CSVN Khởi Tố Ông Nguyễn Thanh Huy Theo Điều 331 Vì Đăng Tải Nội Dung Trên Facebook

Ba’o Dat Viet

December 22, 2024

Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, ngày 20/12 đã ra quyết định khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Nguyễn Thanh Huy, 58 tuổi, với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Cáo Buộc Và Hành Vi Được Nêu

Theo báo Công an Nhân dân, ông Huy bị cáo buộc sử dụng hai tài khoản Facebook có tên “Huy Nguyenthanh (Ông dở)” và “Nguyen Nguyenhuy (Huy khờ)” để đăng tải, chia sẻ và bình luận các nội dung được cho là “sai sự thật, xuyên tạc, vu khống” và “xúc phạm uy tín của tổ chức Đảng, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như lãnh đạo Đảng và Nhà nước” từ năm 2022 đến nay.

Tuy nhiên, các bài báo thuộc truyền thông Nhà nước không công bố chi tiết nội dung cụ thể của các bài viết bị cho là vi phạm hoặc các cá nhân, tổ chức cụ thể bị xúc phạm. Các bài viết chỉ nói rằng ông Huy đã “thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.” Hiện cơ quan công an đang tiếp tục củng cố hồ sơ để xử lý vụ án.

Hoạt Động Trên Mạng Xã Hội Của Ông Nguyễn Thanh Huy

Theo tìm hiểu từ các nguồn thông tin, tài khoản Facebook “Nguyen Nguyenhuy (Huy khờ)” có khoảng 1.200 người theo dõi, với nội dung thường xuyên đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau. Một số bài viết phê phán các tổ chức, cá nhân như VinFast, các nhà sư Thích Nhật Từ, Thích Chân Quang, và một số nhân vật văn nghệ sĩ. Đồng thời, ông cũng có những bài viết ca ngợi khất sĩ Thích Minh Tuệ và chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Chủ tài khoản tự mô tả mình là “phó thường dân tại thất nghiệp” trong phần thông tin cá nhân. Các bài đăng trên cả hai tài khoản Facebook được cho là của ông Huy đều kết thúc vào đầu tháng 7/2024.

Điều 331 Và Xu Hướng Xử Lý Người Dùng Facebook

Điều 331 Bộ luật Hình sự Việt Nam, với nội dung quy định tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,” đã trở thành một công cụ pháp lý thường được sử dụng để xử lý những người dùng mạng xã hội có ý kiến chỉ trích chính phủ.

Bên cạnh Điều 117 về “tuyên truyền chống Nhà nước,” Điều 331 thường được viện dẫn trong các vụ án liên quan đến việc sử dụng Facebook để đăng tải hoặc chia sẻ nội dung bị cho là trái với quan điểm của chính quyền. Theo thống kê từ Đài Á Châu Tự Do (RFA), tính từ đầu năm 2024 đến nay, ít nhất 18 người đã bị bắt với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ,” và ít nhất 12 người đã bị kết án với mức án từ 30 tháng đến 5 năm tù.

Bối Cảnh Và Tác Động

Việc khởi tố ông Nguyễn Thanh Huy diễn ra trong bối cảnh chính quyền Việt Nam ngày càng siết chặt việc quản lý không gian mạng, đặc biệt là các ý kiến trái chiều hoặc chỉ trích chính sách, lãnh đạo Nhà nước trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook.

Trong nhiều năm qua, việc sử dụng Điều 331 để xử lý các vụ án tương tự đã dấy lên nhiều chỉ trích từ các tổ chức nhân quyền quốc tế. Các tổ chức này cho rằng Điều 331 mang tính chất mơ hồ, dễ bị lạm dụng để đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến và hạn chế quyền tự do biểu đạt, một quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam cũng như Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên.

Dư luận trong và ngoài nước tiếp tục theo dõi diễn biến vụ việc và cách thức xử lý của chính quyền, trong bối cảnh các quy định về kiểm soát mạng xã hội tại Việt Nam ngày càng chặt chẽ hơn.


 

Thay trời hành đạo và xã hội mất niềm tin-Dương Quốc Chính

Ba’o Tieng Dan

Dương Quốc Chính

21-12-2024

Vấn đề xã hội nhức nhối ở vụ đốt quán [cafe] là ở Việt Nam bây giờ có không ít người không còn tin vào pháp luật, nên sẵn sàng thế thiên hành đạo. Gặp vấn đề, cảm thấy bị ức hiếp, bất công, là tự xử luôn. Ngày xưa thì Đoàn Văn Vươn, rồi tổ đồng thuận ở Đồng Tâm, trước khi có biến cố xảy ra họ đã live stream tuyên bố sẵn sàng cho nổ chỗ nọ, chỗ kia.

Chưa bàn bên nào đúng, bên nào sai, có bị ức hiếp, bất công hay không. Nhưng chỉ thấy rằng rất nhiều người không còn tin vào sự nghiêm minh của pháp luật.

Người giàu, có quyền thế, khi gặp vấn đề với pháp luật thì việc đầu tiên là nghĩ tới chạy chọt, chạy công an, thậm chí chạy án. Hồi xưa, khi anh Năm Cam còn trị vì trong Sài Gòn, “dân oan” có chuyện thì kêu tới anh Năm xử lý! Vì anh nuôi luôn cả công an rồi.

Nhiều người khác, biết chắc mình đúng luật, nhưng có chuyện phải báo công an, thì vẫn phải chạy tiền thêm, để công an làm đúng luật và nhanh hơn! Điển hình như chuyện công an mà tìm thấy xe bị mất cắp, đến nhận xe thì cũng phải cưa tiền. Thường 50/50. Coi như vẫn mất nửa chiếc.

Còn dân đen, không có tiền chạy, thì thôi xác định nhịn nhục cho qua, nếu gặp vấn đề với kẻ mạnh. Không thì chọn cách khủng bố như người vừa rồi. Như ông ta kể là bị đánh, ‘cay’ quá nên đốt nhà người ta.

Tất nhiên bị đánh mà báo thù bằng đốt nhà thì đương nhiên vẫn là sai và rất sai khi hậu quả nghiêm trọng. Nhưng cũng phải nhìn lại, tại sao người ta bị đánh lại không báo công an mà lại chọn cách đốt nhà rửa hận, y chang như trong Thủy Hử và rất hay gặp trong giới giang hồ. Đó là vì một bộ phận không nhỏ trong xã hội mất niềm tin vào pháp luật. Một phần do nhận thức pháp luật của người ta còn hạn chế.

Thành phần như ông nghi phạm kia thì giờ nhiều vô kể, quán nước đầu ngõ nào chả có dăm ông. Bản chất là thất nghiệp, trộm vặt, đa phần là nghiện, có thể kiêm xe ôm (nhưng giờ thất nghiệp vì Grab) và lô đề. Suốt ngày lê la quán nước, tiện đâu sơ hở thì trộm cắp mánh mung.

Một số ông “giác ngộ cách mạng” chút thì đi làm dân quân dẹp chợ, bảo vệ, trông xe, nhưng bản chất vẫn là giang hồ vặt. Thành phần này nói chung đều sẵn sàng có phản ứng như ông nghi phạm kia, không có gì lạ cả. Đều là hung thủ dự khuyết cả nếu gặp chuyện, anh em cứ thử va chạm với họ mà xem, nhẹ nhất là va chạm giao thông, mình gặp nhiều rồi, nếu mình cũng máu chó thì chắc cũng lên báo đôi lần. Có khi còn chưa va quệt đã chửi đm biết bố mày là ai không? Nếu đối phương cũng cùng hệ là án mạng xảy ra rồi.

Cái video ông ta hớn hở chém gió khoe chiến tích đốt nhà với công an phường (?): “Anh đổ xăng từ ngoài vào, cậu hiểu không?”, rồi cười hềnh hệch. Khả năng là do ông ta đốt xong là đi đầu thú luôn chưa kịp biết hậu quả, công an phường cũng chưa biết, nên giọng kể chuyện đúng giọng quán nước đầu ngõ, không lệch tý nào, chưa hề biết sợ đâu.

Kẻ ác và ngu phải trả giá là tất nhiên. Nhưng về mặt xã hội cũng cần nhìn lại tại sao lại có chuyện đó? Liệu điều đó còn tiếp tục xảy ra? Trước đây đã có vụ lên báo là có nhà hát karaoke to quá, hàng xóm bảo không được nên quăng chai xăng vào đốt.

Nhà mình đối diện dãy quán nhậu, bên kia sông, anh em nhậu đến 12h đêm xong rồi hát karaoke ông ổng, rồi 1-2-3 dô, 1-2-3 uống, có hôm thì thấy công an đi gọi loa nhắc nhở, có hôm không thấy, nó cũng kệ. Lúc đó mà có can xăng, có khi mình cũng đốt quán kia, vì không ngủ được! Mình vốn kỳ thị đồng bào đã hát không hay lại còn hay hát to, lại còn nửa đêm! Công an có dẹp được bọn nó đâu, chắc vì cũng làm luật cả rồi.

Chung quy cũng là vì pháp luật cả.


 

VÔ LƯƠNG TÂM…-HUUPHUBTN

8 SÀI GÒN

Tôi đã từng đọc rất nhiều lời khen ngợi trên mạng xã hội khi hình ảnh một cháu bé qua đường quay lại cúi chào người lạ lúc nhận được sự hỗ trợ; Những lời có cánh cho một hành vi lan tỏa sự yêu thương như cho đi một bó rau của một người cùng khổ… Tại sao vậy?!

Vì xã hội chúng ta đang sống quá thiếu vắng tình thương, lòng nhân ái, sự lương thiện… cái mà chúng ta vẫn thường gọi là LƯƠNG TÂM! Vậy nên những hành vi nhỏ nhặt, tưởng chừng như bình thường ấy đột nhiên trở nên cao cả, vĩ đại, vượt khỏi sự bình thường mà mọi người thường thấy.

Những hành vi mà chúng ta vẫn thường gặp trong xã hội hiện nay trong mối quan hệ giữa người với người là: Sự chà đạp, trấn áp, lừa đảo để trục lợi bằng bất cứ giá nào; Đi đường va chạm nhau thì sẵn sàng hành hung bất chấp hậu quả; Mâu thuẫn trong hành xử, giao thiệp thì sẵn sàng giết nhau chẳng vì lý do gì nghiêm trọng và xem điều đó là bình thường…

Còn nhớ, hồi chúng tôi học tiểu học tại Sài Gòn trước năm 1975, chúng tôi luôn được dạy phải lễ phép, khiêm nhường, kính trên nhường dưới, đi dạ về thưa, ra đường gặp rác thì phải nhặt bỏ vô thùng rác, gặp người cao tuổi qua đường thì phải đến giúp đỡ, đi ngang đám ma thì phải ngã mũ cúi chào, nghe tiếng Quốc ca thì phải đứng nghiêm chào cờ xong mới được đi…

Trong chương trình học tiểu học của chúng tôi có hẳn những tiết học về những hành vi cao thượng để làm gương, noi theo, mà giáo trình chính thức là những câu chuyện trong tác phẩm “Những tấm lòng cao thượng” của dịch giả Hà Mai Anh, trong đó có đầy đủ các thể loại của tình yêu, tính nhân văn, nhân bản…

Trước năm 1975, tại Sài Gòn, những hành vi bộc lộ sự nhân ái, nhân văn, nhân bản trong xã hội không hiếm, không làm ai kinh ngạc vì nó quá bình thường. Có lần, tôi cùng bố tôi đi bộ trên vỉa hè đại lộ Chi Lăng, tỉnh Gia Định (đoạn ngay trường vẽ) , thấy một bà cụ xách giỏ chuẩn bị qua đường, tôi vội chạy đến sốt sắng giúp dắt bà cụ qua… Xong, tôi đứng luôn bên kia đường, vẫy tay kêu bố tôi sang dắt tôi quay lại vì tôi… chưa biết đi qua đường, thực chất lần qua đường trước đó là bà cụ dắt tôi qua.

Chẳng ai khen ngợi tôi bởi tôi đã dũng cảm thực hiện một hành vi tốt ngay trên đường phố, trừ bố tôi!

Sau năm 1975, chúng tôi không còn được học về những tấm lòng, những hành vi cao thượng nữa, thay vào đó là những bài học, câu chuyện về chiến tranh, giết chóc, khủng bố, lòng căm thù… và được trui rèn lòng hiếu chiến, sự hung hăng, tính quyết liệt, triệt để trong những “chiến dịch”, những lần “ra quân” của những phong trào giành cho lứa tuổi của chúng tôi…

Dần dần, tôi quen với với việc người ta hành xử với nhau ưu tiên bằng bạo lực trong bối cảnh xã hội chung lúc bấy giờ. Đến nỗi, khi mâu thuẫn với nhau trong xóm ở tuổi tiệm cận thanh niên (16 tuổi), tôi từng cầm dao chặt đá rượt một đối thủ của tôi để chém với quyết tâm chém cho nó chết, để “thị uy”, “dằn mặt”, để “chứng tỏ”… May mà tôi rượt không kịp thằng đó. Nếu không, thì…

Lớn lên, tốt nghiệp đại học, đi làm báo, tôi vẫn không hề biết sợ ai, sẵn sàng “máu đổi bằng máu” khi đối đầu… cho đến khi tôi gặp một sự vụ tác động mạnh đến tôi: Hôm đó, tôi nhận được tin báo từ Công an phường Bến Thành cho biết chợ Bến Thành vừa xảy ra một vụ án mạng, nạn nhân là người nước ngoài. Đến nơi, tôi mới biết nạn nhân là một cô gái trẻ người Tây da trắng, con của vợ chồng một Tổng lãnh sự sứ quán tại TP.HCM vừa mới qua Việt Nam chơi thăm cha mẹ, đi chợ Bến Thành mua sắm thì gặp sự cố chết người. Cô gái bị một tên giựt đồ giựt túi xách trong lúc đang dạo chợ, đôi bên giằng co nhau và tên cướp quay lại dùng dao đâm một nhát chết luôn cô gái. Nhìn tên cướp mặt lạnh tanh, vô nhân tính, không hề hối hận ngồi bệt dưới đất bị còng vô ghế của công an phường, rồi nhìn cảnh bà mẹ phu nhân Tổng lãnh sự quán khóc nấc đầy oan ức trước thi thể con mình… Tôi chợt hiểu ra lẽ được -mất trong cuộc đời, cái giá của sự vô lương tâm, của một xã hội thiếu vắng lòng nhân ái, tính nhân văn. Bắt và trừng phạt kịch khung gã giết người máu lạnh đó có làm cho xã hội tốt hơn lên, có trả lại được sinh mạng của cô gái trẻ, đền bù sự mất mát không thể cứu vãn của cha mẹ nạn nhân?

Từ đó trở đi, tôi không bao giờ hành xử bằng bạo lực nữa, dù có những lúc phải kềm chế tới mức đắng ngắt cả lòng!

Thật may, là tôi đã được học “Những tấm lòng cao thượng” hồi tiểu học và được lớn lên trong một gia đình trí thức.

Lúc chúng tôi được học những bài học về tính chiến đấu, sự căm thù… trong trường học, thì chắc gã thủ ác trong vụ đổ xăng đốt chết 11 người trong quán cà phê ở Hà Nội đang làm chấn động dư luận, rúng động xã hội hôm nay chỉ mới vừa qua lớp vỡ lòng, vì y kém tôi đến 7 tuổi!

Nhìn gã giết người ngồi kể lại nguyên nhân, quá trình thủ ác của mình một cách hết sức hồn nhiên, bình thản trong trụ sở công an phường… một lần nữa tôi lại sợ hãi và cay đắng khi nghĩ về tương lai. Xã hội nào đã tạo ra những con người như thế?!

19.12.2024

HUUPHUBTN

#8saigon


 

Việc thi cử của các triều vua Việt Nam-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Tieng Dan

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

19/12/2024

Khung cảnh trường thi ngày xưa

Nước ta có 20 thế kỷ chữ Hán từ thời Bắc thuộc. Có 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ bắt đầu từ thế kỷ 10 và khi bước sang thế kỷ 18-19 là thời kỳ toàn thịnh của chữ Nôm, lấn át chữ Hán với Hịch Tây Sơn, sau đó đến Truyện Kìều. Việc thi cử vì thế cũng dựa trên cái đà phát triển của chữ Nôm và chữ Hán.

Việc thi cử ở nước ta mới có từ gần ngàn năm nay. Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh Lê về trước, trong việc kén hiền tài tuyển chọn người chỉ là tuỳ tiện không câu nệ cũng không theo phép tắc gì cả. Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi để tuyển chọn người có tài ra giúp nước. Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử. (1)

Khoa cử chẳng những cung cấp nhân tài, người giúp vua trị nước mà còn là vốn quý cho văn học có cơ phát triển. Dẫn chứng cụ thể là vào những thế kỷ 10-12 chúng ta có được 50 tác giả làm thơ văn thì đa số là các nhà sư như Viên chiêu thiền sư (998-1090) Diệu nhân ni sư, Mãn giác thiền sư (1051-1096). Pháp Bảo, Không lộ thiền sư, Quảng nghiêm thiền sư vv… Nhưng khi mà thi cử đã phát triển với nhiều nhân tài, nhiều tiến sĩ thì chính các nho sĩ này sẽ là những nhà văn, nhà thơ. Vì vậy, ở thế kỷ 13-14 đã có trên 60 tác giả mà hầu hết là giới nho sĩ. Sang đến thế kỷ 15 thì đã có trên 80 tác giả mà đa số là các nho sĩ đã thi đỗ, vượt xa tất cả các thế kỷ từ trước tới nay. Đồng thời văn học vừa có tính cách đa dạng, với đủ mọi loại đề tài, đủ các thể loại khác nhau. Xem như thế thì, có sự phát triển đồng bộ giữa văn học và thi cử. (2)

Trong bài này chúng tôi tìm hiểu việc thi cử dựa trên những số liệu mà chúng tôi có được theo khảo hướng thống kê để từ đó rút ra được những ý nghĩa, những giải thích xét ra phần nào giúp chúng ta có được một số ý tưởng nòng cốt của việc thi cử ở Việt Nam.

