Vẫn chưa xong: Viết sai là phá hoại tiếng Việt

 Vẫn chưa xong: Viết sai là phá hoại tiếng Việt

Posted on Tháng Chín 19, 2017 by chumonglong

19 Dec 1987, Paris, France — Influential French philosopher Jacques Derrida (1930- ), founder of the International College of Philosophy, has written , an essay of French poet Francis Ponge. — Image by © Sophie Bassouls/Sygma/Corbis
  1. Derrida

Chu Mộng Long: Không phải tôi chủ trương khoe lý thuyết mà vì trong tranh luận vụ Từ điển của Nguyễn Lân không ít người mang lý thuyết ra cãi. Tôi buộc phải trưng bày lý thuyết để cho mọi người thấy sự viện dẫn lý thuyết của những người này là học mót, nói hót và cao hơn là ngụy biện.

Lý thuyết phương Tây thường vừa rất trừu tượng ở tầm vĩ mô vừa rất kỹ thuật đến vi mô nên không dễ đọc đối với xứ sở của những trí thức hoặc nói đại khái cho xong hoặc ăn ốc nói mò tỏ ra gì cũng biết. Dốt thì ai cũng dốt, nhưng dốt thì phải học chứ cãi cùn thì dốt lại chồng thêm dốt. Tranh luận để học hỏi và mở mang tri thức thì rất tốt, còn cãi cùn, lấp liếm, xuyên tạc, đe dọa thì không chỉ bộc lộ sự dốt mà còn nguy hiểm.

Do bài trước tôi cố gắng nói cái vĩ mô để có thể cung cấp một phương pháp luận giải quyết nhiều hiện tượng ngôn ngữ lớn hơn điều GS. Nguyễn Huệ Chi thắc mắc. Nhưng không ngờ rất ít người hiểu, thậm chí còn cười nhạo tôi “không tiêu hóa lý thuyết”. Trí thức Việt có đặc điểm: mở mồm là viện lý thuyết, nhưng khi bị bắt bẻ về lý thuyết thì lại tuyên bố rằng tôi đếch cần lý thuyết!

Bài này buộc phải đi thẳng vào vấn đề sau gợi ý của nhà nghiên cứu phê bình văn chương nổi tiếng ở Pháp: Bác Đặng Tiến.

Bác Đặng Tiến có gợi ý rất đúng. “Nên quan tâm đến vai trò của nhà trường phổ thông”. Tôi xin nói thêm, không chỉ nhà trường phổ thông mà cả hệ thống giáo dục và đào tạo. Bởi chữ viết là sản phẩm của giáo dục, không phải sản phẩm của “người bản ngữ” bình dân vô học hay ít học. Chữ nghĩa là tiêu chí tối thiểu để phân biệt người có học và vô học, giỏi và dốt.

  1. Nguyễn Huệ Chivà TS. Nghiêm Thúy Hằng đồng hóa chữ viết với phát âm, buộc phải chấp nhận âm thanh làm tha hóa chữ viết là nhầm lẫn nghiêm trọng, cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Trong khi chữ viết và phát âm tồn tại độc lập và diễn ra theo quy luật khác nhau. Như trong bài viết về Differance, tôi đã nói, chữ viết không là cái ký sinh và phụ thuộc phát âm. Phát âm có thể lệch chuẩn theo xu hướng bình dân hóa, thổ ngữ hóa, thậm chí địa phương hóa, ngọng hóa… tràn lan, nhưng chữ viết luôn có xu hướng đòi hỏi được chuẩn hóa và thống nhất cao. Đó là 2 quy trình ngược chiều. Hiện tượng Việt hóa Hán ngữ trong ngàn năm Bắc thuộc nằm trong quy luật này: giới nho học vẫn chuẩn hóa chữ viết và âm đọc, trong khi giới bình dân thì thổ ngữ hóa, nôm hóa âm đọc theo cách của họ dẫn đến các biến tấu: hợp chúng quốc = hợp chủng quốc, trú sở = trụ sở, ái tình = tình ái, tình yêu, sáp nhập = sát nhập… Đến khi được Latin hóa thì tất yếu phải ghi nhận âm đọc phổ thông theo hướng đã nôm hóa. Sự chấp nhận này vẫn được sàng lọc và chuẩn hóa bởi 1) Chấp nhận Latin hóa theo cách đọc phổ thông những hiện tượng phù hợp với ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa theo cảm thức và kinh nghiệm Việt. Điều này diễn ra không chỉ đối với Hán ngữ mà ngay cả khi ta vay mượn tiếng Tây, 2) Chọn lựa cái tích cực và loại trừ cái tiêu cực để hướng đến sự trong sáng của tiếng Việt.

Cần nói rõ về cái tích cực và cái tiêu cực trong sự chọn lựa để chuẩn hóa. Cái tích cực nằm ở trường hợp làm mờ hoặc mất nghĩa cũ tiêu cực cùng với gia tăng từ và nghĩa mới tích cực. Ví dụ: ẩu tả nghĩa gốc “nôn mửa và ỉa chảy” đã bị mờ nghĩa để thay bằng và thêm vào nghĩa tùy tiện, bừa bãi với mức độ cao hơn cẩu thả. Cái tiêu cực nằm trong trường hợp sử dụng tùy tiện làm giảm nghĩa, gây hiểu nhầm, sai biệt dẫn đến rối loạn ngôn ngữ. Ví dụ: độc giả = đọc giả, tham quan = thăm quan, trong khi “độc giả” là người đọc,  còn “đọc giả” dễ bị hiểu là đọc ảo, đọc giả vờ, đọc láo; “thăm” và “tham” khi đồng hóa đã mất đi sự khu biệt của hệ thống: tham quan, tham gia, tham khảo, tham chiếu,…/ thăm nom, thăm viếng, thăm hỏi…

Chuẩn của ngôn ngữ mà tôi nói đó là tính quy ước để đi đến thống nhất cao trong cộng đồng sử dụng chữ viết. Sự lệch chuẩn có thể diễn ra ở hai mặt tích cực và tiêu cực trên. Mặt tích cực thuộc sáng tạo, mặt tiêu cực do… dốt nát.

Như vậy, việc phát âm khác nhau vẫn được cộng đồng bản ngữ chấp nhận (vì lí do văn hóa, “chửi cha không bằng pha tiếng”), nhưng nếu viết theo phát âm với tác động tiêu cực thì sẽ bị loại trừ.

Tôi phải nhắc lại vấn đề chữ viết vì chữ viết ban đầu tồn tại phổ biến ngoài đời sống giao tiếp (các dấu hiệu ghi nhận đơn giản bằng thị giác), sau đó đã tiến đến quy phạm hóa và tồn tại trong nhà trường, dù là nhà trường thời cổ đại. Không cần đến lý thuyết J. Piaget, chúng ta cũng có thể xác nhận: nói không cần phải học, nhưng viết thì cần phải học. Trẻ em nói thông trước khi học chữ. Người ta không ai mù tiếng mà mù chữ. Học không đến nơi đến chốn thì viết tùy tiện, viết sai. Viết sai thì cả giao tiếp ngoài đời lẫn trong trường học đều không được chấp nhận và bị chê cười, trừ thầy dốt chấp nhận. Thầy Nguyễn Huệ Chi và cô Nghiêm Thúy Hằng nhầm tưởng những cách viết “thăm quan”, “đọc giả” (kể cả những cách viết ngọng như Nguyễn Lân được giới lò ấp bảo vệ, kéo theo quan chức viết sai như Trịnh Xuân Thanh) là được cộng đồng chấp nhận ư? Trên các văn bản quảng cáo, trên báo, những lỗi này đều bị phản ứng và chê cười, trừ những người ít học không phân biệt được đúng sai rồi làm theo. Lỗi này không do “mù chữ Hán” hay do “Latin hóa” gì cả.

Đúng như bác Đặng Tiến gợi ý, theo tôi, nhà trường dạy chữ phải dạy chuẩn, các lỗi về chữ viết ở ngoài đời sống là do tùy tiện, thậm chí gọi đúng tên là dốt chứ không phải tôi mạo phạm. Nhà trường và giáo dục có trách nhiệm chuẩn hóa chứ không thể nói là do sự sinh động của đời sống bản ngữ đành chấp nhận theo. Chữ viết trong quá trình phát triển của nó là sản phẩm của giáo dục chứ không theo quy luật “người bản ngữ luôn luôn đúng”! Đó là lí do tôi phải mất thời gian nói về lịch sử của chữ viết trong mối quan hệ độc lập với âm thanh, nhưng hình như nhiều vị đã không đọc được hoặc có đức “không cần lý thuyết”.

