Hôm nay tôi bị đánh vỡ đầu!-Đoàn Bảo Châu

Ba’o Tieng Dan

Đoàn Bảo Châu

3-1-2025

Tôi thấy vợ thằng hàng xóm trông ngon quá, tôi lân la sang nói chuyện. Chuyện đang vào thì thằng hàng xóm bỏ mẹ đi công tác về. Nó chào có vẻ miễn cưỡng và cố nở ra một nụ cười tỏ ra thân thiện.

Sau một hồi, thấy tôi nói chuyện với vợ nó lâu quá, nó bảo: “Thôi, ông về đi, để vợ chồng tôi còn có việc, tôi đi công tác lâu ngày, để bọn tôi còn ấy ấy tí…”

Tôi thủng thẳng bảo: Ấy ấy gì, ông lịch sự tí đê, khách đến chơi phải tiếp đón tử tế chứ.

Nó không nói gì, nhưng mặt có vẻ bắt đầu bực. Được 15 phút sau, nó bảo: “Thôi ông ạ, tôi đi công tác dài ngày về, mệt rồi, lúc khác ông sang chơi nhé, ông thông cảm cho!”

Tôi cũng bực mình bảo: “Ông éo hiểu gì cả, cái đất này cũng là của tôi nhé. Sao ông có quyền đuổi tôi về?!”

Nó trợn trừng mắt, rồi mặt đỏ gay, cố họng nó có vẻ bị nghẹn, mãi mới quát ầm lên được: “Mày nói cái éo gì vậy? Sao lại là của mày được?”

Tôi bảo: Mày ngu vừa thôi, éo biết gì về luật đất đai, nghiên cứu đi. Ở xứ sở thiên đường này, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tức là tao và tất cả mọi người Việt Nam ai cũng có phần ở mảnh đất này. Chính vì vậy mà mày thấy người dân đang có nhà cửa, ruộng vườn, bỗng một ngày thằng Toàn Dân thích lấy là lấy, có ai làm gì được đâu.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Thằng hàng xóm ớ người.

Tôi bảo, vậy mày không hiểu chữ toàn dân là gì à? Ghi trong luật rõ ràng.

Tôi thấy nó nghệt mặt ra thì khoái chí, tiếp tục thao thao bất tuyệt dạy cho thằng ngu ấy hiểu về sự ưu việt của luật đất đai ở Việt Nam, thì bỗng nhiên thấy trời đất tối đen.

Khi tỉnh dậy tôi thấy mình đang nằm ngoài cổng của nhà nó. Máu trên đầu kín cả mặt, bết hết vào tóc. Hoá ra là nó dùng cái điếu cày phang tôi, giờ thì tôi mang máng nhớ ra.

Đầu đau như búa bổ, tôi lê về nhà. Kiểu này mai tôi phải đi kiện nó thôi. Đúng là rất khổ khi phải sống gần một thằng ngu. Chỉ tội cái là thằng ngu ấy có vợ xinh quá. Đời thật bất công ghê. Tôi thế này mà sao đường tình duyên lận đận?!

Luật sở hữu toàn dân là một đỉnh cao trí tuệ của đất nước ta, đố ở đâu trên thế giới có được phát minh ấy mà thằng .ó ấy không chịu hiểu, không chịu tuân thủ pháp luật gì cả. Kkk!


 

Để có thể thực sự hòa giải-Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

03/01/2025

Bây giờ là năm 2025, chiến tranh Việt Nam 1955-75 đã kết thúc nửa thế kỷ, nhưng lòng người vẫn ly tán, bởi vì bản chất cuộc chiến đã không được xác định đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt nam vẫn cố gắng tuyên truyền và giáo dục dân chúng rằng họ, dưới lá cờ chủ nghĩa Mác Lê Nin bách chiến bách thắng, đã giải phóng nhân dân miền Nam thoát khỏi cuộc sống đói khổ tù đày, kềm kẹp của một chế độ độc tài tay sai đế quốc Mỹ. Để có thể thực sự hòa hợp hòa giải, bản chất cuộc chiến Việt Nam 1955-75 cần được xác định chính xác.

Năm 1939, thế chiến thứ II bùng nổ, dân Việt Nam nô nức thành lập các lực lượng chính trị và vũ trang (các đảng phái, giáo phái) đánh đuổi thực dân Pháp. Ông Hồ Chí Minh chọn con đường cộng sản thân Nga. Thành phần Quốc gia chọn con đường thân Trung Hoa Dân Quốc (Tổng thống Tưởng Giới Thạch).

Năm 1946, hai phe Quốc Cộng Việt Nam thành lập chính phủ liên hiệp. Nhưng sau khi Chính phủ Liên Hiệp tan vỡ, phe Cộng sản do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, được sự trợ giúp của Liên xô (cộng sản), thành lập lực lượng Việt Minh, tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia để một mình lãnh đạo công cuộc đánh Pháp dành Độc Lập. (Theo “Lịch sử Biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập 3–Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia – Sự thật–Năm xuất bản: 2009”, để có thể thực hiện được chủ trương hoà với Pháp, bản Chỉ thị nêu bật những nhiệm vụ cần kíp sau đây:

– Lợi dụng thời gian hoà hoãn với Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tưởng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta và Pháp.)

Kể từ đó những người Quốc Gia, không áp dụng biện pháp bạo lực của cộng sản như không ám sát, bắt cóc thủ tiêu thành phần cộng sản nên phải thua Cộng Sản. Vì vậy thành phần Quốc gia đã không còn đất sống và họ phải hoặc lưu vong ở Trung Hoa, hoặc trở về Việt nam sống dưới chế độ bảo hộ của Pháp với tính cách thường dân, không tham gia chinh trị.

Năm 1949, theo môt thỏa thuận giữa Cựu Hoàng Bảo Đại và Tổng Thống Pháp, Quốc gia Việt Nam được thành lập nằm trong Liên Bang Đông Dương (gồm 3 nước Việt, Miên, Lào), thuộc Liên Hiệp Pháp. Chính phủ này gồm những thành phần không chấp nhận Cộng Sản; họ có thể chưa từng tham gia kháng chiến chống Pháp, hoặc họ có thể là những thành phần từng tham gia kháng chiến trong hàng ngũ Việt Minh nhưng rời bỏ tổ chức này vì không chấp nhận Cộng Sản.

Ngày 7 tháng 5, 1954, quân đội Việt Minh đánh bại quân Pháp tại Điện Biên Phủ khiến Pháp phải đầu hàng.

Chỉ một ngày sau khi trận Điện Biên Phủ kết thúc, vấn đề Đông Dương được đem ra bàn hội nghị (ngày 8/5/1954) (https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c886ypzvz7wo: Góc khuất của Hiệp định Genève—Nguyễn Tiến Hưng và Nguyễn Kim Cương)
Lúc 3 giờ chiều ngày 21 tháng 7, 1954, Ngoại trưởng Anh Anthony Eden, với cương vị chủ tịch Hội Nghị, dọc lời kết thúc Hội nghị. Hội nghị Geneve đã kết thúc với bản tuyên bố (declaration) với không có chữ ký của các bên tham gia hội nghị, mà chỉ có tiêu đề liệt kê danh sách tất cả các quốc gia tham dự (I had already been warned by Bedell Smith that the United States Government could not associate themselves with the final declaration…I also feared that it might lead to serious difficulties at our final meeting, for the Chinese had indicated that they would insist upon signature of the final declaration by all the delegations. I thought that I had better have this out with Molotov before the meeting. I went to see him and we eventually agreed that, in order to eliminate the problem of signature, the declaration should have a heading in which all the participating countries would be listed… At 3 p.m. on July 21st, I took the chair at the final plenary session of the conference.) The Memoires of Sir Anthony Eden, page 142. (1)

Bản Tuyên Bố của Hội nghị Geneve 1954, thường được gọi là Hiệp định Geneve 1954, qui định chia đôi Việt Nam tại Vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải), với Việt minh ở miền Bắc thành lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chính phủ Quốc gia dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại, mà Thủ Tướng là ông Ngô Đình Diệm, ở miền Nam. Hai miền sẽ bầu cử thống nhất đất nước vào năm 1956.

Năm 1955, ở miền Nam, được hậu thuẫn của Hoa Kỳ, ông Ngô Đình Diệm lật đổ Quốc Trưởng Bảo Đại để lên làm Tổng Thống thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa. Chính vì Hoa Kỳ và chính phủ VNCH không ký vào “Hiệp định Geneve 1954” nên họ tuyên bố không có bổn phận phải thực thi Tổng tuyển cử để thống nhất hai miền vào năm 1956 như Hiệp định qui định. Thực ra, thành phần Quốc gia lãnh đạo VNCH đã biết rõ Cộng sản miền Bắc sẽ không thực hiện tự do bầu cử, như mọi người đều chứng kiến những cuộc bầu cử do Cộng sản tổ chức cho tới nay (2025) cho nên giới lãnh đạo VNCH đã từ chối tổ chức bầu cử.

Việc chia đôi nước Việt Nam đều không được cả hai phe Quốc Gia và Cộng Sản (Việt Minh) đồng ý, mà đó là sự thỏa thuận giữa 4 siêu cường: Anh, Mỹ, lãnh đạo phe tự do; Liên Xô và Trung Cộng, lãnh đạo phe Cộng Sản.

Một bài báo Mỹ cho biết, theo cuốn “Lịch sử Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa,”công bố bởi Nhà xuất bản chính thức của Nhà nước, Lưu trữ, xuất bản,(“The History of the People’s Republic of China,” published by the official State Archives Publishing House,) trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã gửi tới Nam Việt Nam 500 ngàn quân, trong khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gửi tới miền Bắc 320 ngàn quân, thiệt mạng hơn 4 ngàn người. Đồng thời Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng viện trợ cho miền Bắc hơn 20 tỉ đô la. Tiết lộ trên được công bố sau khi các viên chức quân sự Liên Xô thừa nhận Liên Xô gửi một đoàn cố vấn, không nói rõ con số (a contingent of Soviet advisers) tới miền Bắc tham gia chiến đấu và bắn hạ máy bay Hoa Kỳ. (Nguồn: The Washington Post, bài China Admits Combat In Vietnam War, xuất bản ngày 17, 5, 1989)

Thông tin về việc Trung Quốc đã lần lượt cử 320 nghìn quân tình nguyện đến Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam đã được Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc CRI loan báo (với hơn 1400 cán bộ và binh lính tử trận được chôn cất tại 40 nghĩa trang liệt sĩ tại 19 tỉnh, thành Việt Nam và được Đại sứ quán Trung Quốc đến tảo mộ hàng năm vào Tết Thanh minh.) (2) Việc hàng năm chính phủ và nhân dân Việt Nam chỉnh trang nghĩa trang liệt sĩ Trung Quốc tại miền Bắc cũng được báo của nhà nước Việt nam xác nhận.