Nói chung thì con đường cử nghiệp không phải là con đường bằng phẳng. Nhiều sĩ tử vướng mắc vào vòng thi cử đã lao đao lận đận cả đời. Ông nội Ngô Tất Tố chỉ đỗ tú tài sau khi đã lận đận 7 lần khoa thi hương. Đến ông thân sinh ra ông Tố thì đã trải qua 6 lần lều chõng. Đến lượt ông Tố thì 2 lần thi hương không đậu. Đến kỳ thi sát hạch ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu nên người ta mới gọi ông là Đầu xứ Tố. Lúc đó ông mới 22 tuổi. Việc thi cử thật trần ai, vạn người thi, không lấy được trăm người đỗ nên đã để lại nỗi chán chường, tủi nhục và nước mắt thể hiện qua thi ca.

Không phải là thưà khi nhắc lại trường hợp Trần Kế Xương than thở trong bài phú Hỏng thi của ông:

Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng.
Tủi bút, tủi nghiên, hổ lều, hổ chõng.

Hoặc của một sĩ tử vô danh thị:

Than ôi, ai biết chăng ai, hỏng ôi là hỏng

Việc khoa cử khen ai khéo đặt, lừa anh hùng đến đầu bạc chưa thôi, áng công danh là số phận không lường, trêu sĩ tử dẫu gan vàng cũng núng.

Và mỗi lần thi rớt, còn mặt mũi nào nhìn vợ, nhìn con, bị người đời coi là hạng vô danh hạ sĩ.

Cũng vì vậy mà trong suốt gần ngàn năm, khi có thi cử, kể từ đời Lý nhân Tông (1072-1076), chúng ta chỉ lược kê ra được một vài nhân tài, mà tài năng xuất chúng không đợi tuổi.

Năm 1247, đỗ trạng nguyên có Nguyễn Hiền, người thuộc huyện Thượng Hiền, thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Hànam Ninh ngày nay. Ông Hiền lúc đó mới có 13 tuổi. Điều này cũng chứng tỏ triều đình đã tuyển chọn người tài mà không cần xét đến tuổi tác, già trẻ. Đó là một ưu diểm.

Ông Nguyễn Trãi đã đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), khoa Canh Thìn, lúc 20 tuổi và sau đó được bổ làm quan giữ chức ngự sử. Hoặc trường hợp Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Ngô thì Sĩ vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), ông này kể từ khi thi tam trưòng đến thi hội rồi thi Đình cũng đều đỗ đầu. Và đó cũng là trường hợp cụ Nguyễn Khuyến, mà ta thường gọi cụ là Tam nguyên Yên Đổ. Hoặc trường hợp đặc biệt có cha, em và hai con cùng thi đậu trong đó cha là Ngô Thúc Định, đậu lúc 19 tuổi và con là Ngô Quán. Em là Ngô Trọng Nhạ đậu lúc 16 tuổi. Ngô Trọng Nhạ, Ngô Thúc Định, Ngô Mạnh Nghinh đậu cùng một khoa Duy Tân 1915. (3)

Nhìn chung về kết quả các cuộc thi

Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt vừa nêu trên, việc thi cử thật ra là cực kỳ khó khăn mà dựa trên những con số chúng tôi nêu ra đây làm chúng ta bất nhẫn, nghĩ tới số phận của không biết bao nhiêu sĩ tữ đã để ra cả đời học hành mà số phận long đong với cử nghiệp.

Theo Quốc triều hương khoa lục của Cụ Cao Xuân Dục thì trưòng Thi Hương ở Huế trong suốt 105 năm có 42 khoa thi hương, có được 1263 cử nhân. Sở dĩ dưới triều Nguyễn, số khoa thi Hội và Đình ít hơn, vì Gia Long đã không cho tổ chức kỳ thi này, Khoa thi hương đầu tiên tại Huế là năm 1813. Cho mãi đến năm 1822 (Nhâm Ngọ) dưới thời Minh Mạng mới có khoa thi hội. Về điểm này,chúng tôi thắc mắc tại sao Gia long lại không tổ chức thi hội. Ngay năm 1803, vừa lên ngôi một năm, Gia Long đã lập nhà Quốc học ở Huế, thiết lập các chức đốc học ở tỉnh, giáo thọ, huấn đạo ở các phủ huyện.                                   4) Rõ ràng là muốn mở mang, phát triển việc học để đào tạo nhân tài. Vậy tại sao không mở các kỳ thi hội. Có thể suy đóan, ông ngại hay nghi ngờ những tài năng xuất chúng. Một điều rõ ràng, dưới triều Nguyễn đã bãi bỏ chức trạng nguyên.

Căn cứ vào sách Lịch triều hiến chương loại chí thì dưới đời Lý, Lê, nhất là đời Hồng Đức, số người đỗ tiến sĩ rất cao, có những năm như Hồng đức thứ 9 (1478), lấy đỗ tiến sĩ 62 người, Hồng đức thứ 15, lấy đỗ 60 người, Hồng Đức thứ 21 (1490) 54 người.

Nhận xét về điểm này Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng NHÂN TÀI. Chế độ của nhà nước muốn được kỹ càng, tất phải đợi ở Hậu Thánh (Các vua nối nghiệp về sau). (5)

Trước kia 6 năm một khoa thi, nay theo chế độ nhà Chu, định lệ 3 năm một khoa. Trước kia lấy đỗ chẳng qua vài ba chục người, nay lấy rộng người thực tài, không lo bội số. Với một tinh thần như thế, chúng ta sẽ cắt nghĩa làm sao những con số những người đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Chẳng nhẽ sau cả gần 300 năm mà tinh thần thi cử dưới triều Nguyễn lại tỏ ra lạc hậu hơn các vua đời nhà Lê ? Vì vậy thi cử thịnh hành nhất là thời Hồng Đức.

Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người Công Bằng đời sau càng không thể theo kịp.

Chọn người cốt lấy rộng học thực tài, Không hạn định ở khuôn khổ mực thước. Trong nước, không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém (LTHCLC).

Cho nên, để tưởng thưởng xứng đáng những người tài giỏi, kể từ năm 1442, bắt đầu dựng bia tiến sĩ. Và ra luật lệ cấm 2 loại người sau đây không được phép ứng thi:

-Người bất hiếu, bất mục, lọan luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi.

-Những người làm nghề hát xướng, nghịch đảng, và có tiếng xấu thì bản thân và con cháu không được thi.

Nghĩa là một người ra làm quan thì phải vừa có tài, vừa có đức. Nhưng đức là điều kiện tiên quyết cho việc ra làm quan.

Trong việc thi cử mà nếu gian lận thì suốt đời không được đi thi. Đến thi hội mà gian lận thì phải xử tội đồ, và suốt đời không được đi thi và không được bổ dụng. Nhà vua phán: Phép cấm không nghiêm thì không trừ được thói gian dối, chọn lọc không tinh thì không lấy đựợc người thực tài.

Trường hợp ông Đào Duy Từ (1572-1634), vì là con một nhà hát bội nên đi thi hương đã bị đánh hỏng, ông phẫn chí bèn rời bỏ quê hương ở đằng ngoài, thuộc chúa Trịnh đi vào đằng Trong thuộc chúa Nguyễn để tìm đường tiến thân. (6)

Tính cách Chính trị của Khoa Cử.

Cũng dựa vào các con số, chúng tôi thấy các khoa thi không tiến hành đúng theo quy định 3 năm một lần như trong thời Minh Mạng đã quy định. Thi Hương thường được tổ chức vào mùa thu trong năm, rơi vào các năm tý, ngọ, mão, dậu. Thi hội vào mùa xuân trong các năm sửu, mùi, thìn, tuất… Nhưng lại có khá nhiều ân khoa. Như tại Huế, trong suốt 105 năm, có tổ chức 42 khoa thi, thì có đến 9 ân khoa rồi. Có nhiều lý do để cắt nghiã về các ân khoa này, có thể để ăn mừng lễ vạn thọ khánh tiết, hoặc để ăn mừng lễ đăng quang vua mới, hoặc nhằm kêu gọi sự hợp tác của nhà nho ở vào những thời điểm mà uy tín cửa triều đình đang xuống dốc, chẳng hạn sau cuộc rút quân dưới thời Thiệu Trị ra khỏi Cao Mên. Ý nghĩa của các ân khoa như vậy rõ ràng đi xa khỏi mục tiêu tuyển chọn nhân tài để cho thấy rõ khiá cạnh chính trị chen vào. Chẳng khác gì, nhân ngày lễ thả tù nhân thì đâu còn màng tới vấn đề công lý, vấn đề xã hội nữa. Chẳng hạn, năm 1848 (Tự Đức thứ 1), nhân dịp vừa lên ngôi ra lệnh tổ chức kỳ thi hương đặc biệt ân khoa. Trong dịp này có trường hợp hy hữu trong thi cử, xin kể ra đây. Số là có 2 anh em bài vở có nhiều điểm giống nhau về ý tưởng cũng như văn phong. Chủ khảo Hoàng tế Mỹ dán giấy mỏng che đậy tên 2 người trình vua Tự đức. Vua truyền cho tổ chức thi 2 người, ngồi riêng 2 phòng, trong 3 ngày, chính tay Tự Đức duyệt bài và ngự phê: Văn chương là lẽ công bằng, 2 anh em văn chương đều kiệt tác. Quý đặng chân tài. Anh em đồng khoa là việc tốt 2 anh em đó là Hoàng kim Giám và Hoàng kim Tịch, tức Hoàng Diệu sau này.

Tính cách chính trị còn thấy rõ rệt trong các kỳ thi Hội, nhất là thi Đình. Chúng tôi vẫn tự đặt nghi vấn là đã có kỳ thi hội rồi, rại sao còn tổ chức kỳ thi Đình làm gì. Phải chăng chỉ nhằm mục đích xếp hạng cao thấp. Không hẳn như vậy. Ít có nước nào mà kỳ thi lại do chính tay vua xếp đặt, ra đề thi, nhất là phần văn sách… Chẳng hạn, năm 1493, Chính vua xem quyển, định thứ bực cao thấp. Rồi vua ngự chính điện, truyền loa xưóng danh tiến sĩ, sau đó ban mũ đai và áo cho các tiến sĩ, cuối cùng thì ban yến… Rồi năm 1496 chính vua ra đề thi hỏi về văn sách, hỏi về đạo trị nước. Sau đó, dẫn các cử nhân vào sân điện Kim Loan, Vua xem dung mạo định lấy đỗ 30. Qua đọan trên cho thấy việc thi cử, nhất là trong các kỳ tiến sĩ có tác năng chính trị, nhằm bảo đảm sự trung thành, phục vụ cho vua. Vì thế mà chính vua can thiệp vào trong tiến trình thi cử, để loại trừ những thành phần mà xét ra không thích hợp. Việc xem dung mạo quyết định lấy 30 người đỗ không thể nói gì khác hơn tại sao lại tổ chức thi Đình. (7)

Tính cách chính trị còn có thể thấy rõ trong việc các làng công giáo không có người thi đậu đưọc trình bày ở phần sau. Trong những bài thi văn sách, nhà vua tự ra đề tài về chính sách cấm đạo để từ đó yêu cầu sĩ tử bàn luận và hưởng ứng chính sách của triều đình. Một đề tài thi cử như vậy đã hẳn có tác dụng lớn trên những chọn lựa của mỗi sĩ tử về vấn đề tôn giáo, đồng thời cũng tuyên truyền và ủng hộ đường lối của Triều đình trong phạm vi này.

Như trên đã trình bày, đường lối tuyển chọn nhân tài thật kỹ càng như vậy, nhưng vẫn không tránh được có trường hợp một số cống sĩ có thể bất phục và chống lại triều đình. Nhất là ở giai đọan khi mà sự có mặt của người Pháp là một thực thể khó có thể chối cãi được, đưa tới những thái độ nghi ngờ về sự bất lực của triều đình trong việc chống đối lại người Pháp. Đó là trường hợp Cụ Phan Chu Trinh, khi vua Khải Định sang Pháp để dự đấu xảo ở Marseille. Ông đã hài ra bảy tội của Khải Định là tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự quỳ lạy, xa xỉ quá độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi Tây có sự ám muội. Thư thất điều đã được báo chí ở Pháp phổ biến, gây một tiếng vang bất lợi cho triều đình bấy giờ. Qua lá thư của Phan chu Trinh, người ta cũng thấy được, giới sĩ phu ít còn tin tưởng vào chế độ quân chủ mà họ cho là nguyên nhân tình trạng đưa đến mất độc lập, mất chủ quyền và trở thành nô lệ cho thực dân Pháp. Sự oán hận nhà vua chứng tỏ vai trò của một ông vua bù nhìn đưa đến sự chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến như là giải pháp cần thiết đi trước cả giải pháp dành lại độc lập.

Về Tỉ Lệ Con Số người thi đậu

Sau đây, chúng tôi đưa ra con số những người đỗ đạt tỉ lệ với số người ứng thi đã là then chốt của vấn đề thi cử ở nước ta. Xin dẫn chứng năm 1463, có 4400 người ứng thi, lấy đỗ hơn 40 người, tỉ lệ 1%. Năm 1502, tháng 2, có 5000 người thi cử nhân, lấy đỗ 61 người, tỉ lệ hơn 1%. Năm 1514, có 5700 người, lấy đỗ 43 người. Tỉ lệ chưa được 1%. Cũng nên nhớ rằng cái tỉ lệ này đã không tính tất cả những người đã dự thi ở quận huyện. — quận huyện, người ta đã sàng lọc tất cả những người kém cỏi không đủ tư cách để dự kỳ thi Hương rồi. Nếu tính tất cả những người dự thi ở quận huyện thì tỉ lệ sẽ là 1 phần vạn.

Có 3594 người thi đỗ trong 32 khóa thi từ 1807 đến năm 1858 chỉ là một phần tinh hoa quá nhỏ, quá ít, vô cùng vô nghiã trong một đất nước có từ 600.000 đến 1 triệu người đăng ký thi, tuổi từ 18 đến 60. Chia đều thì có khoảng 116 người thi đỗ trong mỗi khoá, và tính bình quân mỗi năm thì có khoảng 44 người. (Khoa mục chí)

Có người 16 tuổi đã đỗ như ông Ngô Trọng Nhạ. Có người như cụ Đòan tử Quang mãi tới 82 tuổi mới thi đỗ hội nguyên. Trong thư mục của cụ Hoàng Xuân Hãn do Tạ trọng Hiệp soạn (8) có đưa ra trường hợp cụ Đoàn Tử Quang đã để cả đời để học và thi và cho mãi đến năm 1900 cụ mới đậu cùng với Phan Bội Châu. Giả dụ cứ 3 năm thi một lần, không kể đến các ân khoa, thì trước sau cụ có thể đã dự 21 kỳ thi hương. Trong 21 khoa thi đó, không có gì làm bằng cớ cụ dốt nên đã rớt, nhất là sau này cụ đã đậu thi hội. (Bị giáng xuống cử nhân chót vì phạm trường quy). Cụ rớt, cụ đỗ, chỉ vì tỉ lệ xác suất, độ may rủi, về lề lối tổ chức chấm bài. Bài thi do các ông sơ khảo chấm. Rồi phúc khảo, cuối cùng đến giám khảo duyệt lại. Có biết bao nhiêu hệ số chủ quan của các ông giám khảo này. Có một kẽ hở rất lớn trong tổ chức thi cử thời xưa là mặc dù luật lệ rất nghiêm nhặt từ trường thi, quyển thi đến chấm thi, nhưng lại không có luật lệ rõ ràng về cách cho điểm.

Trong khoa thi này cụ Phan bội Châu đỗ Giải nguyên và cụ Đoàn tử Quang đỗ Á nguyên, nhưng vì phạm trường quy, theo lệ phải dánh hỏng. May nhờ chủ khảo là Khiếu Năng Tĩnh có lòng nhân từ thấy ông tuổi tác cao mà bị trượt nên họp bàn với các quan trường, đệ quyển thi về kinh, và dâng sớ xin cho ông đỗ cử nhân. Vua Thành Thái ban chỉ đặc cách cho Đoàn Tử Quang đỗ cử nhân thứ 21.

Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và phó chủ khảo Mai Khắc Đôn viết bài: Nhai sự Ký kể lại việc này như sau: Khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12, trường thi Hương Nghệ An, sĩ nhân Đoàn tử Quang 82 tuổi, quê làng Phụng Công, phủ Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đã đỗ 2 khóa tú tài, nay đỗ cử nhân thứ 21… Từ khi quốc triều mở khoa thi đến nay, chưa từng thấy có chuyện lạ như thế.

