Biển “đe” người Việt ăn cắp tại siêu thị ở Nhật được viết bằng tiếng Việt. (Hình: Báo điện tử VietNamNet)
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Một phó phòng thuộc Cục An Toàn Bức Xạ và Hạt Nhân (Bộ Khoa Học- Công Nghệ) đi công tác tại Nhật đã ra tay trộm cắp khi đi mua sắm tại siêu thị và bị cảnh sát địa phương “mời làm việc.”
Theo báo Pháp Luật TP.HCM, Cục An Toàn Bức Xạ và Hạt Nhân (Bộ Khoa Học Và Công Nghệ) cho biết một cán bộ cấp phó phòng của cục này khi đi công tác tại Nhật gặp “sự cố” khi đi mua sắm tại siêu thị và được mời đến làm việc tại cơ quan cảnh sát địa phương.
Báo này cho hay, có thông tin về việc ông TQH, hiện là phó phòng một đơn vị của cục, đang bị giữ lại tại Nhật vì nghi vấn liên quan đến trộm cắp ở một siêu thị của nước này.
Ông Nguyễn Tuấn Khải, cục trưởng Cục An Toàn Bức Xạ và Hạt Nhân, nói: “Chúng tôi đang phối hợp với bên Nhật để làm rõ. Cho đến nay vẫn đang trong quá trình thu thập để làm rõ thông tin.”
Ông cũng cho hay, hiện tại ông TQH chưa về nước và cục cũng chưa nhận được thông tin trực tiếp từ phía cán bộ này. Được biết, ông TQH sang Nhật để tham dự một hội thảo. (Tr.N)
Từ trái, bà Huỳnh Thị Chút, ông Gary Wittig và người con chung của họ, chị Nguyễn Thị Kim Nga, trùng phùng tại Georgia sau 48 năm. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)
RIVERDALE, Georgia (NV) – “Khi Nga báo cho biết là đã gặp lại cha, tôi mừng lắm, vì không bao giờ tôi dám nghĩ đến điều này. Nhưng mà quả đất xoay tròn quá.” Đó là cảm nghĩ của bà Huỳnh Thị Chút, người phụ nữ 75 tuổi, lần đầu tiên ngồi máy bay, mà lại bay cả nửa vòng trái đất để đến Riverdale, Georgia, hội ngộ cùng ông Gary Wittig, cha của con gái bà, sau khi bặt tin từ năm 1969.
Con gái bà Chút, chị Nguyễn Thị Kim Nga, cũng chỉ mới tìm lại được cha ruột của mình, ông Gary Wittig, một người Mỹ từng làm việc ở Việt Nam, sau 17 năm sang Mỹ định cư ở tiểu bang Nebraska.
Câu chuyện được kể lại sau gần một nửa thế kỷ, không chỉ chứa đầy niềm vui của ngày trùng phùng, mà hơn những điều thông thường đó, là tấm lòng, là nghĩa cử cao thượng, của hai người đàn ông đứng bên cạnh hai người phụ nữ này trong suốt mấy mươi năm qua, nhằm giúp họ đạt được ước nguyện của mình.
Câu chuyện của nàng lao công nghèo, người yêu Mỹ, và ông chồng Việt
Bà Chút từ Mepu, Bình Thuận, đặt chân đến thành phố Riverdale hôm Thứ Ba, 3 Tháng Mười, nói với Người Việt qua điện thoại, “Đây là lần đầu tiên tôi gặp lại ông Gary sau 48 năm. Nhưng gặp là nhận ra liền, dù ngày trước ổng còn rất trẻ.”
Câu chuyện theo dòng hồi ức của người phụ nữ đã đi qua gần hết đời mình trong nghèo khó, lam lũ, vẽ lên bức tranh chung của nhiều phụ nữ Việt “đi làm sở Mỹ” ở miền Nam Việt Nam vào thời chiến tranh Việt Nam.
“Tôi lúc đó có chồng và một đứa con trai. Khi tôi lấy chồng là cha mẹ tôi coi như bỏ luôn, không biết tới luôn. Rồi tôi đi làm lao công, dọn dẹp cho hãng Mỹ ở ‘Kem’ (Camp) Tiên Sa, Đà Nẵng. Ở đó có một bãi đậu xe lớn lắm. Tôi rửa xe ở đó. Ông Gary lái xe tới cho tôi rửa. Sau tôi mới biết ông cũng làm việc cho hãng đó,” bà kể bằng giọng “miền ngoài” đặc sệt.
“Không biết đây có phải là duyên nợ trời đất gì không,” bà tiếp tục câu chuyện. “Vì hồi đó đi làm mà thấy Mỹ là sợ lắm, vậy mà sao tôi lại thương ông, dù tôi với ông có nói chuyện được gì nhiều với nhau đâu.”
Theo lời bà Chút, bà quen ông Gary Wittig được một năm. Ông biết bà mang dòng máu của ông trong người, ông chở bà đi bệnh viện khám thai, biết được bà sẽ sanh con gái và cả ngày giờ sanh đứa bé.
Bà Chút nói thêm, “Trước khi về Mỹ, ông Lary có đưa tôi hình và thẻ có số quân của ông. Nhưng đến khi thấy Mỹ rút đi hết trong một đêm tối, tôi sợ quá, không bao giờ nghĩ có ngày gặp lại, nên tôi đốt hết. Mất liên lạc luôn từ đó.”
Khi ông Gary trở về quê hương thì bên kia bờ đại dương, bà Chút cũng sanh em bé. Đó là năm 1969.
Như bao phụ nữ sanh “con lai” khác, bà Chút bị tai tiếng nhiều, nhưng bà “không buồn, vì bụng làm dạ chịu.”
“Thương là thương ông chồng Việt của tôi, ông chưa bao giờ oán trách, ghen tuông gì hết,” bà nói.
Bà nhớ lại, “Ông chồng dẫn tôi đi sanh mà không mang theo đồ chi hết. Khi bà mụ bồng đứa con ra, ông nhìn và nói liền ‘Ô choa, Mỹ con! Mỹ con!’ rồi ông cởi cái áo đang mặc quấn cho nó. Đến sáng ông về nhà nấu cháo cho tôi và mang quần áo em bé vô. Lúc về nhà, ông cũng là người bồng con bé đi trước, tôi đi theo sau.”
“Tên con bé cũng là do ông đặt. Ông nói nó là con Mỹ thì đặt tên nó là Nga chứ không có tên gì khác hết, Nguyễn Thị Kim Nga,” bà cho biết.
Nếu đời sống người dân bình thường vốn đã quá cơ cực sau Tháng Tư, 1975, thì đời sống của những gia đình có con lai lại khốn đốn hơn nhiều lần.
“Lúc đó khổ lắm, tiền không có ăn, áo không có mặc, mà nuôi đến ba, bốn đứa con, khổ quá là khổ. Mà vì khổ nên quẫn có lúc ông đánh con, nhưng không phải vì ghét mà đánh đâu,” bà khẳng định.
Cũng theo lời bà, khi nghe nói Nga có thể làm giấy tờ đi Mỹ, thì chính ông chồng “dẫn mẹ con tôi đến chỗ xã làm giấy tờ.”
“Nhưng khi xuống tới thì họ nói chỉ có tôi và Nga đi được chứ chồng tôi không đi được. Khi đó ông nói với tôi một câu mà tôi nhớ thương hoài, ‘Thôi, đi về đi bà, về làm ăn với tôi. Khi nào tôi chết rồi mẹ con bà muốn đi mô thì đi.’ Rồi năm sau thì ông mất,” người phụ nữ lam lũ bồi hồi.
Ngày quen nhau họ chỉ ở độ tuổi ngoài 20. Gần nửa thế kỷ gặp lại, tóc đã trắng mái đầu. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)
Người con gái lai và con đường đến quê cha bằng sự kiên trì của chồng
“Hồi nhỏ, anh tôi không biết tôi con lai, nhưng ba ghẻ thì chắc biết, nên cũng có lúc bị đòn. Rồi đi học bị bạn bè chọc ‘con lai 12 lỗ đít’ cho nên vừa bất mãn mà nhà cũng nghèo quá nên chỉ học được lớp 1, lớp 2 là bỏ học luôn,” chị Nga cười nhớ lại.
Cuộc đời của người con gái lai cứ thế trôi đi trong cảnh nghèo không thể nghèo hơn, “cứ đi làm mướn, đi làm ruộng, gặt, cấy, cho người ta cho đến lớn.”
Rồi “phong trào con lai” bùng lên, nhiều người từ Kiên Giang, An Giang cũng ra tận quê Bình Thuận của chị kiếm con lai “mua” để được đi Mỹ.
“Tôi nhớ lúc đó họ nói đưa cho má một cây vàng trước, rồi chừng nào làm giấy tờ đi được thì đưa thêm một cây. Tôi không chịu. Sau đó tôi để cho họ làm không lấy tiền nhưng phải cho má tôi đi, họ làm giấy tờ ghép hộ gì tùm lum hết. Nhưng rồi đi phỏng vấn rớt, rồi lại làm lại, kéo dài cả bốn năm như vậy nên tôi nói thôi không có muốn đi Mỹ nữa,” chị Nga kể.
Rồi chị quen anh Quế, chồng hiện tại của chị, tình yêu càng khiến chị không muốn rời bỏ mảnh đất đang sống, dù cơ cực, nhọc nhằn.
Chị cười nhớ chuyện xưa, “Lúc đó má nói ‘mày muốn sướng thì kiếm đường mà đi Mỹ, còn muốn cực thì cứ ưng thằng Quế.’ Nhưng rồi do sự quyết định của mình nên thôi không muốn đi Mỹ, ở lại cưới nhau năm 1994.”
Điều may mắn cho chị Nga, như má chị nhận xét, là “Thằng rể tôi nghèo nhưng lòng hắn tốt. Hắn làm mọi thứ để mẹ con tôi được thỏa nguyện. Tôi gặp được ông chồng tốt. Con gái tôi cũng có người chồng tốt, như vậy thì tôi thấy cuộc đời mình thỏa mãn rồi.”
Theo lời chị Nga, “hai vợ chồng phải vất vả bon chen kiếm sống bằng cách đi rẫy, đi núi cưa cây cưa củi bán. Tằn tiện, tích cóp đến cuối năm mới có dư được 5 phân vàng, nhưng cứ có tiền là ông chồng nói để đi vô Sài Gòn kiếm đường làm giấy cho đi Mỹ. Ông cứ làm hết năm này qua năm khác. Lúc đó tôi khóc hoài, nói không có đi đâu hết, nói làm khó khăn, kiếm không ra tiền ăn mà cứ có đồng nào cũng đi Sài Gòn. Nhưng ông vẫn quyết tâm làm. Cuối cùng Chúa cũng cho ông làm được, để rồi hai vợ chồng và đứa con trai lớn được đi Mỹ năm 2000.”
Anh Quế Nguyễn, hiện sống cùng vợ con tại thành phố Omaha, tiểu bang Nebraska, kể thêm, “Ai cũng biết ở Việt Nam rất khổ cực, mà bà xã lại là con lai, không đi được thấy cũng thiệt thòi cho bà nên tôi phải hết sức tìm đường đi. Làm được đồng nào tôi lại lặn lội lên Sài Gòn, tôi dòm tôi ngó, đi hỏi hết người này đến người khác, mà đi tới luật sư nào họ cũng đuổi về vì họ nói đi tìm mà không có hình bóng, giấy tờ gì hết thì như tìm kim đáy bể thôi.”
Lặn lội suốt sáu năm như thế, cho đến một lần anh Quế “gặp may.”
Anh nhớ lại, “Một lần tôi với bà xã sau khi để dành được mấy phân vàng quyết định dắt con vô Sài Gòn, may sao nhờ ‘ông tổng lãnh sự quán’ ở đường Pasteur nhìn thấy bà xã tôi thì ông nói bà xã tôi lai Mỹ. Thế là ông giúp làm giấy cho đi. Cuối cùng thì hai vợ chồng và con tôi được sang Mỹ vào ngày 17 Tháng Mười, 2000.”