Theo các dữ liệu trên, rõ ràng cuộc chiến giữa hai miền Nam & Bắc Việt Nam kể từ 1955 là do sự thúc đẩy của ngoại bang (Anh, Mỹ ở miền Nam; Liên Xô và Trung quốc ở miền Bắc). Bởi thế, thật chính xác, cuộc chiến 1955-75 tại Việt Nam có thể được coi là cuộc chiến tranh ủy nhiệm của các siêu cường (a proxy war), đồng thời là cuộc chiến tranh ý thức hệ (tự do và cộng sản), và cũng chính là cuộc nội chiến, nồi da xáo thịt. Dứt khoát cuộc chiến 1955-75 do Cộng sản miền Bắc phát động chưa bao giờ là cuộc chiến tranh giải phóng, bởi vì, trong thời chiến tranh, nhân dân miền Nam sống tự do và sung túc gấp trăm lần nhân dân miền Bắc.

Nguyễn Tường Tâm

—————————————-

(1): The Memoirs of Sir Anthony Eden, Full Circle, Cassel & Company LTD, 1960

(2): https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/bo-quoc-phong-vn-sua-mo-liet-si-trung-quoc-12072024190326.html (Bộ Quốc phòng sẽ tôn tạo mộ của các liệt sĩ Trung Quốc có công với cách mạng Việt Nam—RFA–2024.12.07)


 

CSVN dự kiến nhận 16 tỷ USD kiều hối trong năm 2024, vẫn vuốt ve kiều bào

Ba’o Dat Viet

January 2, 2025

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn vừa chia sẻ với báo chí rằng Việt Nam dự kiến sẽ nhận khoảng 16 tỷ USD kiều hối trong năm 2024. Con số này được xem là tương đương mức cao kỷ lục của năm 2023, bất chấp những thách thức từ kinh tế toàn cầu.

Theo ông Bùi Thanh Sơn, kiều hối không chỉ là nguồn tài chính quan trọng mà còn là “nguồn lực rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước”. Cộng đồng người Việt ở nước ngoài đã và đang đóng góp vào nhiều lĩnh vực như kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế và các hoạt động thiện nguyện.

Hiện tại, Việt Nam có gần 6 triệu kiều bào sinh sống và làm việc tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2023, kiều hối về Việt Nam đạt khoảng 16 tỷ USD, trong đó riêng Sài Gòn đã nhận khoảng 9,46 tỷ USD, tăng hơn 43% so với năm 2022 và gấp 3 lần lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Ông Sơn nhấn mạnh, Việt Nam sẽ tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào kết nối với trong nước. Đồng thời, các biện pháp tổng thể và dài hạn sẽ được triển khai để hỗ trợ sự phát triển bền vững của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

Ông cũng bày tỏ tin tưởng rằng kiều bào sẽ tiếp tục phát huy tiềm năng, gắn bó với quê hương và đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước trong tương lai.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam là một trong 10 quốc gia nhận kiều hối lớn nhất thế giới, cùng với các nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Mexico, và Ai Cập. Năm 2023, lượng kiều hối về Việt Nam đạt mức tăng trưởng vượt trội sau giai đoạn chững lại do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.

WB cũng dự báo lượng kiều hối về Việt Nam trong năm 2024 có thể đạt 14,4 tỷ USD. Tuy nhiên, với các chính sách hỗ trợ từ chính phủ, con số thực tế có thể vượt dự báo và đạt mức tương tự năm 2023.

Thư Viện Lịch Sử Việt Nam - Nguy-Cơ Tan-Rã Của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam

Riêng tại Sài Gòn, nguồn kiều hối đã trở thành động lực quan trọng, giúp thúc đẩy đầu tư, hỗ trợ các gia đình và đóng góp vào nhiều lĩnh vực phát triển. Sự tăng trưởng ấn tượng về kiều hối ở thành phố này không chỉ phản ánh sự gắn bó của kiều bào mà còn cho thấy tầm quan trọng của chính sách hỗ trợ kịp thời từ các cấp chính quyền.

Với mức kiều hối ổn định và tăng trưởng cao, cộng đồng người Việt ở nước ngoài không chỉ là nguồn lực tài chính mà còn là cầu nối văn hóa, tri thức và kinh nghiệm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Chính phủ Việt Nam cam kết tiếp tục đồng hành và tạo điều kiện để kiều bào gắn kết hơn với quê hương, đóng góp mạnh mẽ hơn vào sự thịnh vượng của đất nước trong những năm tới.


 

 Động thái kỳ quặc!- Đoàn Bảo Châu

Ba’o Tieng Dan

Đoàn Bảo Châu

30-12-2024

Cậu công an phường nói với vợ tôi rằng tôi là người đứng đầu một tổ chức gọi là Nhà nước Vĩnh Long. Ở đây chỉ có hai trường hợp:

Điệp viên của chính quyền Việt Nam bịa tin để kiếm lương. Các vị nên sa thải điệp viên này. Lần đầu tiên tôi nghe được cái tên này và tôi cũng hỏi vài người thạo tin, chưa ai nghe thấy cái tên Nhà nước Vĩnh Long bao giờ.

Đây là một thủ đoạn bẩn của chính quyền Việt Nam nhằm dọn đường cho một việc làm sai trái tiếp theo là đặt điều, bịa ra một thứ tội tôi không bao giờ làm, từ đấy có cớ để làm những bước tiếp theo.

Như đã nói từ bài đầu, đối với tôi thì các vị nên tư duy khác, làm khác, đừng dùng trò bẩn hay tiểu xảo với tôi. Tôi là người có thế nào, nói thế, không hơn không kém. Tôi đã im lặng chờ, hy vọng các vị nhận thấy bản chất sự việc không có gì rồi về nhà nhưng các vị càng ngày càng quá quắt khiến tôi đành phải lên tiếng phơi bày toàn bộ sự việc trước công luận.

Cậu an ninh khi thẩm vấn đã đe dọa là tôi phải giữ kín sự việc. Ngay lúc ấy, tôi đã thấy buồn cười. Khi một người gặp nguy hiểm, người ấy nên câm lặng để cường quyền ăn thịt mình hay người ấy kêu cứu sự quan tâm của công luận?

Hay những tờ giấy triệu tập, lệnh cấm xuất cảnh này là tài liệu mật của quốc gia?

Tôi đã giữ thái độ thân thiện với tất cả các loại cán bộ an ninh khi làm việc với tôi từ năm 2000. Với đặc thù công việc là một phóng viên cộng tác cho báo chí nước ngoài, tôi phải cà phê bất đắc dĩ với A35, A37, A25, PA25… (tên giờ đã khác và tôi không có ý định cập nhật những cái tên ấy trong đầu làm gì, cuộc đời có nhiều thứ đáng nhớ hơn).

Tôi thậm chí đã bỏ bài viết, xóa một vài câu nhạy cảm khi được yêu cầu và chính bởi thái độ ấy, tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ bị vướng vào vòng lao lý nhưng tôi đã nhầm.

Ở Việt Nam, có trường hợp nào có Giấy Triệu Tập, Lệnh Cấm Xuất Cảnh, Kiến Nghị Khởi Tố mà thoát được tù tội không? Các luật sư bổ sung kiến thức giúp tôi!

Tôi phải lánh nạn, để chờ xem sự việc ra sao. Một mặt các vị bảo người nhà tôi thuyết phục tôi về, một mặt dọa nếu ra khỏi Hà Nội là bị bắt bay, một mặt bảo trường hợp của tôi chưa đến mức bị bắt, mặt khác theo vợ tôi gần 200 km về quê, sáng sớm sục vào nhà nghỉ kiểm tra, cả một đội nằm gần nhà anh vợ tôi rình vài ngày, theo dõi con tôi, cố tình có thái độ đe dọa chứ không phải có thái độ theo dõi kín đáo, theo nó khắp nơi, nó đang học năm cuối đại học mà tới tận trường cấp ba để hỏi chuyện cô giáo cũ, gọi điện hẹn bạn cũ của nó…

Vậy tôi nên tin ở lời nói hay nên cẩn trọng với hành động thực tế của các vị? Tôi may mắn là có thời gian ngay lúc này để viết về sự việc, còn bao nhiêu người bị bắt mà không có cơ hội cho công luận biết sự việc thực sự là gì?

Ở đất nước này có bao nhiêu người chịu oan? Người bị mất đất, bức xúc mà có hành động quá khích là vào tù. Nhưng đơn kiện, đơn kêu cứu không có giá trị. Hàng ngày có bao nhiêu người từ các tỉnh gào khóc ở Hà Nội để cầu xin công lý? Có gia đình cả bố và con gái cùng phải lõa thể để kêu khóc, lôi kéo sự chú ý khi có một đoàn đại biểu đi qua. Ở đất nước này có bao nhiêu nước mắt của dân oan, bao nhiêu thân phận tàn héo trong tù, trong đói nghèo và bất công?

Vậy một người như tôi sẽ phải giả vờ đui mù, câm điếc và cùng hùa với nền báo chí cách mạng để ca ngợi sự vĩ đại của chính quyền sao?

Nếu cứ tiếp tục như vậy thì các vị sẽ biến dân tộc này thành dạng người gì?


 

Nghĩ từ vụ án Hồ Duy Hải-Trần Văn Chánh

Ba’o Tieng Dan

Trần Văn Chánh

29-12-2024

Vụ án Hồ Duy Hải là một vụ án hình sự giết người ở Việt Nam xảy ra vào tối 13-1-2008 tại Bưu Điện Cầu Voi, ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Ngày 21-3-2008, nghi phạm Hồ Duy Hải, sinh năm 1985, bị bắt, rồi sau mấy lần xét xử (sơ thẩm năm 2008, phúc thẩm năm 2009) đương sự bị kết án tử hình về tội giết người.

Do trong quá trình điều tra xét xử còn nhiều vấn đề tranh luận từ rất nhiều giới khác nhau, có hoặc không liên quan đến luật pháp, đến nay tính ra chỉ còn vài ngày nữa là đã tròn 17 năm, người thanh niên họ Hồ 39 tuổi này vẫn còn bị giam giữ mà vẫn chưa được trả tự do hay thi hành án tử.

Đây là một vụ án quá nổi tiếng, kéo dài đến nỗi ai ai trong nước, ngoài nước, kể cả thường dân ở tận những xứ khỉ ho cò gáy cũng đều biết, thiết nghĩ không cần nhắc lại các tình tiết xảy ra vụ án cũng như quá trình xét xử dông dài. Chỉ cần đặt câu hỏi: Hồ Duy Hải thật sự có tội hay không? Nếu không có tội thì tại sao không thả? Nếu có tội thì tại sao không đưa ra hành quyết theo kết luận của hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm? Ai chịu trách nhiệm quyết định cuối cùng về tình trạng lấp lửng rất kỳ quặc này? (Thời xưa thì có vua, bây giờ là ai?)