Hôm xướng danh, người đi xem đông hơn đám hội. Xướng đến tên Đoàn tử Quang đỗ cử nhân thứ 21, một ông già dạ lên, chen đám đông bước vào, râu tóc trắng xóa, phong thái như người tiên. Các quan Tây, quan tỉnh đến cầm tay ông khen ngợi… Thật cảm động. Vào dự yến, không quên lấy phần về cho mẹ già 98 tuổi. (9)

Chúng tôi nhận thấy không biết bao nhiêu là điều luật về tổ chức, về trưòng thi, về các giám thị, về các giám khảo, nhưng lại không có những hướng dẫn minh bạch về cách chấm thi. người ta tin tưởng hòan tòan vào khả năng của người chấm. Cùng lắm thì chỉ có những bài mẫu văn thơ phú để làm tiêu chuẩn. (10) Cho nên, tổ chức thi cử như vậy là kéo lê một cái máy chém từ thế hệ này đến thế hệ khác mà nội dung thi cử hầu như không có gì thay đổi. Đấy là tôi chưa nói tới nội dung các bài thơ phú mẫu căn cứ vào đó để các giám khảo chấm bài mà nội dung cho ta có cảm tưởng nó rỗng tuếch, nó kêu. Đọc một đọan phú, cả trang giấy chỉ thấy những chữ lổm ngổm, kêu rổn rảng, có vẻ khó hiểu, kỳ bí mà thật sự nghèo nàn và nông cạn về nội dung,. Hình như triều đình nếu có thay đổi gì thì chỉ bận tâm tới những thay đổi về tổ chức mà không bao giờ có ý tưởng cho thấy muốn thay đổi về nội dung thi cử, cho thích hợp, cho đáp ứng kịp thời. Nội dung thi cử, người chấm, người thi khi mà cả 3 cái đó trùng hợp vào nhau thì có thể đỗ, khác đi thì rớt. Vì thế, xét thực tế, có đỗ, có rớt, nếu có điểm lợi gì, thì đó là cái lợi cho cá nhân ứng thi, còn nói về đại cuộc, có ích gì cho đời thì thật chẳng là bao.

Chúng tôi cũng nhận thấy không hiếm trường hợp anh em, bố con cùng đậu một khoa. Điều đó chỉ cho thấy có sự hên xui, may rủi, không cắt nghĩa được nên mới có câu Học tài Thi phận.

Trong bia đề tên các tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái thứ 10, chúng tôi liệt kê ra được số tuổi khá chênh lệch của họ: Có 2 người 26 tuổi, 1 người 27, 1 người 35, 1 người 39, 1 người 40, và người già nhất 47 tuổi. (Khoa mục Chí).. Không thể nói càn là vì ông 47 tuổi mới đỗ là vì dốt được. Đã gọi là dốt thì không thể đỗ được, nhất là đỗ tiến sĩ. Vậy làm sao cắt nghiã được sự chênh lệch về tuổi của họ. Chỉ có một cách giải thích tóan học là vì có quá nhiều người đi thi, và số đỗ lấy quá ít, nên đỗ hay không chỉ là vì vấn đề xác suất, may rủi như chơi vé xố thôi. Đó là vấn đề rút thăm, giữa nhiều người giỏi để chọn lấy một vài người.

Dưới triều Tự Dức trong Đại Nam thực lục có 17713 thí sinh được chấp nhận năm 1870, chỉ có 8 người đỗ tiến sĩ. Như vậy, cứ 1000 người đăng ký dự thi, có 20 được chấp nhận và không tới một người đỗ. Tỉ lệ gần 1 phần ngàn. Con số tỉ lệ 1 phần ngàn, nếu cứ tích lũy số người thi rớt mỗi năm, sẽ đạt tới con số triệu dễ dàng. Dĩ nhiên, triệu người thi rớt này cũng sẽ là thành phần những ứng sinh của khoá tới, có khi kéo dài hằng 9-10 khoa. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng rớt hay đỗ không còn là vấn đề giỏi kém, mà là một thứ sổ số mà thôi. Hằng triệu người đi thi, lấy đỗ chưa tới số trăm cử nhân thì dưới dạng thống kê là một con số vô nghiã.

Thi Cử ở Vùng Đất Mới

Đi vào từng địa phương, từng miền, những con số trình bày sau đây cũng cho chúng ta một sự ngạc nhiên không ít. Chẳng hạn, tại Nam kỳ với các di dân do người Việt từ phía Bắc tới hoặc người Trung Hoa tị nạn, vì vậy dân số gia tăng nhiều, tỉ lệ dân số gia tăng là 20%, trong khi đó tỉ lệ đỗ đạt lại giảm đi gần 2% so với tỉ lệ của cả nước. (11) Những di thần người Trung Hoa bài Mãn phục Minh đã đến xứ Đồng Nai, Gia Định và Hà tiên đáng xem xét kỹ hơn. Trần thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh lính và quyến thuộc hơn 3 ngàn người và 50 chiến thuyền đến Cù lao Phố (Biên Hòa) và Mỹ tho để khai thác. Gia Định thành thông chí ghi rằng nhóm Trần thắng Tài yểm trợ việc lập chợ, buôn bán giao thông với người Tàu, người Nhật, tụ tập đông đảo ở Cù lao Phố. (12)

Điều này có thể cắt nghiã được là lý do đời sống ở miền Nam tương đối dễ dàng, lại xa mặt trời, xa các thủ đô văn hóa như Thăng Long và sau này là Huế. Dại gì đi học vẫn có đủ ăn ngày hai bữa, so với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng người thưa. Người dân thảnh thơi vừa làm vừa chơi cũng đủ ăn…

Thiên nhiên ưu đãi, thực phẩm có thừa, công việc nhàn rỗi, áo quần nhà cửa, chữ nghiã còn thiếu, nhưng so sánh với một số địa phương khác thì đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi lạc thổ. Nhiều đìa cá, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng, nhưng chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá. Đìa ấy để cho người vùng trên đến mót lượm, cá chia 2 với chủ, Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn, dưới rạch đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng. Những người khẩn hoang thường là những người CHỮ NGHĨA KHÔNG ĐẦY LÁ ME, không rành cách ngôn thánh hiền. (13) — trong Nam, người ta nói tới ông Điền chủ, ông Bá Hộ nhiều hơn là quan phủ quan huyện. hai câu thơ sau đây cho thấy sự giầu có của Điền chủ:

Đất năm dây cò bay thẳng cánh (1 Dây khoảng 10 mẫu ta)

Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu.

Một điền chủ chết để lại một gia tài khoảng 75 mẫu ruộng, nhà cửa vàng bạc châu báu và một số tiền là 15000 quan tiền (Vào thời Minh mạng, một mẫu ruộng trị giá khoảng 180 quan tiền. (14) Điều đó cho thấy điền chủ trong Nam giầu tới mức nào.

Điều này chứng tỏ rằng việc thi cử ngoài lý do xã hội, danh tiếng, truyền thống,, còn có vấn đề hoàn cảnh kinh tế nữa… Trong số 6 tỉnh, Gia Định có số người thi đỗ cao nhất. Vì đây là một tỉnh có nếp sống văn hóa cao hơn các tỉnh khác, nếp sống đô thị rõ nét hơn với nhiều cơ cấu truyền thông, báo chí, tin tức được phổ cập, dễ có xu hướng trọng văn hóa bằng cấp địa vị xã hội.

Vì vậy mà trong biên niên sử đời Gia Long đã tỏ ra bận tâm về sự suy thoái về kết quả thi cử ở miền Nam và cũng nhận thức rằng có nhiều con đường khác đi đến thành công về mặt tài chánh mà không cần phải qua con đường thi cử.

Tỉ Lệ Thi Đậu ở Miền Trung.

— các tỉnh miền Trung, có sự gia tăng khá mạnh, trội vượt hẳn các tỉnh phía Nam về số thí sinh thi đậu. Tất cả là 1115. Điều đó cũng dễ hiểu, vì nay vùng đất miền Trung nằm trực tiếp trong vùng ảnh hưởng của triều đình Huế.

Nhưng đặc biệt rất khó giải thích tại sao con cái dòng họ, các dòng Tôn Thất xa gần với vua lại có rất ít người thi đậu làm quan. Sĩ số thành phần này thi đậu có thể đếm trên đầu ngón tay, nhất là các năm đầu của các vua triều Nguyễn. Kể từ Thành Thái trở đi, người thi đậu có vào khoảng hơn chục người mà thành phần đều là những người kể từ đời thứ ba trở đi đến đời thứ 7. Điều đó đưa ta đến kết luận càng xa nguồn cuội, thì nhu cầu học hỏi càng tỏ ra cần thiết.

Mặt khác, cũng có thể tìm ra câu trả lời cho vấn nạn tại sao, dòng tộc vua chúa lại không mấy người thi đỗ. Một lối trả lời không mấy thỏa đáng, vì thực sự hiện nay, chúng ta không đủ chứng từ để minh chứng rõ ràng. Nhưng, chúng ta biết rằng truyền thống thi cử nước ta có cho phép các quan tiến cử những hiền tài xét ra có công trạng, hoặc nổi tiếng về văn chưong để vua xét bổ nhiệm vào các chức vụ giảng dạy, hay chờ đợi để dự các kỳ thi tiến sĩ, mà không cần có cử nhân.

Từ đó, ân duệ đó được áp dụng cho các con trai các công thần có uy tín trong triều đình, và cũng có thể áp dụng điều đó cho các gia đình trong hoàng tộc.

Và theo Langlet: Từ năm 1822 đến năm 1860, ông phát hiện ra 20 người thi đỗ cấp cao mà chưa bao giờ có thi đỗ ở các địa phương. (15)

Vì vậy, Thành phần thi đậu đều là người dân giả thôi. Người dân giả thì đa số lại không mấy khấm khá, vì thiên nhiên thời tiết có khắc nghiệt. Con đường tiến thân hợp lý hơn cả vẫn là cử nghiệp. Điều này còn đúng và kéo dài mãi cho đến thời Đệ nhị Cộng hòa mà không ở bất cứ tỉnh nào có mức độ ham học, ham mảnh bằng cho bằng xứ Huế.

— Mỗi mùa thi, học trò mang sách ngồi dưới cột đèn để học cho thấy họ nhìn tương lai họ ở chỗ nào. Cái hãnh tiến về xứ sở, cũng như hãnh tiến về truyền thống văn hóa cũng làm cho việc thi cử trở thành niềm trăn trở thao thức, niềm khát vọng cho mọi người. Mùa thi cử là mùa của hy vọng, của khát vọng vươn lên, vừa nuối tiếc, vừa muốn thoát ly ra khỏi khung trời dù là tình nồng, ấm áp, nhưng lại quá chật hẹp, không dung chứa nỗi những hoài bão của mình.

Cũng vì vậy, không biết bao nhiêu nhân tài, bao nhiêu chất xám mà cả nước không nơi nào có thể so đo với miền Trung đã lần lượt đội nón ra đi. Họ đi rồi vẫn ngoảnh mặt lại nuối tiếc về Huế, về cái gíó Lào, về những ruộng rau sống khô cằn đắng ngắt vì thiếu nước, giống như người dân ở đó. Huế đúng là để đi và rồi để nhớ. Ngay những người từ phương xa tới khi nghĩ tới, lúc rời khỏi Huế khó có thể quên được. Trong khi đi về các tỉnh phía Nam ăn uống, vui nhậu nhẹt, thoải mái cười đùa, ngày mai ra bến xe đò là quên hết.

Nhưng cũng cần phân biệt ở miền Trung giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Các tỉnh phía Bắc ti lệ thi đỗ cao nhất trong vùng. — các tỉnh Bình Thuận đến Quản Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người… (16) Quảng Ngãi và Bình định số người thi đỗ từ đời Gia Long đến Tự Dức tăng từ 4 lên đến 85 người. Nhất là trong tỉnh Quảng Nam, dân giàu vì có mỏ vàng, tỉ lệ cao so với các tinh khác… — các tinh Bình Thuận đến Quảng Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người. từ 7 lên 62, rồi 87. Đã hẳn, triều đình Huế có đủ các lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa để lo ngại về dấu vết ảnh hưởng của văn minh Chàm, cũng như những ám ảnh về một quá khứ của Tây sơn đã hẳn còn in đặm trong lòng một số người, mà thời gian chưa đủ để xóa nhòa. Vả lại nếu đặt để bên cạnh nhau về một hình ảnh Tây sơn mới đây và hình ảnh Gia Long hiện nay, cái tâm lý thông thường cho thấy người dân sẽ ngả về phía nào.. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì cái công xây dựng thủ đô, cái hệ thống triều đình, quan lại mỗi ngày một vững bền, với thời gian, lòng người cũng sẽ lóng lại, thì từ nay, mảnh đất này cũng sẽ trở thành một thủ đô văn hóa như đất Thăng Long vậy.

Nhưng chúng tôi cũng xin đưa ra ở đây một nhận xét là, không hiểu vì lý do gì, tất cả 3 trung tâm lớn là Hànội, Huế, Saìgòn lại có tỷ lệ thi đỗ thấp hơn những vùng biên trấn. Chẳng hạn như trong Nam thì tỉnh Gia Định và Biên hoà có tỉ lệ những người đỗ đạt cao nhất vùng.. Riêng tỉnh Gia Định, tổng số người đỗ đạt nhiều hơn 5 tỉnh kia cộng lại. — Huế, chúng ta nhận thấy số người đỗ đạt giảm sút kể từ sau giai đọan 1819, nhất là vào khoảng giữa thời Minh Mạng và cứ như thế, ổn định ở mức thấp cho đến 1852.

Tỉ Lệ Thi Đỗ Tại Bắc Kỳ.

— ngoài Bắc, thì số người đỗ đạt tập trung nhiều nhất ở 14 biên trấn quanh Hànội mà cái trục chính là Sơn Tây, Hải Dương và đặc biệt là Nam Định. — tỉnh Nam định thì đặc biệt là vùng Hành Thiện đã phá kỷ lục về số người đỗ với 73 người từ năm Gia Long 1813 cho đến lúc chấm dứt thi cử 1918. Nghiã là tròn 100 năm.

Xã Hành Thiện, tỉnh Nam Định.

Trong bài này, chúng tôi thấy phải dành riêng một phần để nói về xã Hành Thiện. Xã Hành Thiện thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Xã có 18 (Giông). Giông là tiếng địa phương để chỉ những con đường, hai bên có nhà cửa. Đó cũng là lối tổ chức nhà cửa xây cất có thứ tự của làng Hành Thiện. Trong QTHKL tôi thấy mãi đến năm Gia Long 1813 (Gia Long lên ngôi 1802), mới có Nguyễn trọng Trù là người đầu tiên thi đậu. Sau đến năm 1821 có 2 người em của Nguyễn Trọng Trù đậu cùng khoa. Và cũng kể từ đó liên tiếp các khoa thi đều có người của làng Hành Thiện thi đậu.

Trong số những người thi đậu này, có nhiều trường hợp đáng nêu ra ở đây. Thứ nhất là dòng họ Đặng có 39 người thi đậu. Có người đỗ Phó Bảng như Đặng Đức Địch sau làm đến Thượng thư Bộ Lễ. Có người đỗ Tiến sĩ như Đặng xuân Bảng (Tự Đức 1850. hay Đặng hữu Dương (Thành Thái 1891). Có trưòng hợp cả dòng họ, ông, cha con cháu, anh em đều thi đậu. Tỉ dụ Gia đình Đặng hữu Dương (Ông cháu, anh em cùng thi đậu,) Gia đình Đặng văn Độ, cả 3 anh em đều thi đỗ., Gia đình Đặng vũ Mẫn cũng 3 anh em cùng thi đậu. Đặc biệt gia đình Đặng vũ Phong Cha con cùng thi đậu, anh em đậu cùng khoa. Con là Đặng văn Tường, anh Đặng vũ Oánh, cháu Đặng vũ Uyển, em họ Đặng vũ Thực, Đặng cao Chi, Đặng vũ Hoan. Thật là vinh hạnh hết chỗ nói.Thật khó mà hiểu tại sao có một dòng họ đỗ đạt nhiều như vậy. (17)

Huyện Xuân Thủy (sau đổi là Giao Thuỷ) gồm nhiều xã, xã nào giỏi lắm thì có độ 3, 4 người thi đỗ như Trà Lũ, Kiên lao. Hoặc chỉ có một người thi đỗ trong suốt 100 năm như các xã Hội Kê, Hộ Xã, Lạc Nam vv… Tôi cũng nhận thấy một số làng, khá nổi tiếng về mặt này, mặt kia như làng Ngọc Cục, đối diện với Hành Thiện hay làng Trung Lao, Sở Kiện, Hoàng Nguyên hay làng Cự Đà, vậy mà trong suốt hơn 100 năm triều Nguyễn, không có một người nào trong các làng này có người thi đỗ.. (Xứ Trung Lao sau này có cụ Thượng Nhạ, nhưng tìm lại danh sách các người thi đậu thì không có tên cụ. Tôi giả đóan là cụ thuộc lớp nho học, bắt đầu có học Tây học, rồi được người Pháp nâng đỡ cho chức Thượng mà không phải thi cử gì cả, cũng giống như trường hợp các cụ Thượng Oánh, Thượng Bùi. Cái câu trong nhân gian nói về cụ là; Lý trưỏng bất túc, Tổng đốc hữu dư có thể giải thích được phần nào cái chức Thượng của cụ.