Đặt chân đến vùng đất không có một ai thân thích, chị Nga cho rằng mình “may mắn” khi xin được việc làm liền ở một hãng bánh của người Mexico, rồi “làm miết từ đó cho đến Tháng Sáu vừa rồi họ đóng hãng thì tôi mới thất nghiệp ở nhà.” Anh Quế cũng sau vài năm làm ở hãng bánh cùng chị, đã xin được việc làm trong trường học từ hơn 10 năm qua.
Ngoài đứa con trai lớn sanh ở Việt Nam, anh chị còn có thêm một con gái 14 tuổi và một con trai 12 tuổi được sanh tại Mỹ.
Vợ chồng chị Nguyễn Thị Kim Nga, anh Quế Nguyễn cùng ba người con. (Hình: Quế Nguyễn cung cấp)
“Ráng tìm cha cho có người thân nương tựa”
“Trong đời sống lúc vui, lúc buồn tôi đều có trong đầu câu hỏi sao mình sinh ra không biết cha là ai? Tại sao mình không có tình thương của cha?” chị Nga tâm sự bằng chất giọng thật thà, chất phác của người không có quá nhiều cơ hội để nói về những nỗi niềm của mình.
Thêm vào đó là lời nhắn gửi của má chị “con thử đi kiếm coi có tìm được cha không, để còn có người thân nương tựa, vì ở đây mình không có ai là bà con hết.”
Thôi thúc ước muốn được biết cha mình là ai, còn hay mất, nhưng “mình lại không biết gì hết, không biết chữ, không biết viết, cái gì cũng phải nhờ chồng.”
Anh Quế, chồng chị Nga cũng giãi bày, “Tôi biết ước mơ của vợ tôi là tìm được tung tích của người cha có từ mấy chục năm qua. Nhưng mà mình không biết cách nào để tìm hết.”
Nhưng rồi họ lại gặp may.
“Một chị bạn quen tên Minh, cũng là con lai, cũng đi tìm cha. Nhưng tìm rồi mới biết cha đã mất vì tai nạn từ hồi còn ở Việt Nam. Rồi chị hướng dẫn, giúp đỡ tụi tôi tìm. Mọi chuyện chị giúp hết, bắt đầu từ Tháng Mười Hai, 2016, đến Tháng Tư thì tìm được,” chị Nga cho biết.
Theo lời vợ chồng chị Nga, chị Minh chính là người đã tìm được tung tích của ông Gary, liên lạc với ông và gia đình ông, sắp xếp cho mọi người được gặp lại nhau.
Về phần ông Gary, do sức khỏe, nói chuyện khó khăn, nên chị Christine Kimmey, cháu ruột ông Gary, là người thay ông kể chuyện với Người Việt.
Chị cho biết, “Chú Gary đến Việt Nam hai lần, tôi không nhớ chính xác lần đầu là năm nào nhưng lần thứ hai là năm 1967, chú được đưa đến trại Tiên Sa ở Đà Nẵng. Chú làm việc với Seabee’s, đơn vị MCB-8 (Mobile Construction Company-8). Công việc của chú lúc đó là lái xe chạy vòng quanh trại để sửa chữa bảo trì.”
“Thời gian đó cũng là lúc chú Gary gặp cô Chút đang làm công việc rửa xe cho đơn vị đó,” chị Christine nói thêm.
Chị kể, “Tôi nhớ một lần vào năm 1980, khi đó tôi 14 tuổi, dì Linda, vợ chú Gary, nói cho tôi và em gái tôi biết là chú Gary có một đứa con ở Việt Nam. Tôi không biết tại sao dì muốn chúng tôi biết điều đó. Tôi nghĩ có thể đó là một chuyện lạ. Dì Linda mất năm 2006. Dì Linda và chú Gary không có con.”
“Và rồi chuyện này không bao giờ được nhắc đến nữa. Nhưng tôi lại luôn ghi nhớ điều đó trong đầu bởi vì đó là một đứa bé. Chuyện gì đã xảy ra. Dù vậy, chưa bao giờ tôi hỏi chú Gary về điều này. Cho đến một ngày, tôi nhận được tin nhắn trên Facebook của một thám tử chuyên về DNA hỏi tôi có quan hệ họ hàng với ai từng tham chiến ở Việt Nam trong khoảng thời gian năm 1968, 1969 không. Họ nói họ đang giúp một người tìm lại cha đẻ,” chị Christine tiếp tục câu chuyện.
Theo lời cháu ông Gary, mới hai tuần trước khi chị nhận được tin nhắn đó, chị và em gái chị đã có cuộc trò chuyện về gia tộc, và chị có nhắc, “Đừng quên là chú Gary còn một đứa con ở Việt Nam. Em tôi nghe vậy thì nói nó đã hoàn toàn quên béng những gì mà dì Linda đã kể cho chúng tôi nghe từ mấy chục năm về trước.”
“Theo những gì tôi hiểu, tôi nghe, thì người mẹ đó muốn quay trở lại với chú Gary thì cũng không thể vì những ràng buộc của gia đình. Chú Gary cũng không thể mang người phụ nữ đó theo về Mỹ ở thời điểm đó được. Tôi không biết đã có bao giờ chú muốn tìm kiếm lại đứa con của chú chưa, nhưng tôi biết chắc rằng chú luôn nghĩ về đứa con ấy suốt những năm tháng qua. Chú nói điều đó mới đây thôi,” chị Christine chia sẻ bằng tâm tình của người trong gia tộc.
“Lần đầu tiên tôi được gặp cha mình là ngày 15 Tháng Tư, cuộc hội ngộ diễn ra trong bốn ngày. Mừng lắm, cha con đều khóc, vì nào giờ mình cứ ao ước tình thương của cha mà,” người con gái kể bằng giọng xúc động.
Lần thứ hai, gia đình chị Nga lại từ Ohoma bay sang Atlanta thăm cha đúng vào ngày Father’s Day.
“Muốn làm bất ngờ cho ông, nên cả nhà đi qua mà không cho ông biết trước. Đến khi ổng mở cửa thấy vợ chồng con cái mình đứng ở ngoài cửa, ông mừng ông khóc, vì hồi nào giờ ông đâu có con, nên giờ ngay ngày Lễ Cha tụi tôi muốn làm cho ba vui,” chị Nga lại cười sau câu chuyện kể.
Ông Lary, qua điện thoại cũng cố gắng nói với Người Việt bằng giọng yếu ớt, khó nhọc, “Tôi rất rất vui khi được gặp lại con tôi sau mấy mươi năm. Giờ chúng tôi đã là một gia đình. Tôi không ngờ tôi có người con gái xinh đẹp như vậy.”
Ngay thời điểm này, chị Nga đã bay sang chăm sóc cha mình từ hơn ba tuần qua, sau lần ông bị té ngã phải vào bệnh viện.
Má chị cũng từ Việt Nam sang trùng phùng cùng “người yêu” như cách nói của bà.
Bà nói, “Tôi không nghĩ, mà chắc ông Gary cũng không nghĩ có ngày gặp lại như thế này.”
“Giờ gặp lại vui thì rất vui nhưng cũng thấy có chút gì tiếc vì mình tìm ra ông trễ quá. Phải chi gặp lại lúc ông còn khỏe mạnh để có thể chuyện trò, còn giờ ông bệnh, nằm một chỗ, nói nhiều là ông quạu vì ông mệt. Tiếc là tiếc như vậy. Nhưng mà cũng thỏa nguyện vọng rồi,” bà lại cười.
Chị Christine nói, “Đây là một câu chuyện quá là cảm động. Tôi muốn câu chuyện này được nhiều người biết đến, để có thể góp thêm cảm hứng cho những người con lai vẫn đang trong hành trình đi tìm kiếm cha của mình.”
Tôi không biết còn bao nhiêu người con lai nữa vẫn đang khắc khoải trong lòng niềm mơ ước được biết về tung tích của người đã góp phần hình thành nên hình hài của họ.
Tôi cũng không biết còn bao nhiêu người cha nữa còn đang sống, và chờ mong một ngày có đứa con gốc Việt bất ngờ đứng trước mặt mình gọi tiếng “Cha ơi!”
Nhưng, câu chuyện hội ngộ với sự có mặt đầy đủ của những người trong cuộc vừa diễn ra, là một trong những câu chuyện hay nhất mà tôi từng nghe liên quan đến một “hiện tượng có lãng mạn mà cũng có không ít sự đau đớn” trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử quê hương mình.
Trong phiên xét xử vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo Châu Thị Thu Nga, nguyên đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13, từ năm 2011 đến năm 2016, nói trước tòa án Hà Nội rằng bà đã dùng số tiền trị giá 1 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để được làm Đại Biểu Quốc Hội.
Tuy nhiên Tòa án không cho bà Nga khai việc này vì cho rằng điều đó không có liên quan đến nội dung vụ án đang được điều tra.
Vi phạm luật tố tụng
Phiên xử sơ thẩm dự kiến kéo dài trong 20 ngày, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Vào ngày 5 tháng 10, trước toà án tại Hà Nội, luật sư Hoàng Văn Hướng, người bào chữa cho bị cáo Châu Thị Thu Nga, có câu hỏi thẩm vấn cho thân chủ của ông, đề cập đến khoản tiền 1,5 triệu USD (khoảng 30 tỉ đồng) mà bà Nga đã khai là dùng để “chạy” vào vị trí đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên Tòa án không cho bà Nga khai việc này vì cho rằng điều đó không có liên quan đến nội dung vụ án đang được điều tra.
Một ngày sau khi diễn ra phiên xử, trả lời RFA, Luật sư Hoàng Văn Hướng, cho biết toà không cho phép thân chủ của ông thực hiện lời khai là không đúng nguyên tắc đánh giá chứng cứ khách quan và toàn diện của qui trình tố tụng.
“Tất cả những tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án để buộc tội hoặc gỡ tội thì đều phải đưa ra trước toà để đánh giá. Những nhiệm vụ của tôi là đặt câu hỏi và đánh giá vấn đề này. Trong hồ sơ có thể hiện bà đã khai như thế. Đến phần này thì hội đồng xét xử không cho hỏi nữa, với lý do ngay trong bản cáo trạng thì đã có 1 phần nêu là nội dung này kèm với 157 tỷ sẽ được tách ra giải quyết bằng 1 vụ án khác. Sẽ mở 1 vụ án khác.”
Trong hồ sơ có thể hiện bà đã khai như thế. Đến phần này thì hội đồng xét xử không cho hỏi nữa, với lý do ngay trong bản cáo trạng thì đã có 1 phần nêu là nội dung này kèm với 157 tỷ sẽ được tách ra giải quyết bằng 1 vụ án khác. Sẽ mở 1 vụ án khác. – LS Hoàng Văn Hướng
Một nhận định khác trong việc Hội đồng xét xử từ chối không cho bà Châu Thị Thu Nga thực hiện lời khai được Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hơn 14 năm, cho biết ông hoan nghênh những bị can, bị cáo chịu khai như thế.
“Nhưng có khi chủ toạ can, nói là đừng khai vì nó nhạy cảm, phức tạp…Nhiều vụ án người ta sẵn sàng khai, vì người ta vô đây người ta cho là cửa tử rồi, tại sao không khai? Tại sao lại để chết một mình? Cho nên có chứng cứ hay không có chứng cứ thì cơ quan điều tra có trách nhiệm phải chứng minh, đó là một nguồn chứng cứ được cung cấp, thì phải nghe, tại sao lại không cho người ta khai?
Không cho người ta khai là vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật.”
Báo Tuổi Trẻ Online cũng có một bài bình luận về sự việc này, trích dẫn ý kiến của Thạc sĩ Trần Thanh Thảo, giảng viên khoa Luật hình sự Trường đại học Luật TP.HCM cho biết “Việc không cho bị cáo Châu Thị Thu Nga khai về khoản tiền 1,5 triệu USD là không đúng quy định pháp luật.”
