Nhìn lại việc thi tú tài Ở Việt Nam trước 1975

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

20/06/2025 

Hình Quảng Trường Thi Nam Định (năm 1897) (Nguồn: nguyentl.free. fr)

Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.

Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.

Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau: “Ở nước ta hiện nay, số hậu Duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa” (Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82)

 Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:

“Ân sâu nghĩa nặng tình dài

Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?”

Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông : “Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy. Vì vậy, mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quý thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.” (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65)

Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955)

May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.

Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội)

Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.

Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước. “Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử” (Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí)

Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?

Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bất cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.

Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: “Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.” (LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).

Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.

 Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.

Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng ly từng tý việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám. Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ: “Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào” (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ – Bộ Lễ- Q.192 : Học Hiệu)

Thật ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi Tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ Thông dành cho các lớp đệ tứ và thi Tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trường chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học Sư Phạm, các trường Kỹ Sư Phú Thọ như Điện, Công Chánh vv..

 Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.

Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.

Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ Tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.

Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp 12, ban B, trường Pétrus Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng Quốc Gia đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách chủ biên một tờ báo mạng toàn cầu.

Việc học còn từ chương

Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết: “Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy… Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc…” (Trích Nguyễn Trường Tộ- Con người và di thảo, Trương Bá Cần, tr 76, NXB TPHCM, 1988).

Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.

Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cũng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.

Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.

Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.

Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc: “Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo” (Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên.)

Đại Nam Thực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.

Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.

Thi cử lấy đỗ khá khắt khe

Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.

Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.

Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học. (Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)

Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không có điểm số nào anh đạt trung bình. Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!

Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (Gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức).

Ông nhận xét như sau :” Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.” (Trích Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, tg 279-281)

Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tước thật hơi lạ. “Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” (Trích như trên)

Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.

Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vây. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không nhẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.

Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn: “N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un dis cours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais “alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures…” (Trích Le grand mensonge de l’éducation, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12) Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp”, vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.

Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp văn, Anh văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm… Sau đó, cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cùng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiêu khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?

Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand vv… Sinh ngữ 2 là Anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh văn làm sinh ngữ một.

Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc Anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.

Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ chưa ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?

Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết: “Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua . Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài”, chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói”. Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt” (Trích Hơn nửa đời hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228)

Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo quá. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.

Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.

 Một vài nhận xét

Tú tài Việt

Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.

  • Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950
  • Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.
  • Tỉ lệ tú tài một: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ một là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.
  • Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.
  • Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài một. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài một. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài hai, khóa hai cũng rât cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.
  • Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.
  • Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.

Tú tài Pháp

  • Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại đường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?
  • So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Pháp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.

Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.

Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo

Tổ chức chặt chẽ

Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có nề nếp trong thi cử là yêu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ như phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ, lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.

Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông Tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.

Tổ chức ấy được tiến hành như sau:

Nha Khảo Thí

Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi Trung học Phổ thông và 4 lần thi tú tài một và hai. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và Giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Sài Gòn vì là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, Nha Trang, Cần Thơ vv… Hội Đồng Giám thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quãng Ngài, Đà Nãng, Hội An, Quảng Trị vv… Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.

Nhưng bộ phận quan trọng của Nha Khảo thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm trót lọt trên lầu 3 của Nha Khảo Thí.

Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở như có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời vv… Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.

Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì. Niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người.

Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy.

Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.

Nhân cách người thầy qua thi cử

Chắc các vị lớn tuổi một tý còn nhớ câu chuyện giáo sư Hoàng Cơ Nghị, giáo sư toán đã đánh rớt cô em gái tài giỏi của mình. Chẳng những không cho đỗ mà còn “trù ếm” đánh rớt oan. Sau này, cô tức khí bỏ đi Pháp học mà bằng cấp chẳng những không thua gì anh, còn vượt trội.

Không ai có thể đòi hỏi một giám khảo như ông Hoàng Cơ Nghị. Nhưng đó là một tấm gương.

Cứ lấy kinh nghiệm bản thân cho thấy, trong suốt cuộc đời đi chấm thi, tôi chưa hề thấy một lần, dù là thứ học trò ruột dám mở lời nhờ cậy. Tuyệt đối không. Tôi vừa nói chuyện hỏi thăm một cháu trai hồi đó đi thi đỗ hạng bình, tôi nhớ lại trong nhà, chắc cũng có nhiều cháu con các chị đi thi, vậy mà chú hay cậu nó có giúp được gì không? Trong nhà còn không giúp được làm sao giúp được người ngoài? Nếu có 2000 ngàn vị giám khảo trên toàn quốc mà mỗi người có độ hai ba “con gà”, vị chi là có 6000 thí sinh được chạy chọt, được điểm cao thì còn gì giá trị việc thi cử nữa?

Cứ nghĩ như thế để thấy tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đâ đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.

Cuộc đời thầy giáo ở đâu cũng thế phần đông nghèo, bổng lộc không có, chức tước cũng không. Cùng là bạn học, dù chỉ là một thiếu úy, nếu nó không dại dột sắm hòm tô bia cho mình, biết đâu có ngày nó lừng lững lên đến tá tướng. Cùng đỗ tú tài, đứa học Đại Học Sư Phạm, đứa học Quốc Gia Hành Chánh. Lương bổng ngạch giáo sư có nhích hơn bên Quốc Gia Hành chánh. Vậy mà một ngày nào đó không xa. Ông bạn Quốc Gia Hành Chánh cứ lên như diều như trường hợp ông Nguyễn Bá Cẩn. Chẳng may không lên, nếu nó lanh lợi một chút cũng có xe cộ, nhà cửa, vợ đeo hột soàn… Nó đi xe hơi, đánh bạc ăn bạc trăm bạc ngàn. Mình đi xe đạp hoặc xe gắn máy, đánh mạt chược cò con, được thua đáng giá chục tô phở.

Ấy là chưa kể để giữ an ninh cho gia đình, hoặc phú quý sinh lễ nghĩa, nó lập phòng nhất, phòng nhì, phòng ba, phòng bốn. Trong đời tôi, chỉ một lần thấy một ông giáo có phòng nhì mà thôi.

Nói thế chỉ có ý nói nhà giáo ít có cơ hội làm điều xấu. Tôi có bạn là Quốc Gia Hành Chánh, nay nghiên cứu sử ưu thế hơn “sử gia” mà lúc ở hành chánh chẳng biết tơ hào, sơ múi gì. Có rất nhiều người như thế. Người hiền lương ở đâu cũng có thể là hiền lương được.

Nhưng người đời theo thói thường trọng nhau khinh nhau ở chỗ đó.

Nhà giáo suốt đời dậm chân tại chỗ, không lên mà cũng không xuống, “không có tương lai”. Cái uy tín thầy giáo không ai ban phát cho ông được. Tự ông mà có.

Ông vì thế cũng không cần xin sỏ bất kỳ ai.

Thầy Nguyễn Văn Lục và các nam sinh trường Trung Học Ngô Quyền.

 Trường hợp các nhà Giáo như Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim là hi hữu của thời trước. Trong Nam có cụ già Hương thì nghiệp cầm phấn chỉ là lúc ban đầu. Nhưng cái background nhà giáo đã làm nền, đánh bóng cho cuộc đời chính trị của cụ sau này.

Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học. Đặc biệt là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.

Miền Nam có thể thua miền Bắc để mất miền Nam. Nhưng nền giáo dục ở miền Nam dù còn chập chững thiếu sót mà thực tế ngày nay cho thấy vượt trội rất xa miền Bắc cộng sản cả về chất lượng đào tạo và phẩm chất đạo đức.

Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.

Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại Hải ngoại.(Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997)

Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997}.

Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.

Về phía đồng bào tỵ nạn đi từ miền Bắc hoặc đã ở các nước Đông Âu với tư cách sinh viên du học sau khi các nước cộng sản Đông Âu sụp đổ, đã có bao nhiêu người đã đỗ đạt và thành công ở xứ người? Tôi sợ rằng con số là ít ỏi. Hiện nay các di dân đi từ miền Bắc đang gây nhiều trở ngại cho các nước Đông Âu và họ tìm cách tống xuất những người Việt trên về lại Việt Nam vì rất nhiều lý do.

Nền giáo dục đào tạo do cộng sản cầm đầu và chính quyền cộng sản có trách nhiệm gì về những thành phần sống bất hợp pháp này? Phải chăng nó chỉ là hậu quả tất yếu của một chính sách giáo dục phi nhân bản mà những thành phần di dân từ miền Bắc nay phải gánh chịu hậu quả?

Nói ra đây không phải để so bì với các anh chị em đó, nhưng cần nói thẳng là do hậu quả cách đào tạo và nền giáo dục dưới chế độ cộng sản đã quá yếu kém về mọi mặt.

Vậy mà họ dám viết phê phán nền giáo dục của VNCH như sau: “ Mỹ và chính quyền Sài Gòn cố gắng kết hợp mọi triết học cũ xưa với triết học mới nhất nhồi nhét những thế hệ thanh thiếu niên “lý tưởng quốc gia” giả hiệu, “thế giới tự do”, làm cho họ chạy theo lối sống thực dụng, hoặc sợ hãi sức mạnh nước ngoài, rồi bi quan, yếm thế, an phận” (Trích Địa chí văn hóa .. trang 768)

Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam.

Mặc dầu vậy, vẫn có những vụ bê bối không tránh được và người viết không ngại vạch áo cho người xem lưng. Không phải để bôi xấu gì mà để cho thấy trong cái tốt có cái xấu.

Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết”. Ngồi coi ciné trong rạp mà cứ “xé rào”. Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như nhụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?

Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra – thời nào cũng có – và điều đó không có gì lạ.

Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phê Rô lừng lững vào Thiên Đàng?

Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết: “Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bắc Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn. (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)

Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.

Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra để chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường- do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền- Và truyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.

Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.

Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Pétrus Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả vê sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.

Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.

Các Hội Đồng Thi

Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.

Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buốc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.

Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?

Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.

Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.

  1. Hội Đồng Giám thị

Công việc của Hội đồng giám thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá vv… Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó.

Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.

Ban Chủ tịch Hội đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học- Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác- giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.

Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.

Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.

Đây là lần đầu tiên trong đời nhà giáo có tý oai dựa hơi tỉnh trưởng, đi xe có “lính hầu”, tìền hô hậu ủng.

Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.

Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.

Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò càc giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.

Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.

Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng giám khảo.

Công việc của Hội Đồng giám thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xấp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.

Thế là hết một mùa thi đối với học trò.

Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.

Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.

Phần ông thầy, người viết bài này, đi chấm thi xong ở một nơi nào đó, vội về thăm một vòng xem đứa nào đỗ, đứa nào rớt. Nhiều quá, không nhớ hết. Tất cả trách nhiệm 12 lớp đệ nhất vừa công vừa tư. Chỉ mong chúng đậu nhiều. Đậu nhiều thì thầy mừng và không khỏi hãnh diện. Có nước mắt mừng vui và chia sẻ. Kỷ niệm vào một buổi trưa nắng, trong nhà học trò đang mở tiệc, ông thầy xuất hiện đột ngột, chỉ kịp hỏi vài câu đủ làm nên những cảm xúc và kỷ niệm nhớ cả đời.

Đó cũng là ý nghĩa cuộc đời ông thầy.

Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.

Thi cử chặt chẽ và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.

Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin sỏ.

Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.

  1. Hội đồng giám khảo

Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.

Nhiều khi công việc chấm thi đến mệt mỏi và chán chường. Phải nhẫn nại để cố gắng đừng chán nản. Nhất là công việc cộng điểm được chia ra từng nhóm để làm việc.

Nếu chấm ở Huế thì có dịp thưởng thức cái nóng gió Lào. Cái nóng chảy mỡ. Những bữa cơm cay sè thanh đạm với những cuộn rau sống xanh và đắng ngắt. Những tô canh cá bống cay xè, điểm tô bằng một hai con cá hiếm hoi như bơi lội tung tăng. Những đĩa thức ăn Tiểu, Trung, Đại đến là ít ỏi và cạnh đó là một lô ăn mày ngồi chực săn để vét tý canh thừa cơm cặn.

Huế đồng nghĩa với nghèo trong những bữa ăn. Nghèo đến tội nghiệp. Nhưng thiếu nữ Huế vẫn giữ nếp nhà, vẫn cố che dấu tất cả trong những tà áo dài. Ngay cả những người bán hàng quà rong cũng ăn mặc tươm tất.

Đó là phong cách Huế.

Gái Huế vẫn kín đáo và mở phơi trong biện chứng khép mở, chờ đợi, đón nhận và sẵn sàng. Ngoài những người con gái Huế ra, Huế còn gì để nói? Nói về Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chăng? Hay nói về các phong trào tranh đấu?

Không có gì đẹp và có thể so sánh được với tà áo Huế. Không ở đâu có những mái tóc chải mượt và đôi con mắt của người con gái Huế ngồi bên mạn thuyền.

Nó gửi gắm nhiều thứ lắm.

Thôi thì cũng phải quay về với bài thi. Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.

Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.

Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai.

Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.

Hết những giờ làm việc căng thẳng và mỏi mệt ra đến cổng trường là bị đám đông bu lại, hỏi thăm tíu tít, hốt hoảng lo âu. Hầu hết những câu hỏi không trả lời được đành tìm cách thoái thác cho xong. Công chúng chờ đợi, trẻ già người lớn, đứng đông nghẹt trông ngóng trước cổng trường. Càng gần đến ngày công bố kết quả, bầu khí như sôi sục hẳn lên. Lại chờ đợi. Họ đổ xô đến các giám khảo, hỏi thăm tin tức, dúi những mảnh giấy nhờ vả xem kết quả dùm.

 Đúng là không khí mùa thi cử có lẽ chỉ nhìn thấy ở Việt Nam.

Vô ích, chẳng ai có thể làm gì cho họ được. Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau Tết Mậu Thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo đ ược dán lên.

Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.

Đầu thập niên 1960, lúc bấy giờ còn có kỳ thi vấn đáp nữa. Thêm một thứ rào cản vô ích và thừa thãi.

Nó chẳng để làm gì. Nếu không muốn nói nó vô tích sự. Chẳng kiểm soát được khả năng và học lực của học sinh. May mà các kỳ thi vấn đáp đã bị bãi bỏ.

Tú Tài I.B.M

Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.

Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.

Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ”. Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “Học gạo”.

Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.

Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng vv…

Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.

Câu truyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay cộng sản. Chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.

Chế độ giáo dục mới giống loài tôm hùm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.

Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào l ớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?

Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.

Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này : “Sài Gòn- Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vừa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến”. (Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748)

Vài kỷ niệm nhỏ về thi cử

Ai thích thì đọc, không đọc thì cứ bỏ qua nhé. Năm ấy, tôi cùng với Trương Ân, bạn học cũ thời sinh viên, nay là hiệu trưởng Quy Nhơn đi coi thi ở Phan Thiết. Trương Ân người phốp pháp, mặt đỏ gay như chú Ba Tàu. Tính nết vui vẻ, hồn nhiên, năng động, tháo vát, nhiệt tình, có lòng, đi đến đâu đem không khí vui nhộn đến đó. Được rất nhiều bạn bè đồng nghiệp quý mến từ thời đi học. Anh đã mất vì đột quỵ ở Paris khi còn trẻ. Trương Ân là chủ tịch Hội đồng thi, còn tôi là tà lọt của Trương Ân. Viết mấy dòng này, tôi muốn thân tặng các cựu học sinh Cường Để Quy Nhơn và em gái Trương Ân và chồng là Tích. Chúng tôi đáp máy bay quân sự từ phi trường Nha Trang đi Phan Thiết. Khoảng đường Nha Trang- Phan Thiết tuy ngắn, nhưng kém an ninh nên đành dùng máy bay. Tôi đoán là loại máy bay của Úc Đại Lợi. Trên máy bay không có ghế ngồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống sàn, chen chúc với tủ bàn ghế, rương hòm đủ thứ. Nóng bức như lò lửa. Chắc là có sĩ quan nào dọn nhà đổi ra Phan Thiết chăng. Gần đến nơi, tài xế máy bay như biểu diễn, nhào xuống như tụt dốc, phải bám chắc lấy thân máy bay. Sợ hết hồn vía.