Giáo dục chân chính dùng cái hay, cái trong sáng để thức tỉnh và khai phóng dân chúng. Giáo dục chân chính không duy trì và khuếch trương cái dở, cái lú lẫn để làm mê muội, ngu dân.

Bài này chỉ dừng lại ở sự rối loạn chữ viết do dốt mà ra. Những rối loạn trầm trọng hơn trong sự viết như cách dùng từ, dùng thành ngữ, tục ngữ không hiểu nghĩa dẫn đến rối loạn hệ thống và sự khu biệt, hiểu chủ quan, đại khái làm mất gốc văn hóa, các định kiến ngôn ngữ địch/ ta, chính thống/ phi chính thống, tục/ thiêng, nam/ nữ… làm méo mó tiếng mẹ đẻ, tôi sẽ nói trong một bài khác. Sự phá hoại này bộc lộ sâu sắc quá trình không phải do “Latin hóa” mà do “bình dân hóa”, “đại chúng hóa”, “vô sản hóa” của những trí thức bình dân học vụ đang thống trị học thuật.

———-

Phản hồi của PGS Đoàn Lê Giang và  GS. Nguyễn Huệ Chi:

– Đoàn Lê Giang: Anh Chu Mộng Long nói hoàn toàn đúng. Người làm ngôn ngữ học nghiên cứu các hiện tượng của ngôn ngữ đời sống, bao gồm cả cái sai và dốt. Trước các hiện tượng ấy, nhiều người không có bản lĩnh cứ tưởng nó tồn tại trong đời sống thì nó được chấp nhận, thậm chí coi là chuẩn luôn. Rồi vài ông liều, dốt và tham đưa nó vào từ điển như Vũ Chất, NL, lại càng được thể cho những người làm ngôn ngữ học chưa tới nơi coi nó là chuẩn. Đáng lý ra người làm ngôn ngữ phải làm ngược lại: vạch ra sai lầm của mấy ông dốt và liều để cho tiếng Việt trong sáng hơn. Nếu thỏa hiệp với cái dốt, liều (lại học phiệt nữa) thì con em chúng ta viết lõ điếu hay nõ điếu, xàm xỡ hay sàm sỡ đều được, thầy cô giáo giải thích cho học trò “hàn” trong “hàn mặc” là lạnh nhé… cũng được luôn. Thế thì sinh ra người làm ngôn ngữ làm gì cho tốn tiền thuế của dân?

– Nguyễn Huệ Chi: Cả Chu Mộng Long và Đoàn Lê Giang nói đều có lý. Thú thật, lúc đầu mình cũng nghĩ sự tha hóa trong cách hiểu từ Hán Việt không thể trở thành quy luật được, nhưng khi hỏi một người bạn thân là người chuyên sâu ngôn ngữ học điều này, bạn ấy nói, cái bất thường sẽ trở thành tất yếu khi được cả cộng đồng chấp nhận anh ạ. Thế là mình đâm hoảng, và bàn với anh Hà Văn Tấn (1992) kiến nghị Bộ GD cho học sinh phổ thông học một số giờ Hán ngữ, sau khi mình có cuộc tiếp xúc với một số học giả Nhật họ đề xuất: Việt Nam không cho học sinh học một số giờ cổ Hán ngữ thì sẽ không bảo tồn được vốn liếng văn hóa cha ông để lại trong hàng nghìn năm. Tất nhiên, mình nghĩ, điều các bạn nói cũng cần trao đổi thật thấu đáo trong giới ngôn ngữ học.

Có 3 lý do để ông ta khuấy động đất nước khi đề ra thay đổi ngôn ngữ tiếng Việt

 
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 3 people, text
Đoan Tố Như added 2 new photos — with Joseph Tuấn Trần 

 

🎉Bùi Hiền không điên không ngớ ngẩn. Và đây không phải chuyện đơn giản.

Có 3 lý do để ông ta khuấy động đất nước khi đề ra thay đổi ngôn ngữ tiếng Việt

🌼Lý do thứ 1

Tất cả những việc gì ĐCSVN làm đều do Trung Cộng hoạch đinh, ĐCSVN chỉ thi hành mà thôi. 
Trung Quốc muốn VN thay chữ Viết, để xoá sổ nền văn hoá tự chủ tự cường nước ta. Và thời gian rục rịch chuẩn bị sẽ là không nhanh và liền được và không bao lâu sẽ tới ngưỡng cửa 2020, và thấy chuyện thay tiếng Việt sẽ là không cần thiết nữa. Thế là Sẽ thay vào đó là Tiếng Tàu. Bởi dân Tàu sau này sẽ tràn qua rất đông

Trước mắt dân Việt đang bị đưa đến sự mất gốc mất nguồn.

🌼Lý do thứ 2

ĐCSVN tay sai của tàu. Đang cố tình làm ồn dư luận để không ai để ý đến hàng ngàn ngàn người tàu đang tràn vào Việt Nam qua những của khẩu Việt Trung

🌼Lý do thứ 3

( lý do này rất hy hữu, nhưng nó có thể là 1 lý do)

ĐCSVN đang cầu cứu 92,000 triệu đồng bào trong nước, hay phản kháng hãy biểu tình hãy đình công, hãy cho các con cái ở nhà đừng cho đi học nữa.

Bởi bản thân họ cũng đang là cá nằm trên thớt, không dám ngo ngoe, hoặc như con chó bị chặt đứt gân tay gân chân tàn phế rồi.

Chỉ cần có thái độ phản kháng là Tàu thịt liền, sẽ có những cái chết không rõ nguyên nhân, hoặc do bị con virus lạ xâm nhận cơ thể dẫn đến cái chết.

Hiện diện của Trung Quốc trên lảnh thổ Việt nam

 
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: 1 person, closeup
Đạt Tiến Nguyễn added 3 new photos.

 Trung Quốc bơm bao nhiều tiền cho ông Bùi Hiền để làm đề án Tiếng Việt kiểu mới? Đây là câu hỏi mà những người Việt Nam yêu nước cần quan tâm. Dưới cái nhìn chính trị thì đây là một đề án khốn nạn nhất từ trước đến nay! Nó khốn nạn nhất là vì không chỉ có ông Bùi Hiền mà còn có cả một số người đang nắm giữ quyền lực chính trị cũng ủng hộ cho đề án này.

Qua những động thái, và qua những phát ngôn của một số quan chức thì Trung Quốc đang rất muốn đưa tiếng Trung vào môi trường giáo dục của Việt Nam để dần dần sẽ thôn tính Việt Nam một cách trọn vẹn. Nhưng nếu muốn đưa được tiếng Trung vào môi trường giáo dục của Việt Nam thì trước hết phải phá nát Tiếng Việt hoặc ít ra cũng phải làm giảm đi tầm quan trọng của Tiếng Việt đối với người dân Việt Nam.

Điều này thì không có gì khó hiểu đối với những người nghiên cứu chính trị, vì nếu muốn thôn tính được một quốc gia khác thì trước tiên phải đưa được ngôn ngữ vào môi trường giáo dục để truyền bá những tư tưởng thuần phục để dễ bề cai trị. Trung Quốc ngày nay đã làm cho Việt Nam bị rối loạn cả về chính trị và kinh tế nên Trung Quốc bơm tiền cho những đề án kiểu như của ông Bùi Hiền thì không thể tránh khỏi.

Chưa ai biết đề án Tiếng Việt kiểu mới của ông Bùi Hiền sẽ như thế nào, nhưng khi Trung Quốc đã dùng tiền để bắt buộc Việt Nam phải lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì mọi thứ khác đều có thể xảy ra. Nếu phải bỏ ra hàng tỷ đô cho đề án Tiếng Việt kiểu mới mà thành công thì Trung Quốc sẵn sàng chi cho ông Bùi Hiền, vì cái lợi của Trung Quốc là phá đổ được văn hóa của người Việt Nam, chia rẽ được người Việt Nam và làm cho dân tộc Việt Nam bị rối loạn.