Do sự tò mò mà chúng tôi khám phá ra một đìều hết sức lý thú và quan trọng là suốt hơn trăm năm thi cử dưới triều Nguyễn, Hơn 50 chục làng công giáo mà chúng tôi biết được thì hầu như trong tất cả các làng đó đều không có người nào thi đỗ làm quan. Thoạt đầu, chúng tôi xem xét các làng chung quanh làng Hành Thiện để xem có người thi đỗ không, từ đó suy diễn ra cái tầm ảnh hưởng của Hành Thiện trên các làng lân cận. Về địa lý, làng Ngọc Cục chỉ cách một con sông với Hành Thiện, vậy mà không có lấy một người thi đậu suốt dọc dài hơn 100 năm. Một điều thật khó hiểu. Từ đó suy ra các làng công giáo khác. Kết quả thật ngạc nhiên: Hầu như không có làng công giáo nào cả. Những làng công giáo nổi tiếng như Phát Diệm, Sở Kiện, Trung Lao, Phúc Nhạc, Thạch Bích, Trung đồng,An Lộc, Bói kênh, Bình Cách, Lưu Phương Mưỡu Giáp vv Và rất nhiều xứ khác không cần kể ra đều không có ai thi đỗ và ra làm quan.

Từ những dữ kiện thu lượm đụợc ở trên, tôi suy diễn ra là có một chính sách ngăn cấm, hay tối thiểu thì cũng có giới hạn không cho phép người công giáo có cơ hội để đi thi. Cơ hội học thì có, nhưng không có cơ hội để thi.. mà không thi thì việc học sẽ rất hạn chế.

Cho mãi đến Thành Thái 1894 mới thấy có ông Vũ Luyện, người làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là một làng thuần công giáo có người thi đậu. Và đến năm1900, lại có người ở làng Quần Phương thi đậu. Nhưng năm 1900 là những năm cuối trào về thi cử và niên hiệu Thành Thái cũng cho thấy đó là giai đọan cởi mở hơn về chính sách cấm đạo.

Có những liên hệ gì cho phép chúng ta đi đến một kết luận là chính sách cấm đạo đã là nguyên do, trong dó gần 100 năm, người công giáo và các làng công giáo trở thành một loại công dân hạng nhì, vì không có cơ hội tiến thân về con đường học vấn, đóng góp nhân tài cho xứ sở. Nhưng cho đến nay, tôi không tìm thấy bất cứ văn bản chính thức nào giúp chúng ta có thể khẳng định dứt khoát là có một chính sách ngăn cản người công giáo thi cử. Trong sách vở về phía công giáo, tôi cũng chưa có cơ hội đọc hoặc nghe những cơ quan thẩm quyền xác định về điều này. Vậy thì, tất cả chỉ là những suy đoán mà thôi. Nhưng cái vấn đề các làng công giáo không có người thi đậu vẫn là một thực thể không chối cãi được và tự nó đòi hỏi có câu giải đáp.

Trở lại trường hợp làng Hành Thiện, làm sao cắt nghĩa được vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), Trường Hà Nam có 9700 dự thi, lấy 60 ngùời đỗ, làng Hành Thiện chiếm 6 chỗ, 54 chỗ còn lại dành cho khoảng hơn 400 xã khác. Làm sao giải thích được sự kiện có làng thi đỗ có làng không Một giải thích dễ dãi, thiếu cơ sở khoa học là nói đến đất, đến có mả, hoặc văn hoa hơn gọi là đất ngàn năm văn vật. Cần tìm một lối giải chứng có cơ sở và khả tín hơn.

Có những giai thoại nghe ra có vẻ khinh bạc, nhưng cũng chứng tỏ một phần sự thật về vùng này, Người Hà nội có thói quen khá kiêu sa là thay vị gọi tên một người, họ lại gọi chức vị xã hội của người đó. Chẳng hạn cụ Tham Bảng, ông Đốc Ninh, Ông Phủ Dõan vvv. Xem Hồi Ký của Vũ Ngọc Phan, cuốn Những năm tháng ấy. (18)

Và nếu có một người khách nào đó về làng Hành Thiện, theo thói quen, hỏi thăm nhà cụ tham, cụ phó vv. Người dân làng sẽ trả lời là ở đây cụ tham, cụ cử nhiều như lợn con, hỏi thế biết đường nào mà lần.

Giải thích về con số đỗ đạt ở vùng này vì dù sao đất Bắc từ xưa tới nay, vẫn là cái nôi, của văn hoá và trí tuệ của cả nước. Nó có truyền thống lâu đời về việc học. Số trường học, cũng như trung tâm thì cũng nhiều hơn các nơi khác Một trường cho 6000 người ứng thi. — các vùng như Sơn Tây Hải Dương, Bắc Ninh thì khoảng 3000 người ứng thi cho một trường. Cái nọ nó kéo cái kia; truyền thống, tổ chức trường ốc, truyền thống địa phương, gia đình, họ hàng, sự giao tiếp cách này cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, hoặc được nghe nói về đã là những cơ hội giúp những kẻ hậu sinh cố gắng vươn lên theo những mô hình lý tưởng khuôn mẫu là các bậc đàn anh.

Cách giải thích đúng lý nhất là TINH THÂN GIA TỘC, giáo dục gia đình bằng gương sáng cha anh đỗ đạt, mô hình lý tưởng là cha anh được mọi người kính trọng, được hưởng lợi lộc quan tước của trều đình. Lấy trường hợp họ Đặng sẽ giúp giải thích được yếu tố gia đình có tác dụng quan trọng thế nào cho việc thi đỗ của một người. Chúng tôi nhận thấy trong thời kỳ Gia Long đến năm 1825, tỉ lệ dòng họ Đặng thi đỗ so với các họ khác tại Hành Thiện 2 trên 6 sau đó 1850 là 8 trên 9, 1906 thì trội vượt là 36 trên 32 và cuối cùng là 39 trên 34, Riêng đời Thành Thái 1897, dòng họ Đặng có 6 người đỗ trong một khoa, kết quả đó cũng lặp lại một lần nữa vào năm 1903. Biểu đồ giúp ta hiểu chính xác truyền thống gia đình, cha truyền con nối, trong cùng gia đình, cùng dòng họ, có nhiều người thi đỗ. Sự trội vượt của họ Đặng cắt nghĩa bởi họ cùng huyết thống. Các họ Nguyễn, Trần, Phạm trong làng Hành Thiện chưa chắc đã cùng chung huyết thống nên đường dài sẽ thua sút họ Đặng. Điều đó xét ra cũng đúng một phần nào cho trường hợp người Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt là Montréal, mà một số đông con cái các gia đình đã thành công trong việc học.

Tỉ Lệ Thi Đỗ — Các Vùng Cao.

Cũng dựa trên những con số để nhìn về những vùng cao mà đa số là thanh phần các dân tộc thiểu số cho thấy tỉ lệ những người thi đỗ thật là ít ỏi. 6 tỉnh vùng này chỉ cống hiến được có 3 người thi đỗ, và đều thuộc những tỉnh huyện như Quảng Yên và Hưng Hóa rất gần với các tỉnh vùng đồng bằng. Điều đó cho thấy, thiếu một chính sách nâng đỡ cũng như tổ chức trường học giúp cho các tỉnh vùng cao có cơ hội nhập vào đời sống của miền dưới. Cho nên đồng bào các dân tộc thiểu số sau nhiều thế kỷ vẫn là những tỉnh bên lề như người nước ngoài ngay trên mảnh đất mà không biết tự bao đời họ vẫn tồn tại, mặc dầu có những đổi thay lớn nhỏ có tầm vóc lịch sử có liên quan đến sự sống còn của người dân ở các vùng dưới. Phần họ, họ vẫn là họ, Muôn đời.

Cũng qua những con số về những người thi đậu qua các triều vua, cũng như một cái nhìn lướt qua về các vùng có người thi đậu… Chúng tôi thấy rằng cái vấn đề lớn và quan trọng nhất không hẳn ở chỗ xem ai đậu, đậu ở đâu mà là nhìn ý nghĩa việc thi cử thời xưa qua những người không may mắn, khác đi là những người thi rớt.

Về những Người Không Đậu.

Trong tất cả những cuốn sách về thi cử mà chúng tôi đọc, không có một chỗ nào cho người không đậu (Tôi không dùng từ thi rớt) hay chỉ đậu tú tài. Đối với việc thi cử thời xưa, tú tài không có nghĩa là bằng cấp, và không được triều đình sử dụng. Người đỗ tú tài chỉ là những người không đỗ cử nhân, nghĩa là không đậu đủ 4 trưòng, mà chỉ đỗ có ba trường mà thôi.

Sách Quốc triều hương khoa lục của cụ Cao xuân Dục chỉ nói tới những người đỗ cử nhân thôi, LTHCLC của Phan huy Chú lại chỉ có danh sách các người đậu tiến sĩ từ khi bắt đầu các khoa thi.

Vậy mà cái thành phần chủ yếu của giai cấp nho sĩ lại là các nhà nho không đỗ đạt gì, hoặc chỉ là tú tài. Họ làm đủ thứ nghề như thầy lang, thày địa lý, cho đến cả bói toán cũng như gia sư cho các nhà giầu có. Nhưng cái thành phần đông đảo của họ vẫn là các ông đồ nho mà trong làng, huyện tỉnh nào cũng cần sự có mặt của họ.. Đã thế, trong mỗi làng đều cần đến những người có học, nên họ giúp một phần đắc lực cho các ông lý trưỏng, chánh tổng vv.. Sự có mặt của họ đôi khi còn là biểu tượng cho giềng mối luân lý, phong tục, nề nếp trong làng. Có thể nói không có nho học, nếu không có những người đại diện là các cụ đồ nho. Họ là biểu tượng cho lề luật, nếp sống, nếp suy nghĩ của dân làng. Không có luật lệ thành văn, nhưng qua giới nhà nho mà nề nếp, phong tục, đời sống xa hội được tôn trọng, được duy trì. Đời sống của họ là tấm gương từ đó phát huy những giá trị đạo đức.

Lấy trường hợp nhà nho Nguyễn Đức Đạt, 50 tuổi về hưu, mở trường dạy học, học trò có cả ngàn. Những môn sinh của ông có người đỗ đạt như Hoàng Cao Khải làm quan đến kinh lược Bắc Kỳ, hay cụ Cao xuân Dục, làm đến Lễ Bộ thương thư, thi sĩ Nguyễn Khuyến làm đến Tổng Đốc Sơn, Hưng Tuyên mà khi đến hầu thầy vẫn giữ lễ thầy trò. Khi ông ra thăm Thăng Long, Hoàng Cao Khải ra lệnh cho tuần phủ Ninh Bình vào tận Đồng Giao đón ông. Khi võng ông đến Thường Tín. HCK và CXD ra nghênh tiếp, đi bộ theo sau, có đủ mặt các quan đầu tỉnh Bắc Kỳ đến bái kiến. (19)

Điều đó chỉ ra rằng, vai trò nhà nho là yếu tố quyết định hình thành nếp sống, nếp suy nghĩ của người dân.

Họ phần đông sống nhẫn nhục, đạm bạc và túng thiếu, cố gìn giữ cái danh phận, dù cơ cực, nghèo túng và sống bất đắc chí đứng ở giữa giai cấp nông dân nghèo đói, ít học mà họ là đại diện và giới quan lại, nhà vua. Họ dễ có cái khả năng nhạy cảm để thấy được những sai trái, những những áp bức của giới cầm quyền. Nhưng họ cũng cảm nhận được sự bất lực của mình trước chính bản thân họ, và trưóc hoàn cảnh đất nước. Bi kịch của họ là bi kịch của những người có học, nhưng lại không đảm đương bất cứ một vai trò gì để có thể giải hoá những khó khăn của đất nước mà họ cảm thức được sự bất lực và sự vô hiệu của triều đình.

Họ là cái thành phần đông đảo, bất đắc chí là các ông đồ nho. Họ có bao nhiêu. Vào đời Gia Long (Theo ĐNNTC), họ có 643.706. Thời Minh Mạng, có 770.798. Thời Thiệu Trị 974.786. Thời Tự Đức chỉ còn 885.517 người. Với một số đông đảo như thế mà chẳng có mấy người có được chức vị cao trong triều đình. Sang đến thời Tự Đức bắt đầu có sự suy thoái dần, ảnh hưởng sang Tây học.

Ngày nay, nhìn lại cái lối tuyển chọn quá khắc nghiệt làm hao tổn không biết bao nhân tài, không biết dùng và sử dụng người, bóp nghẹt các sĩ phu. Tỉ như dưới triều Nguyễn chỉ có tối đa là 7 trường thi, không hơn gì số trường thi ở miền Bắc trước đó dưới thời các Chúa Trịnh nắm quyền. Chẳng hạn khi Nguyễn Trường Tộ dâng bản điều trần, nhà vua không lý đến những đề nghị của ông, chỉ phán: Cho y một chức quan nhỏ để thưởng cho y. Thật là khinh miệt kẻ sĩ, vì Nguyễn Trưòng Tộ, khi dâng bản điều trần thì đã hẳn đâu có cầu cạnh quan tước gì.

Về việc thi cử thì trước thế nào sau như vậy. Vì thế cuốn Lều Chõng là Một bản án, phê bình cái học cổ hủ, giáo điều. Vân Hạc là hình ảnh một người trí thức có tài, nhưng thi cử lận đận, thông minh và có lương tri, nhưng không ai dùng. Đó không phải là số phận. Đó là thân phận người trí thức   mà đại diện là tầng lớp nho sĩ. Tất cả là một sự xa hoa, xài phí chất xám vô ích. Cái bi kịch người trí thức này chấm dứt với hai cái chết tuẫn tiết của Phan Thanh Giản, (Cụ PTG là người đỗ đạt đại khoa đầu tiên của xứ Nam kỳ, đậu tiến sĩ năm 1826.) trong Nam và Hoàng Diệu, ngoài Bắc. Hai cái chết đó tiêu biểu cho sự cáo chung, sự bất lực của tầng lớp nho sĩ. Cái chết đó nêu gương khí tiết, nhưng nó cũng chỉ ra rằng thời của nho gia không còn lý do tồn tại nữa.

Về Việc Tổ Chức Thi Cử

Về tổ chức thi cử nói chung thì phải nói là thập phần chặt chẽ, tỉ mỉ, chi ly từng chi tiết, không thiếu xót một chi tiết nào, nhằm bảo đảm sự công bằng, tránh gian lận, cho thấy nhà vua coi việc thi cử như một QUỐC SÁCH của cả nước. Chỉ xin viện dẫn một vài chi tiết sẽ cho thấy rõ điều đó. Các quan đề điệu, giám thi, thừa sứ, tham nghị, giám khảo, phúc khảo đều có tiêu chuẩn về nhà cửa ăn uống riêng… Lấy trường hợp quan đề điệu mỗi ngày được gạo 7 bát và nưóc mắm, rưọu, trứng, muối, chè, gừng, củi, cộng chung giá tiền là 42 đồng. Nhưng đến quan đồng khảo thì gạo chỉ còn có ba bát thôi. Cái này thì kể ra khá bất công. Quan nào thì cũng cần ăn cho no mới làm việc đưọc. Sự khác biệt giữa 7 bát và 3 bát là sự khác biệt căn cứ trên chức vị hơn là trên nhu cầu.. Nói chi đến bọn binh lính và người theo hầu của các quan.

Lấy trường hợp quan giám thị thì đưọc cung cấp giường, phên nứa, cây đèn, dao quai, dao to, rổ rá, mâm và chậu gỗ sơn vẽ đều mỗi thứ mỗi cái, chiếu tốt một đôi, chiếu thường một đôi (quá thừa thãi, lãng phí của công), dầu 2 chĩnh, bấc đèn một bó, nồi đất 3 cái, chum lớn, chum nhỏ mỗi thứ 2 cái, bát dĩa mỗi thứ 15 cái. Cứ như thế, tuỳ theo chức vị mà có sự gia giảm số lượng. Chẳng hạn quan đồng giám khảo chỉ còn được hưởng 10 bát đĩã, chum lớm chum nhỏ chỉ còn mỗi thứ 2 cái. (20)

Đọc phần này của Khoa mục chí, cái nhận xét của chúng tôi là cảm phục cái người đứng ra tổ chức, phân phối đồ vật chi dùng của các quan, Từng chi tiết phải được tôn trọng, không được thiếu xót vì có trong điều lệ. Thiếu một chút cũng không được sẽ có so bì hơn kém. Đã vậy, lấy đâu ra tiền bạc, vật liệu để chi dùng. Các ty thừa hiến lại gõ đầu các quan huyện, châu trong hạt. Lại từng chi tiết rất chi ly. Xã phường lớn 2 quan 75 bát gạo. Xã phường trung 1 quan 5 tiền quý, 50 bát gạo, xã phường nhỏ 1 quan tiền quý, 35 bát gạo. Riêng các xã biên trấn thì xã lớn 1 quan tiền gián, 20 bát gạo, rồi đến 15 bát gạo và 10 bát gạo cho xã trung và xã nhỏ. Tiếp đến những thể lệ cho ĐÂU THẦU XÂY CẤT trường thi cũng rắc rối hành chánh sự vụ để tránh lạm dụng, lãng phí, tham ô. Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy một tổ chức hành chánh quy mô, phức tạp mà người điều hành, như quan niệm ngày nay thì ít ra cũng phải tốt nghiệp trường Quốc gia hành chánh hay Chính trị kinh doanh Đà lạt mới đảm đương nổi. Nó còn chỉ cho thấy, để tránh LẠM QUYỀN, Các ty sở liên hệ không được đấu thầu như hai ty thừa hiến, bọn tai mắt, bọn quyền quý, bọn cường hào không được ủy thác đứng ra thu tiền, gây tình trạng lạm thu quá lệ, làm phí của dân. Rồi xã phường nào không đóng góp đủ thì cho phép các quan huyện châu trình lên Phủ Doãn và Hiến ty, XÉT RA LÀ THỰC thì xử phạt phải trả lại Bội Sổ, để trừng phạt. Nhưng học trò xã đó vẫn cho thi. (21)

Trở lại việc thi cử của các triều vua cũ tuy là chu đáo, nhưng cũng có 2 thời kỳ cho thấy việc thi cử đi đến chỗ suy đồi, không còn là nơi kén chọn hiền tài nữa. Đó là từ năm 1750 cho phép đóng tiền thì có quyền đi thi vì thế ai cũng có quyền dự thi, không kể dốt giỏi, nhiều người dốt, nhưng cũng đóng tiền để thi cho có tiếng.