Hồn nhiên và vui tính như Trương Ân cũng không có bụng nào mà cười được. Đến nơi, quần áo xốc xếch, tóc tai bù xù, người nhễ nhại mồ hôi thì đã có ông Trưởng Ty tiểu học ra đón. Ông “mẫn cán” thế này chắc có truyện nhờ vả rồi. Xe đưa chúng tôi về nhà Tùng, cũng là bạn học cũ, hiệu trưởng Phan Thiết đi coi thi chỗ khác. Nhà Tùng giàu có, nhà mới quá đẹp, khang trang, mát mẻ.

Thôi đúng như là đi nghỉ hè.

Nghỉ một chút, rửa mặt mũi xong thì ông trưởng ty vào đề mời ba chúng tôi đi ăn cơm tối. Trương Ân “lão luyện” trong nghề nên từ chối rất khéo. Tưởng yên, ai ngờ chiều tối, một hiệu ăn Tầu chở bàn ghế tới bầy tiệc ngay tại nhà. Không có cách nào khác đành chịu trận ngồi ăn. Trong bàn tiệc có thêm mấy người, trong đó có hai cô giáo và một giáo viên trẻ, con trai ông Trưởng ty.

Chúng tôi ăn uống vui vẻ. Không một chữ nhắc đến thi cử. Nhân tiện đó, mấy cô giáo mời chúng tôi, bữa sau đến nhà ăn cơm. Chúng tôi hoan hỉ không thắc mắc.

Buổi sáng thi cử diễn ra bình thường. Chỉ có điều tôi nhận ra giáo viên, con trai ông trưởng ty lại coi ở một phòng khác. Xem xét lại, tôi biết là có sự nhầm lẫn. Tôi nhẹ nhàng nói nhỏ với anh ấy về lại phòng thi mà anh đã được chỉ định. Cũng hơi ngượng. Sáng hôm sau thì có sao quả tạ xảy ra cho tôi. Tôi đi rảo qua hành lang. Chỉ cần đi thoáng qua là biết ngay cô cậu nào đang “quay film”. Đầu cứ cúi gằm xuống là có chuyện. Tôi vào phòng và nhận ra “thủ phạm” dấu bài quay dưới vạt áo dài ở đùi. Tôi đến gần, cúi xuống nói nhỏ với em nữ sinh cất “bửu bối” đi và tránh không để em bị xấu hổ. Không biết vì sao, em hối hả lấy miếng giấy cho vào miệng nhai phi tang, đồng thời nói to là tôi bắt oan em. Em nói to, bù lô, bù loa làm câu chuyện thành lớn. Tôi bối rối, luống cuống rồi đành lấy bài thi của em. Dằng co dằng lại chẳng ra làm sao cả. Cuối cùng thì em thả ra và nhận tờ giấy thi mới. Tôi cầm tờ giấy làm bài đi về văn phòng Hội Đồng thi. Em hoảng tưởng tôi làm biên bản. Khổ thế, tôi lấy để vứt đi thôi. Em bỏ phòng thi, chạy theo tôi vừa nói lải nhải. Một điều tối kỵ không cho phép làm là ra khỏi phòng thi như vậy. Lại ồn ào, hình như có khóc lóc. Mọi người, các thư ký văn phòng ngoái nhìn. Nói mãi em mới chịu về. Tôi trở lại phòng thi của em, tức giận. Nhờ giáo viên ghi vào phách là: Thí sinh gian lận. Ký tên.

Buổi trưa ra về, em đón tôi tại cổng trường ra chiều tuyệt vọng không năn nỉ nữa và hét to trước khi bỏ đi: “Thầy ác quá, sau này không có con”. May là lời nguyền rủa của em không ứng nghiệm. Sau này, tôi có hai con trai và có cả hai bàn tọa bình thường. Tôi im lặng không nói gì để cho em rủa và xỉ vả. Nhưng buồn.

Cho đến bây giờ nhắc lại vẫn thấy buồn. Và tự nhiên còn hối hận vì nặng tay với em. Thôi thì cho xin lỗi. Trong đời đi dạy, niềm vinh hạnh đến cho tôi thì đầy không có chỗ chứa. Nhưng bên cạnh đó, có những ân hận việc này, việc nọ nhiều khi chẳng đáng mà vẫn còn ân hận như mắng nặng một em nữ sinh, dĩ chí có lần tát vào má một nữ sinh trước mặt đông đảo học trò. Ân hận này sao nguôi!

Bữa cơm tối tại nhà các cô giáo thật vui. Trừ Trương Ân có vợ là Hoa, chúng tôi đều độc thân. Buổi tối về nhà. Trương Ân lôi trong cặp ra một bản nhạc có nhan đề: Hãy trả lời em đi anh… Hãy trả lời em đi anh. Hắn mở đĩa nhạc trong nhà và nói: “con X nó mê cậu rồi và nó nhờ mang bản nhạc này về tặng cậu”. Thế rồi hắn rống lên theo cô ca sĩ đang hát như thể đó là mối tình của anh ta với cô X. Bản nhạc sến ơi là sến. Sau 4 ngày thi cử, chúng tôi ra phi trường về lại Nha Trang. Không biết ai đó tặng ba đứa mỗi đứa một túi sắc trong có cá mực, nước mắm nhĩ. Và mỗi người không quên nhận một lô giấy ghi tên học sinh, số báo danh vv…

Điều bất ngờ đến ngạc nhiên là X theo ra phi trường từ lúc nào, đứng sẵn ở một góc, mắt đỏ hoe. Tội nghiệp. Tôi đã vứt tất cả đám giấy tờ vì một lẽ dản dị là nhiệm vụ của tôi đã chấm dứt, tôi chẳng có thể làm việc gì cho ai cả. Tôi không có chân trong Hội đồng thi ở Nha Trang vì đây là kỳ thi tú tài một. Tôi có muốn gian lận cũng không được. Và tôi cũng đã không có dịp trả lời thư mà X đã gửi cho tôi.

Sau này X trở thành nhà văn. Phải chăng bắt đầu từ những giọt nước mắt tiễn đưa?

Mùa thi ở Huế, sau tết Mậu Thân 1968

Mậu thân xong, tôi lấy vợ trong hoàn cảnh đât nước mà tương lai không sáng sủa gì. Tôi nhận Sự Vụ Lệnh ra Huế chấm thi. Lại một tháng trời đằng đẵng, sống chung với gió Lào. Huế, nơi mà những năm trước tôi phải chứng kiến những cảnh rối loạn chính trị không mấy vui.

Nhiều lúc tôi ghét Huế lắm. Ra là buồn, về đôi khi cũng vương buồn. Trong khi xuống Cần Thơ, đi tuốt xuống miệt Long Xuyên, Rạch Giá vẫn thấy lòng thảnh thơi, ăn uống thoải mái. Đến và đi nhẹ nhàng. Chẳng biết tại sao, chẳng hề có dịp nào quen biết một cô gái.

Từ phi trường về đến thành phố, nét hoang tàn đổ nát vẫn không dấu diếm được. Những tàu lá chuối tả tơi rách nát. Những cây bị cắt đứt ngang đoạn. Những mái nhà tôn tróc nóc. Con đường dẫn vào Huế bụi mù.

Đôi mắt con gái Huế buồn tang tóc. Những “con đường tình nhân” ở Huế thưa bóng người. Vắng bóng xe đạp đi hàng đôi.

Nghỉ ngơi xong ra phố, đi một vòng. Những con đường như Trần Hưng Đạo, áo dài Huế nay không thấy thướt tha nữa.

Vết đổ nát vì bom đạn vẫn còn in đó chưa kịp sửa chữa hay không sửa chữa vì chủ nhân đã dọn đi vào Sài Gòn.

Huế đã có những mất mát không bao giờ lấy lại được. Ai phải chuộc lại cho những cái mất mát ấy?

Học trò Huế gian lận dễ sợ hơn các nơi khác. Cả con trai, con gái. Họ phải sống còn mà. Họ gian lận không dấu diếm, bắt được thì năn nỉ. Con gái thì nước mắt lưng tròng. Ai nỡ làm gì, đành ngoảnh mặt quay đi.

Lòng đã nản. Chấm thi như là “phóng sinh”, tôi cho rộng rãi hơn giám khảo khác đến hai ba điểm. Cứ có một vài ý là có điểm. Cho điểm rộng, chấm nhanh. Rồi bỏ ra phố. Nhiều giám khảo khác nhìn với ánh mắt thiếu tôn trọng.

Hoàn cảnh đất nước như thế còn có can đảm gò lưng từng phân ly nửa điểm để làm gì? Tôi nghĩ tôi hiểu biết đất nước hơn những giám khảo cù lần kia. Tôi có cái lý bắt từ chuỗi cảm nghiệm từ cuộc sống mà mặt đất đang rung lên từng hồi của bom đạn và chết chóc. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Tôi như sờ thấy, giáp mặt với chiến tranh. Tôi sợ và thù ghét chiến tranh.

Trong chiến tranh, cái gì cũng có thể được. Tout est possible.

Điểm của tôi là điểm của thời chiến, điểm của thời kỳ bom đạn. Thay vì những viên đạn, tôi cho điểm rộng hy vọng có một người khỏi chết vì bom đạn.

Cũng như những lần ra Huế trước, tôi gặp một cô giáo viên cùng coi chung phòng. Tạm gọi tên cô là N. Tôi và N. nói chuyện tương đắc, mặc dầu N. hầu như không nói câu nào cả. N. nói chuyện bằng những mỉm cười, bằng ánh mắt, bằng những thỏa thuận ngầm của cả con người N. N. nhẹ nhàng, N. kín đáo, nụ cười chúm chím, môi hồng phơn phớt. Tôi ghét chỗ ấy đậm mầu. Tôi không cắt nghĩa tại sao. 

Chúng tôi đã đi dạo buổi chiều ở một chỗ có nước rất êm đềm, rất ngọt nào đó. Mát dịu hẳn lên. Tôi nhìn N. qua làn áo dài mỏng thấy được nét trinh nguyên, tinh tuyền của N. Nếp quần dài au lên tuổi con gái. Không một tì vết. N. đi nhẹ nhàng, cẩn trọng từng bước. Không nói năng. Lâu lâu một tiếng dạ nhỏ. Ánh mắt ngước nhìn tinh nghịch. Cái đẹp nhất của người con gái để ta tôn thờ là nét trinh nguyên ấy. Lòng mềm đi khi nghĩ đến điều ấy khi nghĩ về N. Chẳng bao giờ còn những cảm giác như thế nữa. Chẳng bao giờ gặp những cảm giác như thế ngoài Huế. Gặp nhau chỉ có mấy ngày coi thi. Nhưng N. đã đi với tôi nhiều buổi chiều xem ra tin cẩn lắm. Chúng tôi có cảm tưởng quen nhau từ kiếp nào. Còn đi nhiều nơi không nhớ hết. Chúng tôi cứ đi thế thôi. Có lần đi trên một loại xe hàng như xe thùng, vuông, mầu trắng bẩn. Đi đâu không nhớ. Chỉ biết đi. Nắm nhẹ tay nhau truyền cảm giác chẳng nói năng gì mà nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ ấy. Tôi còn nhớ vài nốt mụn trứng cá tuổi dậy thì phía má trái, phấn son không che hết của N.

Tôi thích nhất là N. biết ngượng ngùng. Rồi một bữa, N. bạo dạn mời tôi đến nhà ăn cơm tối. Hình như chỉ có hai mẹ con. Nhà neo đơn lắm, thanh bạch không dấu nổi. Mẹ N soắn sít đến tội nghiệp không dấu được nỗi mừng cho con gái. Phần tôi đã có vợ. Tôi làm gì được?

Như thể những người phụ nữ chân chính nhất như N. bao giờ cũng nhận những phần thiệt thòi về mình.

Tôi rời xa Huế mà không có lấy cái địa chỉ. Sao N. có thể dại khờ đến như thế. Không biết trao tay một cái địa chỉ để liên lạc. Thế còn tôi thì sao?

Một sáng chủ nhật trong cái tuần lễ cuối cùng ở lại Huế, tôi lần mò lên nhà thờ Phủ Cam. Đường buổi sáng còn vắng người. Hai bên đường không còn một dấu vết đổ nát. Đã đến giờ lễ rồi. Tôi len lén ngồi dưới cuối dãy nhà thờ như một người khách xa lạ. Tiếng cầu kinh vang vang. Nhưng đến cái kinh: Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi thì giọng đọc kinh dần không còn bình thường nữa. Càng ngày nó càng biến thành những tiếng nỉ non, rồi tiếng rên xiết ứ trong cổ họng. Cả nhà thờ trắng xóa một mầu tang từ trên xuống dưới. Sao chết nhiều thế. Không trừ ai, không trừ nhà nào.

Huế tang thương. Huế giết Huế. Tôi rời Huế với những ý nghĩ đen tối như thế. Tôi vứt bỏ lại đằng sau những chuyện thi cử và muốn chạy trốn khỏi Huế.

Tôi ra trụ sở hãng máy bay Air Viet Nam để trở về Sài Gòn. Hết một tháng mệt mỏi. Hình bóng N. lúc tỏ, lúc nhạt. Tôi đã vô tình không hỏi nàng về những ngày tết Mậu thân vừa qua.

Quầy bán vé cũng chỉ loe ngoe người. Không có đến quá 5 người. Còn sớm quá chăng? Tôi tạt qua bên kia đường, phía chợ Đông Ba thấy bầy bán nhiều nhãn lồng Huế. Tôi mua vội ít chùm tính làm quà cho gia đình. Mua xong mới thấy hố, vì bà bán nhãn không có túi ni lông để đựng. Tôi vào đại một cửa hàng bán tạp hóa thuộc loại sang hỏi mua túi ni lông. Cô bán hàng lắc đầu không có bán. Nhưng nghĩ thế nào, cô bắc ghế trèo lên những kệ bán áo chemise bầy trong tủ kính. Cô lấy xuống hai chiếc và tháo gỡ bao ni lông ra. Cô đưa cho tôi và không tính tiền. Tôi ái ngại vì chiếc áo có giá là vì có vỏ ni lông bao bên ngoài. Tôi đã nán lại và nói chuyện hỏi thăm cô. Cô cho biết Ba cô có tiệm trên đường Gia Long hay Lê Thánh Tôn gì đó. Tôi cho địa chỉ và không chờ đợi có dịp gặp lại được cô.

Về Sài Gòn, bẵng đi một thời gian, tôi nhận được điện tín nhắn tôi ra phi trường đón cô. Quá đột ngột mà tôi lại vừa cưới vợ. Tôi đành thất hẹn với cô.

 Tôi nợ những người con gái Huế nhiều lắm. Đây là lần thứ hai, tôi mong muốn tuyệt vọng gặp lại N và cô. Cô có đẹp không nhỉ ? Nói đẹp thì ai tin. Nhưng thưa, cô xinh đẹp và quý phái lắm, người cao mảnh khảnh. Nhưng đẹp xấu lúc này để làm gì?

Mỗi mùa thi đối với tôi là một mùa kỷ niệm và mùa tình ái. Mỗi lần bước lên máy bay đi về từ Huế thì hình như máy bay nặng thêm.


 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Đó là sơ Maria Nguyễn Thị Kim Hoa, người đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Y khoa với đề tài “Nghiên cứu biến đổi gen trong chẩn đoán và điều trị bệnh bạch cầu cấp trẻ em tại Bệnh viện Trung ương Huế”.

Mình đã đăng bài về sơ hồi năm ngoái. Là một Nữ Tu Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, sơ Kim Hoa đồng thời là Phó Trưởng khoa Ung bướu – Huyết học – Ghép tủy Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế.