Trong vai trò là luật sư bào chữa cho bà Châu Thị Thu Nga, Luật sư Hoàng Văn Hướng một lần nữa cho biết bản cáo trạng có ghi những lời khai của bà Nga, kể cả việc dùng số tiền trị giá 1 triệu 500 ngàn đô la Mỹ để được làm Đại Biểu Quốc Hội là chưa khách quan và chưa đúng.
Ông nói thêm về mức độ được tham gia trong tiến trình tố tụng với tư cách người bào chữa cho bà Châu Thị Thu Nga:
“Trong gần 3 năm điều tra, truy tố và đến nay là xét xử bà Nga, thì hoàn toàn trong quá trình ấy, chúng tôi là luật sư nhưng không được tham gia vào quá trình điều tra kể cả xét hỏi.”
Không cho người ta khai là vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật. – LS Trần Quốc Thuận
Cần phải xem xét lại
Vấn đề được tranh luận sôi nổi tại phiên xử bà Châu Thị Thu Nga trong hai ngày qua, là nội dung của lời khai bị từ chối của bị cáo.
Nói về điều này, luật sư Hoàng Văn Hướng cho biết dư luận hiện đang rất quan tâm vấn đề, và bản thân ông cho rằng nó không phù hợp và không đúng.
“Bởi vì việc chạy vào Đại biểu Quốc hội thì nó không thuyết phục được chúng tôi vì việc vào được đại biểu quốc hội hay không là quyền quyết định của cử tri bằng các lá phiếu ở các đơn vị bầu cử.
Cũng không có 1 thế lực nào, 1 ông nào, 1 người nào có quyền lực có thể đưa vào Đại biểu Quốc hội được. Việc đăng ký, ứng cử Đại biểu Quốc hội là công khai. Thứ 2 nữa, bầu là do hàng triệu cử tri bầu chứ không phải do 1, 2 người quyết định được.”
Do đó, theo luật sư Hoàng Văn Hướng, lời khai của bị can Châu Thị Thu Nga là 1 chứng cứ chưa thuyết phục ở thời điểm này, và cần phải được xem xét lại.
Ngược lại, một ý kiến khác từ Luật sư Trần Quốc Thuận cho rằng việc chạy chức, chạy quyền, chạy danh, thậm chí chạy tuổi, vốn dĩ là một điều không mới lạ ở Việt Nam. Bình luận về sự việc của bà Châu Thị Thu Nga đang làm xôn xao dư luận, theo cách nhìn của ông, ông cho biết.
“Ở Việt Nam, khi bầu cử người ta hay nói là Đảng cử dân bầu. Câu đó khá phổ biến. Người ta nói chưa bầu đã biết trúng cử. Cho nên thường địa phương sắp xếp sẵn những người dự kiến trúng cử và những đối thủ địa bàn. Thường người ta nói những cuộc bầu cử tốn kém hình thức không cần thiết. Người ta muốn có 1 cuộc bầu cử rộng rãi dân chủ hơn, tranh luận sôi nổi hơn.
Cho nên vì vậy mới có chuyện ‘chạy’. Nếu cuộc bầu cử mà để cho dân tự chọn thì chạy để làm gì?”
Khi đã là Đại biểu Quốc hội, trong những cuộc họp, vào giờ giải lao thì quyền tiếp cận với tất cả các người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước này. Như thế, người ta có thể “chạy” một vài dự án hay một vài câu chuyện thì…lấy lại “vốn” rất nhanh. Bỏ ra thì phải thu hồi vốn chứ. – LS Trần Quốc Thuận
Chia sẻ thêm về từ “chạy”, Luật sư Trần Quốc Thuận nói rằng lẽ ra chạy là chạy về phía hàng vạn người dân với những chủ trương, chính sách phù hợp để người dân đồng lòng bỏ phiếu cho mình.
Đại biểu Quốc hội: Bất khả xâm phạm
Phân tích thêm về sự việc “chạy chức Đại biểu Quốc hội” đang được bàn tán trong dư luận, Luật sư Trần Quốc Thuận đưa ra một nhận xét về vị trí được gọi là Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam.
“Nếu vào một chức danh, mà nhất là Đại biểu Quốc hội thì bất khả xâm phạm. Đã là Đại biểu Quốc hội thì trước nhất nó có cái danh vọng rất lớn, theo luật thì gọi là bất khả xâm phạm.
Khi đã là Đại biểu Quốc hội, trong những cuộc họp, vào giờ giải lao thì quyền tiếp cận với tất cả các người lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước này.
Như thế, người ta có thể “chạy” một vài dự án hay một vài câu chuyện thì…lấy lại “vốn” rất nhanh. Bỏ ra thì phải thu hồi vốn chứ.”
Bà Châu Thị Thu Nga năm nay 52 tuổi, là một doanh nhân ngành bất động sản ở Hà Nội và là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa 13, từ năm 2011 đến năm 2016.
Dự định phiên tòa xử vụ án của bà Châu Thị Thu Nga sẽ kết thúc vào ngày 10 tháng 10.
Những oan hồn của cuộc chiếnSau khi đăng bài viết “Những oan hồn của cuộc chiến” của nhà báo Bùi Tín gửi, chúng tôi nhận được ý kiến phản hồi của nhà văn Nguyên Ngọc, cho rằng, trong bài viết, có một đoạn nhà văn Bùi Tín “bịa đặt”.
Chúng tôi đã chuyển thông tin đó cho nhà văn Bùi Tín và cũng đã nhận được phản hồi của ông. Cuối bài viết này là thông tin cập nhật nội dung trao đổi ý kiến giữa nhà văn Nguyên Ngọc và nhà báo Bùi Tín.
Xin các nhân chứng sống của cuộc chiến, những người đã từng đi B, cũng như các gia đình tử sĩ có con em bỏ mạng trong cuộc chiến, hãy đóng góp ý kiến, giúp làm rõ sự thật này.
Lính Mỹ truy bắt Việt Cộng tại Đà Nẵng, tháng Tư 1965. Nguồn: AP
Bộ phim Chiến tranh Việt Nam của các đạo diễn Hoa Kỳ gây nên nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau của người Việt trong và ngoài nước.
Đó là điều tất yếu vì cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm, liên quan đến nhiều nước, với những động cơ khác nhau, không thể làm thỏa mãn mọi người.
Đây là một dịp bổ ích và lý thú để công luận có thể được dịp phát biểu thêm, soi tỏ thêm nhiều điều mới mẻ, những góc tối của cuộc chiến, từ đó có thể bổ xung cho nhau nhiều hiểu biết mới để soi tỏ thêm quá khứ, hiện tại và tương lai của các bên tham chiến trong mối quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay.
Một số nhà báo, làm phim truyền hình người Việt, người Pháp, Hoa Kỳ, Đức… phỏng vấn tôi nhân dịp này. Tôi đã phát biểu ý kiến của mình.
Với tư cách là một nhân chứng sống, từng tham dự cuộc chiến từ ngày đầu đến ngày cuối, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam, ở chiến trường Cam-bốt cũng như ở Lào, tôi có nhiều suy nghĩ, kỷ niệm về cuộc chiến tranh, nay có dịp để nói lên những điều quan trọng bị khỏa lấp mà bộ phim hoành tráng của các nhà làm phim Hoa Kỳ không đề cập đến.
Nhiều bạn hỏi tôi, nếu tôi tham gia một bộ phim khác về Chiến tranh Việt Nam, tôi sẽ nói lên những điều gì? Tôi có khá nhiều điều cần phát biểu về cuộc chiến, khi tưởng nhớ, ngẫm nghĩ lại về cuộc chiến. Qua bài báo này trước hết, tôi muốn nói đến những oan hồn của cuộc chiến.
Tôi có một số người thân, ông chú, các anh chị em họ Bùi vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã bị Việt Minh chụp mũ cho là Việt gian, bị bắt giam sau Cách mạng tháng Tám. Tiêu biểu là ông Bùi Nhữ Uyên chú ruột tôi từng theo cụ Nguyễn Thượng Hiền, người cùng làng sang Nhật Bản vận động cho phong trào Đông Du và sau đó về Trung Quốc, tham gia Việt Nam Quang Phục hội của Cụ Phan Bội Châu. Chú tôi bị bắt năm 1946, bố tôi (Bùi Bằng Đoàn) lúc đó là trong Ban Thường trực Quốc hội can thiệp với ông Hồ chí Minh, ông Hồ lệnh cho chính quyền tỉnh Hà Đông thả ngay chú tôi, nhưng đúng vào đêm lệnh thả đến nhà giam ở Vân Đình thì chú tôi mất vì «đau bụng» khẩn cấp. Bạn tù cùng giam cho rằng chú tôi bị trại giam đầu độc.
Những oan hồn tôi không thể quên. Việt Minh từ hồi đó coi tất cả các đảng yêu nước chống Pháp là Việt gian, như Quốc Dân đảng, Đại Việt, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Cách mạng đồng minh, đệ tứ (Trostkyt)… Họ phê phán rất mạnh cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, coi là sai lầm thân Tàu, chuộng Pháp.
Tôi còn nhớ trước năm 1940 – 1941 số đảng viên Quốc dân đảng rất đông, vượt con số đảng viên đảng CS Đông dương ở các nhà giam, ở Côn Đảo. Rất nhiều giáo viên tiểu học các xã, huyện, trí thức nông thôn tham gia phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Rất nhiều trung nông, phú nông, cả địa chủ nhỏ có học tham gia đảng này, về sau bị Cải cách ruộng đất kiểu Mao vu cáo là địa chủ ác bá, là việt gian, bị sát hại gần hết, theo thống kê khi sửa sai con số oan hồn này lên đến hơn 15.000.
Ngoài số nói trên cần kể đến oan hồn của các nhà yêu nước Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm – lãnh đạo nhóm Troskyt, tướng Nguyễn Bình và nhà sử học Trần Huy Liệu – nguyên là đảng viên Quốc dân đảng, cụ Đặng Văn Hướng – nguyên Bộ trưởng không bộ do ông Hồ phong chức và cụ Nguyễn Khắc Niêm, thân sinh ông Nguyễn Khắc Viện, chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước ở Pháp – 2 cụ đều bị tàn sát trong Cải cách ruộng đất.
Cũng cần ghi thêm trong danh sách các oan hồn những cán bộ cộng sản có ít nhiều thức tỉnh đã bị thải loại, ra rìa, như tướng Đặng Kim Giang, tướng Nguyễn Vịnh, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Lê Trọng Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Hoàng Minh Chính… trong vụ án «xét lại», Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán… trong vụ Nhân văn Giai phẩm, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ, Nguyễn Cơ Thạch, Võ Nguyên Giáp… từng có tư duy độc lập chống lại một số chủ trương chính sách của đảng.
Các đồng đội của tôi vào Nam chiến đấu theo lời nguyện «sinh Bắc tử Nam để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc», chết vài chục vạn, hơn 300.000 tử sĩ hiện chưa tìm ra thi hài mộ chí, cũng là những oan hồn, nỗi đau lòng uất hận của hàng vài triệu bố mẹ, anh chị em ruột thịt. Đó là những oan hồn vì khi chiến đấu, tự nguyện hy sinh, các đồng đội của tôi đều mang theo hy vọng rồi gia đình mình, bố mẹ anh chị em mình, đồng bào mình sẽ được hưởng độc lập tự do, an bình, phồn vinh hạnh phúc. Những hy vọng thiêng liêng ấy đến nay vẫn còn xa vời. Ngược lại đất nước còn bị ách Bắc thuộc từ sau mật đàm Thành Đô năm 1990, tự do tư tưởng, ngôn luận còn bị cấm đoán, trừng phạt, an ninh của nhân dân, nông dân, trí thức, nhà kinh doanh tự do bị đe dọa, các chiến sỹ yêu nước, đòi tự do cho nhân dân bị tù đầy, chênh lệch giàu nghèo tồi tệ hơn thời phong kiến, thực dân, đảng cộng sản biến thành lực lượng kìm hãm đà tiến bộ, phát triển của đất nước, mắc nợ hàng triệu oan hồn đã hy sinh do những lời đường mật giả dối.
