Hoa Kỳ : Donald Trump tiếp tục tấn công đại học Harvard

RFI

Cuộc đối đầu giữa Donald Trump và đại học Harvard tiếp diễn. Nhà Trắng muốn buộc cơ sở giảng dạy đầy danh tiếng này phải tuân theo đòi hỏi chính sách của họ. Để làm được điều đó, chính quyền Trump tiếp tục đánh vào túi tiền của  trường,

Đăng ngày: 28/05/2025 

Students walks on the campus of Harvard University in Cambridge, Massachusetts, U.S., May 23, 2025.

Một góc khuôn viên Đại học Harvard ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ, ngày 23/05/2025. REUTERS – Faith Ninivaggi

Anh Vũ

Thông tín viên RFI Guillaum Naudin tại Washington tường trình :

100 triệu đô la là con số mà chính quyền Mỹ ước tính giá trị các hợp đồng ký kết giữa các cơ quan của chính phủ với trường Harvard. Chính quyền yêu cầu các cơ quan này nghiên cứu cách thức có thể hủy hoặc chuyển sang ký kết với các cơ sở khác.

Đây không phải lần đầu tiên Nhà Trắng xem xét lại các mối liên hệ tài chính với Harvard. Hơn hai tỷ đô la trợ cấp đã bị đóng băng, 9 tỷ khác đang được rà soát lại. Ngoài ra, chính quyền còn bãi bỏ quyền của trường được tuyển dụng sinh viên và giáo sư nước ngoài. Đây cũng là một nguồn tiền quan trọng đồng thời cũng là uy tín và tinh hoa của trường.

Chính quyền chỉ trích trường đại học này đã để cho các hệ tư tưởng cấp tiến cũng như bài Do Thái nảy nở mạnh trong khuôn viên  nhà trường.

Đó cũng là lý do tại sao bộ Ngoại Giao Mỹ tuyên bố tạm dừng cấp thị thực cho tất cả sinh viên nước ngoài ở tất cả các trường đại học Hoa Kỳ trong thời gian xem xét lại các bài đăng trên mạng xã hội của họ. Hiệu trưởng trường Harvard Alan Garber kêu gọi tất cả các trường đại học kiên định, không nhượng bộ trước cuộc tấn công của chính phủ. 

Theo AFP, hôm qua, 27/05/2025, hàng trăm sinh viên của trường Harvard đã biểu tình đế phản đối hành động tấn công mới của Nhà Trắng. Mặc dù tư pháp Mỹ quyết định tạm ngừng áp dụng việc bãi bỏ quyền tuyển sinh viên ngoại quốc, các sinh viên Mỹ và nước ngoài đều tỏ ra quan ngại trước việc chính quyền Trump tấn công Harvard.

Theo trang web của trường, đại học Harvard đóng tại Cambridge, bang Massachusetts (phía đông bắc). Hàng năm, trường đón khoảng 6.700 sinh viên quốc tế, chiếm 27% tổng số.

Harvard được xếp hạng là một trong những trường đại học tốt nhất thế giới và theo thống kê, 162 giải Nobel đã qua học tại trường. Học phí mỗi năm của Harvard lên tới hàng chục nghìn đô la, là trường đại học giàu nhất Hoa Kỳ, có ngân quỹ trị giá 53,2 tỷ đô la vào năm 2024.


 

Những Tỷ Phú Cam Kết Từ Thiện Hết Tất Cả Tài Sản Của Mình Cho Cộng Đồng

Nghĩ Giàu – Làm Giàu 

  1. Chuck Feeney – Người tỷ phú “vô hình”

Người sáng lập chuỗi cửa hàng miễn thuế Duty Free Shoppers, từng sở hữu khối tài sản hơn 8 tỷ USD. Ông âm thầm quyên góp toàn bộ tài sản của mình vào giáo dục, y tế và nhân quyền – đến mức khi qua đời năm 2023, ông chỉ còn vài triệu để sống giản dị trong căn hộ thuê nhỏ. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi muốn tặng hết tiền khi còn sống – để được thấy tác động của nó.”

  1. Bill Gates – Tỷ phú đi đầu trong làn sóng từ thiện hiện đại

Ông cùng vợ cũ Melinda thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, chi hơn 100 tỷ USD cho các chương trình chống đói nghèo, bệnh tật và giáo dục. Gates cũng là người khởi xướng phong trào The Giving Pledge, kêu gọi giới siêu giàu cam kết cho đi ít nhất 50% tài sản. Riêng ông – tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản trong đời.

  1. Warren Buffett – “Huyền thoại phố Wall” nhưng sống như người bình thường

Buffett cam kết hiến tặng hơn 99% tài sản của mình – khoảng 150 tỷ USD – cho hoạt động từ thiện, phần lớn thông qua quỹ của Bill Gates. Dù là tỷ phú hàng đầu, ông vẫn sống trong căn nhà mua từ năm 1958, ăn sáng ở McDonald’s và đi làm bằng xe hơi cũ.

  1. MacKenzie Scott – Người phụ nữ thay đổi bộ mặt từ thiện toàn cầu

Vợ cũ của Jeff Bezos không chỉ nhận được khoản ly hôn trị giá 38 tỷ USD, mà còn lập tức cam kết cho đi gần hết số tiền ấy. Chỉ trong vòng vài năm, bà đã quyên góp hơn 19 tỷ USD cho hàng nghìn tổ chức nhỏ lẻ, hỗ trợ phụ nữ, giáo dục, cộng đồng thiểu số – với nguyên tắc: “Trao quyền mà không đòi hỏi sự công nhận.”

  1. Ông trùm mạng xã hội Mark Zuckerberg

Khi con gái đầu lòng tên Max ra đời vào năm 2015, Mark Zuckerberg cùng vợ là Priscilla Chan đã gây chú ý khi tuyên bố không để lại khối tài sản khổng lồ cho cô bé. Thay vì lập kế hoạch thừa kế hàng tỷ USD, hai vợ chồng quyết định thành lập tổ chức từ thiện mang tên Chan Zuckerberg Initiative – một dự án đầy tham vọng nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu như khoa học, giáo dục, năng lượng sạch và kết nối cộng đồng.

“Chúng tôi cam kết dành 99% số cổ phiếu Facebook mà mình sở hữu trong suốt cuộc đời để phục vụ cho sứ mệnh này. Dù biết rằng đóng góp của chúng tôi chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh lớn, nhưng chúng tôi vẫn muốn dùng những gì mình có để góp phần thay đổi thế giới, cùng với hàng triệu con người đang nỗ lực mỗi ngày,” vợ chồng nhà sáng lập Meta bày tỏ.

#nghigiaulamgiau #typhu #tuthien


 

50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn – Phạm Tín An Ninh     

Phạm Tín An Ninh                   

    

     Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.

Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”

Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù,  mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo,  6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục,  Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum,  cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)

Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.

Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.

Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.

Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!

                   

                    (Trên đường ra trận – ảnh từ Internet)

Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.

Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.

Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

                   

Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.

                      

 Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

                       

             (Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)

Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH  bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.

                     

                    Thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)

Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.

Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.

50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.

Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa.  (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005,  nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.

50 năm, nền văn học “xã hội  chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo,  Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!

Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp,  tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.

Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:

“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.

Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…

Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)

Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.

 Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”

Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”

Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:

“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”

Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk

-Nhật Bản               :  35,611 Mk

-Đài Loan               :  34,944 Mk

-Malaysia               :  14,423 Mk

-Thái Lan               : 7,754 Mk

Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.

Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk

-Hung Gia Lợi (Hungary)   = 25,703 Mk

-Ba Lan (Poland)                 = 25,040 Mk

-Lỗ Ma Ní (Romani)           = 21,570 Mk

-Bảo Gia Lợi (Bulgari)       = 18,456 Mk

Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.

Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”

Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.

Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!

“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê

Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.

Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!

Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.

Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.

Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???

Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).

Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!

Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?

Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”

Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! “tháng Tư!”

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người “bên thua cuộc!”

Biết sao được !

Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!

Xin lỗi! “tháng Tư!”

Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ

Tạ Lỗi Miền Nam

Tôi sinh ra ở miền bắc

Không hình dung ra giặc thế nào

Người ta hô hào

Phải căm thù giặc…?

Người ta dạy tôi là người miền bắc

Phải biết thương yêu đồng bào miền nam

Bà con ruột thịt đang lầm than

Dưới gót giày của Mỹ Diệm…

Những người con nông dân thật thà như đếm

Mặc áo lính vai khoác súng lên đường

Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương

Đánh đuổi quân xâm lược…

Thống nhất đất nước

Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình

Miền nam giàu và dân sống văn minh

Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”

Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu

Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến

Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh

Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình

Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc

Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin

Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn

Gieo thù hận trong lòng con cháu

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu

Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh

Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành

Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm

Mất chính mình mang tội ác với tương lai

Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.

Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:

“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”

 Phạm Tín An Ninh

Cuối tháng 4-2025  

From: haiphuoc47& NguyenNThu


 

Quốc tế đồng loạt kêu gọi trả tự do cho nhà báo Phạm Đoan Trang

Ba’o Dat Viet

May 28, 2025

 HÀ NỘI — Nhân ngày sinh nhật lần thứ 46 của nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang (25 Tháng Năm, 1978), bốn tổ chức nhân quyền quốc tế đã lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà – người đang thụ án 9 năm tù vì các hoạt động ôn hòa, phản biện xã hội.

Trong một tuyên bố chung, các tổ chức gồm Phóng Viên Không Biên Giới (RSF), Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo (CPJ), Hội Văn Bút Hoa Kỳ (PEN America) và Sáng Kiến Pháp Lý Việt Nam (LIV) nhấn mạnh rằng tình trạng giam giữ bà Trang là “không thể chấp nhận được” và kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực để Hà Nội chấm dứt sự đàn áp đối với giới làm báo độc lập.

“Xuyên qua các bài viết nghiêm túc và với sự can đảm khác thường, Phạm Đoan Trang là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì quyền được biết và tự do báo chí tại Việt Nam. Việc bà bị cầm tù là điều không thể dung thứ,” bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc Vận động khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của RSF tuyên bố. Bà cũng nhấn mạnh tình trạng sức khỏe đáng lo ngại của bà Trang sau gần 5 năm bị giam giữ, và yêu cầu nhà chức trách phải cho bà tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế độc lập.

Bà Phạm Đoan Trang bị bắt vào Tháng Mười, 2020 tại Sài Gòn, sau nhiều năm bị theo dõi và sách nhiễu vì các bài viết phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của một chế độ độc đảng. Bà bị tuyên án 9 năm tù vào cuối năm 2021 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” – một điều khoản mơ hồ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, lâu nay bị giới quan sát quốc tế xem là công cụ để dập tắt tiếng nói bất đồng.

Trước khi bị bắt, bà Trang là một trong những tiếng nói nổi bật nhất trong giới báo chí độc lập tại Việt Nam. Bà là đồng sáng lập Luật Khoa tạp chí – một trang báo mạng chuyên cung cấp kiến thức pháp lý và chính trị cho công chúng – và là tác giả của nhiều tài liệu hướng dẫn người dân tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Năm 2019, RSF vinh danh bà với giải thưởng “Tự do báo chí.” Một năm sau, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng bà danh hiệu “Phụ nữ can đảm toàn cầu.”

Bà Trang là hiện thân của thế hệ trí thức trẻ, dám lên tiếng trước bất công, đấu tranh ôn hòa vì quyền con người, và chấp nhận mọi hiểm nguy – bao gồm cả tù đày – để đòi hỏi một xã hội công bằng, minh bạch hơn.

Việc bà bị giam giữ tiếp tục gây phẫn nộ trong giới hoạt động quốc tế, vốn lâu nay vẫn chỉ trích tình trạng đàn áp tự do ngôn luận tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền cho rằng bản án dành cho bà Trang là bằng chứng rõ ràng cho thấy chính quyền Cộng sản Việt Nam đang bóp nghẹt quyền tự do biểu đạt, bất chấp những cam kết với cộng đồng quốc tế.

Thông điệp từ tuyên bố chung là rõ ràng: Phạm Đoan Trang không nên ở trong tù. Việc bà bị giam giữ không chỉ là một sự bất công cá nhân, mà còn là lời cảnh báo đáng sợ về tình trạng tự do báo chí đang bị đe dọa nghiêm trọng tại Việt Nam. Và nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng, những tiếng nói như của bà Trang có thể sẽ mãi mãi bị bịt kín sau song sắt.


 

Kinh tế Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm-Trần Anh Quân

Ba’o Nguoi-Viet

May 27, 2025

Trần Anh Quân

Tổng Bí Thư Tô Lâm nhắc nhở “tiền trong dân còn nhiều,” Thủ Tướng Phạm Minh Chính liền phát động thi đua làm giàu: CSVN đang chuẩn bị in thêm tiền để chơi canh bạc “lạm phát cao.”

CSVN ủ mưu gom tiền trong dân

“Tiền trong dân còn nhiều” là câu nói khiến người ta nhớ tới Vương Đình Huệ, khi ông này còn là Chủ tịch Quốc hội. Ông Huệ nói câu hồi tháng Mười năm 2021, khi Việt Nam đang chìm trong dịch bệnh cúm Tàu và vẫn chưa có giải pháp gì để vực dậy nền kinh tế. Nên ông Huệ muốn “huy động” tiền trong dân để cứu vãn tình hình sau đại dịch.

Thật ra, người đầu tiên phát biểu “tiền trong dân còn nhiều” chính là ông Tô Lâm. Hồi Tháng Bảy năm 2016, khi mới lên ghế bộ trưởng Bộ Công An được ba tháng, ông Lâm nói trước chính phủ rằng “hàng nghìn tỷ đồng cá độ đổ vào mùa bóng đá năm nay, hàng nghìn tỷ đồng các tổ chức kinh doanh đa cấp huy động được dễ dàng… cho thấy lượng tiền tồn đọng trong dân rất lớn.” Từ đó, ông Lâm đã tổ chức nhiều chiến dịch tấn công các đường dây cá độ để gom tiền về cho Bộ Công An. Nổi bật trong các chiến dịch đó là vụ khởi tố đường dây cờ bạc của Phan Sào Nam và Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hoá (cục trưởng Cục Cảnh Sát công nghệ cao).