Sơ Kim Hoa được gọi là “Cô tiên của các bệnh nhi ung thư” bởi nhiều em nhỏ đã được sơ cùng các Y Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế cứu chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo này. Là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật ghép tế bào gốc tự thân (GTBGTT), sơ đã miệt mài nghiên cứu, ứng dụng phương pháp ghép tủy để giành giật sự sống lại cho các em.

Sơ Kim Hoa từng trực tiếp chủ trì những ca mổ ghép tủy cho nhiều cháu bé. Không chỉ vậy, với kinh phí mỗi ca mổ lên tới hàng trăm triệu đồng, quá tầm với những gia đình lao động nghèo miền Trung, sơ còn giúp vận động, tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ nhiều nhà hảo tâm để giúp các em có chi phí chữa chạy. Không ít gia đình bệnh nhi đã coi sơ như Ân nhân của họ.

Là dân chuyên Toán tại Trường THPT chuyên Quốc học Huế, sơ Kim Hoa có ý định đi tu để phụng sự Chúa từ khi còn trẻ; mà ngành Y khoa thì rất hợp với tu sĩ nên sơ đã đầu tư thời gian cho việc học các môn “khối B” để thi vào Đại học Y dược Huế. Trở thành Bác sĩ, sơ được Bệnh viện cử đi đào tạo tại Mỹ, Nhật Bản, Singapore. Nhờ ơn Chúa và nhờ quá trình phấn đấu học hỏi không ngừng, sơ trở thành Tiến sĩ Nhi khoa đầu tiên của Bệnh viện Trung ương Huế.

Nói về sơ Kim Hoa, một gia đình bệnh nhi cho biết: “Cô Hoa là nữ bác sĩ tuyệt vời khó có từ nào diễn tả. Cô ấy khác rất nhiều những người mà vợ chồng em từng gặp. Ở cô Hoa mình cảm nhận cô ấy có một sự ấm áp, nhân từ, thân thiện rất khó tả. Không chỉ con của mình mà nhiều bé khác đang điều trị ở đây đều xem cô ấy như một người mẹ thứ hai, một vị thiên thần mang tình yêu thương đến cho con người, cho bọn trẻ.

    Nguồn: Chuoc Dang/Bao Nguyen Quang

Tự hào là con Thiên Chúa


 

Ông An Giang tông chó rồi giết luôn chủ chó

Ba’o Nguoi-Viet

June 19, 2025

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Nghi can Chau Linh E, 31 tuổi, ở thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang, bị bắt với cáo buộc chạy xe gắn máy tông phải chó nhà hàng xóm rồi dùng búa đánh bà này thiệt mạng.

Theo báo VNExpress hôm 19 Tháng Sáu, vào ba hôm trước, nghi can Linh E chạy xe gắn máy về đến gần nhà thì tông một con chó của hàng xóm, bà Nèang Ron, 50 tuổi. Bà Ron thấy vậy, ra đường chửi bới nam nghi can.

Nghi can Chau Linh E (trái) tại đồn công an. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Sau một hồi cự cãi qua lại, nghi can Linh E bực tức lấy một cây búa chẻ củi trong cốp xe đuổi chém bà hàng xóm.

Lúc đó, ông Chau Ao, cha bà Ron, chạy ra ngăn cản cũng bị nam nghi can cầm búa tấn công. Bà Ron thiệt mạng tại chỗ, ông Ao được đưa đi cấp cứu kịp thời nên giữ được mạng sống.

Nam nghi can bị công an bắt giữ gần hiện trường.

Trong một vụ án mạng khác liên quan đến việc nuôi chó, vào đêm 8 Tháng Sáu, nghi can Nguyễn Thị Cúc, 47 tuổi, ở tỉnh Vĩnh Long, sang nhà kế bên phàn nàn với bà hàng xóm 65 tuổi về chuyện con gái bà này thường xuyên dẫn chó đái ị trước cửa nhà mình, gây hôi thối.

Khi nghi can Cúc vừa quay về nhà, mẹ con bà hàng xóm kéo sang nói chuyện phải quấy, dẫn đến xô xát.

Bà cao niên 65 tuổi nắm tóc nghi can Cúc, đè xuống đất. Nữ nghi can sau đó dùng tay đánh vào đầu bà này đến khi nạn nhân bất tỉnh. Bà cao niên chết trên đường đi cấp cứu.

Hiện trường vụ án mạng xảy ra tại thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Đáng lưu ý, hầu hết ý kiến độc giả bên dưới bản tin về sự việc trên báo VNExpress đều tỏ ý bênh vực nghi can Nguyễn Thị Cúc.

Độc giả “Trancongthai1939” cho biết: “Chủ chó có lỗi thả chó phóng uế, đã không nhận lỗi lại còn sang đánh người hàng xóm tố cáo. Theo tôi, việc người hàng xóm bị đánh đau, oan ức và đánh trả là tự vệ chính đáng, không cố ý giết người.”

Độc giả “Bachminhtrieu45” nêu ý kiến: “Người ta đem chó qua cửa nhà mình để cho chó đi vệ sinh. Nếu là mình thì mọi người sẽ xử lý ra sao? Chủ nhà qua nhắc nhở là quá chuẩn mực rồi, không biết điều thì thôi còn kéo đến nhà người ra tay trước. Theo tôi thì nghi can phòng vệ chính đáng và vô tình gây chết người.” (N.H.K) [qd]


 

50 năm kết thúc chiến tranh: Cuộc tranh luận chưa dứt giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh

BBC News Tieng Viet

  • Tác giả,
  • Tiến sĩ Kevin D. Phạm (viết); Bùi Văn Phú (dịch)
  • Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Amsterdam, Hà Lan
  • 18 tháng 6 2025

Chủ điểm của bài viết này là tìm hiểu về các hệ tư tưởng chính trị tại Việt Nam từ đầu Thế kỷ XX cho đến cuộc cách mạng vào giữa Thế kỷ XX, qua đó cho chúng ta thấy hai ví dụ về phản ứng của người Việt đối với chủ nghĩa thực dân Pháp (1858-1954).

Tôi cho rằng các lý thuyết gia người Việt như Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) và Hồ Chí Minh đã áp dụng truyền thống Nho giáo cùng với các hệ tư tưởng phương Tây để đưa ra tầm nhìn khác nhau về việc làm sao đưa dân tộc thoát khỏi ách thực dân. Các cuộc tranh luận của họ vào đầu thế kỷ XX nay vẫn còn mang tính thời sự đối với tranh luận về các hệ tư tưởng hiện đại.

Trong nghiên cứu gần đây về những chủ trương thoát thực dân của người Việt, tôi đã giới thiệu những tư tưởng chính trị Việt Nam vào lĩnh vực học thuật trong lý thuyết chính trị và đặt ra những câu hỏi như: Cuộc sống tốt đẹp là gì? Nên đặt ưu tiên cho những giá trị nào? Ai là thành phần lãnh đạo? Thế nào là một chính phủ tốt?

Ngoài việc đưa ra những đáp án cho những luận đề kinh điển nêu trên về “lý thuyết chính trị”, các nhà tư tưởng người Việt thời kỳ thuộc địa đã tìm câu trả lời cho những vấn đề khác như: Người châu Âu đã cai trị chúng ta như thế nào? Chủ nghĩa thực dân châu Âu có phải là quy luật tự nhiên, kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, như những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội thường nói không? Hay đó là hệ quả của chủ nghĩa tư bản như Lenin vẫn nói? Chúng ta nên làm gì với các giá trị truyền thống của mình trước sự du nhập những ý tưởng mới từ châu Âu? Khi kẻ thực dân hành hạ chúng ta vì không cùng chủng tộc, làm nhục hoặc bóc lột chúng ta, chúng ta nên phản ứng như thế nào? Làm thế nào để tạo nên sức mạnh và đoàn kết giữa chúng ta để chống lại chủ nghĩa thực dân hay làm cách mạng? Nói chính xác thì kháng chiến và cách mạng sẽ được tiến hành như thế nào? Mục tiêu là gì và phương pháp thực hiện nó ra sao? Nói cách khác, viễn cảnh tốt nhất để thoát khỏi nô lệ thực dân là gì?

Thành phần trí thức và giới hoạt động người Việt quan tâm đến những vấn đề nêu trên vốn có xuất thân từ truyền thống Nho giáo, một triết lý xã hội do Khổng Tử khởi xướng. Những người theo tư tưởng Không Tử tin rằng điều đáng giá nhất mà bất kỳ ai cũng có thể làm trong quãng đời của họ là rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, hay “đức hạnh”, để trở nên quan tâm hơn tới tha nhân. Họ tin rằng một người trở nên có đức hạnh hơn thì có thể thúc đẩy sự hòa hợp trong xã hội và tạo ảnh hưởng qua tấm gương tốt của mình (thay vì sử dụng vũ lực hoặc sự đe dọa).

 Tuy nhiên, mỗi lý thuyết gia trong số này đều có cách diễn giải riêng về Nho giáo, và trước làn sóng du nhập của các tư tưởng chính trị-xã hội từ phương Tây, họ có những ý tưởng khác nhau trong cách tổng hợp hay tìm thỏa hiệp giữa truyền thống Nho giáo với các hệ tư tưởng chính trị mới đến từ “phương Tây”, như chủ nghĩa tự do (một hệ tư tưởng chính trị nhấn mạnh đến quyền và tự do cá nhân), dân chủ, cũng như chủ nghĩa Mác. Họ đối chiếu giữa các truyền thống tri thức của nước ngoài để tìm ra những ý tưởng phù hợp với họ. Có rất nhiều nhà tư tưởng Việt đã làm điều này và chúng ta sẽ tìm hiểu về hai người trong số họ.

Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Đảng Xã hội Pháp ở Tours vào năm 1920

Vào một buổi tối mùa đông năm 1919, tại căn hộ ở số 6 Villa des Gobelins thuộc quận 13 Paris, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng Phan Châu Trinh đã có một cuộc tranh luận gay gắt với một học trò của mình – một thanh niên vô danh trạc tuổi con trai của ông. Người thanh niên trẻ này đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi lập luận rằng thực dân Pháp đã làm nhục người Việt Nam trong hơn sáu thập kỷ vì thế đã đến lúc người Việt phải hành động trực tiếp bằng bạo lực. Nhưng ông Phan kêu gọi thận trọng:

“Anh muốn hai mươi triệu đồng bào ta phải làm gì khi trong tay không có vũ khí để chống lại vũ khí khủng khiếp của người Âu? Tại sao chúng ta lại tự sát vô ích để chẳng đi đến một kết quả nào cả?… Phải chăng tốt hơn là chúng ta đòi hỏi một cách mềm mỏng nhưng rất kiên quyết và với lòng kiên nhẫn, nhất là những quyền mà phẩm cách con người cho phép chúng ta đòi hỏi.”

Chàng trai trẻ trả lời:

“Dân An Nam đã chờ đợi thay đổi từ sáu mươi năm nay nhưng chính phủ [thực dân Pháp] không làm được gì đáng kể cho họ thỏa mãn. Nếu trong dân chúng có kẻ nào lên tiếng bày tỏ với nhà đương cục những yêu cầu và nỗi thống khổ của họ và để kêu xin những phương thuốc chống đỡ nỗi khổ đau họ phải gánh chịu, thì người ta trả lời họ bằng nhà tù, bằng lưu đày và tử hình. Nếu bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ để cải tiến tình trạng hiện nay thì bác sẽ phải đợi đến muôn đời.”

Thế giới về sau đã biết đến chàng trai trẻ tuổi này với cái tên Hồ Chí Minh. Trong căn phòng tối hôm đó có một mật vụ ngầm đã ghi âm cuộc đối thoại giữa hai người. Người này được lệnh chính quyền Pháp theo dõi Hồ Chí Minh vì bởi kể từ mùa hè năm ấy, ông đã gây nên cho họ những nghi ngờ.

Khi đó, ông Hồ đã gửi một bản kiến nghị mang vẻ chính thức đến các đại biểu tại Hội nghị Hòa bình Paris ở Versailles. Bản kiến nghị không yêu cầu độc lập, thay vào đó, nó chứa đựng các yêu cầu công nhận các quyền tự do căn bản cho người Việt ngay cả khi vẫn còn dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Ông Hồ đã ký thay mặt cho Nhóm những người Việt Nam yêu nước mà ông và người thầy của ông, Phan Châu Trinh, sau đó nhận ra rằng các thỉnh cầu này đã không được quan tâm.

Qua những trích dẫn, cả Hồ Chí Minh và Phan Châu Trinh dường như đã thể hiện một quan điểm quen thuộc được công nhận, đó là về phẩm giá của con người: phẩm giá là thứ thừa hưởng ở mỗi con người riêng lẻ, nó là sự biện minh cho các quyền, và nó đòi hỏi sự công nhận của xã hội. Phan Châu Trinh nghĩ rằng người Việt Nam nên đòi từ người Pháp “những quyền mà phẩm giá con người cho phép chúng ta được có.” Hồ Chí Minh có quan điểm ngược lại, với lập luận rằng người Việt Nam phải buộc người Pháp công nhận phẩm giá của người Việt Nam.

Nhưng rồi cả hai bắt đầu nhận ra những hạn chế của quan điểm qui ước về phẩm giá. Biết rằng phẩm giá vốn có ở mỗi cá nhân không làm dịu đi nỗi đau khi chứng kiến sự phủ nhận phẩm giá của dân mình. Người Việt phải chờ bao lâu và phải “đòi hỏi” bao nhiêu lần thì thực dân Pháp mới chịu công nhận phẩm giá và quyền của họ? Nếu người Pháp không bao giờ làm vậy thì sao? Và nếu không có thực thể nào mạnh hơn Pháp để trừng phạt người Pháp hoặc buộc họ phải công nhận phẩm giá của người Việt Nam thì sao? Vậy phải làm gì? Câu trả lời hiển nhiên là kháng chiến và làm cách mạng.

Nhưng như đã đề cập ở trên, điều khó xác định hơn nhiều chính là hình thức cụ thể mà kháng chiến và cách mạng nên diễn ra như thế nào. Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có tầm nhìn khác nhau về kháng chiến và cách mạng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam và có bài phát biểu về “Đạo đức và luân lý Đông Tây” ở Sài Gòn. Trong bài phát biểu, ông lập luận rằng Việt Nam bị Pháp đô hộ là vì người Việt yếu kém, xuất phát từ việc thiếu đạo đức Nho giáo đích thực. Sự yếu kém của người Việt là do sự suy đồi của vua quan Việt khi họ bóp méo tư tưởng Nho giáo để biện minh cho sự cai trị áp bức của họ. Chính điều đó khiến dân tộc bị che mắt để không hiểu đúng về đạo đức và luân lý Nho giáo đích thực. Điều này tạo ra sự yếu kém ở người Việt nên dễ bị khuất phục trước ngoại bang.

Phan Châu Trinh đã từng sống mười ba năm ở Pháp và ông nhận thấy người châu Âu phát triển hơn về mặt đạo đức xã hội. Ông lập luận rằng người Âu biết cư xử tử tế với đồng bào của họ vì “người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ.” Ngược lại, “lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?”

Tóm lại, ông cho rằng người châu Âu có bản sắc “Nho giáo” hơn người Việt và điều này là do người châu Âu có truyền thống phản ứng lại chế độ quân chủ chuyên chế của họ bằng cách thúc đẩy “tự do” (ý ông là quyền của con người) và “dân chủ” (ý ông là “chính quyền theo pháp luật”).