Vì thế người làm ruộng, người đi buôn, cho chí người hàng thịt, người bán vặt cũng đều nộp đơn xin thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người CHẾT ở cửa trường. Trong trường thi, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi thay, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì. Những người thực tài, mười phần không đậu một.

Việc thi cử như vậy nên mới có việc bọn sinh đồ 3 quan đầy thiên hạ, người trên lấy tiền mà không ngại, kẻ dưới nộp tiền để đỗ mà không thẹn, làm ra trường thi thành chỗ BUÔN BÁN. (22)

Dưới thời Pháp, việc thi cử thật lem nhem, chỉ còn là việc mua bán, hối lộ mà nguyên do là ở những khoa thi chót, có thêm bài thi Pháp văn, khi lễ xướng danh thì có chức quyền người Pháp tham dự. Nhiều quan chức người Pháp có nhúng tay vào việc thi cử lem nhem này. Việc hối lộ quan chức Pháp thể hiện qua 2 câu thơ sau đây:

Con nên khoa mục cha mòn trán

Em được công danh chị nát đồ.

Đọc hai câu thơ trên, nếu tinh ý một chút thì thấy rằng, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử thi cử nước ta, việc cậy cục chạy chọt thi cử có thể bằng một con đường khác con đường chạy chọt bằng tiền… Chữ nghĩa trước đây có thể mua bằng tiền thì nay bằng THÂN XÁC người Phụ Nữ cũng như việc thăng quan tiến chức sau này cũng không tránh khỏi thông lệ này. (23)

Trong cuốn Hơn nửa đời hư của cụ Vương Hồng Sển cho thấy các quan chức lớn bé đều có thể mua chuộc bằng sắc đẹp phụ nữ cả. Và chính tác giả vì không chịu đút lót thi cử nên mới không đỗ. Và vì vậy mới có cơ hội để ông viết cuốn Hơn nửa đời hư. Ông kết luận: Cám ơn đã được thi rớt.

Sách đọc:

Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến Chương lọai chí. Phần Khoa mục chí.

Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ. Tập 7. Biên soạn : Nội các triều Nguyễn.

Cao Xuân Dục. Quốc triều Hương khoa Lục

Trần Gia Phụng. Những câu chuyện Việt sử

Đinh Gia Khánh. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Thế kỷ X đến XV11

90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Ngô tất Tố, Lều chõng.

Sơn Nam : Đồng bằng sông Cửu Long, Đất Gia Định xưa, Bến Nghé xưa

Vương Hồng Sển. Nửa đời hư.

Trần văn Giáp. Nhà sử học.

Vũ Ngọc Phan. Những năm tháng ấy.

Hợp Lưu. Số đặc biệt về Giáo sư Hoàng Xuân Hãn.

Hợp Lưu. số đặc biệt về Phan Khôi.

Đỗ Bằng Đoàn. Đỗ trọng Huề, Khoa cử Việt Nam.

(1) Phan huy Chú, Lịch Triều hiến chương, phần Khoa mục Chí tr149.

(2) Đinh Gia Khánh, Hợp tuyển thi văn Việt Nam tr 15..

(3) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí

(4) Trần Gia Phụng. Những câu truyện Việt sử

(5) Phan huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (LTHCLC), tr 169

(6) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 160

(7) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 161

(8) Hợp Lưu. Só đặc biệt về học giả Hoàng xuân Hãn.

(9) Đỗ bằng Đoàn và Ông Đỗ trọng Huề: Khoa cử Việt Nam. tr 197.

(10) Sách KĐ, quyển 7, tr. 416

(11) 90 năm nghiên cứi về văn hoá và lịch sử Vietnam. Baì của Langlet. tr. 221

(12) Sơn Nam, Bến nghé xưa. tr. 11-15

(13) Sơn Nam. Đồng Bằng sông Cử u Long. tr 38,40

(14) Sơn Nam, Đất Gia định xưa tr. 71

(15) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch Việt Nam. Tr 290.

(16) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Bài của Langlet. tr. 223

(17) Cao xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục.

(18) Theo G.S Tạ Trọng Hiệp, trong cuốn hồi ký cuối đời của ông Vũ ngọc Phan, mà chúng tôi đã đọc, nhưng không thấy được những kẽ hở quan trọng về nhân cách nhà văn như G.S đã nhận ra (G.S. Hiệp đã quá cố). Thời Nhân văn giai phẩm, theo tôi cũng giúp chúng ta có cơ hội thấy đưọc một số trí thức tiểu tư sản hèn như thế nào. Nổi tiếng thì như Thế Lữ. Riêng Thế Lữ thì tôi đã nhận ra ông ngay từ thời T.L.V.Đ. Khi cuốn phóng sự Làm Đĩ ra mắt Ông diễu : Có một người khách vào tiệm sách hỏi cô bán sách : Cô có LÀM ĐĨ không.. Cô bán hàng không vừa Đốp lại. Thưa không, ông lấy một CÁI TÁT nhé! Ông đã vùi dập những người không phải phe nhóm như khi ông phê bình, diễu cuốn Thần Hổ của Tchya. Sau này ông theo C.S, ông đập Phan Khôi cùng với Nguyễn công Hoan.

Riêng Vũ ngọc Phan thì khôn ngoan hơn, ông để gần 100 trang để nói về mối tình với cô Hằng Phương, Hằng Phương là ai. Là con gái Sở Cuồng Lê Dư, người cộng tác làm báo N.P với Phạm Quỳnh. Ông Lê Dư có 3 người con gái đẹp, 1 lấy Vũ Ngọc Phan, 1 lấy tướng Nguyễn Sơn, nổi tiếng ở Thanh Hoá một thời (Xin đọc hồi ký của Phạm Duy), và gái cuối cùng lấy Hoàng văn Chí. Ông Lê Dư lại lấy em gái cụ Phan Khôi. Rắc rối rồi.

Vì vậy, trong hồi ký không nhắc gì đến TÊN bố vợ.., đến ngày tháng năm sinh, người ta cũng cố tình quên khi cần phải viết về tiểu sử Lê Dư.. Tên ông ngoại của bố vợ là cụ Phan Trân thì lại cố tình viết trẹo ra là cụ Phan Trần. Kỹ quá. Mà cũng tội nghiệp cho họ.

(19) Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề: Khoa cử Việt Nam tr.27.

(20) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 181

(21) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 177

(22) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 174

(23) Vương Hồng Sển. Hơn nữa đời hư. Tr. 299


 

Đoàn Văn Báu: Hộ pháp hay người áp giải Thầy Minh Tuệ?

Ba’o Tieng Dan

RFA

Gió Bấc

19-12-2024

Ảnh minh họa. Nguồn: RFA/ Bom Nổ Chậm

Sau một tuần lễ kể từ ngày Thầy Minh Tuệ bộ hành về đất Phật, những diễn biến thực tế mâu thuẫn đã buộc người ta tự hỏi Đoàn Văn Báu là ai? Là doanh nhân tự nguyện phát tâm đồng hành làm hộ pháp hỗ trợ Thầy như lời ông ta nói? Hay đang là đồng chí nguyên thượng tá an ninh, tiến sĩ tâm lý tội phạm học, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhiệm vụ áp giải Thầy theo cách im ả nhất đến Himalaya ẩn tu theo kế hoạch của ai đó?

Cần nhớ bốn năm qua, Sư Minh Tuệ từng bốn lần độc hành xuyên Việt, không giấy tờ tùy thân, không có ai bảo vệ nhưng vẫn an toàn. Hành trình về đất Phật của Sư đi qua Lào, Thái, Myanmar, Nepal, là những quốc gia Phật giáo được tôn kính như quốc giáo, vậy tại sao phải được bảo vệ kín kẽ như vậy?

Trước hết xin gọi Ngài Minh Tuệ là Thầy, một danh xưng kính trọng phổ quát. Không dám gọi là Sư vì e sẽ làm phiền đến các đồng chí quan chức giáo hội quốc doanh không cho phép xem Thầy là tu sĩ.

Nhìn lại những diễn biến dồn dập đuổi theo bước chân, số phận Thầy Minh Tuệ trong năm qua, dễ thấy rằng luật vô thường của Phật Pháp đã thể hiện rõ trong từng sát na.

Khi cộng đồng mạng xã hội phát hiện dẫn đến thông tin bùng nổ, Thầy được hàng triệu người ngưỡng mộ. Tu sĩ độc hành không thuyết giảng mà thu hút thành “tăng đoàn” cuồn cuộn như thác lũ trên đường thiên lý dọc các tỉnh thành. Đang lúc cao trào, Phật tử xứ Huế kính ngưỡng, bỗng nhiên có phép màu nào đó giữa đêm, Thầy mất tích, “tăng đoàn” tan tác, người Bắc người Nam. Dư luận hoang mang thắc mắc, Thầy lại hiện hình được công an “hỗ trợ” làm căn cước công dân, lên sóng truyền hình rồi lại mất tích, ẩn tu rồi bộ hành khất thực khi núi Sạn Nha Trang, khi ở Gia Lai.

Dù Thầy ẩn ở đâu, sức thu hút Phật tử, công chúng vẫn rất mạnh mẽ, họ vẫn săn lùng, quy tập về chực chờ được chiêm bái và luôn được bảo vệ chặt chẽ, nghiêm mật. Trú xứ của Thầy cũng được an ninh hóa đến mức đài truyền hình quốc gia cũng phải dùng thủ thuật để khán giả không nhận diện ra. Ý nguyện chân chính đơn giản nhất của Thầy là bộ hành khất thực trở thành vô vọng vì lý do sẽ gây tụ tập đông người, làm mất an ninh trật tự.

Thật đáng tiếc cho một đất nước đang vươn mình vào kỷ nguyên mới, lần thứ ba đăng ký vào hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, lần thứ ba đăng cai tổ chức Vesak Phật Đản Liên Hiệp Quốc mà tâm nguyện nhỏ nhoi của cá nhân công dân tu theo hạnh đầu đà tốt đẹp lại không thực hiện được.

Một đảng quang vinh bách chiến bách thắng, một nhà nước do dân, vì dân lại không thể tạo điều kiện cho một khất sĩ tu hành theo cách khổ hạnh cao nhất.

Nhà nước không ngại tốn kém, cho phá rừng xây chùa Bái Đính, chùa hàng trăm, hàng ngàn hecta, quy tụ hàng chục, hàng trăm ngàn người khắp nơi trên thế giới tụ về lễ lạc cúng bái linh đình nhưng lại không đủ sức giữ gìn trật tự trị an cho một khất sĩ đi xin ăn mỗi ngày một bữa. Phải chăng người ta e ngại phẩm hạnh buông bỏ, giác ngộ sáng ngời của vị chân tu sẽ làm tan rã tấm bình phong tự do tôn giáo đang che chắn cho đội ngũ ma tăng cổ súy cho tà thuyết cúng dường?

Ấy vậy mà Thầy Minh Tuệ bỗng dưng được lỏng tay, bộ hành về Ấn Độ với sự bảo vệ, hỗ trợ của một số cá nhân tự nguyện. Trong tâm thư viết tay, Thầy Minh Tuệ chỉ cầu mong sự giúp đỡ về thông tin, thủ tục giấy tờ, mọi thứ còn lại Thầy đều tự lực với phát tâm mạnh mẽ: “Nếu có ai không đồng ý hay phản đối, gây khó khăn, hay cấm đoán, bắt bớ hay ép buộc, hay thủ tiêu, hay bắt buộc phải bỏ hạnh nguyên, hay tước đoạt mạng sống, hay nhận bản án tử hình. Con đều hoan hỉ đón nhận và không kiện cáo gì và đều ước nguyện cho họ hạnh phúc…”

Thông tin chấn động ấy làm nức lòng hàng vạn trái tim. Những “đệ tử” trong tăng đoàn ngày trước, những người yêu kính Phật và đức hạnh của Thầy đã phát tâm xin đồng hành. Doanh nhân, nguyên thượng tá an ninh Đoàn Văn Báu đã bất ngờ xuất hiện tự nguyện tham gia như ngôi sao sáng trong vai trò người hỗ trợ về thủ tục pháp lý, hướng dẫn đường đi… tóm lại là vai trò Hộ Pháp.

Trước khi xuất phát, dư luận đa số đồng tình nhưng không ít ý kiến băn khoăn lo ngại về lai lịch ông Báu, ông thật sự phát tâm hay tham gia theo sự phân công của Sư? Ông đã lên mạng live stream trần tình lật ngửa bài mình là thượng tá công an đã về hưu 3 năm, đang sinh hoạt đảng ở địa phương và tuyên bố chắc nịch sẽ làm những điều tốt đẹp theo tâm nguyện Thầy Minh Tuệ. Nhiều người, trong đó có tôi, đã bị thuyết phục trước lời trần tình này.

Một tuần lễ bộ hành trôi qua, diễn biến thực tế chuyến đi đã đủ cơ sở trả lời những băn khoăn về ông Báu.

Trước hết, về nguyên tắc đảng, cái tội lớn nhất, đáng sợ nhất của đảng viên cộng sản là tự chuyển biến, tự chuyển hóa chính trị, vi phạm những điều cấm đảng viên không được làm. Trong những điều cấm ấy, quan trọng nhất là làm trái chủ trương, chính sách đảng, nhà nước. Vậy chủ trương của đảng và nhà nước về chuyện Thầy Minh Tuệ bộ hành đi Ấn Độ ra sao? Câu trả lời là 800 tờ báo lề phải không đăng 1 chữ nào. Trên mạng xã hội, các trang “bò đỏ”, dư luận viên tha hồ đơm đặt chỉ trích. Điều ấy cho thấy đảng không muốn cho công chúng biết về chuyến đi, và nếu có biết thì phải biết những điều xấu xa đơm đặt.

Như vậy đã rõ, ông Báu hoặc đã tự nguyện hộ pháp cho Thầy Minh Tuệ trái với chủ trương của đảng, hoặc đang thực hiện một nhiệm vụ được đảng phân công.

Diễn biến cho thấy, ông Báu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Mượn vai Hộ Pháp cho Thầy Minh Tuệ, nhưng thực chất ông Báu đang áp giải Thầy Minh Tuệ đến nơi nào đó theo ý đảng và hạn chế tối đa tiếng vang của chuyến đi, cũng như tên tuổi, hình ảnh phẩm hạnh của Thầy Minh Tuệ.

Nhân danh làm thủ tục pháp lý và quan hệ với các nước sở tại, ông Báu đã hạn chế số lượng người tham gia bộ hành đến mức thấp nhất. Quan niệm từ bi của Thầy Minh Tuệ trước sau như một là không mời ai tham gia, cũng không chối bỏ bất cứ ai tự nguyện, miễn là mọi thứ tốt đẹp. Nước Lào chưa bao giờ có quy định hạn ngạch số người Việt nhập cảnh vào Lào hay số lượng người được đi thành đoàn trên đường. Thế nhưng, cho rằng có thỏa thuận nào đó với cơ quan chức năng của Lào, ông Báu đã từ chối nhiều nhóm người Việt tham gia, ngay cả những người đã xuất cảnh hợp pháp sang Lào như nhóm của chức sắc Phật Giáo Hòa Hảo Phước Nghiêm, dù ông này đã từng phát tâm đồng hành với Thầy Minh Tuệ ngay ở Gia Lai. (1)

Ngày 14-12, ông Báu độc đoán loại trừ Sư Hộ Pháp Kim Cang và một Sư khác vì lý do đông người. Mượn tay an ninh Lào cưỡng ép Sư Kim Cang lên xe, ngăn không cho gặp Sư Minh Tuệ. Đến ngày 18-12, Báu lại gọi điện cho ông Tuấn (anh Thầy Minh Tuệ) yêu cầu cho ông Quý và một số Sư nhỏ sang Lào tham gia đoàn. Ông Tuấn đề nghị cho Đông, một youtuber thân ông Tuấn, nhưng Báu không chấp nhận. Có người thân cận ông Báu giải thích rằng Quý có sức khỏe, kinh nghiệm làm hộ pháp cho Thầy Minh Tuệ khi bộ hành ở Gia Lai. Cách giải thích này không thỏa đáng. Sư Kim Cang dù nói năng lỗ mãng nhưng thể lực tốt đã từng bảo vệ Thầy Minh Tuệ trên cung đường xuyên Việt hàng trăm cây số, trước áp lực đám đông hàng chục ngàn người. Ông Quý nếu có tham gia chỉ là trên cung đường ngắn thôn làng, số người hâm mộ cũng không đông lắm. Sư Kim Cang đến Lào hợp pháp lại bị đuổi về, ngược lại ông Quý đang ở Việt Nam chưa đủ giấy tờ lại được mời sang.

Về thông tin, trong văn bản thông báo của công ty Thiên Định Tuệ công bố trên website của công ty trước chuyến đi đã xác định các youtuber, fbker, tự do quay phim chụp ảnh đoàn bộ hành và phải chịu trách nhiệm việc làm của mình. Phải thừa nhận rằng trong sự kiện Thầy Minh Tuệ bộ hành trước đây, vai trò, công lao của các youtuber rất lớn. Tuy có người quá khích, qua đáng xông vào chỗ các Thầy nghỉ ngơi, lúc riêng tư, nhưng trong bối cảnh cạnh tranh, các youtuber đã tường thuật chi tiết từng bước đi, phát hiện phản ánh từng chi tiết diễn biến các thành viên trong đoàn và sự kiện liên quan.

