Tiếp tục một năm u ám, CPJ nói ’21 nhà báo đang bị bỏ tù’ tại Việt Nam (BBC)

BBC

Nhà báo, nhà hoạt động Phạm Đoan Trang, người đang chịu mức án tù chín năm tù giam với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cùng các nhà báo khác và blogger đã được đề cập trong báo cáo của CPJ

Số lượng nhà báo bị bỏ tù trên toàn cầu lập ‘mức kỷ lục’ mới, theo báo cáo thường niên do Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) công bố vào hôm nay 14/12.

Báo cáo về số nhà báo bị tù giam năm 2022 của CPJ, một tổ chức độc lập và phi lợi nhuận đóng tại Hoa Kỳ cho thấy:

“Năm 2022, cũng đánh dấu với sự xung đột và đàn áp, các lãnh đạo ở những thể chế chuyên chế thì tăng cường hình sự hóa việc đưa tin độc lập.”

‘Kỷ lục mới’

Theo báo cáo, tính đến ngày 01/12, đã có 363 nhà báo bị bắt giữ trên toàn cầu, con số cao nhất trong lịch sử 30 năm thực hiện báo cáo của CPJ.

Trước đó, báo cáo năm 2021 của CPJ cho thấy số nhà báo, phóng viên trên toàn cầu bị bỏ tù tăng cao, với tổng số 293 người bị giam giữ.

Số lượng nhà báo bị bắt giam tăng hơn 20% so với năm 2021.

Iran là quốc gia có số nhà báo bị giam giữ đông nhất với 62 người, xếp hạng tiếp theo là Trung Quốc (43 người), Myanmar (42 người) và Thổ Nhĩ Kỳ (40 người), Belarus (26 người), Ai Cập (21 người), Việt Nam (21 người).

Tại châu Á, số lượng nhà báo bị kết tội ‘chống nhà nước’ chiếm tỷ lệ cao nhất. Số liệu tại Trung Quốc được cho có thể không đầy đủ vì sự kiểm duyệt chặt chẽ của quốc gia này.

Theo CPJ, điều này cho thấy một cột mốc tăm tối khác trong bức tranh truyền thông toàn cầu “đang đi xuống”.

’21 nhà báo bị bỏ tù

Theo CPJ, tính đến ngày 01/12, Việt Nam đang giam giữ 21 nhà báo

Năm nay, Việt Nam xếp vị thứ sáu trong số các nước có số lượng nhà báo bị bỏ tù nhiều nhất.

“Sự áp bức truyền thông tại Trung Quốc, Myanmar và Việt Nam đã khiến châu Á trở thành nơi có số lượng nhà báo bị bỏ tù cao nhất, với tổng cộng 119 người”, CPJ đề cập.

Tính đến ngày 01/12/2022, Việt Nam đang giam giữ 21 nhà báo, theo CPJ.

“Với 21 nhà báo bị tù giam, Việt Nam cho thấy rất ít sự chấp nhận đối với nền báo chí độc lập, đưa ra những bản án nặng nề cho những người bị kết tội chống phá nước”, báo cáo nêu rõ.

Nhà báo Phạm Đoan Trang, người đang chịu mức án tù chín năm tù giam với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” cùng các nhà báo khác và blogger đã được đề cập trong báo cáo của CPJ.

Nhà báo Phạm Đoan Trang đã bị chuyển từ Hà Nội sang một trại giam ở An Phước, Bình Dương.

“Đây là một chiến thuật phổ biến để ngăn chặn việc thăm tù thường xuyên”, CPJ nhận định.

Hồi tháng 7, nhà báo, nhà hoạt động Phạm Đoan Trang được CPJ công bố trao tặng Giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế năm 2022, cùng với ba nhà báo khác từ Cuba, Iraq, và Ukaine. Lễ trao giải đã diễn ra vào ngày 14/11 vừa qua tại New York.

Trong thông cáo về giải thưởng, Chủ tịch của CPJ Jodie Ginsberg nói, “Những người được trao giải của chúng tôi đại diện cho phần tốt nhất của báo chí: một công việc vạch rõ những tác động từ chiến tranh, tham nhũng, lạm dụng quyền lực trong mọi mặt đời sống thường ngày.”

CPJ đồng thời nhắc lại hồi tháng Mười, Việt Nam đã kết án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế đối với nhà báo Lê Mạnh Hà, còn tháng 8, Việt Nam cũng bỏ tù blogger Lê Anh Hùng 5 năm tù vì “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân”.

‘Vẫn ảm đạm’

Báo cáo CPJ nêu “Năm 2022, cũng đánh dấu với sự xung đột và đàn áp, các lãnh đạo ở những thể chế chuyên chế thì tăng cường hình sự hóa việc đưa tin độc lập.”

Vào tháng 11, nhận định về viễn cảnh báo chí sắp tới ở Việt Nam, Kian Vesteinsson, nhà nghiên cứu cấp cao từ tổ chức Freedom House nói với BBC:

“Bức tranh về tự do biểu đạt và tự do báo chí tại Việt Nam là ảm đạm.

“Trong năm qua, chính phủ Việt Nam đã xóa thông tin trên mạng với tốc độ đáng báo động, bỏ tù nhà báo và blogger trong thời gian lâu. Vấn đề kiểm duyệt chỉ có thể tồi tệ hơn mà thôi.”

Để có nền dân chủ tại Việt Nam, nhà nghiên cứu Kian Vesteinsson từ tổ chức Freedom House đề cập đến hai yếu tố là truyền thông độc lập và xã hội dân sự.

“Một điều quan trọng là các chính phủ dân chủ trên thế giới phải tăng cường cuộc chiến cho quyền tự do biểu đạt ở Việt Nam.”

“Một lộ trình chính là hỗ trợ nền truyền thông độc lập tại Việt Nam và xã hội dân sự thông qua tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật. Ví dụ, các chính phủ có thể cung cấp công nghệ giúp người dân Việt Nam thoát khỏi việc kiểm duyệt và giúp họ an toàn không bị theo dõi.”

“Các nhà làm luật nên cần ủng hộ việc thả tự do vô điều kiện nhiều người đã bị tù giam không công bằng vì biểu đạt trên mạng tại Việt Nam, như Nguyễn Văn Hóa và Phạm Đoan Trang.”

Ngày 11/10, Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc với 145 phiếu ủng hộ. Nói với BBC hồi tháng 11, Beh Lih Yi, Điều phối viên Chương trình châu Á từ Committee to Protect Journalists (CPJ) cho rằng hồ sơ nhân quyền của Việt Nam sẽ bị giám sát chặt chẽ.

“Việt Nam chắc chắn có thể cải thiện hồ sơ tự do báo chí trong ngắn hạn nếu có ý chí làm điều này. Việt Nam đang là một nền kinh tế trỗi dậy tại châu Á và hiện là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, điều này có nghĩa hồ sơ về nhân quyền, bao gồm việc đối xử với các nhà báo sẽ bị giám sát chặt chẽ hơn.”

Phạm Đoan Trang được trao giải Tự do Báo chí 2022

Để có nền dân chủ tại Việt Nam, nhà nghiên cứu Kian Vesteinsson từ tổ chức Freedom House đề cập đến hai yếu tố là truyền thông độc lập và xã hội dân sự

Báo cáo ‘Tình trạng Dân chủ Toàn cầu năm 2022’ được Viện International Institute for Democracy and Electoral Assistance (International IDEA) công bố cuối tháng 11 cho thâay1 trong khu vực Đông Nam Á, thì Campuchia, Lào và Việt Nam “vẫn gắn chặt với chủ nghĩa chuyên chế mà không thấy dấu hiệu thay đổi nào”.

Trong các nhóm nước, thì IDEA xếp Việt Nam nằm ở nhóm nước theo chế độ chuyên chế (authoritarian regime), theo báo cáo:

“Việt Nam, giống Trung Quốc và Singapore đã thành công trong việc mang lại sự thịnh vượng kinh tế mà không trao quyền dân chủ, mang lại cho thể chế cộng sản một vỏ ngoài về tính chính danh trước quần chúng.”