Ông lập luận rằng nếu người Việt muốn tự cường và xây dựng phẩm giá dân tộc, họ nên từ bỏ truyền thống quân chủ của mình và thay vào đó áp dụng chủ nghĩa tự do và dân chủ từ châu Âu như một “phương thuốc”. Làm như vậy, ông lập luận, sẽ cải thiện đạo đức và luân lý của người Việt, từ đó cho phép tư tưởng Khổng Mạnh được phát huy trọn vẹn ở Việt Nam:

“Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về… Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.”

Thông thường, những lý thuyết gia chính trị coi chủ nghĩa tự do của “văn minh châu Âu” là một sự đối lập với “Nho giáo.” Vậy làm sao Phan Châu Trinh có thể đưa ra lập luận này? Hóa ra là vì ông gạt bỏ sự tập trung của chủ nghĩa tự do vào quyền và tự do cá nhân, và tập trung diễn giải nó như một hệ tư tưởng đề cao quyền và tự do của người dân. Thông thường chúng ta có thể cho rằng việc hiểu sai các truyền thống ngoại lai là điều không tốt, nhưng Phan Châu Trinh cho thấy rằng việc diễn giải một cách tích cực – dù có phần lý tưởng hóa – các tư tưởng ngoại lai có thể là một phương thức sáng tạo như một “phương thuốc” làm sống lại các truyền thống đang tàn lụi của chính mình.

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang người học trò trẻ tuổi của Phan Chu Trinh, người sau này được biết đến với tên gọi Hồ Chí Minh.

Hãy trở lại với buổi tối năm 1919 ấy. Hồ Chí Minh, thất vọng với Phan Châu Trinh, lang thang qua những con phố của Paris, đến tòa soạn các báo để tìm cách phổ biến các yêu sách của mình, nhưng chẳng ai quan tâm, ngoại trừ những người theo Đảng Xã hội Pháp. Với sự cảm thông, họ đã mời ông đến các cuộc họp của họ.

Lúc bấy giờ, những đảng viên Xã hội Pháp đang theo dõi sát những diễn biến của cuộc cách mạng Nga, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đang chuyển từ lý thuyết sang thực tiễn. Họ tranh luận xem liệu nước Pháp có nên theo hướng cải cách dần dần (evolution) hay đi theo người Nga, với một cuộc cách mạng hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Hồ Chí Minh là sự áp bức đối với các dân tộc đang bị thực dân cai trị. Tại các cuộc họp này, ông nêu vấn đề là nếu quan tâm đến việc giải phóng người bị áp bức, tại sao không ai nói về chủ nghĩa thực dân?

Sau đó, trong các buổi họp này, có một ai đó đã trao cho Hồ Chí Minh một bản sao của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin. Mặc dù khi đó Hồ Chí Minh đã quen với những ý tưởng cộng sản, nhưng việc đọc Lenin là một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của ông. Đối với Hồ Chí Minh, Lenin đã đưa ra những lý luận thuyết phục nhất về vấn đề thực dân áp bức cũng như giải pháp cho những gì cần phải làm.

Hồ Chí Minh nổi tiếng là người đã tham gia vào việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào tháng 12 năm 1920. Ông bắt đầu viết báo đăng trên các tạp chí, đưa ra lập luận rằng người Việt phải tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lén đưa các ấn phẩm này về Việt Nam. Đó là cách người ở trong nước đã được giới thiệu đến chủ nghĩa Mác.

Vào một ngày trong năm 1922, Hồ Chí Minh nhận được lá thư mang tính nhượng bộ của Phan Châu Trinh.

“…Anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan [Văn Trường] là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu.

“Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này… Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [Hoàng Xuân Hãn giải thích là ‘ngựa non háu đá’],…

“…Lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hy vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự… Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công…”

Sau đó Hồ Chí Minh rời Pháp sang Nga và Trung Quốc và rèn luyện trong nhiều năm để trở thành một nhà cách mạng trước khi trở về nước vào năm 1941 để lãnh đạo phong trào giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, ông đọc Bản tuyên ngôn Độc lập và chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng người Pháp không nhượng bộ. Họ vẫn cố gắng tìm cách quay lại chiếm đóng Việt Nam, đẫn đến cuộc kháng chiến của người Việt và khơi mào cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Người Pháp cuối cùng thua ở Điện Biên Phủ năm 1954 và một năm sau thì người Mỹ vào Việt Nam.

Lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Hồ Chí Minh đã phát triển một lý thuyết cách mạng, theo kiểu tinh thần gia trưởng vì ông tin rằng Đảng Cộng sản tiền phong nên hành động như bậc “cha mẹ” của dân vì ông coi nhân dân như những đứa trẻ chưa phát triển cần được hướng dẫn về đạo đức và chính trị. Ông cho rằng lãnh đạo của Đảng phải là những “cha mẹ” khôn ngoan, nhân từ của các con.

Để trở thành “cha mẹ” tốt, Hồ Chí Minh lập luận rằng các lãnh đạo của Đảng phải trau dồi đạo đức cách mạng cho chính bản thân qua việc thường xuyên “phê và tự phê.” Chỉ khi đó họ mới có thể dẫn dắt quần chúng một cách hiệu quả trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, song với đó, ông cũng diễn giải lý thuyết cách mạng của mình là mang tính dân chủ. Ông nhấn mạnh rằng chính quyền là “đầy tớ” của dân và dân là “chủ của đất nước.” Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tập thể nhân dân vừa là người chủ của đất nước vừa là trẻ thơ cần có được dìu dắt về đạo đức.

Trung tâm của quan điểm này là quan niệm của Khổng giáo về tự tu dưỡng. Hồ Chí Minh tin rằng lãnh đạo phải thấm nhuần đức tính cách mạng. “Muốn làm cách mạng, trước hết phải cải tạo tâm hồn. Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải cải tạo bản thân.” Đối với ông, đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là quá trình liên tục gắn kết với nhau – một quan điểm mà ông tiếp thu từ án thư Đại học của Khổng giáo, một tác phẩm đưa ra lập luận rằng bằng cách thay đổi bản thân, người ta tự động thay đổi thế giới: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”

Nếu như Phan Châu Trinh kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa tự do, thì Hồ Chí Minh lại kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Phan Châu Trinh, chủ nghĩa tự do nên được sử dụng để đạt được những điều tốt hơn của Nho giáo. Ngược lại, đối với ông Hồ, Nho giáo nên được sử dụng để bồi dưỡng đạo đức cách mạng để tiến tới chủ nghĩa cộng sản:

“…Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lenin!”

Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức Nho giáo là tốt, nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp đã ngăn cản người Việt thực hành đạo đức Nho giáo bằng cách áp bức họ qua bóc lột, rượu chè và thuốc phiện. Do đó, ông đã thúc giục lãnh đạo Đảng:

“Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.”

Cần lưu ý, ở đây, “nhân dân” tiếp tục được xem như những “đứa trẻ” cần được giáo dục lại. Và cũng cần lưu ý bốn đức tính cốt lõi này (cần, kiệm, liêm, chính) có nguồn gốc từ đạo Khổng như thế nào. Đây là những gì ông gọi là “đạo đức cách mạng.”

Như chúng ta biết, Hồ Chí Minh và tầm nhìn của ông đã tiếp tục dẫn đường cho những người cộng sản Việt Nam vượt qua cuộc chiến tranh chống Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), vượt qua cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1955-1975). Hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay được gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong khi đó, tư tưởng của Phan Châu Trinh dù đã từng truyền cảm hứng cho một số người nhưng lại rồi bị rơi vào quên lãng sau khi ông qua đời năm 1926. Tuy vậy, những nét chính về chủ nghĩa cộng hòa của ông đã xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Và ngày nay đang có sự hồi sinh tiềm năng và quan tâm đến tư tưởng của Phan Châu Trinh cũng như ông vẫn rất được kính trọng và ca ngợi ở xã hội Việt Nam đương đại.

Play video, “Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?”, Thời lượng 12,20

12:20

Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Trong căn hộ đó tại số 6 Villa des Gobelins vào buổi tối mùa đông năm 1919, cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có vẻ quen thuộc với nhiều người trong chúng ta. Để đáp lại bất công, bóc lột, thống trị và sự phân biệt chủng tộc, chàng thanh niên tỏ ra mất kiên nhẫn và thúc giục hành động ngay trong khi người đàn ông lớn tuổi thì thận trọng và khuyên nhủ thực hiện những thay đổi chậm rãi và bền vững.

Nhưng chính trong căn hộ ấy, những hạt mầm đã được gieo xuống cho các cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Trực giác con người cho thấy nếu những ai có lợi thế về quyền lực mà không nhận ra phẩm giá của những người ở vị thế yếu kém hơn và không đưa họ vào các cuộc thảo luận về lợi ích chung, thì những người yếu thế ấy sẽ tìm cách xây dựng phẩm giá của họ theo những cách khác – dù là bạo lực hoặc phi bạo lực, dù là phá hoại hay kiến tạo.

Vài tháng trước, tôi đã thăm Việt Nam, một đất nước dường như đang khởi sắc. Tôi đã đến viếng mộ Phan Châu Trinh và lăng Hồ Chí Minh và suy ngẫm về những tầm nhìn khác nhau của họ. Rõ ràng là cả hai đều được kính trọng ở Việt Nam, nhưng các bài phát biểu của lãnh đạo Việt Nam hiện nay cho thấy rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chính thức chiếm ưu thế so với tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Dù vậy, tôi vẫn tự hỏi: Liệu đề xuất của Phan Châu Trinh về việc kết hợp các tư tưởng phương Tây về chủ nghĩa tự do và dân chủ với Nho giáo có còn phù hợp ở Việt Nam ngày nay không? Những lập luận do Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh đưa ra có còn hữu ích cho những ai đang quan tâm đến các câu hỏi đương đại như: Chính quyền Việt Nam hiện đang – hoặc nên – dựa trên cơ sở tư tưởng nào để xây dựng tính chính danh? Những tư tưởng nào định hướng (hoặc nên định hướng) cho những hoạt động của thanh niên? Về kiểm duyệt và giới hạn của tự do ngôn luận về chính trị? Và về bản sắc của cộng đồng người Việt hải ngoại (nơi rất nhiều người Việt như tôi lớn lên với cả tư tưởng “tự do” và đạo lý Nho giáo truyền thống)?

Hay, phải chăng, ngày nay, Việt Nam cần một hệ tư tưởng hoàn toàn khác? Những câu hỏi như vậy vẫn còn để ngỏ.

Tác giả Kevin D. Phạm là phó giáo sư/tiến sĩ về lý thuyết chính trị tại Đại học Amsterdam, chuyên về tư tưởng chính trị thế kỷ XIX và XX, với chú trọng vào dân chủ, tự do và cách mạng qua các nền văn hóa. Tác phẩm của ông, The Architects of Dignity: Vietnamese Visions of Decolonization – Những kiến trúc sư của phẩm giá: Những viễn kiến của người Việt về giải thoát khỏi ách thực dân (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2024), giới thiệu các nhà tư tưởng chính trị Việt, tiếp cận với những tranh luận về lý thuyết chính trị, chú trọng đến cách họ thách thức các quan niệm của phương Tây về phi thực dân hóa và phẩm giá. Nghiên cứu của ông được phổ biến trên các tạp chí như Philosophy and Global Affairs, The Review of PoliticsEuropean Journal of Political Theory.


 

Ông chồng đổ xăng dọa đốt nhưng gây cháy lớn ở Bình Dương

Ba’o Nguoi-Viet

June 18, 2025 

BÌNH DƯƠNG, Việt Nam (NV) – Một ông đến tiệm tóc ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tìm vợ rồi xảy ra cãi vã nên lấy xăng dọa đốt, không ngờ ngọn lửa bùng lên cháy lớn.

Theo báo Dân Trí, khoảng 10 giờ 30 phút sáng 18 Tháng Sáu, ông Huỳnh Văn P., 33 tuổi, quê An Giang, mang can xăng đến tiệm spa ML (cũng là phòng tập yoga) trên đường ĐT 743C, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, để tìm vợ đang làm đẹp tại đây.

Vụ cháy tiệm tóc và quán bún riêu ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. (Hình: Xuân Đoàn/Dân Trí)

Tại đây, giữa hai người sau đó xảy ra cãi vã.

Tức giận, ông P. đã tạt can xăng trước tiệm, dọa đốt vợ. Lúc này, ở sát vách tiệm spa là khu vực bếp của quán bún riêu. Bất ngờ, ngọn lửa bắt vào xăng gây bốc cháy tiệm spa, lan sang quán bún riêu bên cạnh và làm cháy một xe hơi, bốn xe gắn máy để phía trước hai tiệm.

Nhiều người hoảng loạn bỏ chạy bằng cửa sau. Nghi can đổ xăng bị bỏng nặng. Lửa bén vào người ông P. làm ông ta bị phỏng ở vai, chân và chạy ra đường kêu cứu.

Nhận được tin báo, Phòng Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy Cứu Nạn Cứu Hộ Tỉnh Bình Dương điều động nhiều xe chữa cháy và lính cứu hỏa đến hiện trường dập lửa. Khoảng 15 phút sau, ngọn lửa được dập tắt.

Vụ cháy làm hư hỏng chiếc xe hơi, một số xe gắn máy và nhiều đồ đạc trong tiệm gội đầu và quán bún riêu.

Chiều cùng ngày, Công An Tỉnh Bình Dương lấy lời khai những người liên quan, khám nghiệm hiện trường để làm rõ dấu hiệu phạm tội của ông P.

Làm việc với công an, nghi can P. cho biết “chỉ đổ xăng dọa, chứ chưa châm lửa” và không biết vì sao lại cháy.

“Lúc ngọn lửa bùng lên, tôi và con gái cũng có mặt trong cửa tiệm spa, thấy lửa cháy to đành mở cửa sau chạy thoát thân, may mắn không bị thương, thường ngày P. ở nhà rất hiền lành, ít nói, nhưng không biết hôm nay sao lại như vậy,” mẹ vợ ông P. nói với báo Pháp Luật TP.HCM.

Hiện trường vụ cháy, ông giận vợ đổ xăng dọa nhưng xảy ra cháy lan. (Hình: Đình Trọng/Lao Động)

Liên quan đến hỏa hoạn, báo Lao Động hôm 18 Tháng Sáu dẫn tin từ Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy và Cứu Nạn Cứu Hộ Bộ Công An cho biết, trong năm tháng đầu năm 2025, Việt Nam xảy ra 1,497 vụ cháy, làm chết 39 người và bị thương 39 người, thiệt hại tài sản ước tính khoảng 138 tỷ đồng ($5.2 triệu) và 216 hécta rừng.

Ngoài ra, cả nước đã xảy ra 11 vụ nổ, làm năm người chết, 14 người bị thương. Thiệt hại tài sản ước tính khoảng 50 tỷ đồng ($1.9 triệu).

Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy phân tích, các vụ cháy chủ yếu xảy ra ở thành thị, chiếm 54.8%, còn lại là ở nông thôn.

Theo đó, có 539 vụ cháy nhà dân; 94 vụ cháy nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh; 41 vụ cháy chung cư; 10 vụ cháy chợ; ba vụ cháy siêu thị, cửa hàng bách hóa; bốn vụ cháy quán bar, karaoke; 11 vụ cháy trụ sở làm việc; 216 vụ cháy kho, cơ sở sản xuất, kinh doanh; năm vụ cháy cơ sở giáo dục; ba vụ cháy cơ sở quốc phòng… (Tr.N) [qd]


 

Thư Viết Từ Chân Núi – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

 Vĩnh Chánh

Hầu như sau những trận đánh lớn, đơn vị thường được di chuyển về sau chiến tuyến, dưỡng quân, bổ túc quân số, tân trang quân dụng, chỉnh đốn chiến thuật, chờ đến phiên tái lâm chiến, trong nay mai. Để tưởng nhớ đến cuộc chiến đã chấm dứt 50 năm, Lá Thư Viết Từ Chân Núi xin ghi lại những nỗi niềm của người lính cùng niềm tin, hy vọng và tình yêu qua chiều dài của cuộc chiến tại Miền Nam Việt Nam.

Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi

Các anh đi, đến bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông (Các Anh Đi – Nhạc sĩ Văn Phụng)

Bạn thân mến!

Tất cả chúng ta đã trải qua những giai đoạn khác nghiệt trong chiến tranh và hậu chiến, khi Miền Nam Việt Nam phải chống trả sự xâm lăng khát máu của CS Miền Bắc. Hình ảnh của những xuôi ngược hiểm nguy trong bước đường chinh chiến, những hy sinh hào hùng của người lính chiến – những mất mát chết chóc, những đau thương tủi nhục, những thảm cảnh do pháo kích bừa bãi của Việt Cọng vào các thành phố, những lần chạy giặc, Biến Cố Mậu Thân, Đồi 31 Hạ Lào, Đại Lộ Kinh Hoàng, Trận Đánh Đồi Charlie, Tử Thủ An Lộc, Hải Chiến Hoàng Sa, những di tản triệt thoái không lối thoát, những kinh hãi trong vượt biên vượt biển, những đọa đày trong ngục tù CS, và những bôn ba, những cố gắng phi thường khi làm lại cuộc đời trên xứ người.

Một số không nhỏ anh em chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc, một số lớn khác đã mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn, và hầu như tất cả chúng ta còn lại cùng gia đình và bao người thân quen đều cùng phải gánh chịu những hư hao  gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực trong khói lửa binh đao. Sau ngày gãy súng trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh trên biển. Khi làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp cuộc sống bạc đãi trong nhà tù lớn tại quê hương …      

Bạn ơi!

Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá, mà không có tao loạn phong trần. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi, mà không có máu lửa và nước mắt. Tuy nhiên, bên cạnh nguy hiểm thường trực của chiến tranh, phải chăng chúng ta vẫn luôn mang một hy vọng sống còn về lại với người thân, hay một tình yêu trong lòng, một hạnh phúc thầm kín và một giấc mơ hiền hòa khi thanh bình. Vì vậy, trong gian truân nguy hiểm, trong địa ngục trần gian, trong sóng gió cuộc đời, phải chăng chúng ta đã luôn cầu nguyện xin Ơn Trên cứu giúp chúng ta vượt thoát và đưa chúng ta về chốn bình an. Và phải chăng lồng vào giữa đời người lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khó, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để vươn lên trong thử thách bão lửa, và sống sót. Cho dù đó là tình yêu quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ, là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.

        Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng

        Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết. Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết đến những nỗi niềm trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc. Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lửng giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em là bấy nhiêu lần nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình dấu kín trong ba lô, hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:

“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn

Mấy tháng rồi tao không được ôm em

Tao thèm làm tình như tao thèm sống

Tao thèm hôn em, hôn liên miên…” 

(Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc/ Tác giả Nguyễn Tiến Cung}

        Song song với cuộc chiến là những câu chuyện về những người lính xông pha nơi chiến trường có những người yêu để lại đằng sau. Là những tình cảnh dạt dào thắm thiết của chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông buồn trông chờ” Là những thơ tình trang tải nổi nhớ nhung của nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Những thầm kín, những mơ mộng, những tâm sự, những dự tính, những ôm choàng, những nụ hôn hay những gắn bó thể xác, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc tình ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau chàng là “bại tướng cụt chân”; hay cuộc tình vụt tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc tình bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngã nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người tình còn đó anh nhớ không anh”.

        Bạn thân mến, trong thời gian chờ ra đơn vị, tại BV Đỗ Vinh, tôi tình cờ đọc lại cuốn truyện dịch “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết”. Một câu truyện về người lính, tình yêu và sự chết xẩy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu vì lý do gì cuốn truyện này đã để lại bấy giờ cho tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi vơi đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chưởi thề, nghiến răng của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em, hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an ủi trìu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nhìn thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những câu nói bâng khua, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn truyện từ tay các em gái hậu phương…

        Câu truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” của tác giả Erich M. Remarque chọn bối cảnh nước Đức trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Anh lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2 năm ở chiến trường Miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được tình yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đình. Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn gì để phải sợ mất mát thêm đã nảy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi mãnh liệt vươn lên, trong âu lo mơ mộng, ngọt ngào khắc khoải, nồng nàn ân ái, hy vọng mơ mộng, bàng bạc mong manh trong nỗi buồn miên man vô định của có nhau hôm nay, xa nhau ngày mai, rồi mất nhau. Thay vì đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi hòn đạn từ chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”, thế nhưng tôi lại liên tưởng đến một khép kín của cả một khung trời, của nguyên cả một giấc mơ nhẹ nhàng bình dị vụt biến khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Một cái chết quá dửng dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Mà chỉ một dấu chấm hết. Như tiếng hát Soprano đang vút cao bỗng chợt ngưng. Mong manh thay cho một cuộc tình tuyệt đẹp của thời chiến, đến nhanh và tan nhanh, mà trong đó bao hình ảnh của thủa tình tự bên nhau, bao lời yêu thương, bao cảnh âu yếm tuần tự quay diễn nhanh trước khi đôi mắt khép kín rồi tất cả tan biến vào hư vô.

        Đọc truyện người để nhìn lại thực tế cuộc chiến tranh chống CS xâm lăng của ta, cảm thương người lính của ta, trân quý tình yêu của họ. Người lính chiến vẫn làm bổn phận người trai khi đất nước cần, tình yêu vẫn giống nhau trên danh nghĩa, và cái chết vẫn là cái chết dưới mọi hình thức, bình đẳng cho cả quan lẫn quân, bình thản như trong một giấc ngủ, hay hung bạo với thân thể nổ tung, xác người bầm dập không toàn thây, hoặc một cái chết từ từ trong đau đớn mang đầy thương tích loang máu đào.

        Bạn ơi! Vậy người lính của chúng ta là những ai? Phải chăng đó là những người trai trẻ theo tiếng gọi non sông, kẻ động viên hay đôn quân, người tình nguyện nhập ngũ; là những người con của thế hệ, kẻ trước người sau, xa rời mái trường, quê nhà và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Họ thuộc mọi thành phần của xã hội tự do Miền Nam, đến từ mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu ngang qua Cố Đô Huế rồi đến Duyên Hải nắng đẹp Miền Trung, lên tận Cao Nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn Thủ Đô Sàigòn-Gia Định mến yêu, xuyên qua những mảnh đất phì nhiêu màu mở của Đồng Bằng Cửu Long đến tận cùng Cà Mâu, bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền Nam Bắc Trung, đồng một lòng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ các trường Đại Học Quân Sự Hải Lục Không Quân, từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung Đồng Đế, Dục Mỹ, TT Huấn Luyện Nhảy Dù… và của các địa phương. Họ là những:

“Người lính trẻ đã một thời giong ruổi

Đem tình người tình lính trấn biên cương

Vẫn một lòng chung thủy với quê hương

Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng” (Huy Văn)

        Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ, cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, tình nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống kẻ thù xâm lăng. Họ là những người con ưu tú của đất nước trong mọi binh chủng mà tổ quốc luôn ghi ơn khi họ đền nợ nước.

“Xin tạ lỗi với đời trai khói lửa

Những địa danh ngang dọc bước quân hành

Đoàn tráng sĩ qua sông lần vĩnh biệt

Tưởng đang còn cuộc rượu lúc tàn canh

(Xin Một LầnTạ Lỗi – Trần Ngọc Nguyên Vũ)

        Còn những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng là em gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, trong một thị trấn, ở làng bên cạnh, cùng một quận lỵ, một trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng Sĩ trong trại gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong các áo bà ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi ta dừng chân uống nước ở ven đường; Đó cũng là những nữ sinh môi đỏ má hồng vùng Cao Nguyên hay các nữ sinh trong đồng phục áo trắng hay đầm hồng, jupe xanh với áo sơmi trắng tung tăng trên các đường phố …

“Thấy em xỏa tóc ngả nghiêng bên trời

Ta cầm một sợi lên chơi

Ai dè suốt cả một đời lao đao”   (Nguyên Miên Thảo)

           Em là người con gái ta chưa quen biết nhưngchợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem, quán phở quán hủ tiếu, đang ăn vụng bò bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà ta muốn tìm quen theo về tận nhà. Họ cũng là người em hậu phương đến choàng vòng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về làng”, là người mà ta tình cờ bắt gặp có một đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn nhiên khiến ta bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một mái tóc mây hồng ngiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền khiến ta mê mẩn dù lời nói khó hiểu” mô tê răng rứa – anh đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu – Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”…Là bao nỗi nhớ. Bao chờ mong. Bao vấn vương. Bao mộng ảo. Bao diệu kỳ không nên lời…Là con suối nhẹ nhàng đi qua tim ta. Là cơn đau nhức nhối trong nỗi thương nhớ

“Nếu một mai bé nhìn hoa dù nở

Lời tỏ tình anh gởi đó nghe cưng

Hoa dù tròn như nguyện ước yêu thương

Anh lơ lửng giữ dòng đời vạn biến…”

        Chuyện tình của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lãng mạn và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, đột ngột lâng lâng đến, để rồi nhanh chóng đi vào thương đau. Cuộc tình lính chiến như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ tình, ngay sau lần đầu gặp nhau “chưa nắm tay em mà lòng đã yêu, chưa uống môi em mà tình đã say!” Với người lính, cuộc tình thường long đong ray rứt, yêu trong vô vọng, yêu trong cuồng si, yêu trong chớp nhoáng, dù chỉ để đổi lấy một phút bên em rồi cả đời vĩnh viễn mất nhau. Đó cũng là một cuộc tình chớp nhoáng, đam mê mạo hiểm, bất chấp ngày mai, thuộc loại tình lính là “tính liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.

 “Hôn em mà đất trời say, Môi không ướp rượu mà ngây ngất buồn”.

Tuy chai sạn trong phong sương, nhưng người lính rất mềm yếu, ngây ngô, dễ rung động và non nớt trong tình trường “Đôi khi muốn nói yêu em nhưng ngại ngùng đành lãng phai!” Người lính thường xin chịu phần thua thiệt, lo sợ cho sự xa mặt cách lòng, cạm bẫy và cám dỗ của đèn màu đô thị, nhưng tình yêu đã nuôi dưỡng họ, cho phép họ thơ thẩn giữa những thực tế khắc nghiệt của chiến tranh. Tình yêu cho họ thêm ý chí và tinh thần chiến đấu. Vì vậy tình yêu của lính cao thượng, biết chấp nhận sầu ly, biết thông cảm cho tình cảnh của người hậu phương, “đường vào ngày mai sỏi đá, thôi, em về, quên hết đi ngày xưa!” Nhận thư Má viết ngắn gọn “con Tú qua thăm Má và khóc, nói nó không thể đợi con được. Tuần sau nó sẽ lấy chồng, là thầy giáo gần nhà”, người lính hoa mắt, đông đá, sau một vài câu chửi thề, xách súng bắn một tràng chỉ thiên. Nổ nghe như pháo ngày cưới. Ông Thầy cũng đành lắc đầu. Thế là xong! Còn với ông Thầy “tử thương” vì tình thì sao? Thầy và đám đệ tử tụm lại làm vài chầu ngất ngư để quên sầu hay tưởng như quên sầu, rồi lầm lì để sau đó tình nguyện lãnh nhiệm vụ nguy hiểm nhất cho đơn vị trong lần đánh tới. Càng yêu và khi được yêu, người lính càng lúc càng nghiệm rõ tình yêu mang đến sức sống, niềm hy vọng, giúp họ tự tin và quyết chí xông xáo, xong nhiệm vụ để được sớm đi phép thăm em. Tình yêu là nắng ấm giữa giông tố đời lính. Nuôi nấng ta khi ta bị thương tật. Nâng ta dậy khi ta bị chà đạp. Là nơi bám víu khi ta sa cơ thất thế. Là ân tình của hạnh  phúc cuối  đời.

Bạn thân mến!

Phải chăng em yêu anh vì yêu dáng phong trần hiên ngang của anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù. Yêu cái nhìn nồng nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với tiếng cười sảng khoái của anh. Yêu sự chìu chuộng săn đón của anh, yêu con đường mình cùng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng mang theo mây trời và giông bão vào đời em. Là mong đợi những thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ. Là thích nghe anh kể chuyện đời quân ngũ, chuyện xông pha ngoài trận tuyến. Thương anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao carré, làn da đen thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ lính trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin anh, biết cầu nguyện Ơn Trên gìn giữ anh và theo dõi bước chân anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Yêu anh là chấp nhận những ngày cô đơn xa anh, những chiều dạo phố một mình, ráng làm quen với tên xa lạ của những nơi anh bước qua, là đến thăm anh trong quân y viện. Làm vợ anh là chấp nhận thương đau thua thiệt, chắt chiu với tiền lính nuôi đàn con dại, là đếm những ngày xa anh, là tạm ở tại hậu cứ trong căn phòng nhỏ lợp tôn, hay nay đây mai đó theo đơn vị anh và đành phó mặc tương lai cho số phận. Là lỡ làng đời em. Ai trong chúng ta đã không một lần ngậm ngùi trước hình ảnh chẳng thể quên của người cô phụ trẻ tuổi phủ phục bên cạnh quan tài chồng, tay xoa xoa lá cờ che kín nắp hòm, thì thầm những lời yêu đương giữa những nức nở.

Xin tạ lỗi với ai người chinh phụ

Đã hóa thân nàng Tô Thị trông chờ

Đứng sừng sững giữa hai vầng nhật nguyệt

Nhỏ xuống dòng lệ máu bốc thành thơ

Xin tạ lỗi cùng em người hiền phụ

Đã vì ta lận đận suốt một thời

Cùng ngụp lặn trôi theo dòng sinh mệnh

Tấm gương đời cuối thế kỷ hai mươi (Trần Ngọc Nguyên Vũ)

           Bạn thân mến!

Có tình yêu hay chưa có tình yêu, người lính vẫn dũng cảm xông pha trận tuyến, làm tròn bổn phận giao phó. Thương tật hay chết chóc là chuyện không ai mong muốn nhưng vẫn chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có khi đi đong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm,hay nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập…Có cái chết đến nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái vì can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở về tận nhà trong hòm nhôm? Trong giây phút tử thương, “nằm chết như mơ” ấy, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng kêu lên Mẹ ơi, như anh đã từng làm khi đau ốm hay trong rủi ro? Có đủ chăng anh thì giờ nhớ đến người vợ bé bỏng luôn trông ngóng chờ đợi anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ anh thầm yêu mà anh đành giã từ nơi ngôi làng xa trên bước đường chinh chiến?!

Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ  (Lá thư Pleime – Lê Anh Tuyến)

         Người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi. Họ là những cứu tinh của đơn vị, là huyền thoại của đất nước. Chết trận là chết không một than vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà.

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông. (Trần Trung Đạo)

Khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình

“Anh đi mãi, không bao giờ trở lại! Tôi viết vần thơ của thời hoang dại. Những vần thơ hoài niệm nhớ thương anh. Và đêm nay, trong khóe mắt long lanh giọt lệ buồn…Tôi khóc anh vĩnh biệt!”  (Hồ Sĩ Duy)

            Khi một người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu nhau, Một thoáng ngậm ngùi, thì các bạn thân mến ơi, là những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước nghỉ ngơi dưới chân núi, chúng ta cần phải ngồi gần bên nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Xin đừng hững hờ. Chớ xa lánh nhau. Và xin đừng quên nhau. Hãy nhớ: những người sống sót, bại trận như chúng ta đây vẫn còn nợ những người tử trận. Mãi mãi không quên!!

Bạn ơi!

