Chữ Nôm trong hành trình di sản văn hóa dân tộc

Chữ Nôm trong hành trình di sản văn hóa dân tộc

Truyện Kiều một tác phẩm viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Du (bản in năm 1926 tại Pháp). Nguồn: sưu tầm

  1. Chữ Hán:

Muốn biết chữ Nôm hình thành ra sao thì việc đầu tiên là phải biết nguồn gốc của chữ Hán.

Theo Lý Lạc Nghị trong cuốn sách “Tìm về cội nguồn của chữ Hán”: “Chữ Hán hay Hán tự (漢字) là loại văn tự ngữ tố xuất phát từ tiếng Trung Quốc. Chữ Hán sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi là vùng văn hóa chữ Hán hay vùng văn hóa Đông Á. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước. (1)

Trong các thư tịch, tiếng Hán được viết trước thời nhà Tần còn lưu truyền được đến ngày nay. Dựa trên các hiện vật khai quật được, chữ viết trên các mảnh xương thú vật được gọi là chữ giáp cốt, các nhà khảo cổ phỏng đoán rằng chữ viết (Hán) ở Trung Hoa ra đời muộn nhất là vào thời kỳ nhà Thương, khoảng 1800 năm trước Công nguyên.

Sự phát triển chữ Hán trải qua các thời kỳ như: Giáp cốt văn → Kim văn → Triện thư → Lệ thư → Thảo thư → Khải thư → Hành thư”.

Cũng theo Lý Lạc Nghị, ngày nay ở Trung Quốc đại lục, bộ chữ giản thể (简体字) đã thay thế cho bộ chữ phồn thể (繁體字). Công cuộc cải cách chữ viết được thực hiện sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập (1949). Tháng 10 năm 1954 tại đại lục thành lập ủy ban cải cách chữ viết (中国文字改革委员会), cuộc cải cách nhằm đơn giản hóa chữ Hán để quần chúng nhân dân dễ dàng học biết chữ, xóa mù chữ, thống nhất nhân tự trên các khu vực vốn dĩ có nhiều khác biệt do điều kiện địa lí và lịch sử, đồng thời thúc đẩy việc dạy và học tiếng Hán đối với người nước ngoài. Các khu vực ngoài đại lục như Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao, và cộng đồng người Hoa ở hải ngoại hay các khu vực có sử dụng tiếng Hán như Singapore tiếp tục sử dụng chữ phồn thể, tuy nhiên cũng có những cải biến nhất định. (2)

Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng. Theo cụ Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố (1889-1947) trong cuốn “Đại Nam Dật Sử – Sử ta so với sử Tàu”: “Nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 – 226) dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán”. (3)

Sang thời kỳ tự chủ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền, chữ Hán vẫn giữ địa vị là văn tự chính thức nhưng cách đọc đã phát triển theo hướng riêng, khác với sự phát triển tiếng Hán ở Trung Quốc, cách phát âm chữ Hán bị chi phối bởi cách phát âm của người Việt, từ đó tạo ra và củng cố dần âm Hán-Việt.

Do nhu cầu phát triển, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết riêng, tức chữ Nôm. Trong khi đó cổ văn Hán vẫn được coi là mẫu mực để noi theo.

  1. Chữ Nôm:

Học giả Đào Duy Anh viết trong sách “Chữ Nôm – Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến”: “Chữ Nôm bắt đầu hình thành và phát triển từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 20. Tại giai đoạn này, chữ Nôm là công cụ thuần túy Việt Nam duy nhất ghi chép lịch sử, văn hóa dân tộc. Người Việt sáng tạo ra chữ Nôm và dùng để biểu đạt từ thuần Việt, kết hợp với chữ Hán dùng để biểu đạt từ Hán Việt và tạo nên một bộ chữ viết phổ thông cho tiếng Việt lúc đó. Sơ khởi, chữ Nôm thường dùng ghi chép tên người, địa danh, sau đó được phổ cập, tiến vào sinh hoạt văn hóa của quốc gia. Vào thời nhà Hồ ở thế kỷ 14 và nhà Tây Sơn ở thế kỷ 18, xuất hiện khuynh hướng dùng chữ Nôm trong văn thư hành chính. Đối với văn học Việt Nam, chữ Nôm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi là công cụ xây dựng nền văn học cổ truyền kéo dài nhiều thế kỷ”. (4)

Sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của Trung Quốc vào năm 939, chữ Nôm lần đầu tiên trở thành Quốc ngữ để diễn đạt tiếng Việt qua mẫu tự biểu ý. Gần một ngàn năm sau đó – từ thế kỷ 10 cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 – một phần lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học, luật pháp, y khoa, tôn giáo và hành chính được viết bằng chữ Nôm. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn kiện hành chính được viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802.

Những văn bản như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi có xen chữ Nôm khi không thể tìm được một chữ Hán mang nghĩa tương đương chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng, tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán-Việt bởi quan niệm sai lầm của giới sĩ đại phu các triều đại: “nôm na là cha mách qué”. Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ thuần Việt ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là công cụ còn chưa chứng tỏ được tính hữu hiệu và phổ dụng của nó so với chữ Hán.

Phạm Huy Hổ trong bài “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào” cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ “bố cái” trong cụm từ “Bố Cái đại vương” do nhân dân Việt Nam suy tôn Phùng Hưng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ 8. Có ý kiến khác lại dựa vào chữ “cồ” trong quốc danh “Đại Cồ Việt” để đoán định chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng. Trong một số nghiên cứu những năm 90 của thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán-Việt đã đi tới khẳng định âm Hán-Việt (âm của người Việt đọc chữ Hán) ngày nay bắt nguồn từ thời Đường, Tống thế kỷ 8-9. Nếu âm Hán-Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi hình thành cách đọc Hán-Việt (nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự) mà chỉ có thể ra đời sau thế kỷ thứ 10 khi Việt Nam thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938.

Theo sách “Long cương văn tập” của Cao Xuân Dục, phải đến cuối thế kỷ XIX chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương mới đưa ra những quy định pháp lý bảo hộ chữ Latinh cho tiếng Việt thay thế chữ Hán và chữ Nôm, kể từ đó chữ Latinh cho tiếng Việt bắt đầu được gọi là chữ Quốc ngữ. Sang thế kỷ XX, người Pháp cho mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ ra Bắc Kỳ. Sau khi chữ quốc ngữ được phổ biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một. Để tạo điều kiện cho chữ Quốc Ngữ phát triển, chính quyền thực dân Pháp khi đó đã có chính sách cấm dùng chữ Nôm trong bộ máy hành chính Nam Triều. (5)

Ngày nay, trên thế giới có rất ít người đọc được chữ Nôm. Bởi vậy, khối tài liệu Hán-Nôm của khoảng 10 thế kỷ đang bảo quản trong các cơ quan lưu trữ, các thư viện bao gồm tài liệu hành chính, tài liệu lịch sử, sách báo… chưa được khai thác hết.

Khoa Hán-Nôm của các trường đại học khoa học xã hội ngày nay vẫn đang đào tạo các cử nhân Hán-Nôm để thực hiện nhiệm vụ làm cầu nối giữa quá khứ với hiện tại và tương lai dân tộc để hạn chế sự đứt gãy lịch sử này.

Tài liệu tham khảo

(1), (2). Lý Lạc Nghị, Tìm về cội nguồn của chữ Hán. nxb Thế giới, HN, 1997.

(3). Nguyễn Văn Tố, Đại Nam Dật Sử – Sử ta so với sử Tàu, nxb. KHXH, HN, 2019.

(4). Đào Duy Anh, Chữ Nôm – Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, nxb HN, 1975.

(5). Cao Xuân Dục, Long cương văn tập. nxb Lao Động, HN, 2012.

Nguyễn Xuân Vượng (Tổng hợp & Giới thiệu)

STTD Tưởng Năng Tiến – Bác Tổng

Tưởng Năng Tiến

STTD Tưởng Năng Tiến – Bác Tổng

Trong Chuyện Kể Năm 2000, tập II (nxb Câu Lạc Bộ Tuổi Xanh, California – U.S.A ) nơi trang 254 có câu: “Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà trong lòng không xúc động thì không còn phải là người cộng sản nữa.”

Tôi hỏi tác giả:

Ông TBT nào nói thế?

– Quảng Cáo –

Bùi Ngọc Tấn cười nụ:

Thì ông nào mà chả nói thế!

Hoá ra, tất cả mọi đồng chí TBT đều thương dân cả. Yêu nước cũng thế, cũng là thuộc tính bất biến của những người Cộng Sản (nói chung) và qúi vị TBT (nói riêng) theo như lời ông Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri – vào hôm 15 tháng 10 năm 2019:

“Hiện nay có một số phần tử cố tình kích động, to tiếng lên, lên gân lên, ra vẻ ta là anh hùng, ra vẻ ta là yêu nước, vậy còn Trung ương Đảng, Chính phủ, Tổng bí thư không yêu nước à? Vô trách nhiệm à?”

Nếu chỉ xét thời gian phục vụ thì quả là đúng thế. Chả thế mà ông Hồ Chí Minh hy sinh làm Chủ Tịch Đảng đến 24 năm trời, ông Lê Duẩn tại vị tới 25 năm, và ông Trường Chinh thì cũng chỉ vì dân vì nước mà phải nhận chức TBT đến hai lần lận.

Nhiệt tình cách mạng của qúi vị lãnh đạo cộng sản VN, rõ ràng, khó ai có thể phủ nhận. Chỉ có cái cách yêu nước và thương dân của họ mới là điều khiến cho thiên hạ phải phàn nàn, hoặc …đảo điên luôn:

Chỉ riêng phong trào Cải Cách Ruộng Đất, do ông Hồ Chí Minh nhập cảng từ nước lạ, đã khiến cho gần trăm ngàn nông dân VN bị hành hình. Ở bình diện quốc tế, cùng với Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot, Lenin, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Saddam Hussein… ông có tên trong danh sách (History’s Great Monsters) tội phạm chống lại nhân loại.