Khi Trung Quốc đã phá đổ được văn hóa của người Việt Nam, chia rẽ được người Việt Nam và làm cho dân tộc Việt Nam bị rối loạn thì Trung Quốc sẽ rất vui mừng. Trung Quốc vui mừng vì nhìn thấy người dân Việt Nam phải bỏ thời gian đi học lại Tiếng Việt kiểu mới, phải chi hàng núi tiền cho một đề án vô bổ, phải luẩn quẩn trong sự ngu đốt mà cứ tưởng mình khôn.

Người dân Việt Nam hãy cảm ơn cụ Alexandre de Rhodes!

Quân Hoàng posted 2 updates.
Image may contain: 1 person, text
Đạt Tiến Nguyễn

 

Thật lòng mà nói thì không phải đầu óc ai cũng có thể sánh được với cụ Alexandre de Rhodes để mà sáng chế ra chữ quốc ngữ đâu! Theo tài liệu sử thì cụ Alexandre de Rhodes có quốc tịch Pháp nhưng lại có nguồn gốc là người Do Thái. Chỉ cần nói đến nguồn gốc là người Do Thái thì cũng đủ để hiểu về độ thông minh và phương pháp làm việc của họ như thế nào rồi.

Không chỉ có xuất thân là một người Do Thái mà cụ Alexandre de Rhodes còn là một tu sỹ Dòng Tên. Khi nói đến các tu sỹ Dòng Tên là người ta phải nghĩ ngay đến những bậc trí thức tầm cỡ quốc tế. Cứ nhìn vào hệ thống các trường đại học của Dòng Tên trên thế giới thì sẽ hiểu được tầm mức của họ như thế nào. Các trường đại học tốp đầu của các nước dân chủ văn minh thì đa số là của Dòng Tên.

Cụ Alexandre de Rhodes là một người được đào tạo ở những trường danh tiếng trên thế giới và là một nhà ngôn ngữ học nên sự hiểu biết về chuyên môn của ngôn ngữ thì không còn gì phải bàn. Cụ Alexandre de Rhodes là người được Dòng Tên sai đi truyền giáo và khai sáng văn minh. Để được sai đi truyền giáo và khai sáng văn minh thì không phải tu sỹ nào cũng được mà phải là những người có lòng đạo đức và trí tuệ hơn người.

Khi nói đến đi truyền giáo và khai sáng văn minh thì thường là phải đến những vùng hoang sơ, lạc hậu và phải chấp nhận sự hy sinh vất vả và có khi là phải hy sinh cả mạng sống. Chính vì điều này mà theo truyền thống trước đây của người Phương Tây thì mỗi khi trong gia đình hay cộng đồng có một tu sỹ được sai đi truyền giáo và khai sáng văn minh thì mọi người cùng nhau quỳ xuống hôn chân vị tu sỹ, vì người ta quan niệm đây là bàn chân đẹp nhất và có ý nghĩa nhất.

Cụ Alexandre de Rhodes sáng chế ra chữ quốc ngữ cho người Việt Nam thì hoàn toàn không mang ý nghĩa vinh danh cá nhân hay mục đích chính trị mà là mang ý nghĩa phục vụ công việc truyền giáo và khai sáng văn minh cho người dân Việt Nam. Nhờ có chữ quốc ngữ mà Việt Nam đã đi trước các nước trong khu vực tới 3 thế kỷ và điều quan trọng nhất là nhờ có chữ quốc ngữ mà người Việt Nam đã thoát được sự kìm hãm bằng chữ viết của người Trung Quốc.

Sử sách có ghi lại rằng, khi cụ Alexandre de Rhodes sáng chế ra chữ quốc ngữ thì không phải là cụ ngồi một chỗ để ghép chữ này với chữ kia mà cụ phải đi đến các vùng miền khác nhau để nghe người dân nói giọng gì và từ đó mới sáng chế ra chữ quốc ngữ một cách có khoa học. Một công việc tưởng đơn giản nhưng không đơn giản chút nào. Chỉ có những con người có độ thông minh cao và có lòng yêu mến người dân Việt Nam một cách nồng nàn thì mới có thể làm được công việc này.

Người dân Việt Nam hãy cảm ơn cụ Alexandre de Rhodes!

TÔI VIẾT THƯ ĐỀ NGHỊ PHÁI ĐOÀN LIÊN MINH CHÂU ÂU TẠI VIỆT NAM THAM DỰ PHIÊN XỬ NGÀY 30/11/2017

Trần Bang shared Tuyet Lan Nguyen‘s post.
TÔI VIẾT THƯ ĐỀ NGHỊ PHÁI ĐOÀN LIÊN MINH CHÂU ÂU TẠI VIỆT NAM THAM DỰ PHIÊN XỬ NGÀY 30/11/2017

7h30 phút sáng ngày 30/11/207 sắp tới đây tòa án cao cấp Đà Nẵng sẽ đưa con gái tôi ra xét xử phúc thẩm tại Trụ sở Toà án Nhân dân tỉnh Khánh Hoà.

Mặc dù là mẹ đương sự nhưng đến hôm nay tôi vẫn chưa nhận được giấy mời từ toà án. Theo như tôi biết thì phiên toà công khai bất cứ ai cũng đều có thể tham dự nên tôi quyết định viết thư đề nghị, mong muốn phái đoàn Liên mình Châu Âu tại Việt Nam tham dự phiên xử phúc thẩm ngày hôm đó.
Phiên xử con tôi diễn ra một ngày trước kỳ đối thoại nhân quyền thường niên giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam vì vậy tôi mong muốn họ sẽ đến tham dự phiên xử Quỳnh để có thêm thông tin về tình hình nhân quyền tại Việt Nam và hiểu về sự “công khai” của chính quyền Việt Nam.

Nha Trang
November 27, 2017.

The European Union Delegation in Vietnam
Dear Sir or Madam,

I am Nguyen Thi Tuyet Lan, the mother of human rights defender Nguyen Ngoc Nhu Quynh (a.k.a. blogger Me Nam [Mother Mushroom]).

My daughter will have her appeal hearing on November 30, 2017 at the People’s High Court of Khanh Hoa province.

Thus I am writing to request your presence at the court. As far as I know, the trial will be open to anyone concerned, so there will be no reason for any effort to block you from attending it.

I believe that attending the trial will provide you a good opportunity to have an insight into the trial proceedings and human rights situation in Vietnam.

I look forward to seeing you there soon.

Also, I would love to express my sincere gratefulness to you for the support that you have been giving to my daughter so far.

Yours faithfully,
Nguyen Thi Tuyet Lan

 
Image may contain: 3 people, people standing and outdoor
Tuyet Lan Nguyen

 Nha Trang, Vietnam · 

 

TÔI VIẾT THƯ ĐỀ NGHỊ PHÁI ĐOÀN LIÊN MINH CHÂU ÂU TẠI VIỆT NAM THAM DỰ PHIÊN XỬ NGÀY 30/11/2017

7h30 phút sáng ngày 30/11/207 sắp tới đây tòa án cao cấp Đà Nẵng sẽ đưa con gái tôi ra xét xử phúc thẩm tại Trụ sở Toà án Nhân dân tỉnh Khánh Hoà.

Mặc dù là mẹ đương sự nhưng đến hôm nay tôi vẫn chưa nhận được giấy mời từ toà án. Theo như tôi biết thì phiên toà công khai bất cứ ai cũng đều có thể tham dự nên tôi quyết định viết thư đề nghị, mong muốn phái đoàn Liên mình Châu Âu tại Việt Nam tham dự phiên xử phúc thẩm ngày hôm đó. 
Phiên xử con tôi diễn ra một ngày trước kỳ đối thoại nhân quyền thường niên giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam vì vậy tôi mong muốn họ sẽ đến tham dự phiên xử Quỳnh để có thêm thông tin về tình hình nhân quyền tại Việt Nam và hiểu về sự “công khai” của chính quyền Việt Nam.

Nha Trang
November 27, 2017.

The European Union Delegation in Vietnam
Dear Sir or Madam,

I am Nguyen Thi Tuyet Lan, the mother of human rights defender Nguyen Ngoc Nhu Quynh (a.k.a. blogger Me Nam [Mother Mushroom]).

My daughter will have her appeal hearing on November 30, 2017 at the People’s High Court of Khanh Hoa province.

Thus I am writing to request your presence at the court. As far as I know, the trial will be open to anyone concerned, so there will be no reason for any effort to block you from attending it.

I believe that attending the trial will provide you a good opportunity to have an insight into the trial proceedings and human rights situation in Vietnam.