Kẻ viết bài này chỉ là thường dân bên ngoài, không quen biết gì với gia đình Hồ Duy Hải và cũng không có điều kiện/ khả năng truy cứu sự thật, vốn thuộc trách nhiệm của các ngành chức năng như công an, viện kiểm sát, tòa án. Ngoài ba ngành này, còn có người đứng đầu về mặt chính phủ, trên chính phủ còn có Đảng Cộng sản quang vinh, vì nước vì dân lãnh đạo, tụ lại trong khoảng 200 ông bà ủy viên trung ương, hơn nữa, còn có khoảng 500 đại biểu Quốc hội, chưa kể thêm Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên…, với bốn nhân vật “đứng đầu của đứng đầu” thuộc hàng tứ trụ chỉ huy/ quyết định tất cả. Thế mà tại sao cả cái hệ thống chính trị vốn luôn tự hào là tinh hoa đất nước này trong suốt gần 17 năm trời lại không muốn, không dám, không có khả năng và tỏ ra bất lực trong việc giải quyết dứt điểm một vụ án cỏn con?

Việc nhỏ như vậy làm không xong thì việc lớn thế nào? Ai tin đươc? Thật là hèn kém và nhục nhã!

Điều này càng khẳng định thêm lề lối lãnh đạo tập thể tất yếu dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm tập thể, và cả cái hệ thống chính trị vừa kể trên là bất lực, không còn xài được nữa!

Càng tập thể bao nhiêu thì lại càng cá nhân chủ nghĩa bấy nhiêu. Trong giới lãnh đạo cấp cao, hầu hết đều là một đám gian tham giả đạo đức, chỉ bo bo chia quyền tham nhũng, mà việc có cả chục ông bao gồm trong tứ trụ và hàng thứ trưởng/ bộ trưởng vừa rồi bị kỷ luật, hoặc “vào lò” là một sự minh chứng rất hùng hồn. Rằng các ông chủ yếu chỉ lo giữ ghế, kiếm tiền, không ai dám công khai nói lời trung thực, bênh vực công lý, vì sợ đồng chí dòm ngó bắt bẻ, ảnh hưởng đến tiền đồ; cũng không còn lòng dạ đâu để tỏ chút lòng xót thương đối với số phận nhỏ nhoi của một dân hèn như Hồ Duy Hải và như biết bao người khác nữa…

Bầu chọn, quyết định cho các ông lên theo đúng quy định và quy trình, lại còn trình diễn bỏ phiếu tín nhiệm nữa, nhưng ông nào được phiếu tín nhiệm cao giữ chức lớn cũng đều tào lao hết! Cho thấy tổng thể bao gồm Mặt trận Tổ quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội…, tức cả cái hệ thống chính trị cũng chẳng ra gì!

Hy vọng một số ông lớn chưa bị “cho xin từ chức” sẽ đỡ hơn mấy ông bà lớn vừa bị kỷ luật, thấy được mấu chốt của vấn đề đang xét mà tìm cách sửa đổi sự trục trặc của cả hệ thống một cách căn bản hơn, thay vì chỉ vá víu, lấy cái sai này để chữa cho cái sai khác.

Tạm không truy xét kỹ quá khứ của mấy nhân vật tứ trụ đang còn đương nhiệm, mà chỉ cần quan tâm xem xét trong hiện tại họ đang có chủ trương gì tốt có thể mang lại lợi ích lâu dài cho đất nước hay không. Trong chiều hướng suy nghĩ này, tôi cho rằng lời nói gần đây của ông TBT đương nhiệm “thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn” là một nhận định nghiêm túc, trung thực và đúng đắn, đáng coi là lý luận tiền đề quan trọng về mặt nhận thức để khởi động những công cuộc cải cách chính trị tiếp theo, nhằm thực hiện kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Có lẽ sớm nhận ra hai chữ “thể chế” dường như quá căng, dễ bị các đồng chí bảo thủ và bảo hoàng hơn vua tập trung ném đá, nên ông đã đổi sang một cách diễn đạt uyển chuyển dễ nghe hơn, gọi là tinh giản bộ máy – tiết kiệm ngân sách để tập trung cho vốn đầu tư phát triển, đồng thời với việc đột phá phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Thực chất, những nội dung này cũng gần như đồng nghĩa với cải cách thể chế. Đây là một tư tưởng lớn mang tính đột phá và cách mạng, nhưng nếu đặt trong điều kiện thực tế của nền chính trị Việt Nam XHCN vốn đã cổ hủ, thối nát toàn tập, thì việc thực hiện sẽ đầy khó khăn phức tạp, với rất nhiều thách thức không dễ vượt qua, và kế hoạch lớn tuy xuất phát từ thành ý cải cách của người chủ trương nhưng rất dễ bị rơi vào “thiểu số”.

Cần nhận ra rằng, so với người đồng chức tiền nhiệm, nhân vật đang nắm đại quyền hiện nay hơn hẳn về mặt kiến thức, viễn kiến, có đầu óc thực tế và hiểu rõ hiện tình đất nước hơn, đặc biệt không còn cứ chăm bẵm mãi vào giáo điều chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong khi trên thực tế chẳng còn ai thật sự tin vào chủ nghĩa Mác – Lênin hoặc thực hành theo lời dạy của Bác cả, kể cả bộ sậu mấy chục ông lớn năm nào cũng trình diễn vào thăm lăng Bác đến bốn năm lần!

Tuy nhiên, muốn giải quyết rốt ráo điểm nghẽn thì cần bổ sung nhận rõ thêm một điểm nghẽn mấu chốt nữa, đó gọi là “điểm nghẽn” của điểm nghẽn của điểm nghẽn

Vậy thì, để vượt điểm nghẽn mấu chốt, phải dựa theo ý kiến cải cách của các nhà trí thức có tài năng và thiện chí, và nhất là chiều theo nguyện vọng của toàn dân. Điều này có nghĩa phải dám mạnh dạn sử dụng con người không theo chủ nghĩa lý lịch, tất cả vì quyền lợi đất nước.

Trong vấn đề chống tham nhũng, việc gì đang điều tra xét xử thì cần làm sớm cho xong, nhưng có thể tạm giảm bớt nhiệt độ đốt lò để không gây thêm một số hiệu ứng phụ cũng như tình trạng mất đoàn kết chống phá nhau từ trong nội bộ, ngăn cản công cuộc cải cách. Sau đó có thể ra một nghị quyết, đại khái, “kể từ ngày…, tháng…, năm…, nếu ai còn ăn một đồng nào của dân sẽ bị bắn bỏ…”, theo kiểu nhà độc tài Phác Chính Hy (Park Chung-hee) đã từng áp dụng cho xứ sở Hàn Quốc trước đây.

Một đảng độc tài toàn trị mà đảng viên mất đoàn kết chống phá nhau vì quyền lợi cá nhân thì có khác gì đa đảng, nhưng lại là một thứ đa đảng dị hợm, tật nguyền, chỉ gây hại cho dân.

Điều quan trọng đối với người có chí lớn cải cách chính trị, làm nên trang sử mới là phải dựa vào toàn dân, làm sao cho mọi người tâm phục khẩu phục, có thể áp đảo và lôi cuốn dần dần cả các thành phần bảo thủ.

Cần giải quyết dứt điểm những việc gây dư luận xấu kéo dài, từ những việc nhỏ như vụ án Hồ Duy Hải, để thu phục nhân tâm. Nên thực hiện phương châm minh triết và nhân bản về cách áp dụng luật pháp của người xưa: “Nếu tội mà còn nghi thì nên tha, để mở rộng về việc hình”.

Cải cách mạnh mẽ, quyết liệt bộ máy hành chánh và tư pháp, xử án độc lập (không có những vụ “bỏ túi” hoặc xử kín), nâng cao vai trò của luật sư. Đơn giản hóa mọi thủ tục hành chánh, đặc biệt các thủ tục về nhà đất đã làm khổ dân từ mấy chục năm nay. Coi cải cách hành chánh cũng là một cuộc cách mạng, nếu làm thành công sẽ có tác dụng và giá trị tương đương một cuộc cải cách thể chế chính trị mà ĐCS vẫn không bị mất quyền lãnh đạo.

Mở rộng dân chủ trong dân. Thực hiện trên thực chất và đúng theo Điều 25 của Hiến pháp 2013 về các quyền tự do. Nên phóng thích ngay những người bất đồng chính kiến ít nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Cùng lắm là “thay đổi biện pháp ngăn chặn” đối với họ bằng nhiều hình thức uyển chuyển thích hợp khác nhau. Việc làm này hoàn toàn không tốn đồng xu nào mà còn có thể thu hút sự hỗ trợ mạnh hơn về nhiều mặt của các nước đã nâng tầm ngoại giao chiến lược toàn diện với Việt Nam.


 

Cựu Không Quân Lê Xuân Nhị và chuyến bay cứu các chiến sĩ nhảy toán

Ba’o Nguoi-Viet

December 28, 2024

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Ông Lê Xuân Nhị, cựu Không Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), tốt nghiệp Khóa 4/70 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, sau đó tốt nghiệp khóa bay 39, L-19 Hoa Tiêu Quan Sát Nha Trang.

Không Quân Lê Xuân Nhị tại New Orleans, Louisiana, năm 2000. (Hình: Lê Xuân Nhị cung cấp)

>> Cựu Không Quân Lê Xuân Nhị kể chuyện lần đầu… ở tù lính

Ra trường, ông bắt đầu đi bay hành quân đúng vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Ông phục vụ tại Phi Đoàn 114, Không Đoàn 62, Sư Đoàn 2 Không Quân QLVNCH, đóng tại Nha Trang cho đến ngày miền Nam Việt Nam bị thất thủ.

Kể với phóng viên nhật báo Người Việt tại Little Saigon, ông nhớ lại khoảng đầu năm 1974, giặc bỗng tấn công và tràn ngập đồn Bu Prăng Quảng Đức. Đồn Địa Phương Quân này có một vị thế chiến lược quan trọng, vì nằm giữa con lộ duy nhất nối liền Quảng Đức và Ban Mê Thuột. Quận Quảng Đức sống âm thầm cô độc giữa những khu rừng già trùng điệp, nên chịu số phận hẩm hiu. Cả thành phố chỉ có được một khu chợ chính nằm trên con đường dài không quá 100 thước.

Thiếu Úy Nhị kể: “Nhỏ vậy, nghèo vậy, hiền lành như vậy, nhưng Quảng Đức với tôi có nhiều kỷ niệm vô cùng. Ai cũng sợ đi Quảng Đức, chỉ có tôi, Đại Úy Hưởng, Đại Úy Nhơn là cóc cần. Chiều chiều, chúng tôi hay rủ rê anh em xách tàu bay qua Lâm Đồng nhậu nhẹt với Thiếu Tá Trương Minh Dũng, tham mưu trưởng tiểu khu Quảng Đức, hay lên Đà Lạt hay qua Ban Mê Thuột chơi. Quảng Đức là một quận lỵ hiền lành, dường như giặc cũng chê cái thành phố này nên lấy xong Bu Prăng, địch còn tính kéo luôn quân về vây hãm Quảng Đức. Thế là chúng tôi có nhiều việc làm.”