Công bằng mà nói, chính họ cũng là người phát hiện, phản ánh, đấu tranh vạch mặt những Sư giả, những nhóm người lợi dụng ăn theo tiếng tăm tăng đoàn Thầy Minh Tuệ. Thế nhưng, từ khi xuất phát đến nay, Báu không cho phép bất kỳ một youtuber nào tham gia đoàn, thậm chí là đi sau ở phía xa cũng không được. Tất cả các kênh youtuber khác đều phải sử dụng hình ảnh từ Báu và Lê Khả Giáp. Trong các clip đó, Báu vừa là nhân vật, vừa là người dẫn chương trình. Hình ảnh của Thầy Minh Tuệ và tăng đoàn bị mờ nhạt, thời lượng không nhiều. Điều thú vị nhất là các câu nói, giải đáp thắc mắc mang tính thuyết pháp có ý nghĩa đạo lý sâu sắc, sinh động của Thầy Minh Tuệ hiếm khi thể hiện. Đoàn người cứ đi im lặng như những robot không hồn.

Cách độc quyền quay phim chụp ảnh cung cấp cho toàn xã hội, các youtuber khác phải xào nấu theo nguồn nguyên liệu này, Đoàn Văn Báu đã lũng đoạn và thao túng truyền thông theo ý của mình, giống như 800 tờ báo chỉ có một tổng biên tập là Ban Tuyên Giáo.

Về ý nghĩa việc khất thực, ngoài việc nuôi thân để sống và tu tập, bằng việc xin ăn, chư tăng ni gieo duyên với chúng sinh trong “bát cơm ngàn nhà”, đánh thức Phật tính, lòng từ bi, giảm tính tham lam bủn xỉn trong mỗi người. Đây cũng là cơ hội để họ truyền pháp, lan tỏa thông điệp từ bi hỷ xả, lối sống thiện lành. Nên nhớ, khi khất thực, Đức Phật và các đệ tử bưng bát ghé lần lượt từng nhà chứ không lựa chọn những nhà hảo tâm mà mình biết để nhanh chóng xin đủ bữa.

Với bản thân khất sĩ, việc xin ăn cũng giúp họ kiểm soát bản ngã, xóa bỏ tính kiêu ngạo, tự cao, học tính khiêm cung, nhẫn nại. Khất thực cũng giúp đoạn trừ được lòng tham còn lại trong tu sĩ, vì các vị được bố thí gì thì dùng cái đó, khi bước đi không biết được thí chủ cho gì, nhiều hay ít, ngon hay không. (2)

Thế nhưng, cũng nhân danh việc giữ an ninh, Báu đã vạch ra những cung đường vắng vẻ phải vượt suối, băng rừng, cố ý tránh xa nơi có nhiều người, thậm chí né tránh những bản làng có đông người Việt. Trừ những đoạn qua công ty Hoàng Anh – Gia Lai hay thị trấn không thể né tránh. Trung thực là ngây thơ như youtuber Lê Khả Giáp đến ngày thứ 5 của chuyến đi đã kịp ghi nhận trong clip “Đáng Nhớ Sư Minh Tuệ Lần Đầu Vào Một Ngôi Làng Tại Lào Để Khất Thực”. Trong đó, Giáp nhấn mạnh: “Các thầy rất thích đi khất thực từng nhà.” (3)

Một youtuber đã dành thời gian tra cứu kinh điển Phật pháp, đối chiếu cách làm của Báu và bình luận trong clip “Đoàn Văn Báu tái thiết hạnh đầu đà mới cho Thầy Thích Minh Tuệ, tìm hiểu lại nguồn gốc.” (4)

Lộ liễu rõ rệt nhất là trong một clip, Báu đã gợi ý với Thầy Minh Tuệ cho đoàn cầm cờ đỏ sao vàng khi đi bộ hành. Bằng trí tuệ trong suốt, Thầy Minh Tuệ trả lời thẳng thắn: “Tu sĩ ai cầm cái đó. Cho những người đi theo ai cầm được thì cầm, hoặc gắn nó trên xe (chiếc xe bán tải chở hành lý, thực phẩm cho những người đi theo).”

Một quốc gia mà chính phủ đàn áp người tu, tăng đoàn đến mức tan tác. Một giáo hội không công nhận người tu là tu sĩ, đơm đặt bôi xấu tăng đoàn giờ lại bày trò cầm cờ bộ hành quay phim là quá sức xấu hổ thủ đoạn chính trị. (5)

Các dư luận viên đã dựa vào clip này kết án Thầy Minh Tuệ và tăng đoàn như những kẻ phản quốc.

Độc quyền chọn người, lại chọn mờ ám, bất công. Độc quyền thông tin lại lũng đoạn, thao túng thông tin gây bất lợi cho Thầy. Bằng nhiều cách tách tăng đoàn không được giao tiếp với công chúng trên đường đi, bày ra nhiều chiêu trò để đi sai Phật pháp. Đoàn Văn Báu đã lộ nguyên hình là kẻ áp giải Thầy Minh Tuệ đến nơi đọa đày nào đó, vai trò quan trọng trong kế hoạch cực kỳ thâm độc, loại trừ Thầy Minh Tuệ ra khỏi lãnh thổ và dìm mọi tiếng vang, giá trị của Thầy trong nhận thức mơ hồ, lộn xộn chóng quên.

Thầy Minh Tuệ không phải là nạn nhân đầu tiên của cộng sản về việc hộ vệ kiêm áp giải. Qua câu chuyện cố thiếu tướng Phan Văn Xoàn, Phó Tư lệnh lực lượng Cảnh vệ, người phụ trách bảo vệ Hồ Chí Minh tự kể đã được chọn lọc trên báo chí cho thấy, ông Xoàn có cả hai vai trò đó. Ông Hồ được bảo vệ chu đáo, cẩn thận trong từng bước chân, muốn bước ra khỏi cổng nhà sàn, muốn gặp bất cứ ai phải được ông Xoàn sắp xếp theo phê duyệt, chỉ đạo của Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn. Muốn đi chợ Tết phải hóa trang thành hai cha con và theo phương thức ba không: không dừng lại, không mua bán, không giao tiếp với ai. Đêm giao thừa ông Hồ bất ngờ đi thăm hộ dân nghèo nhất Hà Nội là một màn trình diễn, tất cả các nhân vật tháp tùng, đón tiếp đều là diễn viên công an sắm vai. Chỉ duy nhất người phụ nữ nghèo gánh nước thuê là diễn viên nghiệp dư được công an lựa chọn. Tất cả những điều cưỡng ép dối trá ấy đều nhân danh mục đích cao quý là bảo vệ an toàn tuyệt đối cho ông Hồ.

Tham khảo:

1- https://www.youtube.com/watch?v=XUbZca_KYKg
2- https://vtcnews.vn/vi-sao-duc-phat-di-khat-thuc-ar694792.html
3- https://www.youtube.com/watch?v=eELFGQC8za8
4- https://www.youtube.com/watch?v=ZLycPR4ziSg
5- https://www.youtube.com/watch?v=ZoLOt5aR30c


 

Từ một trận cãi cọ tới đám cháy khiến 11 người tử vong

Nguyễn Thị Bích Hậu

Từ một trận cãi cọ tới đám cháy khiến 11 người tử vong

Một người đàn ông 51 tuổi, tới quán để uống bia và hát hò ở đường Phạm Văn Đồng, HN.

Uống rồi thì cãi cọ với nhân viên trong quán. Giận quá hóa khùng, hắn ta bèn mua xăng về và đổ vào tầng 1 của quán, nơi đặt nhiều xe gắn máy. Sau đó đốt.

Hình này còn ghi lại được trong camera.

Lửa bùng lên từ 23 h đêm qua. Hậu quả từ 23h 04 phút tới 23 h40 phút, khi lửa được khống chế, có 7 người được cứu thoát nhưng tới 11 người tử vong.

CA đã bắt và khởi tố nghi can. Hắn có hai tiền án về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản.

Thật tang thương. Cuối năm rồi. Cầu cho hương hồn 11 nạn nhân siêu sinh Tịnh độ. Xin chia buồn cùng gia đình các nạn nhân.

Khởi tố nghi phạm đốt quán làm 11 người chết

https://vnexpress.net/

Hiện trường cháy trên đường Phạm Văn Đồng. Ảnh: Phạm Chiểu

Nhiều dịch vụ du lịch ở Cần Thơ đắt khách nhờ trend ‘Đám giỗ bên cồn’

Ba’o Nguoi-Viet

December 16, 2024

CẦN THƠ, Việt Nam (NV) – Các tour thăm viếng Cồn Sơn, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, “ăn nên làm ra” nhờ trend (xu hướng) “Đám giỗ bên cồn.”

Bắt trend “Đám giỗ bên cồn,” một video clip trên mạng xã hội của TikToker Lê Tuấn Khang, nhiều du khách đang ưu tiên chọn tour du lịch ở các cồn, cù lao thuộc các tỉnh miền Tây, kéo theo nhiều dịch vụ đắt khách, giúp người dân địa phương tăng doanh thu dịp cuối năm.

Một đoàn khách thăm viếng bè cá Bảy Bon ở Cồn Sơn, quận Bình Thủy, Cần Thơ. (Hình: Võ Văn Tân/Lao Động)

Nói với báo Lao Động hôm 15 Tháng Mười Hai, anh Võ Thanh Tân, hướng dẫn viên du lịch ở thành phố Cần Thơ, cho biết từ khi xuất hiện trend “Đám giỗ bên cồn,” anh liên tục nhận tour là các đoàn khách về thăm viếng khu du lịch Cồn Sơn, quận Bình Thủy, Cần Thơ, với lượng khách tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước.

Theo anh Tân, hiện mỗi ngày anh và các đồng nghiệp đều có tour dẫn khách thăm viếng, trải nghiệm Cồn Sơn, trung bình mỗi đoàn từ 4-20 người.

“Trong ngày 14 Tháng Mười Hai, tôi cũng có dẫn đoàn khách thăm viếng, vui chơi, trải nghiệm tại Cồn Sơn. Nhiều du khách rất thích thú khi được hòa mình vào không gian miệt vườn, sông nước. Đây là tín hiệu đáng mừng cho các hướng dẫn viên cũng như bà con làm du lịch nơi đây,” anh Tân cho biết.

Theo anh Tân, trong lúc dẫn khách thăm viếng, anh luôn nhận được nhiều câu hỏi như: Tại sao có địa danh cồn; cồn khác cù lao như thế nào, đám giỗ bên cồn có gì thú vị… Do vậy, càng tạo thêm nhiều câu chuyện thú vị về nét đặc trưng của các cồn ở miền Tây, mang lại niềm vui, hứng khởi cho du khách.

Cồn Sơn nổi tiếng với mô hình du lịch cộng đồng, song hiện tại trend “Đám giỗ bên cồn” đang “hot” nên các gia đình nơi đây phải “tăng ca” đón thêm du khách mỗi ngày.

Lượng khách tăng cao nhờ trend “Đám giỗ bên cồn,” giúp người làm du lịch ở Cần Thơ có thêm thu nhập. (Hình: Võ Văn Tân/Lao Động)

Trong đó, bè cá Bảy Bon được du khách biết đến nhiều nhờ các loài cá độc đáo trên bè, trải nghiệm massage chân với cá… Những ngày qua, điểm đến này luôn nhộn nhịp khách thăm viếng.

Tại các điểm thăm viếng khác như vú sữa bà Sáu, cá lóc bay Tín Hoài, trang trại chồn Hương, cốm nổ Cồn Sơn… lượng du khách cũng tăng cao, góp phần cải thiện kinh tế dịp cuối năm cho người dân địa phương.

Ngoài ra, các dịch vụ “ăn theo” khác như cho thuê áo bà ba, phụ kiện, nón lá… tại các điểm gần khu vực Cồn Sơn cũng có thêm lượng khách mới.

Theo chia sẻ của một số hướng dẫn viên du lịch, dự kiến trend “Đám giỗ bên cồn” sẽ còn được nhiều người quan tâm và tiếp tục “hot” đến sang năm. Họ cũng chuẩn bị tinh thần để đón lượng khách lớn trong dịp Tết Dương Lịch và Tết Nguyên Đán Ất Tỵ sắp tới. (Tr.N)


 

Việt Nam đã quyết định “chọn phe”-Trương Nhân Tuấn

Ba’o Tieng Dan

Trương Nhân Tuấn

15-12-2024

Theo tôi Việt Nam đã quyết định “chọn phe” rồi. Việt Nam theo “phe” Trung Quốc. Sự kiện Việt Nam và Trung Quốc thành lập “Cơ chế đối thoại chiến lược 3+3 Quốc phòng, an ninh và ngoại giao” sau chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng bí thư Tô Lâm tháng 8 năm 2024 cho ta có nhận định như vậy.

Trên Hoàn cầu Thời báo vừa có bài nhận định về sự kiện này. Theo họ thì sự kiện này là “lần đầu tiên trên thế giới”, về sự liên kết giữa hai quốc gia về cả ba phương diện “ngoại giao, quốc phòng và an ninh”.

Thực tế cho ta thấy, cơ chế hợp tác 3+3 Việt Nam – Trung Quốc khá tương đồng với Liên minh an ninh và quốc phòng AUKUS giữa Mỹ-Anh và Úc.

Quan hệ giữa hai hay nhiều quốc gia thông thường là về kinh tế. Sâu rộng hơn là liên minh kinh tế và ngoại giao. Sâu sắc hơn nữa là liên minh quốc phòng, kiểu NATO.

Ngoại trừ AUKUS, ba quốc gia Mỹ, Anh và Úc chia sẻ với nhau (ngoài ngoại giao và quốc phòng) những tin tức liên quan “an ninh và tình báo chiến lược”. Chưa bao giờ trên thế giới này lại có hai quốc gia kết nối với nhau cả ba lãnh vực “an ninh, quốc phòng và ngoại giao” như Việt Nam và Trung Quốc hết cả. Bởi vì, khi những tin tức về an ninh nội địa và quốc phòng của Việt Nam phải chia sẻ với Trung Quốc, một nước lớn, thì Việt Nam đã “mất tự chủ chiến lược” và “mất chủ quyền lãnh thổ” cho Trung Quốc.

Từ nay những thành phần chống Trung Quốc (như tôi và nhiều bạn bè khác tôi biết trên internet) đều có thể bị liệt vào thành phần “đe dọa an ninh và quốc phòng” của Việt Nam.

Vì vậy, ta không ngạc nhiên khi thấy Campuchia “bật đèn xanh” cho phép tàu chiến của Mỹ cập cảng Ream hồi đầu tuần này, lần đầu tiên sau 8 năm. Đây cũng là một thứ “ngoại giao cây tre”. Việt Nam ngả về Trung Quốc thì đương nhiên Cam phải ngả qua Mỹ.

Tôi cũng có nhận định rằng, công cuộc “củng cố quyền lực” của ông Tô Lâm có thể đang gặp nhiều trở ngại.

Những “sáng kiến” gần đây của ông Tô Lâm như “chống lãng phí” và “tinh giản bộ máy nhà nước”, theo tôi, chỉ là những “công cụ” để ông Tô Lâm củng cố quyền lực.

Chuyện “chống tham nhũng”, ông Tô Lâm thôi, không nhắc nữa. Bởi vì giữa cán bộ đảng viên với nhau, ngoài ông Trọng ra, thì ai cũng biết tẩy ai hết rồi. Ông Tô Lâm lấy tư cách gì để chống tham nhũng khi ông cũng “ăn chơi trưởng giả” như những đảng viên khác. Con cái ông Tô Lâm, cũng như con cái đảng viên khác, đều “du học nước ngoài”.

Về chuyện “chống lãng phí”, tôi đang “chống mắt” chờ coi ông Tô Lâm sẽ xử được ai. Ăn “bò dát vàng” có lãng phí hay không? Tiền đâu cho con du học nước ngoài? Có lãng phí hay không?

Chuyện “tinh giản bộ máy nhà nước”, theo tôi, chỉ là một vũ khí tình cờ, đã có từ năm 2015 (Nghị quyết 39-NQ/TW). Cả chục năm qua không ai làm được.

Tuy nhiên, nếu ông Tô Lâm tha thiết muốn cải cách lại đất nước. Thì theo tôi, ông Tô Lâm không có cái “tầm” để làm chuyện này.

Rõ ràng là chuyện “tùy hứng”. Làm gì có chuyện sa thải hàng loạt cả trăm ngàn công chức (vốn là đảng viên) mà không có bất kỳ một chương trình (kinh tế xã hội) nào để giúp những người này ổn định bước vào thế giới tư nhân.

Tức là theo tôi, ông Tô Lâm nghĩ rằng Nghị quyết 39 về Tinh giản biên chế có thể giúp ông tước bỏ quyền hạn và loại trừ những thành phần đảng viên có thể chống đối ông trong Đại hội đảng kỳ tới.