I look forward to seeing you there soon.

Also, I would love to express my sincere gratefulness to you for the support that you have been giving to my daughter so far.

Yours faithfully,
Nguyen Thi Tuyet Lan

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

CHUYỆN  “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH  TRẦN ĐỖ CUNG

“…Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?…”

 

tu_caitao01

Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông  thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng: “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.

Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Xô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

Trần Đỗ Cung
Nguồn: hon-viet.co.uk/TranDoCung

TOÀN LÁO CẢ! (BS ĐỖ HỒNG NGỌC)

TOÀN LÁO CẢ! (BS ĐỖ HỒNG NGỌC)

“…Chúng ta đang ở một thời đại láo toàn tập, láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội…”

Không biết lịch sử ghi lại các triều đại phong kiến đúng sai như thế nào, cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng. Thế nhưng, thời đại ta đang sống hoá ra toàn láo cả. Rồi lịch sử thời hiện đại sẽ viết sao đây?

  • Thằng doanh nhân bán đồ giả làm giàu, cứ tưởng nó giỏi, hoá ra chẳng phải thế. Nó chỉ là kẻ “Treo dê bán chó”, mua 30.000 bán 600.000 không giàu sao được, thế rồi lúc giàu lên, hàng ngày lên mạng truyền thông dạy đạo đức, dạy bí quyết, dạy cách cư xử.
  • Kẻ thì đem hoá chất trộn vào thức uống, khiến người ta nghiện chất độc, tạo thành thói quen nguy hiểm cho người dùng.. Thế rồi khi có nhiều tiền, anh ta in sách dạy người ta tư duy, dạy cho tuổi trẻ cách sống. Nuôi đội ngũ nhà văn nhà báo tung hô mình như thánh sống, tuyên bố như đấng khải đạo.
  • Một ông chuyên làm thép, nghĩ toàn chuyện xây dựng những công trình có hại cho dân, nhưng lúc nào cũng mặc áo lam, đeo tràng hạt, nói toàn chuyện Phật pháp.
  • Một tập đoàn làm nước mắm giả, toàn hoá chất, bỏ biết bao tiền để quảng cáo lừa dân, bỏ tiền đầy túi. Một tập đoàn khác mua hoá chất quá hạn để sản xuất nước uống, lừa những kẻ phát hiện sai sót của sản phẩm mình để đưa họ vào tù, lại chuyên nói lời có cánh…… Kẻ buôn gian bán lận lại dạy cho xã hội đạo đức làm người.

Thời đại đảo lộn tất! Hài thế, mà vẫn không thiếu kẻ tôn sùng, xem các ông ấy như tấm gương sáng để noi theo. Khi vỡ lở ra, chúng toàn là kẻ nói láo.. Tất cả đều chỉ tìm cách lừa đảo nhau.

Toàn xã hội rặt kẻ nói láo, ca sĩ nói láo theo kiểu ca sĩ, đạo diễn nói láo theo kiểu đạo diễn, diễn viên nói láo theo kiểu diễn viên. Ừ thì họ làm nghề diễn, chuyên diễn nên láo quen thành nếp, lúc nào cũng láo. Thế nhưng có những kẻ chẳng làm nghề diễn vẫn luôn mồm nói láo.

Thi gì cũng láo, từ chuyện thi hát đến thi hoa hậu, chỉ là một sắp đặt láo cả… Ngay chuyện từ thiện cũng rặt chi tiết láo để mua nước mắt mọi người. Cứ có chuyện là loanh quanh láo khoét. Kẻ buôn lớn láo, kẻ bán hàng rong ở bên đường cũng lừa đảo, láo liên tục. Mỗi ngày mở truyền hình toàn nghe nói láo từ tin tức cho đến quảng cáo, rặt láo. Nhưng cả nước đều hàng ngày nghe láo mà chẳng phản ứng gì lại cứ dán mắt mà xem.

Thằng đi buôn nói láo đã đành, vì họ lừa lọc để kiếm lời. Thế mà cô hiệu trưởng nhà trẻ, anh hiệu trưởng trường cấp ba, ông hiệu trưởng trường đại học cũng chuyên nói láo. Thực phẩm cho các cháu có giòi, cô hiệu trưởng chối quanh… Các cháu học sinh đánh nhau như du côn, làm tình với nhau trong nhà trường, anh hiệu trưởng bảo là không phải, tảng bê tông rớt chết sinh viên, ông hiệu trưởng bảo là tự tử. Thế rồi tất cả đều chìm, đều im im ỉm. Người ta đồn tiền hàng đống đã lót tay bộ phận chức năng để rồi để lâu cứt trâu hoá bùn.

Mấy ngài lãnh đạo lại càng nói láo tợn Chỉ kể vài chuyện gần đây thôi, chứ kể mấy sếp nhà ta phát biểu láo thì thành truyện dài nhiều tập. Từ chuyện quốc gia đại sự cho đến chuyện hưng vong của tổ quốc, toàn chuyện quan trọng đến vận mệnh quốc gia thế nhưng dân toàn nghe láo. Kẻ thù mang tham vọng, âm mưu để biến nước ta thành chư hầu, chuyện này rõ như ban ngày, ai cũng thấy, ai cũng hiểu, thế mà các quan toàn nói tào lao, láo lếu.

  • Đến chuyện Formosa, khi biển nhiễm độc, cá chết, các quan bày lắm trò láo để mị dân, lấp liếm tội ác của thủ phạm, tuyên bố, họp báo, trình diễn ăn hải sản, ở trần tắm biển…tất cả đều rặt láo.
  • Đến chuyện BOT với các trạm đặt không đúng chỗ cho đến mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất, các quan ở Bộ Giao thông lại được dịp nói láo, tuyên bố rùm beng để bênh vực những tập đoàn và cá nhân vi phạm.
  • Khi vụ thuốc giả của VN Pharma nổ ra, cả một hệ thống truyền thông của Bộ Y tế kể cả các quan chức cấp bộ đều tuyên bố láo, tìm mọi cách che giấu tội ác của những tên buôn thuốc giả.
  • Rừng Sơn Trà quý hiếm, các ông vì tư lợi cá nhân, ra lệnh xây cất, chấp nhận nhiều dự án khai thác, các nhà chuyên môn, nhân dân phản ứng dữ quá,các ông bắt đầu chiến dịch nói láo, chạy quanh tìm kế hoãn binh.

Đến chuyện cá nhân của các quan thì lại càng nói láo tợn… Ông bí thư xây biệt phủ như cung điện của vua chúa ở xứ nghèo phải sống nhờ trợ cấp của chính phủ cho đến ông giám đốc môi trường xây biệt phủ mênh mông ở xứ lắm rừng, rồi đến ông lãnh đạo ngành ngân hàng với những dãy nhà hoành tráng trên miếng đất hàng ngàn thước vuông. Tất cả đều cho rằng do sức lao động cật lực mà có. Kẻ thì do nuôi gà, trồng cây, anh thì bảo chạy xe ôm đến khốc cả người, người thì nhờ bán chổi, trồng rau, kẻ khác thì bảo nhờ tiền của con dù con chẳng làm gì ra tiền và có đứa thì mới mười chín tuổi.

Lương thì chẳng bao nhiêu mà quan nào cũng vi la trong và ngoài nước, nhà nghỉ trên núi, nhà mát dưới biển, lâu đài, nhà to ở nước ngoài. Con cái ăn chơi như các công tử, tiểu thư quý tộc. Các bà vợ thì như các mệnh phụ, chỉ xài đồ dùng ở nước ngoài, đi shopping các mall lớn ở nước ngoài như đi chợ… Thế nhưng các ngài luôn phát biểu yêu dân, thương nước, yêu tổ quốc, đồng bào, và luôn nhắc nhở đất nước còn nghèo phải học tập ông này, cụ nọ để có đạo đức sáng ngời.

Các lãnh đạo xem rừng như sân nhà mình, phá nát không còn gì… Một cây có đường kính 1m phải mất trăm năm mới hình thành, lâm tặc chỉ cần 15 phút để đốn hạ. Hàng trăm chiếc xe chạy từ rừng chở hàng mét khối gỗ chỉ cần đóng cho kiểm lâm 400.000 đồng một chiếc là qua trạm. Rừng không nát mới lạ. Khi rừng không còn, lệnh đóng rừng ban ra, các lãnh đạo địa phương toàn báo cáo láo với chính phủ và có nơi tìm cách tiếp tục vét cú chót bằng cách làm trắng những cánh rừng còn lại..