Ngày 17 Tháng Năm, ông Lâm một lần nữa nhắc: “Tiền trong dân rất nhiều, chỉ số tài chính, số dân gửi tiết kiệm vào ngân hàng rất lớn mà tỉnh không biết cách dựa vào nguồn vốn đó phát triển kinh tế. Nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp thì tỉnh làm sao thu được thuế mà người dân lại rất vất vả.”

Tổng bí thư CSVN thừa nhận rằng người dân đã mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, nên không dám đi gửi tiền nữa, gây khó khăn cho việc huy động tiền trong dân. Báo trong nước dẫn lời ông Lâm: “Tiền vào ngân hàng càng tăng thêm sức mạnh quốc gia. Làm sao phải huy động được toàn bộ sức của dân, không để tiền nhàn rỗi. Nhưng nếu người dân không tin tổ chức tín dụng nữa sẽ để tiền ở nhà. Trong khi hệ thống tín dụng vay rất khó, doanh nghiệp không vay được để kinh doanh, lại sinh ra tín dụng đen, lãi suất cao.”

Ngay sau chỉ đạo của ông Lâm, hôm 18 Tháng Năm, Thủ Tướng Phạm Minh Chính thông báo Chính Phủ đang giao Bộ Nội Vụ xây dựng kịch bản phát động “phong trào cả nước thi đua làm giàu.”

Việc gấp rút huy động tiền trong dân và phát động thi đua làm giàu lần này cho thấy hai chuyện: thứ nhứt, tiền trong nhà nước đã cạn kiệt; thứ hai, các doanh nghiệp nhà nước cũng không thể làm giàu nữa (vì đụng đâu cũng lỗ, ví dụ: than, điện, xăng…). Với tình hình này thì sắp tới, chắc chắn CSVN sẽ in thêm tiền để “chữa cháy.”

Tiền đền bù quan chức nghỉ việc gấp 7 lần tiền miễn học phí

CSVN đang dùng hàng chục ngàn tỷ đồng trả cho quan chức nghỉ việc sớm, nhưng chỉ chi ra vài ngàn tỷ để miễn học phí cho học sinh

Trong kỳ họp Quốc hội CSVN mới đây, có 436/438 dân biểu đã tán thành thông qua Nghị quyết về điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách Nhà nước năm 2025. Trong đó có việc điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách Trung ương năm 2025 để chi trả 44,000 tỷ đồng cho cán bộ công chức viên chức nghỉ việc sau khi tinh gọn bộ máy nhà nước.  Đồng thời, chuyển 6,623 tỷ đồng tiền dự toán chi thường xuyên ngân sách Trung ương năm 2024 chưa phân bổ sang năm 2025 để thực hiện chính sách miễn học phí, và thực hiện các nhiệm vụ phát sinh do sắp xếp tổ chức bộ máy theo phê duyệt của các cấp thẩm quyền.

Tính ra thì số tiền bổ sung để đền bù cho cán bộ nghỉ việc sớm gấp 7 lần số tiền chi ra để miễn học phí cho học sinh.  Vấn đề là không phải tất cả các học sinh đều được miễn học phí, mà từ năm học 2025-2026 mới bắt đầu miễn học phí cho học sinh các trường công lập. Trong khi đó lượng học sinh bị đẩy vào trường tư là rất lớn. Vào trường tư không phải do các em học dở, hay gia đình giàu có, dư dả; mà là vì không đủ trường công lập. Không vào trường công được thì chẳng lẽ nghỉ học, cho nên hàng triệu học sinh buộc phải học trường tư.

Ngoài ra, miễn học phí nhưng tiền sách giáo khoa vẫn tăng, kèm theo đó thì các trường công lập vẫn thu tiền điện, nước, máy móc trang thiết bị nhà trường (mỗi năm mỗi đổi và năm nào cũng đóng thêm), tiền ăn uống cho học sinh bán trú, tiền quỹ lớp, quỹ trường, tiền học phụ đạo, bổ sung kiến thức, ngoại khoá, các môn tăng cường ngoài chương trình… Nói là miễn học phí nhưng thực tế là tăng thêm rất nhiều chi phí khác.

Đối với những mầm non của Tổ quốc thì CSVN đối xử như vậy. Nhưng đền bù cho quan chức mất việc thì lại rất ưu ái. Tại sao họ nghỉ hưu sớm, tại sao bị đào thải, tại sao lại nằm trong nhóm bị tinh gọn? Có phải là vì làm không được việc, không đủ năng lực phục vụ người dân, mua chức mua quyền rồi dư thừa quan chức? Tại sao những kẻ vô dụng (thậm chí ăn hại, hối lộ tham nhũng sách nhiễu) mà lại được đền bù tiền tỷ để nghỉ hưu non?

Nhìn vào mức chênh lệch gấp 7 lần kia thì cũng thấy CSVN đãi ngộ ai, muốn xây dựng đất nước như thế nào. Đừng nghĩ rằng sau tinh gọn thì đất nước sẽ vươn mình đi vào kỷ nguyên mới theo lời ông Tô Lâm, người dân phải chuẩn bị tâm thế “gồng mình” để đóng thuế bù đắp vô các khoản đền bù cho lãnh đạo cộng sản. Nếu có vươn mình, thì chỉ có tiền thuế, tiền điện, tiền xăng, tiền phạt vi phạm giao thông, giá cả hàng hoá là chắc chắn sẽ vươn lên thôi.

Ai cũng biết các chỉ số phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP ở Việt nam hầu như là những báo cáo láo, chạy theo thành tích, đảm bảo chỉ tiêu.

Rõ ràng nền kinh tế Việt Nam hiện đang đứng bên bờ vực thẳm.


 

Mâu thuẫn, bác sĩ ở Đồng Nai đâm đồng nghiệp ngay trong phòng khám

Ba’o Nguoi-Viet

May 28, 2025

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Chỉ vì mâu thuẫn trong sinh hoạt, ông bác sĩ ở thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, đã dùng dao tấn công đồng nghiệp ngay trong phòng khám bệnh.

Hôm 28 Tháng Năm, Công An Tỉnh Đồng Nai đã bắt giữ nghi can Trần Xuân Hiền, bác sĩ Khoa Nội Soi, Phòng Khám Đa Khoa Ái Nghĩa, ở xã Bàu Trâm, thành phố Long Khánh, thuộc hệ thống Y Khoa Ái Nghĩa Đồng Nai, để điều tra về tội “giết người.”

Nghi can Trần Xuân Hiền cầm dao tấn công đồng nghiệp. (Hình: Người Lao Động)

Báo Người Lao Động dẫn điều tra ban đầu cho biết, nghi can Hiền có “mâu thuẫn trong sinh hoạt” với đồng nghiệp là Bác Sĩ Trần Nguyễn H., Khoa Nhi, cùng làm chung tại phòng khám nên nảy sinh ý định đánh “dằn mặt.”