Chiến dịch tái chiếm Bu Prăng, vào lúc căng thẳng nhất đã có đến sáu phi hành đoàn L-19 túc trực ngày đêm để làm việc với một Liên Đoàn Biệt Động Quân, một trung đoàn của Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Chiến Đoàn III Xung Kích Lực Lượng Đặc Biệt. Tuy từ từ, nhưng QLVNCH cũng chặt đứt được khúc đuôi của giặc, giải tỏa áp lực cho Quảng Đức đồng thời tiến trở lại Bu Prăng.

Cứu chiến sĩ nhảy toán của Nha Kỹ Thuật

Trong thời gian biệt phái cho Quảng Đức, tại Biệt Đội Không Quân vào buổi sáng, Thiếu Úy Nhị có lệnh bay sớm và bay lâu nên về thì mệt nhoài, và ông cũng không còn nhớ lúc ấy những phi hành đoàn khác đã bỏ đi đâu mà chỉ còn có mình ông ở lại biệt đội. Ông nghĩ, có lẽ họ chở nhau đi ăn cơm.

Thiếu Úy Nhị đang nằm thiu thiu thì bỗng có một chiếc xe jeep nhà binh phóng như bay rồi thắng ngay trước cửa biệt đội. Trên xe là những quân nhân mặc quân phục rằn ri bước thẳng vào phòng hành quân của Biệt Đội.

Thiếu Úy Nhị không biết mấy ông muốn gì đây mà bộ tịch coi ghê quá. Ông liền dựng người trở dậy, thọc vội cái áo bay vào người thì mấy ông quân phục rằn ri cũng vừa tới trước mặt. Thì ra toàn là những sĩ quan thuộc Sở Liên Lạc của Nha Kỹ Thuật, gồm có một ông trung úy và hai ông đại úy, mặt mày ai nấy coi có vẻ nghiêm trọng vô cùng.

Ông Lê Xuân Nhị tại Dallas, Texas, năm 2007. (Hình: Lê Xuân Nhị cung cấp)

Một ông đại úy hỏi ông Nhị: “Em là phi hành đoàn duy nhất ở đây?” Thiếu Úy Nhị trả lời: “Dạ đúng đại úy, không biết mấy ông kia đi đâu hết rồi. Đại úy cần gặp ai?” Nghe như thế thì khuôn mặt mấy người sĩ quan Nha Kỹ Thuật thoáng lên vẻ thất vọng. Thiếu Úy Nhị nói tiếp: “Nếu đại úy muốn kiếm ông biệt đội trưởng, đại úy có thể dùng điện thoại đây gọi về cho trung tâm hành quân tiểu khu, chắc biết ổng ở đâu.” Một ông đại úy lên tiếng sau một vài giây ngần ngừ: “Chúng tôi có một việc cần anh giúp đỡ, nếu anh giúp được chúng tôi cám ơn anh vô cùng.”

Ông Nhị nhớ lại: “Lời nói khẩn thiết và chậm rãi của vị sĩ quan Nha Kỹ Thuật làm cho tôi ngạc nhiên. Một thằng thiếu úy Không Quân hạng bét như tôi thì giúp gì được mấy ông rằn ri thứ dữ này? Nhưng cứ nhìn điệu bộ và cách ăn nói thì không phải để đùa dai với tôi. Trong một giây phút, tôi cảm thấy khoái chí vì mình tự nhiên được trở nên một nhân vật quan trọng.”

Người sĩ quan Nha Kỹ Thuật nhìn thật sâu vào mắt ông Nhị, nói chậm rãi: “Một toán Lôi Hổ của chúng tôi thả xuống lần trước đã bị Việt Cộng phát hiện, bị bao vây và tấn công mấy ngày. Tụi nó đã chạy thoát được nhưng đang bị phân tán mỗi người một nơi và lạc trong rừng. Chúng tôi muốn nhờ em giúp tôi bay lên để gom chúng nó về một LZ an toàn.”

Tưởng gì chứ đi bay kiếm Lôi Hổ bị lạc và chọn bãi đáp thì quá thường đối với Thiếu Úy Nhị. Ông chịu nhất là cái tài chiếu kiếng của mấy ông này. Nhiều khi phi công Nhị bay rất cao, giữa rừng già thăm thẳm mênh mông mà mấy ông Lôi Hổ chỉ cần chiếu kiếng một phát là ông nhìn thấy ngay.

Thiếu Úy Nhị nói với một vị sĩ quan của Nha Kỹ Thuật: “Đại úy cứ việc gọi về trung tâm hành quân, yêu cầu một phi vụ là tôi cất cánh liền.” Nhưng đại úy lắc đầu nói: “Nếu xin được thì tôi đâu có đến đây kiếm anh.”

Ông Nhị kể lại: “Thì ra vậy. Không Quân chúng tôi khi được biệt phái đi bay yểm trợ cho các đơn vị bạn, mỗi ngày trung tâm liên lạc hành quân đều thông báo cho bộ tư lệnh chiến trường biết có bao nhiêu tàu khả dụng, bao nhiêu phi vụ có thể cất cánh được. Số phi vụ này được tư lệnh chiến trường, tùy theo mức độ cần thiết và nhu cầu, chia ra cho các đơn vị tham chiến.”

Không Quân Lê Xuân Nhị (trái) và nhà thơ Trạch Gầm trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật 2022 tại Little Saigon. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

“Khi một đơn vị cần phi cơ yểm trợ, họ chỉ việc gọi cho trung tâm liên lạc hành quân. Nơi này, tùy theo số lượng phi vụ đã được cấp phát trước, sẽ cho chúng tôi cất cánh để làm việc với họ. Tôi không tò mò hỏi thêm nhưng biết chắc có lẽ đơn vị Lôi Hổ này đã xài hết những phi vụ của mình, hoặc vì tình trạng thiếu thốn máy bay nên không xin được một phi vụ nào nữa cả, đành phải đau xót nhìn những đứa con của mình bị rượt đuổi giữa rừng già,” ông kể thêm.

Theo luật của Quân Chủng Không Quân QLVNCH, ngoài những phi vụ hành quân hay bay huấn luyện, bay thử phi cơ, nếu phi công nào cất cánh không có phi vụ lệnh đàng hoàng là sẽ bị ở tù hoặc đưa ra tòa án quân sự. Thân bại danh liệt là cái chắc.

Ông Nhị tâm tình: “Thật ra, trong suốt cuộc đời bay bổng, chúng tôi cũng đã nhiều lần cất cánh lậu để đi ăn nhậu hay chở bạn bè đi chơi, nhưng chúng tôi đều luôn luôn có phép ngầm của trung tâm liên lạc hành quân. Nhiều khi, những người hành khách mà chúng tôi chở đi chẳng ai khác hơn là ông sĩ quan trưởng phòng liên lạc hành quân ‘dù’ đi chơi. Nhưng đó là chuyện thời bình, mỗi khi không có việc gì để làm. Điều quan trọng là trong bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng tôi không bao giờ dám cất cánh lậu mà trung tâm liên lạc hành quân không biết. Hôm nay, giữa lúc khói lửa ngút trời như thế này, không ai dám nghĩ đến việc xách tàu đi lậu đâu.”

“Nhìn những vị sĩ quan của Nha Kỹ Thuật ngồi trước mặt, lòng tôi bỗng tự dưng dâng lên một niềm kính phục kỳ lạ. Giữa lúc có nhiều ông sĩ quan có những hành vi không tốt thì những sĩ quan trẻ tuổi này, mặt mày lo âu, mắt ai nấy ngầu đỏ vì thiếu ngủ đang ngồi chờ sự quyết định của tôi. Nếu tôi đồng ý, các vị sẽ cứu được những người lính của mình, những người tuy không phải bà con ruột thịt, nhưng tình chiến hữu khắng khít còn cao hơn máu mủ ruột thịt,” ông nói.

Ông tâm sự: “Nếu tôi từ chối, chẳng ai làm gì tôi cả và tôi sẽ không bị lôi thôi rắc rối với phi đoàn hay pháp luật của quân đội. Nhưng nếu làm vậy, tôi biết những người lính Lôi Hổ anh dũng kia có thể bị địch bắt hay tàn sát và lương tâm tôi, cái lương tâm của một sĩ quan QLVNCH, dù mang một cấp bậc rất nhỏ là thiếu úy, nhưng sẽ xâu xé tôi suốt đời.”

“Tôi lại nghĩ đến những lần cất cánh trái phép để đi chơi bời, đi ăn nhậu. Xăng chính phủ, tàu bay chính phủ, tôi sử dụng trái phép như thế chẳng khác gì tôi phạm tội tham nhũng, ăn cắp của công. Tôi chửi bới người khác tham nhũng, còn tôi, ai sẽ chửi bới tôi? Lớn ăn theo lớn, nhỏ phá theo nhỏ, còn gì là cái gia tài của quốc gia chứ,” ông Nhị tâm tình.

Không Quân Lê Xuân Nhị tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ Westminster năm 2023. (Hình: Lê Xuân Nhị cung cấp)

Tình huynh đệ chi binh, tình chiến hữu

Ông đại úy Nha Kỹ Thuật mời Thiếu Úy Nhị điếu thuốc, và cười cầu tài. Ông Nhị thấy nụ cười của người đàn anh trong quân đội sao vừa buồn mà lại vừa oai dũng, vừa chịu đựng, lại vừa quyết liệt. Rồi nói giọng như người anh khuyên bảo đứa em trai: “Thiếu úy cứ tính đi. Anh em chúng tôi không muốn làm cho thiếu úy kẹt. Nhưng nếu giúp được chúng tôi, chúng tôi sẽ cám ơn vô cùng.”

Vì trách nhiệm, vì tình chiến hữu sắt son, vì muốn cứu mấy người lính của ông ta, một vị đại úy oai hùng của Nha Kỹ Thuật đã mời thuốc lá và cười cầu tài với một thiếu úy Không Quân trẻ.

Vì tình huynh đệ chi binh, tình chiến hữu, Thiếu Úy Nhị nghĩ trong lòng: “Tôi bỗng thấy trái tim mình như rướm máu, lòng dạ xót xa bồi hồi. Tự nhiên, tôi thấy thương quân đội tôi, dân tộc tôi vô cùng. Ngày nào quân đội tôi còn những sĩ quan như thế này, ngày đó chúng tôi và những người đàn em của ông ta còn có lý do và để hãnh diện chiến đấu.”