Tôi có nhiều anh em, cháu, – con các bà chị ruột và chị họ vào Nam chiến đấu và hy sinh ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, Bình Định nay vẫn chưa tìm ra thi hài, mộ chí. Đã đến lúc phải nói thẳng ra là gia đình và các cháu đã bị lừa. Họ đưa ra Luật nghĩa vụ quân sự, tuyên truyền về vinh quang trai thời loạn là sinh Bắc tử Nam, cưỡng bức các cháu bỏ học cầm súng, bắt ký các bản tình nguyện nhập ngũ, buộc bố mẹ phải ký tên «vinh dự hiến con cho Tổ quốc», trong khi con cháu các quan lớn hầu hết đều được xuất ngoại học tập ở Liên Xô, Trung Quốc , Ba lan, Đông Đức, Tiệp… Một sự bất công khổng lồ. Bố mẹ các cháu tôi lo nghĩ tiếc thương con, ban đêm xụt xùi khóc, nhưng vẫn phải tỏ ra vui vẻ khi tiễn con vào Nam. Các cháu đều miễn cưỡng ký giấy «tình nguyện vào Nam chiến đấu, đâu cần xin có mặt» theo ý nguyện (cưỡng bức) của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cả một khoa học bịp bợm thành hệ thống.
Tôi đã từng nhiều lần vào Nam cùng các đơn vị, vào Bình Trị Thiên, rồi vào Tây Nguyên – Kon Tum, Gia Lai, vào Bình Định, Buôn Ma Thuột, Bình Long, Sài Gòn… có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời. Hoặc có khi tử trận, nhưng giấy báo tử để chậm vài năm là thường, vì chiến tranh khốc liệt, tử sỹ nhiều, đơn vị giải thể, tiêu tùng hết, nhiều đơn vị sát nhập vào nhau, sổ sách mất, cháy, chỉ huy thuyên chuyển liên miên, không có nền nếp chính quy, kiểu du kích, đại khái, lem nhem.
Cho đến chuyện quản lý tù binh Mỹ chặt chẽ, có sổ sách hàng ngày mà cuối cùng vẫn mất tích, không lý giải được, lên đến hơn 100 người, đủ biết công việc quản lý của quân đội thời chiến luộm thuộm ra sao.
Ở các nước văn minh, với quân đội hiện đại, họ rất quan tâm đến việc thông tin, thư từ gia đình quân nhân được chuyển nhanh nhất, chu đáo nhất đến tay chiến sĩ ngoài mặt trận. Đây là trách nhiệm, đền đáp thiết thực có ý nghĩa nhất những hy sinh của gia đình và các quân nhân. Ở Việt Nam, đảng Cộng sản cho việc cố tình bặt tin là biện pháp cưỡng bức để các chiến sĩ không còn suy nghĩ thao thức mong chờ thư đi từ lại, một lòng một dạ hy sinh chiến đấu cho những mục tiêu riêng của đảng. Đây là món rất độc của chiến tranh tâm lý. Vì nếu tự do thư từ, thông tin, các chiến sĩ sẽ kể về những trận đánh thiêu thân, cả đơn vị chết quá nửa như sau tết Mậu Thân thì hậu phương sẽ bị chấn động, rất nguy hiểm để kêu gọi tiếp những đợt «sinh Bắc tử Nam», mà phần lớn sẽ không trở về.
Ngoài hàng mấy chục vạn oan hồn trên đây, tôi không thể không nhắc đến vài vạn người chưa chết nhưng bị những oan khiên dằn vặt không kém các oan hồn kể trên. Họ rất đáng thương, nhưng xã hội đã lãng quên họ.
Đó là chừng 20.000 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân (theo thống kê chưa đầy đủ của Cục quân lực Bộ Tổng tham mưu) vào Nam bị chiêu hồi bởi Việt nam Cộng hòa, sau chiến tranh trở về gia đình ở miền Bắc, đã bị hỏi tội, bỏ tù, cải tạo, trả thù, bôi xấu, hạ nhục, hành hạ ra sao, bị gia đình xỉ vả, láng giềng khinh miệt, không sao ngẩng mặt lên được. Theo tôi biết, rất đông anh em đó ở Hà Nội, Hà đông, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh… Một số bảo mạng, cầu an, không chịu được gian khổ, căng thẳng, nhưng không ít có ý nghĩ lành mạnh, không đang tâm bắn vào anh em trong một cuộc huynh đệ tương tàn phi lý vô đạo nên đã chịu chiêu hồi, hy vọng khi chiến tranh kết thúc, không ai nỡ trị tội mình. Đã có nhà văn nào nói lên thảm cảnh của số anh em bị chiêu hồi rồi trở về quê quán này để tiếp tục bị oan khiên, kêu trời không thấu này. Đã có tổ chức xã hội nào cúi xuống nâng đỡ các số phận đen đủi này, tất cả chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi lý vô đạo do đảng Cộng sản gây nên vì những mục tiêu và cuồng vọng riêng.
Nếu tôi tham gia dựng lên những bộ phim về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi sẽ nói đến bản chất của chiến tranh, qua những mặt tối, những góc tối bị che dấu, bị che lấp, nhưng oan hồn, những nỗi oan trái chưa được biết, để có thể nói lên hết mặt trái của cuộc chiến tranh không anh hùng, chẳng oanh liệt, một cuộc nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn đáng hổ thẹn, đáng sám hối. Tít bộ phim có thể là «Những oan hồn – hay mặt trái của chiến tranh», hay «Một cuộc chiến đầy dối trá», cũng có thể là «Cuộc chiến của những người nô lệ», vì đảng Cộng sản tự nguyện làm nô lệ cho học thuyết Mác – Lênin, rồi qua đó bắt nhân dân, quân đội làm nô lệ cho những tham vọng riêng của đảng, để cho đất nước lạc hậu, tàn lụi đổ nát, bất công như hiện nay.
Ông Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Sài Gòn, một đảng viên cộng sản kỳ cựu rất có lý khi đề nghị mỗi ngày kỷ niệm 30/4 là một cuộc Sám hối và xin lỗi của đảng Cộng sản đã chủ động gây nên những tổn thất về sinh mạng, tài sản, thời gian của dân tộc đến mức quá sức chịu đựng của nhân dân, để lịch sử có thể sang trang, đất nước có một chế độ chính trị dân chủ, độc lập thật sự, lãnh thổ toàn vẹn, có nhân quyền, phát triển phồn vinh cho toàn xã hội.
____
Cập nhật lúc 11h20 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
“Kính gửi Ban biên tập Tiếng Dân,
Tôi vừa đọc trên Tiếng Dân hôm nay bài ”Những oan hồn của cuộc chiến” của ông Bùi Tín, thấy có đoạn trong file kèm đây là hoàn toàn sai, bịa đặt:
“Có những điều ít ai biết, đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác. Đây là một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh không có thư từ của người cầm súng, đằng đẵng từ khi lên đường, cho đến khi trở về, lành lặn hay bị thương nặng nhẹ, hay thành người tàn tật suốt đời”.
Trong chiến tranh chống Mỹ, tôi đã ở chiến trường miền Nam 13 năm, biết rõ hoàn toàn không có sự cấm đoán ”độc ác” nào với việc liên lạc thư từ giữa những người chiến đấu ở miền Nam và người thân ở miền Bắc. Tất nhiên là liên lạc có khó khăn, do chiến sự, nhưng tuyết đối không có chuyện cấm đoán, thậm chí trái lại còn được khuyến khích. Rất dễ hiểu: để người cầm súng yên tâm chiến đấu. Cũng dễ hiểu những thư từ đó không được tiết lộ những bí mật quân sự mà mọi người lính đều biết.
Không biết ông Bùi Tín bịa ra chi tiết này để làm gì, sẽ chỉ khiến cho những điều khác do ông nói ra có thể đúng sẽ trở nên khó tin. Khách quan, trung thực, đứng đắn bao giờ cũng cần thiết.
Nguyên Ngọc”
_____
Cập nhật lúc 22h09 ngày 5-10-2017: Chúng tôi có nhận được email hồi âm của nhà văn Bùi Tín, nội dung như sau:
“Thân gửi cô Ngọc Thu và anh Nguyên Ngọc,
Rất cám ơn cô NT đã đăng bài và cho biết ý kiến của anh Nguyên Ngọc.
Tôi hơi bất ngờ vì tôi nghĩ anh Nguyên Ngọc cũng rõ cái tình cảnh không có thư từ liên lạc công khai, chính thức qua bưu điện Nam – Bắc ra sao. Sự bặt tin là phổ biến. Tôi đã sống với cả đại đội ở chiến trường miền Nam hàng tháng, đều là như thế. Anh em chỉ có thể gửi thư tay cho cán bộ, anh em bị thương trở ra miền Bắc đưa tay hộ. Hầu như 100% là thế.
Sao anh NN lại nói là thư từ được gửi bình thường?! Xin hỏi các anh em đi B mà xem. Các gia đình tử sỹ thì rõ.
Tôi có kinh nghiệm bản thân, 3 lần đi B – vào Nam là như thế. Đi 8 tháng, 1 năm rưỡi mà bặt tin. Vợ trẻ, con gái 6 tuổi, con trai 2 tuổi mà bằng bẵng 8 tháng không một tin nào. Gửi ai được? đành chịu. Tôi còn nhớ ghé qua Bộ Chỉ huy Quân khu 5 gặp anh Nguyên Ngọc, các bạn đi bắn con rộc – con vượn bao tử cho ăn cháo rộc. Còn nhớ mãi.
Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến. Cục Chính sách của Tổng cục Chính trị cho biết chậm trung bình là 18 tháng! Nhiều tử sỹ được anh em bạn từ miền Nam ra báo, sau mới được Bộ Quốc phòng báo chính thức.
Cháu Hưng 19 tuổi và cháu Hiệp 23 tuổi của tôi con 2 bà chị hy sinh ở Quảng Ngãi, Bình định đến nay vẫn không tìm ra mộ, thi hài. Cháu Hiệp học rất giỏi, là lớp trưởng. 2 cháu đi không có một lá thư, hy sinh không có một vật gì để lại.
Tôi thấy tất cả là sự thật. Xin làm một cuộc điều tra xã hội học công khai khách quan thì sẽ rõ.
Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi.
Tôi luôn định cho mình sự trung thực trên hết, và cả cái quyền tự do phán xét có trách nhiệm.
Tôi rất quý anh Nguyên Ngọc về tính ngay thẳng, và sự gắn bó với lý tưởng Phan chu Trinh.
Có gì xin anh trao đổi thêm.
Quý mến,
Bùi Tín
Cô Ngọc thu có thể đăng lời nói lại trên đây. Cám ơn“.
_____
Cập nhật lúc 11h10′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được thư của nhà văn Nguyên Ngọc, nội dung như sau:
Thưa anh Bùi Tín,
Tôi vừa nhận được thư anh. Vì đã có quen biết anh, nên nói thật chuyện này khiến tôi buồn.