Chiều 23 Tháng Năm, nghi can Hiền lấy hai con dao để vào balô rồi đi vào phòng làm việc riêng của Bác Sĩ Trần Nguyễn H. tại phòng khám trên.

Lúc này, phòng khám không có khách, chỉ có điều dưỡng Nguyễn Thị Diễm My đang làm việc. Thế là nghi can Hiền đề nghị cô My ra ngoài để “hai bác sĩ nói chuyện với nhau.”

Ngay sau khi cô My ra ngoài, nghi can Hiền chốt cửa. Trong phòng, cả hai nói về mâu thuẫn cũ. Tức giận, nghi can Hiền rút hai con dao trong balô đâm Bác Sĩ Trần Nguyễn H. nhiều nhát vào đầu, vai…

Hoảng sợ, nạn nhân xô cửa để thoát thân nhưng không mở được cửa.

Nghe tiếng la hét, một số nhân viên phòng khám chạy vào can ngăn nghi can Hiền để nạn nhân chạy ra ngoài.

Một trong những phòng khám thuộc hệ thống Y Khoa Ái Nghĩa ở Đồng Nai, nơi hai bác sĩ đang làm việc. (Hình: DoctorTrust)

Bác Sĩ Trần Nguyễn H. được đồng nghiệp đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa Khoa Long Khánh và may mắn không nguy hiểm đến tính mạng.

Gây án xong, nghi can Hiền đến công an nộp hung khí và đầu thú.

Nhận xét sự việc trên báo Thanh Niên, độc giả “nongmanhha 160667” bày tỏ: “Loạn thật, hai ngành đứng đầu gọi là Nhân với Đức là giáo dục và y tế, nhưng giáo viên oánh giáo viên, giờ bác sĩ oánh bác sĩ.”

“Bác sĩ cũng giang hồ như ai. Chạy xe ngoài phố lỡ va chạm cũng lao vào đấm đá. Lực lượng thi hành luật mặc thường phục thì ‘tát dân’ thoải mái. Học sinh đánh bạn hội đồng. Dường như ‘văn hóa đánh lộn’ theo kiểu giang hồ lên ngôi [ở Việt Nam] thì phải,” độc giả “khainguyen091757” ngao ngán viết. (Tr.N)


 

CHÂN DUNG MỘT SIÊU LỪA!

Nguyễn Hoàng Tuấn 

Hãy nhìn qua sự nghiệp hoành tráng của người đàn ông này. Ông từng bị bắt vào Nhà tù Liên bang Mỹ do bị kết tội trong nhiều phi vụ lừa đảo khác nhau. Sau khi ra tù, Comisar tuyên bố quy ẩn giang hồ, rửa tay gác kiếm và trở thành một chuyên gia cố vấn… chống lừa đảo. Ông sau đó còn xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình rồi xuất bản cả một cuốn sách mang tựa đề “Cẩm nang chống lừa đảo ở Mỹ” (2012). Nhìn chung, con đường hoàn lương của Comisar có vẻ ổn thỏa, nhưng cái làm cho mọi người nhớ nhất chính là một trong những phi vụ hồi ông mới vào nghề.

Dường như thấy rằng, trong những phi vụ gạt người khác, những tay thích lừa cứ nhất thiết phải “nói dối”, Comisar tự nhủ với chính mình “tại sao lại không nói thật nhỉ?” Nghĩ là làm, chàng trai Comisar trẻ tuổi liền đặt mua một mẩu quảng cáo trên tờ tạp chí quốc gia National Enquirer với nội dung như sau:

“Thiết Bị Phơi Đồ Năng Lượng Mặt Trời, chỉ với giá 49,95 đô la. Các kiểm định khoa học cho thấy, thiết bị này đảm bảo dùng tốt lên đến 5 năm nếu được cung cấp đủ ánh sáng mặt trời. Không phải dùng bất kì một nguồn năng lượng nào khác, không pin, không điện. Miễn phí giao hàng toàn quốc.”

Những khách hàng xem được dòng chữ này tỏ ra khá là hứng thú với sản phẩm. Ai cũng biết nỗi niềm phơi đồ canh nắng chạy mưa khá là khổ sở, đó là còn chưa kể đến mùi ẩm mốc nếu quần áo không được hong khô hoàn toàn. Giờ mà có thiết bị không dùng năng lượng gì cả, chỉ tốn khoảng 50 đô la để giải quyết vấn đề này thì còn gì bằng. Thế là, những đơn hàng nối tiếp bay về.

Thời gian chờ đợi dằng dặc không cản được cảm giác háo hức khi nhận được sản phẩm. Các khách hàng cẩn thận cắt xé từng mẩu băng dán, nhẹ nhàng gỡ hộp ra và trước mặt họ, được đóng gói kĩ càng giữa hộp, là một… đoạn dây phơi đồ! Có gì đó có vẻ sai sai, rõ ràng là họ đặt hàng một thiết bị phơi đồ dùng năng lượng mặt trời chứ đâu phải đoạn dây này chứ? Vài khách hàng tìm cách liên lạc cho người bán (Comisar) và nhận được phản hồi như sau:

Sản phẩm là một thiết bị phơi đồ, đúng không? – Đúng.

Dùng năng lượng mặt trời, tức là ánh nắng, đúng không? – Đúng.

Đảm bảo dùng tốt nếu cung cấp đủ ánh sáng mặt trời? – Đúng.

Không pin, không điện, miễn phí giao hàng? – Cũng đúng nốt.

Vậy đích thị người bán đã cung cấp đúng sản phẩm y như quảng cáo, không có gì khuất tất ở đây cả.

Đến lúc này thì khách hàng đã vỡ lẽ ra họ bị “lừa” một cách không thể thật thà hơn. Không có bằng chứng hay lý do gì để khởi kiện nhà bán hàng, người mua đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Phi vụ này của Comisar đi vào sách giáo khoa của những kẻ lừa đảo khi hoàn toàn né được những cáo buộc liên quan đến pháp luật (mặc dù về sau, rồi ông cũng bị vào tù trong một phi vụ khác). Chỉ bằng những lời lẽ không thể nào thật hơn, Comisar đã chứng minh rằng, sức mạnh của ngôn từ thật vô cùng khó lường. Chỉ cần muốn, người ta có thể đổi trắng thay đen một cách rất ư dễ dàng. Giữa dòng đời nhiễu nhương, nơi lòng tin của con người liên tục bị thử thách, đừng chỉ đề phòng với những lời nói dối, vì biết đâu, ngay cả những lời nói thật 100% đấy cũng chắc gì đã tốt đẹp hơn?

( Sưu tầm )

“Vào Viện Dưỡng Lão” – Trần Văn Giang

Trần Văn Giang.

(6 điều hối tiếc)

Lời giới thiệu

Đây là một câu chuyện dài, thật buồn rất đáng đọc; nhưng cũng là một bài học lớn về việc yêu thương và tôn trọng người cao niên; đồng thời tìm cách giúp họ duy trì tự do và phẩm giá trong cuộc sống còn lại.

