa người Việt Nam đi lao động bên ngoài – bao gồm sự tham gia âm thầm của các quan chức Nhà nước – vẫn gọi mời các chỗ làm việc trong các nhà máy ở Nga, làm công việc xây dựng ở Libya và được thuê tại các trang trại của Anh.

Và với niềm hy vọng cho cuộc đời sau sáng sủa hơn, họ ra đi.

#RFAVietnamese #hanquoc #yangyang #gangwon

Vì sao người Việt lại cứ bỏ ra đi?
RFA.ORG
Những dòng tin miệt thị dòng người này trên báo chí Nhà nước thì cứ xoay quanh luận đề “những kẻ mê vật chất, ảo tưởng” cho đến “ham việc nhẹ, lương cao”…

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cụ Nguyễn  (1838 – 10/27/1868)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cụ Nguyễn (1838 – 10/27/1868)

Tôi chạy xe lôi ở Rạch Giá một thời gian (không ngắn) nên rất rành đường xá nơi cái thị xã nhỏ bé này. Con lộ chính của thành phố, Nguyễn Trung Trực, bắt đầu từ bến xe Lạc Hồng và chấm dứt bên này Cầu Đúc. Từ bên kia cầu là đường Phó Điều, tên gọi đầy đủ là Phó Cơ Điều, dẫn đến chợ Nhà Lồng.

Trên nóc chợ có dựng tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng. Pho tượng nhỏ, kích thước chỉ bằng một người thường, và không có đường nét nào đặc biệt, ngoại trừ đôi mắt. Ngó buồn thảm thiết!

Khi neo xe chờ khách trước chợ, đôi lúc, tôi vẫn trộm nhìn cụ Nguyễn mà không khỏi có thoáng chút ngại ngùng. Trăm người bán, vạn người mua. Thiên hạ chen lấn lúc nhúc mà sao tôi vẫn cứ “ngại” là ổng “buồn” mình, chớ không phải là ai khác.

Có giai thoại rằng trước khi bị giặc Pháp chém đầu, Nguyễn Trung Trực đã xuất khẩu mấy câu thơ đầy hào khí: Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên/ Yêu gian đàm khí hữu long tuyền/ Anh hùng nhược ngộ vô dung địa/ Bảo hận thâm cừu bất đái thiên. Theo việc binh nhung thuở trẻ trai/ Phong trần hăng hái tuốt gươm mài/Anh hùng gặp phải hồi không đất/ Thù hận chang chang chẳng đội trời. (Bản dịch của thi sĩ Đông Hồ).

Tôi thì e là những vần thơ khí khái trên là do hậu thế mang gán cho bậc hào kiệt vì ngưỡng mộ khí phách của đấng anh hùng, chớ Nguyễn Trung Trực (tên thật là Nguyễn Văn Lịch, thường được gọi là Hai Chơn) xuất thân là một dân chài không có học hành/học vị/học hàm chi (ráo trọi) nên đâu có lắm chữ hay nhiều lời đến thế.

Tuy thế, khi lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ông đã khẳng khái tham gia vào việc lớn và lập nên những chiến công hiển hách (“Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất/ Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”) làm nức lòng người.

Còn tôi thì đã từng theo học ở một trường đại học văn khoa (và tốt nghiệp từ một trường đại học võ bị) nhưng khi đất nước bị nội xâm thì cắm cúi chạy xe lôi, để kiếm sống qua ngày! Có cái thứ con dân nước Việt như thế mà cụ Nguyễn không buồn (thảm thiết) thì mới là chuyện lạ.

Nhưng buồn phiền hay vui vẻ đều là chuyện rất chủ quan, và là chuyện riêng của ổng thôi. Tôi có thân phải lo chớ. Và tôi vốn rất biết thân, biết phận nên thay vì đối mặt với cường quyền và bạo lực thì tôi … bỏ chạy – theo đúng như binh pháp: Tẩu vi thượng sách!

Tẩu đến một nơi rất an bình và phú túc nên tôi hăm hở hội nhập vào đời sống mới, và đã quên cụ Nguyễn (từ lâu) cho mãi đến hôm rồi. Hôm đó, tôi tình cờ nghe được đôi lời của một người bạn cũ (nhà văn Từ Khanh) nhắc đến ánh mắt “thao thiết” của tiền nhân:

Tôi đến vàm Nhựt Tảo thuộc tỉnh Long An vào một ngày tháng chạp… Chiều hôm sau, lúc đó đã gần 5 giờ, tôi hỏi đường lên vàm Nhựt Tảo và ‘cái tàu ông Nguyễn Trung Trực đốt của tụi Tây’…

– Chị ơi vàm Nhựt Tảo ở đâu vậy?

– Đây này! Cô gái chỉ ngay dòng sông trước mặt…

Vậy ra là tôi đang đứng ngay ngã ba sông, nơi Nguyễn Trung Trực đánh đắm chiến thuyền Espérance của Pháp năm 1861… Tôi băng qua sân rộng đến sát mép sông, thấy một cái miếu nhỏ bé, cửa miếu hướng ra bờ sông. Vòng ra mặt trước miếu nhìn vào mới biết đó là miếu ngũ hành, cả gian miếu âm u chập chờn.

Tôi bước vào miếu, tự dưng xương sống lạnh buốt như đang bước vào một nơi nhiều âm khí dù trời chưa tối hẳn. Không gian trong ngôi miếu nhỏ tịch mịch quá, tưởng như nghe được tiếng sông chảy bên ngoài. Bên góc phải bàn thờ ngũ hành có một hộc bàn thấp lè tè, trên để tấm hình Nguyễn Trung Trực chít khăn đen, bên dưới ghi: ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC (1838-1868).

Nguyễn Đình Chiểu viết “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo.” Thật là nao lòng quá. Một dũng tướng ngang dọc từ Tân An đến Rạch Giá, lập những chiến công ‘oanh thiên địa’ và ‘khấp quỷ thần’ trong lứa tuổi 20, ngay nơi chiến tích của ông cách đây 146 năm, nay chỉ có một ngôi đền xây dang dở, và một bức hình nhỏ trên một bệ thờ thấp, nằm ké trong cái miếu ngũ hành tàn tạ âm u vôi lở sơn tróc hương tàn bàn lạnh. Đôi mắt ông thao thiết nhìn ra sông, rất lặng lẽ…”

Ở quán nước sát mé sông, tôi hỏi bà chủ quán :

– Chị ạ, chắc tấm hình ông Nguyễn Trung Trực người ta thờ tạm hả chị, chờ khi cái đền lớn xây xong?

– Đâu có, cái miếu nhỏ đó hổng phải thờ ông Nguyễn Trung Trực. Mấy bữa trước có một bà dưới Rạch Giá đem hình ổng lên để thờ ké trong miếu đó!

Ủ̉a! Chuyện gì kỳ vậy cà? Sao lại phải “đem hình ổng lên để thờ ké” như vậy kìa!

Cứ theo báo chí (nhà nước) thì chính quyền địa phương cũng lo hương khói cho cụ Nguyễn chu đáo lắm mà:

Tìm hiểu thêm mới biết là tưởng vậy thôi, chớ không phải vậy đâu! Không phải vô cớ mà lòng người bất an đến độ có kẻ phải mang hình cụ Nguyễn đi tị nạn trên tuốt Long An!

Hôm 1 tháng 10 vừa qua, từ Việt Nam, blogger Gió Bấc (RFA) cho biết như sau:

  • Chính quyền tổ chức lễ giỗ của anh hùng Nguyễn Trung Trực trước ngày ông hy sinh gần nửa tháng là trái với phong tục lễ giỗ của dân tộc.
  • Không chỉ dừng lại các lấp liếm sự thật ở việc làm lễ rình rang nhưng cúng giỗ sai ngày, họ còn dựng lên và duy trì một bộ hài cốt anh hùng Nguyễn Trung Trực bị tố cáo và có nhiều dấu hiệu cho thấy là giả, họ dựng lên ngôi mộ giả thậm chí còn sáng tạo ra một chi tộc hậu duệ Nguyễn Trung Trực mà không có cơ sở thực tế, lịch sử nào.
  • Việc đưa bộ hài cốt lạ, có khả năng của một người thực dân vào mộ vị anh hùng cứu nước Nguyễn Trung Trực để cả dân tộc thờ phụng kính ngưỡng là tội ác không thể tưởng tượng được!

Rồi Gió Bấc buồn rầu kết luận: “Với nhà sản, không có lịch sử, không có tiền nhân, không có tôn vinh, tất cả đều là quân bài vụ lợi, là canh bạc bán mua.”

Ôi! Tưởng chuyện chi? Chớ đất nước, biển đảo mà chúng còn có thể mang bán được thì xá chi đến di hài hay di thể của người xưa. Đụng chuyện với cái đám “đầu trâu mặt ngựa” này thì tôi đành phải bỏ chạy thôi, dù biết rằng mình đã khiến cho cụ Nguyễn buồn – và buồn thảm thiết!

