Các đại gia Việt giàu siêu tốc nhờ đất đai là chính

Luật sư Võ An Đôn tiếp tục kiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp lên chánh án TAND cấp cao.
Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng and 3 others
Do TAND tỉnh Phú Yên giữ nguyên quyết định không thụ lý vụ án hành chính mà Ls. Võ An Đôn kiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp, nên Ls. Đôn buộc phải gởi đơn kiện đến chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
Sáng 20-1, Ls. Võ An Đôn (43 tuổi, ngụ thị trấn Phú Thứ, huyện Tây Hòa, Phú Yên) vừa gởi đơn khởi kiện Bộ trưởng Bộ Tư pháp đến ông Nguyễn Anh Tiến – Chánh án TAND Cấp cao tại Đà Nẵng – đề nghị giải quyết, yêucầu TAND tỉnh Phú Yên nhận lại đơn khởi kiện của Ls. Võ An Đôn đối với ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Ls. Đôn viện dẫn các điều khoản quy định trong Luật Luật sư, Luật Khiếu nại, Luật Tố tụng Hành chính và nghị định của Chính phủ để khẳng định rằng quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của bộ trưởng Bộ Tư pháp là quyết định của cơ quan hành chính nhà nước, thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Diễn biến vụ việc:
* Ngày 26-11-2017: Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên ban hành quyết định kỷ luật ông Đôn với hình thức xóa tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư Phú Yên vì kết luận ông vi phạm nghiêm trọng
* Ngày 21-5-2018: Liên đoàn Luật sư Việt Nam ban hành quyết định không chấp nhận nội dung khiếu nại của ông Đôn đối với quyết định kỷ luật của Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên, giữ nguyên hình thức kỷ luật đối với ông.
* Ngày 27-5-2018: ông Đôn gởi đơn khiếu nại đến bộ trưởng Bộ Tư pháp khiếu nại các quyết định của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên.
* Ngày 15-11-2018: Bộ Tư pháp có quyết định giải quyết khiếu nại, không chấp nhận nộidung khiếu nại, giữ nguyên hình thức kỷ luật của ông Đôn.
* Ngày 4-12-2018: ông Đôn khởi kiện bộ trưởng Bộ Tư pháp đến TAND tỉnh Phú Yên.
* Ngày 21-12-2018: TAND tỉnh Phú Yên thông báo trả lại đơn khởi kiện của ông Đôn.
* Ngày 27-12-2018: ông Đôn gởi đơn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện của TAND tỉnh Phú Yên.
* Ngày 10-1-2019: TAND tỉnh Phú Yên giải quyết khiếu nại, giữ nguyên nội dung thông báo trả lại đơn khởi kiện.
* Ngày 19-1-2019: ông Đôn gởi đơn khiếu nại lần hai đến chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
https://tuoitre.vn/cuu-luat-su-vo-an-don-tiep-tuc-khieu-nai…




VÀI ĐIỀU KHIẾN VIỆT NAM “KHÁC BIỆT” THẾ GIỚI
“VÀI ĐIỀU KHIẾN VIỆT NAM “KHÁC BIỆT” THẾ GIỚI
– Trên thế giới, khi bị tước đoạt dân chủ người ta đổ ra kín đường để đấu tranh, ở VN người ta đổ ra kín đường xem bắn pháo hoa.
– Trên thế giới, ở tuổi 17 người ta nổi tiếng vì đoạt giải nobel hòa bình, ở VN người ta nổi tiếng vì ngậm bao cao su lên mạng khoe vú.
– Trên thế giới, khi để bùn đỏ nguy hiểm tràn ra người ta bồi thường và truy cứu trách nhiệm, ở VN người ta lên báo bảo rằng đấy là “bùn có màu đỏ”.
-Trên thế giới khi tham nhũng thành quốc nạn người ta thực hiện chiến dịch “bàn tay sạch”, ở VN người ta bảo đừng ném chuột kẻo vỡ bình.
– Trên thế giới, khi ngân sách cạn kiệt, nợ công tăng cao người ta quy trách nhiệm cho chính phủ, ở VN người ta coi đấy là trách nhiệm toàn dân.
– Trên thế giới, người ta coi việc giành lại những gì của đất nước đã bị cướp đoạt là trách nhiệm của mình, ở VN người ta “ưu ái” nhường lại cho đời sau.
– Trên thế giới, khi để tham nhũng tràn lan, kinh tế kiệt quệ người ta từ chức, ở VN người ta bảo Đảng phân công thì tôi làm, tôi không xin xỏ ai.
– Trên thế giới, khi ngoại bang xâm lược bờ cõi, người ta gọi đấy là kẻ thù, ở VN người ta gọi đấy là anh em.
– Trên thế giới, người ta gọi là thắng lợi khi đánh đuổi được ngoại xâm, ở VN người ta chờ nó rút sau khi đã tung hoành chán chê rồi tuyên bố thắng lợi.
– Trên thế giới, khi người ta biểu tình chống ngoại xâm mọi người bảo đấy là yêu nước, ở VN người ta bảo đấy là phản động.
– Trên thế giới, người ta bảo nhân quyền là do tạo hóa ban cho và bất khả xâm phạm, ở VN người ta bảo đấy là do Đảng ban cho và tao thích xâm phạm lúc nào thì xâm phạm.
Tội ác ghê gớm nhất của người ta ở VN là:
– biến con người Việt thành những con người không còn tử tế, không còn liêm sỉ, càng lúc càng tham lam, tàn bạo, thủ đoạn;
– biến xã hội Việt Nam thành xã hội suy đồi và giả dối đến mức chưa từng có từ trước tới nay trong văn hoá Việt;
– biến nước Việt thành một nơi chất độc huỷ hoại không những đến thứ để ăn, để uống, để hít thở mà còn huỷ hoại đến tận ý chí, tinh thần và đạo làm người; một nơi không còn một chút nội lực, một nơi con người thờ ơ với hiểm hoạ diệt vong ngay trước mắt…”
Ps: xin like, bình luận, chia sẻ !