Ông Lê Duẩn cũng thế, cũng có tên trong danh sách tội phạm chống lại nhân loại ở mức đại trà (massive crimes against humanity). Ông nổi tiếng là người chủ chiến: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc …”

Cùng với Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Lê Đức Thọ, Lê Duẩn còn đánh luôn đồng đảng cho đến mức te tua hay bầm dập. Dù cả hai ông đều đã chết, chiến tích của Cuộc Đấu Tranh Chống Bọn Xét Lại vẫn còn sống âm ỉ trong lòng nhiều người dân Việt cho mãi đến hôm nay.

Tuy thời gian giữ chức TBT không dài nhưng ông Đỗ Mười vẫn để lại dấu ấn khó phai, qua hai trận đánh đẹp, có thể ghi thành sách: đánh tư sản ở miền Bắc (sau 1954) và ở miền Nam (sau 1975) khiến hằng triệu lương dân kẻ phải lâm vào cảnh tán gia bại sản.

Ngoài những thành tích dị biệt có tính cách cá nhân (thượng dẫn) điểm chung nổi bật trong cách quản trị và điều hành của tất cả các ông TBT là đều khiến cho đất nước trở nên … thiếu thốn và đói rách:

– Một năm hai thước vải thô

Làm sao che nổi cụ Hồ hỡi em?

– Miếng thịt lợn chao ôi là vĩ đại

Miếng thịt bò lại vĩ đại bằng hai

Chanh, muối, cam, đường, lạc, đỗ, gạo, khoai

Tất cả những gì người có thể nhai

Đảng mó tới tự nhiên thành vĩ đại (NCT)

Thời chiến hay thời bình “miếng thịt” cũng đều như thế cả. Có khác chăng là chỉ ở mức độ “vĩ đại” mà thôi. Tuy thế, mãi cho đến khi giữ chức vụ TBT lần hai – từ năm 1986 cho đến khi nhắm mắt – Trường Chinh mới biết là “lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống cho mười ngày” và bèn hô hoán:“Phải cứu giai cấp công nhân!”

Trường Chinh qua đời vào năm 1988, một phần ba thế kỷ đã qua, đất nước đã “sang tay” thêm nhiều đời TBT (thương dân – yêu nước) khác nhưng giai cấp công nhân vẫn chưa … được cứu. Họ vẫn cứ phải chung đủ “14 loại thuế phí qua một quả trứng gà” y như đám nông dân, hay công nhân viên nhà nước vậy thôi.

Nét đặc thù hay độc đáo của triều đại Nguyễn Phú Trọng là đã tạo ra một giai cấp mới mà ông là … tác nhân chính:

“Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Từ đó, Việt Nam trở nên một “cường quốc của dân oan.” Giới người này vật vạ, la lết, lang thang, vất vưởng trên khắp mọi nẻo đường đất nước hoặc “co dúm thút thít” trong mảnh đất (còn lại) mà diện tích chỉ đủ dựng một túp lều, kỳ dư đã bị thu hồi với giá đền bù “mỗi m2 bằng giá một… cốc bia” – theo như ghi nhận của blogger Đào Tuấn.

Từ Thủ Thiêm, dân oan Nguyễn Thùy Dương cho biết:

Người đàn ông trong ảnh đang ngủ dưới nền đường nhựa nhỏ. Bà con có biết vị trí đó là ở đâu không ạ ? Đó là trước con đường độc đạo đi vào cổng Thanh Tra Chính Phủ cụm 3 tại thành phố Hồ Chí Minh. Để tôi kể bà con nghe vài kiếp người ở con đường độc đạo ấy .

Có một bà ngoại già hơn 80 tuổi sáng nào cũng đeo tấm bảng đòi nhà hơn chục năm qua . Bà là dân vô gia cư mất nhà do một chính sách chỉ có chính và sách là chính còn chữ tình thì tôi chưa thấy .

Một cô giáo đã nghỉ dạy sẽ ngồi kế bên bà ngoại. Trên ngực cô cũng đeo một tấm bảng đòi nhà, đòi con. Ở chế độ cũ gia đình cô thành lập trường tư thục ngay trên chính mảnh đất của mình. Thống nhất đất nước, chính sách thay đổi. Đất làm trường toàn bộ thuộc đất công. Họ thu hồi đất cô, cô ko đồng ý. Một buổi sáng năm 1997 trong lúc cô đang dạy học, Họ kéo rất đông đến nhà cô cưỡng chế.

Con trai cô lên 9 tuổi bị bệnh nên nằm nghỉ ở nhà. Họ vẫn mặc đứa trẻ, họ lao vào cưỡng chế. Đứa trẻ sợ quá lên cơn co giật đến khi mẹ về nó đã nằm đó. Người nó nóng ấm dịu trên tay mẹ. Cô ôm con gào thét. Họ vẫn cưỡng chế. Họ đền nhân mạng đứa nhỏ vài chục triệu rồi lấy nhà. Hơn 20 năm nếu đứa trẻ ngày ấy còn sống có lẽ đã trở thành một thanh niên vạm vỡ làm chỗ dựa cho mẹ già.

Câu nói của cô từng ám ảnh tôi:

– Sao họ ko giết cô chết luôn để cô sống chi mà đau khổ vậy? Cô muốn ôm con cô

Tôi cười với cô, nói: Cô ôm con một cái được không?

Cô ôm tôi rồi khóc, tôi vừa dỗ cô cũng vừa khóc. Cảm giác mình bất lực đến tận cùng…

Thỉnh thoảng có một cô người đen đủi đội nón lá, ngực đeo tấm bảng trình bày nỗi oan khuất. Cô bị cướp đất, bỏ tù. Ra tù về đất mất, vô gia cư. Cô ngày chửi, trưa chửi, tối chửi. Vừa đi nhặt ve chai kiếm đồng tiền đắp đổi. Muốn biết lòng người lãnh đạo hãy nhìn số lượng dân oan sẽ rõ. Đừng hỏi ai yêu nước, ai không?

Khi Lenin nói rằng lòng nhiệt tình cộng với sự ngu dốt bằng sự phá hoại – xem chừng – chính y cũng không thể ngờ được rằng tác phẩm bất hủ (Chủ Nghĩa Marxist Leninist Vô Địch Muôn Năm) của mình sẽ tạo ra một cái cơ chế “ghế ít đít nhiều” nên cái đít nó nhớ cái ghế, thế thôi, chứ có thằng (hay con) mả mẹ nào có nhiệt tình hay nhiệt huyết gì ráo trọi.

Cựu tư lệnh Cảnh Sát Biển Việt Nam chủ mưu tham ô hơn $2 triệu

Báo Nguoi-viet

February 2, 2023

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Viện Kiểm Sát Quân Sự Trung Ương vừa ra cáo trạng truy tố bảy bị can trong vụ án “tham ô tài sản” xảy ra tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam.

Theo báo VNExpress hôm 2 Tháng Hai, sau chín tháng bị bắt tạm giam, đầu năm 2023, bị can Nguyễn Văn Sơn, 59 tuổi, cựu trung tướng, cựu tư lệnh Cảnh Sát Biển Việt Nam, bị Viện Kiểm Sát Quân Sự truy tố về tội “tham ô tài sản,” theo Khoản 4 Điều 353 Bộ Luật Hình Sự với khung hình phạt cao nhất là tử hình.

Bị can Nguyễn Văn Sơn, cựu trung tướng, cựu tư lệnh Cảnh Sát Biển Việt Nam. (Hình: Hoàng Phong/VNExpress)

Bị can Sơn được xác định “có vai trò chủ mưu, khởi xướng” chỉ đạo “rút ruột” 50 tỷ đồng ($2.1 triệu) từ ngân sách mua thiết bị để ăn chia với bốn cán bộ dưới quyền, nên phải chịu trách nhiệm chính.

Trong vụ án, ngoài bị can Sơn, sáu bị can bị truy tố cùng tội danh gồm Hoàng Văn Đồng, cựu trung tướng, cựu chính ủy; Doãn Bảo Quyết, cựu thiếu tướng, cựu phó chính ủy; Phạm Kim Hậu, cựu thiếu tướng, cựu phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng; Bùi Trung Dũng, cựu thiếu tướng, cựu phó tư lệnh; Nguyễn Văn Hưng, cựu đại tá, cựu cục trưởng Kỹ Thuật; và Bùi Văn Hòe, cựu thượng tá, cựu phó Phòng Tài Chính Cảnh Sát Biển.

Vụ án bắt đầu Tháng Sáu, 2020, khi bị can Phạm Kim Hậu làm đơn gửi cơ quan hữu trách, kèm theo hai băng ghi âm thể hiện có tiêu cực, tham nhũng của bản thân và một số người là thủ trưởng Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển. Đầu năm 2022, vụ án được khởi tố.

Cáo trạng xác định từ Tháng Hai, 2019, khi Bộ Quốc Phòng giao cho Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển dự toán ngân sách nhà nước chi quản lý hành chính năm 2019, với tổng số tiền 450 tỷ đồng (gần $19.2 triệu).

Trong số tiền này, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển phân bổ 150 tỷ đồng (gần $6.4 triệu) cho Cục Kỹ Thuật để mua sắm vật tư, thiết bị.

Bị can Sơn khi đó là tư lệnh Cảnh Sát Biển, đã gặp bị can Hưng và đưa ra yêu cầu “khi mua sắm vật tư, thiết bị, phải rút ra 50 tỷ đồng để chuyển lại cho Bộ Tư Lệnh sử dụng.”

Bị can Hưng đáp lại, Cục Kỹ Thuật chưa bao giờ làm việc này, muốn rút ra số tiền trên cần có sự thống nhất trong thủ trưởng Bộ Tư Lệnh. Ngay sau đó, bị can Sơn tạo điều kiện cho Cục Kỹ Thuật bằng cách chỉ đạo phân bổ thêm 29 tỷ đồng ($1.2 triệu), khiến ngân sách cho đơn vị này tăng lên 179 tỷ đồng ($7.6 triệu).

Tháng Tư, 2019, tại phòng ăn của thủ trưởng Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển, bị can Sơn cùng bị can Hoàng Văn Đồng và ba bị can Doãn Bảo Quyết, Phạm Kim Hậu, Bùi Trung Dũng nói về việc “rút” 50 tỷ đồng ngân sách phân bổ cho Cục Kỹ Thuật và tất cả đều đồng ý thực hiện.