STTD Tưởng Năng Tiến- Nguyễn Duy Kiên

Nguyễn Duy Kiên

Tưởng Năng Tiến

Vài hôm trước, trước khi “toàn dân nô nức” kỷ niệm Ngày Giải Phóng Thủ Đô  (lần thứ 68) nhà thơ Hoàng Hưng đã viết một câu ngăn ngắn (và hơi khó hiểu) trên trang FB của ông: “Sắp đến ngày 10/10 ! Biết bao người con tinh hoa của Hà Nội vui mừng đón ngày ấy rồi tan nát cả đời sau ngày ấy huhu…”

Mà chả riêng gì ông nhà thơ mà còn nhiều “nhà” khác (nhà báo, nhà văn, nhà bình luận thời sự… ) cũng đã từng trải qua cái tâm tư “huhu” tương tự :

  • Lê Phú Khải : “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc ‘đấu tranh giai cấp’, của cải cách ruộng đất, dư cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.”
  • Nguyễn Văn Luận: “ Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hà Nội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.”
  • Nguyễn Khải: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.
  • Trần Đĩnh: “Chú họ tôi ở ngã năm Nguyễn Du – Bà Triệu, một công chức lưu dụng… Tin yêu Cụ Hồ, chú ở lại cùng công nhân viên bảo vệ Sở điện nên được lưu dụng… Thình lình cắt tiêu chuẩn lưu dụng, lương tụt một nhát ngỡ như chính bản thân chú bị sập hầm.”

Riêng với “nhà nhiếp ảnh” thì còn bị nhà nước cách mạng đối xử cách riêng (khắt khe và tàn tệ  hơn nhiều) theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Quỳnh Hương :

Chủ nhân của những bức hình tuyệt đẹp về Hà Nội lại có một số phận nhiều buồn thương… Đam mê nhiếp ảnh từ thời trai trẻ, Nguyễn Duy Kiên là bạn ảnh cùng thời với Lê Đình Chữ, Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Đỗ Huân… Ông chơi ảnh rất công phu: sắm buồng tối tại nhà, tự tay in phóng ảnh, mày mò tìm ra các kỹ xảo.

Rời hiệu thuốc là ông lại lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội để ghi lại từng vẻ đẹp phong cảnh và con người, những biến chuyển thời cuộc in dấu lên từng con phố mà ông thân quen từ thơ bé.

Nguyễn Duy Kiên chụp ảnh cho Hà Nội của chính ông. Những khuôn hình nghiêm cẩn, kỹ càng  và chan chứa tình. Sau này, khi di sản tinh thần của ông đến tay những nhà chuyên môn, họ đã choáng váng vì những bức ảnh quá đẹp. Quan trọng hơn – di sản ấy còn là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960.

Với 5 đứa con, người vợ đảm đang hết mực tin yêu chồng, Nguyễn Duy Kiên yên ổn với cuộc sống của mình – chỉ cần ông còn được chụp ảnh. Nhưng tai nạn đã ập đến với họ bất ngờ, để rồi tổ ấm của họ phải sẻ đàn tan nghé.

 Đó là một ngày của năm 1967, Nguyễn Duy Kiên có lệnh khám nhà. Người ta tìm thấy trong kho ảnh của ông có 1 tấm hình khỏa thân. Sau này bạn bè ông nói đó là tấm ảnh một người đến phóng nhờ buồng tối rồi để quên lại, cũng có người nói ông chụp để gửi dự thi quốc tế, vì BTC yêu cầu hồ sơ bộ ảnh phải đủ tĩnh vật- phong cảnh- chân dung và ảnh khỏa thân. Không ai biết chính xác “lý lịch”  tấm ảnh định mệnh ấy, còn Nguyễn Duy Kiên thì chỉ im lặng.  Bị kết tội chụp ảnh suy đồi cái tội đủ để làm tan nát danh dự một gia tộc.

Quá khứ đã qua, nhưng ám ảnh kinh hoàng vẫn đọng trong lời kể của bà Kiên: “Chồng tôi đau đớn lắm, nhưng ông biết thời thế, biết phận mình phải như thế. Oan khuất biết kêu ai? Nên bố cháu chỉ im lặng.

Ông bị xử điển hình, kết án 11 năm tù. Chồng tôi cải tạo tận Lào Cai- xứ rừng thiêng nước độc. Cứ nửa năm tôi và cháu lớn lại được lên thăm bố cháu một lần, đường rừng toàn đá tai mèo nhọn sắc, hai mẹ con đi bộ hàng chục cây số máu rỏ dọc đường. Mỗi lần thăm  bố cháu lại tiều tụy hơn”.

Ông bị bệnh thận, bà Miễn viết đơn xin giảm án cho chồng, Nguyễn Duy Kiên đựơc trở về với gia đình sau 8 năm thụ án. Ông về, nhớ nghề ảnh thì mang máy ra chụp loanh quanh trong nhà, ông không dám ra ngoài, bạn bè cũng e ngại không còn ai lui tới.

Đoàn tụ của họ lặng lẽ và ngậm ngùi, chẳng nỡ làm nhau đau hơn – ông không kể những ngày trên trại, bà không kể những năm tháng một mình tủi cực nuôi con. Năm 1979, ở với vợ con đựoc 4 năm thì ông mất vì sức khỏe suy kiệt. Bà Kiên vẫn rơm rớm nước mắt khi nhớ lại: “Khi bố cháu mất, danh dự vẫn chưa được rửa, ông ấy xuôi tay mà không nhắm được mắt…”

Gần nửa thế kỷ đã qua (kể từ khi Nguyễn Duy Kiên nhắm mắt xuôi tay) nhưng nỗi oan khuất của ông và tâm cảm u uẩn của bà chưa bao giờ thực sự được quan tâm hay chia sẻ bởi bất cứ ai, ngoài những lời lẽ đãi bôi của giới truyền thông nhà nước :

Báo Tiền Phong: “Trải qua bao nỗi gian truân, may mắn thay, ngần ấy năm trời, bà quả phụ Nguyễn Duy Kiên vẫn lưu giữ lành lặn được hơn 200 tác phẩm của chồng. Ấy cũng là nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa”.

Báo Vnexpress: “Nguyễn Duy Kiên từng là nghệ sĩ nổi tiếng trong giới nhiếp ảnh Hà Nội, cùng thời với Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Nguyễn Cao Đàm… nhưng hầu như đã bị hậu thế lãng quên.”

Báo Nhịp Sống Hà Nội: Số phận đã không cho Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản nhiều nhưng di sản mà ông để lại là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960. Đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.

Báo Nông Nghiệp: “Tiếp lửa tình yêu nghệ thuật, lưu giữ những khoảnh khắc lịch sử vô giá cho những người đang sống hôm nay, nhưng NSNA Nguyễn Duy Kiên dường như bị quên lãng. Hà Nội đã tôn vinh nhiều cá nhân, vậy mà cái tên Nguyễn Duy Kiên đến nay vẫn chưa được trân trọng đánh giá đúng với những gì ông xứng đáng được vinh danh.”

Vấn đề e không giản dị thế đâu!

Hà Nội không thể ngang nhiên mang một nghệ sỹ đi chôn sống, rồi lại thản nhiên “vinh danh” nạn nhân bằng cách in lại tác phẩm của đương sự (bằng tiền tài trợ của một công ty nước ngoài) và coi “đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.”

Hà Nội không thể chà đạp lên cuộc đời của một người dân cho đến mức bầm dập te tua rồi đổ thừa (“số phận đã không cho tác phẩm Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản”) tỉnh rụi như vậy được.

Hà Nội cũng không ai có thể giày xéo lên số phận của cả một gia đình, buộc một người phụ nữ đơn chiếc phải tần tảo nuôi mấy đứa con thơ, rồi xưng tụng đó là nhờ vào “nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa.”

Tội ác đâu có dễ lấp liếm hay che dấu như thế!

Tưởng Năng Tiến
10/2022

Vụ Vạn Thịnh Phát: Tin của công an là tin thật hay tin giả?

Vụ Vạn Thịnh Phát: Tin của công an là tin thật hay tin giả?

Blog VOA

Trân Văn

27-10-2022

Đến giờ, có thể thấy rất rõ, chính các “biện pháp nghiệp vụ” chỉ làm khủng hoảng trên thị trường tài chính, tín dụng thêm trầm trọng.

Ông Tô Ân Xô – Trung tướng, Chánh văn phòng kiêm Phát ngôn viên của Bộ Công an – lại vừa hăm dọa công chúng: Bộ Công an sẽ tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi đưa tin thất thiệt, không chính xác. Đồng thời đề nghị người dân không tin, không lan truyền những thông tin thất thiệt, sai sự thật (1)Thông tin bị xác định “thất thiệt, sai sự thật” là chuyện… “sẽ có thêm nhiều tập đoàn lớn bị xử lý”.

Đây là lần thứ hai trong vòng nửa tháng Bộ Công an hăm dọa về việc “xác minh, điều tra, xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi đưa tin thất thiệt, không chính xác. Lần trước – hôm 9/10/2022 – Bộ Công an tuyên bố “sẽ xử lý tất cả tổ chức, cá nhân nếu đăng tải, chia sẻ, phát tán hoặc bình luận đồng thuận với tin giả, tin sai sự thật, tin gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh trật tự” (2).

Trên thực tế, Bộ Công an đã bắt vài người vì… “bình luận thất thiệt về hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) gây hoang mang dư luận”. Tuy nhiên chỉ một tuần sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẳng định “hoạt động của SCB vẫn bình thường và ổn định” (3), Bộ Công an hăm dọa và thực hiện vài lệnh bắt giữ giống như răn đe, NHNN đột nhiên đưa SCB vào diện… “kiểm soát đặc biệt” (4).

Điều đó có khác gì thừa nhận, chỉ các tin bị cho là… “không chính xác, thất thiệt, sai sự thật” mới… “đúng sự thật”. Điều đó cũng có khác gì chứng minh, NHNN đã tung… tin giả.