Ngay trong thư vừa gửi, anh đã tự mâu thuẫn. Đoạn trên anh vừa nói: “Tôi hiểu do chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán … nên báo tử chậm một cách phổ biến”. Chỉ mấy dòng dưới anh đã viết ngược lại: “Tôi nghi đây là một chính sách thâm độc khôn ngoan, do thiếu tình người. Mang tính cưỡng bức tinh vi”. Lần này anh bảo anh “nghi”, còn lần trước, trong bài đăng trên Tiếng Dân, anh khẳng định và kết tội rất dứt khoát: “… đó là tình trạng cực kỳ phi lý, thương tâm, oan trái, từ khi lên đường vào Nam, các cán bộ chiến sĩ đều bị cắt đứt liên lạc một cách tuyệt đối với bố mẹ, anh chị em, bạn bè, vài năm, có khi hàng chục năm, mà không có một lá thư được nhận hay được gửi về nhà. Sự bặt tin thật là buồn đau độc ác”, và bảo đó là “một điều ít ai biết” nay anh phát hiện, tố cáo “một nét độc đáo của cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam …” Sự phát hiện này quả thật rất ấn tượng đối với người chưa biết!
Anh đã ở Tổng cục Chính trị, rồi ở báo Quân đội Nhân dân và cả báo Nhân dân khá lâu, tôi tin anh biết rõ không có một chủ trương hay chính sách như vậy. Thư từ chậm, có khi hằng năm, mấy năm, là do, như chính anh biết và nói “chiến tranh, di chuyển, đơn vị cơ động, giải thể, sát nhập, giải tán”, sao anh lại bịa ra chuyện chủ trương, chính sách độc ác?
Tôi cũng nghĩ chắc chắn anh biết ta không phải là Mỹ, không hiện đại như họ, tổ chức liên lạc của ta khó hơn họ gấp trăm lần. Sao lại quy cái đó thành “cưỡng bức tinh vi”? Thật buồn!
Tôi ở quân khu 5 mười ba năm, tôi biết ở quân khu còn có cả một bộ phận quân bưu để lo việc thư từ cho cán bộ chiến sĩ. Cũng xin chú ý: nếu quả có một chủ trương cắt liên lạc một cách tuyệt đối giữa người đã vào chiến trường với người thân ở Bắc, thì đương nhiên người ta cũng sẽ kiểm soát chặt và ngăn cấm cả việc gửi thư tay. Mà việc này, thì anh biết quá rõ, không ai kiểm soát và ngăn cấm cả, còn được hoan nghênh, khuyến khích … Đây là lô gích rất thông thường, sao anh lại bịa chuyện khác?
Tôi luôn nghĩ việc phản đối, chống lại những sai trái, to lớn và quan trọng hơn nhiều, của đảng và nhà cầm quyền là đúng và cần thiết. Nhưng phải đường hoàng, đứng đắn, không bịa đặt để cố bôi nhọ thêm, chỉ có thể phản tác dụng.
Đôi lời xin nói lại. Mong anh hiểu.
Nguyên Ngọc
____
Cập nhật lúc 12h13′ ngày 6-10-2017: Ý kiến của nhà văn Nhật Tiến, như sau:
Kính anh Bùi Tín,
Theo đề nghị của anh, tôi xin đóng góp một chút dữ kiện. Hồi còn sinh thời, trước năm 1975, Nhật Tuấn em trai tôi cũng đã đi B và lặn lội vài năm trên đường Trường Sơn. Sau 1975, khi Nhật Tuấn vào Sài Gòn, anh em chúng tôi có dịp hàn huyên nhiều chuyện. Khi đề cập đến chuyện nhà, Tuấn có than rằng nhiều năm xa Bố (sống ở Hà Nội), vậy mà không bao giờ có dịp viết thư hỏi thăm vì trong cuộc chiến làm gì có chuyện thư từ qua lại. Ngay cả khi đồng đội có người bỏ xác trên chiến trường cũng không có chuyện thư từ báo tin về cho gia đình hay nữa. Như vậy có ai cho rằng “anh bịa đặt xấu xa” theo tôi là không đúng. Riêng tôi, vẫn theo dõi các bài anh viết, tôi rất cảm phục sự trung thực và tấm lòng của anh đối với đất nước.
Nhật Tiến
____
Ý kiến của ông Nguyễn Quốc Khải:
Cám ơn anh Bùi Tín.
Một số phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam do quân đội Hoa Kỳ phổ biến mà tôi được xem cho thấy bộ đội miền Bắc không có phương tiện chuyên chở trong vùng rừng núi. Cho nên sau nhiều trận giao tranh, trước khi vôi vã rút lui, họ chỉ có thời giờ vội vã chôn vùi bộ đội tử thương trong nhửng mồ chôn tập thể trong rừng núi. Vì vậy chuyện mất xác là chuyện bình thường. Miến Bắc cố tình dấu con số thương vong.
Bộ Đội Việt Nam có nhiều binh tử trận và mất tích ở Campuchia, cho tới nay vẫn chưa tìm thấy hết. Do đó mà trong những lần các nhà lãnh đạo cao cấp của VN gặp lãnh đạo Campuchia đều thảo luận về ba vấn đề then chốt là (1)Tranh chấp biên giới; (2) Người gốc Việt sống ở Campuchia; và (3) binh sĩ Việt mất tích tại Campuchia theo các bài tường thuật của báo Việt Nam gần đây. Việt Nam chiếm đóng Campuchia từ 1978-1889. Trong 10 năm đã không hoàn tất được việc tìm kiếm này. Do đó, VN liên tục kêu gọi Campuchia giúp đỡ.
Thành ra, những lời anh kể phản ảnh đúng sự thật.
Nhân tiện xin gửi các anh chị hai bài báo mới. Bài tiếng Anh có nội dung như bài tiếng Việt nhưng phải cô đọng lại vì số chữ có giới hạn, nhắm vào độc giả Mỹ. Có thể một số anh chị đã có bài này rồi thì xin bỏ qua.
Nguyễn Quốc Khải
____
Cập nhật lúc 19h30′ ngày 6-10-2017: Chúng tôi có nhận được email của nhà báo Bùi Tín, nội dung như sau:
Anh Nguyên Ngọc nói các trạm Giao Liên hồi ấy nhận đưa thư của cán bộ chiến sỹ ra Bắc là điều tôi không hề thấy , dù đã qua mấy chục Trạm giao liên. Không có 1 trạm nào nhận chuyển thư riêng, chỉ chuyển công văn. Nên chỉ có thể gửi thư tay, mà hiếm lắm, vì người vào Nam thì đông, người ra Bắc thì quá hiếm. Tôi nghi và nghĩ rằng đây là một sự cố tình tinh vi.
Tôi biết, tự tin là tôi không xấu tính, bịa đặt vu cáo ai như anh Nguyên Ngọc nhận xét. Biết mà không nói, không dám nói là không nên, là có tội với dân, với nước, với đồng đội.
Tôi đi B 3 lần; đều bặt tin tuyệt đối. Tôi nhớ vợ, 2 con, 7 chị, 1 em ruột, 1con gái lên 6, 1 con trai lên 2, mong tin nhà khắc khỏai mà đành chịu. Tôi về nhà gầy ốm 52 cân chỉ còn 39 cân, vợ tôi khóc than buồn khổ, nhưng may mà còn sống. Không như 2 cháu tôi, ra đi cho đến hy sinh là biệt tăm tích.
đây là một góc khuất của cuộc chiến mọi người cần biết, ngẫm nghĩ cho cuộc đấu tranh hiện tại.
Người dân giăng băng rôn đòi chính quyền xử lý vụ việc.
RFA
VAM100617
00:32/05:54
Người dân tại ấp Phú Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai cho biết chính quyền địa phương đòi cưỡng chế đất của dân trong khi chính quyền đã làm sai quy trình và không thực hiện đúng cam kết. Phóng viên RFA tìm hiểu sự việc qua những người trong cuộc.
Nhiều uẩn khúc trong quy hoạch
Họ là người dân sinh sống lâu đời tại địa phương và đất của họ được cấp phép sử dụng hợp pháp. Nhưng kể từ khi các dự án khu công nghiệp Hố Nai bắt đầu triển khai, chính quyền địa phương đưa ra các phương án giải tỏa và đền bù với hứa hẹn tái định cư tại chỗ cho dân. Tuy nhiên, sau khi dân tin cam kết của chính quyền và nhận tiền bồi thường thì họ bị đứa đến một nơi thật xa, không như thỏa thuận.
Bà Lan, một người sỡ hữu đất ở khu vực này cho biết:
“Tôi sinh sống ở đây từ năm 1970, đất cát là do bố mẹ tôi để lại. Đến năm 2001 thì ba cấp chính quyền ở đây họ thông báo đất ở đây có quy hoạch theo quyết định 450. Đến năm 2003 thì gọi chúng tôi nhận tiền. Thì chúng tôi đi nhận tiền rồi. Khi nhận tiền người ta nói là tại đây, từ cái ngã tư đó tới đây là 5 hecta này làm đất tái định cư cho bà con ở đây, là không phải đi đâu xa, tái định cư tại chỗ. Sau khi nhận tiền xong, thì họ đưa tiền nhà trọ một tháng 6 trăm. Hết 6 tháng tôi chẳng thấy đất tái định cư đâu cả. Sau đó cứ tiếp tục nói dối chúng tôi là 6 tháng nữa có. Tái định cư ngay nhà quý vị. Họ đưa đầy đủ sơ đồ vườn cây xanh, dãy nhà liền kề. Chúng tôi chờ đợi mãi tới năm 2009 là các cấp chính quyền đây lại thông báo với tôi đi nhận tái định cư ở vị trí khác, ở ấp Bắc Hòa.”
Thì tôi tìm được một cái văn bản tại văn thư lưu trữ tỉnh Đồng Nai, khu công nghiệp Hố Nai giai đoạn 1 chỉ có 100 hecta. So với quyết định ban đầu thì nó chệnh nhau 129 hecta rồi. -Bà Lan, dân địa phương
Bị thất hứa, người dân đi khiếu kiện và phát hiện ra nhiều uẩn khúc trong quy hoạch.
“Nói chung khu này, ba cấp chính quyền tỉnh Đồng Nai luôn luôn nói với chúng tôi rằng các ông các bà quy hoạch theo quyết định 450 của thủ tướng chính phủ. Là 229 mẫu, nhưng thực sự theo tôi tìm hiểu khiếu kiện trong 17 năm. Thì tôi tìm được một cái văn bản tại văn thư lưu trữ tỉnh Đồng Nai, khu công nghiệp Hố Nai giai đoạn 1 chỉ có 100 hecta. So với quyết định ban đầu thì nó chệnh nhau 129 hecta rồi.
Tôi cứ đi khiếu kiện hoài, cứ lên sở Tài Nguyên Môi Trường, Tỉnh Đồng Nai rồi đi các nơi các sở. Đơn khiếu kiện của tôi tính ra cũng mấy kí lô rồi. Cứ hỏi đi tìm hiểu quyết đinh thu hồi đất, đi tìm hiểu bản đồ quyết định 450, sau này lòi ra quyết định 278 chỉ có 191 mẫu thành lập khu công nghiệp.
Hội đồng nhân dân huyện Trảng Bom có văn bản tiếp xúc cử tri là văn bản 1684 trong văn bản có một đoạn trích như thế này. Phần đất 39 mẫu này không phải đất Phú Sơn, phần đó chúng tôi cho một số công ty làm xe máy, công ty gì đó thuê trước rồi.”
Chính quyền trả lời rằng 39 hecta này đã được cho các công ty thuê từ lâu, và bây giờ ép buộc người dân nhận bồi thường và chuyển đến nơi khác sống. Cụ thể trong văn bản số 9781 này, có ghi rõ: ‘nền đất tái định cư tại xã Bình Minh, huyện Trảng Bom’. Không phải là tái định cư tại chỗ.
Một người dân cũng có đất đai bị nằm trong diện giải tỏa cho biết thêm thông tin về vụ việc này.
“Khi người dân đòi quyết định thu hồi cho cá nhân mỗi một hộ thì không có. Rồi họ trích ra cái điều, một cái văn bản của 306 của bộ Tài Nguyên Môi Trường là có văn bản hướng dẫn luật năm 93 là khi nhà nước thu hồi đất sẽ không có quyết định thu hồi cho từng cá nhân, hộ gia đình. Nhưng phải có cái thu hồi của tỉnh là quyết định thu hồi tổng thể. Nhưng hiện tại bây giờ chính quyền không đưa ra được cái quyết định tổng thể của tỉnh. 278 là quyết định thành lập khu công nghiệp, với diện tích bằng đó. Sau đó là quyết định 450 cho thuê đất.”