Đến lượt mình, bị can Hưng lại yêu cầu sáu trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Kỹ Thuật phải rút đủ số tiền trên. Khi bị họ phản ứng là khó, bị can Hưng cho rằng: “Phải xác định việc rút lại 50 tỷ đồng là nhiệm vụ thủ trưởng giao và phải hoàn thành.”

Sau đó, mỗi trưởng phòng dưới quyền bị can Hưng được giao chỉ tiêu phải “rút ruột” từ 50 triệu đồng ($2,132) đến 25 tỷ đồng ($1 triệu) để đủ chỉ tiêu bị can Sơn yêu cầu.

Những trưởng phòng này phân chia nguồn ngân sách thành 29 gói thầu, trong đó có chín gói giá trị dưới 10 tỷ đồng ($426,449) để Tư Lệnh Cảnh Sát Biển phê duyệt, không phải báo cáo Bộ Quốc Phòng.

Ngoài ra, họ “đặt vấn đề” với các nhà thầu để nâng giá, nhằm “hỗ trợ đơn vị có nguồn quỹ vốn sử dụng vào mục đích phúc lợi.” Sau đó, 24 hợp đồng được Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển ký với 16 doanh nghiệp, giúp rút ruột ngân sách 50 tỷ đồng.

Trụ sở Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển Việt Nam. (Hình: Người Tiêu Dùng)

Có được số tiền này, bị can Sơn chia cho mình và bốn bị can Đồng, Hậu, Quyết và Dũng mỗi người 10 tỷ đồng ($426,500). Sau khi bị phát hiện, họ đã nộp lại số tiền này.

Riêng sáu trưởng phòng thuộc Cục Kỹ Thuật, cơ quan tố tụng xác định họ “có mối quan hệ lệ thuộc,” thực hiện mệnh lệnh cấp trên, không có động cơ vụ lợi và không biết số tiền 50 tỷ đồng sau đó bị chia cho cá nhân nên không bị xử lý hình sự. (Tr.N) 

Bảo Vệ Sự Sống và Chôn Cất Các Em Thai Nhi tại Xuân Lộc và Cà Mau

Lm. Giuse Nguyễn văn Tịch

Ban Bảo Vệ Sự Sống giáo phận Xuân Lộc cùng với giáo xứ Cà Mau và Bạc Liêu lập 2 nghĩa trang thai nhi dưới sự bảo trợ của cha Phanxico Trương Bửu Diệp. Nghĩa trang thai nhi Cà Mau lập được 7 năm và nghĩa trang thai nhi Bạc Liêu lập được 4 năm, tất cả đều đang hoạt động tốt đẹp. Mỗi lần lập chúng tôi đều đến cha Diệp xin Ngài bảo trợ, mọi việc diễn tiến thật tốt. Mỗi năm chúng tôi đều quay trở lại khích lệ các thiện nguyện viên của hai nghĩa trang, thăm hỏi cha xứ và tạ ơn cha Diệp.

Thật ấm lòng cho các thai nhi đáng lẽ bị bỏ đi như rác thải, hoặc bỏ bờ bụi, các em vẫn được trân trọng, dâng lễ và an táng tử tế. Quý cha, cộng đoàn và cùng với mọi người không phân biệt tôn giáo vẫn luôn dành tấm lòng, mảnh đất và thánh lễ trang trọng cho các thai nhi. Xin cám ơn tất cả quý vị và tạ ơn Chúa vẫn làm việc qua những con người tốt lành này.

Thật ấm lòng khi đến cha Phanxico Trương Bửu Diệp, một sự hiện diện yêu thương của Chúa giữa mọi người. Nơi đây vẫn tấp nập cả người lương và người Công Giáo đến cầu khấn Ngài. Tôi thấy mọi người đến gần mộ Ngài cầu khấn, sau đó đặt tay lên mộ Ngài rồi xoa lên khắp người của họ và người thân.

Tôi thấy có một chỗ rất quan trọng trên cơ thể nhưng chẳng thấy ai xoa, kiểm soát được chỗ này sẽ tránh được rất nhiều hậu hoạ và tạo được nhiều phúc đức, đó là cái MIỆNG.

Những điều cần phải nói lại không dám lên tiếng, những điều không nên nói và không được nói thì lại cứ nói, nói quá nhiều hay quá ít cũng không tốt, biết bao gia đình tan vỡ cũng chỉ vì miệng lưỡi mà ra và người ta có thể giết nhau bởi cái miệng hoặc người ta cũng có thể khuyên bảo, khích lệ, an ủi cũng từ cái lưỡi mà ra. Đáng lẽ phải xoa lên miệng mới đúng và đó là chỗ cần chỉnh sửa. Tôi ở lại với Ngài một đêm cầu xin cho bản thân, thiện nguyện viên, nhân viên, ân nhân, những người đến với ban BVSS và công việc ban BVSS đặc biệt các bé mồ côi có cuộc sống tốt đẹp. Xin tạ ơn Ngài và cám ơn Chúa đã để lại Lòng Thương Xót sống động của Chúa tại nơi này.

Tấm lòng cho các thai nhi đã thúc đẩy chúng tôi thực hiện những dự án là các nghĩa trang thai nhi ở các nơi với mong ước lên tiếng nói cho các thai nhi để các em được tôn trọng, được bảo vệ sự sống hoặc ít nhất cho các em nấm mồ.

Xin cám ơn tất cả quý cha, quý vị, quý ân nhân và đặc biệt cha Phanxico đã cho chúng con cùng chung tay góp sức cho công việc BVSS và xin Chúa qua sự chuyển cầu của cha Phanxico đón nhận những thiện nguyện và ban phước cho tất cả chúng ta trong năm mới này.

Ban Bảo Vệ Sự Sống giáo phận Xuân Lộc đang thực hành sứ vụ này không phân biệt tôn giáo, thành phần và mong muốn được cùng nhà nước, nhà trường, nhà thương và những nhà hảo tâm chung tay góp sức
6 Đề Mục Phục Vụ của chúng tôi bào gồm:
1. Mục đau lòng – an táng các thai nhi : bởi các em bị giết bởi chính cha mẹ của mình. Các em bị tan nát và bị bỏ đi như rác thải. Hơn 62,000 thai nhi chúng con đã mang về an táng
2. Mục nặng lòng – cưu mang những cô cơ nhỡ : có những em mới 12 tuổi và bị hại bởi chính cha mẹ của mình. Các em có lỗi mà cộng đồng lại hay soi mói và ít để cho người ta lòng trân trọng. 1000 phận người đã từng đến nơi này tạm lánh, sinh con, giữ con
3. Mục trăn trở – các bé được cứu, đặc biệt là các bé mồ côi : Các cháu sẽ như thế nào đây. 18 năm trường cho tương lai ban đầu của một kiếp người.
4. Mục thương cảm – mẹ đơn thân : có mẹ 1, có mẹ 2, có mẹ 3 đứa con. Họ mong có mái gia đình, họ mong đời hạnh phúc, nhưng dường như đã vượt quá tầm tay và một mình vừa làm mẹ – làm bố, nuôi con.
5. Mục xót xa – người vô gia cư và giai đoạn cuối: cuộc đời xế chiều, họ chẳng con ai, cô đơn và tuyệt vọng. nhận họ như người thân, sống tình người với họ và giúp họ ra đi bình an, ra đi có Chúa.
6. Mục đồng lòng – các trẻ em và gia đình nghèo : trợ giúp giáo dục cho những em con nhà nghèo, đặt biệt cho những cháu bị HIV hay ảnh hưởng bởi HIV. Các cháu chỉ là gánh hậu quả, giờ đây, chúng ta cùng chung tay dắt các cháu đến trường các cháu được giáo dục, giáo dục thay đổi phận người, giáo dục cho các cháu thành người tốt và người biết sống trên đôi chân của mình. Bên cạnh đó cũng đồng lòng với một số gia đình nghèo chúc lương thực.
Trong 6 mục ban BVSS đang thực hiện, mục cưu mang các bé vẫn là mục trăn trở lòng hơn cả. Có nhiều cháu khác nhau : có cháu được mẹ gửi lại, có cháu từ ngoài đường nhặt về, có cháu từ thùng rác có lẽ do phá thai mà không thành về, có cháu mẹ chết do covid, có cháu mẹ đơn thân đi tù, có cháu nhận từ bé sơ sinh, có cháu lớn lang thang và được gửi vào, có cháu là con của loạn luân, phần lớn các cháu con của mẹ đơn thân… mỗi cháu mỗi hoàn cảnh, mỗi cháu một lịch sử kỳ diệu mà có thể viết lên cuốn chuyện đẹp.
Nguyên tấc đã đến với Mái Ấm, dù còn mẹ hay không còn mẹ, Mái Ấm Tạm Lánh đã cưu mang thì cưu mang đến cùng. Cứu được người là một việc vĩ đại, nhưng làm cho sự sống con người ấy được tốt, sống trên đôi chân của các cháu và sống dồi dào, sống hạnh phúc lại là điều vĩ đại hơn. Đây là công việc của những tấm lòng yêu thương, nếu không có tình thương sẽ chẳng cưu mang nổi. Và đây là công việc của giáo dục, giáo dục thay đổi phận người. Các bé biết mình được cưu mang trong tình thương, sau này các bé sẽ sống với lòng biết ơn và trả ơn khi giúp đỡ người khác chứ không phải là cô độc, hận đời, khép kín. Các bé được giáo dục tốt, các bé sẽ có những kỹ năng sống tốt để tồn tại, có nghề nghiệp để tự sống tốt trên đôi chân của mình. Để làm được những việc ấy, cơ sở có thể dễ làm, nhưng yếu tố nhân sự để theo đuổi cuộc đời các em mới là điều khó khăn.
 

Linh mục Giuse Nguyễn Văn Tịch, TB BVSS gp. Xuân Lộc.

Tết không tết trong Khu tạm cư Thủ Thiêm

Van Pham

Mai Tiên

Suốt đoạn đường Lương Đình Của từ ngã tư đến cầu Cá Trê dài mấy trăm mét thuộc phường Bình Khánh, quận 2 cũ (giờ là TP Thủ Đức, thuộc TP HCM) từng rất sầm uất, bên ngoài là dãy cửa hàng và chợ, bên trong rất nhiều chung cư lớn nhỏ cũ mới, vô cùng nhộn nhịp. Một mét vuông đất ở đây đẻ ra tiền suốt 24 tiếng một ngày: sáng, người ta bày bán cà phê, đồ ăn sáng, thực phẩm tươi sống cho đến xế trưa. Chợ đồ tươi vừa vãn thì quán nhậu bày ra tới nửa đêm. Khúc nào rộng làm chỗ gởi xe. Hàng chục ngàn người dân trong các chung cư ăn uống, mua sắm rầm rập suốt ngày đêm, tràn lấn nghẹt cả những con đường nhỏ hẹp chưa được quy hoạch.