Có người nói “Viện dưỡng lão là phòng khách của địa ngục!?” Hay là “Thôi già rồi thì đành phải chịu thôi… Than vãn làm gì nữa hè!”

Đúng hay sai cũng còn tùy mỗi hoàn cảnh…

TVG

*******

Nếu chỉ có một điều trong đời mà tôi thực sự hối tiếc thì đó chính là bước chân vào Viện dưỡng lão.

Năm nay tôi 82 tuổi. Tóc tôi đã bạc trắng, chân cũng không còn nhanh nhẹn như xưa, nhưng tâm trí vẫn còn minh mẫn lắm. Tôi từng nghĩ rằng tuổi giả chỉ đơn giản là một hành trình nhẹ nhàng khi con người ta được tận hưởng quãng thời gian cuối đời trong sự thanh thản. Nhưng mà không. Tôi đã sai và sai lầm lớn nhất đời tôi chính là rời bỏ căn nhà mà tôi đã gắn bó suốt hơn nửa cuộc đời để bước vào nơi mà người ta vẫn hay gọi là chốn “An dưỡng tuổi già.”

Ban đầu tôi không có ý định vào Viện dưỡng lão vì tôi còn đủ sức chăm sóc bản thân, mặc dù hơi chậm chạp hơn trước một chút. Nhưng rồi con cái tôi, những đứa con mà tôi đã nuôi nấng bằng tất cả yêu thương, lại bảo rằng đưa tôi vào đó là cách tốt nhất để tôi có một cuộc sống thoải mái, được chăm sóc đầy đủ không phải lo nghĩ gì nữa. Con gái tôi nắm lấy tay tôi với ánh mắt đầy lo lắng, nhưng cũng có chút thúc giục, nói:

“Mẹ vào đó đi. Ở đó có người chăm sóc; có bác sĩ; có bạn bè trò chuyện; Ở nhà một mình lỡ có chuyện gì không ai biết được?

Tôi đã do dự rất lâu. Căn nhà nhỏ của tôi tuy cũ nhưng đó là nơi lưu giữ bao nhiêu kỷ niệm. Chiếc tủ gỗ do chồng tôi tự tay đóng từ thời trẻ. Góc bếp nơi tôi vẫn nấu những bữa ăn ấm cúng cho gia đình. Chiếc ghế dựa cũ kỹ cạnh cửa sổ nơi tôi hay ngồi đọc báo vào mỗi buổi sáng… Làm sao tôi có thể rời bỏ những kỷ niệm đó. Nhưng rồi tôi cũng xuôi lòng. Tôi tin vào lời con cái. Tôi tin rằng vào Viện dưỡng lão tôi sẽ có một cuộc sống tốt hơn. Tôi tin rằng mình sẽ được chăm sóc chu đáo, được trò chuyện, được an yên…

Vậy mà ngay khi cánh cửa Viện dưỡng lão khép lại sau lưng, tôi đã nhận ra một sự thật cay đắng. Nơi đây không phải là nhà và có lẽ tôi đã không còn đường quay lại. Bạn có bao giờ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một người giả đánh mất tất cả những gì quen thuộc, những thứ làm nên cuộc sống của mình. Tôi cũng từng là người không nghĩ đến điều này cho đến khi chính mình rơi vào hoàn cảnh hiện tại.

Tôi ước chi có ai đó đã nói cho tôi biết trước khi tôi bước vào Viện dưỡng lão. Nếu bạn hiện, đang cân nhắc về việc sẽ “Vào Viện dưỡng lão,” dù cho chính mình hay cho người thân, hãy nghe câu chuyện của tôi trước khi quyết định. Vì một khi bạn bước vào Viện dưỡng lão thì cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ còn như trước nữa. Tôi muốn kể cho bạn nghe “Sáu (6) điều mà tôi hối tiếc” như sau.

Hối tiếc 1: Đã mất đi sự tự do.

Sáng hôm đó tôi thức dậy trên một chiếc giường lạ. Tôi vươn vai theo thói quen định bước ra bên hiên nha` để hít thở chút không khí buổi sáng. Nhưng rồi tôi chùng lại vì không có hiên nhà nào cả. Không có ánh nắng nhẹ nhàng len qua khung cửa sổ quen thuộc. Không có tiếng chim ríu rít trên mái hiên. Chỉ có bốn bức tường trống trơn và mùi thuốc khử trùng thoang thoảng trong không khí.

Phải mất một lúc để tôi nhớ ra là tôi không còn ở nhà mình nữa. Tôi đã ở Viện dưỡng lão. Cảm giác xa lạ ấy không biến mất sau một ngày, một tuần, hay thậm chí một tháng. Mọi thứ trong Viện dưỡng lão đều vận hành theo một lịch trình cứng ngắc mà tôi không có quyền thay đổi: 7:00 sáng nhân viên y tế mở cửa bước vào đánh thức tôi dù tôi chưa muốn dậy; 7:30 bữa sáng được mang đến dù tôi không hề đói; 9:00 có một buổi sinh hoạt chung nơi mọi người ngồi nghe nhạc hoặc tập thể dục nhẹ; 1:00 ăn trưa dù tôi thích món khác hơn tôi vẫn phải ăn thứ được mang ra. Mọi thứ đều có sẵn nhưng tôi chẳng được lựa chọn gì cả. Tôi không còn có thể nấu món canh khổ qua nhồi thịt mà tôi vẫn thích; Không thể uống trà vào buổi chiều như tôi vẫn hay làm; Không thể đơn giản đi bộ ra đầu ngõ mua một túi bánh khi thèm một chút đồ ngọt; Ngay cả việc muốn ra đi ngoài cũng phải xin phép và chờ có người hỗ trợ (?).

Tôi nhớ ngày đầu tiên ở đây tôi đã định ra ngoài đi dạo một chút nhưng cửa đã khóa. Một nhân viên nói tôi:

– “Bác cần ra ngoài ạ? Để con gọi người dẫn bác đi.”

Tôi sững sờ. Tôi cần ai đó dẫn đi để bước ra ngoài sao? Dù chỉ là một đoạn đường ngắn thôi. Dần dần tôi hiểu ra ở đây tôi không còn được quyết định cho chính mình nữa. Từ một người có thể tự do làm mọi thứ, tôi trở thành một người phải chờ đợi người khác quyết định giúp mình. Cảm giác mất đi sự tự do không ập đến ngay lập tức. Nó len lỏi vào từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống nó khiến tôi nhận ra những thứ đơn giản nhất như tự chọn giờ ăn; Tự quyết định hôm nay sẽ làm gì là những điều tôi từng xem là hiển nhiên, nhưng giờ lại là một thứ xa xỉ.