Chẳng phải chỉ có NHNN tung tin giả, Bộ Công an cũng vậy. Khi công bố quyết định khởi tố vụ án “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra tại An Dong Group và các tổ chức, đơn vị có liên quan”, Bộ Công an xác định có bốn bị can, một trong bốn bị can – bà Nguyễn Phương Hồng được Bộ Công an xác định là “Trợ lý Công ty cổ phần Vạn Thịnh Phát” (5). Tuy nhiên khi tố cáo SCB đục bỏ danh sách thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) của ngân hàng này và tiểu sử của từng người, một số cơ quan truyền thông chính thức như Infonet (6), Vietnam Finance (7),… vô tình tố cáo Bộ Công an tung… tin giả. Bà Hồng là người đã làm việc cho SCB suốt 11 năm, trong 11 năm đó từng đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau của SCB (Trưởng phòng Tín dụng, Trưởng phòng Kinh doanh, Trưởng phòng Hỗ trợ kinh doanh, Phó Giám đốc chi nhánh, Giám đốc chi nhánh, Phó Tổng Giám đốc phụ trách khối Tái thẩm định kiêm Giám đốc chi nhánh) và lúc bị bắt đang là “Ủy viên HĐQT kiêm Phó Tổng Giám đốc phụ trách khối Tái thẩm định của SCB”.

Dẫu Infonet, Vietnam Finance,… đã đục bỏ các tố cáo hai chiều (tố cáo SCB và vô tình tố cáo các cơ quan hữu trách) song tin đã đưa vẫn còn có thể tìm thấy ở một số nơi trên Internet (8). Có thể NHNN và Bộ Công an vẫn đinh ninh chính quyền có quyền làm ra và phát tán tin giả cũng như tin giả có thể giữ cho thị trường tài chính, tín dụng nói riêng, kinh tế – xã hội nói chung… “hoạt động bình thường, ổn định” nhưng công chúng đủ khôn ngoan để không bị gạt. Các… “biện pháp nghiệp vụ” như… chế tạo, khoác cho bị can lai lịch giả, buộc hệ thống truyền thông chính thức đục bỏ những thông tin cho thấy chính quyền tung… tin giả, che đậy việc bà Hồng đột tử khi vừa bị tạm giam, lờ đi một số trường hợp “bất đắc kỳ tử”, chẳng khác gì định hướng cho công chúng nên tin vào loại “tin” nào – “tin” do chính quyền công bố hay “tin” bị chính quyền xếp vào loại “tin giả, tin sai sự thật”.

Cứ nhìn vào sự hỗn loạn của thị trường tài chính, tín dụng, ví dụ VN-Index liên tục xuyên thủng hết đáy này tới đáy khác, chỉ trong vòng nửa năm, giá trị toàn bộ cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam giảm khoảng… 2,2 triệu tỉ đồng (9)… thì sẽ xác định được công chúng chọn tin lọai “tin” nào. Thiên hạ vẫn gọi những tình huống kiểu này là “gậy ông đập lưng ông”! “Ông” đã bị “đập” rất đích đáng!

***

Khi hăm dọa sẽ “xác minh, điều tra, xử lý nghiêm những đối tượng có hành vi đưa tin thất thiệt, không chính xác bởi các “tin” này “gây rối loạn, mất an ninh, an toàn thị trường”, Bộ Công an hoặc cố ý, hoặc vô tình không nhìn thấy hậu quả của các “biện pháp nghiệp vụ” mà chính quyền đã áp dụng. Chính những “biện pháp nghiệp vụ” ấy mới là nguyên nhân dẫn tới hậu quả như đang thấy.

Khi chính quyền bất chấp các qui định pháp luật làm ra và phát tán tin giả về lai lịch bị can, che đậy và cưỡng bức báo chí phải tham gia che đậy sự thật thì sẽ có bao nhiêu người tin những “biện pháp nghiệp vụ” đã thực thi thật sự vì… “lợi ích, hoạt động bình thường của người dân, nhà đầu tư, doanh nghiệp”. Chẳng lẽ thiếu trung thực, không minh bạch có thể “bảo vệ an ninh, an toàn thị trường” và ngược lại là sai?

Đến giờ, có thể thấy rất rõ, chính các “biện pháp nghiệp vụ” chỉ làm khủng hoảng trên thị trường tài chính, tín dụng thêm trầm trọng. Hăm dọa để tiếp tục áp đặt các “biện pháp nghiệp vụ” không chỉ khiến Bộ Công an trở thành cơ quan vừa táo bạo nhất trong việc tung tin giả, vừa tàn bạo nhất khi cố gắng chứng minh sẽ xử lý cả những người “đồng thuận” với những thông tin không phải là tin giả do Bộ Công an phát tán.

Cô giáo ôm cây vượt suối: Bớt đạo đức giả lại, hỡi các ngài!

Van Pham

Cô giáo ôm cây vượt suối: Bớt đạo đức giả lại, hỡi các ngài!

Trần Nguyên

HÌNH: – Cô giáo ôm cây vượt suối vùng cao Nam Trà My (Quảng Nam). Nguồn: Báo Thanh niên

Bức ảnh do một thầy giáo chụp cho nữ đồng nghiệp của mình khi cả hai cùng vượt qua con suối để đến trường dưới đây, khi báo chí đăng tải đã được nhiều người cảm thán “xứng đáng dựng tượng đài”.

Nhưng chắc cũng có nhiều người giống tôi, nhìn tấm ảnh và nghĩ, nếu thầy/cô trượt tay rơi xuống dòng lũ dữ, đứa con nhỏ của họ sẽ được ai nuôi nấng? Cháu sẽ lớn lên như thế nào? Chồng/vợ của họ, cha mẹ, anh chị em, người thân của họ sẽ đau đớn đến bao lâu? Mất mát của họ có tượng đài nào bù đắp nổi?

Cô giáo cắm bản nghèo Quảng Nam

Cắm bản là câu chuyện có từ hơn 50 năm nay của ngành giáo dục. Trước kia, giáo viên được bố trí nhiệm sở khi ra trường, không phải tự lo xin việc, tuy nhiên họ phải chấp hành chế độ nghĩa vụ. Thông thường giáo viên chỉ đi nghĩa vụ một nhiệm kỳ năm năm ở một điểm trường xa, sau đó sẽ được chuyển công tác về gần nhà. Tuy nhiên, ở những vùng sâu vùng xa, điểm xa nhiều hơn điểm gần thì đa số giáo viên phải đi hết nhiệm kỳ nghĩa vụ này đến nhiệm kỳ nghĩa vụ khác, khi nào lớn tuổi hoặc lên chức, hoặc được đỡ đầu thì mới được chuyển về gần nhà.

Ở miền xuôi, đi nghĩa vụ là đến các trường huyện, xã, nông thôn, vùng biển, đảo khó khăn xa trung tâm. Ở miền núi, đi nghĩa vụ là cắm bản. Khoảng cách từ nhà đến trường thường vài chục cây số. Từ điểm trường đến trung tâm cũng khoảng đó.

HÌNH: – Một giáo viên dạy tiếng Anh cho học sinh ở một trường nội trú tại Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, năm 2012. AFP

Những điểm trường nghĩa vụ hay cắm bản thiếu thốn cả về cơ sở vật chất lẫn tinh thần. Chúng được dựng lên sơ sài bằng gỗ, lợp tôn hoặc cũng có thể đã được xây xi măng, nhưng điện-đường-chợ-trạm là không có. Vì thế, trường sẽ dựng nhà tập thể để giáo viên ở lại trong tuần, cuối tuần họ về nhà. Có những dãy phòng tập thể, vài ba cô giáo ở chung, thầy giáo cũng thế. Có những nơi chia phòng học làm hai, thầy cô ở phần bên trong, cách một tấm phên tre là lớp học.

Tuy nói khoảng cách chỉ vài chục cây số, nhưng đường đến trường miền núi phía Bắc và miền Trung vô cùng gian truân và hiểm trở. Họ phải vượt những con dốc cao, một bên vách núi, bên kia là vực sâu. Mùa mưa bùn lầy trơn như đổ mỡ, đi bộ cũng ngã oành oạch. Họ phải quấn dây xích sắt vào bánh xe để tăng độ bám đường, cuốn theo vài bộ dây thừng thật chắc để cùng nhau kéo xe lên dốc, hoặc ghì xe lại khi xuống dốc. Qua suối, họ phải dùng cây rừng luồn vào xe, ba bốn người cùng khiêng xe lên lội qua.

Cắm bản là sống như người dân, ở giữa rừng. Các thầy cô dùng nước suối để đánh răng, tắm rửa, nấu ăn, rửa rau, giặt giũ. Cỏ mọc có khi vào đến tận chân lớp học, phải phát cỏ và dọn lùm bụi thường xuyên để xua đuổi rắn rết và côn trùng độc. Đốt lửa sưởi vào mùa đông. Đào măng, hái rau rừng, bắt cá suối… cải thiện bữa cơm hàng ngày.

Trà Dơn thuộc huyện Nam Trà My, huyện nghèo vùng núi sâu của tỉnh Quảng Nam. Tỉnh Quảng Nam là tỉnh nghèo của cả nước. Cả nước có 74 huyện nghèo thì Quảng Nam giành mất sáu huyện. Tất cả các huyện nghèo này đều có số hộ nghèo chiếm hơn 50%, tức thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 1.500.000 đồng trở xuống, đồng thời thiếu hụt ít nhất 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản (gồm việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin).