Khủng bố tinh thần
Đúng ra trình tự thủ tục anh phải có quyết định thu hồi đất. Ở đây không có. Ụp một cái quyết định cưỡng chế. -Dân địa phương
Dù không đưa ra được quyết định thu hồi đất như thắc mắc của người dân; chính quyền lại khiến dân thêm bức xúc khi bàn hành một số văn bản phạt cảnh cáo những hộ dân không chịu giao đất.
“Tới năm 2005 thì đưa ra một quyết định cảnh cáo phạt cảnh cáo về hành vi không chấp hành quyết định thu hồi đất để giao đất cho nhà đầu tư và dân kiện lại, thì chủ tịch UBND huyện lại rút lại quyết định cảnh cáo đó. Không hiểu tại sao chính quyền đưa ra quyết định cho 9 hộ, quyết định ký ngày 11 tháng 9 năm 2017 mà tới ngày 18 tháng 9 dân mới được nhận là quyết định cưỡng chế 9 hộ chưa nhận tiền bồi thường. Chứ không phải tôi đã nhận tiền, tôi ký vào văn bản bàn giao đất mà tôi không giao đất mà cưỡng chế tôi. Đúng ra trình tự thủ tục anh phải có quyết định thu hồi đất. Ở đây không có. Ụp một cái quyết định cưỡng chế. Dân đối thoại lần cuối rồi ngay chiều hôm nay thông báo là tạm ngưng cưỡng chế chờ văn bản chờ văn phòng tỉnh ra thông báo hoặc chỉ đạo mới. Tôi nghĩ đó là một hình thức rất khủng bố tinh thần.”
Vụ việc tại ấp Phú Sơn như vừa nêu cũng tương tự vô số trường hợp khác tại các địa phương trên cả nước. Tình trạng người dân bị chính quyền địa phương thu hồi đất một cách bất minh để giao cho doanh nghiệp và hưởng lợi gây phẩn nộ trong dân chúng; buộc họ phải khiếu kiện đến tận các cơ quan trung ương.
Ngoc Vu is feeling tiếng NHỤC càng vang xa…. xa mãi.Follow
Làm báo thì nên đưa tin cho chính xác nhé.
Phó phòng ăn cắp ở Nhật thì phải ghi rõ là ăn cắp, chứ lại ghi là : gặp sự cố là như thế nào ? Nhật Bản là Đất Nước vô cùng văn minh và lịch sự,nếu ko làm gì sai trái thì họ vô cùng mến khách. Làm gì có chuyện họ mời về đồn công an làm việc ?
Bà mịa … đội quần vì nhục mà….. ..Đi đâu cũng để lại tiếng xấu tiếng nhục cả… ở trong nước quen thói ăn cắp của Dân rồi, nên có đi đâu thì bản chất vẫn ko thay đổi.
Nhục nhã ê chề chưa ???
TTO: Tòa không cho khai tiền ‘chạy’ đại biểu Quốc hội là sai luật
Tình tiết bị cáo Châu Thị Thu Nga – nguyên đại biểu Quốc hội, tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn đầu tư xây dựng nhà đất Housing Group – hai lần xin khai về khoản 1,5 triệu USD “chạy” đại biểu Quốc hội nhưng đều bị chủ tọa nhắc nhở “không nằm trong phạm vi xét xử của vụ án” đặt ra vấn đề tòa có quyền không cho bị cáo khai báo tại phiên tòa hay không?
“Khai báo là quyền và nghĩa vụ của bị cáo”
Đó là ý kiến của thạc sĩ Trần Thanh Thảo, giảng viên khoa Luật hình sự Trường đại học Luật TP.HCM.
Theo ông Thảo, số tiền 1,5 triệu USD được xác định là tiền do bị cáo chiếm đoạt mà có. Việc làm rõ bị cáo đã sử dụng số tiền chiếm đoạt của các khách hàng mua dự án vào việc gì là rất cần thiết.
Bởi làm rõ được đường đi của số tiền này thì mới xác định được số tiền đi đâu và có cơ hội thu hồi lại số tiền này để khắc phục hậu quả vụ án.
Luật không cấm các bị cáo khai, nếu lời khai đó không làm tiết lộ bí mật an ninh quốc gia. Do đó, việc hội đồng xét xử (HĐXX) ngắt lời không để bị cáo khai là không đúng quy định của pháp luật.
Bởi lời khai này không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của bị cáo, nó giúp cho việc làm rõ bản chất của vụ án cũng như những tình tiết liên quan.
“Đặt tình huống những lời khai này có thể phục vụ cho việc mở rộng vụ án thì càng cần thiết phải để bị cáo thực hiện quyền của mình”, thạc sĩ Thảo cho biết.
Trong khi đó, một đại biểu Quốc hội cho rằng lời khai của bị cáo tại phiên tòa nếu liên quan đến vụ án thì cần phải để bị cáo nói hết. Hàng trăm vụ án đã đưa ra xét xử nhưng tòa phải hoàn trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung đều do lời khai của bị cáo xuất hiện thêm tình tiết mới phải được làm rõ.
Dẫn chứng mới nhất là trong phiên xét xử vụ án Trương Hồ Phương Nga và Nguyễn Đức Thùy Dung (lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông Cao Toàn Mỹ) thì HĐXX đã tạo điều kiện để các bị cáo được khai hết, kể cả chi tiết về hợp đồng tình dục.
HĐXX cũng cho thẩm tra các lời khai này ngay tại phiên tòa đối với người bị hại, tòa cũng triệu tập người liên quan đến để làm rõ các tình tiết mới, các lời khai mới này.
Khi phiên tòa xét xử Trương Hồ Phương Nga kết thúc, phó chánh án TAND tối cao đã trả lời trên truyền thông rằng đó là một phiên tòa theo hướng cải cách tư pháp.
Các bị cáo được quyền khai báo, còn việc xem xét đối chiếu các lời khai, làm rõ các tình tiết này là của những người tiến hành tố tụng.
“Việc không cho bị cáo Châu Thị Thu Nga khai về khoản tiền 1,5 triệu USD là không đúng quy định pháp luật”, vị này cho biết.
Rất nhiều vụ án được mở rộng từ lời khai tại tòa!
Đó là khẳng định của ông Vũ Phi Long, nguyên phó chánh tòa hình sự TAND TP.HCM, về việc sử dụng lời khai của các bị cáo tại phiên tòa để mở rộng vụ án.
“Trong quá trình xét xử, TAND TP.HCM cũng đã hoàn trả hồ sơ nhiều vụ án để điều tra bổ sung vì cần làm rõ những tình tiết trong lời khai của bị cáo. Thẩm phán cần phải để cho bị cáo khai hết ý của mình và theo quy định thì bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời khai đó”, ông Long nói.
Đồng thời, ông Long nói thêm trong bối cảnh chống tham nhũng như hiện nay thì lời khai của các bị cáo là đáng quý, nó có thể dẫn dắt đến những vấn đề lớn hơn ngoài phạm vi của vụ án.
Việc xác minh lời khai không quá khó đối với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Về việc TAND TP Hà Nội cho rằng bởi các lời khai về việc chạy đại biểu Quốc hội đã được đối chiếu nên lời khai tại phiên tòa này là không cần thiết cũng nhận được ý kiến của các vị chuyên gia…
Bà Hana Bùi và con gái thứ ba, Michelle Võ. Michelle Võ thiệt mạng trong vụ xả súng vào một lễ hội nhạc đồng quê ở Las Vegas vào tối Chủ nhật tuần trước. (Ảnh gia đình)
“Sáng sớm ngày thứ Hai khoảng 5-6 giờ sáng thì Cathy ghé nhà cho hay là Michelle bị thương,” bà nói về người con gái thứ ba của mình. “Lúc đó tôi giống như là nghẹt thở vậy.”
Bà biết Michelle bị thương ở vai. Bà thầm hy vọng vết thương không quá nghiêm trọng và sẽ mau lành, nhưng bà vẫn nóng lòng muốn biết cụ thể tình trạng của con gái ra sao.
Những cú điện thoại không người trả lời.
Rồi bà chờ đợi. Con gái, con rể và một số người bạn hối hả đáp máy bay tới thành phố Las Vegas, nơi Michelle đang nằm viện.
Khoảng 11 giờ sáng, bác sĩ tuyên bố Michelle không qua khỏi. Những vết thương của cô quá nặng.
Michelle Võ, 32 tuổi, là một trong 58 người thiệt mạng trong vụ xả súng vào một lễ hội nhạc đồng quê ở Las Vegas vào tối Chủ nhật tuần trước. Đó là vụ xả súng hàng loạt làm chết nhiều người nhất trong lịch sử hiện đại của Mỹ.
Stephen Paddock, 64 tuổi, đã nhả hàng trăm phát đạn từ tầng 32 của khu khách sạn sòng bạc Mandalay Bay gần đó. Michelle bị trúng đạn bên trên ngực trái và được một người bạn mới quen giúp đưa vào bệnh viện.
Hung thủ đã chết trong căn phòng chứa đầy vũ khí của ông ta khi cảnh sát ập vào.
Bà Hana đối diện với nỗi đau đớn mà bà không hề chuẩn bị trước. Nỗi đau đớn càng hiển hiện và day dứt khi câu chuyện của Michelle thu hút sự chú ý của truyền thông toàn quốc và các thành viên trong gia đình trả lời phỏng vấn trong nước mắt.
Giờ bà chọn cách giữ cho mình bận bịu tại tiệm cắt tóc Dave’s mà bà làm chủ ở thành phố San Jose, California để tâm trí không bị choáng ngợp bởi bi kịch vừa xảy ra.
Bà tiếp tục chờ đợi. Lần này là điện thoại của bệnh viện báo lúc nào thì gia đình có thể đưa thi thể của Michelle về nhà.
“Trước khi Michelle chết, Michelle có nói với chồng Michelle – hai người lập gia đình khoảng một năm – là Michelle không muốn view (viếng nhìn mặt). Michelle chỉ muốn thiêu,” bà Hana nói với VOA qua điện thoại từ San Jose.
“Cốt thì đem rải tất cả sông, biển, hồ – tất cả những chỗ nào người ta tới du lịch. Không phải riêng sông, biển không nhưng mà Michelle rất thích biển, rồi làm một tang lễ thật lớn ở San Jose. Tại vì Michelle lớn lên ở đây, đi học [trường trung học] Independence ở đây, bạn bè rất là đông.”
Từ khi tin tức về cái chết của cô loan đi vào đầu tuần này, mạng xã hội tràn ngập những lời tiếc thương của bạn bè và gia đình.
“Tôi học cùng trường trung học với Michelle Vo,” một người bạn tên Mekenna Melvin viết trên Facebook. “Suốt bốn năm tôi ngồi cùng lớp, đi trong cùng sảnh và có cùng bạn bè với cô ấy. Cô ấy thông minh lém lỉnh, tử tế, xinh đẹp và đúng là tuýp người nỗ lực nhiều hơn mức trông đợi.”
Sau khi tốt nghiệp trung học năm 2003, cô theo học Đại học California ở Davis và sau đó làm cho một số công ty gần nhà trước khi dọn đến miền nam California làm việc cho công ty bảo hiểm New York Life ở Los Angeles.
Trong một thông cáo gửi cho VOA, Phó chủ tịch công ty bảo hiểm New York Life, viết:
“Giống như mọi người Mỹ, chúng tôi bàng hoàng và đau buồn về thảm kịch khủng khiếp xảy ra ở Las Vegas. Nỗi đau của chúng tôi càng sâu sắc hơn khi biết rằng một thành viên của gia đình New York Life, Michelle Vo, một nhân viên thuộc văn phòng khu vực Pasadena Lớn của chúng tôi, là một trong số những người thiệt mạng. Trong thời điểm khủng khiếp này, chúng tôi dành những suy nghĩ và lời cầu nguyện của mình cho gia đình và những người thân yêu của cô ấy.”