Ta thấy ông Tô Lâm không thể “trị” các ông Nguyễn Xuân Phúc, Vương Đình Huệ, Trương Hòa Bình, Trương Thị Mai, v.v… theo luật lệ của Việt Nam. Bởi vì ông Tô Lâm vừa không có (tư cách trong sạch như ông Trọng), vừa không đủ ảnh hưởng và uy tín trong đảng (như ông Trọng). Ông Tô Lâm muốn đạt tới một sự “đồng thuận” giữa các phe trong đảng. Ta nên biết là Quảng Nam là nơi có liệt sĩ hy sinh hơn hết mọi tỉnh của Việt Nam (chỉ thua Nghệ An). Ông Tô Lâm không thể đưa ông Phúc vào tù, như ông Trọng đưa Đinh La Thăng, vì ông Tô Lâm chỉ là thanh gươm nhuốm máu của ông Trọng, chớ không phải là ông Trọng.

Về các “tin vui” hôm trước tôi có viết, như NVIDIA quyết đầu tư vô Việt Nam. Theo tôi cũng nên xét lại là Việt Nam “làm ổ cho đại bàng” trị giá bao nhiêu?

Hôm trước tôi có viết, trong đó có nói rằng Mã Lai đã cho (hình như hai tỉ đôla) để “lót ổ” cho đại bàng về đẻ. Không biết Việt Nam “lót ổ” cho NVIDIA trị giá bao nhiêu? Điều tôi muốn nói là Việt Nam “chi” tiền ra để kéo tài phiệt, chớ không phải tài phiệt lựa chọn Việt Nam như là một địa điểm lý tưởng. Chuyện này ta sẽ biết sau vài năm.

***

Tiện đây tôi xin cáo lỗi cùng bạn bè mà tôi đã hẹn gặp mặt cà phê tại Việt Nam. Tôi đã đáp chuyến bay Air France xuống phi trường Tân Sơn Nhứt hôm 13 tháng 12 (thứ sáu 13!!), nhưng sau đó đã bị trục xuất cùng ngày trên chuyến bay Thái Lan về lại Bangkok. Thật đáng tiếc khi không gặp lại được các bạn!

Trong biên bản trục xuất, tôi đã bị liệt vào thành phần “đe dọa an ninh và quốc phòng” của Việt Nam.

Tôi không buồn yêu cầu họ đưa bằng chứng, kiểu tôi đã làm cái gì có thể đe dọa an ninh và quốc phòng của Việt Nam? Bởi vì mấy chú cảnh sát biên giới ở phi trường cũng như thiên lôi, trời sai đâu đánh đó.

Chuyến đi này tôi và bà xã chuẩn bị khá lâu, nghĩ là chuyến cuối cùng về thăm má tôi đang suy yếu (rất) nặng, trước khi bà về cõi. Thật tình nhận lỗi với bà xã và con cái.

Trên ‘cõi phây’ này nhiều lần tôi yêu cầu ông Trọng giải tán đảng CSVN, cũng như mới đây tôi yêu cầu ông Tô Lâm giải tán Ban Tuyên giáo và Mặt trận Tổ quốc. Không lẽ những chuyện này là đe dọa an ninh và quốc phòng của Việt Nam?

Nếu đúng vậy thì tôi vẫn tiếp tục nói rằng: Muốn đất nước này khá lên là phải giải tán đảng CSVN. Không có cách nào khác hết cả.


 

‘Hãy giúp con, bác sĩ ơi!’-Bích Ngọc

Bác sĩ, nha sĩ, y tá và tình nguyện viên Hội PVNF và trẻ. (Hình: Bích Ngọc cung cấp)

Các bác sĩ, nha sĩ, kỹ sư, y tá và tình nguyện viên Hội Project Vietnam Foundation (PVNF) vừa có chuyến đi về Việt Nam giúp khám bệnh, chữa trị, giải phẫu cho các em nghèo bị hở khe môi, hở hàm ếch.

Họ hăng hái lên đường cùng chung một chí hướng, một suy nghĩ phải chu toàn công tác khám sức khỏe, chữa trị bệnh tật cho dân nghèo là tâm điểm quan trọng nhất.

Với họ, chỉ có một tình yêu nồng ấm duy nhất trong tim dành cho những người nghèo khổ cùng cực, khốn khó vì bệnh tật tại Việt Nam.

PVNF là một hội hoạt động bất vụ lợi, được vợ chồng Bác Sĩ Chẩn Kiều và Bác Sĩ Quỳnh Kiều thành lập năm 1996.

Một bài toán với nhiều câu hỏi được đặt ra: Sẽ có bao nhiêu em được phái đoàn PVNF giải phẫu? Ngân quỹ có đủ tài trợ cho hàng trăm em? Có đủ nhân lực lên đường? Sắp xếp thời gian sao cho hợp lý với ngần ấy công việc. Bằng cách nào chuyên chở dụng cụ y khoa, thuốc men, tặng vật cho trẻ em, người già lên đến cả vài tấn?

Vậy mà Hội PVNF đã giải quyết bài toán nan giải đó một cách ngoạn mục chỉ trong vòng hơn 10 ngày tính từ ngày phi cơ đáp xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Họ lên chương trình, phân chia công việc một cách khoa học và thành công tốt đẹp. Và thành quả họ đạt được là:

-Giải phẫu thành công cho 84 em bị dị tật hở khe môi, hở vòm miệng.

-Khám răng và chữa trị cho 804 bệnh nhân.

-2400 ca tiểu giải phẫu răng hàm miệng cho trẻ em.

-850 trẻ em được khám mắt và 150 mắt kiếng phát miễn phí cho các em, cũng như phân phát 850 mắt kiếng cho người cao niên.

-Cung cấp sách chữ nổi cho các em khiếm thị.

-Phân phát xe lăn cho người già và người bệnh.

Còn nhiều lắm những con số không biết nói.

Nụ cười của trẻ và bác sĩ. (Hình: Bích Ngọc cung cấp)

Các em đi qua cái nghèo đói, sống với bệnh tật nhưng sao quá đỗi hồn nhiên, như thể các em chấp nhận số phận đã đặt các em vào hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy. Cho đến khi các bác sĩ, nha sĩ cùng với 85 tình nguyện viên, kỹ thuật viên, y tá PVNF đã về tận nơi góp bàn tay nhân ái thay đổi số phận đó, hình hài đó, giúp các em thoát khỏi đau khổ không đáng có, đã kéo dài nhiều năm qua.

Chuyện kể rằng khi đoàn thiện nguyện PVNF đặt chân đến địa danh chưa từng nghe qua với tên gọi Cù Lao Dung nằm hạ nguồn sông Hậu, giữa miền sông nước, tách biệt với đất liền. Phương tiện duy nhất để đến Cù Lao Dung bằng con phà cũ kỹ. Một cô bé đã đến nói với Nha Sĩ Bích: “Xin hãy giúp con. Răng sâu hành con đau nhức lắm. Con không còn tập trung học hành được. Con bị ba phạt quất vì ba nghĩ rằng con xao lãng việc học.”

Nắm tay nha sĩ cô bé lấy hết can đảm há miệng và nhắm mắt lại, nói “Hãy giúp con.”

Việc chữa trám răng hoàn tất cho các em mà trước đây các em chưa bao giờ bước chân đến phòng khám nha khoa. Nghe sao thương quá đỗi!

Trong lúc phái đoàn phân phát xe lăn cho người khuyết tật, có một người phụ nữ trung niên tâm sự rằng: “Từ đây chiếc xe lăn làm phương tiện di chuyển dễ dàng cho tôi sau 53 năm dài đi lại chỉ nhờ vào hai cái ghế nhựa nhỏ màu đỏ đã mòn vẹt.” Mắt cô sáng ngời sau cặp kiếng cận cũ kỹ. Nụ cười tươi hơn hoa hàm tiếu khi cô hạnh phúc biết dường nào ngồi vào chiếc xe lăn mới tinh tươm – một niềm mơ ước 53 năm dài đăng đẳng.

Ôi, nghe mà thương dân nghèo ở những miền quê xa xôi hẻo lánh, đời sống thiếu thốn mọi thứ.

Còn dài, rất dài những mảnh đời riêng khốn khó, nghèo khổ trên quê hương cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, của các bác sĩ, nha sĩ, tình nguyện viên của Hội PVNF.

Những thiên thần áo trắng có thật trong cuộc đời này đã và đang dang tay giúp đỡ các trẻ em trót sinh ra đời không may với dị tật trên khuôn mặt, hình hài. Họ không quản mưa, nắng, bão dông. Họ ra đi làm việc trong những bệnh viện dã chiến vừa dựng vội bên sân trường. Họ làm việc từ lúc trời còn tờ mờ sáng, gà chưa gáy bên cánh đồng và trở về khi mặt trời đã khuất từ lâu bên kia sườn đồi.

Phái đoàn PVNF trong chuyến đi về Việt Nam giúp khám bệnh, chữa trị, giải phẫu cho các em nghèo bị hở khe môi, hở hàm ếch. (Hình: Bích Ngọc cung cấp)

Trong vòng hơn một tuần lễ họ đã thầm lặng chữa bệnh, thực hiện các ca mổ phức tạp. Từng giọt mồ hôi ướt đẫm trên lưng áo, để rồi mỉm cười nhẹ nhàng khi cuộc giải phẫu thành công.

Họ chẳng cần ghi tên bảng vàng, chẳng màng kể công lao, việc khó cưu mang. Vậy đổi lại họ được gì? Rất đơn giản, chỉ mong thấy những nụ cười hạnh phúc của các em được chữa lành bệnh tật. Một tương lai tươi sáng nở hoa từ đây.

Vậy các bạn ơi, chúng ta những người may mắn đang sống trong đất nước tự do, được trao nhiều cơ hội học hành, thăng tiến, sống trong một đất nước với nền y khoa tiên tiến bậc nhất với hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng ưu việt, hãy nhìn về quê hương Việt Nam. Hãy cùng Hội PVNF đi đến những làng quê nghèo, để thấy, để nghe, để hiểu, thông cảm và chia sẻ với bao con người, bao trẻ em nghèo đáng thương rất cần sự giúp đỡ của chúng ta, của các bác sĩ, nha sĩ mà Hội PVNF đã thực hiện.

Hãy đến với Hội PVNF để tận mắt chứng kiến có biết bao cuộc đời của trẻ em nghèo, khổ đau do bệnh tật đã được cứu vớt, một tương lai, chân trời mới mở rộng.

Hãy cùng Hội PVNF đem tình thương ấm áp trên đôi cánh thiên thần sưởi ấm, san sẻ và giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, tưởng chừng như tuyệt vọng trên quê hương Việt Nam.

Bích Ngọc

From: taberd-6 & NguyenNThu


 

Bao che tội phạm dâm ô, đã thành truyền thống!

Ba’o Tieng Dan

13/12/2024

Blog RFA

Gió Bấc

13-12-2024

Từ tháng 3-2024, Cảnh sát New Zealand đã có văn bản gửi đến Đại sứ Quán và Bộ Ngoại Giao Việt Nam cung cấp thông tin, đồng thời nhờ sự hỗ trợ trong việc xử lý hai nhân viên an ninh Việt Nam vì hành vi tấn công tình dục hai nữ công dân New Zealand trước chuyến thăm của Thủ Tướng Phạm Minh Chính.

Người dân Việt Nam, vốn sống trong những điều cấm kỵ, chưa biết đến câu chuyện này. Tuy nhiên, ngành ngoại giao và an ninh liệu có rút kinh nghiệm nào về hành vi ứng xử trong các chuyến công du và đối ngoại không? Câu hỏi này càng được nhấn mạnh sau vụ việc liên quan đến ông cảnh vệ của Chủ tịch nước Lương Cường. Nếu nhìn lại một số vụ án dâm ô của quan chức trước đây, có thể nhận thấy rằng việc bao che tội phạm này đã trở thành một truyền thống!

Quả bom thối vị Thượng tá cận vệ bị bắt giam và trục xuất vì tấn công tình dục phụ nữ trong chuyến công du của Chủ tịch nước Lương Cường tại Chile chưa kịp hạ nhiệt, thì một quả bom thứ hai lại phát nổ. Vụ việc “Hai quan chức Việt Nam bị cáo buộc tấn công tình dục hai nữ phục vụ ở New Zealand trước chuyến thăm của Thủ Tướng Phạm Minh Chính” đã gây ra dư luận xôn xao trong nhiều tháng qua, nhưng chỉ đến tận 11-12 mới được phanh phui rộng rãi. Dù vụ việc xảy ra từ 9 tháng trước, nhưng sự nghiêm trọng của vụ việc tại New Zealand lại nhiều lần vượt xa so với vụ Chile.

Nhục quốc thể, sao lại để đến hai lần?

Hành vi của các quan chức an ninh Việt Nam tại New Zealand không chỉ là một hành động bộc phát của cá nhân mà có thể là sự tính toán, sắp đặt của nhiều người. Mức độ phạm tội cũng nghiêm trọng hơn. Sau bữa tiệc, họ dụ dỗ các nữ nhân viên phục vụ đi hát Karaoke, uống rượu mạnh và khi các cô say rượu, không làm chủ được hành vi, họ đã xâm phạm cơ thể các cô, gây ra những thương tích thể xác và tinh thần nghiêm trọng. Các nạn nhân phải đi bệnh viện và tố cáo sự việc với cảnh sát.

Sau khi vụ việc được xác định, các nghi phạm đã rời khỏi New Zealand. Tuy nhiên, do không có hiệp ước dẫn độ với Việt Nam, cảnh sát New Zealand không thể tiến hành thủ tục dẫn độ. Cảnh sát New Zealand đã gửi một lá thư qua Bộ Ngoại giao và Thương mại (MFAT) tới Đại sứ quán Việt Nam, bày tỏ mối lo ngại về hành vi này.

Vụ việc nghiêm trọng và cần phải xử lý, rút kinh nghiệm nghiêm khắc. Thế nhưng, không rõ sứ quán Việt Nam có báo cáo lại với nhà nước Việt Nam sự kiện nghiêm trong này hay không? Không rõ bộ Ngoại Giao có thông báo đến các cơ quan trách nhiệm hay không? Ngành an ninh có chấn chỉnh nội bộ hay không? Nếu các cơ quan có trách nhiệm ý thức về cái nhục quốc thể này nhiều phần có thể ngăn ngừa được nỗi ô nhục Chi Lê.

Rất tiếc, chuyện xấu xa vốn không được phép xảy ra trong quan hệ đối ngoại lại xảy ra đến hai lần trong một năm ở hai đoàn ngoại giao cao cấp nhất.

Vì sao như vậy? Nhìn lại thực trạng sinh hoạt, lối sống của quan chức Việt Nam chừng như việc xâm phạm tình dục phụ nữ đã thành bình thường, thành trò giải trí. Việc bao che, dung dưỡng cho các quan chức vi phạm cũng là việc bình thường.

Bình thường, phổ biến đến mức các trò vui xác thịt sau các cuộc chè chén tiệc tùng được gọi bóng gió là “đi tăng hai”. Vũ trường có vũ nữ đã đành, ở xứ thiên đàng, quán nhậu có tiếp tân để ôm, Karaoke cũng có tiếp tân để…

Dâm ô, nếp sống vui của các quan chức

Dù đảng, nhà nước luôn đề cao đạo đức cách mạng của cán bộ, mỗi năm đều thi đua học tập gương Hồ Chí Minh, nhưng càng học, lối sống trụy lạc dâm ô lại ngày càng phổ biến. Dù được che đậy dưới nhiều hình thức nhưng những cây kim vẫn lòi ra  sau bọc vải, những vết bẩn thực tế vẫn bắn tung tóe trên các khẩu hiệu giáo điều. Nghiêm trong hơn nữa là theo truyền thống đông phương, tôn sư trọng đạo nó xảy ra ngay với thầy cô giáo. Không chỉ 1 lần bí mật về chuyện nữ giáo viên phải đi tiếp bia, mời rượu cho quan chức cấp trên bị vỡ tung ra trước công luận.

Năm 2016, dư luận rộ lên chuyện UBND Thị xã Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) ra văn bản điều động 21 nữ giáo viên trẻ làm lễ tân, buộc các cô đi tiếp khách trong các buổi tiệc tùng ở các nhà hàng, karaoke. Thậm chí nhiều giáo viên bị sàm sỡ, nhiều gia đình giáo viên bị xào xáo, nhiều giáo viên bức xúc vì danh dự nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị đạo đức nghề nghiệp bị tổn thương. Trưởng phòng Giáo dục Thị xã cho rằng “Chuyện đi tiếp khách là hoàn toàn trong sáng. Tuy nhiên, trong các bữa tiệc, rượu vô thì lời ra; ai đó có một hành động không đẹp thì cũng là chuyện bình thường trong cuộc sống” (2).

Năm 2022, nữ Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Lan thuộc huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông thường xuyên chỉ đạo một số giáo viên đi uống rượu, tiếp khách trong các buổi tiệc tại các đơn vị như: Công ty TNHH MTV Nam Tây Nguyên; Đồn Biên phòng 11, 12; Ban quản lý rừng phòng hộ Thác Mơ; Chi cục Hải quan cửa khẩu Bu P’Răng; Công an tỉnh trong và ngoài giờ hành chính, có cả thứ bảy và chủ nhật. Bản thân Hiệu trưởng quan hệ bất chính với 1 Chủ tịch UBND xã (3).

Ghê rợn hơn nữa, từ tháng 7.2008 đến tháng 8.2009, hiệu trưởng Sầm Đức Xương  ở Hà Giang đã 6 lần mua dâm học sinh Hằng, 3 lần mua dâm học sinh Thúy và 6 lần mua dâm với những học sinh  khác, trong đó có ba em chưa thành niên (từ 16 – dưới 18 tuổi), ba học sinh khác là trẻ em (từ 13 – dưới 16 tuổi).  Xương vừa dùng tiền vừa dùng quyền lực ép các nữ sinh phải bán dâm, đổi lại các nữ sinh này sẽ được Xương nâng đỡ trong học tập.