Thế nhưng cách chi tiền của lãnh đạo Quảng Nam có vẻ không nghèo

– Năm 2016, UBND tỉnh Quảng Nam đầu tư 63 tỷ đồng xây Trường THPT Võ Chí Công (xã A Xan, huyện Tây Giang) dành cho học sinh bốn xã vùng cao biên giới. Các kiến trúc sư và nhà địa chất ngay từ đầu đã cảnh báo khu vực này không phù hợp để xây trường học, nhưng dự án vẫn được duyệt. Ở giai đoạn 1, Sở Giáo dục và đào tạo Quảng Nam làm chủ đầu tư với mức phê duyệt hơn 33 tỷ đồng. Công trình xây dựng chậm mất một năm học, đến năm 2018 mới xong. Chỉ hai năm sau, giáo viên phải tổ chức sơ tán gần 300 học sinh ra khỏi ký túc xá ngay trong đêm, do một khối lượng lớn đất đá từ taluy dương của trường sạt lở xuống trường. Thế nhưng giai đoạn 2 vẫn tiếp tục được triển khai vào năm 2020 với tổng vốn gần 30 tỷ đồng do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh làm chủ đầu tư. Đến nay công trình này vẫn chưa biết đến bao giờ mới xây xong.

-Công trình nhà hỏa táng ở TP. Hội An được phê duyệt cuối năm 2004, tổng vốn đầu tư 12 tỷ đồng, bắt đầu xây vào năm 2005, dự kiến đến cuối 2006 đưa vào sử dụng. 13 năm sau (thời điểm 2018), công trình vẫn dang dở và cuối cùng thì bị bỏ hoang, chìm trong cây dại. Các tòa nhà đã xây bị bay mái, tường bong tróc loang lổ, đường ống dẫn nước bị đào lên lấy hết thiết bị.

-Bỏ hoang công trình nước sạch vốn đầu tư 5,6 tỉ đồng tại huyện Quế Sơn. Xây xong công trình này, chủ đầu tư không kiểm tra, đánh giá các thông số đạt được so với thiết kế; không có quy trình quản lý, vận hành; không có đội ngũ nhân lực vận hành, do vậy công trình không thể hoạt động.

-Bỏ hoang công trình nước sạch trị giá 3,1 tỷ đồng tại huyện Tiên Phước năm năm qua, lý do làm xong không vận hành được.

– Bệnh viện Nhi Quảng Nam được đầu tư hơn 150 tỷ đồng (tỉnh bỏ 65 tỷ, còn lại Trung ương rót) để trở thành Bệnh viện Sản – Nhi, quy mô 450 giường bệnh. Xây dựng mất ba năm. Năm 2019 khánh thành, một năm sau vẫn bị bỏ không vì thiếu đồng bộ, không có cầu thang bộ ngoài trời, hệ thống ôxy lỏng. Hệ thống phòng cháy chữa cháy không có ống dẫn nước.

-Đặc biệt, công trình 12 km đường liên xã Phước Mỹ – Phước Công ở huyện nghèo Phước Sơn xây dựng từ 2014, mức đầu tư trên 100 tỉ đồng từ ngân sách. Con đường này nhằm giúp người dân hai xã vùng cao tiện đi lại, nhưng sau khi hoàn thành không ai sử dụng, thậm chí nó bị bỏ hoang. Nguyên nhân do nó trái tuyến nên chỉ có rất ít người làm nương rẫy đi lại sử dụng. Độc đáo hơn cả là nó nằm trong khu vực lòng hồ thủy điện tương lai, sẽ bị chìm ngập khi hồ tích nước. Đáng lưu ý, quy hoạch đập thủy điện đã được phê duyệt trước đó nhiều năm, tức là tỉnh Quảng Nam đã bỏ trăm tỷ để làm một con đường không có ai đi và sẽ chìm trong lòng hồ.

Vậy nên quý vị xin đừng đặt câu hỏi vì sao tỉnh Quảng Nam vì sao có thể để tình trạng giáo viên ôm cây vượt suối như bức ảnh ở trên? Vì sao không bỏ tiền làm đường hay gom học sinh các điểm trường vùng sâu về một nơi thuận tiện và an toàn để học hành?

Câu trả lời quá rõ: tiền, anh không thiếu, nhưng tiền để làm những công trình sử dụng được thì… anh không có!

Quý vị cũng có thể đặt một câu hỏi nữa: các thầy cô giáo ở những vùng sâu vùng xa của Quảng Nam có biết tình trạng tham nhũng tiền dự án như chúng tôi vừa liệt kê sơ sơ không?

Thưa, chắc chắn họ có biết. Thời này tin tức gì cũng lên mạng cả. Vậy tại sao hai thầy cô giáo có thể liều tính mạng ôm cây vượt suối như trên?

HÌNH: – Giáo viên đang giải thích cho các em học sinh về bệnh tay chân miệng với tấm biển của Hội Chữ thập đỏ tại một trường nội trú ở Mù Cang Chải, Yên Bái, năm 2012. AFP

Là vì ở miền núi, làm giáo viên được gọi là thu nhập cao

Nhiều năm nay chế độ nghĩa vụ trong ngành giáo dục đã chấm dứt. Giáo viên ra trường không được phân công nhiệm sở nữa mà phải tự đi xin việc. Thế nhưng đào tạo giáo viên thì nhiều, mà các trường ở trung tâm hay vùng xuôi, điều kiện dễ dàng hơn thì đã đầy ắp người. Quý vị cũng biết để “chạy” một chân công chức ở miền Bắc thường phải mất vài trăm triệu đồng đút lót cho lãnh đạo trường. Rất nhiều giáo viên không thể có chừng ấy tiền.

Trong khi đó, chính sách Nhà nước có một chế độ gọi là phụ cấp thu hút, áp dụng cho người lao động (kể cả tập sự) đang công tác hoặc đến công tác ở Hoàng Sa, Trường Sa và vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn (có quy định). Các vùng này thường tập trung ở vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, xã biên giới, xã an toàn khu. Với giáo viên, phụ cấp này từ 50% đến 100% mức lương hiện hưởng, cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Ngoài ra, khi đến nhận việc tại vùng đặc biệt khó khăn, họ còn được hưởng khoản trợ cấp lần đầu bằng 10 tháng lương cơ sở.

Nếu đi cùng gia đình thì được trả tiền vé tàu xe và cước hành lý, đồng thời trợ cấp 12 tháng lương cơ sở. Cộng thêm trợ cấp tiền mua và vận chuyển nước ngọt và sạch, tiền tàu xe về thăm gia đình theo quy định. Khi chuyển công tác ra khỏi vùng đặc biệt khó khăn hoặc khi về hưu cũng được hưởng trợ cấp một lần, tính theo mỗi năm công tác được một nửa tháng lương hiện hưởng cộng với phụ cấp lãnh đạo + phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có)… Giáo viên chuyên trách xóa mù chữ, phổ cập giáo dục thường xuyên phải đi đến các thôn được hưởng thêm 20% mức lương cơ sở, gọi là phụ cấp lưu động. Giáo viên dạy tiếng dân tộc thiểu số được hưởng thêm 50% mức lương hiện hưởng, gọi là phụ cấp dạy tiếng dân tộc thiểu số.

Tính ra, các khoản phụ cấp này khiến giáo viên cắm bản có thu nhập rất cao so với đồng nghiệp không cắm bản, đặc biệt ở những vùng thiếu việc làm như miền núi phía Bắc và miền Trung. Ăn ở sinh hoạt tại địa phương gần như không tốn kém. Tốn nhất là tiền sửa xe, nỗi buồn xa gia đình, xa nơi đông người và cơ hội học tập, tiếp cận kiến thức.

Một số giáo viên cắm bản nhanh nhẹn còn biết tận dụng điều kiện để buôn bán thêm: buôn gia súc hoặc buôn gỗ. Đó là thực tế, dù không nhiều người nói ra.

Thưa các ngài bụng to

Do vậy, nhìn từ bên ngoài, chúng ta cám cảnh cho các giáo viên cắm bản, nhưng với không ít người, đó là công việc mơ ước. Chúng tôi còn nghe (không có điều kiện xác minh), muốn được nhận vào làm giáo viên đi cắm bản cũng phải đút lót cho người có quyền trong lĩnh vực này.

Xã Trà Dơn nơi cô giáo ôm cây vượt suối chủ yếu là người dân tộc Cà Dong (chiếm 91,56% dân số toàn xã). Nngười Kinh chiếm 6,61%, người Mơ Nông chiếm 1,67%, còn lại là các dân tộc khác. Họ sinh sống chủ yếu bằng cách trồng chuối, sắn, chăn nuôi gia súc gia cầm, nhưng do không có hệ thống giao thông để mang đi tiêu thụ nên hàng hóa rất ít. Thu nhập trung bình người dân theo lãnh đạo xã cho biết trên báo chí khoảng 2,4 triệu VND/lao động/năm, trong đó đến 70% dành cho lương thực. Một người dân được coi là khá giả trong thôn nếu họ có nhà, trâu, làm lâm nghiệp, xe máy, thu nhập trung bình khoảng 5 đên 6 triệu đồng và con cái họ được đi học. Số hộ nghèo chiếm trên 71,6%, và 15,8 % số hộ cận nghèo.

Người dân nơi đây có phong tục đâm trâu vào mùa tết, nhưng do quá nghèo, 10 năm trở lại đây người dân không tổ chức được lễ hội này!

Một chi tiết lột tả đến cùng cực sự bi đát của cái nghèo nơi đây.