Xin hãy cùng nhau thắp nén nhang lòng, cầu xin cho anh linh các tử sĩ được vinh hiển chốn ngàn thu.  Xin cho tình đồng đội chúng ta vẫn trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một nhà. Cùng tham gia sinh hoạt cộng đồng chống CS, làm nghĩa vụ giúp đỡ anh em thương phế binh của ta ở quê nhà, đồng thời góp thêm bão lửa và sức sống cho các tù nhân lương tâm, xem đó như một trách nhiệm chung. Mong các thế hệ hậu sinh thấu hiểu về tinh thần chiến đấu bất khuất cùng lịch sử của VNCH và tiếp tục dương cao ngọn cờ tự do.

Chúng ta học hỏi từ quá khứ đau thương để rút kinh nghiệm sống được thực tế hơn. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhìn thẳng vào tương lai với tất cả sự nhiệt tình và lòng trung kiên còn lại, để tiếp tục nuôi nấng ý chí trong hoài bão rằng, một ngày không quá xa, quê hương sẽ sớm thoát xiềng xích của CS, và dân lành sẽ được sống trong một chính thể mới, thật sự có tự do, bình đẳng và bác ái.

Viết cho tháng 4, 2025

Vĩnh Chánh


 

Hòa hợp dân tộc: 100 tiếng nói đồng bào – Bài 9: Hòa giải với nỗi đau – di sản tâm thức

BBC

Người dân chạy nạn từ Quy Nhơn vào Nha Trang hồi cuối tháng 4/1975

Tác giả, Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Sydney, Úc

7 tháng 6 2025

Ghi chú của tác giả: Loạt bài viết này chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp. Con số 100 tượng trưng cho trăm trứng từ bào thai của mẹ Âu Cơ. Một trăm người Việt tuổi từ 25 đến 99, từ đủ mọi nẻo đường của cuộc sống đã góp tiếng nói vào dòng chảy của những câu chuyện này. Những phần trong ngoặc kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác.

Trong những bài viết trước, các ý kiến cho rằng hàn gắn dân tộc bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ (bài 3, bài 4, bài 5, bài 6), bối cảnh lịch sử (bài 7) và đứt gãy văn hóa (bài 8).

Bài viết kỳ này tập trung vào giả thiết cho rằng quá trình hàn gắn khó khăn vì mất mát của hai bên quá lớn.

Trong dự án này, có nhiều cuộc nói chuyện mà 90% thời gian được dùng để kể lại nỗi đau, đến mức sau đó chính tác giả cũng phải tìm trợ giúp tâm lý. Từ khóa quay lại nhiều nhất là “bị hiếp” và “bị giết.” Sự tàn phá ấy quá lớn khiến ai cũng bị dày vò để tìm lý do biện minh cho hận thù. Quá khứ mất mát trở thành một phần cơ bản của cuộc đời. Thậm chí nếu được chữa lành thì hy sinh bỗng trở thành “vô nghĩa.”

Ta đã mất mát quá nhiều, hận thù là chính đáng

Nhà văn Đỗ Kh. từng miêu tả cuộc sống của những cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại như những “ốc đảo của quá khứ. Cách hai thế kỷ và 10.000 cây số, người Việt vẫn tin rằng số phận long đong trốn chạy của Kiều chính là số phận của họ.”

 Thoạt tiên, họ “bỏ chạy vào Nam sau cải cách ruộng đất.”

“Lần thứ hai là khi họ sợ sẽ bị “tắm máu sau ngày thống nhất.”

Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”

“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”

Thế nên “gia đình tôi liều mình trốn chạy.” Khi ấy “vượt biên là tội phản quốc. Nếu bị bắt có tiền cũng 2-3 năm, không tiền 10 năm tù.” “Vụ tàu Việt Nam Thương tín là kinh khủng nhất. Những người trên đó tự nguyện hồi hương vì tin là chính phủ khoan hồng. Nhưng về tới Nha Trang là bị dồn lên xe bít bùng. Ai cũng vào tù. Nhỏ nhất là một đứa bé 7 tuổi. Tù ít nhất 9 tháng. Trung tá Trần Đình Trụ ở tù tới 13 năm.”

Nhưng người ta vẫn trốn. “Ở Vũng Tàu sáng nào cũng thấy xác người vượt biên trôi.” Ngày ấy dân miền Nam bảo nhau: “Một là con nuôi mẹ. Hai là mẹ nuôi con. Ba là con nuôi cá.”

Bởi trên những chuyến tàu ấy là địa ngục trần gian. “Có người phải ăn chay cả đời, phải đi tu, phải vào trại tâm thần vì đã chứng kiến, hoặc phải tự mình ăn xác chết để cầm hơi.”

Trẻ em miền Nam trong một trại tị nạn ở Vũng Tàu vào cuối tháng 4/1975

Gặp hải tặc Thái Lan, “đàn ông thì nó bẻ răng lấy vàng. Còn phụ nữ nó hiếp.” “Có bé bị hiếp mới mười hai tuổi.” “Có cô bị hiếp nhiều lần trong khi bị bắt phải chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc.”

“Có cô bị xâm hại nhiều đến mức vết thương hôi thối lựng một góc lán. Lại còn dính thai đôi. Mà thai lại bị dị tật. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc cầm mã tấu bắt chồng và bốn đứa con đứng xem. Người chồng là một nông dân chất phác. Anh nói mấy cái bào thai không có tội. Thôi để chúng ở lại với vợ chồng tôi.”

Ở trại tị nạn Songkhla, “ai cũng nhớ ngày xác của 11 cô gái trẻ bị trói cổ vào nhau, không mảnh vải che thân, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Đến giờ ở đó vẫn còn cái am, thờ một cái thuyền đã mục. Một bà già mộ đạo đã hương khói cho nó suốt 17 năm.”

Trên khắp các trại tị nạn, “hàng trăm nấm mồ tập thể đã được dân địa phương chôn cất.” “Riêng đảo Koh Kra có 3.000 xác người nằm lại.”

Rồi “mỗi trại lại là một thế giới đau thương thu nhỏ.” “Thoát chết rồi nhưng khắp trại là những người rách rưới lang thang, miệng lẩm bẩm, thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc lóc thảm thiết.” “Có những cô gái mỗi lần nhìn thấy biển là lăn đùng ra, mắt trợn ngược”. Có những đôi vợ chồng “không thể nhìn mặt nhau khi chăn gối,” “phải tắt đèn.” Nhiều cặp “chia tay nhau,” “rồi người vợ treo cổ vào hôm kỷ niệm ngày cưới vì không thể vượt qua được ký ức bị hãm hiếp.”

“Biển trở thành một tấm lưới, bủa vây cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.”

Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi/ Những năm trước bao người ngon miệng cá/ Thì sá gì thêm một xác cong queo” – (Du Tử Lê).

“Sau chấn thương bao giờ người ra cũng cần thời gian phục hồi. Nhưng điều đó không xảy ra với người Việt tị nạn. Chưa qua cái này thì cái kia đã đến. Khi vừa đặt chân đến quê hương mới, nhu cầu sống sót lập tức chiếm vị trí ưu tiên. Mai con mình có cơm ăn không?” Quần quật cho đến khi ngẩng đầu lên thì những “nỗi đau đã kịp kết tinh thành tính cách.”

“Hôm ấy tôi tới đám tang một thuyền nhân. Mọi người đau buồn khóc lóc. Rồi bỗng có một ông đứng lên. Nói hùng hồn quá trời. Ông chửi chính quyền, chửi cộng sản. Ông nói văng cả nước miếng. Người già gật gù nhưng đám trẻ thì có đứa bỏ về. Lúc đó tôi sốc, nhưng giờ nghĩ lại thấy thương đứt ruột.”

Càng đau càng không muốn tha thứ. Hận thù phải tiếp tục để “nỗi đau không bị vô nghĩa,” để ta không “phản bội lại chính mình.” “Mình đã mất mát quá nhiều, mình phải hận thù.” “Ngày ‘quốc hận’ là ngày mà nỗi đau trở thành danh tính.”

“Nhưng cứ hận thù thế này thì sống tiếp sao đây?”

Hòa giải với nỗi đau trở thành một mâu thuẫn tâm lý khiến “người ta kiệt sức.”

Một em bé miền Nam Việt Nam trong trại tị nạn Pendleton ở California vào năm 1975

Ta đã mất mát quá nhiều. Cái giá phải trả hẳn là chính đáng

Với bên “thắng cuộc,” mất mát là bằng chứng để khẳng định nó đã được đánh đổi cho một điều thiêng liêng. Đó là sự “thống nhất Bắc Nam,” là “Mỹ đã cút và ngụy đã nhào.”

Vậy nên với nhiều người, nhắc lại nỗi đau là để khẳng định tính chính danh của những gì mình từng làm, khẳng định rằng quá khứ của mình vẫn còn giá trị. “Hòa giải đồng nghĩa với việc chấp nhận mình sai, mất mát đó không còn cao cả nữa mà bỗng thành ra vô ích.”

Tuy nhiên, điều cao cả ấy ở mức độ cộng đồng, còn sự hy sinh thì lại ở tầng cá thể. Để dung hòa được khoảng cách đó không dễ dàng.

“Ở hải ngoại, người ta gắn kết bởi nỗi đau trong quá khứ. Ở trong nước, người ta gắn kết bởi vinh quang trong dĩ vãng.”

Nhưng “người chiến thắng cũng đau chứ, chỉ có điều đó là nỗi đau của những anh hùng.” “Nó phải được gói ghém trong màu vinh quang,” bởi chiến tranh không phải là những câu chuyện buồn. Nó là “sử thi và tráng ca.”

Có rất ít không gian cho những chấn thương hậu chiến, nơi kẻ chiến thắng được “quyền đau đớn,” được quyền “hoang mang,” được quyền “tự chất vấn,” được quyền “nhận ra mình sai đúng ở đâu,” và quan trọng nhất là được quyền “trợ giúp để chữa lành.”

“Mẹ hay kể chuyện đang ăn cơm thì bị đánh bom. Cô bạn của mẹ mới vừa cầm bát ngồi đây. Bom nổ đùng một cái. Thân đã ở trên cây. Đầu vướng cành trên cao. Chân vương cành dưới thấp. Mẹ thường chửi bới cậu (em trai mẹ) một cách tàn nhẫn. Rằng mày không đi chiến đấu. Cả nhà này chỉ mình tao hy sinh. Chúng mày ở hậu phương ăn sung mặc sướng… Cái sai nhất của cậu là mày dám sướng. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười thành tiếng. Cả đời cho đến khi chết, nỗi đau của mẹ không có câu trả lời thỏa đáng.”

“Gia đình tôi chia đôi theo cuộc chiến quốc-cộng. Sau 75, bác vượt biên đi nước ngoài. Bố ở lại. Khi bác về thăm, bố bảo: ‘Việt Kiều nhưng cũng mất nước’. Bố lúc nào cũng uẩn ức, giận dỗi, mâu thuẫn rất khó hiểu. Rồi tôi nhận ra là bố luôn muốn đi. Hóa ra bố ghen tị. Bố không có sự tự hào của người ở lại. Bố bị mắc kẹt trong việc cố gắng lý giải nỗi đau của mình.”

“Cô (chỉ tác giả) nói ba cô lúc sắp chết mới sám hối khi nhìn thấy ma quỷ đúng không? Ba tôi lúc còn sống đã sám hối rồi. Đó là khi ông biết về tù cải tạo, về đánh tư sản, về thuyền nhân. Tuyền là những thứ mà ông cho rằng mình phần nào có lỗi.”

“Bố tôi 5 lần là dũng sĩ diệt Mỹ. Khi bố mất, tôi tìm thấy những huy chương ấy gói kín, để sâu trong tủ. Bố chỉ ghét Mỹ thôi. Bố không bao giờ nhắc tới những huy chương này, vì bố phải giết cả đồng bào mình. Nên ông giấu đi. Các cựu chiến binh đi hội nghị đeo đầy ngực, nhưng bố không bao giờ. Bố bảo người ta cũng yêu nước giống mình, chỉ có điều lý tưởng của người ta giống Mỹ.”

“Bố tôi rất ghét bọn trẻ trâu khi chúng nó tự hào ầm ĩ trên mạng. Kể lại chuyện thắng Mỹ thắng Pháp, Đại Việt thần thánh nọ kia với sự kiêu hãnh như thể chính chúng nó lập công. Trong khi chúng không hề biết mùi máu là gì.

Tự hào về chiến tranh bây giờ toàn bọn trẻ con quen chơi game bắn nhau. Người thực sự cầm súng họ không kiêu hãnh kiểu như thế. Bố bảo lũ oắt con có giỏi thì tự mình thành công đi. Rồi tha hồ mà tự hào. Đừng có yêu nước bằng máu của bọn tao.

Bọn trẻ ranh ấy không hiểu rằng, những ai đã giết người, dù chính nghĩa đến đâu, thì rất khó nhắc lại mà trong lòng không tý gợn. Viết ra được những câu kiểu như ‘Dưới kia chúng nó đang cười. Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết!‘ thì chỉ có mấy ông nhà thơ. Ra chiến trường đi, không bao giờ còn viết được thế.”

“Những người thực sự đi qua chiến tranh mà chưa hóa đá với nỗi đau, họ viết như Bảo Ninh cơ. Họ cũng sống như Bảo Ninh luôn.

Cái hôm sống sót trở về nhà, Bảo Ninh đã đi lên cầu thang rất khẽ để không đánh động đến hàng xóm. Cả nhà cũng ôm nhau rất khẽ. Bởi vì ngay phòng bên cạnh là một gia đình có con trai không trở về.”

Thế nên “bố không muốn chết cùng với những tấm huy chương. Bố không muốn chết rồi vẫn thành đồ trang sức. Cả đời bố là chiến binh, nhưng ảnh đám ma của bố không mặc áo lính. Trên bàn thờ, bố mặc áo trắng.”

Cụ Nguyễn Thị Phải, người được phong Mẹ Việt Nam anh hùng ở Sóc Trăng, có 4 người con trai đối đầu nhau ở hai chiến tuyến

“Có lần tôi xem triển lãm thấy bức ảnh mẹ Thứ ngồi bên cái mẹt có bày bát hương và 9 cái bát không. Mẹ có 9 người con là liệt sĩ.

Tôi không hiểu nếu gặp nhau, mẹ Thứ sẽ nói gì với mẹ Phải?”

Mẹ Nguyễn Thị Phải có ba người con chết trận. Trong một cuộc tấn công, anh Năm và anh Bảy ném lựu đạn vào đồn địch nơi anh Tư cố thủ. Khói súng tan, hai em trai soi đèn đi tìm xác anh trai.

Anh Năm và anh Bảy được phong liệt sĩ. Anh Tư chết không danh hiệu. Mẹ Phải được phong “Mẹ Việt Nam anh hùng.”

“Bao năm qua, mẹ đã sống như thế nào với nỗi đau ấy? Mẹ có cảm thấy mình là anh hùng không?”

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/ Một trăm năm đô hộ giặc Tâу/ Hai mươi năm nội chiến từng ngàу.

Gia tài của mẹ, một rừng xương khô/ Gia tài của mẹ, một núi đầу mồ” – (Trịnh Công Sơn).

Play video, “Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng”, Thời lượng 6,45

06:45

Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng

Bài 1: Cuộc chiến ký ức

Bài 2: Hòa giải đã lỡ, hòa hợp đang chờ

Bài 3: Cây tre Việt Nam – di sản chọn phe

Bài 4: Đồng phục tư tưởng – di sản ý thức hệ

Bài 5: ‘Sống mãi với hệ điều hành 1975’ – di sản phân cực chính trị

Bài 6: Khúc ruột ngàn dặm – di sản hải ngoại

Bài 7: Con Lạc cháu Hồng – di sản lịch sử

Bài 8: Gánh gánh gồng gồng – di sản văn hóa

Chấn thương xuyên thế hệ

Sau 1975, Việt Nam không thực sự có một chương trình hòa giải. Thậm chí hận thù còn được “tạo mới” bởi các “chính sách sai lầm.” Điều này khiến người Việt thiếu một không gian chung “để cùng nhìn lại, cùng nhận lỗi và cùng tha thứ. Những vết thương vẫn rỉ máu trong im lặng. Nó truyền đời từ này sang đời khác, từ cá nhân sang cộng đồng.”