Xương đã lôi kéo, tác động, biến hai em Hằng và Thúy từ nạn nhân thành tội phạm môi giới mại dâm. Tội tài trời như vậy nhưng chỉ bị xử 9 năm tù (4).

Ba ngành tố tụng cùng nhắm mắt

Việc nương nhẹ với các con quỷ dâm dục cũng không phải xảy ra một lần với Sầm Đức Xương. Năm 2018, ở Thái Bình nổi lên vụ Thượng tá, Phó phòng công an tỉnh Thái Bình cùng ba người khác hiếp dâm nữ sinh dưới 16 tuổi suốt 2 ngày đêm. Cơ quan CSĐT – Công an TP. Thái Bình lại khởi tố tội danh rất nhẹ là “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Dư luận phản đối rất mạnh mẽ.

Bác sĩ Nguyễn Trọng An – Chuyên gia bảo vệ chăm sóc Trẻ em, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng đồng, cho rằng, hành vi của bốn bị can để lại hậu quả nguy hiểm cho gia đình nữ sinh T.M và gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội. Khởi tố tội danh này chưa thực sự hợp lý, vì nhóm đối tượng đã “lên kế hoạch” từ trước, khi chủ động đưa nạn nhân đi ăn nhậu, thuê khách sạn, rồi rủ bạn bè về giao cấu tập thể.

Theo ông An, ranh giới giữa tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” và tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” chỉ khác nhau ở ý chí của bị hại.

Với trường hợp của nữ sinh T.M khó có thể tin rằng, nữ sinh này tự nguyện giao cấu với ba người, và có hành vi dâm ô với một người đàn ông khác, trong cùng một thời điểm (5).

Bỏ qua sự thật của vụ án, bất chấp dư luậnTòa án nhân dân TP Thái Bình đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Thương tá công an và ba đồng phạm về tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” (6).

Như vậy, không chỉ công an mà Viện Kiểm Sát, Tòa Án, ba ngành tố tụng đồng tình bao che cho tội phạm. Dư luận phẫn uất lên tiếng đến mức Quốc Hội phải lập đoàn Giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em tại tỉnh Thái Bình. Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đã đồng ý với đề xuất rút hồ sơ vụ án 4 người trong đó có cán bộ Công an tỉnh xâm hại tình dục nữ sinh 14 tuổi để nghiên cứu, xem xét lại (7).

Hội nhà văn phong chức kẻ hiếp dâm

Cũng ngay lúc này, dư luận trong nước đang sục sôi về vụ bao che nhà thơ Lương Ngọc An, bị hai phụ nữ tố cáo hiếp dâm. Người thứ nhất, nhà thơ nữ Dạ Thảo Phương (đang sống tại nước ngoài), tố cáo ông An đã hiếp dâm và vu cáo bà trong thời gian dài. Bà cũng công bố bản photocopy tường trình của ông Nguyễn Lê Tâm và nhiều nhân chứng khác trong Báo Văn nghệ nhìn thấy ông An đang chồm lên người bà Thảo Phương và bóp cổ bà. Hệ quả việc hiếp dâm làm bà Thảo Phương mang thai và sau đó bị sảy thai. Người thứ hai là nhà văn Bùi Mai Hạnh, cũng lên tiếng trên Facebook cá nhân về việc ông An đã tấn công tình dục bà không thành.

Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam không hề kết luận vụ việc, công an cũng không thụ lý. Sau đó Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam quyết định điều động nhà thơ Lương Ngọc An thôi giữ chức vụ Phó tổng biên tập, Thư ký tòa soạn Báo Văn Nghệ, để nhận nhiệm vụ mới (8).

Hành vi bị tố cáo nói trên nếu được điều tra kết luận có thật, phải bị xử lý hình sự thế nhưng sau hai năm im lặng, ngày 8-12, nhà thơ Lương Ngọc An vừa được Hội Nhà Văn bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn và Cuộc sống ,cũng thuộc Hội này (9).

Giới trí thức, văn nghệ sĩ đã phản ứng dữ dội về sự bao che này. Tiến sĩ Dương Tú đã có bài viết “Trách nhiệm giải trình của Hội nhà văn Việt Nam”.

Trong bài, nhấn mạnh “trước tố cáo của nhà thơ Dạ Thảo Phương về hành vi nhiều lần cưỡng hiếp của ông Lương Ngọc An, cùng sự quan tâm rộng rãi của xã hội về vụ việc này, Hội Nhà văn Việt Nam cần thực hiện trách nhiệm giải trình về quyết định điều động ông An giữ chức vụ Phó Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống. Dư luận có quyền được biết quyết định đó có phù hợp với tôn chỉ, mục đích xây dựng nền văn học Việt Nam “nhân văn” hay không.

Hơn nữa, Điều lệ Hội Nhà văn Việt Nam cũng quy định nhiều nghĩa vụ của hội viên, bao gồm “nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành Điều lệ, quy định của Hội” cũng như “bảo vệ uy tín của Hội” (10).

Nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Hoàng Tuấn Công không chỉ phản ứng bằng lời nói mà bằng cả hành động. Trước đó, ông nhận lời mời của nhà văn Phạm Xuân Nguyên viết về chuyện sai sót của Vua Tiếng Việt để đăng mục “Vấn đề hôm nay” do ông Nguyên phụ trách.

Nhưng khi nhìn thấy thông tin “Nhà thơ Lương Ngọc An được bổ nhiệm Phó Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống” ông thấy dâng lên một cảm giác ghê sợ.

Dù được ông Nguyên xác nhận bài đặt cho báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) ông Hoàng Tuấn Công vẫn xin lỗi, sẽ không gửi bài đặt như đã hẹn nữa. Lý do, Hội Nhà văn Việt Nam vừa bổ nhiệm một kẻ đang bị tố cáo có hành vi hiếp dâm, cưỡng bức tình dục vào chức vụ Phó Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn & Cuộc sống.

Ông Hoàng Tuấn Công kết luận: “Vẫn biết ‘không mợ thì chợ vẫn đông’, nhưng thông qua việc dứt khoát từ chối đăng bài trên bất kỳ trang nào của Hội Nhà văn Việt Nam lúc này, đơn giản là tôi thấy cần phải làm một cái gì đó, ít nhất là biểu lộ công khai quan điểm và bày tỏ thái độ nghiêm túc của một người viết không bao giờ thỏa hiệp trước cái xấu, cái ác hoặc sự bất minh” (11).

Bất chấp dư luận, được sự che chở từ đâu đó, ông Chủ tịch Hội Nhà Văn vẫn im lặng. Tội phạm Lương Ngọc An vẫn đình huỳnh phục chức tương lai thăng tiến lên Tổng Biên Tập đang rộng mở.

Thế đó, bao che cho quan chức phạm tội hiếp dâm đã thành truyền thống của xứ sở thiên đường. Truyền thống ấy bắt đầu từ rất xa xưa. Từ những vụ án giết người bị xóa dấu vết, bịt đầu mối, chỉ còn lại tiếng vọng và hậu quả. Xin mời nghe lời kể của nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả Hồi ký Đêm giửa ban ngày và là con trai của ông Vũ Đình Huỳnh, từng là thư ký riêng của Hồ Chí Minh (12).

Hay những dấu tích còn sót lại qua con người của thế hệ sau trong bài viết sau đây (13).

_________

Tham khảo:

1- https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/hai-quan-chuc-vietnam-be-boi-o-newzeland-truoc-chuyen-di-cua-thu-tuong-pham-minh-chinh-12112024215234.html

2- https://baophapluat.vn/nu-giao-vien-thi-xa-hong-linh-bi-dieu-lam-tiep-tan-hay-tiep-vien-post232225.html

3- https://nld.com.vn/thoi-su/vu-hieu-truong-dieu-giao-vien-di-tiep-khach-nhung-doan-vip-nao-duoc-diem-ten-20221218091848263.htm

4- https://thanhnien.vn/vu-an-hieu-truong-mua-dam-tre-vi-thanh-nien-sam-duc-xuong-bi-tuyen-9-nam-tu-185366384.htm

5- https://laodong.vn/phap-luat/vu-nu-sinh-lop-9-bi-thuong-ta-cong-an-dam-o-kho-co-the-tin-bi-hai-tu-nguyen-giao-cau-635451.ldo

6- https://nhandan.vn/ba-nam-tu-cho-nguyen-pho-phong-canh-sat-xam-hai-tinh-duc-tre-em-post356124.html

7- https://daidoanket.vn/quoc-hoi-muon-xem-xet-lai-vu-an-can-bo-cong-an-va-doanh-nhan-xam-hai-tinh-duc-nu-sinh-14-tuoi-tai-thai-binh-10137478.html

8- https://thanhnien.vn/nha-tho-luong-ngoc-an-thoi-giu-chuc-pho-tong-bien-tap-bao-van-nghe-1851449263.htm

9- https://www.anninhthudo.vn/event/nha-van-nguyen-viet-ha-48.antd

10- https://baotiengdan.com/2024/12/08/trach-nhiem-giai-trinh-cua-hoi-nha-van-viet-nam/

11- https://www.facebook.com/TuancongThuphong/posts/pfbid02dKNbz43paABPRowAx7PSQ9M2PUVvKfUhCB4KYL44Pi5EdcfMgRA9nwa5H4qmiV7Bl

12-https://www.youtube.com/watch?v=xr68YoDrGDg

13-https://baotiengdan.com/2021/09/13/bi-mat-cuoc-doi-cua-nguyen-tat-trung-con-trai-ong-ho-chi-minh/


 

Bộ Chính trị cảnh cáo ông Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hoà Bình; khiển trách bà Trương Thị Mai

Ba’o Tieng Dan

13/12/2024

VOV

13-12-2024

LGT từ Tiếng Dân: Theo một số nguồn tin mà chúng tôi có được, những ngày qua, ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Vương Đình Huệ bị C03 Bộ Công an liên tục mời lên làm việc. Hôm nay, với việc cảnh cáo và “Đề nghị các cơ quan chức năng thi hành kỷ luật hành chính kịp thời, đồng bộ với kỷ luật đảng”, không biết liệu ông Tô Lâm, đệ tử ruột của cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, có cho tống giam hai “sâu chúa” như một biệt lệ hay không?

Và cũng theo thông tin mà chúng tôi được biết, ông Nguyễn Thanh Nghị, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, con trai cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể được điều về nắm chức Phó Bí thư thường trực thành Hồ, một bước đệm để lên chức Bí thư thành uỷ TP.HCM. 

Sau đây là thông tin từ VOV về chuyện cung đình:

***

Ngày 13/12/2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã xem xét, thi hành kỷ luật đảng viên có vi phạm, khuyết điểm.

Sau khi xem xét đề nghị của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Bộ Chính trị nhận thấy:

Ông Nguyễn Xuân Phúc, trong thời gian giữ chức vụ Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự đảng, Thủ tướng Chính phủ đã vi phạm quy định của Đảng, Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả nghiêm trọng, dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Bà Trương Thị Mai, trong thời gian giữ chức vụ Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương đã vi phạm quy định của Đảng, Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; vi phạm quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Ông Trương Hoà Bình, trong thời gian giữ chức vụ Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Ban cán sự đảng, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; vi phạm quy định của Đảng, Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả nghiêm trọng, dư luận xấu, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Căn cứ nội dung, tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm của các đảng viên nêu trên, theo quy định của Đảng về kỷ luật đảng viên vi phạm, Bộ Chính trị quyết định thi hành kỷ luật Cảnh cáo ông Nguyễn Xuân Phúc, Trương Hoà Bình; Khiển trách bà Trương Thị Mai.

Đề nghị các cơ quan chức năng thi hành kỷ luật hành chính kịp thời, đồng bộ với kỷ luật đảng.


 

Án oan Hồ Duy Hải ra sao khi ông Nguyễn Hòa Bình rời đi?

Ba’o Nguoi-Viet

December 10, 2024

Đàm Chính Sự

Vụ án oan sai của Hồ Duy Hải đã trở thành một vết thương mưng mủ trong lòng xã hội Việt Nam suốt hơn một thập niên qua, gieo rắc nỗi hoang mang về tính công bằng và minh bạch của hệ thống tư pháp.

Gắn liền với nó là hình ảnh của cựu Chánh Án Nguyễn Hòa Bình, người vừa rời khỏi ngành tòa án để đảm nhiệm vị trí phó thủ tướng đầy quyền lực. Liệu sự ra đi này, cùng với những biến động nhân sự khác trong ngành tư pháp, có mở ra tia hy vọng thực sự cho công lý được thực thi, hay vụ án Hồ Duy Hải sẽ tiếp tục chìm trong bóng tối của những khuất tất, tranh cãi và sự thờ ơ của những người có trách nhiệm?

Hồ Duy Hải, một thanh niên 23 tuổi đến từ Long An, bị kết án tử hình vì tội giết hai nữ nhân viên bưu điện Cầu Voi vào năm 2008. Tuy nhiên, ngay từ đầu, vụ án đã vướng rất nhiều điểm nghi vấn, khiến dư luận và gia đình Hải tin rằng anh bị oan.

Không có nhân chứng nào nhìn thấy Hồ Duy Hải gây án, DNA của anh cũng không được tìm thấy tại hiện trường. Con dao được cho là hung khí đã bị thay đổi một cách khó hiểu so với ban đầu, các vật chứng khác cũng có dấu hiệu bị làm giả hoặc bị hủy một cách có chủ đích.

Hồ Duy Hải từng khai nhận tội nhưng sau đó lại liên tục rút lại lời khai, khẳng định mình bị ép cung, bị đánh đập và đe dọa để nhận tội. Đáng chú ý, cơ quan điều tra đã bỏ qua những bằng chứng ngoại phạm quan trọng, cho thấy Hải có thể đã ở nơi khác vào thời điểm xảy ra vụ án, thậm chí còn có những nhân chứng có thể xác nhận điều này.

Năm 2020, sau nhiều năm đấu tranh không mệt mỏi của gia đình Hải và sự lên tiếng của dư luận, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao dưới sự lãnh đạo của ông Lê Minh Trí đã đưa ra kháng nghị, chỉ ra 17 điểm phi lý trong vụ án và đề nghị tuyên Hải vô tội. Kháng nghị này được coi là một bước ngoặt quan trọng, khẳng định những nghi ngờ của dư luận về tính oan sai của vụ án là có cơ sở.

Ông Nguyễn Hòa Bình. (Hình: Tuoitre)

Tuy nhiên, kháng nghị này đã bị bác bỏ một cách đầy bất ngờ và gây tranh cãi bởi Hội Đồng Thẩm Phán do chính ông Nguyễn Hòa Bình, khi đó là chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, làm chủ tọa. Điều đáng nói là trước đó, khi còn là viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao (2011-2016), ông Nguyễn Hòa Bình đã từng nhiều lần khẳng định Hải có tội, thậm chí còn ký văn bản khẳng định không kháng nghị bản án sơ thẩm và phúc thẩm, góp phần vào việc chủ tịch nước bác đơn xin ân xá của Hải.

Việc ông Nguyễn Hòa Bình tham gia tố tụng ở cả hai vị trí then chốt, mang tính quyết định đối với số phận của Hồ Duy Hải, đã dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận và giới luật sư. Nhiều ý kiến cho rằng ông đã vi phạm nguyên tắc khách quan, công bằng trong xét xử, đồng thời thể hiện rõ sự xung đột lợi ích.

Lẽ ra, với tiền sử tham gia vào vụ án ở vị trí người đứng đầu cơ quan công tố, ông nên tự rút lui khỏi phiên tòa giám đốc thẩm để bảo đảm tính công bằng tối đa cho Hồ Duy Hải. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra, và quyết định của Hội Đồng Thẩm Phán do ông chủ tọa đã khiến niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp thêm lung lay.

Giờ đây, với sự ra đi của ông Nguyễn Hòa Bình khỏi ngành tòa án và việc ông Lê Minh Trí, người từng đứng đầu Viện Kiểm Sát kháng nghị vụ án, trở thành chánh án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, một tia hy vọng mong manh đã xuất hiện. Liệu vụ án oan Hồ Duy Hải có được xem xét lại một cách khách quan, toàn diện và công bằng hơn? Liệu những sai sót trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sẽ được nghiêm túc xem xét và sửa chữa? Liệu công lý sẽ được thực thi, trả lại sự trong trắng cho Hải sau hơn một thập niên sống trong cảnh tù tội và đối mặt với án tử hình oan ức?

Câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ, và không ai dám chắc chắn điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Tuy nhiên, sự thay đổi nhân sự cấp cao trong ngành tư pháp ít nhiều đã thắp lên niềm tin cho những ai khao khát công lý cho Hải, cho gia đình anh và cho chính hệ thống tư pháp Việt Nam.

Tuy nhiên, thực trạng xung đột lợi ích, thiếu minh bạch và sự can thiệp của các thế lực bên ngoài vào hoạt động tư pháp vẫn là một vấn đề nhức nhối, cần được giải quyết triệt để để đảm bảo tính công bằng và liêm chính cho mọi vụ án.

Vụ án Hồ Duy Hải có thể trở thành một bước ngoặt quan trọng, thúc đẩy sự thay đổi tích cực, toàn diện trong việc thực thi công lý tại Việt Nam, hay sẽ tiếp tục là một vết thương mưng mủ, gây xói mòn niềm tin của người dân vào hệ thống pháp luật và công lý? Thời gian và những hành động cụ thể của các cơ quan chức năng sẽ cho chúng ta câu trả lời.