Dễ thấy, các cô giáo, thầy giáo dám liều mình bò qua cây cầu khỉ trơn trượt trên dòng lũ dữ để đến trường như trong bức ảnh, còn có một động lực bền vững và mạnh mẽ hơn rất nhiều câu khẩu hiệu ca tụng họ về tình thương học trò, trách nhiệm với xã hội..v.v. Động lực đó chính là thu nhập hàng tháng, là nguồn sinh nhai cho cả gia đình.

Họ không cần ca tụng đâu, thưa các lãnh đạo bụng to vì tham ô, hối lộ ngập họng. Họ chỉ cần con đường đến trường được an toàn cho tính mạng, được dạy học trong những phòng học đủ ánh sáng và hơi ấm. Bớt đạo đức giả lại, hỡi các ngài!

NHỮNG DÒNG CHỮ CUỐI CHO “NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ”-Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng-

Nghệ Lâm Hồng

NHỮNG DÒNG CHỮ CUỐI CHO “NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ”

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng

October 22, 2021

Mùa Đông năm 1976, chúng tôi bay sang London, Anh, để thăm ông bà cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Trước khi đi, chúng tôi viết thư cho ông biết ngày giờ tới phi trường Heathrow và số chuyến bay. Ông trả lời là sẽ có người ra đón. Tới nơi thì vừa ra cửa đã thấy ông đứng ngay ở đó vẫy tay chào. Thật là cảm động gặp lại ông sau hơn một năm trời và sau bao nhiêu biến cố.

Sau khi bắt tay nhau thật chặt và trao đổi mấy lời thăm hỏi, ông tự lái xe đưa chúng tôi về nhà. Đây là một căn nhà nho nhỏ, xinh xinh nằm ở vùng Surrey, ngoại ô London. Một cái bảng treo trên cửa với mấy chữ khá lớn “The White House.” Chúng tôi hỏi ông là bảng này vẫn có từ trước hay ông treo vào? Ông nói villa bên này hay mang tên cho dễ nhận, và cái bảng này là của chủ cũ để lại. Ông tự tay xách giúp cái valise và đưa chúng tôi lên một phòng trên lầu hai, vặn hộp sưởi điện cho ấm, rồi dặn là nếu thấy vẫn còn lạnh thì cứ vặn thêm cái hộp sưởi thứ hai.

Buổi chiều hôm ấy ông nói nên đi ngủ sớm cho đỡ mệt sau chuyến bay dài từ Washington, DC và nói là sáng hôm sau thì cứ thủng thẳng lúc nào dậy cũng được.

Sáng hôm sau, từ trên tầng thứ hai xuống nhà, chúng tôi thấy ông đang đọc báo. Còn bà thì loay hoay trong bếp. Chỉ mấy phút sau đã thấy hai tô hủ tiếu đúng hương vị miền Nam và cà phê thơm phức bày trên bàn. Bà Thiệu là người Mỹ Tho mà hủ tiếu Mỹ Tho thì ngon có tiếng.

Bà mời chúng tôi tới ăn cho nóng. Khi hỏi sao bà không cùng ăn thì bà nói: “Tôi ăn rồi, để cho hai ông dễ nói chuyện.” Câu nói giản dị nhưng phản ảnh thật rõ cái lối sống của bà trong suốt thời gian 10 năm ông là người lãnh đạo của VNCH. Chúng tôi không biết nhiều nhưng có cảm tưởng là bà luôn luôn xa cách, không xen vào chính trị, vào những công việc của ông, chỉ đứng sau để lo cho gia đình và tham gia vào công việc xã hội. Trong thời gian chúng tôi làm việc ở Dinh Độc Lập thì ít khi thấy bà xuất hiện, kể cả khi Tổng Thống Thiệu tiếp khách xã giao ngoại quốc.

Ngồi xuống bàn ăn buổi sáng hôm ấy, thấy ông hết còn căng thẳng như những buổi ăn sáng hồi Tháng Ba, Tháng Tư năm trước. Chỉ hơn một năm không gặp mà thấy ông cũng có phần già đi, tuy phong độ vẫn còn chững chạc như ngày còn tại chức. Còn bà thì hầu như không thay đổi. Vẫn trẻ trung, vẫn dịu dàng, nồng ấm.

Lưu lại nhà ông bà cả tuần lễ, chúng tôi bắt đầu bằng những câu chuyện vui vui về các món ăn bên Anh, bên Mỹ, nhiều khi không hợp khẩu vị. “Tổng thống còn nhớ cái món ‘pín voi hầm thuốc bắc’ không,” tôi hỏi. Ông hỏi lại là tôi ăn món ấy bao giờ? Khi tôi nhắc là ăn trong bữa tiệc mừng sinh nhật của ông cuối năm 1974 gần ven sông Sài Gòn, ông nhớ ngay và phá ra cười: “Ừ thì họ nói là pín voi chứ tôi cũng chẳng biết là pín gì.”

Trong bữa cơm chiều, bà Thiệu cho ăn canh chua, cá kho tộ. Năm 1976 thì ở London cũng chưa có chợ búa Việt Nam nên bà phải cố gắng thì mới có được gia vị để nấu ăn. Hình như là phải nhờ người từ bên Pháp gửi sang. Bà nói ông thích ăn canh chua nấu với lá me non như mẹ ông thường nấu ở Phan Rang, nhưng “làm sao tôi tìm được lá me non ở bên Anh.” Để làm cho ông vui, tôi gợi ý nói đến một đề tài mà ông rất ưa thích: hải sản, làng chài và ngư nghiệp ở Việt Nam. Ông kể lại những kỷ niệm đi câu cá ở sông Sài Gòn và đôi khi câu được cả cá thu ở ngoài Côn Sơn.

Bệnh viện Vì Dân

Còn bà thì hay nói đến bệnh viện Vì Dân. Đối với bà thì đây là một niềm vui lớn và nó còn ghi dấu ấn trong tâm trí. Đây cũng là một di sản quý hóa mà bà để lại cho người dân, nhất là những người nghèo. Chúng tôi đã có dịp tới thăm nhà thương này và thấy nó được xây cất theo tiêu chuẩn quốc tế, được trang bị rất hiện đại, với 400 giường bệnh. Người khám bệnh và chữa bệnh luôn được miễn phí. Các bác sĩ, y sĩ, y tá được chọn lọc cẩn thận. Ngoài ra, lại còn những sinh viên y, dược, xung phong làm việc từ thiện.

Bà kể là sở dĩ nảy ra ý muốn xây một bệnh viện là vì bà hay vào nhà thương Chợ Rẫy thăm bệnh nhân. Nhiều khi thấy hai người phải chen chúc nhau nằm trên một cái giường nhỏ, làm bà hết sức mủi lòng. Vì vậy, ba bỏ ra nhiều công sức đi vận động để xây nhà thương như là một bước đầu để cải thiện nền y tế Việt Nam.

Tài trợ cho bệnh viện này hoàn toàn không dính dáng gì đến ngân sách quốc gia mà do sự đóng góp của những cơ quan từ thiện, những người có lòng hảo tâm trong nước cũng như ngoại giao đoàn. Bà nói tới sự đóng góp đặc biệt của bốn tòa tòa đại sứ Đài Loan, Nam Hàn, Nhật, và Hòa Lan. Bà đi vận động xây nhà thương là do sự đam mê công tác xã hội, hoàn toàn không có mục đích chính trị như một số người đồn thổi.

Ném bom Dinh Độc Lập.

Nói tới chính trị, có một biến cố làm bà rúng động và còn nhớ mãi. Đó là vụ ném bom Dinh Độc Lập ngày 8 Tháng Tư, 1975 do một phi công VNCH nổi loạn thực hiện. Một trong hai quả bom thật to chọc thủng bãi trực thăng trên nóc dinh, lọt xuống rồi nổ tung. Ông Thiệu vừa ngồi xuống ăn sáng ở một bàn nhỏ ở ngoài hành lang, lấy đôi đũa gắp sợi bánh đầu tiên trong bát phở nóng thì cận vệ vội tới đưa ông vào ngay thang máy để xuống lầu hầm. Bà Thiệu kể lại là ngay chỗ gần thang máy, một quả bom “dài thòng” rơi sát bên nhưng không nổ. Đầu Tháng Tư là thời gian có nhiều chống đối từ mọi phía đòi ông Thiệu phải từ chức. Ông vẫn bình tĩnh, chỉ hơi cáu kỉnh khi nghe báo cáo về một số quý vị thuộc đảng Dân Chủ “thân chính” tại Quốc Hội quay lại chống ông.

Về biến cố ngày hôm ấy, bà kể là trái bom rơi trúng ngay chỗ mỏng nhất của bãi trực thăng. Mùi khét tỏa ra khắp nơi khi những tấm thảm dầy bốc cháy dữ dội. Lúc ấy bà bị kẹt cứng trong cái phòng của gia đình “vì cháu bé người làm đang lo sắp xếp quần áo đã sợ quýnh lên, tay run lẩy bẩy, không tìm và mở được cái khóa vào cầu thang.” Một lúc sau mới có sĩ quan đến giúp bà xuống hầm trú ẩn. Khói bay lên nghi ngút làm bà như ngạt thở.

“Ông già định ở lại”

Chưa tới hai tuần sau vụ ném bom, ngày 20 Tháng Tư, 1975, Đại Sứ Graham Martin của Mỹ, theo chỉ thị của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, tới Dinh Độc Lập thuyết phục ông Thiệu từ chức (với kế hoạch là để Đại Tướng Dương Văn Minh lên thay) và nói: “Nếu ông không chịu từ chức thì các tướng lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm điều này.”