“Có lần tôi thấy một em bé 8 tuổi trên ti vi khóc vì ‘con thương Bác Hồ quá’.

Tại sao một đứa nhóc chưa từng gặp Bác, thậm chí ông bà nó cũng không đủ già để có thể gặp Bác, mà nó vẫn có thể khóc một cách rất chân thành vì nhớ Bác?”

Có lẽ chúng ta ai cũng như em bé ấy, “kế thừa cả một đại dương của kiêu hãnh và sợ hãi, của yêu mến và căm thù.” Chúng ta lớn lên với một gánh non sông nặng đầy quá khứ.

Cho nên “chiến tranh không chỉ diễn ra hai lần, trên chiến trường và trong ký ức như nhà văn Nguyễn Thanh Việt nói. Nó sẽ còn tiếp diễn mãi.” Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi thầy cô, mỗi nhà lãnh đạo, mỗi thế hệ lại “thêm vào những ý nghĩa mới.”

Như “một bức tường liên tục được vẽ bồi lên những hình graffiti mới.”

Dù “bức tường quá khứ” không thể thay đổi, nhưng “tương lai chính là những hình vẽ mới” ấy. Hòa giải là cho phép bức tường được (1) đa nguyên sự thật với những mảng màu đối lập nhau; (2) dựa trên một nền tảng nhân văn, không sỉ nhục nhau trên tường, không trừng phạt người vẽ; (3) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.

Bức tường quá khứ sẽ tồn tại mãi. Nhưng ý nghĩa của nó có thể thay đổi để trợ giúp cho một tương lai cộng sinh, hòa hợp.

Hình vẽ trên tường của bạn có hiệu ứng gì? Nó khiến người ta “dừng lại để ăn năn và chiêm nghiệm”? Hay nó khiến họ sùng kính đến mức muốn “đóng lên đó một cái bàn thờ,” hoặc giận dữ muốn “…đái vào chân tường cho bõ ghét”?

Di truyền biểu sinh xuyên thế hệ

Chúng ta không chỉ kế thừa tổn thương qua ký ức mà còn qua con đường sinh học (transgenerational epigenetics).

Sau sang chấn, các gien (DNA) thay đổi cách hoạt động. Sự biến đổi đó có thể di truyền lại và biểu hiện ra bệnh tật, hành vi, cảm xúc cho vài thế hệ về sau. Các nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này được thực hiện với thế hệ thứ 2 và thứ 3 của nạn nhân diệt chủng và nạn đói gây ra bởi Đức Quốc xã.

Khi còn trong bụng, bào thai nhận tín hiệu từ cơ thể mẹ để “hiểu” về thế giới bên ngoài. Nếu đó là trải nghiệm đau buồn, tín hiệu ấy sẽ nói với bào thai rằng: “Thế giới ngoài kia đầy cạm bẫy. Con hãy chuẩn bị tinh thần”.

Bào thai tiếp nhận thông tin, các gien lập tức thay đổi cách làm việc. Một số gien ngừng hoạt động. Một số gien kích hoạt hết cỡ. Cơ chế sinh học chuẩn bị sẵn sàng cho một thế giới bất ổn. Như một căn nhà mà các ô cửa được đóng mở một cách chiến lược để tồn tại như một pháo đài. Bào thai phát triển theo hướng lấy “phản vệ” làm phương châm sống.

Khi sinh ra, thế giới có thể không còn tệ như trí nhớ sinh học lưu giữ. Tuy nhiên, cơ thể đã hoàn thiện, pháo đài đã khởi động.

Bé lớn lên có thể dễ bị rối loạn tâm lý, căng thẳng, tăng cân, béo phì, tim mạch, tiểu đường… Kể cả khi chất lượng cuộc sống tốt lên thì cuộc đời của một người như thế vẫn tiếp tục gửi tín hiệu sinh học tới cho bào thai thế hệ tiếp theo. Hiệu ứng này chỉ giảm dần qua vài thế hệ chứ không mất hẳn.

Và tất nhiên, tín hiệu sinh học sẽ tệ hơn nếu sinh ra cơ thể đã phản xạ như một pháo đài, mà cuộc sống xung quanh vẫn đầy hận thù. Sinh học cộng hưởng với môi trường sẽ tạo thành vô thức cộng đồng, tác động đến lối sống, tư duy và căn tính dân tộc.

Ở Việt Nam, các thế hệ sau 75 “không trực tiếp bắn giết, không bị tù cải tạo, bị đói, bị mất mát,” bị “phản bội,” bị “bội tín,” bị “trả thù.” Họ có lẽ còn không hề biết điều đó từng xảy ra với gia đình mình.

Nhưng họ vẫn có thể kế thừa “cảm giác sợ hãi, nghi kị, lo âu, u uất, rối loạn cảm xúc, phản xạ cực đoan.” Họ có thể dễ mắc bệnh mà không ý thức được tại sao, hoặc sẽ gán cho nó những lý do nhất thời.

Rất có thể đây là một phần “trầm tích sinh học” của bao thương đau mà người Việt đã trải qua, khiến cái “cơ thể còi cọc của chúng ta luôn xù lông lên với cả thế giới.”

Nếu ta không thực sự hàn gắn dân tộc, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là một vòng xoáy với nhiều thế hệ mang trong mình “khuyết tật,” là “hàng núi tiền đổ vào chữa bệnh,” là sự “suy giảm năng suất sáng tạo,” là sự tụt hậu sinh học của cả dân tộc khi phải chạy đua với một “cơ thể bạo bệnh.”

Nạn đói Hà Lan (Dutch famine) di truyền lại cơ chế sinh học cho vài đời kế tiếp, khiến con cháu họ dễ mắc bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, và thần kinh

Cùng gọi tên nỗi đau

Ở nhiều xã hội hậu chiến, hòa giải được hiểu là “khép lại quá khứ,” “đừng nói nữa.”

Nhưng nếu “khép lại” mà không “ghi nhận” thì chỉ là đóng băng xung đột. Nỗi đau không được gọi tên sẽ biến thành nghi ngờ, oán giận. Nỗi đau cần được thừa nhận trước khi có thể chuyển hóa. Đó là nguyên tắc cốt lõi. “Ta không thể chữa lành những gì ta không thể gọi tên” (James Baldwin).

Tuy nhiên, chữa lành nỗi đau cá nhân khác với những sang chấn cộng đồng. Rất khó có thể “dùng trị liệu, gặp bác sĩ tâm lý, đi thiền, đi tu để tự chữa lành trong không gian riêng tư.”

“Một người lính có thể được trị liệu tâm lý, sống hạnh phúc trong gia đình. Nhưng nếu xã hội xung quanh vẫn phủ nhận nỗi đau của họ thì cuộc chiến ấy không bao giờ kết thúc.”

Chấn thương cộng đồng thì phải được chữa lành trong cộng đồng. Người ta phải cùng nhau làm điều đó. Họ phải được chứng kiến. Họ phải không đơn độc. Chỉ như thế thì ký ức mới được ‘rã băng’.”

Hòa giải không cần công lý?

Một số nhân vật nhắc tới chương trình “Như chưa từng có cuộc chia ly” như một ví dụ hiếm hoi từ truyền thông chính thống.

“Cứ nghe thấy giọng Thu Uyên là tôi khóc.” “Thật kỳ diệu khi nỗi đau có thể hàn gắn đến vậy. Bởi nó không phán xét. Người ta đau, nhưng không đổ lỗi cho nhau.”

Ở Như chưa từng có cuộc chia ly, những người “bị chính sử gạt ra ngoài được phục hồi phẩm giá trong tư cách người cha, người mẹ, người con chứ không còn bị rút gọn thành kẻ địch.” Ở chiều ngược lại, “những anh hùng được phép trở thành người thường, với tất cả sự yếu đuối, tổn thương và sai lầm của họ.”

“Nó dùng nỗi đau chung để tái tạo ký ức (reconstructed memory), khiến đau thương sau khi được ghi nhận có thể mang một ý nghĩa khác.”

“Nó cũng bám vào một kết cấu vững chắc của văn hóa Việt Nam. Đó là gia đình. Người Việt vốn nặng gánh máu mủ, chỉ cần một tý tình nghĩa chân thành là có thể bỏ qua cho nhau.”

Tuy nhiên, Như chưa từng có cuộc chia ly cũng nhận được nhiều góp ý.

“Tôi muốn thấy những câu chuyện đa dạng hơn, liên quan nhiều hơn đến phía bên kia, đến tù cải tạo, đến thuyền nhân. Ví dụ, trên mạng có rất nhiều diễn đàn nhỏ lẻ tìm người thân thất lạc sau khi vượt biển và ở trại tị nạn.”

“Cái lỡ cỡ của Như chưa từng có cuộc chia ly là nó chuyển hóa chấn thương tập thể thành những chuyện riêng tư, chữa lành theo logic tân tự do (neoliberalism), bắt cá nhân phải tự chịu trách nhiệm thay vì hệ thống phải sửa sai.” “Nó từ chối đối thoại chính trị, từ chối chạm vào gốc rễ của lịch sử. Và cũng tức là từ chối mở đường cho công lý.”

(Nhân vật minh họa bằng nghiên cứu Collective wound, private healing của Nguyen-Thu Giang).

“Người ta có thể kết nối bởi nỗi đau và không đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái hệ thống đã gây ra nỗi đau thì không thể bị tảng lờ đi.”

“Có điều trong bối cảnh bây giờ, những cuộc đối thoại như thế cũng đã là tốt lắm rồi.”

Trong bộ phim tài liệu Hành trình thống nhất của VTV, một gia đình có nhiều anh em ở cả hai chiến tuyến được chia sẻ câu chuyện riêng của họ; phía sau lưng họ là di ảnh của những người thân, không đứng cùng chiến hào nhưng ngồi chung một bàn thờ

Vai trò của lãnh đạo trong ‘công lý ghi nhận’

Trong quá trình hàn gắn, ghi nhận sai lầm là một bước công lý căn bản, có sức mạnh khôi phục niềm tin lớn hơn bất kỳ hành động bồi thường vật chất nào.

“Ở Việt Nam, sự ghi nhận ấy phải đến từ người lãnh đạo.”

Thứ nhất là yếu tố “tập quyền chính trị và tôn sùng cá nhân” khiến cho “tiếng nói của lãnh đạo trở thành cái thẻ bài,” thành “tín hiệu an toàn” để người dân “được bảo vệ khi bước vào không gian và quỹ đạo của sự thật.”

Thứ hai là tại Việt Nam, đối tượng cần hòa giải là giữa chính quyền với nạn nhân của những “chính sách sai lầm sau 75.” Tiếng nói của lãnh đạo đặc biệt quan trọng vì nó đại diện cho chính quyền.

“Sau cải cách ruộng đất, tất cả nồi, niêu, xoong, chảo, lúa, gạo, quần áo đều bị cướp sạch. Đến cái cánh cửa cũng bị tháo.” “Nhà có 15 người thì 11 người chết. Hai đứa trẻ con bị làng đuổi ra gò. Ăn trộm sắn vì đói. Nuốt sống ngộ độc. Rồi cũng chết.”

“Nhưng mà họ cũng chỉ kể lại thôi. Không có sự căm thù ngùn ngụt trong giọng nói. Không đầy uất hận như kể về những gì diễn ra ở miền Nam sau ‘giải phóng’.”

“Tại sao ư? Tại Bác Hồ xin lỗi.”

“Hàng nghìn người chết thảm trong những tòa án nông dân man rợ. Người bị bắn đầu tiên là một phụ nữ đã nuôi giấu lãnh đạo Việt Minh như con cái trong nhà, đã hiến hàng trăm lượng vàng cho cách mạng (địa chủ Cát Hanh Long). Thương đau ngút ngàn. Oan thấu trời xanh. Thế mà sau khi Cụ Hồ xin lỗi, bao nhiêu người lại tiếp tục gửi con đi bộ đội.”

“Sau này có ông Kiệt. Ông nói một câu trong dịp 30/4/2005 là sự kiện này triệu người vui, triệu người buồn. Tổ chức rình rang ít thôi. Vậy mà người ta nhớ mãi, thương yêu ông mãi. Giá có thêm nhiều ông Kiệt.”

“Giờ có ông Tô Lâm cũng mạnh. Ông chỉ nói một câu Sài Gòn từng là ‘hòn ngọc viễn đông’ là người miền Nam trút được nhiêu bao uất ức.” “Phải ghi nhận miền Nam thực lòng như thế thì dân Nam mới khôi phục lại lòng tin.”

“Cái sức mạnh của người lãnh đạo trong một cơ chế tập quyền nó khủng khiếp lắm. Chưa cần đến chính sách. Chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng thập kỷ nỗ lực của dân đen.” “Như một đàn số 0, lãnh đạo tốt là con số 1 đứng trước dãy số 0 đó.”

“Lãnh đạo dở thì chắc là… dấu phẩy.”

Bà Nguyễn Thị Năm (tức Cát Hanh Long), người có công với cách mạng nhưng đã bị đem ra đấu tố và bị xử bắn đầu tiên trong Cải cách Ruộng đất; Bên phải là hình ông Hồ Chí Minh khóc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 1 (29/12/1956-25/1/1957) khi nói về sai lầm trong Cải cách Ruộng đất

Mỗi nỗi đau là một nhịp cầu

Một điều thú vị là trong nghiên cứu này, khá nhiều bạn trẻ cảm nhận được nỗi đau cộng đồng thông qua những tổn thương cá nhân.

“Hồi cấp 2, tôi từng bị bắt nạt. Cô giáo bảo nếu nhận lỗi thì cô sẽ tha. Nhưng cô không giữ lời. Tôi cứ thế lớn trong sự bạo hành của bạn học và người lớn.

Khi vào Nam sinh sống và nghe câu chuyện của người nơi đây, tôi thấy họ cũng có những tổn thương y như mình. Tôi và những cựu binh đều là nạn nhân của bạo lực tinh thần. Nếu như không có những tổn thương trong quá khứ, chưa chắc tôi đã nhìn ra nỗi đau của họ. Chưa chắc tôi đã có thể nối những đau thương của mình với trải nghiệm của cả dân tộc.”

“Hồi năm nhất tôi đi học ở Mỹ. Trong trường có treo cờ vàng. Tôi viết thư đòi hạ cờ.

Khi ấy, tôi có ý tốt. Tôi muốn họ thôi hận thù. Tôi muốn họ phải đồng ý với tôi. Rằng, thôi đi, đau nó vừa thôi. 18 tuổi tôi chỉ nghĩ được đến thế.

Sau này, mắt tôi cứ kém dần đi. Mơ ước làm tiến sĩ của tôi tan tành. Tôi sống nhiều năm với nỗi đau của một người tật nguyền và trầm cảm.

Lúc đấy bỗng nhiên tôi tìm thấy kinh Địa Tạng. Đọc xong tôi cứ khóc mãi. Tôi bắt đầu hiểu rằng ai cũng có nỗi đau riêng. Mình không phải họ, sao bắt họ hết đau?

Thế nên tôi bắt đầu biết thương. Không yêu, mà thương. Yêu hơi ích kỷ. Nhưng trong cái thương thì có cái đau. Khi mình thương, mình chấp nhận nỗi đau là một phần để vỗ về, an ủi.”