Nguồn: https://www.facebook.com/100010321244448/posts/639827813037921/
Người Việt hôm nay đang gắng sức để trốn chạy khỏi nước mình.





Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.
Người Việt hôm nay đang gắng sức để trốn chạy khỏi nước mình.
Trốn chạy dù lưu vong. Trốn chạy để hy vọng. Không chỉ với kẻ đi mà còn với vô vàn người ở lại.
Tháng Chạp trời Hà Nội mù sương. Sớm 9h, mưa phùn lất phất, hạt bay liêu xiêu trong gió. Những chấm người vội vã di động trong cái lạnh trên mặt đất thẫm màu vì ướt. Chưa đầy một tháng nữa sẽ là Tết, cái ngày dễ khiến người ta phiền lòng vì những chúc tụng, những bữa cơm rời rạc và đầy tràn. Nó nhắn tin: “Em đặt vé máy bay rồi. Tết năm nay em ăn Tết ở nhà!“. Nó hớn hở như khoe quà. Đôi khi mọi người mơ hồ không rõ nó đã đi bao năm. “8 năm, em đi từ 2011“, nó nhớ rành rọt. Những ngày rời nhà trọ, lội trong tuyết, tất bật phụ bếp rồi nấu hàng trăm suất ăn cho tới khi kiệt sức dạy nó biết đếm thời gian. Nó vẫn đang đếm thời gian, đếm xuôi cho tới ngày về Tết, và đếm ngược cho đến ngày… ly hôn.
Về pháp lý, nó đã 2 lần vợ. Lần đầu để đi. Lần hai để kiếm tiền trả nợ cho “ván bạc” ban đầu.
Thằng nhỏ giờ đã đang mang quốc tịch khác.
Nhưng những năm tuổi xuân của nó, tuổi 20 mãi nằm trong những bối rối không nói được thành lời. Đôi khi nó tin việc cố gắng là cần thiết. Bố mẹ toan tính, vay nợ, sắp đặt cho kết hôn giả đều là vì sửa soạn cho tương lai của nó. Tương lai của nó cũng là tương lai của cả nhà. Rồi biết đâu cả đời con nó, cháu nó. Rời nước mà đi, chuyện đó nào có ai nghĩ khó. Nhưng đôi khi, những đêm 2h sáng không thể ngủ, những hồ nghi và cơn mù mịt dằn vặt nó trong thống khổ. Tỵ nạn sinh kế hay tỵ nạn ước mơ? Ước mơ để sống của nó đang bó khung trong tháng ngày xa lạ. Cuộc sống vốn đâu đơn thuần chỉ có ăn và mặc.
Ở cố hương của nó bây giờ, đi tìm xứ khác định cư đã trở thành câu chuyện thời thượng. Những ai đã đánh tiếng đi, vô tình chạm mặt người khác sẽ được đón bằng lời hỏi thăm: “Bao giờ đi?“. Đi được là mừng. Rồi người ta chép miệng nghĩ bao giờ mình mới có “cửa”. Dù đi ở đây chính là lưu vong, là rời bỏ nơi họ chôn nhau cắt rốn!
Năm 2018 kết thúc bằng ồn ào “quốc thể” quanh việc 152 người Việt mua tour du lịch để bỏ trốn tại Đài Loan. Năm 2019 bắt đầu bằng những tấm hình người Việt chui trong giường hộp, tủ lạnh trốn ở lại Đài Loan để tìm sinh kế. Từ gần 1 triệu người sau năm 1954 đến hàng triệu người sau năm 1975, người Việt đã hoảng hốt di tản, tỵ nạn từ Bắc vào Nam, tỵ nạn ra nước ngoài. Hàng triệu người đã lao ra biển trên những chiếc tàu đánh cá các loại để thoát khỏi đất mẹ của mình, chấp nhận cả cái chết để… lưu vong.
Không ai nghĩ sau ngày “đổi mới”, người Việt còn ra đi khốc liệt hơn thế. Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm 2017, 2.727.398 người Việt Nam đã di cư ra nước ngoài [1]. Trong 28 năm qua, mỗi năm có trên 97,4 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài, bình quân mỗi tháng có hơn 8.000 người Việt ra đi. Mà dễ hình dung hơn, cứ mỗi giờ, 11 người Việt rời khỏi Việt Nam.
Bản đồ di cư của người Việt Nam. (Nguồn: IOM)
Năm 2018, số hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam nhiều hơn 82 lần so với số hồ sơ xin nhập tịch và trở lại quốc tịch Việt Nam (4.418 hồ sơ xin thôi so với 45 hồ sơ xin nhập, 9 hồ sơ xin trở lại quốc tịch), theo số liệu của Bộ Tư pháp.
Những người rời Việt Nam, họ đi đâu? Hơn 1,4 triệu người đã tới Mỹ, 238 nghìn người di cư sang Australia, hơn 190 nghìn người rời nước qua Canada. Đó chỉ là 3 nước mà người Việt chọn để đi đông nhất. Khác với những năm 1954, 1975, làn sóng di cư âm thầm mà dai dẳng sau ngày “kinh tế đổi mới” khiến người Việt có mặt ở khắp nơi trên thế giới, kể cả châu Phi, điều mà trước đó, cả hai miền Nam Bắc đều không hề có.