“Ở Trung Quốc và Việt Nam, người dân có thể cảm thấy tiến trình dân chủ hiện là không khả thi hoặc quá nhiều rủi ro.”

Ảo tưởng quyền lực

Báo Tiếng Dân

Nguyễn Ngọc Huy

13-12-2022

“Mày có biết tao là ai không?”

Đó là một câu nói ngày càng phổ biến khi những kẻ ảo tưởng quyền lực/hoặc có quyền lực thực sự, lạm dụng để giải quyết các vấn đề mà vốn dĩ không cần đến quyền lực và bạo lực.

Vụ việc ông Dũng dùng gậy đánh vào nữ caddy ở sân golf là một biểu hiện của ảo tưởng quyền lực để hành xử với người mà ông xem là yếu thế hơn mình.

Tôi lấy giả định cái gậy golf đó mà đập vào mặt một ai đó cũng có quyền lực như ông Dũng (là thương gia, là chính trị gia, hay một tay anh chị nào đó) thì chắc chắn là sự việc không bị “ngâm” lâu đến vậy. Nhưng giả định đó chắc chắn không xảy ra vì ông Dũng biết ông đang vụt gậy golf vào mặt ai – một cô gái yếu thế, một người làm công, một người ít được xã hội biết đến.

Đó là một hành động bắt nạt người khác một cách hèn hạ.

Khi dùng tới vũ lực để bắt nạt người yếu thế hơn mình, Dũng không lường trước được về một thứ quyền lực khác. Đó là quyền lực của số đông đang đứng về lẽ phải và công bằng. Khi một cô gái yếu thế không thể nói lên tiếng nói uất ức của mình, thì vẫn còn đó tiếng nói lương tri của những con người thấy bất bình mà lên tiếng.

Ông Dũng đã có giải trình, đã có lời xin lỗi nhưng đó là giải trình quanh co và xem việc làm cố tình đó như một tai nạn ngoài ý muốn lúc nóng giận. Ông vẫn chưa nói lên sự thật về việc lạm dụng quyền lực, thứ mà ông ấy có thể cũng áp dụng hàng ngày ở nơi ông làm việc, chỉ khác là không dùng vũ lực thôi. Thứ đó mới nguy hiểm và là căn nguyên của mọi sự bất công trong xã hội.

Ở một khía cạnh khác, ông quyền lực có thể có ở bất cứ ai và dưới nhiều hình thức. Thứ quyền lực tạm bợ đó có thể được sinh ra do sự nuông chiều của cha mẹ với con cái, sự nịnh hót và phục tùng của nhân viên dưới quyền tại cơ quan tạo ra thói quen xấu cho Dũng là một ông Hội đồng cấp tỉnh, ông đang là đại biểu của nhân dân, người đại diện nhân dân nói lên tiếng nói đối thoại với chính quyền. Thế mà ông lại dùng gậy đập vào mặt nhân dân như thế. Rất hỗn! Ông nên từ nhiệm trước khi bị HĐND phế truất vai trò của ông. Đừng ngồi cái ghế ấy nữa.

Ảo tưởng quyền lực hay lạm dụng người lãnh đạo, và thậm chí, quyền lực ảo đó cũng có thể xuất hiện ở những người của công chúng. Họ biết họ là ai nên họ thích hỏi: “Mày có biết tao là ai khlong?”

Nạn nhân có… “tội”! (RFA)

Đài Á Châu Tự Do

Vụ hành hung xảy ra từ 6/12/2022 nhưng năm ngày sau thiên hạ mới biết, không phải vì hệ thống tư pháp khởi tố vụ án để điều tra mà nhờ một số người sử dụng mạng xã hội được tham khảo văn bản do Câu lạc bộ Golf Bách khoa Đà Nẵng soạn – gửi một số hội chơi golf, sân chơi golf đề nghị… “tẩy chay ông Nguyễn Viết Dũng vì hành động quá bất nhân, không xứng đáng tham gia các trận golf – môn thể thao đòi hỏi sự văn minh, lịch sự và tôn trọng con người với con người”.

Trong văn bản vừa đề cập, Câu lạc bộ Golf Bách khoa Đà Nẵng kể thêm rằng sau khi quất cô caddie một gậy khiến cây gậy chơi golf loại nặng nhất, rắn nhất (driver) gãy đôi… “ông Dũng với quyền lực, chức vụ của mình (Chủ tịch HĐQT tập đoàn Đất Quảng, thành viên Hội đồng Nhân dân tỉnh Quảng Nam) đã cấm sân golf thông báo sự vụ ra đại chúng, đồng thời cho giang hồ vào sân đe doạ các bảo vệ, nhân viên, caddie để sự việc không được tiếp tục lan toả” (1).

Nếu “pháp chế XHCN” nghiêm minh, chắc chắn Nguyễn Viết Dũng không dám càn rỡ như thế và cần nhớ, đâu phải bây giờ ở Cộng hòa XHCN Việt Nam mới mọc ra một kẻ càn rỡ như vậy. Chúng hiện diện khắp nơi và chi phối mọi thứ.

#RFAVietnamese #golf #quangnam #datquang #nguyenvietdung

RFA.ORG

Nạn nhân có… “tội”! 

Bị ‘lật tẩy,’ Hà Nội vội vã cho ‘vá’ lại vỉa hè lát đá ‘bền 70 năm’ bị nứt vỡ

Báo Nguoi-Viet

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hàng chục công nhân đang hối hả đào xới để “vá,” thay mới lại đá trên vỉa hè phố Lê Trọng Tấn, quận Thanh Xuân, sau khi bị công luận chỉ trích đá tự nhiên “bền 70 năm” được lát trước đó đã bị nứt vỡ, hư hỏng nghiêm trọng.

Theo ghi nhận của báo Tuổi Trẻ, chiều 12 Tháng Mười Hai tại tuyến phố Lê Trọng Tấn, quận Thanh Xuân, Hà Nội, hàng chục công nhân đang hì hục đào lên những viên đá lát vỉa hè bị nứt vỡ để lát lại, thay thế bằng những viên đá tự nhiên mới. Các viên đá mới có độ dày hơn nhiều so với các viên đá được lát vào năm 2016.

Những mảng loang lổ lớn được tạo ra khi những viên đá hỏng, vỡ được lật lên để thay mới. (Hình: Phạm Tuấn/Tuổi Trẻ)

Sau khi công nhân đào các viên đá bị hỏng lên, vỉa hè đường Lê Trọng Tấn trở nên loang lổ, khuyết những mảng lớn bởi số lượng “đá tự nhiên” bị vỡ, hỏng tương đối lớn. Có nhiều đoạn vỉa hè gần như được lật lên toàn bộ để làm lại.

Cô Bảy, một công nhân phụ hồ, nói: “Vỉa hè ở đây gần như hỏng hết, nên chúng tôi được thuê để thay mới lại những chỗ đã hỏng. Đá cũ mỏng lắm, mỏng bằng một nửa so với đá mới được thay đợt này.”

Tin cho biết, tuyến phố Lê Trọng Tấn từng được xem là tuyến phố “kiểu mẫu” trong việc “lát đá tự nhiên có độ bền 70 năm,” với mức đầu tư lên tới gần 225 tỷ đồng (gần $9.5 triệu) từ nguồn ngân sách thành phố. Thế nhưng, dù mới được làm trong năm 2016 nhưng đến nay đã hư hỏng xuống cấp nghiêm trọng đến mức phải đào lên để “vá” lại.

Ngoài tuyến phố Lê Trọng Tấn, tại đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, một trong những tuyến phố được lát đá tự nhiên nhưng bị hư hỏng nghiêm trọng nhất, hiện cũng đã được xếp những chồng đá tự nhiên lớn hai bên đường để chuẩn bị “vá áo” cho vỉa hè tại đây.

Trước đó hôm 5 Tháng Mười Hai, công luận “dậy sóng” khi báo đài trong nước phản ánh về tình trạng nhiều tuyến phố ở Hà Nội đã hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, nhiều đoạn gần như bị vỡ nát, nứt toác sau khi được lát, dù trước đó giới chức tuyên bố “đá tự nhiên có độ bền 70 năm.”