Ông Nhị kể tiếp: “Chính những người sĩ quan của một binh chủng hung hãn nhất quân lực ngồi trước mặt tôi ngày hôm nay làm cho tôi nghẹn ngào mà hãnh diện, vui mà buồn. Tôi nhớ đến cái chết của thằng em tôi tại chiến trường Tân Cảnh ngập máu năm nào. Mỗi lần nghĩ về em, lòng tôi như bị ai đâm lút cán một lưỡi dao. Tôi lại nhớ đến lời nói của thân phụ, ‘Không thể sống mãi như một người vô trách nhiệm.’ Trách nhiệm của tôi, một sĩ quan xuất thân Trường Bộ Binh Thủ Đức, một phi công của QLVNCH trong hoàn cảnh này là gì? Là bằng mọi cách, phải cứu cho bằng được những chiến sĩ Lôi Hổ can trường kia. Tôi cũng đã suy nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra cho tôi đó là đi tù, ‘cát xê ga lông’ (bị giảm cấp bậc), ra tòa án quân sự… Và cũng có thể, sẽ chẳng có gì xảy ra cho tôi hết. Tôi gật đầu, với câu nói quyết định, ‘Được, tôi sẽ cất cánh mà khỏi cần phi vụ lệnh. Đại úy cho người đi bay với tôi.’”

Ba khuôn mặt đang buồn thảm bỗng trở nên sáng ngời. Một đại úy đứng dậy, đưa hai tay ra nắm lấy vai Thiếu Úy Nhị, giọng hớn hở: “Em… em bay cho tụi tôi thật à? Thế thì quý hóa quá, hay quá, tốt quá. Thế mới là huynh đệ chi binh chứ. Mà cất cánh bất ngờ như vậy có sao không? Có kẹt gì cho em không?” Thiếu Úy Nhị cười nói: “Không sao đâu đại úy, cùng lắm thì bị phi đoàn trưởng xài xể chút thôi.”

“Tôi đứng dậy ra đầu giường để chuẩn bị dụng cụ phi hành. Khi thấy tôi lôi cây AK-47 từ trong góc giường ra, một người hỏi, ‘Anh thích xài AK ư?’ Tôi hãnh diện khoe, ‘Dạ, quà của Trung Tá Xuân, tham mưu trưởng quân đoàn cho đấy,’” ông Nhị nói thêm. (Lâm Hoài Thạch) [qd]


 

ÔN CỐ TRI TÂN

Nghệ Lâm Hồng

“Ngành giáo dục của Miền Nam trước đây không có ngày vinh danh Nhà Giáo, không có danh hiệu giáo viên dạy giỏi, không thầy giáo ưu tú cũng chẳng có thầy giáo nhân dân, thế mà các Thầy dạy chúng tôi ai cũng dạy giỏi, ai cũng đạo đức, công tâm giảng dạy từ tiểu học cho đến đại học. Bù cho những danh hiệu hoa mỹ ấy, lương tiền của nghề giáo khá cao, các Thầy không phải bận tâm gì hết ngoài việc lo nghiên cứu, học tập để giảng dạy học sinh cho tốt, cho giỏi.

Trong suốt 12 năm học, tiểu học, trung học đệ nhất cấp (cấp 2), đệ nhị cấp (cấp 3), tôi không thấy có hiệu trưởng, cán bộ của ty giáo dục hay bất kỳ ai đến dự giờ, đánh giá giáo viên, ở đại học lại càng không có chuyện đó, thầy giảng dạy, thi cử kiểu gì thì chúng tôi học tập và thi cử kiểu đó (3). Phải chăng đây là sự tôn trọng phương pháp dạy riêng của mỗi thầy giáo?

Sách giáo khoa như tôi đã nêu ở trên rất độc lập, tùy theo từng trường, từng ty thậm chí tùy thuộc vào giáo viên. Điều này chứng tỏ thầy giáo có quyền tự do chọn sách giáo khoa, chọn phương pháp giảng dạy sao cho học sinh học tốt nhất.

Các trường tiểu học, trung học đệ nhất cấp, đệ nhị cấp đều bình đẳng, giữa nông thôn và thành thị giữa công lập và tư thục. Không có trường chuyên, lớp chọn, không có trường điểm, trường chất lượng cao… Lên cấp ba tùy năng lực, học sinh tự do chọn ban mà mình yêu thích. Ban B (còn gọi ban Toán) dành cho học sinh có năng khiếu về Toán – Lý – Hoá. Ban C (ban văn chương) cho học sinh giỏi văn chương, sinh ngữ. Ban A (ban vạn vật) cho học sinh có năng khiếu học Vạn Vật – Lý – Hoá.

Trong 12 năm học chỉ có 3 kỳ thi chính rất nghiêm túc và khó: Thi vào đệ thất (lớp 6) để vào học trường công lập. Học lớp 11 thi tú tài I (từ năm 1973 bỏ luôn kỳ thi tú tài I), đậu tú tài I mới được lên học lớp 12 để thi tú tài II. Đậu tú tài II thì bước chân vào Đại Học có thể ghi danh hoặc thi tuyển. Ngoài các kỳ thi đó, tôi không thấy kỳ thi học sinh giỏi môn này, môn kia, cấp này, cấp kia…

(Năm 1959 bỏ phần thi vấn đáp rồi đến niên học 1966–67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp)

Giữa các trường không có sự phân biệt học sinh trường này hơn học sinh trường kia, giáo viên dạy trường này hơn giáo viên dạy trường kia, xã hội cũng công nhận như vậy…”

( Sư Phạm Và Bằng Hữu )


 

Những Tiếng Nói Phản Biện: Hãy Cùng Tôi Bảo Vệ Sự Thật – Đoàn Bảo Châu

Ba’o Tieng Dan

Đoàn Bảo Châu

26-12-2024

Các bạn chính là “luật sư” của tôi! May be an image of 1 person and hat

Mỗi lần các bạn nhấn like, để lại một nhận xét công bằng hay chia sẻ bài viết, các bạn đã góp phần như những luật sư cất tiếng nói bảo vệ thân chủ trước toà án. Ở Việt Nam, nơi mà hiện tượng “án bỏ túi” diễn ra phổ biến, và luật sư nhiều khi không thể bảo vệ được thân chủ, thì những hành động nhỏ của các bạn trên mạng xã hội lại mang ý nghĩa lớn lao.

Những tiếng nói công bằng ấy có thể giúp lan truyền sự thật, tạo nên giá trị truyền thông, và góp phần thúc đẩy một xã hội công bằng hơn.

Cam Kết Minh Bạch

Tôi tự tin kêu gọi sự ủng hộ của các bạn vì tôi sẽ luôn tuân thủ hai nguyên tắc:

  1. Trung thực tuyệt đối: Tôi sẽ công khai và chia sẻ toàn bộ tư liệu liên quan đến vụ án, bao gồm 6 clip mà công an Việt Nam đã sử dụng để buộc tội tôi. Các bạn sẽ có cơ hội kiểm chứng từng chi tiết.
  2. Cuộc sống minh bạch: Tôi là người sống khép kín, chỉ tập trung vào viết sách, luyện và dạy võ, làm phóng viên ảnh và phiên dịch cabin. Tôi không tham gia hội nhóm hay đảng phái. Tôi chỉ lên tiếng như một công dân có trách nhiệm, và tôi không có bất kỳ hoạt động nào chống chính quyền.

Phản Biện Xã Hội – Động Lực Của Tiến Bộ

Protest and Objection 3139659 Vector Art at VecteezyMột xã hội muốn phát triển cần có không gian cho phản biện. Phản biện không phải là chống đối, mà là cách để tìm ra chân lý. Từ luận án tốt nghiệp cho đến các dự án lớn, không có phản biện thì không có tiến bộ.

Từ thời các triết gia Hy Lạp cổ đại như Socrates, Plato, Aristotle, phản biện đã là công cụ để thúc đẩy sự hiểu biết. Nhưng nếu chính quyền Việt Nam tự nhận mình là “đỉnh cao trí tuệ” và luôn đúng một cách tuyệt đối, tại sao chúng ta lại có một xã hội đầy tham nhũng, đạo đức xuống cấp, và không có đóng góp đáng kể nào cho nhân loại trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật?

Chính quyền sợ phản biện vì nó làm lộ ra những yếu kém. Nhưng chính phản biện mới là cách để xây dựng một xã hội công bằng, nơi mọi tiếng nói đều được lắng nghe.

Lời Kêu Gọi

Hiện tại, sinh mạng của tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi có thể bị bắt và bịt miệng bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh này, mỗi hành động của các bạn – một like, một nhận xét công tâm, một lần chia sẻ – đều rất quan trọng. Đó là cách để các bạn không chỉ bảo vệ tôi mà còn bảo vệ giá trị của sự thật và công lý.

Hãy cùng tôi lan toả thông điệp này. Một xã hội tốt đẹp hơn cần sự góp sức của từng người.


 

Xóm đạo Phạm Thế Hiển – Sài Gòn đông nghẹt người đón Giáng sinh

Ba’o Dat – Viet

December 24, 2024

Tối 24/12, không khí Giáng sinh tràn ngập tại xóm đạo Phạm Thế Hiển (Q.8, Sài Gòn), thu hút dòng người từ khắp nơi đổ về. Những con đường vốn yên ắng hàng ngày bỗng chật kín người và xe, tạo nên một bầu không khí rộn ràng, đầy màu sắc của mùa lễ hội.

Vào lúc 19h, tuyến đường Phạm Thế Hiển bắt đầu đông nghịt. Đặc biệt, khu vực giáo xứ Bình Thái ghi nhận tình trạng xe cộ di chuyển chậm, người dân phải nhích từng chút một để tiến lên. Tuy vậy, thời tiết mát mẻ dễ chịu khiến không ai cảm thấy khó chịu, thay vào đó là sự hào hứng hòa mình vào không khí Giáng sinh.

Dọc tuyến đường, các nhà thờ lớn như Bình Thái, Bình An, Bình An Thượng, Bình Thuận, Bình Sơn thu hút đông đảo người dân đến chụp ảnh, tham quan và tận hưởng không khí lễ hội. Những ánh đèn rực rỡ, tiểu cảnh hang đá và cây thông lộng lẫy tạo nên khung cảnh vừa ấm cúng vừa lung linh, mang đến niềm vui cho mọi người.

Để tránh tình trạng ùn tắc, lực lượng chức năng đã có mặt từ sớm để phân luồng và điều tiết giao thông. Sự phối hợp nhịp nhàng của các đội tuần tra giúp đảm bảo người dân di chuyển thuận lợi trong dòng người đông đúc.

Xóm đạo Phạm Thế Hiển – Điểm đến quen thuộc mùa Giáng sinh

Xóm đạo Phạm Thế Hiển từ lâu đã là biểu tượng của mùa Giáng sinh tại Sài Gòn. Với sự đầu tư công phu vào trang trí, từ những dãy đèn đầy sắc màu, cây thông Noel rực rỡ, đến các hang đá mô phỏng sinh động, nơi đây luôn mang lại cảm giác ấm áp và gắn kết.