Sau năm 1975, họ bằng mọi giá phải thoát khỏi nước mình. Sau năm 1990, chẳng có lý do gì để họ ở lại. Theo IMO, người Việt đang di cư để lao động. Di cư du học. Di cư do hôn nhân. Di cư do nhận con nuôi. Di cư do buôn bán người. Trong nghĩa Hán Việt, di cư (移居) chỉ là dời chỗ ở. Còn người Việt đơn thuần hơn, họ gọi tên cho những cuộc ra đi của đồng bào mình là tỵ nạn.
Tỵ (避) có nghĩa là tránh, lánh xa; nạn (難) nghĩa là tai họa, khốn ách. Tỵ nạn (避難) có nghĩa là lánh họa, tránh điều không may xảy tới. Tất cả đều đang lánh họa, sợ hãi cho điều tai ương đang trờ tới.
Những làn sóng người Việt ra đi từ hơn bốn mươi năm trước “tỵ nạn chính trị”, hai mươi năm kéo dài tới nay “tỵ nạn sinh kế”, “tỵ nạn giáo dục”, “tỵ nạn môi trường”. Đó đâu đơn giản chỉ là di cư. Với rất nhiều người, họ đang trốn chạy, trốn chạy vì mưu sinh, trốn chạy để học hành, trốn chạy để cống hiến năng lực, trốn chạy để thở trong một môi trường không ô nhiễm tệ nạn, thiếu nhân quyền.
“Thuyền nhân”
Ô nhiễm rác thải trên đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi
Lội bắt cá, xúc tép ở rạch Cầu Tôm, Đồng Tháp
Người nghèo, kẻ bất đắc chí ra đi. Người có tiền, quan chức cũng dọn đường lưu vong để hưởng thụ. 3 tỷ USD người Việt đổ vào mua nhà ở Mỹ công bố năm 2017 chỉ là thống kê sơ bộ của Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Mỹ (NAR), con số thực tế còn cao hơn nhiều.
Nhưng dù là giới có tiền, người có học hay kẻ cùng đường, chọn con đường tha hương có lẽ ít nhiều vì cùng chung nhau một điểm. Không còn hy vọng vào sự thay đổi của xã hội Việt Nam, họ “tỵ nạn niềm tin”. Không ai muốn sống trong một xã hội từ chối sự thay đổi. Niềm tin bị cùn mòn khi cái ác quá lớn còn lòng thiện lương liên tục phải gắng gượng mỗi ngày. Trong môi trường nhiễm độc, bất kỳ ai cũng có thể trở thành Đặng Văn Hiến, Hoàng Công Lương. Người bần cùng phải chết. Người thanh thiện cũng không tha. Thay vì an sinh, giáo dục và y tế Việt Nam lại trở thành hiểm họa. Xã hội bất tín, giả dối trở thành thói quen để sinh tồn. Quan chức lo ngày “đứt cương”, còn dân sinh thì mỗi lúc sợi dây thuế phí càng thít chặt mặc tệ sách nhiễu, lạm thu, hối lộ đương nhiên tồn tại. Người dân bị cấm nói lên sự thật của đất nước mình…
Theo Gallup, ít nhất 50% người Syria muốn bỏ nước ra đi vì nội chiến không biết bao giờ kết thúc. Khoảng 2 triệu người Venezuela đã chạy khỏi đất nước trong năm 2018. Còn tại Việt Nam, người dân đang tha hương vì thiếu đói. Ít nhất 180.000 người Việt bị đẩy sang nước khác sau thảm họa Formosa. Kiều hối gửi về góp phần tăng GDP và ngoại tệ cho Chính phủ.
Tìm xứ khác định cư, ngay thời bình, đã trở thành mưu cầu để hạnh phúc.
Nơi không người thân, không có ký ức, vẫn rất nhiều người ra đi.
Nhưng khi những xô đẩy của cuộc sống xứ lạ qua đi, sự hoang hoải ở lại. Lao động, làm việc nơi xứ người cần gấp đôi sự kiên cường. Một nửa để thiêu đốt ngày xanh. Một nửa để nuôi lòng ở lại.
Cá chết dưới sông do nguồn nước bị ô nhiễm.
Người Việt Nam chúng ta sinh sống trên một vùng lãnh thổ mở rộng qua nhiều biến cố lịch sử, thời gian khác nhau, tiếp nối mà thành hình dựa trên các giá trị văn minh của nhiều nền văn hóa. Nơi giữa mỗi miền, trải qua các thế hệ, phong tục, tập quán khác nhau, phương ngôn khẩu ngữ khác nhau, thói quen dưỡng dục cũng khác. Vậy điều gì đã liên kết chúng ta lại thành một thể? Không phải là ở các sản vật văn minh mà là cái gốc văn hóa và truyền thống.
Sự gắn kết văn hóa của một dân tộc khởi nguồn từ sự gắn bó sâu sắc với đất đai và thiên nhiên. Trong cái toàn thể của tự nhiên, con người dần hình thành các phương thức hành vi để phù hợp với cộng đồng, thích ứng với môi trường tự nhiên để tồn tại. Triết lý tinh thần được tạo ra từ đó. Đó đơn giản là đạo lý – giá trị chung mang tính phổ quát – hướng con người tới cách tư duy và hành vi đúng đắn. Vì sự khác biệt địa khu, lịch sử, mà tâm thức của mỗi dân tộc mỗi khác. Nhưng mỗi dân tộc mang một nội hàm văn hóa riêng, ăn sâu vào ký ức của cộng đồng. Nên dù sinh sống trên lãnh thổ này hay vùng đất khác, tâm thức của mỗi người dân mỗi dân tộc vẫn mang theo dấu ấn văn hóa của dân tộc đó. Khi lịch sử bị đoạn đứt, phong tục tập quán, ngôn ngữ bị tách rời, tự nhiên và các di sản văn minh bị hủy hoại một cách hệ thống, những người thuộc về dân tộc ấy dần trở nên cô độc, đánh mất bản tính tự ngã khi văn hóa không còn.