Trước thông tin trên, ông Võ Nguyên Phong, giám đốc Sở Xây Dựng Hà Nội, giải thích: “Vỉa hè lát đá tự nhiên có độ bền 70 năm ở Hà Nội bị vỡ nát sau thời gian ngắn một phần là do mưa xuống đá giãn nở nên tự vỡ.”

Ông Phong biện hộ: “Những tuyến đường mà báo chí phản ảnh toàn [là] những dự án thi công trước thời điểm này [năm 2019], lúc đó đang thực hiện thi công theo quyết định cũ. Thời điểm này, phẩm chất đá sử dụng để lát vỉa hè trước khi có quyết định 1303 của thành phố được khai thác bằng phương pháp nổ mìn nên đá bị om. Ngoài ra, đá marble thường có gân đá, không được đồng chất, khi mưa xuống thì bị giãn nở, tự vỡ, thậm chí không cần tác động vật lý.”

Phát ngôn của ông Phong ám chỉ trách nhiệm trong vụ này thuộc về những người tiền nhiệm, còn ông không liên quan gì.

Vỉa hè đường Nguyễn Trãi ở Hà Nội nứt vỡ, hư hỏng nghiêm trọng dù mới được thay. (Hình: Tuổi Trẻ)

Nhà văn Phạm Ngọc Tiến cảm thán trên trang cá nhân: “…Tại sao lại cứ phải thay gạch, lát đá mới cho vỉa hè? Để làm gì? Vừa xấu vừa lãng phí tốn kém trăm tỷ, ngàn tỷ đồng. Để làm gì chịu chết không thể hiểu nổi.”

“Và ai là người chịu trách nhiệm? Trong gia đình vỡ một cái bát, gãy một cái thìa cũng phải có người đứng ra nhận đằng này cứ triền miên phô diễn những thứ thật ai cũng nhìn thấy là vô tích sự là vô dụng vậy mà im thít coi thiên hạ chẳng ra gì. Đá lát tuyên truyền lúc làm là bền đến lúc hỏng với thời gian mênh mông giờ mới vài năm đã sụm,” ông Tiến cũng đặt câu hỏi. (Tr.N)

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Những Rổ Tép Khô

Tưởng Năng Tiến

Tôi bước vào tuổi dậy thì cùng với những sáng tác đầu tay của của Trịnh Công Sơn:

Gọi nắng

Cho cơn mê chiều

Nhiều hoa trắng bay…

Trong căn nhà vắng – sau giấc ngủ trưa muộn màng – nằm lắng nghe Hạ Trắng bỗng thoáng thấy buồn, và không dưng tôi hiểu ra thế nào là nỗi buồn vô cớ. Giữa đêm (những đêm dài giới nghiêm) ngồi ôm đàn hát mỗi mình, trên sân thượng – nhìn hoả châu rơi, loé sáng ở chân trời – rồi chợt biết thèm muốn một cuộc sống bình an:

Ta đã thấy gì trong đêm nay

Cờ bay trăm ngọn cờ bay

Rừng núi loan tin đến mọi miền

Gió Hoà bình bay về muôn hướng …

Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn

Ruộng đồng Việt Nam lên những búp non đầu tiên

Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên rừng…

Chinh chiến rồi tàn. “Gió hoà bình bay về muôn hướng” nhưng người dân trên những đoàn tầu Thống Nhất, tiếc thay, không mấy ai cảm thấy hồ hởi hay phấn khởi gì.

Kẻ lo bị móc túi, nếu có tí tiền. Người lo hàng hoá bị tịch thu, nếu là dân buôn bán. Và tất cả đều sợ bị đá ném vào đầu. Những hòn đá xanh, to bằng nắm tay, được trẻ con dọc hai bên đuờng thi nhau ném vun vút vào cửa sổ.

Những con tầu rất bất an (trên đường sắt Bắc/Nam) đã không hớn hở hú còi, và cũng không hân hoan “nhả khói ấm hai bên rừng,” như dự tưởng của người nhạc sĩ tài hoa!

Hành khách Trần Thành Nam tường thuật:

“Ở mỗi ga, khoang tàu biến thành cái chợ hay hàng ăn, tùy vào thời điểm. Ngoài sự nghèo đói, lộn xộn, mất vệ sinh và nói chung là kém văn hóa là đặc trưng của những gì xảy ra trên chuyến tàu đó hay cho cả đất nước ta thời đó, điều tôi nhớ nhất và thất vọng vô cùng là: từ Nam ra Bắc tôi hầu như không thấy một nụ cười trên gương mặt một ai cả…

Ở một ga miền Bắc Trung bộ, tôi không nhớ ở đâu, hình như ở xứ Thanh, có một cô bé khoảng 14-15 đội lên tàu bán một rổ tép khô. Do đông người đi lại bán hàng va chạm, rổ tép khô của cô bé bị rơi đổ hết xuống sàn tàu, ngay trước mắt tôi và cách chỗ tôi ngồi chừng 1-2 mét.

Cô bé hốt hoảng lo sợ, luốn cuống quì xuống gom vội tép lại. Theo bản năng ‘ga lăng’, tôi lao ngay ra giúp cô bé vơ tép khô lại thành từng đống nhỏ. Cùng lúc đó, nhiều người xung quanh cũng đều xông vào, đa số cũng là những người bán hàng trên tàu như cô bé, xúm lại làm như tôi: vơ tép khô của cô bé gọn lại. Tôi cười nhìn mọi người và nghĩ: ‘Ồ, mọi người tốt quá! Thế mà mình đã nghĩ dân ta bây giờ không yêu quí nhau như trước nữa…’

Chưa kịp nghĩ hết ý trên thì tôi đã đớ người ra khi nhìn thấy mọi người không bốc tép khô vào rổ cho cô bé như tôi mà cho vào những cái túi riêng của họ! Một loáng, sàn tàu đã sạch trơn không còn tí tép khô nào! Và mọi người thản nhiên bỏ đi với những túm tép khô vơ vét được của họ, như không có gì xảy ra…

Tôi chẳng thấy nét mặt ai mừng rỡ hay buồn hay ái ngại gì cả, bình thường… Còn cô bé đứng dậy co dúm thút thít khóc bên cạnh rổ tép khô nay chỉ còn một vốc. Tôi cứ đứng bên cạnh cô bé, ngơ ngác và lòng rưng rưng với nắm tép khô còn chưa kịp đưa vào rổ của cô bé, và không hiểu tại sao mọi người làm như thế!

Còn những hành khách trong toa tàu, trong đó có mẹ tôi, đã chứng kiến toàn bộ chuyện đó, cũng làm ngơ, không ai phản đối gì, cho là chuyện bình thường…

Cho đến hôm nay tôi vẫn còn khinh ghét con người mình vì lúc đó đã không làm được việc mình muốn làm nhất là gào thét lên: ‘Mọi người! Hãy trả lại tép khô cho cô bé!”

Cô bé bán tép – có lẽ – là một trong những “dân oan” đầu tiên của đất nước, kể từ khi Nam/Bắc hòa lời ca. Với thời gian, số lượng dân oan lên đến hằng chục triệu người (vật vạ, la lết, lang thang, vất vưởng) ở khắp mọi nơi.

Mất tép hay mất đất, tự bản chất, chả khác chi nhiều. Rổ tép đang cầm thì vẫn còn là của mình nhưng sau khi lỡ tay, hoặc trượt chân, làm đổ thì mớ tép khô (bỗng) thuộc “quyền sở hữu của toàn dân.”

Bất cứ ai đang có mặt tại chỗ cũng có quyền vơ vét, cất giữ như của riêng tư.