Rồi tôi bắt đầu quen dần với việc không thể tự do ra ngoài; Quen với việc phải ăn thứ được đưa ra dù tôi không thích; Quen với việc ngồi chờ đến giờ ngủ dù tôi chưa muốn ngủ. Nhưng bạn cũng biết: Không quen, không có nghĩa là chấp nhận. Có những đêm tôi nằm trên giường mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà. Tôi nhớ lại những ngày còn ở nhà khi tôi có thể tự tay mở cánh cửa nhà mình bất cứ lúc nào. Khi tôi có thể tự quyết định hôm nay sẽ làm gì khi tôi vẫn còn là người làm chủ cuộc đời mình. Giờ đây tôi chỉ là một cái tên trên một danh sách, một phần trong hệ thống người già phụ thuộc vào lịch trình của người khác.

Nếu bạn đang cân nhắc đưa cha mẹ mình vào Viện dưỡng lão hoặc chính bạn đang nghĩ đến điều đó. Hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự tự do của mình để lấy sự tiện lợi không? Bạn có thể chịu đựng được cảm giác mỗi ngày trôi qua mà không thực sự được quyết định điều gì trong cuộc sống của mình không? Vì một khi bạn đã đánh mất sự tự do thì việc lấy lại nó gần như là không thể được.

Hối tiếc 2: Cảm giác bị lãng quên.

Những ngày đầu tiên ở Viện dưỡng lão tôi vẫn còn niềm tin. Tôi tin rằng dù có xa nhà tôi vẫn sẽ được con cháu quan tâm. Tôi tin rằng dù ở một nơi khác, tình cảm gia đình vẫn không thay đổi. Ban đầu thì đúng như vậy.

Tuần đầu tiên con gái tôi đến thăm nó mang theo ít bánh ngọt, một hộp sữa và ngồi trò chuyện với tôi suốt cả buổi chiều. Nó hỏi tôi ánh mắt đầy quan tâm:

– “Mẹ có quen không? Mọi thứ ổn chứ?”

Tôi mỉm cười gật đầu vì tôi không muốn nó lo lắng. Cuối tuần đó, các cháu tôi cũng đến. Chúng ríu rít kể chuyện trường lớp. Chúng ôm tôi rồi chụp vài tấm ảnh. Tôi cảm thấy lòng mình ấm áp. Tôi tự nhủ mình không cô đơn đâu. Mọi người vẫn sẽ nhớ đến mình… Nhưng rồi những lần thăm hỏi cứ thưa dần đi. Tuần thứ hai con gái tôi bận công việc. Nó chỉ gọi điện thoại dặn dò vài câu rồi gác máy. Tuần thứ ba cháu tôi nói nó có bài thi ở trường không thể đến thăm Ngoại. Đến tuần thứ tư thì chẳng còn ai ghé nữa. Tôi bắt đầu đếm từng ngày mong chờ có ai đó mở cánh cửa phòng nói với tôi rằng “Mẹ ơi con đến rồi.” Hoặc “Ngoại ơi. Con nhớ Ngoại lắm…” Nhưng cửa vẫn đóng, điện thoại vẫn im lặng.

Rồi tôi nhận ra tôi không phải là người duy nhất rơi vào tình cảnh này. Tôi thấy những cụ già khác cũng ngồi lặng lẽ bên cửa sổ; Đôi mắt nhìn ra xa chờ đợi một bóng dáng quen thuộc. Tôi nghe những câu chuyện thì thầm” “Thằng con tôi nói cuối tuần này nó tới; nhưng rồi lại báo là bận”; “Hôm nay là sinh nhật tôi mà chắc chẳng có ai nhớ đâu?”… Và tôi hiểu rằng một khi đã vào Viện dưỡng lão rất dễ để người ta lãng quên mình. Không phải vì con cháu không yêu thương tôi nữa. Tôi biết chúng vẫn yêu tôi, nhưng cuộc sống bận rộn khiến chúng dần dần xem sự vắng mặt của tôi là chuyện hiển nhiên.

Lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được điều này là vào dịp Tết. Những năm trước, vào ngày 30 Tết, tôi sẽ cùng con gái gói bánh, quét dọn bàn thờ tổ tiên, chuẩn bị mâm cơm cúng mọi thứ luôn rộn ràng ấm áp. Nhưng năm nay tôi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ của Viện dưỡng lão lắng nghe tiếng pháo vọng từ xa. Không ai đến đón tôi về nhà. Không ai nhớ rằng Tết của tôi không phải là ăn một phần cơm cứng ngắc trong bữa ăn tập thể mà là những khoảnh khắc bên con cháu; Là mùi hương trầm nghi ngút trong nhà.

Lúc đó tôi mới thực sự hiểu một khi bạn rời khỏi cuộc sống thường ngày của con cái, bạn cũng rời khỏi những thói quen của họ. Họ sẽ tiếp tục với công việc với gia đình nhỏ của họ họ sẽ nhớ đến bạn nhưng không còn là mỗi ngày. Họ sẽ vẫn yêu thương bạn, nhưng không còn dành thời gian cho bạn như trước và rồi dần dần bạn trở thành một cái tên trong ký ức của họ – Một điều gì đó quan trọng nhưng không còn là ưu tiên.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão hoặc định gửi cha mẹ mình vào đó, hãy tự hỏi là bạn có sẵn sàng sống những năm tháng cuối đời trong sự mong chờ mà không biết khi nào người thân sẽ đến thăm bạn. Có chắc rằng dù bạn không còn ở nhà con cháu vẫn sẽ đến gặp bạn thường xuyên như họ hứa bởi vì một khi bạn bước vào nơi này, cuộc sống ngoài kia sẽ tiếp tục nhưng không còn có bạn trong đó. 

Hối tiếc 3: Mất đi ý nghĩa cuộc sống.

.Tôi từng nghĩ rằng khi về già, con người ta chỉ cần một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi. Tôi từng tin rằng không phải làm gì cả là một điều tốt… Nhưng không phải vậy. Ngày còn ở nhà tôi luôn có việc để làm. Sáng thức dậy tôi pha một ấm trà; Tưới mấy chậu cây ngoài hiên; Rồi tự nấu một bữa ăn đơn giản; Tôi có thể ra chợ đi dạo trò chuyện với hàng xóm; Tôi có thể tự tay thu dọn nhà cửa giặt rũ quần áo sắp xếp lại những kỳ vật cũ… Những điều nhỏ nhặt ấy khiến tôi cảm thấy mình vẫn còn giá trị, vẫn có một mục đích sống. Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão mọi thứ đột nhiên dừng lại.

Tôi không cần phải nấu ăn nữa vì bữa ăn được đưa đến tận nơi dù tôi có thích hay không; Tôi không cần phải quét dọn nữa; Nhân viên vệ sinh làm tất cả rồi; Tôi không cần lo lắng gì cả nhưng tôi cũng chẳng còn gì để làm. Ban đầu tôi nghĩ đây là một điều tốt (!); Cuối cùng thì mình cũng được nghỉ ngơi. Nhưng chỉ sau vài tuần, tôi bắt đầu cảm thấy trống rỗng. Buổi sáng thức dậy, tôi chẳng biết hôm nay mình sẽ làm gì? Tôi ngồi trên giường nhìn quanh căn phòng nhỏ tự hỏi mình có thực sự còn ý nghĩa gì không?