Sự đông đúc tại xóm đạo vào đêm Giáng sinh không chỉ phản ánh tinh thần lễ hội mà còn khẳng định niềm vui khi mọi người cùng nhau chia sẻ những khoảnh khắc an lành, hạnh phúc trong mùa lễ hội này.


 

Chỉ thị bí mật và các cuộc đàn áp làm tê liệt xã hội dân sự ở Việt Nam

Bài viết của Allegra Mendelson cho chuyên mục Điều tra của RFA
2024.12.21

 (Minh họa bởi Amanda Weisbrod; hình từ Adobe Stock)

Những năm gần đây, Bình đã quen sống trong trạng thái sợ hãi thường trực. Giống như nhiều người làm việc trong lĩnh vực xã hội dân sự ở Việt Nam, người phụ nữ 44 tuổi này luôn ám ảnh rằng: Cô có thể bị bắt giam vào một ngày bất kỳ nào đó, đơn giản chỉ vì đi làm.

“Tất cả mọi người bây giờ đều trở nên cảnh giác” – cô nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong một cuộc trao đổi qua điện thoại vào tháng 11 vừa qua. “Những người tôi biết đã bị bắt giữ vì những lý do không rõ ràng”.

Bình, người đã yêu cầu chúng tôi sử dụng tên giả vì lý do an ninh, đã làm việc hơn 20 năm trong lĩnh vực trợ giúp nhân đạo cho một số tổ chức cả trong nước và quốc tế ở Việt Nam. Ở mỗi tổ chức này, cô đều đã tránh được sự dọa nạt và đàn áp của Đảng Cộng sản (ĐCS) cầm quyền ở Việt Nam. Nhưng gần đây, tình hình đã trở nên tồi tệ một cách rõ rệt.

Mặc dù làm việc cho một tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế, Bình cho hay cứ ba tháng một lần, toàn bộ nhân viên của cơ quan cô thường bị triệu tập lên văn phòng Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam – cơ quan quản lý các tổ chức NGO quốc tế – để được “phỏng vấn”.

“Họ thường hỏi chúng tôi đã đi đâu gần đây và chúng tôi đang làm gì. Điều này rất kỳ cục. Rõ ràng là họ muốn chúng tôi biết là chúng tôi đang bị giám sát” – cô nói.

Bình cho biết, một số lần khác, công an đã theo dõi cô và đồng nghiệp khi họ xuống làm việc tại cơ sở.

Cảnh sát đứng gác bên ngoài các tòa nhà chính phủ ở Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2024. (Allegra Mendelson/RFA)

Thậm chí các cơ quan của Liên Hợp Quốc cũng bị “giám sát chặt chẽ” và o ép  – Bình, người có kinh nghiệm cộng tác với một số cơ quan của Liên Hợp Quốc (LHQ), cho biết.

“Có những lúc người ta cắt điện và yêu cầu chủ nhà không cho họ thuê văn phòng nữa” – cô nói.

RFA đã liên lạc với Văn phòng Điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam – nơi quản lý các cơ quan của LHQ  tại Việt Nam – để yêu cầu bình luận về thông tin này nhưng đã không nhận được phản hồi.

Bình đã làm mọi thứ có thể để bảo vệ bản thân và cho đến nay những biện pháp này vẫn tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên những người khác, trong đó có cả những đồng nghiệp và bạn thân của cô, đã không được may mắn như vậy.

Theo Dự án 88, một tổ chức nhân quyền Việt Nam, trong bốn năm qua, gần một chục nhân viên của các tổ chức NGO đã bị bắt hoặc giam giữ chỉ vì làm công việc của họ. Dự án 88 cũng cho biết ít nhất bốn người trong số này hiện vẫn còn đang bị tù đày cùng với hơn 175 nhà hoạt động khác.

Những cuộc bắt giữ này – nhiều trường hợp được tiến hành với cáo buộc trốn thuế hoặc các cáo buộc khác mà các nhà giám sát luật pháp nói là có động cơ chính trị – là một phần của một cuộc đàn áp rộng lớn hơn do chính phủ tiến hành nhằm hạn chế xã hội dân sự ở Việt Nam.

Hàng loạt các quy định mang tính bóp nghẹt, rất nhiều trong số đó được giấu kín, đã tạo cơ sở cho nỗ lực thắt chặt quyền lực của ĐCS.

Một trong số đó và có thể xem là hà khắc nhất, là Chỉ thị 24 – được ban hành tháng 7/2023. Trong bối cảnh Việt Nam đang gia tăng toàn cầu hóa, văn bản này lại coi tất cả các hoạt động hợp tác với nước ngoài là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.

Chỉ thị bí mật mà Dự án 88 tiếp cận được vào hồi đầu năm 2024 này chưa bao giờ được chính quyền Việt Nam công bố. Văn bản này cung cấp thông tin chi tiết về sự phản đối của nhà cầm quyền Việt Nam với quyền tự do biểu đạt, viện trợ quốc tế, công đoàn và thậm chí với việc đi nước ngoài. Theo giới chuyên gia, tác động của chỉ thị này là việc hình sự hóa một cách hiệu quả các hoạt động vận động chính trị, xã hội.

Tháng 10 vừa qua, chính phủ đã củng cố những biện pháp này bằng Nghị quyết 126 – một văn bản đã bổ sung thêm những hạn chế đối với việc thành lập bất kỳ loại hình hội nhóm nào ở Việt Nam.

Đàn áp được triển khai cùng với chiến dịch chống tham nhũng rộng khắp khiến phần lớn xã hội dân sự rơi vào bế tắc. Bầu không khí sợ hãi gia tăng, vì vậy, các chính trị gia không sẵn sàng thông qua các dự án và kinh phí.

Trong bốn tháng qua, RFA đã trao đổi với hơn một chục nhà hoạt động, nhân viên các tổ chức NGO, các nhà tài trợ quốc tế, các nhà ngoại giao và các chuyên gia để tìm hiểu xem các chỉ thị, mệnh lệnh của chính quyền và các cuộc đàn áp sau đó đã được tăng cường như thế nào và ảnh hưởng của chúng đối với những người làm việc trong lĩnh vực xã hội dân sự ở Việt Nam.

Lo sợ về ảnh hưởng của nước ngoài

Xã hội dân sự không phải lúc nào cũng là mục tiêu đàn áp của chính phủ Việt Nam. Một thập kỷ trước, rất nhiều người đã có cái nhìn lạc quan hơn nhiều.

Nguyễn Tiến Trung, một nhà hoạt động dân chủ hiện sống tại Đức, từng bị bắt vào năm 2009 vì chống đối ĐCS. Ông nói rằng ông được ra tù 5 năm sau đó – vào thời điểm mà sự hỗ trợ đối với xã hội dân sự khác xa so với hiện nay.

“Khi tôi được ra tù vào năm 2014, các tổ chức xã hội dân sự mọc lên như nấm ở Việt Nam. Rất nhiều tổ chức, cả đã đăng ký và không đăng ký [hoạt động] với chính quyền cộng sản Việt Nam, đều hoạt động tự do thoải mái” – ông Trung nói.

Nhà hoạt động Nguyễn Tiến Trung, trong một bức ảnh không ghi ngày tháng. (Trung Nguyen Tien)

Nhưng vào khoảng năm 2016, tình hình bắt đầu thay đổi. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nghỉ hưu và ông Nguyễn Phú Trọng, người khi đó là Tổng Bí thư ĐCSVN, tái đắc cử cho nhiệm kỳ thứ hai. Ông Trọng đã qua đời vào giữa năm nay.

Không giống như ông Dũng – người tương đối  thiện cảm với xã hội dân sự – ông Trọng có một cách tiếp cận rất khác. Ông không đồng tình với các mối quan hệ nồng ấm, thân thiện mà ông Dũng đã xây dựng với phương Tây và bắt đầu triển khai một loạt các biện pháp để hạn chế ảnh hưởng của nước ngoài.

Việt Nam có mạng lưới các tổ chức hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau, từ các nhóm không chính thức, không đăng ký ở cấp địa phương tới những tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGOs) lớn như Save the Children hay Oxfam.

Hầu hết các tổ chức NGO quốc tế đăng ký hoạt động với Bộ Ngoại giao trong khi các tổ chức NGO trong nước lại đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ. Những biện pháp được đưa ra dưới thời ông Trọng nhắm vào mục tiêu tăng cường sự quản lý giám sát của chính phủ đối với các tổ chức này.

Bắt đầu từ năm 2020, chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt các nghị định và quyết định để ngăn chặn tiếp cận đối với các nguồn tài trợ nước ngoài và gia tăng việc kiểm soát thông qua cái mà hai báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc gọi là “những đòi hỏi nặng nề quá đáng” cho các hoạt động.

“Các lãnh đạo ĐCS muốn duy trì sự độc quyền về quyền lực của họ. Họ lo ngại rằng  ảnh hưởng của nước ngoài có thể làm mất ổn định quyền kiểm soát của họ. Các tổ chức NGO quốc tế và các thể nhân/tổ chức nước ngoài thường quảng bá, thúc đẩy các giá trị dân chủ và nhân quyền – điều mà ĐCS xem là những mối đe dọa đối với chế độ độc đảng cầm quyền của mình” –  ông Trung, nhà hoạt động dân chủ nói.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng, các quan ngại đặc biệt tập trung vào những ảnh hưởng của phương Tây trong khi các nước, ví dụ như Trung Quốc và Nga là “những hình mẫu cho Đảng Cộng sản [Việt Nam] noi theo”.

Các  bộ ngành quản lý các tổ chức NGO ở Việt Nam đã không hồi đáp những đề nghị bình luận của RFA cho bài viết này.

Không gian bị bóp nghẹt

Trong môi trường hoạt động này, vô số tổ chức phi chính phủ đã phải đóng cửa trong những năm gần đây.

Trong số đó có Towards Transparencey, một chi nhánh của tổ chức Transparency International toàn cầu, đã phải đóng cửa vào cuối năm 2021 do những quan ngại về an ninh. Không lâu trước đó, chính quyền thành phố Hà Nội đã tước tên miền trang web của tổ chức này – điều mà nhiều người xem là một động thái đe dọa sau khi website này đăng tải một tấm bản đồ thiếu các đảo ở Biển Đông [mà Việt Nam, Trung Quốc và một vài nước trong khu vực] đang tranh chấp chủ quyền.

Hội nghị triển khai Chỉ thị 24, tại Hà Nội ngày 21/12/2023. (Bộ Công an Việt Nam)

Trung tâm Phát triển Cộng đồng LIN – một mạng lưới mang tính đầu mối của 400 tổ chức phi lợi nhuận đã công bố sẽ đóng cửa vào tháng 1/2023 mà không nêu lý do cụ thể và Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ (SENA) đã buộc phải giải thể vào tháng 7/2023 – một năm sau khi giám đốc của họ bị bắt và cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” vì đã gửi các góp ý xây dựng ĐCS.