Rừng bị tận diệt vì nạn phá rừng, rừng còn bị huỷ diệt bởi những dự án thuỷ điện. Tất cả đều có sự tiếp tay của các quan và ban ngành chức năng của địa phương. Rừng không còn, lũ về gây tang thương chết chóc, đê vỡ khiến nhà cửa tài sản trôi theo dòng nước, các quan cho là xả lũ đúng quy trình..

Bão chưa tới, lũ chưa về, các quan tỉnh đã ngồi với nhau viết báo cáo thiệt hại để xin trợ cấp. Một anh từng là tổng biên tập tờ báo lớn, sau khi thu vén được hàng triệu đô la bèn đưa hết vợ con qua Mỹ, sắm nhà to, xe đẹp còn anh thì qua lại hai nước, lâu lâu viết bài biểu diễn lòng yêu nước thương dân, trăn trở với tiền đồtổ quốc, khóc than cho dân nghèo, kinh tế chậm lớn, đảng lao đao…

Còn biết bao chuyện láo không kể xiết: Ngay cả thầy tu, các bậc tu hành cũng làm trò láo để quảng cáo chùa của mình, để thêm nhiều khách cúng bái, để thùng phước sương thêm đầy, để nhà thờ của mình thêm tín hữu. Chúa, Phật đành bỏ ngôi cao mà đi khi thấy những kẻ đại diện mình đến với mọi người bằng những điều xảo trá..

Chúng ta đang ở một thời đại láo toàn tập, láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội. Tất cả đều bị đồng tiền sai khiến, bị danh lợi bám quanh. Hơn nữa vì sự thật bi đát quá, đành láo để khoả lấp, hi vọng sẽ an dân. Nhưng thời đại bùng nổ thông tin, dân biết hết nên chuyện láo trở thành trơ trẽn.

Nghe láo quen, chúng ta lại tự láo với nhau và chuyện láo trở thành bình thường, láo để tồn tại, để phấn đấu, để thêm lợi thêm danh, và rồi láo đã trở thành một nếp sống.

Trẻ con học người lớn nói láo rồi tiếp tục những thế hệ nói láo. Ở nhà trường nghe cô thày nói láo, ra đời nghe thiên hạ nói láo, về nhà lại được nghe nói láo từ cha mẹ, mở máy nghe, nhìn cũng rặt điều láo.

Một nền văn hoá láo đã nẩy sinh và phát triển.
Hỏi sao trẻ con không láo và tương lai lại tiếp tục láo. Nghĩ cũng buồn!

Ngày cuối tháng 10/2017
Bs Đỗ Hồng Ngọc

Dân Đồng Nai mất tiền tại hàng loạt quỹ tín dụng

 

Dân Đồng Nai mất tiền tại hàng loạt quỹ tín dụng

Người dân tụ tập trước Phòng Giao Dịch của Quỹ Tín Dụng Thái Bình để đòi tiền. Trong hình, ông Hoàng Văn Lục (trái) nói ông gửi vào quỹ này gần 8 tỷ đồng (khoảng $352,283). (Hình: Thanh Niên)

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Sau khi Quỹ Tín Dụng Thái Bình bị đóng cửa, giám đốc bỏ trốn ra nước ngoài với hơn $2.2 triệu, thì nay thêm Quỹ Tín Dụng Dầu Giây và Quỹ Tín Dụng Tân Tiến “mất khả năng thanh khoản” cho khách hàng, bị đưa vào diện “kiểm soát đặc biệt.”

Trong hai ngày qua, nhiều người dân có gửi tiền tại quỹ Tân Tiến, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, đã đến trụ sở quỹ này để rút tiền nhưng không được do quỹ hết tiền chi trả.

Ngày 28 Tháng Mười Một, ông Trần Quốc Tuấn, giám đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam chi nhánh Đồng Nai, xác nhận với báo Dân Trí, đã đưa quỹ Tân Tiến vào diện “kiểm soát đặc biệt do quỹ mất khả năng thanh khoản cho khách hàng.”

“Đến cuối Tháng Mười, 2017, huy động vốn của quỹ đạt hơn 600 tỷ đồng (hơn $26.4 triệu). Thời gian gần đây, khách hàng đến rút tiền đông khiến quỹ mất khả năng thanh khoản, nên Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam chi nhánh Đồng Nai đưa Quỹ Tín Dụng Tân Tiến vào diện kiểm soát đặc biệt trong thời gian sáu tháng để kiểm tra, xem xét sổ sách, thống kê và đối chiếu các khoản tiền vay, các khoản tiền gửi,” ông Tuấn nói.

Theo ông Tuấn, quỹ tín dụng này sử dụng vốn sai quy định và ông đã có văn bản đề nghị Công An tỉnh Đồng Nai vào cuộc điều tra vụ việc.

Quỹ Tân Tiến là đơn vị thứ ba sau quỹ Thái Bình và quỹ Dầu Giây ở huyện Thống Nhất bị Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam chi nhánh Đồng Nai đưa vào diện kiểm soát đặc biệt, do có thể “sập tiệm.”

Trước đó, ngày 20 Tháng Mười Một, hàng chục người dân đã cầm theo băng rôn đến bao vây phòng giao dịch quỹ Thái Bình, thành phố Biên Hòa, liên tục lên tiếng đòi giám đốc quỹ tín dụng trả tiền khiến khu vực trở nên nhốn nháo. Nguyên nhân từ đầu năm 2017, khách hàng của qũy này không nhận được tiền lời như thường lệ. Khi người dân yêu cầu quỹ trả tiền gốc thì giám đốc tìm cách né tránh.

Sau sự việc, công an điều tra thì được biết ông Vũ Công Liêm, giám đốc quỹ, đã cùng người thân bỏ trốn ra nước ngoài “ôm” theo khoản nợ 50 tỷ đồng (hơn $2.2 triệu) của nhiều người tin tưởng gửi vào. (Tr.N)

Chỉ còn chưa đầy 48 tiếng đồng hồ nữa là phiên toà xử phúc thẩm Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sẽ diễn ra.

Dang Tuong and Mike Dang shared Nguyen Marco‘s post.
Image may contain: 2 people, text

Nguyen MarcoFollow

 

Chỉ còn chưa đầy 48 tiếng đồng hồ nữa là phiên toà xử phúc thẩm Blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sẽ diễn ra. Nhiều tổ chức nhân quyền, truyền thông thế giới  đã và đang đồng loạt lên tiếng phản đối bản án 10 năm tù mà nhà nước Việt Nam đã kết án cô và kêu gọi trả tự do ngay lập tức cho cô vào phiên xử phúc thẩm ngày thứ Năm, 30 tháng 11 sắp đến.

2 bài phản biện về vụ PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ sửa đổi lại cách viết “Tiếq Việt”

2 bài phản biện về vụ PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ sửa đổi lại cách viết  “Tiếq Việt”

BẢNG MẪU TỰ TIẾNG VIỆT VỐN ĐÃ HAY VÀ ĐỦ

Quyên Di

Bài viết ngắn này không nhằm “tranh luận” với PGS TS Bùi Hiền về đề nghị “cải tiến chữ Việt” của ông cho bằng, nhân cơ hội này, chúng ta ôn lại với nhau những điểm căn bản của chữ Quốc Ngữ, là thứ chữ dùng mẫu tự La-tinh để ký âm tiếng Việt.

Bài viết rất ngắn này cũng không phải là một công trình nghiên cứu để đem ra thảo luận với các nhà ngữ học và ngôn ngữ học về tiếng Việt.

Gọi là căn bản, điều này có nghĩa là đụng chạm tới những điểm này, thay đổi hay xoá bỏ những điểm này thì chữ Quốc Ngữ không còn là chữ Quốc Ngữ nữa, mà là một thứ chữ gì khác rồi, nói rõ hơn là giết chết chữ Quốc Ngữ rồi. Cũng giống như một cái cây, người ta có thể hái hoa, hái quả, thậm chí cắt bớt cành, cái cây vẫn là cái cây; nhưng khi người ta đốn gốc, đào rễ thì cái cây không còn là cái cây nữa. Nó chết. Căn bản có nghĩa là rễ (căn), gốc (bản). Bởi vậy người ta mới nói kẻ mất gốc là “vong bản.”