Tôi không phải người duy nhất cảm thấy như vậy. Tôi nhớ có một bác tên Minh trước đây là một thầy giáo. Lúc còn ở nhà bác vẫn dạy kèm mấy đứa trẻ trong xóm vẫn đọc sách mỗi ngày. Nhưng khi vào đây, bác chẳng còn học trò cũng chẳng còn sách vở mỗi ngày. Bác chỉ ngồi yên trên chiếc ghế cũ, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Một lần tôi hỏi bác không định làm gì sao? Đọc sách viết gì đó chẳng hạn? Bác thở dài:

– “Tôi cũng muốn lắm nhưng chẳng ai cần tôi nữa. Không có ai để dạy. Không có ai để chia sẻ. Tôi dần dần quên mất mình là ai.”

Câu nói ấy ám ảnh tôi. Một người từng là thầy giáo; Một người đầy tri thức từng cống hiến cả đời cho học trò giờ đây ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ tự hỏi mình còn ý nghĩa gì nữa không? Tôi chợt nhớ lại những người bạn đồng niên ngày xưa. Một bác từng là thợ mộc ngày nào cũng sửa chữa đóng bàn ghế; Một cô từng là thợ may lúc nào cũng bận rộn với kim chỉ. Nhưng khi vào đây tất cả đều trở thành những con người ngồi chờ thời gian trôi qua. Không phải vì họ không muốn làm gì mà vì ở đây chẳng có gì để làm cả.

Dần dần tôi hiểu ra một điều con người không chỉ cần ăn uống và ngủ để tồn tại. Chúng ta cần có một mục đích một lý do để thức dậy mỗi sa’ng; Một điều gì đó để mong chờ nhưng ở Viện dưỡng lão những thứ ấy dần dần bị lấy đi.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão thì hãy tự hỏi điều gì khiến cuộc sống của bạn có ý nghĩa? Bạn có thể sống mà không có trách nhiệm; Không có công việc gì để làm; Không có ai cần đến bạn không? Vì khi đã mất đi ý nghĩa cuộc sống bạn không còn thực sự sống nữa. Bạn chỉ đang tồn tại.

Hối tiếc 4: Sức khỏe suy giảm nhanh hơn mong đợi.

Trước khi vào Viện dưỡng lão tôi vẫn còn khá khỏe so với tuổi của mình. Tôi không thể chạy nhanh như thời trẻ, nhưng tôi vẫn có thể tự đi chợ tự nấu ăn tự làm những công việc nhỏ trong nhà mỗi sáng. Tôi vẫn có thói quen đi bộ quanh khu phố để giữ cho chân cứng cáp. Nhưng mọi thứ thay đổi nhanh hơn tôi tưởng.

Ngày đầu tiên vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra mình không cần phải làm gì nữa: Bữa ăn đã có người mang đến tận phòng không cần phải đi chợ, không cần đứng bếp, có nhân viên chăm sóc. Nếu tôi cần gì chỉ cần bấm nút sẽ có người giúp ngay không cần phải đi bộ xa vì mọi thứ đều ở ngay trong khuôn viên chỉ vài bước chân. Nghe qua thì có vẻ như một cuộc sống lý tưởng; Nhưng chính sự thoải mái đó đã làm cho cơ thể tôi yếu đi nhanh chóng. Ban đầu, tôi chỉ nghĩ rằng mình được nghỉ ngơi; Nhưng rồi chỉ sau vài tháng tôi bắt đầu cảm thấy hai chân mình yếu hơn, đi lại chậm hơn, thậm chí đứng lên cũng thấy khó khăn hơn.

Rồi tôi bắt đầu để ý đến những người xung quanh. Có một bà tên Lành ngày đầu vào đây bà vẫn còn nhanh nhẹn tự đi lại bình thường nhưng chỉ sau vài tháng bà bắt đầu dựa vào gậy để đi rồi dùng xe lăn và cuối cùng thì bà không còn đủ sức đứng lên một mình nữa. Một ngày nọ, bà nhìn tôi cười buồn. Tôi không biết nó xảy ra từ khi nào, nhưng tôi có cảm giác như mình già đi cả chục năm chỉ sau vài tháng.

Lúc còn ở nhà, dù tôi không tập thể dục nhiều nhưng ít nhất tôi vẫn di chuyển vẫn phải tự làm mọi thứ. Điều đó giúp cơ thể tôi duy trì được sự linh hoạt. Nhưng khi vào đây, tôi ít vận động hẳn. Tôi bắt đầu ngồi nhiều hơn, và cũng nằm nhiều hơn. Rồi tôi nhận ra cơ bắp của mình dần yếu đi. Có một bác sĩ từng nói với tôi:

– “Cụ biết không, khi một người già ngừng vận động họ sẽ mất khả năng vận động nhanh hơn gấp nhiều lần so với người trẻ. Cơ thể con người vốn dĩ cần được hoạt động. Khi cụ ngừng đi lại ngừng làm việc cơ thể cụ sẽ bắt đầu suy yếu.”

Đúng vậy. Nếu tôi biết trước điều này tôi sẽ cố gắng vận động nhiều hơn ngay cả khi đã vào đây. Nhưng vấn đề là môi trường này không khuyến khích điều đó. Khi mọi thứ đều được làm sẵn người ta sẽ dần quên mất cách tự chăm sóc chính mình.

Nếu bạn đang cân nhắc Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có còn động lực để duy trì sức khỏe khi mọi thứ đã được làm thay cho bạn không? Bạn có đủ mạnh mẽ để tự thúc ép mình vận động ngay cả khi không còn ai nhắc nhở? Vì một khi bạn ngừng sử dụng cơ thể mình bạn sẽ bắt đầu mất đi; và đến khi nhận ra điều đó có thể đã quá muộn để lấy lại. 

Hối tiếc 5: Mất đi sự riêng tư.

Còn nhớ ngày còn ở nhà, tôi có một căn phòng riêng, một không gian của riêng tôi. Tôi có thể đóng cửa bất cứ khi nào tôi muốn nếu tôi thấy mệt. Tôi có thể nằm dài cả buổi mà không ai làm phiền. Nếu tôi muốn tắm tôi chỉ cần bước vào phòng tắm mà không cần xin phép ai. Tôi tự quyết định mình làm gì khi nào và như thế nào. Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra rằng sự riêng tư là một thứ xa xỉ. Tại đây cánh cửa phòng không bao giờ thực sự thuộc về tôi nữa. Nhân viên y tế có thể vào bất cứ lúc nào để khám tình trạng sức khỏe của tôi; Người dọn vệ sinh gõ cửa rồi bước vào ngay cả khi tôi chưa kịp trả lời; Những cuộc kiểm tra định kỳ được thực hiện mà tôi không có quyền từ chối. Tôi không trách họ vì họ chỉ làm đúng như được chỉ định; Nhưng cái cảm giác bị theo dõi mọi lúc mọi nơi; Cái cảm giác không còn một góc riêng để thực sự gọi là của chính mình nó không dễ chịu chút nào.