Ông Thiệu hỏi ông Martin: “Nếu tôi từ chức thì liệu viện trợ có đến hay không?”

Ông Martin trả lời: “Tôi không dám hứa nhưng cũng có thể.”

Ông Thiệu kể lại rằng ngày hôm sau, ông mời các tướng lãnh đến Dinh Độc Lập. Trong buổi họp, ông cho họ biết về những chuyện Đại Sứ Martin đề cập tới. Ông Thiệu nói nếu các tướng lãnh coi ông như một chướng ngại vật cho hoà bình của đất nước thì ông sẽ từ chức. Không ai phát biểu gì hết. “Thế là đã rõ họ không muốn tôi ngồi lại ghế tổng thống nữa, cho nên tôi tuyên bố từ chức để Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay, theo đúng Hiến Pháp.”

Chiều ngày 22 Tháng Tư, 1975, ôngThiệu lên TV tuyên bố từ chức. Với tâm tư thật cay đắng, ông tố cáo Hoa Kỳ đã thất ước, đã phản bội VNCH, và nói các ông đã cắt hết quân viện, “để chiến sĩ của chúng tôi chết đuối dưới làn mưa đạn của địch. Đó là một hành động vô nhân đạo.”

Trong bài diễn văn từ chức, ông nói sẽ cùng với nhân dân và quân đội chiến đấu, và “tôi từ chức nhưng tôi không đào ngũ.” Vậy tại sao ông lại ra đi?

Nhiều anh em chiến sĩ và đồng hương vẫn còn đặt vấn đề “ông Thiệu đào ngũ” cho nên chúng tôi đã viết chi tiết về bối cảnh lịch sử của việc Tổng Thống Thiệu ra đi (sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 18). Ông ra đi ngày 25 Tháng Tư là vì chính tân Tổng Thống Trần Văn Hương đã làm áp lực, yêu cầu ông phải ra đi. Ông Thomas Polgar (giám đốc CIA ở Sài Gòn) cũng thuật lại là Tổng Thống Hương gọi cho ông Thiệu khuyên ông sớm rời khỏi Việt Nam, vì “nếu không, Cộng Sản sẽ nói tôi đang điều khiển một chính phủ Thiệu không Thiệu.” Về phía Đại Tướng Dương Văn Minh thì lúc ấy chưa lên tổng thống, cũng muốn ông Thiệu phải ra đi. Trong cuốn “Decent Interval,” tác giả Frank Snepp (nhân viên cao cấp của CIA ở Sài Gòn) viết lại (trang 435): “Ông Minh yêu cầu tướng Charles Timmes là người của CIA phải làm cách nào để ông Thiệu đi lưu đầy (He asked the CIA’s Timmes to see to it that Thiêu was sent into exile).”

Nhân tiện có một cơ hội: Tổng thống Đài Loan là ông Tưởng Giới Thạch vừa qua đời. Tổng Thống Hương liền viết sắc lệnh: “Nay đề cử cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đại diện tổng thống VNCH đến Đài Bắc để phân ưu cùng chánh phủ và nhân dân Trung Hoa Dân Quốc nhân dịp Tổng Thống Tưởng Giới Thạch tạ thế…” Bản văn do Đại Tá Cầm viết tay. May mắn là Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận (một người trong đoàn tùy tùng đi theo cựu Tổng Thống Thiệu) còn giữ được một bản sao của sắc lệnh này.

***

Chỉ ba tuần trước đây, ngày 26 Tháng Chín, khi viết một đôi lời về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhân dịp lễ giỗ lần thứ 20 của ông, chúng tôi có nói: “Rất tiếc rằng vì lý do sức khỏe, ngày hôm nay phu nhân Tổng Thống Thiệu không thể tới đây để dự buổi lễ tưởng niệm này. Trong cảnh về hưu cô đơn ở gần San Clemente, California, thỉnh thoảng chúng tôi có tới thăm bà.

Bà sống rất thanh đạm và một mình với một con chó, trong căn nhà nhỏ bé. Trong bếp chúng tôi thấy mì ăn liền Mama chất đầy từng đống. Bà nói cũng không buồn vì quen rồi. Quen từ lúc “ông già’ còn làm tổng thống.

Bà hay dùng hai chữ “ông già” để nói về người chồng. Có lần chúng tôi hỏi bà về ngày bà ra đi khỏi Sài Gòn, bà kể: “Ông già định ở lại.” Hỏi thêm thì bà nói: “Sau khi từ chức, ông già mặc cái quần xà lỏn và nói: ‘Mẹ con mày đi đi, tôi ở lại.’”

Chúng tôi chưa hề biết chuyên này nên hỏi thêm thì bà mới kể: “Ông già ngậm một cái cục gì ở trong hàm răng.” Chúng tôi giật mình, vì ý bà muốn nói là ông ngậm một loại thuốc độc mà điệp viên thường dùng để phòng hờ trường hợp phải đối đầu với tình huống bi cực nhất.

Dọn sang Mỹ sau khi ông Ronald Reagan lên ngôi

Ông bà Thiệu chọn nước Anh để lưu vong trong giai đoạn đầu. Chính phủ Anh cũng rất kính trọng đời sống riêng tư của ông và gia đình. Bà Thiệu kể lại là ngay từ khi tới London, chính phủ đối xử với gia đình ông bà rất chu đáo, lại còn cử một đại úy coi về an ninh để tiếp cận và yểm trợ, hướng dẫn ông cùng gia đình về đời sống xã hội trong thời gian tới trên một năm.

Gia đình chỉ dọn sang Mỹ dưới thời Tổng Thống Ronald Reagan. Bối cảnh là như thế này: Sau Hiệp Định Paris, Tổng Thống Richard Nixon mời ông Thiệu sang thăm Hoa Kỳ. Nhưng ông Nixon lại mời ông về tư dinh là Casa Pacifica ở San Clemente chứ không đón tiếp ông với tư cách là một vị quốc trưởng ở Washington, DC. Tiệc khoản đãi ông Thiệu ở Casa Pacifica chỉ vỏn vẹn có 12 người, kể cả chủ lẫn khách. Lý do đưa ra là “không đủ chỗ ngồi.” Điều yên ủi đối với ông Thiệu là thái độ và tình cảm của Thống Đốc Ronald Reagan lúc đó. Trước đó, ông Thiệu đã đón tiếp ông Reagan nồng hậu khi ông thăm viếng Sài Gòn. Nhân dịp này, ông có tặng ông Reagan một cặp ngà voi và nói đùa với ông: “Một ngày nào đó, ngài sẽ lên voi.”

Năm 1976, ông Reagan ra vận động làm ứng cử viên của đảng Cộng Hòa để tranh chức tổng thống, nhưng ông không được đảng chọn, và thua ông Gerald Ford dù rất ít phiếu. Vì uy tín của đảng Cộng Hòa xuống quá thấp trong thời Nixon và thời Ford, cho nên ông Jimmy Carter trúng cử. Dưới triều đại Carter, uy tín của Hoa Kỳ lại tiếp tục suy giảm hơn nữa, phần lớn vì thù địch đã coi thường nước Mỹ sau khi tháo chạy khỏi Việt Nam.

Sau cùng thì ông Reagan thắng trong cuộc bầu cử Tháng Mười Một, 1980. Ngày 20 Tháng Giêng, 1981, ông Reagan lên ngồi chắc trên lưng voi và lời tiên đoán của ông Thiệu đã đúng.

Ra đi sau biến cố 9/11

Ở Boston khi chớm Thu thì cũng đã bắt đầu lạnh. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ông bà Thiệu thành hôn, cháu Nguyễn Quang Lộc mời bố mẹ sang du lịch bên Hawaii. Vừa tới nơi vài hôm là biến cố 9/11 xảy ra. Bà Thiệu kể lại là ông rất “lo ra” khi thấy chiếc máy bay cất cánh ngay từ phi trường ở Boston (là nơi ông đang cư ngụ) rồi đâm vào Trung Tâm Thương Mại Quốc tế tại New York và một chiếc khác lại nhào vào Ngũ Giác Đài. Xúc động này ảnh hưởng nhiều tới sức khỏe của ông.

Trong mấy năm ông bị bệnh tim, bà Thiệu phải lái xe chở ông vào nhà thương. “Tiếc rằng không còn bệnh viện Vì Dân để chị săn sóc cho ông già,” bà tâm sự. Bây giờ tuổi đã cao, bà phải lái xe ban đêm một mình trên xứ người, đi vòng vèo khá lâu mới tới bệnh viện. Bà kể có hôm mãi tới 1 giờ sáng mới về tới nhà. Lúc về lại phải đi tìm xe ở dưới cái hầm nhà thương tối lù mù nên bà còn sợ ma, có lúc phải đi giật lùi. “Thôi thì cũng còn tôi để lái xe cho ông tổng thống,” bà nói cho ông vui hôm sau trở lại nhà thương thăm ông. “Cám ơn bà,” ông Thiệu nhoẻn nụ cười đáp lại.

Sau vụ 9/11, ông rất muốn rời Hawaii để trở về Boston ngay, nhưng tất cả các máy bay đều án binh bất động, cả tuần sau mới về được. Về tới nhà thì bệnh ông thêm nặng. Thứ Năm, ngày 27 Tháng Chín, 2001, ông bị té xỉu, rồi hôn mê. Tại Trung Tâm Y Tế Beth Israel Deaconess, ông đi vào giấc ngủ ngàn thu chiều Thứ Bảy, 29 Tháng Chín, 2001.