Chính quyền cũng nhắm vào các cá nhân, tiêu biểu bằng việc sử dụng luật thuế. Luật lệ xung quanh vấn đề chiếm dụng thuế hiện khá mơ hồ và có thể bị lợi dụng để truy tố bất cứ ai mà chính quyền muốn ngăn chặn – ông Trung nói.

Kết quả là “nỗi sợ hãi bị bắt giữ bởi cáo buộc ‘trốn thuế” đã tạo ra sự cẩn trọng, nếu không muốn nói là sự tê liệt hoàn toàn trong lĩnh vực này” – ông nói.

Một trong những vụ án nổi nổi bật nhất trong những năm gần đây là việc bắt giữ nhà hoạt động môi trường Hoàng Thị Minh Hồng vào tháng 5/2023. Cô đã bị kết án 3 năm tù về tội trốn thuế nhưng đã được thả sớm vào tháng 9 năm nay.

Dự án 88 phát hiện ra rằng “Chính phủ Việt Nam có truyền thống sử dụng cáo buộc trốn thuế để truy tố những người bất đồng chính kiến mà họ không thể buộc tội một cách thuyết phục theo các điều khoản về an ninh quốc gia của Bộ luật Hình sự.”

Ông Nguyễn Quang A – một nhà hoạt động nhân quyền nổi bật ở Việt Nam đồng thời là cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển đã giải thể – nói với RFA rằng ông đã bị bắt về tội trốn thuế “ít nhất bốn hay năm lần” nhưng lý do đó thực ra luôn là cái vỏ bọc cho các vấn đề liên quan đến bất đồng chính kiến.

Ông Nguyễn Văn Bình, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam. (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam)

Các luật khác cũng đã được vũ khí hóa. Tháng 4 năm nay, ông Nguyễn Văn Bình, khi đó là Vụ trưởng Vụ Pháp chế của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đã bị bắt và truy tố vì bị cho là đã tiết lộ bí mật nhà nước.

Ông đã nỗ lực hỗ trợ nhằm mang đến cho người lao động quyền được thành lập công đoàn – một loại hình tổ chức vốn bị cấm ở Việt Nam trừ một ngoại lệ là công đoàn trực thuộc nhà nước.

Ông Bình được xem là “đồng minh” của các tổ chức như Stitch – một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan hoạt động trong lĩnh vực về quyền lao động ở Việt Nam. Việc ông bị bắt giữ được xem là “một tín hiệu cho thấy hướng mà ông đã đi không phải hướng để đi” – một nguồn tin cấp cao quen thuộc với tổ chức này nói.

Sau khi ông Bình bị bắt giữ, Stitch đã dừng hoạt động ở Việt Nam.

“Người ta cũng lo sợ về những tác động tiêu cực vì tín hiệu đó là dành cho những người liên quan đến Stitch” – nguồn tin này cho biết.

Chiến dịch Đốt lò

Những sự đàn áp này chỉ là một mảng thách thức mà các tổ chức NGO ở Việt Nam phải đối mặt và vượt qua. Đốt lò – chiến dịch chống tham nhũng gây nhiều tranh cãi đã khiến việc có được sự phê duyệt của chính phủ đối với các tổ chức  xã hội dân sự trở nên khó hơn bao giờ hết, trong tất cả các vấn đề từ đi lại cho đến kinh phí.

Các cảnh sát chờ đợi bên ngoài một đồn cảnh sát ở trung tâm Hà Nội, ngày 17 tháng 8 năm 2024. (Allegra Mendelson/RFA)

Kể từ khi chiến dịch này được phát động vào năm 2013, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực kiểm tra, bắt giữ các quan chức ở tất cả các cấp, bao gồm cả các thành viên cấp cao của Bộ Chính trị và các bộ trong chính phủ. Tính đến năm 2023, gần 200.000 đảng viên đã bị kỷ luật trong khuôn khổ chiến dịch này.

Mặc dù chiến dịch này đã đưa Việt Nam từ vị trí 113 lên vị trí 83 về Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng nhưng nó cũng làm đóng băng cả những hoạt động hợp pháp – các nhà vận động chính sách cho biết.

“Các quan chức không rõ là những hoạt động nào có thể khiến ai đó gặp rắc rối. Vì thế, tất cả mọi người đều luôn đề cao cảnh giác” – ông Minh, một nhà hoạt động lâu năm phát biểu. Ông cũng đã yêu cầu chúng tôi sử dụng tên giả vì lý do an toàn.

“Tác động lớn nhất của chiến dịch chống tham nhũng là các quan chức chính phủ không muốn làm việc nữa, họ không muốn ủng hộ, tạo điều kiện cho xã hội dân sự. Họ thường giữ im lặng vì nói không thì dễ dàng hơn”.

Điều đó có nghĩa là trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã đánh mất khoảng 2,5 tỷ USD viện trợ nước ngoài. Một tỷ USD nữa hiện đang chờ được thông qua.

Phần lớn tài trợ đó đã được dành cho những thứ như các dự án phát triển và cơ sở hạ tầng, trong đó các cơ quan của Liên Hợp Quốc hoặc Liên minh Châu Âu (EU) đôi khi hợp tác với các tổ chức trong nước của Việt Nam.

Một người từng là nhà tài trợ phương Tây cao cấp nói với RFA rằng rất nhiều tổ chức trong nước “không còn muốn nhận tiền [tài trợ của] nước ngoài vì việc này mang đến quá nhiều rủi ro” và do đó, họ buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động.

Tìm kiếm những giải pháp thay thế

Để hoạt động, các nhóm xã hội dân sự đã tìm đến một số giải pháp. Một trong những giải pháp này là đăng ký hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp xã hội – một dạng kết hợp giữa tổ chức từ thiện và doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận – thay vì là một tổ chức phi chính phủ. Cách này đã giúp một số tổ chức hoạt động dễ dàng hơn nhưng điều đó cũng có nghĩa là họ phải trả nhiều thuế hơn.

“Họ không trực tiếp hối lộ chính phủ nhưng dành rất nhiều tiền của, công sức để vun đắp các mối quan hệ đó để tránh các vấn đề [có thể xảy ra]” – ông Bình nói.

Nhưng sự thanh thản, yên bình có được những lựa chọn này không phải là lý tưởng và nhiều khả năng chỉ mang tính tạm thời. Những người làm việc trong khu vực xã hội dân sự ở Việt Nam lo lắng rằng môi trường hoạt động của họ sẽ tiếp tục tồi tệ hơn.

Sau khi ông Trọng qua đời vào tháng 7 năm nay, người kế nhiệm ông là ông Tô Lâm – một cán bộ lâu năm của Đảng đồng thời đã giữ những vị trí cấp cao trong chính phủ trong nhiều thập kỷ.

Ở cương vị Bộ trưởng Bộ Công an, ông đã thực hiện nhiều hoạt động đàn áp đối với các tổ chức xã hội dân sự, trong đó có việc sử dụng tội danh trốn thuế như một cách để bịt miệng người bất đồng chính kiến.

“Ông Tô Lâm đã làm cả đời trong ngành công an. Ông ta coi tất cả các tổ chức không nằm dưới sự kiểm soát của ĐCS là những kẻ thù tiềm năng” – ông Trung, nhà hoạt động dân chủ nói.

“Tôi không nghi ngờ việc ông ấy sẽ tiếp tục đàn áp các phong trào dân chủ và dân sự xã hội” – ông Trung dự đoán.

Biên tập bởi Abby Seiff và Boer Deng.


 

CSVN bước vào kỷ nguyên mới với tư duy rừng xanh?-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 22, 2024

Chuyện Vỉa Hè

Đặng Đình Mạnh

Sau năm tháng nắm giữ chức vụ tổng bí thư đảng, không ngày nào mà truyền thông trong nước không lên tiếng ca ngợi ông Tô Lâm, mặc cho quá khứ của ông ấy hãi hùng đến như thế nào đi nữa.

Nào là bảo kê cho thương vụ tham nhũng AVG hàng ngàn tỷ đồng, nào là tổ chức bắt cóc quốc tế từ Đức, Thái Lan, nào là huy động 3,000 công an tấn công đẫm máu vào dân làng Đồng Tâm. Nào là đàn áp khốc liệt với mọi người dân yêu cầu về tự do, dân chủ và nhân quyền, nào là sinh hoạt xa hoa ăn bò dát vàng giữa hoàn cảnh đất nước khó khăn vì dịch giã COVID-19 gây tử vong hơn 40 nghìn đồng bào…

Tô Lâm khi còn là bộ trưởng Công An ăn thịt bò dát vàng tại London, Anh Quốc, do chính chủ nhà hàng là đầu bếp Nusr-Et đút tận mồm. (Hình: chụp lại từ Tiktok)

Mà ca ngợi thế kể cũng tài, khi ông Tô Lâm không đưa ra quyết sách gì mới? Ông ấy chỉ nhắc lại những vấn đề mang tính di sản tồi tệ mà các tổng bí thư tiền nhiệm đã từng nhắc đến, nhưng vô trách nhiệm vì nói mà không làm, hoặc bất lực không làm được. Để bây giờ trở thành vấn đề của người đương nhiệm.

Bên cạnh đó, sự ca ngợi ông Tô Lâm về những vấn đề cũ rích đó, chẳng phải là truyền thông Cộng Sản đang mắng xéo các tổng bí thư tiền nhiệm như Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười… đã vô trách nhiệm, hoặc bất lực hay sao?

Kể cả vấn đề đang nóng bỏng hiện nay về thực hành tiếp kiệm, chống lãng phí thông qua tinh giản bộ máy chính quyền cũng vậy. Điều đáng lưu ý nhất khi đề cập đến vấn đề tinh giản bộ máy chính quyền, ông Tô Lâm lại sử dụng cụm từ “Vừa chạy vừa xếp hàng” trong bài viết với tựa đề “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả” đã có thể làm nhiều người bối rối.

Khôi hài hơn, khi truyền thông Cộng Sản công khai nịnh bợ ông Tô Lâm khi ca ngợi cụm từ này “không chỉ đơn thuần là một phép ẩn dụ ngôn từ mà còn hàm chứa một tư duy lãnh đạo, điều hành sắc bén, linh hoạt và hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang dốc sức đổi mới, hội nhập và phát triển. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện một triết lý hành động, một nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi sự cân bằng tinh tế giữa tốc độ và trật tự, giữa sự năng động đổi mới và nền tảng ổn định vững chắc” [*].

Thật ra, nói ông Tô Lâm là tác giả cụm từ “vừa chạy vừa xếp hàng” là một sự thậm xưng. Vì lẽ, chúng đã có từ rất lâu, trễ nhất cũng phải từ năm 1954, khi ông Tô Lâm còn chưa được quấn tã vào đời.