Nỗi niềm thương quê nhớ xứ từng là điều day dứt khôn nguôi đối với thế hệ đánh cược cả mạng sống để rời nước sau năm 1975. Bốn mươi năm, hai mươi năm sau, tâm thức đó thế nào trong nghĩ suy của mỗi con người Việt còn ở lại và đã di cư sang xứ người?
Sài Gòn xưa và nay.
Sự rạn nứt văn hóa không chỉ bắt đầu bằng những suy đồi về văn hóa trong xã hội Việt trong vùng lãnh thổ Việt. Sự rạn nứt văn hóa khơi nguồn khi những giá trị văn hóa truyền thống bị phá bỏ, di sản bị coi là lạc hậu, giá trị quan thay đổi khi sức mạnh hay sự giàu có được tôn vinh làm thước đo phẩm giá. Trong cơn đứt gãy ấy, dòng di cư thời hiện đại của người Việt không chỉ đơn thuần là một cuộc chuyển dịch mang tính địa khu. Tự bản thân nó đã mang tâm thức lưu vong khi người Việt phủ định văn hóa Việt, các giá trị nhân sinh hình thành trong nền văn hóa đó. Sự luyến tiếc, nhớ thương, những thói quen sinh hoạt, tập quán Việt vẫn được người Việt tại hải ngoại giữ gìn tựa như chỉ dẫn rằng có một nền văn hóa giàu nhân sinh đã tồn tại, có các giá trị văn hóa tinh thần không thể bị thay thế của người Việt.
Năm 1944, luật sư Raphael Lemkin đưa ra thuật ngữ “Cultural Genocide” – Diệt chủng văn hóa, như một phần của tội diệt chủng. Dù chưa được chính thức thừa nhận trong công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc, thuật ngữ này vẫn được lưu ý trong các nghiên cứu về tính tồn vong của một nhóm cộng đồng. Từ góc nhìn về nạn diệt chủng người bản địa ở Canada, nhà xã hội học Andrew Woolford và giáo sư Adam Muller (cùng tại Đại học Manitoba, Canada) cùng đi đến lập luận: “Nếu như diệt chủng là việc phá huỷ nhắm vào sự tồn tại của một nhóm nào đó – tức là nhắm vào điều tạo nên nhóm đó – thì tất cả những hành động được thiết kế để làm cho nhóm đó bị huỷ diệt – về tài sản, văn hóa, chính trị, kinh tế hoặc bất cứ điều gì – đều được tính là diệt chủng”
Trong xã hội Việt hôm nay, mỗi ngày trôi qua, lại có thêm những cá nhân phải chịu đau đớn bởi bất công xã hội, áp bức và cướp bóc, phủ định tín ngưỡng. Trong cái nhìn về toàn thể, sự tổn thương đối với các giá trị văn hóa đang thực sự gieo rắc nỗi đau lên toàn bộ cộng đồng. Những cuộc tấn công vào di sản văn hóa đã và đang làm lung lay nền tảng tinh thần cơ bản của mỗi người: Niềm tin. Niềm tin vào sự thay đổi của xã hội. Niềm tin vào giá trị cốt lõi về tình người. Niềm tin rằng lẽ phải và sự thật là điểm tựa cho công lý. Niềm tin người chính trực được tôn vinh, người thiện lương được đền đáp. Niềm tin xã hội có người giàu, người nghèo, nhưng người nghèo không phải bỏ xứ đi, người giàu không tìm đủ mọi cách “đào xới” nước mình… Khi văn hóa sa đọa, những niềm tin ấy bị rớt xuống đến đáy. Đó là lý do người Việt ra đi, âm thầm và mạnh mẽ như sự đổ vỡ trong nền tảng xã hội.
Hơn bốn mươi năm qua, Việt Nam hiện hữu trước thế giới với tư cách của một quốc gia đã thôi tiếng súng. Có những biến động nằm trong dòng chảy phát triển, có những biến động mà hệ quả để lại là sự đổ vỡ của tự nhiên, của văn hóa, và di sản. Dù ở lại hay ra đi, nhiều người Việt vẫn tiếp tục trăn trở về sự đổi thay của đất nước. Ai cũng hiểu niềm tin là điều cần níu giữ. Không phải chỉ riêng niềm tin vào sự khởi sắc của văn minh xã hội, mà là niềm tin về những giá trị văn hóa hài hòa – cái gốc của nền tảng đạo đức xã hội. Từ bỏ các luân lý phản giá trị, khôi phục văn hóa, tìm về với các giá trị phổ quát của nhân loại, đó mới là lối đi để người Việt Nam rũ bỏ những bế tắc hiện nay, tìm về cội nguồn của chính mình.
Lê Trai
Chú thích:
[1] International Organization for Migration – IOM (https://www.iom.int/world-migration)
[2] Culture Genocide – Chapter 7: Genocide & Mass Violence, website: Facing History and Ourselves (https://www.facinghistory.org/stolen-li…/…/cultural-genocide)
BA ĐIỆN TÍN CỦA BỘ NGOẠI GIAO MỸ VỀ BIẾN CỐ HOÀNG SA THÁNG 1 NĂM 1974





Ngày này cách đây 45 năm (1974 – 2019) – 2:
BA ĐIỆN TÍN CỦA BỘ NGOẠI GIAO MỸ VỀ BIẾN CỐ HOÀNG SA THÁNG 1 NĂM 1974
TRẦN ĐỨC ANH SƠN (tổng thuật)
Từ ngày 16/1 đến ngày 19/1/1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm các nhóm đảo phía tây nam thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lực lượng đồn trú của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trên đảo, cùng với hải quân vừa được tăng cường từ đất liền đã giao chiến với quân Trung Quốc, nhưng do tương quan lực lượng bất cân xứng nên đã để mất Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.