Bà Hana Bùi (giữa) và các con, từ trái, Diane Võ Hawkins, Alex Võ, Cathy Võ Warren và Michelle Võ (Ảnh gia đình)
Bà Hana cho biết tên tiếng Việt của Michelle là Võ Ngọc Chí Mỹ, một cái tên gắn liền với ước nguyện của bà trong khoảng thời gian khốn khó ở Indonesia trong tư cách người tị nạn sau khi bà vượt biên rời Việt Nam vào năm 1981.
“Thời gian mà Michelle ở Indonesia, tôi có bầu Michelle, thì trên đường muốn đi tới Mỹ nên đã đặt Michelle là Võ Ngọc Chí Mỹ,” bà nói.
Bà cho biết thêm lần cuối cùng mà bà nói chuyện với Michelle là khoảng ba, bốn ngày trước khi cô qua đời. Hai mẹ con đã hẹn nhau sẽ họp mặt gia đình vào ngày thứ Sáu này và cô dự định ở chơi một tuần
“Ngày 6 tây tới San Jose thì ngày 13 đi về dưới Los Angeles lại. Michelle sẽ bay. Tôi có nói là lên đây mẹ con anh em trong gia đình sẽ gặp ở nhà hàng Đại Hàn, thành ra ngày mai trên đây vẫn tổ chức ngay cái chỗ đã hẹn với Michelle, lấy cái hình của Michelle để lên ghế, cho Michelle một ghế ngồi kế mẹ.”
Và khi gia đình tụ họp ngày hôm nay, đó sẽ là dịp để mọi người tưởng nhớ về Michelle như một người con, người em và người chị. Một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất của bà Hana về cô là chuyến đi bộ leo núi của họ với nhau cách đây chừng một tháng, ở phía bắc thành phố San Francisco.
Bà Hana Bùi (phải) và Michelle Võ trong một chuyến đi hiking (Ảnh gia đình)
“Rất là vui vẻ,” bà chia sẻ. “Michelle nói ‘Con rất là vui thấy mẹ vẫn đi hiking rất là khỏe.’ Michelle thì cứ lo, nói ‘Con không biết mẹ có đi được không, chỗ đó 8 dặm rồi đi vòng vòng vô xa lắm.’ Nhưng mà đi vẫn bình thường vì mỗi chủ nhật tôi vẫn đi hiking. Kỷ niệm đó rất là gần và rất là vui.”
Một chiến dịch kêu gọi quyên góp ủng hộ Michelle và gia đình, do anh rể của cô khởi xướng trên trang GoFundMe, giờ đã vượt quá 50.000 đôla, vượt xa mục tiêu ban đầu của họ là 10.000 đôla.
Bà Hana cho biết một phần số tiền sẽ được trang trải cho chi phí vận chuyển, đám tang và hỏa táng. Số tiền còn lại sẽ được dành để giúp đỡ những người nghèo và những người cần sự giúp đỡ ở Việt Nam, theo lời bà.
Sự ra đi của Michelle để lại nỗi tiếc thương khôn nguôi cho những người thân yêu của cô và có lẽ người thấm thía nỗi đau đó hơn cả là em trai út Alex.
“Sau khi người chị chết rồi thì Alex rất là hối hận,” bà Hana kể.
“Con trai thì không cởi mở. Alex cảm thấy như là mình thấp hơn chị, học cũng thấp hơn, cảm thấy thua sút chị không muốn nói chuyện với chị. Chị Michelle thì rất thương Alex, muốn nói chuyện mà Alex không cho lại gần, gặp thì nói ‘Hi’ thôi rồi đi chứ không nói chuyện. Từ lúc chị Michelle chết tới giờ thì Alex cởi mở hơn, cảm thấy rất là thiếu sót. Những lời nói đã mất rồi không thể nói lại được. Alex có vẻ gần gũi với mẹ hơn, với chị Cathy và chị Diane.”
Bà Hana nói bi kịch của Michelle đã khiến gia đình bà gắn bó hơn, và bà hình dung tương lai sẽ vẫn như vậy.
“Cuộc đời quá ngắn ngủi,” bà nói bằng tiếng Anh, niềm xúc động chực tuôn trào.
Từ trái qua: Ký giả Trương Minh Đức, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, ông Phạm Văn Trội, ông Nguyễn Bắc Truyển.
RFA
Giải thích về tăng cường bắt bớ đối lập
00:00/00:00
Dọn đường đón APEC?
Sau Đại hội Đảng lần thứ 12 và đặc biệt trong mấy tháng gần đây, chính phủ Hà Nội tăng cường bắt giữ nhiều nhà hoạt động, những tiếng nói không cùng quan điểm chính trị.
Chỉ trong vài tháng qua, Việt Nam đã bắt giữ và kết án ít nhất 11 nhà hoạt động xã hội vì các hoạt động ôn hòa chỉ trích chính quyền. Trong đó chỉ trong vòng 1 tuần lễ vào cuối tháng 7 đầu tháng 8 vừa qua, 5 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ đã bị bắt. Bốn trong số năm người bị bắt với cáo buộc âm mưu lật đổ chính quyền theo điều 79 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Người bị bắt giữ gần đây nhất là anh Nguyễn Việt Dũng, bị bắt hôm 27/9 theo điều 88 Bộ luật hình sự – Tuyên truyền chống Nhà nước.
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Quốc tế (Human Rights Watch) gọi năm 2017 là năm tồi tệ nhất cho nhân quyền Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn RFA vào hôm 4/10, ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách khu vực châu Á thuộc Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, cho rằng có nhiều lý do dẫn đến tình trạng Việt Nam tăng cường đàn áp tiếng nói bất đồng trong thời gian gần đây. Trước hết ông nhận định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay luôn tìm kiếm cơ hội để dập tắt tiếng nói của các tổ chức dân sự và đàn áp những người bất đồng quan điểm chính trị với họ:
Tôi nghĩ họ thực sự lo lắng sau thảm họa Formosa xảy ra vào năm ngoái tại các tỉnh miền Trung. Chính phủ đã tỏ ra lúng túng trong việc giải quyết thảm họa một cách hiệu quả. Vì vậy họ sợ hãi và phản ứng dữ dội với những tiếng nói chỉ trích họ trong vấn đề này.
Đồng thời họ cũng phản ứng mạnh với bối cảnh thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump không quan tâm đến nhân quyền.
Và đặc biệt bây giờ họ đang ra sức đàn áp các nhà bất đồng chính kiến trước Hội nghị Thưởng đỉnh APEC diễn ra tại Việt Nam vào tháng 11 tới đây. Họ muốn đảm bảo rằng hội nghị sẽ diễn ra một cách bình yên và suôn sẻ, mà không có bất cứ vụ biểu tình hay kiến nghị gì về nhân quyền.
Họ muốn đảm bảo rằng hội nghị sẽ diễn ra một cách bình yên và suôn sẻ, mà không có bất cứ vụ biểu tình hay kiến nghị gì về nhân quyền.
– Ông Phil Robertson
Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động dân sự ở Hà Nội cũng đồng tình với quan điểm của ông Phil Robertson rằng chính phủ Việt Nam có vẻ đang ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị APEC và việc dập tắt, bỏ tù những tiếng nói đối lập có thể nằm trong kế hoạch chuẩn bị của họ. Ông nói:
Trước kia cứ hễ chuẩn bị đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng hạn hoặc Tết, họ cũng tìm mọi cách dẹp những lực lượng mà cho coi là gây mất trật tự bây giờ có thể họ cũng nghĩ những nhà đấu tranh là những người gây rối mất trật tự và họ tìm cách chặn trước.
Tuy nhiên, theo quan điểm của ông, thì APEC chỉ là “cái cớ nhất thời” mà thôi. Bản chất sâu xa, theo ông, là kể từ sau Đại hội Đảng XII, chính quyền mới lên lãnh đạo và chủ trương tích cực đàn áp tiếng nói bất đồng:
Càng ngày họ càng đẩy mạnh chuyện này lên. Họ vẫn suy nghĩ rằng họ có sức mạnh trong tay nào là vũ khí, công an với lực lượng hung hậu. Nhưng những hoạt động cảu họ nhiều khi vi phạm luật chính họ đề ra.
Họ tưởng như vậy là họ rất mạnh, nhưng để phải dùng đến những biện pháp như thế chứng tỏ họ đang trong một thế rất yếu và rất lo sợ. Chính nỗi lo sợ đó thúc đẩy họ dùng đến những biện pháp rất cổ điển của các chế độ độc tài đó là tăng cường đàn áp tư tưởng như tuyên truyền, phỉ báng những người đấu tranh, mị dân. Mặt khác, dùng sức mạnh cơ bắp để đè bẹp những tiếng nói khác với chính quyền.
Tuy nhiên ông cho rằng những biện pháp nêu trên về ngắn hạn có thể làm một số người sợ nhưng về dài hạn sẽ hoàn toàn phản tác dụng.
Lên tiếng với RFA, nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Thiện Nhân cho rằng có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đàn áp tiếng nói bất đồng chính trị ở Việt Nam như hiện nay. Thứ nhất, ông nhận định là do áp lực từ quốc tế không đủ mạnh và không bài bản, đặc biệt là Mỹ và châu Âu. Ông nói tiếp:
Thứ hai, phong trào đấu tranh ở trong nước, do sự đàn áp bắt bớ từ những năm trước đã làm phong trào tạm thời lắng xuống. Nhà cầm quyền đã lợi dụng tình thế này để gia tăng thêm nữa để dập tắt phong trào.
Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trước phiên xử ở tòa án thành phố Nha Trang hôm 29/6/2017. Ảnh AFP
Trông chờ quốc tế
Trung tuần tháng 9 vừa qua, Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế của Nghị viện châu Âu, ông Bernd Lange nói rằng nhân quyền sẽ là vấn đề trọng tâm trong đàm phán thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu – EU. Ông Bernd Lange nói tiếp rằng nếu Việt Nam không giải quyết đầy đủ các quan ngại về nhân quyền thì e rằng chuyện thương thảo giữa đôi bên sẽ gặp rắc rối.
Còn ông Daniel J. Kritenbrink, người dự kiến sẽ được bổ nhiệm làm đại sứ Mỹ tại Hà Nội, trình bày trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 9 rằng nhân quyền là một trong những quan tâm của ông.
Họ tưởng như vậy là họ rất mạnh, nhưng để phải dùng đến những biện pháp như thế chứng tỏ họ đang trong một thế rất yếu và rất lo sợ. – TS. Nguyến Quang A
Ông Phil Robertson cho rằng đại sứ Mỹ tại Việt Nam hiện tại là ông Ted Osius cũng rất năng nổ trong vấn đề nhân quyền, tuy nhiên điều tiên quyết là liệu họ có nhận được sự hậu thuẫn từ Washington hay không, bởi vì một mình họ không có đủ thẩm quyền để can thiệp vào nhiều quyết định.
Ông Robertson cho rằng điều duy nhất có thể cải thiện tình hình nhân quyền ở Việt Nam là tăng cường áp lực quốc tế:
Các quốc gia khác, trong đó có những nước tài trợ cho Việt Nam phải đứng lên và làm nhiều việc liên quan đến nhân quyền ở Việt Nam thì mới có thể cải thiện được tình hình. Chúng tôi rất thất vọng với Nhật Bản vì chúng tôi đã bàn thảo với họ về tình hình ở Việt Nam nhưng họ chưa hề làm gì để giúp đỡ. Chúng tôi cũng ngỏ ý với Nam Hàn về chuyện giúp nhân quyền Việt Nam. Chúng tôi đã làm việc với hầu hết các chính phủ tài trợ cho Việt Nam hay những chính phủ có tầm ảnh hưởng lớn đến Việt Nam nhưng họ không làm gì nhiều.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A dự đoán rằng trong tương lai gần tình trạng bắt bớ tiếng nói bất đồng sẽ chưa được cải thiện. Ông cũng cho rằng các nhà tranh đấu không nên “kỳ vọng hão” vào sự giúp đỡ của quốc tế vì “họ còn nhiều việc phải làm”.