“Hiến pháp 1959 vẫn chưa ‘quốc hữu hóa đất đai’ như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa ‘chế độ công hữu về tư liệu sản xuất’ và ‘quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp’, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội ‘thiểu số sẽ phục tùng đa số’. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì ‘chế độ công hữu’ với đất đai, ‘tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Nói cho nó gọn lại là luật pháp của Nhà Nước Cách Mạng đã khiến cho tài sản ruộng đất của bao người trở thành một rổ tép khô, có thể bị hất đổ tung toé bất cứ lúc nào, tùy vào dự án của các doanh nghiệp và lòng tham của đám quan chức địa phương.

Họ hành xử cũng tồi tệ chả khác gì đám hành khách có mặt trên con tầu năm nọ: Một loáng, sàn tàu đã sạch trơn không còn tí tép khô nào! Và mọi người thản nhiên bỏ đi với những túm tép khô vơ vét được của họ, như không có gì xảy ra… Còn cô bé đứng dậy co dúm thút thít khóc bên cạnh rổ tép khô nay chỉ còn một vốc.

Có bao nhiêu người dân oan Lộc Hưng đang đứng khóc thút thít bên những căn nhà đổ nát của họ. Có bao nhiêu người dân oan Văn Giang, Dương Nội, Thủ Thiêm, Long An, Cần Thơ, Đồng Nai, Dak Nong … đang “co dúm thút thít” trên mảnh đất (còn lại) mà diện tích chỉ đủ dựng một túp lều, kỳ dư đã bị thu hồi với giá đền bù “mỗi m2 bằng giá một… cốc bia” – theo như ghi nhận của blogger Đào Tuấn.

Mà nào có riêng chi ruộng đất. Dưới mắt của giới quan chức hiện nay thì quĩ bảo hiểm xã hội cũng thế, cũng có khác chi một rổ tép khô:

– Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ vỡ quỹ theo cách nào?

– Quỹ BHXH: ALC II phá sản, bao nhiêu tỷ đồng gửi quỹ khó thu hồi

– Người lao động còn lại gì từ Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam?

– Bảo hiểm xã hội cho vay 1.000 tỉ, có nguy cơ mất 800 tỉ

– Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam: Kiểu nào cũng vỡ

– Nguyên Tổng giám đốc BHXH cho vay hàng nghìn tỷ đồng trái quy định…

Rõ ràng chả cần đến lúc rổ tép đổ, cả đám quan chức vẫn cứ (nháo) nhào vào giật tới tấp và giật tự nhiên như chốn không người. Lịch sự hơn chút xíu là cách “giật tép” của qúi vị chuyên trị “mảng” Doanh Nghiệp Quốc Doanh, vay vốn ưu đãi từ những Ngân Hàng Nhà Nước, và tìm mọi cách để kinh doanh thua lỗ:

– Lộ diện những doanh nghiệp lỗ khủng

– Kiểm toán chỉ ra hàng loạt doanh nghiệp nhà nước lỗ lớn, nợ chồng chất

– Doanh nghiệp nhà nước nợ 60 tỷ đôla

– Hàng loạt doanh nghiệp nhà nước lỗ nặng, nợ hàng chục ngàn tỉ khó đòi

Tuy khó đòi nhưng trước sau gì cũng có người phải trả, và số tiền này được báo Thanh Niên số ra ngày 17 tháng 8 năm 2018 tính gọn như sau: “Bình quân mỗi người gánh hơn 35 triệu đồng nợ công năm 2018, tăng gần 4 triệu đồng mỗi người so với năm 2017.”

Với thời gian, con số nợ công (tất nhiên) sẽ không dừng ở đó vì dưới mắt quan chức của chế độ hiện hành thì mọi tài sản và tài nguyên của đất nước có chả khác chi cái rổ tép khô trên tay một em bé gái quê đâu.

8/2019

Dại gì đa đảng?” – Đỗ Ngà

Báo Tiếng Dân

Đỗ Ngà

Theo báo Vnexpress bản tin Tiếng Anh thì người Việt đầu tư mua nhà ở Mỹ vẫn tăng đều, bất chấp dịch Covid-19 trong những năm qua. Hầu hết thành phần chủ doanh nghiệp đều bị tơi tả mùa dịch nhưng người Việt vẫn cứ mua nhà mở Mỹ tăng lên, điều đó cho thấy thành phần trục lợi dựa trên thảm họa dịch bệnh đang tuồn mạnh tiền ra nước ngoài để mua nhà. Thành phần đó là ai?

Có 2 vụ án liên quan đến trục lợi dựa trên dịch Covid trong những năm qua, đó là vụ án Việt Á với khoản tiền trục lợi thống kê được là 4000 tỷ đồng, và vụ án chuyến bay giải cứu cũng trục lợi người dân Việt Nam đang mắc kẹt ở nước ngoài, cũng với con số tương tự. Đấy là phần nổi của tảng băng, phần chìm là ẩn số không ai có thể thống kê nổi.

Có một thống kê khá thú vị là, mỗi năm, số tiền mà người Việt mang sang Mỹ mua nhà tương đương với kiều hối do người lao động của Việt Nam ở nước ngoài, khoảng từ 3 – 4 tỷ đô la. Mà phần lớn lao động Việt ở nước ngoài là culi trong khi phần nhiều quan chức Đảng Cộng sản Việt Nam trục lợi được là tẩu tán tiền ra nước ngoài bằng cách mua nhà và cho con cái du học Âu – Mỹ. Đây là bức tranh khá thú vị, nó cho thấy culi Việt Nam ra nước ngoài kiếm đô gởi về cho các quan chức mua nhà ngoại, mua giáo dục ngoại cho con cái mình.

Trước đây người Mỹ gốc Việt có nguồn gốc VNCH là chủ yếu, tuy nhiên, càng về sau, tỷ lệ người Việt gốc Cộng Sản ngày một tăng. Hầu hết thành phần này rất giàu có bởi họ kiếm tiền bằng cách móc túi hàng triệu dân Việt để sang Mỹ tiêu xài, trong khi người Mỹ gốc VNCH phải “cày cuốc” vất vả mới có tiền.

Năm 2021, kiều hối đổ về nước 18,1 tỷ đô la. Mức tăng kiều hối hằng năm khoảng 10,1% (cao hơn mức tăng GDP Việt Nam), tuy nhiên do khủng hoảng kinh tế nên dự đoán kiều hối năm nay chỉ tăng khoảng 5%. Theo dự đoán này thì kiều hối năm nay sẽ là khoảng 19 tỷ đô la.

Có thể nói đây là khoản đầu tư sinh lời nhất của Việt Nam, bởi cả nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể mang về khoảng 12 tỷ đô la (ước tính) do hoạt động buôn bán với thế giới, trong đó FDI kiếm về cho Việt Nam con số khoảng 36 tỷ đô la (ước tính), trong khi đó khối nội thì làm chảy mất 24 tỷ đô la (ước tính).

Tốc độ tăng trưởng kiều hối năm nay giảm. Nền kinh tế Việt Nam đang đi vào tâm bão với thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán đang khốn đốn. Dự báo nền kinh tế năm 2023 sẽ không gì làm khả quan lắm vì hàng loạt đại gia bất động sản như Đỗ Anh Dũng, Trịnh Văn Quyết và Trương Mỹ Lan chưa bị khui, vì nếu khui ra nền kinh tế có thể sẽ không trụ nổi. Tuy nhiên, không khui thì sâu mọt vẫn cứ ký sinh trong thân thể nền kinh tế và tiếp tục đục khoét. Năm sau là một năm không mấy hứa hẹn.

Ngày 10 tháng 12, khi đang thăm chính thức Luxembourg, ông Phạm Minh Chính đã đã gởi thông điệp với kiều bào trên khắp thế giới rằng “Đóng góp cho đất nước từ xa cũng là yêu nước”. Đóng góp từ xa là đóng góp bằng gì nếu không phải là kiều hối? Mỗi năm kiều hối tăng đều, lượng kiều hối cao hơn tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thì xem ra dụ kiều bào kiếm tiền dễ hơn là ra chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh.

Như vậy, nền kinh tế có sao đi nữa thì thành phần có quyền vẫn cứ đầy túi, dù kinh tế có sao đi nữa thì người Việt (kể cả Việt kiều và người Việt đang lao động nước ngoài) cũng phải kiếm tiền gởi về nuôi Cộng Sản ngày một nhiều hơn. Làm đảng độc quyền cai trị sướng thế thì “dại gì đa đảng” kia chứ?