Đây là những điểm căn bản của chữ Quốc Ngữ:

  1. Chữ Quốc Ngữ là một hệ thống ký âm: âm phát ra như thế nào thì dùng những chữ cái (mẫu tự, ký tự) a, b, c, d, đ v.v… để ghi lại âm đó lên trên giấy. Cũng giống như người ta dùng những nốt nhạc do, re, mi, fa, sol, la, si để ghi lại trên giấy âm thanh của một khúc nhạc, một bản nhạc. Điểm này cho thấy chữ Quốc Ngữ và chữ Hoa (chữ Tàu) đặt trên hai nền tảng hoàn toàn khác nhau: chữ Hoa đặt trên nền tảng hình vẽ, hình tượng thế nào thì vẽ ra như thế, đơn giản nét đi rồi cho vào một ô vuông tưởng tượng mà thành ra chữ.
  2. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ ghi tiếng nói của cả nước chứ không phải ghi tiếng nói của một miền, một vùng, một thành phố, cho dù thành phố đó là Hà Nội. Khi các nhà truyền giáo sáng tạo chữ Quốc Ngữ, các ông này đã đi khắp tất cả mọi nơi trên đất nước ta: Đàng Trong, Đàng Ngoài, miền Bắc, miền Trung, miền Nam, thu thập các cách phát âm, tổng hợp lại mà ra các âm (thể hiện bằng những chữ cái) và các thanh độ (thể hiện bằng các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng.) Khi chỉ dựa vào cách phát âm của một miền, một vùng, một thành phố để làm thành bộ chữ thì thứ chữ ấy không thể được gọi là chữ Quốc Ngữ nữa. Ấy là chưa kể người của một vùng có thể thay đổi cách phát âm, lý do là có sự thay đổi người sinh sống ở vùng ấy. Người Hà Nội trước đây và người Hà Nội bây giờ trong cách phát âm có nhiều điểm không giống nhau.
  3. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ có thể nói là duy nhất tại Á châu nằm trong khối chữ viết dùng hệ thống mẫu tự La-tinh. Những thứ chữ khác tại Á châu cũng dùng bảng mẫu tự La-tinh đều chỉ có tính cách thử nghiệm hoặc sử dụng trong phạm vi hạn hẹp, hầu như chỉ có tính cách phiên âm mà thôi. Đã gọi là nằm trong một hệ thống thì cách phát âm qua ký hiệu là các chữ cái phải giống nhau hoặc tương tự. Thí dụ: âm [thờ] được ký âm bằng hai chữ cái T và H: TH. Nhìn ký tự TH, người ta phát âm được là [thờ]. Nếu đổi đi, dùng ký tự W để ghi âm [thờ] thì tự mình tách ra khỏi hệ thống chung, gây rắc rối, khó hiểu chứ không phải là “hội nhập” thế giới. Người dạy tiếng Việt ở nước ngoài, khi dạy thường phải dùng phương pháp đối chiếu các ngôn ngữ: tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây-ban-nha. Học viên cảm thấy chữ Việt cũng có cách viết tương tự như ngôn ngữ của họ khiến họ cảm thấy dễ học, dễ viết. Đổi TH thành W để ghi âm [thờ] thì học viên chỉ có nước… chết!
  4. Bảng mẫu tự tiếng Việt vốn có (từ thời Alexandre de Rhodes) (1) dựa vào nguyên tắc “đơn giản tối đa” để dễ học, dễ nhớ. Thí dụ: đã có ký tự P và ký tự H, ghép lại thành PH để ký âm [phờ] thì không cần F phải có mặt trong bảng mẫu tự nữa. Vì thế mà trong bảng mẫu tự tiếng Việt không có những chữ cái F, J, W, Z.
  5. Tuy đơn giản, bảng mẫu tự này lại rất tinh tế. Cùng là âm [cờ] mà bình thường được ghi bằng ký tự C, lại được ghi bằng ký tự K khi âm [cờ] này đứng trước những âm I, E, Ê vì đây là 3 âm đầu lưỡi, và được ghi bằng ký tự Q(u) khi đứng trước những âm/vần bắt đầu bằng UY (và OA.) (2) Bỏ mất điểm tinh tế này đi, chữ Quốc Ngữ mất đi phần nào nét đặc biệt của nó. Vả lại, nếu đồng hoá, chỉ dùng K cho tất cả các âm [cờ] thì sẽ ra tình trạng hai chữ CỦA và QUẢ được viết giống nhau: KỦA.
  6. Chữ Quốc Ngữ có đặc điểm là âm nào phát ra được cũng ghi (viết) được và chỉ có một cách viết đúng mà thôi. Thí dụ: phát âm là [chuyện] với phụ âm [chờ] đứng đầu thì phải viết là CHUYỆN; mà phát âm là [truyện] với phụ âm [trờ] đứng đầu thì phải viết là TRUYỆN. Người Hà Nội có thể phát âm hai âm [chuyện] và [truyện] giống nhau, đều là [chuyện] mà thôi, nhưng tại rất nhiều vùng trên toàn đất nước, đồng bào mình phát âm rất rõ hai âm [chuyện] và [truyện]. Không nên làm nghèo cách phát âm phong phú của người mình.

Tóm lại,

Bảng mẫu tự tiếng Việt, nếu là bảng tiêu chuẩn, có 23 chữ cái:
A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y

Bảng mẫu tự tiếng Việt, nếu là bảng đầy đủ, có 29 chữ cái:
A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y

Chúng tôi thấy đây là hai bảng mẫu tự rất đơn giản và đầy đủ, không cần phải cải cách, thêm bớt gì cả.

Còn việc phiên âm những tiếng nước ngoài, trong đó có các ký tự F, J, W, Z lại là một vấn đề khác, chúng tôi không bàn tới ở đây.

Sự “cái tiến” như PGS TS Bùi Hiền đề nghị đã làm méo mó chữ Quốc Ngữ, nếu không muốn nói là ám sát nó, rất nguy hại. Nó khiến người ta hoang mang, tốn thì giờ, tốn công sức. Và nếu vô phúc nó được đem ra áp dụng thì tiết kiệm đâu không thấy, chỉ thấy nó tiêu phí rất nhiều năng lực, thì giờ và tiền bạc.

Để tránh sự nguy hại này, chúng tôi đề nghị chúng ta không tiếp tay phổ biến nó, cho dù chỉ là phổ biến để làm trò cười với nhau. Càng làm cho nhau cười, thứ chữ “cải tiến” này càng lan rộng. Các em trẻ tuổi vốn thích nghịch ngợm đã “chế tác” ra đủ các loại chữ viết “bí hiểm” để “chít chát” với nhau, nay gặp được thứ đồ chơi này sẽ đem ra dùng… cho biết. Dùng hoài hoá thiệt. Rốt cuộc, người ta không còn biết đâu là đúng đâu là sai nữa. Bây giờ đã thấy xuất hiện một bộ “Cuyển dổi Tiếq Việt” rồi đó. (3)

Quyên Di

(1) Alexandre de Rhodes không phải là ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Khi đến đất Việt để truyền đạo, ông phải học tiếng Việt qua các sách (chép tay) của các giáo sĩ Bồ-đào-nha đã đến miền đất này trước ông. Nhưng Alexandre de Rhodes đã có công lớn nhất trong việc hình thành và phát triển chữ Quốc Ngữ. Ông là tác giả hai tác phẩm chữ Quốc Ngữ đầu tiên, ấn hành tại Rome năm 1651: “Tự Điển Việt-Bồ-La” và “Phép Giảng Tám Ngày.”

(2) Sự thật QUÝ là QU + UÝ, khi viết chúng ta giản lược một chữ U, thành ra QUÝ; QUẢ là QU + OẢ, khi viết chúng ta giản lược chữ O, thành ra QUẢ. Hiện tượng này cũng tương tự như GIÊNG là GI + IÊNG, khi viết chúng ta giản lược một chữ I thành ra GIÊNG. Có thể một số vị không đồng ý với cách giải thích này.

(3) Chúng tôi không mất thì giờ ghi lại tất cả những thay đổi, thêm bớt vào bảng mẫu tự tiếng Việt của PGS TS Bùi Hiền mà ông gọi là “cải tiến”. Tiếp tay phổ biến chúng làm gì! Chúng tôi cũng không tiếp tục thảo luận về vấn đề “cải tiến chữ Việt” trên trang Facebook này. Không ích gì! Ngoại giả, không ai cấm vấn đề “cải tiến chữ Việt” được trình bày và thảo luận trong các cuộc hội thảo ngôn ngữ.