Vì lẽ, năm 1954, thực hiện theo Hiệp Định Genever, lực lượng Cộng Sản ở miền Nam phải tập kết xuống tàu ra miền Bắc để chờ thống nhất tổng tuyển cử sau hai năm. Thực tế, Cộng Sản đã chủ trương vi phạm Hiệp Định Genever ngay từ đầu bằng cách để lại nhiều cán binh Cộng Sản ở lại miền Nam. Một phần sống công khai tại các đô thị, phần khác thì vào R (mật danh của chiến khu Cộng Sản trong rừng) tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong hoàn cảnh tại R, hoạt động bí mật, Cộng Sản không thể tuyển dụng nhân sự một cách công khai được. Mà có người nào sử dụng người đó. Công việc được giao phó theo cách áng chừng về khả năng, học lực, quá trình cống hiến… Từ đó mới ra đời cụm từ “vừa chạy vừa xếp hàng,” để ám chỉ cách quản lý, phân công mang tính cách tạm thời trong điều kiện hoạt động bí mật. Đến một thời điểm định kỳ, sẽ tiến hành đánh giá lại khả năng từng người để điều phối, hợp lý hóa dần về nhân sự theo thời gian.

Cho thấy, “vừa chạy vừa xếp hàng” chỉ là cung cách quản lý nhân sự bất đắc dĩ, phải vận dụng trong hoàn cảnh khó khăn của Cộng Sản trong thời chiến mà thôi. Dĩ nhiên, cung cách này mang tính may rủi, vì có thể người được giao phó công việc lại không có chuyên môn, trình độ phù hợp.

Trong hoàn cảnh hiện nay, việc đặt ra chủ trương tinh giản đã phản ảnh tình trạng dư thừa về nhân sự trong bộ máy hành chính. Phải giảm nhân sự để giảm chi phí cho ngân sách quốc gia. Theo đó, lẽ ra tình trạng dư thừa nhân sự như vậy là điều kiện thuận lợi cho việc tuyển chọn nhân sự có tài năng, đức độ, mẫn cán để giữ lại làm việc. Chứ không thể bằng cách thức “vừa chạy vừa xếp hàng” đầy may rủi như thuở còn trong rừng như thế được, khiến cho người có khả năng bị xếp vào đối tượng bị thải loại, còn kẻ bất tài lại được giữ lại làm việc.

Chưa kể, việc ca ngợi, tô hồng ông Tô Lâm như là tác giả của ý tưởng “vừa chạy vừa xếp hàng” là đang đi vào vết xe đổ “cầm nhầm” tri thức của ông Hồ Chí Minh trong câu nói “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.”

Thật vậy, nếu bây giờ chúng ta đặt từ khóa “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” vào ô tìm kiếm của trang Google, thì chưa đầy một giây sau, cái trang web ấy sẽ cho bạn hàng trăm nghìn kết quả mà đa phần trong số đó cũng đều cho rằng ông Hồ Chí Minh là tác giả.

Trong số ấy, có trang <xaydungdang.org.vn> khẳng định nguồn gốc hai câu ấy được ông Hồ Chí Minh dùng mở đầu bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc ngày 13 Tháng Chín, 1958. Sau đó, được đăng trên báo Nhân Dân số 1645, ngày 14 Tháng Chín, 1958.

Tương tự, trang <tapchicongsan.org.vn> đăng lá thư của ông Nguyễn Phú Trọng gởi cho Hội Khuyến Học Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày thành lập của hội này, thư có đoạn viết: “…Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh ‘vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người’” (trích).

Thậm chí, hai câu nêu trên đã trở thành đề thi trong các trường học, kể cả các trường trung hay cao cấp về chính trị …

Thật ra, câu nói trên chỉ là dịch nôm từ ý tưởng của Quản Trọng (sinh-725, mất-645), một bậc kỳ tài về chính trị và quân sự của đất nước Trung Hoa vào thời Xuân Thu, nguyên gốc như sau: “Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc; Thập niên chi kế mạc như thụ mộc; Chung thân chi kế mạc như thụ nhân; Nhứt thu nhứt hoạch giả, cốc dã; Nhứt thu thập hoạch giả, mộc dã; Nhứt thu bách hoạch giả, nhơn dã.”

Dịch nôm:

Kế một năm, chi bằng trồng lúa; Kế 10 năm, chi bằng trồng cây; Kế trọn đời, chi bằng trồng người; Trồng một, gặt một, ấy là lúa; Trồng một, gặt mười, ấy là cây; Trồng một, gặt trăm, ấy là người.

Vừa leo lên ghế tổng bí thư được hơn hai tuần lễ, ông Tô Lâm vội vã sang Trung Quốc gặp Chủ Tịch Tập Cận Bình. (Hình: Andres Casares/AFP/Getty Images)

Thậm chí, chính ông Tô Lâm có vẻ cũng không biết và vẫn tiếp tục “cầm nhầm” ý tưởng này, đưa vào bài diễn văn đọc vào sáng ngày 23 Tháng Chín, 2024, tại trường Đại Học Columbia trong chuyến công du Hoa Kỳ, như sau: “Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, cũng luôn nhấn mạnh tầm nhìn ‘vì lợi ích trăm năm trồng người.’”

Tóm lại, mang tư duy trong rừng, trong thời chiến, để áp dụng vào chính sách nhân sự trong thời bình, đang dôi thừa nhân sự là một giải pháp không hề chuyên nghiệp. Không xứng đáng với một chính quyền của quốc gia có cả hàng trăm triệu dân. Trong đó, truyền thông thay vì phê phán, giúp chế độ nhìn nhận, đánh giá lại cho đúng vấn đề lại đi ca ngợi, tô hồng như một phát minh vĩ đại, kể cả ý tưởng “cầm nhầm” từ lịch sử?!

Khốn khổ cho dân tộc này, người lãnh đạo mang tư duy từ tận rừng xanh, lại đang sử dụng chúng để đưa dân tộc này “Bước vào kỷ nguyên mới”! Thật là mông muội và hoang đường.


 

Dự thảo Cáo trạng chế độ độc tài-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Tieng Dan

Đặng Đình Mạnh

22-12-2024

Đảng có lực lượng công an lớn nhất thế giới, nhưng không giữ được sự bình yên cho cuộc sống nhân dân.

Đảng có hệ thống truyền thông phủ khắp tỉnh thành, nhưng nhân dân không được thông tin về sự thật.

Đảng xây dựng nhà tù liên tục, nhưng không nhốt hết được bọn đảng viên tham nhũng.

Đảng có tòa án, viện kiểm sát đầy đủ, nhưng không thể mang đến công lý cho nhân dân ngoài sự oan khiên, bất công chồng chất.

Đảng nói kinh tế liên tục tăng trưởng, nhưng hàng loạt cửa hàng đóng cửa treo bảng cho thuê, hàng chợ ế ẩm, nhân dân thất nghiệp làn lan.

Đảng rao giảng đạo đức nhiều hơn ai hết, nhưng số đảng viên tha hóa, hủ hóa, tham nhũng, tham ô nhiều gấp bội so với nhân dân.

Đảng nói đảng viên là thành phần ưu tú của nhân dân, nhưng số đảng viên phạm tội ở tù, bị kỷ luật nhiều hơn cả nhân dân.

Đảng nói mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng đảng viên và người giàu có phạm pháp lại được châm chước hưởng hình phạt nhẹ nhàng so với người dân.

Đảng nói chống tham nhũng không có vùng cấm, nhưng đảng viên cao cấp phạm pháp bị kỷ luật thì đảng lại chỉ thông báo chung chung, mơ hồ.

Đảng nói đất nước phải thực hành tiếp kiệm, chống lãng phí, nhưng đảng lại làm lơ cho đảng viên sinh hoạt xa hoa ăn bò dát vàng.

Đảng nói muốn làm bạn với thế giới, nhưng lại tổ chức bắt cóc quốc tế mang người từ nước ngoài về Việt Nam và tấn công tình dục liên tục vào công dân nước người ta.

Đảng in tiêu đề “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” trên mọi văn bản, nhưng lại đàn áp quyền tự do của nhân dân một cách khốc liệt.

Đảng nói “Mọi quyền lực thuộc về nhân dân”, nhưng đảng giành hết quyền lực để tự tung tự tác.

Đảng nói “Nhân dân làm chủ đất nước”, nhưng đảng không cho nhân dân quyền quyết định bất cứ vấn đề gì.

Đảng chủ trương tinh giản bộ máy chính quyền, nhưng lại không động gì đến Bộ Công an đang có nhân sự cao nhất và xài tiền ngân sách nhiều nhất trong cả nước.

Đảng nói “thế nước đang lên”, nhưng nhân dân khắp nơi phải xuất khẩu lao động, vượt biên đi làm thuê cho khắp thế giới.

Đảng nói “chưa bao giờ cơ đồ đất nước được như thế này”, nhưng lãnh đạo công du ở đâu cũng xin xỏ họ hết cái này đến cái khác.

Đảng nói đồng bào hải ngoại là “khúc ruột nghìn dặm”, nhưng cấm cửa không cho về quê hương nếu có chính kiến khác với đảng.

Đảng kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc, nhưng lại bỏ rất nhiều tiền để tổ chức rầm rộ dịp 30/04 hạ nhục đồng bào.

Đảng ca ngợi đồng bào hải ngoại gởi kiều hối về duy trì chế độ độc tài, nhưng lại dung dưỡng cho đám dư luận viên mạt sát đồng bào hải ngoại là “Neo tộc”, “Đu càng”…

Đảng cho rằng mình nắm quyền lãnh đạo là nhờ lịch sử giao phó và nhân dân ủng hộ, nhưng lại kém tự tin đến mức không dám tổ chức bầu cử tự do.

Đảng nói cần đến hàng trăm nghìn tỷ đồng để chấn hưng văn hóa, nhưng lại bỏ tiền ra nuôi hàng vạn Dư luận viên chửi bới, thô tục vô văn hóa khắp nơi trên mạng xã hội.

Đảng nói mình là đại diện trung thành của giai cấp công nhân, nhưng thực chất không có ai trong số lãnh đạo cao cấp xuất thân từ công nhân cả.

Đảng nói “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân”, nhưng bao nhiêu lợi ích của nhân dân đảng cướp sạch.

Đảng nói cán bộ là đầy tớ của nhân dân, nhưng thực ra nhân dân bị cán bộ hành như con thú.

Đảng nói phải chăm sóc cho thế hệ trẻ vì chúng là tiền đồ đất nước, thực ra đảng chỉ chăm lo cho con em đảng viên cao cấp và xem chúng là hồng phúc dân tộc.

Đảng kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền, nhưng khi nhân dân có ý kiến thì đảng còng tay nhân dân bỏ tù.

Đảng nói láo nhiều đến mức tôi không thể nhớ hết, đồng bào giúp bổ sung…