_______

Tham khảohttps://www.vietnamplus.vn/infographics-kieu-hoi-ve-viet-nam-du-kien-lap-ky-luc-181-ty-usd/760799.vnp

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Vàng & phân

Báo Nguoi-Viêt

(Hình minh họa: Hoàng Ðình Nam/AFP/Getty Images)

Nếu bạn để chính phủ (Cộng Sản) điều hành sa mạc Sahara, trong 5 năm chúng ta sẽ thiếu cát. – Milton Friedman

Bắt đầu từ thế kỷ 12, người Nhật “phát minh” ra một nghi thức tự tử (hara-kiri) mà ai ngó thấy cũng phải hết hồn. Họ đâm dao vào bụng trái, rồi rạch qua phải, xong thốc ngược mũi lên phần ngực. Chết là cái chắc!

Bởi vậy mới có thành ngữ “gan như Nhật.” Qua đến đầu thế kỷ 21, nhân loại mới được nghe nói tới một trường hợp tự tử cũng bằng dao nhưng ghê rợn hơn nhiều – theo bản tin (“Một Phụ Nữ Chết Ở Trụ Sở Công An Với Nhiều Vết Ðâm”) của báo Dân Trí:

“Ngày 13 Tháng Tư, công an thị trấn Long Hải tiếp nhận thông tin từ một gia đình ngụ trong thị trấn về việc bị mất trộm tài sản. Qua camera an ninh, chủ nhà nghi ngờ chị T. là người trộm tiền. Ðầu giờ chiều cùng ngày, công an thị trấn Long Hải đã mời chị T. đến trụ sở làm việc. Sau hơn hai giờ làm việc, công an cho gia đình bảo lãnh chị ra về.

Khoảng 30 phút sau chị T. quay lại trụ sở công an thị trấn Long Hải. Khi cán bộ công an thị trấn Long Hải đi ra khu vực phía sau thì phát hiện chị T. nằm dưới đất với con dao còn trên ngực. Chị T. được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong. Qua khám nghiệm tử thi, trên người chị T. có 12 vết đâm.”

Ngay cả giới hiệp sĩ đạo Nhật mà đọc bản tin dẫn thượng (chắc) cũng sợ teo chim. Sao lại có một phụ nữ Việt Nam gan dạ tới cỡ đó, hả Trời. Dám quyên sinh bằng một cái dao… rất cùn nên phải tự đâm vào mình tới 12 lần lận!

Sự can đảm quá cỡ thợ mộc của chị T. khiến cho blogger Hải Âu nghi ngại, và xem đây là một “chuyện quá hoang đường!” Thực ra, gần đây, có nhiều vụ tự tử còn “hoang đường” hơn nữa:

-Ngày 9 Tháng Hai, ông Nguyễn Thành Ngôn treo cổ bằng dây giầy tại đồn công an Yên Thành, Nghệ An.

-Ngày 3 Tháng Năm, ông Nguyễn Hữu Tấn dùng dao cắt cổ đứt lìa tại đồn công an Bình Minh, Vĩnh Long.

-Ngày 14 Tháng Sáu, ông Ngô Chí Tâm thắt cổ bằng dây thun quần tại đồn công an Thủ Ðức, Sài Gòn.

-Ngày 7 Tháng Bảy, ông Nguyễn Hồng Ðê thắt cổ bằng áo dài tay tại đồn công an Ninh Hải, Phan Rang.

Cùng với những phương cách quyên sinh hoang đường kể trên, người Việt còn có nhiều kiểu hy sinh rất lạ mắt và khó tin không kém:

-Ngày 12 Tháng Mười Hai, 1953, ông Bế Văn Ðàn hy sinh lấy vai làm giá súng.

-Ngày 1 Tháng Hai, 1954, ông Tô Vĩnh Diện hy sinh lấy thân chèn pháo.

-Ngày 13 Tháng Ba, 1954, ông Phan Ðình Giót hy sinh lấy thân mình lấp lỗ châu mai.

Ðó là chưa kể đến nhiều đợt hy sinh ở bình diện tập thể, chưa từng xảy ra ở một quốc gia nào khác – ngoài Việt Nam:

Sau cuộc Cải Cách Ruộng Ðất (1953-1956) tại miền Bắc, toàn thể nông dân ở đây đã “tự nguyện” mang hết đồng ruộng giao nộp lại cho nhà nước (bằng cách gia nhập hợp tác xã) để chính phủ thực hiện chính sách… đất đai là của toàn dân.

Trong cuộc Cải Tạo Công Thương Nghiệp, kéo dài nhiều đợt, ở miền Nam, không ít người dân ở vùng đất này cũng đã “tự nguyện” mang hết tài sản (nhà, xe, cơ sở thương mại) cho nhà nước dưới hình thức hiến tặng.

Ngoài ruộng đất, xe cộ, nhà cửa, cơ sở làm ăn…, đã có lúc dân Việt còn mang luôn vàng cho (không) chính quyền cách mạng nữa kìa. Ký giả Trà Phương, báo mạng VNExpress, số ra ngày 13 Tháng Mười, 2010, có bài tường thuật, kèm hình ảnh (ngó) vô cùng cảm động:

“Sau khi giành độc lập, đất nước gặp nhiều khó khăn về tài chính, ngày 4 Tháng Chín, 1945, Bác Hồ đã phát động Tuần Lễ Vàng kêu gọi mọi người ủng hộ ngân sách quốc gia. Trong tuần lễ này, giới công thương có đóng góp nhiều nhất.”

Dù với đủ kiểu và đủ cách hy sinh của người dân (về tính mạng cũng như tài sản) ròng rã hơn 70 năm qua, Nhà Nước Cách Mạng Việt Nam – xem ra – vẫn nhất định không chịu phát triển. Quốc khố vẫn cứ trống trơn, cũng y như lúc vừa cướp được chính quyền, và nợ công thì đang chồng chất.

Theo TTXVN, đây là vấn đề đã được Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu lên lên trong hội nghị tổng kết ngành tài chính vào ngày 6 Tháng Giêng: “Nợ công trong năm năm qua tăng trung bình gấp ba lần tốc độ tăng trưởng… tốc độ tăng chi thường xuyên cao… thu ngân sách không đủ chi thường xuyên và trả nợ… nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ nền tài khóa quốc gia không thể tránh khỏi… Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị các cơ quan chức năng phải có cải cách đột phá trong tư duy ngân sách…”

Khuynh hướng tư duy “đột phá” đang được nhắc đến nhiều nhất là… huy động nguồn lực vàng trong dân! Nói nào ngay thì kiểu “tư duy” này cũng gần giống như chuyện bác Hồ phát động “tuần lễ vàng” hồi năm 1945 thôi, chớ cũng không được “đột phá” gì cho lắm.

Cái gì chớ vàng thì hiện nay người dân không thiếu, và còn có nhiều hơn hồi trước nữa kìa (đó là chưa kể đô la) nhưng e là họ thiếu niềm tin vào cái nhà nước hiện hành. Liên quan đến vấn đề huy động vàng trong dân, trong cuộc phỏng vấn do báo Dân Trí thực hiện, Tiến Sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính-ngân hàng, góp ý: “Hiện nay, chưa có thống kê rằng, loại vàng nào trong dân là nhiều, vàng miếng, vàng trang sức, nữ trang, để đưa ra lời khuyên cho các nhà hoạch định chính sách và giúp người dân hiểu được chủ trương. Tôi cho rằng, nếu chúng ta làm tốt chủ trương này, thì đây là cơ hội lớn để phát triển đất nước, gia tăng tài sản cho Ngân Hàng Nhà Nước, đồng thời, nó cũng là cơ hội kinh doanh, kiếm lời cho người dân.”