Play video, “Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam”, Thời lượng 18,04

18:04

Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam

Mỗi người giữ một chút tử tế

Dù chính quyền được xác định là chịu trách nhiệm chủ yếu trong tiến trình hòa giải, nhiều nhân vật vẫn cho rằng “hàn gắn dân tộc cũng là nghĩa vụ của một người tử tế.”

“Trước khi chết, ba của cô (tác giả) đã sám hối, vì ông nhận ra mình giết nhiều người quá.

Nhưng làm sao để khoảnh khắc ấy xảy ra sớm hơn mà không cần phải viện đến sức mạnh của cái chết?”

“Tôi chọn trở thành người tốt khi có thể. Tôi chấp nhận là một kẻ xám xịt, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Nhưng tôi ý thức được rằng mình không muốn bị đen tuyền, bị tha hóa. Khi nào tốt mà không hại đến bản thân thì phải tốt.”

“Tôi dặn mình phải giữ chút liêm sỉ nghề nghiệp. Tôi không bao giờ dùng từ ‘ngụy’, ‘giải phóng’, ‘lưu vong’, ‘phản động’. Nếu lỡ mồm thì xin lỗi ngay. Hàng chục năm làm biên tập, không bài báo nào qua tay tôi mà có dính những từ đó.”

“Bố tôi tự hòa giải bằng sử ký và văn học chấn thương. Bố đọc Chuyện ba người, Nỗi buồn chiến tranh, Bên thắng cuộc, Gia đình, Tôi là con gái của cha tôi, Hai bên chiến tuyến, Tổ quốc ăn năn, Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Giải khăn sô cho Huế, Mùa hè đỏ lửa… Bố chia sẻ cho bạn bè. Bố kể cho tôi nghe.”

“Tôi xem ti vi cùng con.” “Thỉnh thoảng tôi kể cho con một câu chuyện ngược lại để thách thức đầu óc phản biện của con.”

“Hồi trẻ tôi nghĩ mình phải đi khỏi Việt Nam để không bị chết chìm trong sự ngu si của thiên hạ. Nhưng giờ tôi kệ. Nếu chết ngộp thì chết ở đây. Kỳ lạ thế. Máu hỏng thịt hỏng, nhưng là máu thịt mình. Mình có phần mình, nên xã hội này mới thế.

Hiểu được vậy thì sẽ không thù hận nữa. Hiểu được vậy thì sẽ thương cả những kẻ ngu si. Hiểu được vậy thì mới thấy trách nhiệm của mình.

Hiểu được vậy thì sẽ không còn hỏi ‘Chuông nguyện hồn ai?’

Bởi chuông nguyện chính hồn nhà ngươi đấy. Biết không?

Mời quý vị đón đọc phần tiếp theo

Bài 10: Có thực mới vực được đạo – di sản kinh tế

  • Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực ứng dụng Khoa học Não bộ vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa và Phát triển năng lực cá nhân. Đây là một phần trong loạt bài viết về nghiên cứu hòa hợp dân tộc của tác giả.

Thủ tục hành chính của chúng ta thật là vi diệu.

Thang Hoang Nghia 

Bé gái tên Hồng 14 tuổi ở P. Nghĩa Chánh, TP Quảng Ngãi khi sinh ra giấy chứng sinh bị ghi nhầm là nam, khai sinh theo đó cũng tiếp tục là nam dù bản sao mười mấy năm trước phường đã ghi là nữ. Mãi đến ngày đi làm CCCD mới phát hiện nhầm lẫn tai hại này!

Đến phường, phường chỉ vào BV Đa Khoa QN sửa lại, BV bảo hơn 10 năm hồ sơ hủy rồi chẳng còn gì để làm căn cứ nhất quyết k làm! Mẹ con dắt díu nhau về phường, phường kêu lên Sở Tư pháp, Sở chỉ lại xuống phòng tư pháp TP QN!

Lòng vòng luẩn quẩn như thế rốt cuộc chẳng có nơi nào trả lại giới tính cho con. Thiếu nữ khai sinh nam nên con k thể nào làm CCCD được, mà k có CCCD thì vô vàn các quyền công dân khác chẳng có theo. Năm sau thi vào lớp 10 rồi lỡ có qua được tốt nghiêp PTTH hay làm đủ thứ giấy tờ nữa con sẽ làm sao? Con có thế nào thì họ cũng mặc, đẩy sang cơ quan khác hay viện đủ lý do là xong, kệ cho đứa bé chưa biết bao giờ được trả lại giới tính thật!

Bà Lê Hải Yến, phó trưởng phòng hành chính tư pháp và hỗ trợ pháp lý (Sở Tư pháp Quảng Ngãi), cho rằng “Nói thật, trường hợp của cháu Hồng, có gửi lên Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực cũng không giải quyết được. Vụ việc quá hy hữu, chưa từng có tiền lệ. Nhầm lẫn giới tính như cháu Hồng lần đầu tiên tôi tiếp nhận. Vụ này còn khó hơn nhầm lẫn họ tên, năm sinh, quê quán”.

Bí lối ra, thiếu tá Phương (phó công an phường) hỏi đồng nghiệp của mình ở nhiều nơi và tìm được phương án là vào Bệnh viện Nhi đồng 2 để xác định giới tính cho cháu Hồng. Ngày 31/7/2024, hai mẹ con bà Phương đùm túm vào TP.HCM. Sau khi làm việc với mẹ con bà Phượng, Bệnh viện Nhi đồng 2 từ chối thành lập hội đồng xác định giới tính! Bó tay!

Cái việc cỏn con mà cơ quan hành chính cả tỉnh xuống phường không xử lý được.

Fb Nguyễn Kim Chi


 

THẦY GIÁO GỌI TÔI LÀ ‘CON NGỤY’- BBC

BBC News Tiếng Việt

Tiếp tục với loạt bài Hòa giải – Hòa hợp của Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai.

Trích:

Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”

“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”

#BBCTiengViet

#ChientranhVietNam

#Hoagiai_Hoahop


 

3 công an phường ở Hà Nội chở thanh niên ‘hút cỏ’ đi rút tiền ‘lót tay’

Ba’o Nguoi-Viet

June 5, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ba cán bộ Công An Phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, sắp sửa hầu tòa với cáo buộc chở một thanh niên tàng trữ cần sa đến ngân hàng để nh này rút tiền “lót tay” để được tha tội.

Theo báo Dân Việt hôm 5 Tháng Sáu, ba bị can Chu Hải Nam (32 tuổi), Ngô Việt Đức (36 tuổi) và Trần Văn Công (36 tuổi) là cán bộ Tổ Cảnh Sát Hình Sự, Công An Phường Điện Biên.

Công An Phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, lập chốt kiểm tra nồng độ cồn trên đường. (Hình: Doanh Nghiệp và Tiếp Thị)

Cáo trạng vụ án cho hay, hồi giữa Tháng Mười hai năm ngoái, trong lúc đi tuần tra tại công viên Lenin, bị can Nam phát giác một thanh niên được nêu tên tắt là anh Minh (26 tuổi) có hành vi tàng trữ chất ma túy, nên gọi điện báo cho Đức.

Vừa đến hiện trường, bị can Đức hỏi Minh: “Em vừa hút gì đấy?” và được trả lời: “Em vừa ‘hút cỏ’ [cần sa]”.

Bị can Đức kiểm tra hành chính và phát giác trên người Minh có hộp đựng 0.68 gram cần sa.

Hai công an viên đưa Minh về đồn nhưng anh này xin “bỏ qua,” đề nghị hai công an viên chở đến ngân hàng rút 60 triệu đồng ($2,301) để “cảm ơn.”

Bị can Nam gọi điện cho bị can Công đến chở anh Minh đi rút tiền.

Bị can Công chở anh Minh trên xe gắn máy còn Nam chạy xe chở Đức đi theo “áp giải.”

Tại một phòng giao dịch ngân hàng ở phố Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội, bị can Công đưa anh Minh vào rút tiền tại trụ ATM, còn Nam và Đức đứng chờ.

Thời điểm đó, anh Minh chỉ rút được 50 triệu đồng ($1,917) thì hết hạn mức. Bị can Công bèn chở Minh ra một ngân hàng khác để rút thêm tiền tại quầy.

Khi vào bên trong phòng giao dịch, anh Minh giả bộ nói mình đi vệ sinh, gọi điện tố giác sự việc cho Công An Quận Đống Đa.

Tang vật trong một vụ bắt nghi can tàng trữ cần sa. (Hình minh họa: Thanh Niên)

Trong lúc hai bị can Nam và Công định đưa anh Minh ra ngoài đường thì Công An Quận Đống Đa xuất hiện, đưa tất cả về đồn.

Hiện chưa rõ thời điểm phiên tòa xử ba công an viên diễn ra.

Bản tin của báo Dân Việt dẫn bình luận của ông Đặng Văn Cường, tiến sĩ luật: “Cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng các bị can là những người có chức vụ quyền hạn, đã lợi dụng tình thế bị hại vi phạm pháp luật để gây áp lực, ép buộc người này phải đưa tiền. Các bị can bị xử lý về tội ‘lạm dụng chức vụ quyền hạn, chiếm đoạt tài sản.’”

Theo ông Cường, với hành vi “xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động công vụ” và “làm giảm sút niềm tin của người dân đối với chính quyền,” ba công an viên đối mặt với bản án từ một đến sáu năm tù. (N.H.K)


 

 “Đi Ăn Ở Hà Nội” – Đỗ Duy Ngọc 

Đỗ Duy Ngọc 

 Hà Nội có nhiều món ngon; chuyện ấy ít người cãi. Nhưng món ăn ngon Hà Nội tập trung ở Phố cổ; mà nhà ở Phố cồ thì bé tẻo teo, thế nên hàng quán bày bán đầy vỉa hè, muốn ăn thì ngồi ngay đường đi, ghế thấp lè tè, toàn ghế nhựa. Món ăn cũng bày tràn ra đường mặc cho bụi đường và vi trùng ồ ạt.  Hà Nội nổi tiếng là thành phố ô nhiễm bậc nhất cho nên thức ăn cũng thế thôi.

Ra Hà Nội tìm món ăn ngon của một thời trong văn của Thạch Lam, của Vũ Bằng và cả ông Nguyễn Tuân, những người được cho là sành ăn, thế nhưng khi thấy mọi người chen chúc ở vỉa hè và món ăn bày tràn cả lề đường thì ngại ngùng. Cũng có một số quán bán trong nhà, nhưng chật chội và bẩn cộng với muỗng đũa nhầy nhụa cả mỡ. Căn nhà ám khói và tràn giấy lau bay như bướm, trắng cả sàn. Chủ tiệm và người phục vụ có lẽ đắt khách quá nên chẳng cần lịch sự với khách.  Họ trả lời cứ nhấm nha nhấm nhẳng. Chủ và tớ nhễ nhại mồ hôi cứ thế mà bưng bê thức ăn. Đặc biệt khi đi ăn ở các quán ăn Hà Nội, nhớ tuyệt đối đừng bao giờ đi vệ sinh, bởi đã vào đấy đi ra thì không thể ra ăn tiếp được vì nhà vệ sinh quá xá bẩn, bẩn tới phát khiếp.

Một lần tui vào Phở Thìn ở Phố Lò Đúc, ngồi một lát chẳng thấy ai hỏi mà quán thì nóng hầm hập, người chen chúc.  Bàn ăn của quán là một dãy dài, ngồi chung chạ nhau. Đợi một hồi thấy chả có ai hỏi dù đã ra dấu nhiều lần với người phục vụ, nhưng các cậu ấy cứ tảng lờ. Ông khách ngồi chung bàn thấy thế mới bảo: 

– “Ông phải ra ngoài kia gọi phở và trả tiền thì nó mới bưng vào.” 

À ra thế!  Gọi mấy bát phở, bảo chín, gầu.  Cậu phục vụ lắc đầu: 

– “Ở đây chỉ có một món tái lăn.  Một bát 60 ngàn.”  

Khi tô phở bưng ra, tui thử một muỗng nước lèo, đầy bột ngọt, thế là chỉ ăn được một vệt. Nhìn lui, một cặp vợ chồng trẻ và đứa con đang đứng chờ ngay sau lưng, tui đành đứng dậy.  Ở đây không bán nước uống.  Thôi thì để miệng nham nháp bột ngọt mà đi ra khỏi quán. 

Người ta bảo Phở Bát Đàn ngon, tui lại không thích quán đó, dù có ngon, bởi cái kiểu cầm tô xếp hàng và thái độ khinh khi khách của tên lùn múc phở là tui không chịu được. Lại nghe Phở Dư, Phở Sướng, Phở Hàng Da… ăn cũng được lắm (?)  Tui thuê xe đi ngang qua các quán này lại không dám vào vì quán nào cũng chen chúc, chỗ nào cũng chật chội. 

Không ăn phở thì ăn bánh cuốn vậy!  Nghe bảo ở Hàng Gà có bánh cuốn ngon, chợt nhớ cô bạn nhắn bảo ở phố Hàng Cót có quán bánh cuốn ăn được lắm.  Tui hí hửng đi lộn về, gọi một dĩa nhưng rất thất vọng. Chạy qua Thanh Vân ở Hàng Gà, quán sạch sẽ, có quầy thu tiền ở cửa. Được giới thiệu “dĩa combo” gồm bánh cuốn và hai miếng chả cắt xéo giá 60 ngàn. Tui gọi ngay một đĩa, rồi cũng đành bỏ vì ăn không ngon; có lẽ khẩu vị của tui khác chăng? Tui bị cái tật là cảm thấy không ngon là bỏ, không ăn. Thà nhịn đói chứ không chịu ăn thứ dở. 

Tui đành kêu cuốc xe trở về khách sạn. Đi ngang hàng quán bún, miến, cháo, gà, vịt, ngan, bún thang, bún ốc, chân gà, lòng lợn, cua, ốc, giò, nộm, chả cá…  đẩy phố, nhưng thấy quán chiếm chật vỉa hè đành nhịn mà đi. 

Một tối tui đi ăn bún chả gần khách sạn tui đang ở, đương nhiên là ngồi vỉa hè rồi.  Đang ăn chợt thấy trước mặt, chị giúp việc rửa tô bằng cách nhúng vào một xô nước lợn cợn bún và rau, rồi cầm một cái khăn đã ngã màu theo tháng năm lau quanh, sắp thành chồng. Nhìn thế, tui phát nhợn, không ăn tiếp được. 

Buổi sáng thức dậy sớm, một anh bạn người Hà Nội đem xe chở tui đi về làng Ước Lễ, nơi còn có cái cổng làng chụp hình. Anh bảo ghé Lý Thường Kiệt mua mấy gói xôi xéo ăn sang.  Theo anh, đây là nơi bán xôi ngon nhất Hà thành. Tới nơi, thấy xôi, hành phi, giò chả để ngay dưới đất trên lối đi của người đi bộ, không sạp, không bàn ghế là đã thấy oải. Có ngon cũng thành dở. 

Hà Nội vẫn có nhiều nhà hàng lịch sự và vệ sinh, nhưng người Hà Nội bảo rằng các món ăn ở đó không ngon, không đúng chất Hà Nội. Ăn ở các nơi đó là chưa thưởng thức được món ăn Hà Nội và chứng tỏ là không biết ăn. 

Có lẽ Hà Nội là nơi có nhiều quán lề đường nhất nước và cũng có lẽ đó là phong cách ẩm thực của người Hà Nội. Tui ra Hà Nội rất nhiều lần từ thập niên 90 đến nay, nhận thấy cung cách mua bán hàng ăn ở Hà Nội không đổi mà ngày càng xô bồ và nhếch nhác hơn. 

Đây là ý kiến và cách nhìn của một cá nhân, có thể chưa bao quát hết, nhưng cũng là nhận định của một người phương xa yêu Hà Nội viết vội về việc ăn ở Hà Nội. 

Đỗ Duy Ngọc 

Trần Văn Giang (ghi lại)

From: Tu-Phung