Tổng Thống Thiệu ra đi chưa tới ba tuần sau biến cố 9/11. Trong một bài bình luận thật dài đăng trên mạng với tựa đề “Nguyễn Văn Thiệu và Cuộc Khủng Bố 11 Tháng Chín,” tác giả David Bennett bình luận: “Cái chết của ông Thiệu trong Tháng Chín vừa qua nêu lên một câu hỏi: Liệu Hoa Kỳ có quyết tâm để chiến thắng cuộc chiến chống khủng bố này (tại Afghanistan) hay không…và liệu Hoa Kỳ có nhất định giúp xây dựng lâu dài một quốc gia Afghanistan hay không?” Lúc ấy thì ở thế giới bên kia, ông Martinô Nguyễn Văn Thiệu đã có câu trả lời.

Sau khi ông mất, trong cảnh cô đơn giá lạnh ở Boston vào mùa Đông, chúng tôi cùng người bạn là Tiến Sĩ Tạ Văn Tài ở đại học Harvard University đến thăm bà. Bà sống đạm bạc, vẫn giữ nguyên bộ xa lông cũ kỹ nay đã sờn. Trên một cái bục cao bà để hình ông và một chai rượu xâm banh. Hỏi về chai rượu thì bà kể là cứ mỗi năm khi đến ngày kỷ niệm thành hôn của hai vợ chồng, ông mua một chai sâm banh, tự tay mở ra và mời bà uống với ông một ly, dù bà không biết uống rượu. Như vậy là bà muốn cùng ông giữ lại suốt đời cái kỷ niệm không bao giờ nhạt nhòa. Bà nói là người ta dèm pha là ông già với bà này cô kia, nhưng bà cũng chẳng để ý vì “tía đi rồi tía lại về.” Nghe vậy, anh bạn Tài phá ra cười, còn tôi thì lúc ấy cũng không hiểu tía là gì nên không cười. Thì ra con người bình dị, hiền hậu vùng đồng bằng Cửu Long còn khoan dung cả với người chồng.

***

Có lần ông Thiệu hỏi người Mỹ nghĩ thế nào về ông, chúng tôi nói về một hai khía cạnh: Khen có, chê có, rồi thêm: “Tôi nghe một tướng Mỹ nói là tổng thống nhu nhược.” Ông Thiệu hỏi tại sao? Tôi trả lời là ông ấy nói “Tổng thống không cương quyết đủ để ra lệnh tử hình khi cần thiết để làm gương.” Ông nhìn tôi giây lát rồi chậm rãi nói: “Suốt đời, tôi đã tránh không có cái nợ máu.”

Xét ra thì trong suốt thời gian 10 năm ông lãnh đạo, thực sự đã không có tội nhân nào phải ra pháp trường. Trên bàn thờ nhà bà Thiệu ở Newton, Massachusetts, vẫn còn treo một cái bảng với phương châm do chính ông viết rồi cho người thêu chữ thật to “Đức Lưu Quang” (Ánh sáng của đạo đức tồn tại mãi). Bà luôn chỉ vào đó mà dạy con cái phải ăn ở cho có đức.

Nếu chúng ta tin rằng mọi việc trên cõi đời này đều do Trời an bài xếp đặt, thì Trời cũng phù hộ ông Thiệu trải qua nhiều nguy hiểm trong gần 10 năm chèo lái con thuyền miền Nam Việt Nam qua bao nhiêu sóng gió. Theo như những chuyện ông kể lại thì đếm ra cũng có tới sáu lần ông bị đe dọa làm ông cảnh giác về đảo chính. Như vậy thì Trời cũng đã giúp cho bà Thiệu không phải trở thành quả phụ của một tổng thống khi còn đương nhiệm.

Ngày 15 Tháng Mười, 2021, bà đã theo ông về thế giới bên kia. Ở đó thì “Cô Bảy Mỹ Tho” Nguyễn Thị Mai Anh sẽ mãi mãi được gần “Cậu Tám Phan Rang” Nguyễn Văn Thiệu. [đ.d.]

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng

*

Cổ ngữ:

“Đức Lưu Quang”: Ánh sáng của đạo đức tồn tại mãi. 

‘Chủ lò’ dọa ‘đợi đấy’ nhưng có ‘đứa nào’ sợ không?

Tư Ngộ/Người Việt

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – “Các bác chờ mấy vụ tới sẽ làm, xem có trốn được không!” Lời ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN, nói với các “cử tri” ở Hà Nội ngày Thứ Bảy, 15 Tháng Mười tuần trước.

Quan chức cấp cao gồm cả bộ trưởng, chủ tịch thành phố Hà Nội bị bắt trong vụ bịp kít xét nghiệm COVID-19 của công ty Việt Á. (Hình: Soha)

Trong cuộc tiếp xúc, ông Trọng nhìn nhận quan chức của chế độ không phải ăn bẩn một mình mà họ móc nối với nhau ngang dọc, trên dưới trong ngoài kết chặt thành một bầy để cùng ăn chia. Ai cũng được chia chác phần to phần nhỏ thì không có ai dại gì tố cáo.

Quốc Hội “con dấu cao su” CSVN bắt đầu họp khóa cuối năm vào ngày 20 Tháng Mười tới đây. Theo thông lệ trước mỗi kỳ họp, các “đại biểu nhân dân” tiếp xúc cử tri để nghe ý kiến của họ rồi khi khóa họp kết thúc, lại gặp cử tri để bào cáo.

Ông Trọng kể ra như vụ tham nhũng tại Hải Dương là “không phải một người mà móc ngoặc với nhau từ bí thư tỉnh ủy cho đến cán bộ các cấp và còn cả với cán bộ trên trung ương,” tờ Tuổi Trẻ ngày 15 Tháng Mười thuật lại lời ông Trọng.

Các vụ án chấn động dư luận trong và ngoài nước trước đó nổi bật là các xếp tại Cục Lãnh Sự của Bộ Ngoại Giao, móc ngoặc với sếp bên trên và các quan chức khác của chính phủ, nuốt những số tiền thật lớn khi tổ chức các “chuyến bay giải cứu” đưa hàng ngàn người từ nước ngoài về Việt Nam khi đại dịch COVID-19 hoành hành trên thế giới.

Người ta đã phải trả những số tiền lớn gấp nhiều lần phí tổn thực để có một chỗ ngồi trên máy bay về nước. Tiền sai biệt dĩ nhiên chui vào túi các quan.

Trước đó, gần hết các quan giám đốc các Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Dịch Bệnh (CDC) trên cả nước đã theo nhau vào tù vì ăn “lại quả” của công ty Việt Á, bán các kít xét nghiệm COVID-19 đắt hàng trăm lần. Trong vụ này, các tướng tá tại Học Viện Quân Y, bộ trưởng Y Tế, chủ tịch thành phố Hà Nội cũng theo nhau “vào lò.”

Đó chỉ là hai vụ lớn trong số hàng chục vụ án tham nhũng khác trên cả nước tầm mức nhỏ hơn.


Các viên chức Bộ Ngoại Giao Việt Nam bị khởi tố trong vụ Cục Lãnh Sự ăn hối lộ tổ chức các “chuyến bay giải cứu.” (Hình: Công An)

Một ngày trước cuộc tiếp xúc cử tri của ông Trọng, guồng máy tuyên truyền của chế độ đồng loạt dẫn báo cáo gửi Quốc Hội của ông Tô Lâm, bộ trưởng Công An, thay mặt chính phủ, cho hay: “Các vụ án tham nhũng và chức vụ gia tăng 41% trong thời gian 12 tháng tức từ đầu Tháng Mười, 2021, đến cuối Tháng Chín, 2022.”

Trước đó, ngày 10 Tháng Mười, báo Thanh Tra thuật lại cuộc họp của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội nói cử tri kêu ca “Một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực còn hình thức, hiệu quả chưa cao” và “công tác tự kiểm tra, tự phát hiện tham nhũng trong nội bộ vẫn là khâu yếu…” Chẳng lẽ kẻ ăn vụng lại tự khai “Lạy ông tôi ở bụi này!”

Xem vậy, lời kêu ca gián tiếp cho hiểu là ông chủ lò chống tham nhũng vẫn sợ đập chuột mà vỡ bình. Cái bình bị vỡ đồng nghĩa cái đế chế đỏ tại Việt Nam không còn nữa. Đấy là chống tham nhũng kiểu “trị bệnh cứu người” mà ông Trọng từng nói đi nói lại. 

Tỷ phú Việt Nam

Tỷ phú Việt Nam

Lâm Bình Duy Nhiên

20-10-2022

Tình cờ đọc được tuyên bố này của bầu Đức: “Phải có tên trong danh sách tỷ phú thế giới chứ không đơn thuần là người giàu Việt Nam“.

Chỉ qua cách nhìn, động lực của ông ta thì thấy rõ cách làm giàu cũng như tham vọng của giới triệu, tỷ phú Việt: phải thành công bằng mọi giá, phải giàu hơn mọi người và phải có tiếng trên thế giới!

Cho nên mới có chuyện ồn ào về nữ tỷ phú đôla đầu tiên của Việt Nam, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, muốn cống hiến 155 triệu bảng Anh cho trường Linacre College, để được đổi tên thành Thao College. Nguyện vọng của bà là để góp phần cải tiến môi trường giáo dục. Nhưng bà quên rằng, chính tại quê hương của bà mới là nơi cần được đầu tư, giúp đỡ để cải thiện một nền giáo dục vốn dĩ quá đỗi lạc hậu.