HÌNH: – Khu tạm cư của người dân Thủ Thiêm mất đất

Nhất là từ khi bên kia sông-trung tâm quận 1- nở nồi ra, đất đai ngày càng thiếu thốn khiến người dân và doanh nghiệp phải nhìn sang bên kia sông Sài Gòn thì sinh khí vùng đất này càng bốc lên ngùn ngụt, mặc dù nó xô bồ, chen chúc và thiếu trật tự như bất cứ khu vực đang phát triển nóng sốt nào khác.

Nhà bà Phan Thị Thủy ở đó.

Bỗng dưng ra đường

Năm 1982, bà mua lại cái quán cà phê ở mặt tiền đường Lương Đình Của, nay là chỗ đối diện với cây cầu vượt xây dang dở rồi bỏ hoang từ năm nảo năm nào tới giờ. Ngôi nhà cấp 4 rộng 45 m2 có gác lửng, gia đình bà vừa buôn bán, vừa sinh sống. Giá mua năm đó là 2,5 cây vàng.

Tuy mua giấy tờ tay, chưa được cấp sổ hồng nhưng bà Thủy có xác nhận của địa phương, hàng năm đều lên phường đóng lệ phí sử dụng đất theo quy định của Nhà nước. Toàn gia đình gồm vợ chồng bà và hai con cũng được đăng ký KT3 tại địa chỉ này. Theo quy định, KT3 là bước xác nhận “tiền hộ khẩu”, do Công an địa phương xác thực và đăng ký cho người dân sinh sống ổn định tại một địa chỉ hợp pháp.

Giai đoạn đó muốn được cấp hộ khẩu TP HCM theo con đường chính thức là gần như không thể, do những quy định vô lý: Muốn mua nhà buộc phải có hộ khẩu, nhưng muốn có hộ khẩu thì phải có sẵn nhà. Quy định này tạo cơ hội làm mưa làm gió và làm giàu cho công an khu vực và công an hộ khẩu tại các quận suốt vài chục năm. Người dân muốn mua nhà hay muốn nhập hộ khẩu thành phố, không có cách nào khác là “chạy” công an. Giá chạy hộ khẩu tính bằng vàng.

Gia đình cô Thủy được cấp KT3 tại ngôi nhà họ đã mua, kinh doanh và sinh sống ổn định tại đó nhiều năm, nghĩa là dù quy định khó khăn cách mấy thì họ cũng đã sắp hoàn tất. Tối đa sau ba năm, họ sẽ được cấp hộ khẩu, từ đó chính thức xác nhận chủ quyền với ngôi nhà và được hưởng các chế độ hành chính của người dân TP HCM, như việc làm (nếu muốn vào Nhà nước), học hành của con cái, bảo hiểm chữa bệnh.v.v.

Ai ngờ, đang làm ăn sinh sống ngon lành thì tháng 1/2000, địa phương cho biết khu này giải tỏa. Mà ngôi nhà của cô thuộc loại giải tỏa trắng, không đền bù.

21 của dân, 48 của quan

“Họ kêu mình tự tháo dỡ, nếu không sẽ bị cưỡng chế”-bà Thủy kể – “Buồn quá, tôi dọn qua quận 4 ở với chị gái”.

Tháng 7/2001, biết thêm thông tin về vụ giải tỏa, bà đăng ký về khu tạm cư một héc-ta (1 ha) ở phường Bình Khánh, quận 2. Cả gia đình bốn người, hai con đang tuổi trưởng thành dồn vô căn phòng vỏn vẹn 21 mét vuông.

Rộng 3,2 m, sâu 7 m. Hơn 21 mét vuông chớ đâu ra 48 mét vuông mà người ta nói!

48 mét vuông là con số trên biên lai thu tiền điện nước của một gia đình hàng xóm cách nhà bà vài căn, cùng cảnh dân tạm cư trong khu 1 ha này. Tất cả các căn phòng đều như nhau, được xây dựng (tạm) hàng loạt để làm chỗ tạm cư cho dân bị giải tỏa khu vực Thủ Thiêm lúc bấy giờ. Nó thông thống từ trước ra sau, rộng 3,2 m, sâu 7 m, thành từng dãy trệt và trên lầu, đi lên bằng cầu thang sắt. Nhưng không hiểu sao trên giấy tờ lại ghi mỗi căn phòng rộng 48 m2.

-21 chứ đâu ra mà 48!

Bà Thủy cứ lầm thầm nhắc đi nhắc lại những con số đã thuộc lòng từ 22 năm nay, như cách phản ứng kiên nhẫn cùng cực của dân Thủ Thiêm với chính quyền. 21 mét vuông, căn phòng đúng nghĩa “chui rúc”, vì nó thiếu sáng, chật hẹp và bức bối không tả. Gom tất tật chỗ để xe máy, toilet, bếp vô đó nên không còn chỗ đặt bàn ghế, giường tủ gì nữa. Ban ngày, tấm nệm lớn dựng lên kiêm luôn chức năng bức vách chia căn phòng làm hai. Bên ngoài để xe máy và bà ngủ. Bên trong, cháu gái ngủ. Lênh đênh qua hành trình tạm cư của gia đình, cháu đã thành sinh viên. Chiếc bàn học nhỏ tí xíu kê giữa bề bộn áo quần chăn gối.

Chỉ cách đó đúng ba bước chân là bếp và phòng vệ sinh. Ban đầu Khu tạm cư không làm bếp riêng cho từng phòng, nhưng chật chội quá nên mọi gia đình đều phải tìm cách cơi nới. Có nhà xin lấn ra đoạn hành lang chung, lát gạch cao và che chắn thêm bên trên để kê bếp, chạn và dựng một chiếc bàn ăn chân xếp. Nhà bà Thủy không cơi ra ngoài mà cơi vào bên trong, ở đoạn thông thủy giữa hai dãy nhà tạm cư để làm bếp. Gọi là bếp nhưng nó chỉ đủ đặt một chiếc bàn kê vừa hai ba cái nồi nhỏ liền nhau. Không gian bên trên là chỗ treo, kê, móc tất cả các thứ đồ dùng bếp núc của một gia đình ba người. Dưới sàn, nước lép nhép, đen ngòm bẩn thỉu.

-Mỗi lần nhà bên kia xài nước là bên này nó dội lên, hôi, dơ lắm cháu ơi, mà phải chịu. Ban quản lý (Khu tạm cư) người ta cũng chẳng làm gì được!

Đã 22 năm, đủ để một thế hệ mới ra đời và trưởng thành, gia đình bà Thủy vẫn kẹt trong khu tạm cư. Không nghề nghiệp vì từ khi về khu tạm cư, bà không có không gian, mặt bằng và khách hàng để tiếp tục mở quán cà phê. Bà chuyển sang một “sự nghiệp” mới một cách bắt buộc: Đi kiện, đòi đền bù thỏa đáng cho ngôi nhà đã bị giải tỏa trắng.

Sau một thời gian kiện, chính quyền trả lời bà: được đền bù 50.000 đ/m2.

Tại sao lúc trước thì giải tỏa trắng, sau lại đền bù? Tại sao có giá 50.000 đ?

Bà Thủy cho rằng cách giải quyết của chính quyền không minh bạch. Nên bà không chấp nhận mà tiếp tục kiện.

Theo lời bà Thủy, chồng bà là thiếu tá Phòng điều tra Công an quận 10, sau được chuyển về Đội điều tra Công an quận 2. Nhưng vì chồng công an mà vợ đi kiện chính quyền suốt nên ông bị giáng cấp xuống đại úy. Không những thế, ông bị gây khó khăn liên tục trong công việc. Nên sau khi về khu tạm cư ít lâu, ông xin ra khỏi ngành.

Một ngày nọ, ông tự tử chết trong chính căn phòng tạm cư rộng 3,2 m, sâu 7 m mà gia đình mình đang tá túc.

HÌNH: – Chỗ tạm cư của người dân Thủ Thiêm bị cưỡng chế nhà.

***

Ở tạm 22 năm

Còn lại một mình, bà Thủy vẫn kiên trì đi kiện.

Bàn tay những kẻ cướp đất xô những người dân bắn khỏi ngôi nhà của họ, nhưng cũng đẩy họ đến với nhau, giúp đỡ và cố kết với nhau thành một khối kiên gan trong suốt 26 năm đi kiện chính quyền TP HCM, dù luôn trong tâm thế trứng chọi đá.

Từ năm 2018, vừa đi kiện ở TP HCM, bà Thủy vừa bắt đầu hành trình đi kiện tận Hà Nội. Cứ mỗi năm hai lần, những người dân Thủ Thiêm đang sống vật vờ ở khu tạm cư lên đường ra Hà Nội, tìm đến Trung ương để đưa đơn, trình bày. Tiền-con cái họ vắt sức lao động để cung ứng cho cha mẹ đi kiện, mỗi năm khoảng hơn chục triệu đồng.

Dân oan Thủ Thiêm thuê những căn nhà trọ xa tít ngoại ô cho thật rẻ, ăn uống chi phí vô cùng tiết kiệm để bám trụ được dài ngày ở thủ đô. Từ sáng sớm đến đêm khuya, những người dân cơ cực thay phiên nhau đến nhà riêng các vị lãnh đạo từ trước 7 giờ sáng để đảm bảo gặp bằng được trước khi các vị này rời khỏi nhà. Sau đó, bà con đến các cơ quan công quyền có chức năng giải quyết khiếu nại tố cáo để căng băng rôn, yêu cầu được giải quyết.

Họ đi bộ và xe bus, tính tóan tỉ mỉ từng chặng đường để những đồng tiền đi kiện ở lại trong túi lâu nhất có thể.