Do không thể dùng hải quân để tái chiếm các đảo, nên chính quyền VNCH dự định dùng không quân để phản công giành lại Hoàng Sa. Theo lời kể của Đại tá Nguyễn Quốc Hưng, Phụ tá tham mưu phó hành quân của Bộ Tư lệnh Không quân Việt Nam Cộng hòa, với TS. Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ VNCH, kiêm cố vấn của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, thì ngày 19/1/1974, ông Thiệu đã ra mật lệnh cho Tư lệnh Không quân VNCH điều động máy bay chiến đấu siêu thanh F5-E ra oanh kích, phản công quân Trung Quốc để giành lại quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 19/1/1974, Tư lệnh Không quân VNCH đã điều 5 phi đoàn F5-E, gồm 4 phi đoàn ở Biên Hòa và 1 phi đoàn ở Đà Nẵng, mỗi phi đoàn gồm 24 máy bay và 120 phi công, tập kết về sân bay Đà Nẵng chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Trong những ngày này, máy bay do thám RF5 của VNCH đã liên tục bay thám thính lực lượng Trung Quốc ở khu vực Hoàng Sa, chụp ảnh và cung cấp thông tin để không quân chuẩn bị phương án tác chiến.
Cũng trong ngày 19/1/1974, 2 phi đoàn F5-E của Không lực VNCH tại Đà Nẵng, mỗi phi đoàn gồm 2 chiếc, đã 2 lần cất cánh ra khơi, nhưng vừa bay được khoảng trên 100 dặm thì được lệnh phải quay trở lại. (Nguyễn Tiến Hưng, “Tổng thống Thiệu và hải chiến Hoàng Sa, BBC, ngày 7/3/2017).
Chính quyền VNCH đã hủy bỏ lệnh tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân, để cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ đó đến nay. Vì sao có sự thay đổi này?
Một số tài liệu liên quan đến trận “hải chiến Hoàng Sa” được công bố trong thời gian qua cho rằng: do Mỹ đã bắt tay với Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa, không ứng cứu lực lượng VNCH khiến Hoàng Sa thất thủ, đồng thời ngăn cản VNCH phản công tái chiếm Hoàng Sa; hoặc do phía VNCH do tự lượng sức mình, thấy khó có thể tái chiếm Hoàng Sa nếu không có sự yểm trợ từ phía Mỹ nên đã ngưng việc phản công. Tuy nhiên, đó chỉ là những phỏng đoán chưa được kiểm chứng.
Trong số những tài liệu mật về chiến tranh Việt Nam được phía Mỹ giải mật trong thời gian gần đây, có 3 điện tín trao đổi giữa Bộ Ngoại giao Mỹ ở Washington D.C với Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 1/1974. Nội dung 3 điện tín này sẽ làm sáng tỏ vì sao Tổng thống VNCH hủy bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân.
* ĐIỆN TÍN TỪ WASHINGTON D.C
Trong bài viết đăng trên BBC ngày 7/3/2017 đã dẫn trên đây, ông Nguyễn Tiến Hưng có công bố nội dung một bức điện tín, mức độ KHẨN – MẬT, do Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger gửi cho Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn là Graham Martin vào ngày 19/1/1974. Nội dung bức điện như sau (bản dịch nguyên văn):
“Mật điện Bộ Ngoại giao 012641
1. Xung đột quân sự tại Hoàng Sa đã đưa đến thương vong cho VNCH với hai chiến hạm bị tên lửa STYX của Trung Quốc bắn chìm. Chính phủ VNCH có yêu cầu Mỹ giúp tìm kiếm và cứu vớt các nạn nhân. Tình hình thêm phức tạp vì báo cáo là trên đảo Pattle [đảo Hoàng Sa, nơi có lực lượng VNCH đóng quân] lại có một nhân viên dân sự Mỹ làm việc cho Văn phòng Tùy viên ở Đà Nẵng. Chúng tôi không hiểu tại sao người này lại có mặt ở đó.
2. Bộ Ngoại giao đã yêu cầu Bộ Quốc phòng ra lệnh cho Hải quân Mỹ tránh khỏi khu vực này. Hai ngày trước đây [17/1/1974] chúng tôi [Kissinger] có bàn luận với Đại sứ Martin qua điện thoại và bày tỏ ý muốn của chúng tôi là tình hình phải được hạ nhiệt…
3. Thông cáo của Bộ Ngoại giao gửi cho báo chí về vụ này sẽ nói theo những điểm như sau:
– Chính phủ Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa nhưng hết sức mong muốn là sự tranh chấp được giải quyết trong hòa bình.
– Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu gì vào xung đột này.
4. Chúng tôi yêu cầu Tòa Đại sứ ở Sài Gòn tư vấn cho chính phủ VNCH chỉ nên có những hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân (và người nhân viên Mỹ ở trên đảo) nhưng làm tất cả những gì có thể để tránh đụng độ trực tiếp thêm nữa với lực lượng Trung Quốc. Việc mà VNCH hay chúng ta không cần chút nào trong lúc này là đụng độ giữa Trung Quốc và Chính phủ Việt Nam về mấy hòn đảo, dẫn tới vai trò bất chấp của Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam”.
* HAI ĐIỆN TÍN TỪ SÀI GÒN
Trong quá trình tìm kiếm các tư liệu về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tôi đã tiếp cận 2 điện tín do Graham Martin, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn gửi về Washington D.C., ngay sau khi xảy ra biến cố Hoàng Sa. Nội dung 2 điện tín này đề cập nhiều vấn đề, trong đó có nguyên nhân khiến VNCH hủy bỏ lệnh không kích tái chiếm Hoàng Sa.