Tầng lớp giàu có Việt Nam khác hẳn giới tỷ phú trên thế giới: kín tiếng, kín đáo và không ngừng làm việc, đầu tư, sáng tạo,… để chinh phục những mục tiêu đề ra. Họ không ầm ĩ nhưng vẫn cứ giàu và rất giàu!

Giới tỷ phú quốc tế chắc chắn có những tham vọng kinh khủng nhưng họ khiêm tốn hơn và sự thành công vượt bậc của họ cũng góp phần quan trọng cho sự phát triển của xã hội, trong mọi lĩnh vực.

Giới triệu và tỷ phú Việt Nam khó lòng thành công bằng chính đôi bàn tay lương thiện và khối óc sáng tạo. Đơn giản vì cơ chế chính trị lắc léo, không minh bạch, cộng với sự quan liêu và tham nhũng trong mọi ngóc ngách xã hội khiến cho bất cứ công ty hay tập đoàn nào cũng bị chi phối, kiểm soát và thao túng bởi chính quyền.

Sự yểm trợ và bảo kê của nhà cầm quyền khiến cho các cá nhân hay tập đoàn trở nên giàu có một cách nhanh chóng. Nhưng bản chất của mối quan hệ ấy lại rất phũ phàng và tàn nhẫn một khi chính quyền muốn ra tay trừng phạt hay có sự tranh giành quyền lực nơi hậu trường chính trị.

Từ Phạm Nhật Vượng, tỷ phú đình đám với thương hiệu xe hơi vượt biên giới Việt đến bầu Đức nổi tiếng với những phi vụ liên quan đến đất đai và môi trường tại Việt Nam, Lào và Campuchia, có ai dám chắc rằng đằng sau sự giàu có của họ, không có bàn tay của chính quyền?

Cái bệnh nổ cho đã, tự sướng, để cho thế giới phải biết đến mình, chính là căn bệnh trầm kha của xã hội. Tất cả chỉ biết chạy theo thành tích, theo danh vọng hão huyền, theo hình thức nhưng lại không hề có lương tâm, trách nhiệm để xây dựng những nền móng vững chắc và nhân bản cho mọi sự phát triển cân đối và hài hoà trong xã hội Việt Nam.

Đúng là quan chức thời nay giàu thật.

Lê Vi

Tay Trần Đình Thành, cựu Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai, người vừa bị cho vào nhà giam hôm 19.10 quả là tay chơi thứ thiệt. Nhìn ngôi nhà của y tui lại nhớ đến những cung điện của vua chúa bên Nhật Bản. Cũng là tay chơi bonsai có số má đấy, nhìn mấy chậu cây của y có thể hình dung số tiền chi phí cho khu vườn này. Mà cũng hay nhỉ, quan chức miền Bắc toàn chơi nhà gỗ, phá rừng, chạm khắc cầu kỳ. Bàn ghế chạm lồi lõm ngồi đau đít bỏ mẹ. Vườn thì toàn cẩu cây cổ thụ trăm tuổi đem về trồng trong sân nhà.

Lãnh đạo miền Nam xây nhà kiểu Nhật, không biết bên trong trang trí thế nào, nhưng chỉ nhìn sơ bên ngoài đã thấy bộn bạc và có mùi vương giả. Hai miền chơi khác nhau quá chớ.

Đúng là quan chức thời nay giàu thật.

Người Cộng sản chống phong kiến nhưng lại thích học đòi cuộc sống của vua quan phong kiến. Thế mới hay chứ!

Do Duy Ngoc

TU VIỆN DCCT NAY LÀ BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC THỦ ĐỨC:

Giáo xứ Cần Giờ – DCCT

TU VIỆN DCCT NAY LÀ BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC THỦ ĐỨC:

Dấu Ấn của Thời Gian

Năm 1964, sau 39 năm các vị thừa sai đầu tiên của Dòng Chúa Cứu Thế đến Việt Nam (1925), tại Việt nam đã hình thành một Tỉnh Dòng độc lập.Thành quả này thấm đẫm bao máu xương của các vị Thừa sai Cannada cũng như Việt Nam. Lúc này nhiều Tu viện và các Trung tâm đào tạo của Tỉnh Dòng được thiết lập trên khắp ba miền đất nước: Bắc – Trung – Nam.

Năm 1965, Đệ tử viện từ Vũng Tàu được dời về Chợ Lớn và cũng trong thời điểm này, Tỉnh Dòng đang xây dựng một cơ sở đào tạo rộng lớn hơn tại Thủ Đức, để khi cơ sở này hoàn thành thì Học Viện ở Đà Lạt và Đệ tử viện sẽ được dời về đây. Toàn bộ diện tích đất tại cơ sở mới này lên đến hơn 20 mẫu Tây. Vì ngoài diện tích đất để xây dựng cơ sở đào tạo như: Nhà nguyện, Nhà ở sinh viên, Trường học, Sân bóng… còn có một trang trại chăn nuôi heo nhằm phục vụ việc kinh tài cho đời sống của Tỉnh Dòng. Hiện cơ sở này tọa lạc tại số 64 Lê Văn Chí, Khu phố 1, phường Linh Trung, quận Thủ Đức.

Ngày sau biến cố 30.04.1975, việc đào tạo Tỉnh Dòng vẫn còn ổn định, mặc dù hoàn cảnh đã thay đổi quá nhiều. Nhận thấy sự nguy hiểm của chế độ mới đang đến rất gần, đặc biệt trong lãnh vực đào tạo các tu sĩ trở thành linh mục, nên từ tháng 06.1975-06.1976, Tỉnh Dòng đã tổ chức ba lễ trao sứ vụ Linh mục cho 11 Thầy. Lúc này tại Tu viện Thủ Đức chính là cơ sở đào tạo của Tỉnh Dòng gồm cả Ba cấp: Đệ tử viện, Tập viện và Học viện.

Đầu năm 1978, nhà cầm quyền bắt đầu tấn công cưỡng chiếm Tu viện Thủ Đức. Cụ thể ngày 25.01.1978, nhà cầm quyền đã đưa lực lượng rất đông Công an đến cưỡng chế, trục xuất các Linh mục và tu sĩ đang sinh sống, học tập tại Tu viện Thủ Đức. Một số Linh mục, tùy theo sứ vụ đang thực hiện, bị bắt giam tù từ vài tháng lên đến nhiều năm. Các Sinh viên Học Viện bị đưa đi giam giữ và bị điều tra trong vòng 3 tháng. Một số lớp Đệ tử đang được về quê nghỉ hè nên may mắn thoát nạn. Toàn bộ tài sản của Tu viện Thủ Đức bị tịch thu mà không có bất cứ một Quyết định hoặc văn bản nào đúng pháp luật về việc tịch thu cơ sở Tu viện Thủ Đức của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Sau ngày kinh hoàng đó, việc đào tạo của Tỉnh Dòng hoàn toàn chấm dứt! Các Thầy Học viện bị phân tán khắp nơi. Người tìm đường vượt biên để sống đời tu; người ra đời làm đủ nghề: đạp xích lô, sửa xe, thợ điện, thợ máy… và sống đời tu tại gia; người tha phương cầu thực; có người bỏ đời tu…

Sau khi cưỡng chiếm toàn bộ Tu viện và tài sản hiện có, nhà cầm quyền đã biến Tu viện thành Bệnh viện đa khoa khu vực Thủ Đức (như hiện tại). Cho đến hôm nay, những dãy nhà hầu như còn nguyên vẹn thưở ban đầu. Từ bức tường rêu phong, các cánh cửa sổ, nét trang trí bên trong các căn phòng, lối đi giữa các hành lang hầu như không có gì thay đổi. Tượng Chúa Cứu Thế được đặt giữa hồ sen vẫn đứng vững giang tay như che chở nhân loại khổ đau này. Huy hiệu Nhà Dòng được khắc trên bệ tượng vẫn hiện rõ hàng chữ đậm: “Nơi Người Ơn Cứu Chuộc Chứa Chan”. Mặt sau bệ tượng vẫn còn nguyên hàng chữ: “Tu viện Dòng Chúa Cứu Thế Chân Thành Ghi Ơn Quý Vị Ân Nhân”.

Ngoài ra còn một số bức tượng khác vẫn yên vị như điểm tâm linh lặng lẽ cho ai có niềm tin tìm đến nguyện cầu. Bức tượng Đức Maria ẵm Hài Nhi được đặt gần ngoài cổng chính của Bệnh viện vẫn được con cái Mẹ đến kính viếng và dâng tặng hoa tươi. Nằm chính giữa hai dãy nhà tu viện là tượng Thánh Giuse cùng hai gốc sứ (cây đại) cổ thụ, dấu ấn lâu năm sự hiện diện của nơi này. Ngoài ra còn có một số ảnh tượng khác được đặt bên ngoài hay bên trong các dãy phòng.

Các bệnh nhân ở đây, mỗi ngày vẫn lặng lẽ cầu nguyện trước các ảnh tượng, dù ban giám đốc bệnh viện đã nhiều lần muốn dỡ bỏ nhưng đều bất thành. Các bệnh nhân đến nguyện cầu trước ảnh tượng, dù Công Giáo hay không không Công giáo, dù rõ sự tích nơi này hay không nhưng chắc chắn Trời Cao sẽ ban bình an cho ai có lòng thiện tâm.

Lm.Giuse Trương Hoàng Vũ DCCT