Ông nội tiến sĩ này không biết từ hang hóc nào mới chui ra, hay chắc mới từ… trên trời rớt xuống nên không biết những chuyện cười (ra nước mắt) như sau, ở nước CHXHCNVN:

-Báo Một Thế Giới, 2 Tháng Tư, 2015: “Gửi tiết kiệm một chỉ vàng nhận lại một ổ bánh mì thịt”

-Báo Kiến Thức, 9 Tháng Ba, 2015: “Gửi tiết kiệm 20 năm mua được… 3 kg thịt”

-Báo Tuổi Trẻ, 10 Tháng Ba, 2015: “Gửi tiết kiệm 20 năm, một căn hộ còn ba tô phở”

-Ðài SBTN, 16 Tháng Năm, 2015: “Vietcombank khóa tài khoản nhà hoạt động theo lệnh công an”

-Báo Thanh Niên, 25 Tháng Tám, 2016: “Tiền ở ngân hàng lại ‘bốc hơi’ hàng loạt”

-Báo Ðiện Tử Ðài Tiếng Nói Việt Nam, 10 Tháng Năm, 2017: “Lào Cai: Hàng chục tỷ gửi tiết kiệm ‘bốc hơi’ chỉ còn 1 triệu đồng“

Dân Việt không ít kẻ đã gửi gắm niềm tin vào đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh và đang nhận lại nguyên một băng trộm cướp. Tuy thế, báo Dân Trí, số ra ngày 16 Tháng Bảy, lại vừa có bản tin (“Bộ Tài Chính Ðôn Ðốc Trả Nợ Tiền Vay Dân Sau Hai Cuộc Khảng Chiến”) đọc mà muốn trào nước mắt luôn: “Ðó là những khoản mà người cho vay và cơ quan nhận vay đều ý thức rằng sẽ được trả và phải hoàn trả. Cụ thể những khoản vay được nhà nước đảm bảo trả là những khoản: Công phiếu kháng chiến, phát hành trong các năm 1948, 1949, 1950, 1951, 1952; Công trái quốc gia, phát hành năm 1951; Công trái Nam Bộ, phát hành năm 1947, 1958; Công phiếu nuôi quân phát hành năm 1964 và những khoản vay khác (tiền hoặc lương thực) do các cơ quan chính quyền từ cấp huyện trở lên vay theo lệnh của cấp trên để mua sắm vũ khí, nuôi quân đánh giặc…”

Thiếu gì nhớ đấy: Pháp trị và ngoại lệ – Seppuku và danh dự

Nguyễn Ngọc Chu

9-12-2022

SEPPUKU VÀ DANH DỰ

Ngày 9/8/1945, Mỹ ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống Nagasaki, Liên Xô đơn phương tuyên bố huỷ bỏ hiệp ước không tấn công lẫn nhau với Nhật, đưa hơn 1,5 triệu quân vượt biên giới tiến đánh một triệu quân Quan Đông Nhật Bản. 3 giờ sáng ngày 10/8/1945, Chính phủ Nhật gửi cho Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc bản đề nghị đầu hàng vô điều kiện. Sau đó, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Nhật Bản tự sát theo nghi lễ Seppuku.

Seppuku (tiếng Nhật: 切腹, Hán Việt: thiết phúc) có nghĩa là “mổ bụng”, là nghi thức tuẫn tiết mà người Nhật dùng để bảo vệ danh dự. Theo nghi thức này, một samurai sẽ tự mổ bụng mình nếu bị thất trận, thất hứa, hay không muốn bị nhục…

Không còn mấy ai tuân theo Seppuku vào thời đại kỹ thuật số này. Không ai yêu cầu giữ lời hứa bằng nghi thức Seppuku. Nhưng không có Seppuku không có nghĩa là không cần giữ danh dự, không cần giữ lời hứa.

Bởi coi nhẹ danh dự, nên mấy thập niên gần đây, đạo đức xã hội đang đi xuống, tinh thần kẻ sĩ quý tộc bị mối mọt sùng hà, lời hứa chẳng những không được giữ, mà sự dối trá lại gia tăng. Dối trá và thất hứa như những đợt lũ vô hồi ập tràn qua xã hội.

Dối trá không chỉ ở tầng lớp thiếu ăn, phải trộm gà cắp bánh mì, mà ở kẻ giàu vạn lạng vàng, cướp đoạt đất đai và tiền bạc qua dự án và trái phiếu. Dối trá không chỉ ở tầng lớp tiểu thương ngồi chợ, bất chấp người mua phải chịu hậu quả về hàng kém chất lượng, độc hại, mà còn lan sang cả thầy thuốc, nghệ sĩ rao bán thuốc giả, mặc thây con bệnh nan y đợi chờ sự diệu kỳ từ đống thuốc vô dụng. Dối trá không chỉ kẻ thiếu học đầu đường, mà còn ở tầng lớp giáo sư tiến sỹ vì tiền mà nhận bừa sáng chế phát minh về mình.

PHÁP TRỊ VÀ NGOẠI LỆ

Nhưng tất cả sự dối trá ở các giai tầng nêu trên, đều có nguồn gốc sâu xa không từ ở hạ tầng cơ sở mà từ thượng tầng kiến trúc. Thượng bất chính, hạ tất loạn. Khi thầy dối thì trò tất dối. Khi quan gian thì dân phải đối phó bằng sự không thật. Thượng tầng kiến trúc dối trá thì toàn xã hội dối trá.

Giá mà những người có địa vị cao biết giữ danh dự, biết giữ lời hứa, thì đã không nhiều quan chức phải ngồi tù, đã không có nhiều lời hứa suông với những con số viển vông. Không thể chống sự dối trá bằng đức trị, mà phải ngăn cản sự dối trá bằng pháp trị. Chỉ có thể dùng pháp luật mới chống lại được sự dối trá. Trước hết là pháp trị thượng tầng kiến trúc.

Đã pháp trị thì không ai có thể ở ngoài vòng pháp luật, hay đứng trên pháp luật. Nhưng ở nước ta lại có trường hợp đặc biệt. Pháp trị và ngoại lệ loại trừ nhau. Đã có trường hợp đặc biệt thì không có pháp trị.

Muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thì không có trường hợp đặc biệt.

N.N.C.

From: Bauxite VietNam

HỊCH TƯỚNG SĨ thế kỷ 21

Thiên Đức

HỊCH TƯỚNG SĨ thế kỷ 21.

Sách văn học không cần dầy, in bài này là đủ!

***

Ta cùng các ngươi

Sinh ra phải thời bao cấp

Lớn lên gặp buổi thị trường.

Trông thấy:

Mỹ phóng Con thoi lên vũ trụ chín tầng

Nga lặn tàu ngầm xuống đại dương nghìn thước

Nhật đưa rô bốt na nô vào thám hiểm lòng người

Scôtlen dùng công nghệ gen chế ra cừu nhân tạo.

Thật khác nào:

Đem cổ tích mà biến thành hiện thực

Dùng đầu óc con người mà thay đổi thiên nhiên!

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa

Chỉ giận chưa thể đuổi kịp nước Nga, vượt qua nước Mỹ, mà vẫn chỉ hơn Lào, hao hao Băng la đét.

Dẫu cho trăm thân này phơi trên sao Hỏa, nghìn xác này bọc trong tàu ngầm nguyên tử, ta cũng cam lòng.

Các ngươi ở cùng ta,

Học vị đã cao, học hàm không thấp

Ăn thì chọn cá nước, chim trời

Mặc thì lựa May Mười, Việt Tiến

Chức nhỏ thì ta… quy hoạch

Lương ít thì có lộc nhiều.

Đi bộ A tít, Cam ry

Hàng không Elai, Xi pic.

Vào hội thảo thì cùng nhau tranh luận

Lúc tiệc tùng thì cùng nhau “dô dô”.

Lại còn đãi sỹ chiêu hiền

Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, ai cũng có phần, không nhiều thì ít.

Lại còn chính sách khuyến khoa

Doanh nghiệp, giáo viên, trí thức, nông dân nhận cúp, nhận bằng còn thêm tiền thưởng.