1. Điện tín do Đại sứ Martin gửi đến Nhà Trắng ngày 20/1/1974, mức độ KHẨN
Bức điện gồm 8 mục, xin lượt thuật những nội dung chủ yếu như sau:
– Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã gọi điện cho Đại sứ Martin vào lúc 4g15 sáng ngày 20/1/1974 để báo tin về tình hình nghiêm trọng ở Hoàng Sa. Cuộc gọi này thực hiện theo lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nhằm thông qua Đại sứ Martin để báo tin đến Tổng thống Mỹ Nixon về tình hình tại quần đảo Hoàng Sa và kế hoạch hành động của chính quyền VNCH. Theo đó hải quân Trung Quốc với sự yểm trợ của 3 chiếc MIG, đã tấn công lực lượng VNCH đang đóng giữ trên các đảo Hữu Nhật, Quang Hòa và Hoàng Sa, đã buộc lực lượng VNCH rút lui, để lại khoảng 70 quân nhân, có khả năng bị Trung Quốc giết hoặc bắt làm tù binh.
– Do lực lượng Trung Quốc áp đảo, “nên nó dường như không thực tế để cố gắng giải quyết vấn đề bằng phương thức quân sự, kể cả phản công bằng máy bay” (it did not seem practical to attempt to solve the problem by military means. Even counterattack by air was not feasible). Vì vậy Tổng thống Thiệu [cần] chỉ thị cho Ngoại trưởng Bắc tiến hành các bước đi ngoại giao để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và kêu gọi sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các đồng minh thân cận. Theo đó, VNCH sẽ đưa vụ việc ra Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc (LHQ); thông báo với SEATO về hành động xâm lược của Trung Quốc; cân nhắc đưa vụ việc tranh chấp ra tòa án công lý quốc tế. Tuy nhiên, VNCH chưa quyết định việc này vì e ngại Trung Quốc sẽ không chấp nhận ra tòa.
– Thông báo cho các bên tham gia ký kết Hiệp định Paris (1973) rằng Hiệp định quy định tất cả các bên đều phải tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, và Trung Quốc là một bên tham gia ký kết Hiệp định này. Ngoại trưởng Bắc cũng kêu gọi một cuộc họp với các phái đoàn ngoại giao ở Sài Gòn về vụ việc và yêu cầu sự hỗ trợ từ chính phủ của họ.
– Đại sứ Martin hứa với Ngoại trưởng Bắc là sẽ cập nhật tình hình cho Ngoại trưởng Mỹ [Henry Kissinger], và sẽ liên lạc với ông Bắc ngay khi có phản ứng chính thức từ Washington D.C, đồng thời nói rằng nếu VNCH đưa vụ việc ra Hội đồng bảo an LHQ thì Mỹ sẽ lên tiếng nhưng cần cân nhắc đến những tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa của các đồng minh khác của Mỹ như Đài Loan và Philippines.
– Đại sứ Martin nghĩ rằng VNCH cần xem xét lại mối nghi ngờ khi đưa vấn đề ra Tòa án La Haye, kể cả khi Trung Quốc từ chối ra tòa thì việc này cũng chứng tỏ là VNCH đã chọn giải pháp hòa bình thay cho vũ lực. Điều này rõ ràng là có ích trong việc duy trì sự liên lạc sau này.
2. Điện tín do Đại sứ Martin gửi cho Tướng Brent Scowcroft, trợ lý của Ngoại trưởng Henry Kissinger, ngày 21/1/1974, mức độ KHẨN,
Bức điện gồm 10 mục, xin lượt thuật những nội dung chủ yếu như sau:
– Thông báo cho Brent Scowcroft biết diễn biến tình hình, để Brent Scowcroft báo cho Kissinger biết và quyết định cách tiếp cận của ông ta đối với Trung Quốc, nếu có. Martin cho rằng sự hiện diện của Tổng thống Thiệu ở Đà Nẵng tại thời điểm này đã tạo ra áp lực vô hình không cần thiết để xử lý vụ việc. Nếu như ông Thiệu có mặt ở Sài Gòn thì phía Mỹ sẽ biết được dự định của ông ấy và tham vấn cho ông Thiệu những hành động hợp lý hơn. Martin thông báo rằng: “sáng nay tôi đã nghe nói ông Thiệu đã ra lệnh cho không lực Việt Nam Cộng hòa ném bom quân Trung Quốc ở Hoàng Sa. Lệnh đó đã được đình chỉ”. (I heard this morning he had ordered RVN airforce to bomb Chinese forces in Paracels. That has been stopped).
– Cân nhắc việc tư vấn cho chính quyền VNCH rút đơn vị đồn trú ra khỏi đảo Nam Yết ở Trường Sa hay chờ đợi trong trường hợp Trung Quốc tiếp tục xâm phạm Trường Sa.
– Khẳng định Mỹ “không thể tham gia trực tiếp trong cuộc tranh chấp chủ quyền giữa các đồng minh lâu đời là VHCH, Đài Loan và Philippines, hoặc giữa những nước này với Trung Quốc mà Mỹ đang hy vọng xây dựng một mối quan hệ nhiều hơn trong tương lai” (We cannot, I think, become directly involved in the disputes over sovereignty between our old allies – the RVN, the ROC, and the Philippines. Or between them and the PRC with whom we would hope to build a more forthcoming relationship).
– Sử dụng tổ chức Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm quốc tế (ICRC) để yêu cầu các bên trao trả tù binh và những binh lính tử trận, tốt nhất là tiến hành trước dịp Tết [Giáp Dần, 1974] và nơi thực hiện việc trao trả này là ở đảo Hải Nam hay Đại lục thì sẽ thuận tiện hơn so với việc trao trả ở đảo Hoàng Sa.