Sau hơn 20 năm, đại án máu và nước mắt mang tên Thủ Thiêm dần dần hé lộ. Nhưng đã qua năm đời chủ tịch thành phố, những người dân bị cướp đất cướp nhà vẫn kéo dài sự tồn tại lay lắt trong những khu tạm cư. Mái tôn của những khu nhà rỉ một màu nâu đỏ. Cầu thang, lan can sắt đã mục thủng từ rất lâu. Nhưng chữ “tạm” mỉa mai vẫn bám chặt họ, có người năm năm, có người 13 năm, có người 22 năm…

Giữa hai dãy nhà của khu tạm cư 1 ha có một lối đi nhỏ. Công nhân vệ sinh chọn luôn chỗ ấy làm khu tập kết rác. Mặc dù thùng rác đã được rửa qua và úp lại chờ đến ngày mai, nhưng lối đi không lúc nào khô vì nước rỉ ra liên tục, nhuộm đen cả lòng đường. Chiều chiều, những người bán cá từ chợ tự phát gần đó hắt đổ nước sục và rửa cá còn thừa trước khi ra về khiến con đường biến thành một vũng nước đọng tanh hôi. Bà Thủy và con cháu thường xuyên phải xách nước ra dọn quét cho bớt mùi và ruồi nhặng.

Chúng tôi đến khu tạm cư vào những ngày cùng tận của năm Nhâm Dần. Dưới những mái nhà tối tăm, những bức vách tôn rỉ sét, những con đường nội khu lầy lụa ngập nước bẩn đen ngòm và cỏ dại, những căn phòng ổ chuột che chắn cơi nới đủ hình đủ dạng, đó đây vẫn có hoa vạn thọ vàng tươi rực rỡ, mào gà đỏ thắm, cành mai nhú những chùm nụ chen chúc căng mẩy… đặc trưng cái tết phương Nam.

Tết vẫn đến thản nhiên dù cho những con người sinh sống trong Khu tạm cư chẳng còn lòng dạ nào mong chờ. Tết nối Tết. Thời gian biến những mái tóc xanh ngày nào thành vầng cỏ bạc xơ xác. Nhưng trong lòng những kiếp người bỗng dưng tai bay vạ gió, cơ cực trầm luân suốt hai mươi mấy năm trời, dù cạn kiệt niềm tin vào luật người vẫn le lói hy vọng vào nhân quả, vào thứ luật lệ của Trời. Mỗi sợi khói tỏa lên từ mỗi nén nhang bàn thờ gia tiên ngày Tết đều chở oằn lời van vái cầu xin về một chốn định cư, an cư cho những ngày cuối của đời mình và cho các đời con cháu.

Các đời lãnh đạo thành phố gần như đều từng đến úy lạo tinh thần bà con dân oan Thủ Thiêm vào dịp tết. Năm nay cũng vậy, bà Thủy kể một vị lãnh đạo nào đó vừa đến tặng quà tết cho các hộ dân và thuyết phục họ lên chung cư Bình Khánh kế bên để sống vì khu này đã quá mục nát bẩn thỉu. Khu chung cư đồ sộ được xây từ 2014, làm nơi cư trú cho các hộ bị giải tỏa để nhường đất cho dự án Thủ Thiêm. Thời điểm đó nó vắng tanh và xa ngắt.

Bây giờ, nó là vị trí đắc địa: nằm ở đường Lương Định Của, thuộc quận 2 cũ, khu vực rất sầm uất, chỉ cách quận 1 ít phút xe. Nhưng, mặc dù sống cảnh chen chúc vơí chuột và gián, mùi hôi thối, cái nóng nực ngột ngạt trong khu ổ chuột, thậm chí không thể gọi đó là cuộc sống, nhưng nhiều người dân Thủ Thiêm không cam lòng rời nó để lên ở trong chung cư thoáng mát lộng gió.

-Ở đó thì tốt hơn thiệt. Nhưng rồi ra sao? Ở đây tụi tui cũng tạm cư, lên đó vẫn tạm cư tiếp. Tạm cư hai mươi mấy năm rồi, lên đó lại tạm bao nhiêu năm nữa? Thì mình vẫn tiếp tục đi kiện được, tụi tui kiện tới chừng nào chánh phủ, bác Trọng giải oan cho tụi tui. Nhưng nếu tui chết thì con cháu tui người ta có cho ở tiếp không? Nó hổng có tên đi kiện, người ta đuổi nó thì sao? Mà người ta thấy mình sống ổn rồi, họ làm lơ luôn thì sao?-bà Thủy trầm ngâm.

HÌNH: – Khu Thủ Thiêm năm 1996 sầm uất…

Chống tham nhũng, ‘phía bên kia’ bắt đầu phản công?

Báo Tiếng Dân

01/02/2023

Blog VOA

Trân Văn

1-2-2023

Sau những Trần Thị Nguyệt Thu, Nguyễn Thị Xuân Trang, Vương Hà My, mới đây, công chúng bắt đầu thảo luận sôi nổi về Tô Hà Linh (ái nữ của ông Tô Lâm – Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an Việt Nam),…

Sau những Nguyễn Xuân Phúc, Phạm Bình Minh, Vũ Đức Đam, Huỳnh Tấn Việt, Bùi Nhật Quang, Nguyễn Thành Phong, Phạm Xuân Thăng, Nguyễn Thanh Long, Chu Ngọc Anh, Trần Văn Nam – những Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương (BCH TƯ) đảng CSVN đã thôi… “phục vụ”, mạng xã hội và một số cơ quan truyền thông bắt đầu nhắc đến danh tính những cá nhân là thân nhân giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam.

Sau những Trần Thị Nguyệt Thu (phu nhân của ông Nguyễn Xuân Phúc – cựu Ủy viên Bộ Chính trị, cựu Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), Nguyễn Thị Xuân Trang (ái nữ của ông Nguyễn Xuân Phúc), Vương Hà My (ái nữ của ông Vương Đình Huệ – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa XHCN Việt Nam), mới đây, công chúng bắt đầu thảo luận sôi nổi về Tô Hà Linh (ái nữ của ông Tô Lâm – Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an Việt Nam),…

Giống như cô My đột nhiên nổi như cồn sau khi khoe vừa tốt nghiệp Oberlin College – một trường đại học tọa lạc ở tiểu bang Ohio, Mỹ (1) – khiến thiên hạ thắc mắc vợ chồng ông Huệ đã làm gì để có thể trang trải chi phí được ước đoán tối thiểu cũng phải 85.000 Mỹ kim/năm (2), cô Linh cũng đang nổi như cồn vì với mức thu nhập chính thức của ông Tô Lâm (khoảng 7.860 Mỹ kim một năm), ông lấy tiền từ đâu để trả khoản học phí khoảng 25.000 Mỹ kim/năm cho ái nữ (3) có thể theo học tại SOAS?

SOAS (School of Oriental and African Studies) tọa lạc ở London, Vương quốc Anh – một nơi vốn nổi tiếng là đắt đỏ nên khoản học phí 25.000 Mỹ kim/năm là chưa đúng và chưa đủ. Nếu kể cả chi phí ăn, ở, sách vở,… cho ái nữ mỗi năm thì con số thực chi chắc phải gấp năm, bảy lần mức thu nhập chính thức/năm của ông Tô Lâm. Nhân vật đang chỉ đạo điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự hàng loạt viên chức tham nhũng moi từ đâu ra khoản tiền ấy để lo cho ái nữ?

Không cần trả lời thì ai cũng biết vì sao ông Tô Lâm có thể cho con gái du học. Bởi ai cũng biết nên mới có chuyện cô Linh tốt nghiệp SOAS nổi như cồn. Có một điểm đáng chú ý là cô Linh khoe việc cô tốt nghiệp SOAS trên trang facebook của cô từ tháng 7 năm ngoái nhưng tháng giêng năm nay – lúc cha cô đang chỉ đạo mở rộng cuộc tấn công tham nhũng – chuyện cô du học tại Vương quốc Anh mới được giới thiệu với công chúng và vì vậy, cô phải vội vội, vàng vàng đóng trang facebook của cô (4).

Tô Hà Linh còn quá trẻ nên có lẽ cô chẳng đắc tội với ai đến mức phải vội vàng “mai danh, ẩn tích” trên mạng xã hội nhưng thân phụ của cô thì ngược lại. Điều đó cho thấy cuộc chiến được dán nhãn “chống tham nhũng” ở Việt Nam đã bước vào giai đoạn hết sức khốc liệt. Những cá nhân, những nhóm bị tấn công vì tham nhũng đang phản công. Có bên cố gắng bày ra để thiên hạ tường, vợ con Chủ tịch Nhà nước tham tàn đến mức nào. Có bên cố gắng minh họa Thủ tướng dính líu đến “sâu dân, mọt nước” ra sao. Cũng có bên chứng tỏ Chủ tịch Quốc hội chẳng sạch sẽ gì hơn và Bộ trưởng Công an cũng thế!… Chống tham nhũng càng quyết liệt thì thiên hạ càng có thêm nhiều thông tin, bằng chứng để nhận ra, tại Cộng hòa XHCN Việt Nam chẳng có “bàn tay” nào… “sạch”!

***

Thu nhập chính thức của các viên chức lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền từ trung ương đến địa phương tại Việt Nam chỉ dao động trong khoảng từ 5.000 Mỹ kim/năm đến 8.000 Mỹ kim/năm nhưng khó mà đếm xuể đã và đang có bao nhiêu viên chức cho con du học ở ngoại quốc. Ai cũng biết tại sao lại thế và các hệ thống chính trị lẫn hệ thống công quyền từ trung ương đến địa phương xem đó như điều đương nhiên, thậm chí còn xem việc tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc của con các viên chức như một “điểm son” để tuyển dụng, cất nhắc, chưa kể còn dựa vào yếu tố này để quảng cáo về “năng lực” của… đội ngũ kế thừa, thành ra chẳng khó khăn gì khi tìm ví dụ cho thực trạng trái khoáy này.

Đâu phải tự nhiên mà tất cả viên chức từ Tổng Bí thư trở xuống thẳng tay gạt bỏ đề nghị hình sự hóa “giàu có bất thường” (điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự, tịch thu tài sản của những viên chức không thể giải trình hợp lý về nguồn gốc tài sản của họ) khi sửa Luật Hình sự (5) vào các năm 2015 và 2017, Luật Phòng – chống tham nhũng vào năm 2018 (6). Nên hiểu thế nào khi ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN từng tuyên bố rất nhiều lần, ở nhiều nơi rằng chống tham nhũng tại Việt Nam “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể đó là ai” nhưng cũng chính ông Trọng cương quyết từ chối công bố tờ khai tài sản của những cá nhân được đảng lựa chọn bởi “nhạy cảm và khó vì liên quan đến các quyền về đời tư” (7)?