Thật là so với:

Thời Tam quốc bên Tàu, Lưu Bị đãi Khổng Minh,

Buổi hiện đại bên Nga, Pu tin dùng Mét vê đép,

Ta nào có kém gì?

Thế mà, nay các ngươi:

Nhìn khoa học chậm tiến mà không biết lo

Thấy công nghệ thụt lùi mà không biết thẹn

Giáo sư ư? Biết “Thần đèn” chuyển nhà mà chẳng chạnh lòng

Tiến sỹ a? Nghe “Hai lúa” chế tạo máy bay sao không tự ái?

Có người lấy nhậu nhẹt làm vui

Có kẻ lấy bạc cờ làm thích

Ham mát xa giống nghiện “u ét đê”

Ghét ngoại ngữ như chán phòng thí nghiệm

Chỉ lo kiếm dự án để mánh mánh mung mung

Không thích chọn đề tài mà nghiên nghiên cứu cứu

Ra nước ngoài toàn muốn đi chơi

Vào hội thảo chỉ lo ngủ gật

Bệnh háo danh lây tựa vi rút com pu tơ

Dịch thành tích nhiễm như cúm gà H5N1

Mua bằng giả để tiến sỹ, tiến sy

Đạo văn người mà giáo sư, giáo sãi.

Thử hỏi học hành như rứa, bằng cấp như rứa, thì mần răng hiểu được chuyện na niếc na nô?

Lại còn nhân cách đến vậy, đạo đức đến vậy, thì có ham gì bút bút nghiên nghiên.

Cho nên:

“Tạp chí hay” mà bán chẳng ai mua

“Công nghệ tốt” mà không người áp dụng.

Đề tài đóng gáy cứng, chữ vàng, mọt kêu trong tủ sắt

Mô hình xây tường gạch, biển xanh, chó ị giữa đồng hoang.

Hội nhập chi, mà ngoại ngữ khi điếc, khi câm?

Toàn cầu chi, mà kiến thức khi mờ, khi tỏ?

Hiện đại hóa ư? vẫn bám đít con trâu

Công nghiệp hóa ư? toàn bán thô khoáng sản

Biển bạc ở đâu, để Vi na shin nổi nổi chìm chìm?

Rừng vàng ở đâu, khi bô xít đen đen đỏ đỏ?

Thật là:

“Dân gần trăm triệu ai người lớn

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”!

Nay nước ta:

Đổi mới đã lâu, hội nhập đã sâu

Nội lực cũng nhiều, đầu tư cũng mạnh

Khu vực có hòa bình, nước ta càng ổn định

Nhân tâm giàu nhiệt huyết, pháp luật rộng hành lang

Thách thức không ít, nhưng cơ hội là vàng!

Chỉ e:

Bệnh háo danh không mua nổi trí khôn

Dịch thành tích chẳng làm nên thương hiệu.

Giỏi mánh mung không lừa nổi đối tác nước ngoài

Tài cờ bạc không địch nổi hắc cơ quốc tế.

Cặp chân dài mà nghiêng ngả giáo sư

Phong bì mỏng cũng đảo điên tiến sỹ.

Hỡi ôi,

Biển bạc rừng vàng, mà nghìn năm vẫn mang ách đói nghèo

Tài giỏi thông minh, mà vạn kiếp chưa thoát vòng lạc hậu.

Nay ta bảo thật các ngươi:

Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới ngòi pháo làm nguy;

Nên lấy điều để nghìn cân treo sợi tóc làm sợ

Phải xem đói nghèo là nỗi nhục quốc gia

Phải lấy lạc hậu là nỗi đau thời đại

Mà lo học tập chuyên môn

Mà lo luyện rèn nhân cách

Xê mi na khách đến như mưa

Vào thư viện người đông như hội

Già mẫu mực phanh thây Gan ruột, Tôn Thất Tùng chắc cả trung đoàn

Trẻ xông pha mổ thịt Bổ đề, Ngô Bảo Châu cũng dăm đại đội

Được thế thì:

Kiếm giải “Phiu” cũng chẳng khó gì

Đoạt Nô ben không là chuyện lạ

Không chỉ các ngươi mở mặt mở mày, lên Lơ xút, xuống Rôn roi

Mà dân ta cũng hưng sản, hưng tâm, vào Vi la, ra Rì sọt.

Chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu

Mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng,

Chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí,

Mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm.

Chẳng những tên tuổi ta không hề mai một,

Mà thương hiệu các ngươi cũng sử sách lưu truyền.

Trí tuệ Việt Nam thành danh, thành tiếng

Đất nước Việt Nam hóa hổ, hóa rồng

Lúc bấy giờ các ngươi không muốn nhận huân chương, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc tinh hoa bốn biển năm châu hợp thành một tuyển, gọi là Chiến lược

Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời ta dạy bảo thì suốt đời là nhà khoa học chính danh.

Nhược bằng không tu thân tích trí, trái lời ta khuyên răn thì muôn kiếp là phường phàm phu tục tử.

Vì:

Lạc hậu, đói nghèo với ta là kẻ thù không đội trời chung

Mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn trừ hung, không lo rửa nhục

Chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà thua giặc.

Nếu vậy rồi đây khi nước Việt hóa hổ, hóa rồng, ta cùng các ngươi há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất này nữa?

Cho nên mới thảo hịch này

Xa gần nghiên cứu

Trên dưới đều theo!

Sưu tầm

SỢ…

Amy Truc Tran

SỢ…

Dù tự hào là phe thắng cuộc nhưng đã nửa thế kỷ trôi qua rồi mà họ vẫn sợ, sợ tất cả những gì thuộc về Việt Nam Cộng Hoà, từ màu cờ cho đến bài hát, và giờ thì ai cũng biết là họ còn sợ luôn cả ngôn từ.

Họ thà để cho dư luận cãi nhau om sòm giữa Đại Học và Trường Đại Học chứ khăng khăng không dám dùng lại từ “Viện Đại Học”, một từ mà Giáo Dục VNCH đã sử dụng rất chuẩn. Dưới Viện Đại Học thì có các Trường Đại Học, đơn giản dễ hiểu mà đầy đủ ý nghĩa.

Cái gì hay, cái gì đẹp thì phải học, phải theo, cho dù là của “thế lực thù địch”, chẳng phải là con cháu các ông cũng đã được Tây, đi Mỹ học hết rồi sao. Đã bao nhiêu năm hô hào chiến thắng vẻ vang “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” thì còn gì mà phải sợ. Bản chất nó vốn là Viện Đại Học thì cứ gọi là Viện Đại Học. Mình đã “trong veo” thì sợ cái gì chứ?? Cứ cố chấp, bảo thủ khiến cho nền giáo dục ngày càng nát bét.

Amy Truc Tran

 

 

 

Tại sao người cộng sản sợ Việt Nam Cộng Hòa như sợ ma?

Tien Cuong Nguyen  Sự Thật Lề Đường

Nguyễn Tiến Cường

Ma – theo sự hiểu biết thông thường của đa số là người chết không hoặc chưa được siêu thoát, thường hiện hình quấy phá người ở dương thế. Thành ngữ Đi Đêm Có Ngày Gặp Ma ngụ ý cảnh cáo những kẻ gian manh, trộm cướp, lừa bịp, phá làng phá xóm…nên cải tà quy chánh, kẻo rồi có lúc bị cảnh sát bắt hay bị nạn nhân gài bẫy, tóm được. Người được gặp, thấy ma rất hiếm và thường chỉ vào ban đêm hoặc lúc trời chạng vạng tối hay khi bình minh chưa tới. Tuy nhiên, nghe nói tới ma thì chí ít cũng phải 70-80% người bình thường nổi gai ốc, lạnh sống lưng.

Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam sụp đổ đã hơn 47 năm, nôm na là chết lâu rồi. Với hầu hết những người trẻ tuổi sinh từ đầu thập niên 70 thế kỷ trước cho đến nay, những chữ Việt Nam Cộng Hòa là những gì thật mơ hồ. Trừ một thiểu số rất ít được cha, anh kể lại cho nghe hoặc do tìm hiểu về cuộc chiến tranh Quốc-Cộng qua sách vở báo chí, truyền thông hải ngoại, số còn lại không hề có một khái niệm gì về mấy chữ Việt Nam Cộng Hòa hoặc nếu có thì hiểu biết cũng rất giới hạn qua sách báo tuyên truyền gian trá, sai sự thật của chế độ cộng sản.