– Xác minh việc hãng tin UPI ở Sài Gòn đưa tin “có một người Mỹ là [Gerald] Kosh bị Trung Quốc bắt giữ tại trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa”, xem thử ông ta đã bị giết hay bị bắt giữ.
– Dựa vào những quan sát của phái đoàn Mỹ tại Liên hiệp quốc để khuyên Việt Nam chỉ gửi công hàm phản đối Trung Quốc lên Hội đồng bảo an, nhưng không thông tin cho báo chí và chắc chắn là không phải để bỏ phiếu [lên án Trung Quốc].
– Đại sứ Martin cho biết Tổng thống Thiệu muốn gửi thư cho Tổng thống Nixon yêu cầu can thiệp và lên án Trung Quốc, nhưng Martin đã tìm cách ngăn cản việc gửi lá thư này đến Nixon, mà chỉ đề nghị Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc yêu cầu chính phủ VNCH đưa sự vụ ra Tòa án quốc tế và gửi báo cáo tới SEATO (Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á). Dùng ảnh hưởng của cá nhân để kiềm chế bất cứ hành động thiếu cân nhắc nào của Tổng thống Thiệu.
– Cân nhắc để tìm cách sử dụng sự kiện đáng tiếc này theo cách tiến hành các mục tiêu tổng thể của Mỹ; tìm cách tiếp cận với Trung Quốc theo các hướng có ích. Không đề nghị Trung Quốc trả lại quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam, vì Trung Quốc đã chiếm được nó và rõ ràng là không muốn trả lại. Chỉ khuyến nghị Trung Quốc trao trả cho VNCH những người tử trận và tù binh trong dịp Tết [Giáp Dần 1974]; Giúp VNCH bảo vệ Trường Sa và những mỏ dầu tiềm năng ở đó…
* MỘT VÀI NHẬN XÉT
Từ nội dung 3 điện tín trao đổi giữa Bộ Ngoại giao Mỹ với Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn trên đây, cho thấy:
– Mỹ đã “đi đêm” với Trung Quốc trong vấn đề Hoàng Sa, vì thế họ không hỗ trợ VNCH giành lại Hoàng Sa, bỏ mặc cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo này.
– Mỹ ngăn không cho chính quyền VNCH, đặc biệt là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, có những hành động có thể gây phương hại cho mối quan hệ Mỹ
– Trung đang ấm dần lên. Vì thế Mỹ ủng hộ VNCH lựa chọn giải pháp hòa bình (ngoại giao và pháp lý) đối với vấn đề xung đột ở Hoàng Sa, mà không dùng giải pháp quân sự.
– Tuy nhiên, phía Mỹ không trực tiếp yêu cầu VNCH hủy bỏ việc dùng không quân để phản công giành lại Hoàng Sa, mà tạo sức ép tâm lý, buộc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cân nhắc tương quan lực lượng và nhận thấy thái độ của Mỹ đối với vấn đề Hoàng Sa, rồi tự ra quyết định hủy bỏ việc không kích tái chiếm Hoàng Sa.
– Phía Mỹ khẳng định là sẽ giúp VNCH giữ Trường Sa trong trường hợp Trung Quốc manh động xâm phạm quần đảo này. Như vậy có thể thấy rằng Mỹ quyết định buông Hoàng Sa cho Trung Quốc nhưng với Trường Sa thì không.
T.Đ.A.S.
Nguồn: https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=10211457441106283&id=1670718810
Pháp tung bằng chứng khẳng định Hoàng Sa là chủ quyền của Việt Nam

Pháp tung bằng chứng khẳng định Hoàng Sa là chủ quyền của Việt Nam
https://tapchivn.net/phap-tung-bang-chung-khang-dinh-hoang-…
( trích )
“Theo luận điểm của Pháp, quần đảo Hoàng Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam bởi Vua An Nam (Vua Nguyễn) vào năm 1816, sau đó là bởi Courbet vào năm 1885. Vào năm này, Trung Quốc đã thừa nhận rằng, Pháp thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này”.
( hết trích )
***
Người Pháp khi xâm lược Việt Nam cũng đã sớm nhận ra tầm quan trọng chiến lược của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đối với việc phòng thủ Đông Dương, nên đã tiếp quản hai quần đảo này với tư cách nhà nước bảo hộ từ những năm 1920.
Trích “Nước Pháp và chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam” ( http://www.reds.vn/…/hoang-sa-tru…/2516-nuoc-phap-va-hoag-sa ) :
– Ngày 8/3/1925, toàn quyền Đông Dương tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đất của nước Pháp.
– Ngày 24/4/1932, chính phủ Pháp đã có kháng nghị nêu rõ các danh nghĩa lịch sử và các bằng chứng về sự chiếm hữu của An Nam, sau đó là của Pháp đối với Hoàng Sa.
Cùng năm 1932, Pháp đề nghị đưa vụ tranh chấp Hoàng Sa ra các tòa án quốc tế, nhưng Trung Quốc đã từ chối chấp nhận đề nghị này. Đồng thời, theo Bản ghi chú ngày 25/5/1950 của Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp gửi vụ châu Á Bộ Ngoại giao Pháp, vào các năm 1937 và 1947, Chính phủ Trung Quốc cũng từ chối chấp nhận gợi ý của chính phủ Pháp đưa tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa ra giải quyết trước tài phán quốc tế. Như vậy dưới thời Pháp thuộc, Pháp 3 lần đề nghị và Trung Quốc đều từ chối đưa tranh chấp Hoàng Sa ra trọng tài quốc tế.
Ngày 26/11/1937, Pháp phái kỹ sư trưởng công chính J. Gauthier ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ và các điều kiện định cư ở quần đảo này.
Tháng 6/1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa.
Ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brévié ký quyết định tách đơn vị hành chính Hoàng Sa thành hai đơn vị hành chính “Croissant và các đảo phụ thuộc” và “Amphitrite và các đảo phụ thuộc”.
Đầu tháng 1/1947, một phái đoàn quân sự Pháp đến đảo Hoàng Sa.
Ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp chính thức trao cho chính phủ Bảo Đại quyền kiểm soát các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” ( hết trích ).
Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được khẳng định tại Hội Nghị San Francisco ( Mỹ ) hồi tháng 9 năm 1951 giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ sau Thế Chiến II. Trong hội nghị này, Cộng Hòa Nhân Nân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi của Trung Hoa. Tại hội nghị này, trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Thủ Tướng Trần Văn Hữu nêu rõ :
“Chúng tôi cũng sẽ trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội nghị ghi nhận … Việt Nam rất hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình và cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Tuyên bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được ghi vào văn kiện của Hội Nghị San Francisco mà không có sự phản đối nào của các nước tham gia cũng chính là sự thừa nhận của các nước Đồng Minh về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này, và 48/51 quốc gia đã bỏ phiếu phản đối đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc do phái đoàn Liên Xô nêu ra.
Fb Canh Le
TQ: Người đứng đầu các bệnh viện lớn thừa nhận thu hoạch nội tạng
Nửa cuối năm 2018 và đầu năm 2019, thế giới không chỉ nóng lên với cuộc thương chiến giữa Trung Quốc và Mỹ, mà còn liên tục đón nhận những bằng chứng không thể chối cãi về sự vi phạm nhân quyền cực kỳ nghiêm trọng tại quốc gia đông dân nhất thế giới này.

Diễn biến mới nhất về việc cấm ghi hình khi tiếp dân của Hà Nội
Thanh Hieu Bui
Rất căng, nếu anh Phúc Nghẹo không đồng ý thì rõ là anh Phúc ăn nói lươn khươn nh
Nhìn link tiêu đề một đằng, bên trong tiêu đề một kiểu thì biết rõ là đang rất căng. Có vẻ anh Phúc đã cảm thấy lỡ lời, giờ không biết nuốt lại ra sao, còn phía Hà Nội đang dồn anh Phúc buộc phải ý kiến tiếp.
Uống trà sữa, ăn rau câu, bánh kẹo… gần 30 học sinh tiểu học nghi ngộ độc thực phẩm
Được bồi thường 21 triệu USD vì bị bắt rửa chén vào chủ nhật
Trang Minh and Tin Tây Nguyên shared a link.
“VÀI ĐIỀU KHIẾN VIỆT NAM “KHÁC BIỆT” THẾ GIỚI
“VÀI ĐIỀU KHIẾN VIỆT NAM “KHÁC BIỆT” THẾ GIỚI
– Trên thế giới, khi bị tước đoạt dân chủ người ta đổ ra kín đường để đấu tranh, ở VN người ta đổ ra kín đường xem bắn pháo hoa.
– Trên thế giới, ở tuổi 17 người ta nổi tiếng vì đoạt giải nobel hòa bình, ở VN người ta nổi tiếng vì ngậm bao cao su lên mạng khoe vú.
– Trên thế giới, khi để bùn đỏ nguy hiểm tràn ra người ta bồi thường và truy cứu trách nhiệm, ở VN người ta lên báo bảo rằng đấy là “bùn có màu đỏ”.
-Trên thế giới khi tham nhũng thành quốc nạn người ta thực hiện chiến dịch “bàn tay sạch”, ở VN người ta bảo đừng ném chuột kẻo vỡ bình.
– Trên thế giới, khi ngân sách cạn kiệt, nợ công tăng cao người ta quy trách nhiệm cho chính phủ, ở VN người ta coi đấy là trách nhiệm toàn dân.
– Trên thế giới, người ta coi việc giành lại những gì của đất nước đã bị cướp đoạt là trách nhiệm của mình, ở VN người ta “ưu ái” nhường lại cho đời sau.
– Trên thế giới, khi để tham nhũng tràn lan, kinh tế kiệt quệ người ta từ chức, ở VN người ta bảo Đảng phân công thì tôi làm, tôi không xin xỏ ai.
– Trên thế giới, khi ngoại bang xâm lược bờ cõi, người ta gọi đấy là kẻ thù, ở VN người ta gọi đấy là anh em.
– Trên thế giới, người ta gọi là thắng lợi khi đánh đuổi được ngoại xâm, ở VN người ta chờ nó rút sau khi đã tung hoành chán chê rồi tuyên bố thắng lợi.
– Trên thế giới, khi người ta biểu tình chống ngoại xâm mọi người bảo đấy là yêu nước, ở VN người ta bảo đấy là phản động.
– Trên thế giới, người ta bảo nhân quyền là do tạo hóa ban cho và bất khả xâm phạm, ở VN người ta bảo đấy là do Đảng ban cho và tao thích xâm phạm lúc nào thì xâm phạm.
Tội ác ghê gớm nhất của người ta ở VN là:
– biến con người Việt thành những con người không còn tử tế, không còn liêm sỉ, càng lúc càng tham lam, tàn bạo, thủ đoạn;
– biến xã hội Việt Nam thành xã hội suy đồi và giả dối đến mức chưa từng có từ trước tới nay trong văn hoá Việt;
– biến nước Việt thành một nơi chất độc huỷ hoại không những đến thứ để ăn, để uống, để hít thở mà còn huỷ hoại đến tận ý chí, tinh thần và đạo làm người; một nơi không còn một chút nội lực, một nơi con người thờ ơ với hiểm hoạ diệt vong ngay trước mắt…”
Ps: xin like, bình luận, chia sẻ !
Nguồn: https://www.facebook.com/100010321244448/posts/639827813037921/