 LỜI PHẢN BIỆN …

 Tran Bao Anh

Mấy ngày nay trên mạng rộn ràng chửi rủa PGS.TS Bùi Hiền, tôi thì tôn trọng tư tưởng cải cách của mọi người, có cải cách mới có tiến bộ nếu nó đúng thì cũng nên….

còn sai thì phải nói cái sai cho Tiến Sĩ hiểu và bỏ qua ý định điên rồ ấy …

Chúng ta phải hiểu rằng PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ sửa đổi lại cách viết “tiếq Việt” là những người nằm trong lãnh vực văn chương, dù là tiến sĩ nhưng họ ít có khái niệm về kinh tế hay xã hội, họ chỉ muốn làm tốt cái gì đó nhưng chưa suy nghĩ tới những hệ lụy thôi, chúng ta không nên trách hay nặng lời mà nhỏ nhẹ phân tách thì tốt hơn…

Nói về cái lợi thì tôi không thấy cái lợi gì đáng kể nhưng về mặt thiệt hại thì nó đầy rẫy, tôi đem ra đây vài thí dụ để PGS.TS Bùi Hiền và nhóm ủng hộ thấy để bỏ qua ý định không mấy hay ấy.

1) Trước tiên là phải in lại toàn bộ các sách “záo khoa” toàn quốc từ tiểu học đến đại học. (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )
2) Phải đào tạo lại hàng ngũ đầu tàu trong ngành Záo Zụk, từ bộ đến hạ tầng, trong đó có quí vị Tiến Sĩ, Zảq Sư, Záo Sư, Záo Viên v.v. (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )
3) Phải làm lại tất cả các bảng hiệu trong đó có các bảng tên đường, tên thành phố, bảng chỉ đường, các văn phòng, bộ, cơ sở hành chánh, thí dụ Văn Phòng Chủ Tịch sẽ là “Văn Fòq Củ Tịc” , Củ Chi thì có chứ Củ Tịc là củ chi chi ? (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )
4) Nói về các giấy tờ hành chánh như khai sanh, hôn thú, hộ khẩu, sổ xanh sổ đỏ, căn cước, giấy chủ quyền, bằng lái xe, hợp đồng, giấy tờ công chứng, v.v. , nó chẳng có cái gì khớp hay chốt với nhau, trên văn bản thì người cao nhất nước là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nhưng trên căn cước sẽ là Quyễn Fú Cọq thì sai rồi, người phát âm cưng cứng miền ngoài đọc lạng quạng chắc bị C.A.mời nữa chứ, còn Thủ Tướng Quyễn Suân Fúk là ai vậy ? (PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được nó trớt quớt cho 90 triệu dân không ? )
5) Về phương diện khoa học, phải cập nhật viết lại các chương trình chạy trên máy vi tính từ các bộ ngành, công an, quân đội, cơ sở thương mại, ngân hàng v.v. vì nó sẽ không chạy hay chẳng trúng đâu vào đâu, riêng về việc đánh chữ Việt với chương trình Unicode, nó đã từ chối không chạy với một số chữ cải cách vì nó không biết, quí vị thử xem …(PGS.TS Bùi Hiền & nhóm ủng hộ cải cách có hình dung ra được sự tốn kém không ? )

Vài thí dụ về sự bất tiện và thiệt hại tốn kém, tôi xin dừng ở đây vì nghĩ rằng đủ để quí vị thấy, tôi mà bươi thêm thì viết cả ngày không hết những cái “Fứk tạp” của việc cải cách chữ viết, nói nghe chơi thì nó ‘zản dị” nhưng hậu quả nó khổng lồ.

Với tài sức của PGS.TS Bùi Hiền & nhóm, tôi tin và khuyên quí vị nên chuyển hướng qua sự cải cách và tìm giải pháp cho nợ công của quốc gia hơn là tạo thêm phức tạp và gây thêm nợ…

DH

Vui Sống bàn thêm một chút

Toàn bộ sách lịch sử, bản đồ, báo chí, thi ca, tiểu thuyết từ hàng chục thế kỷ trước trong  THƯ VIỆN QUỐC GIA phải vừa giữ lại nguyên bản để tôn trọng lịch sử…. vừa in lại hết theo cách viết CẢI LÙI của PGS TS Bùi Hiền !!!

Nếu không, chỉ vài chục năm sau, các nhà nghiên cứu trẻ tương lai khi có dịp nghiên cứu lại nguyên bản cứ tưởng đó là tài liệu của một nước ngoài lạ hoắc nào đó

chứ KHÔNG PHẢI đó là CHỮ QUỐC NGỮ của nước Việt nam mình.!!!

Vuisongtrendoi gởi

Tuyên bố phản đối việc xóa tên LS Võ An Đôn

 

Tuyên bố phản đối việc xóa tên LS Võ An Đôn

Ngày 26/11/2017, với 2 phiếu thuận, 1 phiếu chống, Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên xóa tên luật sư Võ An Đôn khỏi Đoàn Luật sư tỉnh. Quyết định trên lập tức gây bức xúc mạnh mẽ công chúng trong và ngoài nước. Truyền thông quốc tế nhất loạt phản ánh dư luận hết sức bất bình.

Luật sư Võ An Đôn được công chúng biết đến như một trong những luật sư rất tâm huyết, chính trực, can đảm, cương quyết và kiên trì tranh đấu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của những người dân nghèo khổ, cô thân yếu thế, nạn nhân của giới chức hắc ám tiêu cực, đặc biệt là của tệ nạn công an bạo hành.

Nổi bật là vụ án Công an TP Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên bắt giam và tra tấn đến chết nghi can Ngô Thanh Kiều. Luật sư Võ An Đôn đã  cương quyết kiến nghị truy cứu trách nhiệm hình sự thượng tá Lê Đức Hoàn, Phó trưởng Công an TP Tuy Hòa, Trưởng Ban chuyên án. Nhờ nỗ lực của luật sư Võ An Đôn, cùng với áp lực mạnh mẽ của công chúng, Lê Đức Hoàn bị cách chức, truy tố, 9 tháng tù treo. Thành công của luật sư Võ An Đôn gieo niềm hy vọng trong công chúng: công lý vẫn có thể trở lại với Việt Nam.

Tháng 1/2015, Tổ công tác của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, trong chuyến công tác ở Phú Yên để giải quyết việc liên ngành Công an – Kiểm sát – Tòa án tỉnh Phú Yên có công văn đòi tước thẻ hành nghề của luật sư Võ An Đôn, không những đã bác bỏ yêu cầu vô lý này, mà còn “kiến nghị Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên xem xét và có hình thức ghi nhận, biểu dương luật sư Đôn về sự dấn thân và nhận thức nghề nghiệp của luật sư trong việc bênh vực cho người nghèo, yếu thế trên cơ sở pháp luật cũng như hiệu quả của hoạt động tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho gia đình nạn nhân Ngô Thanh Kiều trong vụ án “dùng nhục hình” (Báo Tuổi Trẻ 23/1/2015).

Sau vụ án Ngô Thanh Kiều, ông Nguyễn Thái Học, Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy Phú Yên liên tục chỉ đạo và triệu tập họp với lãnh đạo Sở Tư pháp và Đoàn Luật sư Phú Yên, lạm quyền đòi “xử lý” luật sư Võ An Đôn một cách thô bạo, trái luật: “Đừng nghĩ rằng đoàn luật sư các đồng chí họp và quyết như thế là không ai có thể can thiệp vào”.