Đối với người cộng sản Việt Nam, có thể nói Việt Nam Cộng Hòa là Ma với biểu tượng duy nhất còn tồn tại là lá cờ vàng ba sọc đỏ, được sử dụng vào những lễ kỷ niệm của cộng đồng người Việt hải ngoại như Giỗ Tổ Hùng Vương, Tết, ngày quân lực VNCH 19.06…

Cụm từ Việt Nam Cộng Hòa vẫn là nỗi ám ảnh không nguôi trong lòng bất cứ một đảng viên cộng sản nào, từ cán bộ hạ tầng đến lãnh đạo trung ương. Ra hải ngoại công tác, làm việc, gặp gỡ ngoại giao…hễ nghe nói đến, nhìn thấy lá cờ vàng là người cộng sản hoảng hốt, lo sợ như…gặp ma, thiếu điều muốn tè trong quần. Ngay cả khi có những cuộc gặp gỡ ngoại giao chính thức ở cấp lãnh đạo quốc gia với các nướcÂu, Mỹ…, được hàng rào cảnh sát, lực lượng an ninh bảo vệ vòng ngoài vòng trong, người cộng sản luôn luôn tìm cách né tránh, hoặc lén lút, đi ngõ sau để tránh nhìn thấy…ma.

Còn trong nước thì sao? Nỗi sợ hãi VNCH đã khiến chế độ cộng sản kết án 3 phụ nữ, bà Ngô Thị Minh Ước 57 tuổi, Nguyễn Thị Trí 58 tuổi, Nguyễn Thị Bé Hai 57 tuổi – dân oan bị cướp mất đất đai, phất cờ vàng biểu tình đòi đất trước tòa lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn – tổng cộng 10 năm tù (1), cũng như kết án thanh niên Nguyễn Viết Dũng 7 năm tù về tội tàng trữ 4 lá cờ vàng và tội tuyện truyền chống nhà nước Cộng Hòa XHCNVN. (1)

Nỗi sợ hãi đó còn lan truyền đến “hậu duệ” người cộng sản. Du sinh Dương Đức Thịnh, tuổi đời chưa đến 20, người Hải Phòng, qua Úc du học, trên đường đi bộ với một nhóm bạn, thấy cờ vàng treo trên đường phố thì nổi điên, giật xuống, dẫm đạp. Kết quả là Dương Đức Thịnh…”tự ý” về nước và “cam kết” với chính quyền không bao giờ quay trở lại vì không muốn thấy ma trên đường phố nước Úc thêm lần nào nữa. (2)

Đâu là nguyên nhân khiến chế độ cộng sản sợ hãi ma Việt Nam Cộng Hòa quá đáng như vậy?

Tất cả chỉ bắt nguồn tự sự bất chính, mặc cảm tự ti cũng như tâm trạng của kẻ gian manh đi ăn cướp khi xua quân tấn công xâm chiếm miền Nam. Thua sút về trí tuệ, yếu kém về văn hóa, kiến thức…khiến người CSVN tìm đủ mọi cách, mọi biện pháp, thủ tiêu mọi liên hệ, dấu tích…nhắc nhở đến một chế độ nhân bản, một nền văn minh, một chế độ giáo dục tự do, khai phóng hơn họ một trời một vực.

Tuy nhiên càng tìm cách xóa bỏ, người cộng sản Việt Nam càng thất bại. Dù trăm phương, ngàn kế, từ bôi nhọ, phỉ báng, vu khống, nhục mạ, tuyên truyền láo xược, gian manh… Chế độ cộng sản với chiến dịch quét sạch “tàn dư văn hóa” Mỹ, Ngụy năm 1975 cũng không thể xóa được những hình ảnh tốt đẹp, những dấu ấn nhân văn của một chế độ tự do, dân chủ trong lòng những người từng sinh ra, lớn lên, trưởng thành ở miền Nam trước tháng tư năm 1975.

Sách báo, tranh, ảnh, nghệ thuật, văn hóa miền Nam đã bị thủ tiêu, đốt phá, huỷ diệt tưởng chừng sẽ vĩnh viễn không thể khôi phục nay đã hồi sinh ngày càng mạnh mẽ. Những bản nhạc vàng bolero, tango, chachacha, nhạc tình ca của miền Nam mà chế độ cộng sản từng lên án là thứ nhạc ủy mị, yếu đuối đã và đang từng bước thay thế loại âm nhạc mang nặng hận thù, kích động chiến tranh, giết chóc…Điều này khiến lãnh đạo cộng sản ngày càng sợ hãi.

Do không có chính danh nên người cộng sản VN rất sợ hãi khi phải công khai đối thoại. Có mấy ai còn nhớ, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đã được cộng sản Hà Nội khai sinh năm 1960 chỉ với mục đích thực hiện bước đầu xâm lược miền Nam trước khi chính thức xua quân vượt vĩ tuyến 17 năm 1972, vi phạm hiệp định Genevè 1954. Sau đó khi chữ ký của hiệp định Paris 1973 chưa ráo mực, cộng sản Bắc Việt đã lập tức mở các cuộc tấn công vào các đơn vị VNCH. Chiếm được hoàn toàn miền Nam, cộng sản Bắc Việt lặng lẽ bóp mũi, giết chết đứa con sinh năm 1960, đám tang MTGPMNVN thật lặng lẽ, không kèn không trống, cũng chẳng còn ai nhắc nhở sau đó.

Hơn 47 năm đã trôi qua, dù năm nào đến ngày 30.04, chế độ CSVN vẫn tưng bừng, rầm rộ tổ chức ăn mừng chiến thắng nhưng chưa một lần nào họ đủ can đảm, thật sự bình thản, an nhiên, tự tại nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ như chứng tích của một thời chiến tranh, một cuộc nội chiến giữa những người Việt với nhau. Họ ra rả kêu gọi người Việt hải ngoại hòa hợp hòa giải nhưng chưa bao giờ thực tâm muốn thực hiện lời kêu gọi. Đó chính là nguyên nhân gây ra sự sợ hãi trầm kha của người cộng sản VN khi nhìn thấy, nghe nói về lá cờ vàng ba sọc đỏ – Bóng ma chế độ VNCH.

TNLT Nguyễn Năng Tĩnh được trao Giải thưởng Lê Đình Lượng 2022

Đài Á Châu Tự Do

Nhà hoạt động xã hội dân sự, tù nhân lương tâm Nguyễn Năng Tĩnh được tổ chức Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng (tức đảng Việt Tân) trao giải thưởng Lê Đình Lượng năm nay với chủ đề “Bảo vệ Chủ quyền trước Nguy cơ Trung Quốc.”

Ông Nguyễn Năng Tĩnh là một giảng viên âm nhạc tại một trường cao đẳng ở tỉnh Nghệ An, bị bắt giam hồi tháng 5/2019 và hiện đang phải thụ án tù 11 năm với tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Tiến sỹ Đông Xuyến, phát ngôn nhân của Việt Tân cho biết, ông Tĩnh vượt qua nhiều ứng cử viên nặng ký khác trong một cuộc bình chọn bởi một hội đồng có nhiều thành viên uy tín trong và ngoài nước, trong đó có Dân biểu Hạ viện Canada- bà Judy Sgro hay Giám đốc tổ chức Whistleblower Aid- bà Libby Liu, Chủ tịch Phong trào Dân chủ hoá Châu Á- Giáo sư Kojima Takayuki…

#RFAVietnamese #ledinhluong #nguyennangtinh #viettan

Giảng viên âm nhạc Nguyễn Năng Tĩnh tại phiên toà ở Nghệ An hôm 15/11/2019

RFA.ORG

TNLT Nguyễn Năng Tĩnh được trao Giải thưởng Lê Đình Lượng 2022