Nếu không gạt bỏ đề nghị hình sự hóa “giàu có bất thường” khi sửa Luật Hình sự và Luật Phòng – chống tham nhũng, không ngại… “nhạy cảm và khó” rồi bác bỏ đề nghị công bố công bố tờ khai tài sản của những cá nhân được đảng lựa chọn thì ắt không có chuyện trong cuộc chiến chống tham nhũng, “phía bên kia” khai thác chuyện con cái “phía bên này” du học và tốt nghiệp những đại học mà toàn bộ chi phí cho mỗi năm học xấp xỉ hàng trăm ngàn Mỹ kim/năm. Thu nhập chính thức chưa tới chục ngàn Mỹ kim/năm nhưng đủ khả năng tài chính để chi hàng trăm ngàn Mỹ kim/năm cho con cái du học thì làm sao đủ “sạch” để tẩy rửa hệ thống? Theo logic thì phải thắc mắc như thế chứ chấp nhận hình sự hóa “giàu có bất thường” thì còn gì các… hệ thống?

Chú thích:

(1) https://thoibao.de/blog/2022/08/20/chu-tich-quoc-hoi-da-ho-suon-chinh-phuc-co-tan-dung-de-ha-guc/

(2) https://www.oberlin.edu/admissions-and-aid/tuition-and-fees

(3) https://www.soas.ac.uk/international/study-abroad-and-exchange/inbound-students-study-abroad-soas/study-abroad-fees-and

(4) https://www.nguoi-viet.com/viet-nam/mang-xa-hoi-ro-ri-hinh-anh-con-gai-to-lam-tot-nghiep-dai-hoc-o-anh/

(5) http://dantri.com.vn/phap-luat/giau-bat-thuong-co-the-bi-tich-thu-tai-san-1386181152.htm

(6) https://dantri.com.vn/chinh-tri/chu-tich-quoc-hoi-nhieu-can-bo-co-tai-san-rat-lon-ma-khong-the-giai-trinh-20180910105202887.htm

(7) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/tong-bi-thu-ke-khai-tai-san-can-bo-la-van-de-rat-kho-nhay-cam-1286576.tpo

Công an quyết truy tố Nguyễn Phương Hằng, chưa cho tại ngoại

Báo Nguoi-viet

January 30, 2023

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Hôm 30 Tháng Giêng, Công An thành phố Sài Gòn đã hoàn tất kết luận điều tra bổ sung, chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm Sát cùng cấp tiếp tục đề nghị truy tố bà Nguyễn Phương Hằng, tổng giám đốc công ty Đại Nam, cùng ba thuộc cấp về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

Theo báo Pháp Luật TP.HCM, ba thuôc cấp bị đề nghị truy tố gồm bà Nguyễn Thị Mai Nhi, 40 tuổi, trợ lý của bà Hằng; bà Lê Thị Thu Hà, 31 tuổi, nhân viên công ty Đại Nam, và ông Huỳnh Công Tân, 29 tuổi, trưởng Phòng Truyền Thông công ty Đại Nam.

Con trai của bà Nguyễn Phương Hằng đã gửi đơn xin khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt và xin được bảo lãnh cho mẹ để chữa bệnh. (Hình: Chụp qua màn hình)

Việc này được Công An thành phố Sài Gòn đưa ra sau gần hai tháng điều tra theo yêu cầu của Viện Kiểm Sát là “làm rõ hành vi của một số người có dấu hiệu đồng phạm với bà Hằng trong việc tổ chức và tham gia các buổi livestream, phát ngôn sai phạm.”

Ngoài những người trên, theo kết luận điều tra, trong lúc “thực hiện hành vi phạm tội” của bà Nguyễn Phương Hằng còn có sự xuất hiện của Tiến Sĩ Luật Đặng Anh Quân và Luật Sư Nguyễn Đình Kim với tư cách là khách mời trong các buổi livestream.

Tuy nhiên, nhà chức trách đã trưng cầu giám định 38 trang tài liệu được dịch thành văn bản từ phát ngôn của hai ông Quân, Kim và kết luận phát ngôn “không chuẩn mực về các bị hại, nhưng chưa đủ cơ sở khẳng định có những nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc phạm nghiêm trọng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của các cá nhân.”

Những nội dung hai người này nói cũng “không thuộc bí mật cá nhân, bí mật của gia đình và đời sống riêng tư theo quy định của Luật An Ninh Mạng, Luật Báo Chí, Luật Xuất Bản và các quy định pháp luật có liên quan trong lĩnh vực thông tin và truyền thông.” Do vậy, không đề nghị truy tố.

Hồ sơ của công an cho biết từ Tháng Ba, 2021, bà Nguyễn Phương Hằng dùng 12 trang YouTube và TikTok phát livestream “xâm phạm bí mật đời tư, xúc phạm uy tín, danh dự” của nghệ sĩ hài Hoài Linh, ca sĩ Vy Oanh, vợ chồng ca sĩ Thủy Tiên, nhà báo Hàn Ni.

Trong thời gian này, ba bị can Nguyễn Thị Mai Nhi, Lê Thị Thu Hà và Huỳnh Công Tân thực hiện các nhiệm vụ gồm: Đăng tin giới thiệu các buổi livestream của bà Hằng trên Facebook, in ấn các nội dung mà bà Hằng sẽ phát ngôn, chuẩn bị các thiết bị ghi hình và phát livestream trên mạng xã hội.

Bà Nguyễn Phương Hằng, 52 tuổi, trước đây có tên Nguyễn Thị Thanh Tuyền, là đại gia bất động sản, vợ của doanh nhân Huỳnh Uy Dũng (tức Dũng “Lò Vôi”), có quốc tịch Việt Nam và Cộng Hòa Cyprus.

Bà Hằng bị bắt hôm 24 Tháng Ba, 2022, và liên tục bị gia hạn tạm giam đến nay.

Hiện chưa rõ thời điểm diễn ra phiên tòa xử bà Hằng với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

Theo VNExpress, cho đến nay Viện Kiểm Sát thành phố chưa công bố lý do bác đơn của ông Nguyễn Quang Tuấn, 32 tuổi, con trai bà Hằng, về việc xin đặt 10 tỷ đồng ($402,150) để bảo lãnh mẹ được tại ngoại để trị bệnh.

Bà Lê Thị Thu Hà, nhân viên công ty Đại Nam, bị công an đề nghị truy tố. (Hình: Nhật Thịnh/Thanh Niên)

Trong khi đó ông Tuấn cho rằng hành vi của bà Hằng không thuộc các trường hợp “không được áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.”

Ông Tuấn mong cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát “xem xét thêm” cho điều kiện hoàn cảnh của bà Hằng “đang phải điều trị nhiều bệnh như cao huyết áp, rối loạn lo âu, tiền đình, thiếu máu, mất ngủ kéo dài, u xơ tử cung…” (Tr.N)

Quảng Nam: Đánh ghen, con dâu cùng mẹ chồng tưới xăng đốt ‘tình địch’

Báo Nguoi-viet

January 30, 2023

QUẢNG NAM, Việt Nam (NV) – Thấy chồng cõng một cô gái trên lưng ở thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, cô vợ cùng mẹ chồng lấy xăng tưới vào “tình địch,” châm lửa đốt ngay trên đường gây phỏng nặng.

Nói với báo VNExpress hôm 30 Tháng Giêng, ông Nguyễn Hà Lai, phó giám đốc Công An tỉnh Quảng Nam, cho biết Công An huyện Duy Xuyên đã bắt giữ hai nghi can Nguyễn Thị Diễm Phượng, 23 tuổi, cùng mẹ chồng là bà Đặng Thị Thống Nhất, 44 tuổi, cùng ở xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn.

Hình ảnh chị Đàm Thị Mỹ D., bị tưới xăng đốt ngay giữa đường. (Hình: Công An TP.HCM)

Nạn nhân bị tưới xăng đốt là chị Đàm Thị Mỹ D., 28 tuổi, ở phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Theo bệnh viện Đà Nẵng, cả ba bệnh nhân đều được chuyển viện cấp cứu từ Quảng Nam. Hiện bệnh nhân Phượng và anh Nguyễn Văn Huy, 24 tuổi, chồng chị Phượng bị phỏng mức độ nhẹ do xăng cháy lan.

Riêng bệnh nhân Mỹ D. bị phỏng nặng toàn thân, hiện đang được điều trị hồi sức.

“Bệnh nhân D. bị phỏng ở mức độ rất nặng, khó tiên lượng nên chúng tôi vẫn đang theo dõi sát tình hình trong những ngày qua,” đại biện bệnh viện Đà Nẵng cho biết.

Theo điều tra, chị Phượng cho rằng chị D. có quan hệ tình cảm với chồng mình là anh Huy. Sáng 26 Tháng Giêng, chị Phượng thấy chồng cõng chị D. đi ra từ quán karaoke Quang Vinh ở thị trấn Nam Phước nên cùng mẹ chồng lao vào đánh ghen.

Trong cơn ghen, chị Phượng dùng xăng chứa trong chai 1.5 lít tưới vào người chị D. rồi bật lửa đốt. May mắn người dân phát hiện kịp thời nhào đến dập lửa chỉ 20 giây sau khi phát hỏa.

Sau sự việc, chị D. bị phỏng nặng và được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Bình An ở thị trấn Nam Phước, song do vết phỏng quá nặng nên sau đó được chuyển tiếp ra bệnh viện Đà Nẵng.

Ngay sau đó, bà Nhất và chị Phượng bị công an bắt giữ ngay sau đó.

Tại cơ quan điều tra, nghi can khai xăng và bật lửa được chị Phượng chuẩn bị từ trước.

Liên quan đến việc dùng xăng đốt người tình, trước đó theo báo Thanh Niên hôm 18 Tháng Giêng, cho hay Công An quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, đã bắt giữ nghi can Trương Văn Tùng, 28 tuổi, quê ở tỉnh Hải Dương, với cáo buộc “giết người, phóng hỏa đốt phòng trọ để phi tang.”