Trước sự phản ứng mạnh mẽ của công luận, âm mưu trả thù trên thất bại thảm hại. Trên báo chí truyền thông, giới chức hữu quan quanh co chối lỗi. Họ phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm theo chỉ đạo của cấp trên, nhưng vẫn cố tình không từ bỏ ý đồ đen tối. Nhiều lần an ninh tỉnh tùy tiện triệu tập luật sư Võ An Đôn, với những lý do vu vơ: viết facebook, trả lời truyền thông, “nói xấu” đồng nghiệp và các cơ quan tố tụng, đảng, nhà nước…

*

Trước quyết định hàm hồ xóa tên luật sư Võ An Đôn của Đoàn Luật sư Phú Yên, chúng tôi gồm các tổ chức, cá nhân đứng tên dưới đây mạnh mẽ tuyên bố:

  1. Cực lực phản đối quyết định sai trái của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên đối với luật sư Võ An Đôn. Quyết định trên đi ngược với vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ luật sư Việt Nam: bảo vệ công lý, lẽ phải và đồng nghiệp. Yêu cầu Đoàn Luật sư Phú Yên hủy ngay quyết định trái lòng dân nói trên.
  2. Hoàn toàn ủng hộ luật sư Võ An Đôn và các luật sư can đảm, tâm huyết, luôn tranh đấu cho lẽ phải, công lý, nhân quyền, vì một Việt Nam tự do, dân chủ, tiến bộ xã hội và cường thịnh, phù hợp với những chuẩn mực phổ quát của nhân loại văn minh, với Hiến pháp Việt Nam và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam tham gia.
  3. Kêu gọi Liên đoàn Luật sư Việt Nam và công chúng có biện pháp hữu hiệu bảo vệ, giúp đỡ luật sư Võ An Đôn và các đồng nghiệp can đảm, kiên trì tranh đấu cho công lý, lẽ phải và tình thương.
  4. Yêu cầu Bộ Tư pháp Việt Nam không để vụ trả thù luật sư Võ An Đôn trở thành vết nhơ tư pháp, thành tiền lệ lạm quyền lộng hành của giới chức hắc ám thiển cận vô pháp, làm xấu thêm hình ảnh, gây bất lợi cho Việt Nam trong bang giao quốc tế.
  5. Kêu gọi các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức nhân quyền quốc tế, chính phủ các quốc gia yêu chuộng tự do, công lý, thượng tôn pháp luật lên tiếng bảo vệ luật sư Võ An Đôn và giới tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam.

Chúng tôi kính mong nhận được sự ủng hộ, đồng tình của đông đảo công chúng đối với bản Tuyên bố này, qua việc gửi email về: unghovoandon@gmail.com

(xin ghi rõ danh tính, nghề nghiệp, nơi cư trú)

Trân trọng cảm ơn!

DANH SÁCH KÝ TUYÊN BỐ (đợt 1)

TỔ CHỨC:

  1. Diễn đàn Xã hội dân sự, TS Nguyễn Quang A đại diện
  2. Ban Vận động thành lập Văn đoàn độc lập, Nhà văn Nguyên Ngọc đại diện
  3. Diễn đàn Bauxite Việt Nam, GS Phạm Xuân Yêm đại diện
  4. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, ông Võ Văn Thôn, cựu tù Côn Đảo, cựu GĐ Sở Tư pháp TPHCM đại diện
  5. Hội Cựu tù nhân lương tâm, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế và Linh mục Phan Văn Lợi đại diện
  6. Hội Nhà báo độc lập, TS Phạm Chí Dũng đại diện
  7. Hội Bầu bí tương thân, ông Nguyễn Lê Hùng đại diện
  8. Khối Tự do dân chủ 8406, Kỹ sư Đỗ Nam Hải và Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đại diện
  9. Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Hữu Giải và Linh mục Nguyễn Văn Lý đại diện
  10. Người bảo vệ nhân quyền (Defend the Defenders), ThS Vũ Quốc Ngữ đại diện
  11. Hội Hỗ trợ nạn nhân bạo hành, TS – BS Đinh Đức Long đại diện

CÁ NHÂN:

  1. André Menras – Hồ Cương Quyết, Nhà giáo Pháp – Việt
  2. Võ Văn Tạo, Nhà báo, Nha Trang
  3. Tuấn Khanh, Nhạc sĩ, Sài Gòn
  4. Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ văn, Hà Nội
  5. Đặng Thị Hảo, TS Văn học, Hà Nội
  6. Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia
  7. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, CB Bộ C.A nghỉ hưu, Hà Nội
  8. Nguyễn Thị Kim Chi, NSƯT, Sài Gòn
  9. Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), CLB Nhà báo tự do, Hoa Kỳ
  10. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự, ĐH Liège (Bỉ), Sài Gòn
  11. Kha Lương Ngãi, Cựu Phó TBT Báo SGGP, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
  12. Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, CLB Lê Hiếu Đằng, Hà Nội
  13. Hoàng Hưng, Nhà thơ, Dịch giả, Nguyên Trưởng Ban VHVN Báo Lao động thời kỳ đổi mới, Sài Gòn
  14. Phạm Nguyên Trường, Dịch giả, Vũng Tàu
  15. Phạm Thị Hoàng Oanh, TS – GV đại học, TPHCM
  16. Huỳnh Sơn Phước, Cựu Phó TBT Báo Tuổi trẻ, Hội An
  17. Lê Thân, Cựu tù Côn Đảo, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
  18. Nguyễn Đình Ấm, Nhà báo, Hà Nội
  19. Thiếu Khanh, Nhà thơ, Dịch giả, Sài Gòn
  20. Bùi Hiền, Nhà thơ, Canada
  21. Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhà văn, Virginia, USA
  22. Nguyễn Thị Thanh Bình, Nhà văn, Hoa Kỳ
  23. Nguyễn Khắc Mai, Nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân vận TƯ, GĐ Trung tâm Minh triết, Hà Nội
  24. Trần Bang, Kỹ sư, Sài Gòn
  25. Nguyễn Ngọc Nam Phong, Linh mục DCCT Thái Hà, Hà Nội
  26. Bùi Minh Quốc, Nhà thơ, Nhà báo, Đà Lạt
  27. Đoàn Bảo Châu, Nhà văn, Nhà báo Hà Nội
  28. Antôn Lê Ngọc Thanh, Linh mục DCCT, Sài Gòn
  29. Đinh Hữu Thoại, Linh mục DCCT, Quảng Nam
  30. Đào Tiến Thi, Nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên UV BCH Hội Ngôn ngữ học VN, Hà Nội
  31. Phạm Toàn, Nghiên cứu giáo dục, Hà Nội
  32. Nguyễn Xuân Diện, TS Hán Nôm, Hà Nội
  33. Phạm Bá Hải, Cựu tù nhân lương tâm, Sài Gòn
  34. Thùy Linh, Nhà văn, Hà Nội
  35. Nguyễn Tường Thụy, Nhà báo độc lập, Hà Nội
  36. Phan Đắc Lữ, Nhà thơ, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
  37. Trần Văn Tý, Lao động tự do, Đại lãnh, Vạn Ninh, Khánh Hòa
  38. Khổng Hy Thiêm, Kỹ sư, Khánh Hòa
  39. Trinity Hồng Thuận, USA
  40. Nguyễn Thúy Hạnh, Kinh doanh, Hà Nội
  41. Đặng Bích Phượng, CB hưu trí, Hà Nội
  42. Phan Vân Bách, Lao động tự do, Hà Nội
  43. Đoàn Nam Sinh, Nhà báo độc lập, Sài Gòn
  44. Nguyễn Ngọc Giao, Paris
  45. Trần Đức Thạch, Cựu tù nhân lương tâm, Nghệ An
  46. Hoàng Dũng, PGT – TS, GV đại học, TPHCM
  47. Trần Tiến Đức, Nhà báo độc lập, Đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội
  48. Nguyễn Thu Giang, Đoàn Luật sư TPHCM, Cựu PGĐ Sở Tư pháp TPHCM
  49. Nguyễn Thế Hùng, PhD, Prof, Đại học Đà Nẵng
  50. Nguyễn Chính, Luật gia, Nhà báo, Nha Trang
  51. Nguyễn Thị Khánh Trâm, CB hưu trí, Sài Gòn
  52. Võ Xuân Hoàng, Kỹ sư, Sài Gòn
  53. Ngô Thu, Giáo viên, Sài Gòn
  54. Võ Quang Thái, Kỹ sư, Sài Gòn
  55. Nguyễn Thái Minh, Lao động tự do, Nha Trang
  56. Lê Phước Sinh, Dạy học, Sài Gòn
  57. Đinh Đình Điệp, Máy trưởng tàu biển, nghỉ hưu, Đồ Sơn, Hải Phòng
  58. Tưởng Năng Tiến, San Jose, California, USA
  59. Trần Ngọc Sơn, Kỹ sư, Pháp
  60. Nguyễn Thanh Hằng, Dược sĩ, Pháp
  61. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), Nhà báo tự do, CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
  62. Tiêu Dao Bảo Cự, Nhà văn tự do, Đà Lạt
Bình Luận từ Facebook