Nhà hoạt động Nguyễn Thiện Nhân lại nghĩ rằng ngoài áp lực quốc tế ra, phong trào đấu tranh trong nước cần được đẩy mạnh thì mới có đủ sức để phản kháng lại sự đàn áp của nhà cầm quyền.
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương năm nay sẽ được tổ chức ở Đà Nẵng, Việt Nam với sự tham gia của lãnh đạo 21 nước thành viên. Nhà Trắng cuối tháng 9 vừa qua ra thông cáo xác nhận Tổng thống Donald Trump và phu nhân sẽ tham dự Hội nghị APEC .
Trần Minh Nhật là một trong số 14 thanh niên Công Giáo và Tin Lành bị Việt Nam tuyên án vào năm 2011 về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” theo Điều 79. Ông Nhật bị kết án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế. Ông được phóng thích khỏi nhà tù vào ngày 27/8/2015.
Không cung cấp văn bản tuyên án
Ngày 3/10/2017, nhà hoạt động Trần Minh Nhật nói với VOA rằng ông chỉ mới biết tin mình bị truy nã qua các phương tiện truyền thông báo chí, trong khi lệnh này đã được ban hành từ ngày 4/8.
“Tôi cũng bất ngờ. Họ nói tôi vi phạm án quản chế vì tôi còn 3 năm quản chế. Theo án, tôi bị 4 năm tù và 3 năm quản chế. Tòa sơ thẩm nói như vậy. Nhưng qua phúc thẩm, họ đã bỏ án cho tôi rồi. Tôi đã yêu cầu trích lục phiên tòa và các giấy tờ liên quan để chứng minh tôi không bị án quản chế, nhưng họ không chấp nhận”.
Trần Minh Nhật cho biết trong suốt thời gian thụ án, ông đã nhiều lần yêu cầu được nhận văn bản bản án phúc thẩm của mình, nhưng yêu cầu này đã không được đáp ứng.
“Họ không cấp cho tôi biên bản phiên tòa. Phiên tòa sơ thẩm thì có, nhưng phúc thẩm thì họ không cho. Đó là một việc trái pháp luật. Sau này họ vẫn cứ quyết định tôi bị 3 năm quản chế. Điều này thì tôi phản đối”.
Luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho Trần Minh Nhật trước đây xác nhận việc cung cấp biên bản án phúc thẩm là một trong những quyền lợi của bị cáo. Ông nói thêm rằng theo quy định, luật sư không được cung cấp văn bản của bản án phúc thẩm nên ông không thể xác nhận việc Trần Minh Nhật có bị án quản chế hay không.
“Bản án phúc thẩm người ta không gửi cho tôi nên tôi không xác nhận được. Có nhiều trường hợp người ta tuyên án tại tòa một đằng, nhưng khi ra bản án lại khác đi với lúc tuyên án. Trường hợp đó có xảy ra nên phải căn cứ vào bản án viết trên văn bản thôi”.
Liên tục bị sách nhiễu
Mặc dù không chấp nhận án quản chế, nhưng Trần Minh Nhật nói sau khi ra tù, ông luôn chấp hành quy định của chính quyền đối với người bị án quản chế. Mỗi khi có việc phải ra khỏi địa phương như đi chữa bệnh, nhận bằng tốt nghiệp…, ông đều thông báo cho cơ quan quản lý.
Nhưng trong thời gian 2 năm qua, ông Nhật liên tục bị sách nhiễu, đánh đập gây thương tích nặng nề. Việc trồng trọt, chăn nuôi của gia đình ông ở Lâm Đồng bị ném đá, phá hoại gây thiệt hại nghiêm trọng. Thậm chí nhà của ông còn bị phóng hỏa vào cuối năm ngoái. Vì lý do này, Trần Minh Nhật đã quyết định rời khỏi nơi cư trú.
“Nhà cầm quyền cố gắng tối đa để hạn chế khả năng hoạt động của tôi. Hơn hết, đó là việc tước đoạt quyền sống một cách bình thường, bình yên trong xã hội. Đã rất nhiều lần nhà cầm quyền Cộng sản tấn công, sách nhiễu, đánh đập, phá hủy kinh tế gần như cạn kiệt của gia đình tôi. Tất cả các biện pháp đó nhằm mục đích là bẻ gãy ý chí của tôi. Tôi phản đối tất cả những hình thức này, bởi vì về mặt pháp lý, tự nó cũng đã là sai, và còn có yếu tố phi nhân”.
Trước Trần Minh Nhật, 2 trong số nhóm thanh niên Công Giáo và Tin Lành bị án tù là Nguyễn Văn Oai và Thái Văn Dung cũng bị chính quyền Việt Nam phát lệnh truy nã theo Điều 304.
Nhà hoạt động Trần Minh Nhật nói việc Việt Nam phát lệnh truy nã các cựu tù nhân chính trị đã tạo ra một tiền lệ xấu và cho thấy nỗi sợ hãi của chính quyền:
“Một nỗi e sợ thực sự, đặc biệt trong vụ án của tôi. Họ không còn cách nào khác vì chúng tôi không dễ gì để bị bắt vì những tội khác, nên họ tìm những lý do rất mơ hồ để quy chụp cho mình một cái án. Với lệnh truy nã này, nó gần như một thòng lọng dành cho bất kỳ ai. Bởi vì chỉ cần đi ra khỏi nơi ở của mình là đã có thể vi phạm tội này. Đây là một cách thức mới mà nhà cầm quyền Cộng sản muốn dùng để triệt hạ và làm gương cho các nhà hoạt động khác”.
Phúc trình của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) hồi tháng 6 vừa qua nói các nhà hoạt động vì nhân quyền, các nhà vận động dân chủ và blogger ở Việt Nam “không chốn dung thân”. Trần Minh Nhật là một trong số những trường hợp được nêu ra trong phúc trình. HWR cũng kêu gọi Việt Nam chấm dứt việc trấn áp các nhà hoạt động và nghiêm trị những kẻ tấn công, gây thương tích cho các nhà hoạt động.
Bà Châu Thị Thu Nga, từng làm Tổng giám đốc Tập đoàn đầu tư xây dựng Nhà đất – Housing Group, hai lần xin được khai báo về khoản tiền này trước tòa hôm 5/10, nhưng không được chủ tọa cho phép vì “không nằm trong phạm vi vụ án”, theo báo chí trong nước.
Một phiên họp của Quốc hội Việt Nam.
Tin cho hay, tại phiên tòa xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, luật sư bào chữa cho bà Nga, ông Hoàng Văn Hướng, đã đề cập đến khoản tiền khoảng 30 tỉ đồng mà thân chủ của mình đã khai là dùng để “chạy” làm đại biểu Quốc hội Việt Nam.
Bà Nga xin phép trả lời nhưng chủ tọa nói rằng “nội dung này nằm trong tổng số tiền hơn 157 tỉ đồng chi không có chứng từ của bà” và rằng nó “không nằm trong phạm vi vụ án nên luật sư không hỏi làm mất thời gian”.
Sau khi luật sư đã thẩm vấn xong, bà Nga còn nán lại vành móng ngựa xin được trả lời về nội dung này nhưng chủ tọa phiên tòa yêu cầu bà về chỗ, tờ Tuổi Trẻ đưa tin.
Luật sư Trần Vũ Hải nói rằng trong phiên tòa xử ông Hà Văn Thắm (ảnh) mới đây, “toà đã để các bị cáo khai đưa cho ai tiền”.
Bình luận về động thái này, luật sư Trần Vũ Hải viết: “Vị chủ toạ không cho bị cáo khai về số tiền “chạy đại biểu Quốc hội” (lấy từ tiền thu của khách hàng) với lý do không trong phạm vi vụ án là không khách quan, vô tư và trái luật tố tụng lẫn thực tiễn xét xử”.
“Chính phiên toà xử Hà Văn Thắm, Nguyễn Xuân Sơn ngay tại Toà án Hà Nội này mấy tuần trước, toà đã để các bị cáo khai đưa cho ai tiền chi lãi ngoài, kể cả những vụ công an đang điều tra”, ông Hải lấy ví dụ.
Luật sư của bị cáo Nga cần khiếu nại ngay vị chủ toạ, yêu cầu triệu tập những người bị tố cáo nhận tiền của bị cáo ra đối chất!
“Các tình tiết thành khẩn khai báo và tích cực giúp đỡ các cơ quan pháp luật phát hiện tội phạm là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, nay toà không cho bị cáo nói là tước đi quyền của bị cáo”.
Luật sư Hải viết tiếp trên Facebook: “Theo tôi, luật sư của bị cáo Nga cần khiếu nại ngay vị chủ toạ, yêu cầu triệu tập những người bị tố cáo nhận tiền của bị cáo ra đối chất! Toà phải là nơi sự thật, công lý, bình đẳng được bảo đảm, chứ không phải nơi thẩm phán theo lệnh của ai đó chặn họng bị cáo và luật sư!” Tuy nhiên, ông Hải không nói rõ về sự cáo buộc của mình.
Theo quan sát của phóng viên VOA tiếng Việt, vụ hối lộ “chạy” vào Quốc hội Việt Nam của bà Nga là một trong những tin được tìm kiếm nhiều nhất tối 5/10 trên cả Google lẫn Facebook.
Đây là lần đầu tiên có người công khai thông tin về chuyện chi tiền chạy vào quốc hội Việt Nam, dù các nhà quan sát cho rằng “việc chạy chọt” vào các cơ quan công quyền của Việt Nam không phải là chuyện lạ.
Việt Nam là một trong những nước tham nhũng nghiêm trọng nhất thế giới, theo tổ chức Minh bạch Quốc tế.
Phiên sơ thẩm xét xử cựu đại biểu Quốc hội Châu Thị Thu Nga về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” liên quan tới các dự án nhà đất bắt đầu vào sáng 2/10, và dự kiến kéo dài trong 18 ngày.
Tin cho hay, hơn 500 bị hại cùng hơn 70 người, tổ chức có quyền, nghĩa vụ liên quan được triệu tập. Theo khung hình phạt truy tố, bà Nga đối mặt mức án cao nhất lên tới tù chung thân.
Bà Nga trở thành đại biểu quốc hội khóa 13 năm 2011, nhưng bị miễn nhiệm vị trí này năm 2015 sau vụ bê bối “bán nhà ảo” trị giá hàng trăm tỷ đồng.
Mới đây, tổ chức theo dõi về tình trạng tham nhũng trên thế giới có tên gọi Minh bạch Quốc tế (TI) cho biết rằng Việt Nam đứng thứ 113 trong số 176 nước trong bảng xếp hạng toàn cầu 2016.
Về cuộc chiến chống tham nhũng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy”.
Đầu năm nay, tổ chức này đã công bố một khảo sát, trong đó nói rằng Việt Nam đứng thứ 2 về mức độ tham nhũng trong số 16 nước châu Á – Thái Bình Dương.
Trong phúc trình công bố hồi tháng Ba, trong đó có nhắc tới Việt Nam, TI nhận định rằng “nhiều nước ở châu Á – Thái Bình Dương thất bại trong cuộc chiến chống tham nhũng”, và rằng 900 triệu người ở 16 nước trong khu vực đã phải hối lộ.
Phát biểu tại một phiên họp về chống tham nhũng hôm 31/7, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập tới chuyện “lò” và “củi” trong việc chống vấn nạn này.
Ông Trọng nói: “Khi tiếp xúc cử tri, tôi hay nói: Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được, thế mới là thành công”.