Nạn nhân được xác định là bà TTHA, 45 tuổi, quê ở tỉnh Tuyên Quang. Bà này đến Hải Phòng làm ăn và thuê nhà trọ tại phường Quán Trữ, quận Kiến An.

Lửa bao trùm nạn nhân. (Hình: VNExpress)

Tại đồn công an, nghi can Trương Văn Tùng khai mình và nạn nhân có quan hệ tình cảm. Khoảng 3 giờ chiều 17 Tháng Giêng (26 Tháng Chạp), tại phòng trọ của bà A., do cãi nhau, nghi can Tùng tức giận, lấy búa đập vào đầu người tình cho đến chết.

Sau đó, nghi can Tùng đặt thi thể nạn nhân lên giường, lấy xăng từ xe gắn máy của nạn nhân để trong phòng tưới lên giường, rồi châm lửa đốt nhằm phi tang. (Tr.N)

 THẾ NÀO LÀ “VÔ SẢN CHÂN CHÍNH”

 

Quyền Được Biết

Này thì ‘vô sản chân chính’…;
Này thì “đạo đức cách mạng”…;

Này thì “sống, học tập, làm theo tấm gương đạo đức hcm”…;
Mời mấy tay ‘ní nuận chính trị cao cấp’ của đảng giòi bọ vào mà phản biện, hùng biện và NGỤY BIỆN!

Nhiều người cứ ngỡ rằng cái đám này chúng nó qua Anh, qua Mỹ học hành thì cũng tiến bộ để tạo nên một sự thay đổi chính trị cho Việt Nam, đặc biệt là giới chính khách Hoa Kỳ.

Bé cái lầm, không phải chúng nó nốc Coca, xơi Hamburger là Mỹ hóa đâu, bởi vì dễ gì bọn chúng nó đá đổ cái nồi cơm mà cha mẹ chúng nó và chính bản thân chúng nó đang ăn?!
Không tin hả chú Sam?

Cứ nhìn thằng Nguyễn Thanh Nghị con thằng thủ tướng Ba Ếch Nguyễn Tấn Dũng du học bên Mỹ ngày nay là Bộ Trưởng Bộ Xây Dựng csVN đấy!
Hay là thằng út của Thủ Dũng Nguyễn Minh Triết hiện nay là Bí thư đoàn thanh niên cộng sản đấy!

Bọn chúng còn nhiều lắm, cha mẹ bọn chúng ăn cướp, tham nhũng khi có quyền hành, sau đó chúng dùng tiền bẩn đấy đi du học, cái ngữ bọn này mà thay đổi được Việt Nam thì đúng là tư duy của mấy thằng thần kinh.

50 năm Hiệp định Paris : Việt Nam trên ván cờ chính trị thế giới

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

50 năm Hiệp định Paris : Việt Nam trên ván cờ chính trị thế giới (Nguyễn Hải Di, Nguyễn Gia Kiểng, Từ Thức, Lê Mạnh Hùng)

27/1/2023 là tròn 50 năm ngày ký Hiệp định Paris, để Mỹ rút quân khỏi cuộc chiến Việt Nam.

Nhìn lại Hiệp định Paris sau nửa thế kỷ, tôi phỏng vấn ông Từ Thức, ký giả của miền Nam có mặt theo dõi hội đàm từ đầu đến cuối ; sử gia Lê Mạnh Hùng ; và kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, người sáng lập và đứng đầu Tập hợp Dân chủ Đa nguyên.

Hiệp định Paris có những lỗ hổng nào ?

Hiệp định Paris là hiệp định chấm dứt chiến tranh, ký ngày 27/1/1973. Các bên đàm phán chính thức là Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt), Việt Nam Cộng hòa (Nam Việt Nam), và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).

Ông Nguyễn Gia Kiểng cho rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam “được coi như là một trong hai “bên miền Nam” trong khi ai cũng biết nó không có thực chất nào cả mà chỉ là một danh xưng rỗng nghĩa. Lực lượng cộng sản chiến đấu tại miền Nam hoàn toàn của Hà Nội và do Hà Nội điều khiển.

“Hai là hiệp định hoàn toàn không nói tới chính quyền cộng sản Bắc Việt, làm như là miền Bắc không có trách nhiệm gì trong cuộc chiến, trong khi chính quyền cộng sản Bắc Việt là kẻ chủ trương và điều động cuộc chiến đồng thời cũng là một trong hai bên đối thoại chính, cùng với Mỹ, trong hội nghị Paris.

“Ba là hiệp định quy định Mỹ sẽ rút hết quân khỏi miền Nam và hai bên miền Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, sẽ không được nhận thêm vũ khí và sử dụng cố vấn hay chuyên viên quân sự nước ngoài trong khi Hà Nội không bị bó buộc gì cả, không phải rút quân khỏi miền Nam và vẫn tiếp tục nhận viện trợ quân sự từ bên ngoài”.

Ông nói thêm, những người hiểu lầm nhất về Hiệp định khi đó có lẽ là những người thuộc “lực lượng thứ ba”.

“Họ nghĩ rằng hiệp định này sẽ dành cho họ một chỗ đứng trước hết trong Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc và sau đó trong một chính quyền miền Nam trung lập. Họ không hiểu rằng miền Nam đang đứng trước nguy cơ gần như chắc chắn sắp bị thôn tính. Trên thực tế họ chỉ tiếp tay làm cho Việt Nam Cộng hòa sụp đổ nhanh hơn”.

Ai vi phạm Hiệp định Paris ?

Năm 1973, Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, hai nhân vật chủ chốt trong đàm phán, được trao giải Nobel Hòa bình. Ông Lê Đức Thọ từ chối.

Ông Từ Thức nói “Hiệp định Paris 1973 đòi ngừng bắn trên toàn miền Nam ; việc thống nhất đất nước sẽ được thực hiện bằng phương pháp hòa bình, qua tổng tuyển cử, trong thời hạn do miền Bắc và miền Nam đồng thuận. Trên thực tế, ngay sau khi ký Hiệp định, Cộng sản đã đánh phá nhiều nơi, gia tăng quân sự để chiếm thêm đất ở những vùng “da beo”, thí dụ tổng công kích Bình Long, Ban Mê Thuột, và cuối năm 1974, đã chiếm trọn tỉnh Phước Long.

“Hiệp định Paris quy định miền Bắc phải ngưng việc đưa quân vào miền Nam. Trên thực tế, chỉ trong tháng 5/1973, Bắc Việt đã đưa thêm vào miền Nam 35.000 quân, 30.000 tấn võ khí”.

Hiệp định Paris cũng yêu cầu hai bên rút quân khỏi Lào và Campuchia, nhưng “Bắc Việt không những không rút quân, còn gia tăng hoạt động quân sự tại hai nước này”.

Sử gia Lê Mạnh Hùng thì cho rằng Hiệp định Paris “là một cách để Mỹ tháo chạy ra khỏi Việt Nam mà không mất mặt. Trên phương diện pháp lý nó không có cả tính chính đáng (legitimacy) vì cả bốn bên không bên nào thông qua. Việt Nam Cộng hòa, Bắc Việt và Giải phóng Miền Nam không nói làm gì, nhưng ngay cả đến Mỹ, Hiệp định này cũng không được Thượng viện Mỹ thông qua”.

Theo ông, “vì được thiết kế để cho Mỹ rút quân thành ra có thể nói không có điều khoản nào ràng buộc phía bên kia cả. Ngoài ra cũng không có biện pháp chế tài nào nếu bên kia vi phạm. Vả lại vì nó không có tính cách pháp lý thành ra ta cũng không thể lên án bên kia là vi phạm được”.

Nhưng Hiệp định Paris không chỉ nói ngừng chiến tranh và chấm dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ với vấn đề Việt Nam.

Ông Từ Thức nói thêm :

“Hiệp định Paris cấm mọi hành động trả thù, phân biệt đối xử. Sau khi Cộng sản chiếm miền Nam, tháng 4/1973, hàng triệu người bị bắt vào trại cải tạo, nhiều người mất mạng vì bị hành hạ, đói khát, mở đầu cho phong trào “boat people” của hàng triệu dân miền Nam liều chết vượt biển, tìm cách thoát khỏi chế độ”.

50 năm nhìn lại

Ông Lê Mạnh Hùng cho rằng “Trên quan điểm lịch sử, sau 50 năm nhìn lại, tôi nghĩ rằng trong tình thế lúc đó, Hiệp định Paris là một cái gì tất yếu phải xảy ra. Như Afghanistan trong năm 2021 cho thấy, khi Mỹ thấy cần bỏ chạy là họ bỏ chạy. Đối với Nixon và Kissinger, Việt Nam không còn quan trọng nữa khi họ đã mua được Tàu thành ra bỏ chạy ra khỏi Việt Nam là tất yếu, nhất là khi sự chống đối chiến tranh Việt Nam đang dâng lên ào ạt tại Mỹ.

“Điều đáng buồn độc nhất là tuy rằng về phía Việt Nam Cộng Hòa, người ta có biết chuyện đó, nhưng giới lãnh đạo cũng vẫn không hoàn toàn tin hẳn rằng nó nói bỏ là bỏ ! Vì vậy không có bao nhiêu chuẩn bị để có thể cầm cự lâu dài với những phương tiện mình có hoặc là tìm thêm nguồn cung cấp vũ khí tại nơi khác”.

Ông Từ Thức thì nói “Nhiều người ngạc nhiên trước sự thất thủ nhanh chóng của miền Nam năm 75, nhưng hãy tưởng tượng những gì xảy ra ở Ukraine ngày nay, nếu một sớm một chiều các nước Tây Phương cắt đứt viện trợ kinh tế, quân sự cho nước này ?”

Ông cho rằng “Hiệp định Paris là một ô nhục đối với những người tranh đấu cho quyền tự quyết của các dân tộc, một vết đen trong lịch sử Hoa Kỳ, vì đây là lần đầu cường quốc này đã bỏ rơi đồng minh, tháo chạy. Nixon và Kissinger chỉ có một mục tiêu, làm quà cho cử tri Mỹ bằng cách chấm dứt chiến tranh”.

Vì làn sóng phản chiến tại nhà, và để ngưng chiến và mang quân Mỹ trở về, Nixon đã chấp nhận rút toàn bộ quân Mỹ nhưng không nói gì đến quân đội Bắc Việt ở miền Nam.

“Nixon hứa với ông Thiệu sẽ tái oanh tạc, sẽ phản ứng mạnh, nếu Bắc Việt vi phạm những điều đã ký kết, nhưng đã khoanh tay khi Cộng sản gia tăng chiến tranh, vì đang gặp khó khăn chính trị, đặc biệt là vụ Watergate. Sinh mệnh của hàng triệu người dân miền Nam rơi vào quên lãng”.

Nixon, theo ông Từ Thức, muốn “hòa bình trong danh dự”, nhưng cuối cùng “chẳng có hòa bình cũng chẳng có danh dự, như tựa đề một cuốn sách của sử gia Larry Berman, No Peace, No Honor : Nixon, Kissinger and the Betrayal in Vietnam. Theo Larry Berman, đó là một hiệp định tự sát, một hòa bình ô nhục”.

Ông Nguyễn Gia Kiểng cho biết “Theo tôi hiệp định này đánh dấu một khúc quanh lớn của Mỹ trong đạo đức chính trị và chính sách đối ngoại. Đó là lần đầu tiên mà Mỹ rút lui và bỏ rơi một đồng minh, dần dần sự trở mặt đã thành một tập quán của Mỹ, dù là tại Liban, Iraq, Syria, Venezuela hay gần đây nhất tại Afghanistan.

“Điều mà tôi chỉ hiểu sau này khi các bí mật dần dần được tiết lộ là việc Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa có liên hệ mật thiết với việc Mỹ vừa bắt tay được với Trung Cộng. Theo tính toán của Nixon và Kissinger nếu Hà Nội thôn tính được Sài Gòn thì Việt Nam sẽ rơi hẳn vào quỹ đạo Liên Xô vì Đảng cộng sản Việt Nam lúc đó theo Liên Xô và chống Trung Cộng, như thế Bắc Kinh sẽ phải sáp lại hơn nữa với Mỹ vì Liên Xô đang là thù địch của họ. Tính toán này ít nhiều được các tổng thống Mỹ sau đó tán thành, cho đến khi Trung Quốc trở thành mối đe dọa cho thế giới.

“Hệ quả là đất nước ta hoàn toàn bị đặt dưới chế độ cộng sản. Đó là một tai họa lớn. Chúng ta đang là một nước rất chậm tiến với một đảng cầm quyền cư xử như một lực lượng chiếm đóng hung bạo”.

Ông Từ Thức nói “Bài học cay đắng là miền Nam nhỏ bé rơi vào trò chơi, tính toán chính trị của các thế lực quốc tế”.

Nhìn lại sau 50 năm, ông Nguyễn Gia Kiểng nói “Thật đáng buồn, nếu miền Bắc chấp nhận bắt tay hợp tác với miền Nam để dần dần tiến tới thống nhất đất nước trong hòa bình thì bây giờ Việt Nam ít lắm cũng phải phồn vinh gấp nhiều lần hiện nay. Nhưng Đảng cộng sản đã đặt quyền lực và chủ nghĩa Mác Lênin lên trên hết”.

Nguyễn Hải Di

Nguồn : Diễn Đàn Thế Kỷ, 27/01/2023

50 năm sau hiệp định Paris, một Việt Nam không còn lịch sử-Jackhammer Nguyễn

Báo Tiếng Dân

Jackhammer Nguyễn

28-1-2023

Bi kịch Paris

“Hòa bình ơi/ Tình yêu em như sông biển rộng/ Tình yêu em như lúa ngoài đồng/ Tình yêu em tát cạn biển Đông…” Lời bài hát này được nghe trên khắp các thành thị miền Nam Việt Nam, khi nó còn nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ Việt Nam Cộng hòa 50 năm trước.

Người sáng tác bài hát đó là nhạc sĩ Thông Đạt, tức Ngô Văn Giảng, nhưng tôi không biết ai là người hát nó đầu tiên trên radio hay TV, chỉ biết rằng nó xuất hiện sau ngày 27-1-1973, ngày hiệp định đình chiến bốn bên được ký kết tại Paris, thủ đô nước Pháp.

Tuy nhiên cuộc chiến không đình được, nỗi khát khao hòa bình trong bài hát nhanh chóng bị dập tắt. Chiến tranh tiếp tục trong hai năm tiếp theo, dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa. Với độ lùi thời gian nửa thế kỷ, cùng nhiều thông tin mới dần được công bố, nay đã rõ là việc ký kết hiệp định này có nguyên nhân lớn nhất là ý chí của người Mỹ, tìm kiếm một lối thoát trong vũng lầy Việt Nam của họ.

Việt Nam đã không còn là một tiền đồn chống cộng sản có giá trị nữa, chính sách mới của Washington bắt tay với Trung Hoa cộng sản nhằm phân hóa thế giới cộng sản bắt đầu. Tiền đồn của Mỹ bây giờ không phải là Sài Gòn nữa, mà là Bắc Kinh. Vũ khí không phải là ném bom nữa mà là những cái bắt tay thân mật bên cốc rượu Mao đài.

Cuộc chiến hai năm sau hiệp định Paris thực sự là nội chiến, là cuộc chiến giữa những người Việt với nhau, dù rằng cho đến 50 năm sau, cho tới bây giờ Hà Nội vẫn vô cùng “nhạy cảm” với hai từ “nội chiến”. Họ cũng “nhạy cảm” cả với ba từ “ý thức hệ”, lý do chính mà người Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Điều trớ trêu và buồn cười nhất là tính chất ý thức hệ (đấu tranh giai cấp) là điều mà Đảng Cộng sản Việt Nam lớn tiếng hơn ai hết khi họ nắm quyền trên toàn quốc.

Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vì sự yếu kém về tổ chức xã hội, nhà nước, của nó, không phải để chiến đấu, quân đội của họ dựa hoàn toàn vào người Mỹ, mà không sẵn sàng cho một cuộc chiến dựa trên sức mạnh của chính mình. Trong khi đó, xã hội và nhà nước miền Bắc, với mô hình toàn trị, thích hợp hơn rất nhiều lần để tiến hành một cuộc chiến. Vũ khí và tài lực từ Liên Xô vẫn tiếp tục cung cấp cho Hà Nội.

Bi kịch ngày 30-4-1975 của Việt Nam Cộng hòa là không thể tránh khỏi. Bi kịch đó kéo theo bị kịch tù cải tạo với hàng trăm ngàn người lao động khổ sai không án.

Bi kịch đó kéo theo bi kịch thuyền nhân với gần một triệu người liều mình đào thoát khỏi Việt Nam, trong đó không biết bao nhiêu người chết thảm khốc.

Lịch  sử và xóa bỏ lịch sử

Người cộng sản Việt Nam đã thắng cuộc chiến quân sự sau bi kịch Paris, nhưng họ đại bại trong cuộc chiến ý thức hệ.

Nước Việt Nam ngày nay không phải là một đất nước sống theo thiên đường cộng sản, “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, như trong các kinh điển Mác – Lê. Việt Nam ngày nay là đất nước của cụ già Nguyễn Phú Trọng sửa luật Đảng của chính ông ta để cầm quyền, là đất nước của hơn triệu công nhân bỏ chạy về quê vì đói trong đại dịch 2021, là đất nước của Phạm Nhật Vượng, chuyên thu gom đất đai giá rẻ để làm tỷ phú, và cũng là đất nước của những “thùng nhân” chết đông lạnh ở Anh.

Họ thất bại trong ý thức hệ, nhưng có thể họ đang thắng trong việc xóa bỏ lịch sử, ít nhất là đối với mấy chục triệu dân trong nước.

Tôi không nghĩ rằng có hơn 50% dân chúng Việt Nam trong nước biết Hiệp định Paris là cái gì! Dĩ nhiên họ cũng chẳng biết tới trại tù cải tạo khổ sai, không biết cả thảm họa thuyền nhân.

Ảnh: Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định Paris năm 1973. Nguồn: Getty Images

Báo chí tuyên truyền của Đảng nói với họ rằng, có mấy triệu người Việt sống ở phương Tây, “lúc nào cũng hướng về tổ quốc xã hội chủ nghĩa” (sic). Nhưng tại sao mấy triệu người ấy có mặt ở phương Tây? Báo chí và sách vở của Đảng … cứ làm như không biết!

Mấy ngày gần đây, báo chí Việt Nam cũng góp lời ca tụng hai diễn viên được đề cử giải Oscar danh giá ở Mỹ, có liên quan đến Việt Nam, là ông Quan Kế Huy và bà Hồng Châu. Họ ca tụng vì cả hai người đều được xem là người Mỹ gốc Việt. Tuy nhiên báo Đảng cắt bén đi cái lý lịch thuyền nhân của họ.

Mà không chỉ trong câu chuyện với hai người này, những cái từ như là thuyền nhân, trại cải tạo… cũng biến mất tăm ở Việt Nam ngày nay, dù rằng nó là một giai đoạn lịch sử bi thương của dân tộc.

50 năm hiệp định Paris, Việt Nam đi từ một nền hòa bình tưởng tượng, cho đến một tương lai bất định, trên nền của một dân tộc 100 triệu dân bị xóa bỏ lịch sử.

Tự hào quá Việt Nam ơi!

Mai Văn Rê

Các báo VN hôm nay đồng loạt đưa tin: một cổng chào trong hạng mục trang trí mừng năm mới cao 5 m, rộng khoảng 15 m của TP Nha Trang bất ngờ đổ sập vào tối mùng 6 Tết. Rất may là không có ai bị thương vong.

Năm mới có cổng chào, và tỉnh, huyện nào cũng thi nhau xây dựng các cổng chào của địa phương mình rất hoành tráng, tốn kém; chưa kể hằng hà các tượng đài…ở các tỉnh nghèo mà hàng năm phải xin cứu đói.

Lãng phí và tham nhũng đã ăn hết vào nguồn lực của đất nước, nhưng người dân thì vẫn tiếp tục bị tuyên truyền lừa dối : “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam”…

Nhân đây cũng muốn so sánh: chỉ một cổng chào tỉnh Quảng Ninh với trị giá 200 tỷ (ảnh 1), đắt gấp nhiều lần cổng chào của 50 tiểu bang Mỹ cộng lại.