Nhưng điều khiến tôi đau lòng nhất không phải là mất đi sự riêng tư mà là mất đi phẩm giá của một con người. Ở nhà, tôi tự tắm rửa tự mặc quần áo tự chăm sóc bản thân, nhưng ở đây khi tôi bắt đầu yếu đi tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Tôi muốn đi tắm tôi phải chờ nhân viên hỗ trợ. Tôi cần đi vệ sinh, nếu tôi không tự đi được tôi phải nhấn chuông gọi. Tôi muốn mặc bộ quần áo mình thích; nhưng nếu không phù hợp với quy định tôi cũng không được mặc.

Bạn có biết cảm giác đứng trước một người xa lạ để họ giúp bạn làm những việc rất cá nhân, trong khi cả đời bạn đã tự làm những việc ấy là như thế nào không? Nó không chỉ là sự bất tiện mà nó là sự tổn thương. Tôi nhớ có lần tôi bị sốt. Người hơi yếu nên y tá giúp tôi thay đồ dù cô ấy rất nhẹ nhàng, rất chuyên nghiệp, nhưng tôi cảm thấy mình không còn là chính mình nữa. Tôi không còn là một người phụ nữ từng sống độc lập, từng tự chăm sóc bản thân. Tôi chỉ còn là một người già, một bệnh nhân, một con số trong danh sách và điều đó thực sự rất đau lòng.

Không phải ai cũng cảm thấy như tôi. Một số người ở đây có thể quen với điều đó; Thậm chí chấp nhận nó, nhưng với tôi một người đã từng tự do, từng tự quyết định cuộc sống của mình thì việc mất đi quyền kiểm soát ngay cả những điều nhỏ nhất là điều khiến tôi thấy mình không còn là mình nữa.

Nếu bạn đang nghĩ đến Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự riêng tư để đổi lấy sự chăm sóc. Bạn có chấp nhận việc mỗi ngày có thể bạn sẽ cần nhờ ai đó giúp làm những điều mà bạn từng làm một cách tự nhiên, bởi vì một khi bạn mất đi sự riêng tư bạn cũng mất đi một phần phẩm giá của chính mình và điều đó khó lấy lại hơn bất cứ thứ gì khác.

Hối tiếc 6: Khó khăn khi muốn rời đi.

Lúc mới bước vào Viện dưỡng lão, tôi đã tự nhủ rằng đây chỉ là một thử nghiệm. Tôi nghĩ nếu không hợp mình có thể rời đi bất cứ lúc nào; nhưng tôi đã quá ngây thơ. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên con gái tôi đưa tôi đến đây nó siết chặt tay tôi và nói:

– “Mẹ cứ thử một thời gian xem sao. Nếu không thích mẹ có thể về nhà.”

Câu nói đó khiến tôi an tâm phần nào. Tôi nghĩ rằng mình vẫn có sự lựa chọn. Thế nhưng chỉ sau vài tháng tôi nhận ra rằng việc rời đi không đơn giản như tôi nghĩ. Một ngôi nhà cũ không còn là của tôi nữa. Lúc tôi vào Viện dưỡng lão, căn nhà của tôi vẫn còn đó nhưng tôi không còn ở đó để giữ gìn nó. Con cái tôi bắt đầu sắp xếp lại mọi thứ. Chúng bớt đi những đồ đạc không cần thiết. Thậm chí có ý định bán một số món đồ cũ. Hàng xóm cũng dần dần quên đi sự có mặt của tôi. Những người từng ghé qua trò chuyện mỗi sáng giờ đây không còn nhớ tôi đã từng sống ở đó?

Một ngày nọ, tôi nói với con gái rằng tôi muốn trở về nhà. Tôi tưởng rằng nó sẽ vui mừng, nhưng thay vào đó tôi thấy sự do dự trong mắt nó:

– “Mẹ có chắc không? Mẹ về nhà rồi ai chăm sóc mẹ? Mẹ có tự lo được cho mình không?”

Tôi cứng họng. Tôi biết rằng mình đã yếu hơn trước. Tôi biết rằng sự tự tin mà tôi từng có giờ đã lung lay và tôi sợ. Tôi sợ rằng nếu tôi rời khỏi Viện dưỡng lão tôi sẽ không biết cách thích nghi với cuộc sống bên ngoài nữa. Y như con chim đã được nhốt nuôi trong chuồng quá lâu. Tôi đã quá quen với việc có người mang cơm đến tận nơi; Có người nhắc nhở uống thuốc; Có người hỗ trợ khi cần. Giờ đây nếu tôi trở về tôi phải tự lo mọi thứ tôi thì liệu có làm được không? Sức khỏe của tôi đã thay đổi từ khi mới vào đây. Tôi vẫn còn khỏe mạnh, nhưng như tôi đã nói ở phần trước, việc ít vận động đã khiến tôi yếu đi nhanh hơn. Tôi không còn đi bộ nhanh như trước. Tôi không còn đủ sức nấu ăn một cách linh hoạt. Y như tâm trạng con chim nuôi trong chuồng lâu ngày nay được thả, tôi không còn cảm giác tự tin khi sống một mình.

Tôi nhận ra một sự thật cay đắng: Chính thời gian sống ở đây đã khiến tôi trở thành một người không còn đủ sức để trở về. Trước đây tôi từng nghĩ rằng Viện dưỡng lão chỉ là một điểm dừng chân tạm thời nhưng thực tế càng ở lâu tôi càng mất đi khả năng tự lập và dần dần Viện dưỡng lão trở thành nơi duy nhất mà tôi có thể tồn tại. Tôi nhìn quanh và thấy nhiều người khác cũng rơi vào tình trạng giống mình. Có cụ bà từng nghĩ rằng bà chỉ vào đây một thời gian để hồi phục sức khỏe nhưng rồi bà không bao giờ rời đi nữa vì bà đã quen với sự phụ thuộc. Có cụ ông từng nói rằng sẽ về nhà khi thấy ổn định hơn nhưng sau một năm ngôi nhà của ông bị bán đi và ông không còn nơi nào để về nữa.

Tôi chợt nhận ra một sự thật mà không ai nói với tôi trước đây: Việc vào Viện dưỡng lão là một quyết định dễ dàng nhưng một khi đã vào thì việc rời đi lại là điều gần như không thể làm được – A Mission Impossible!

Nếu tôi có thể quay ngược thời gian tôi sẽ tìm cách ở lại nhà lâu hơn. Tìm kiếm những giải pháp khác thay vì từ bỏ mái ấm, bước vào đây quá vội vàng. Tôi sẽ nhờ con cái thuê một người giúp việc bán thời gian. Tôi sẽ thử sống với một người bạn già để cùng nhau hỗ trợ. Tôi sẽ tìm đến những trung tâm hỗ trợ người cao niên mà không nhất thiết phải vào một nơi như thế này… Nhưng tôi đã không làm như vậy; và bây giờ tôi không biết mình có thể quay lại cuộc sống cũ hay không?

Nếu bạn đang suy nghĩ về Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có chắc mình sẽ dễ dàng rời đi (trở lại nhà cũ) nếu không thích? Việc trở lại không dễ như bạn tưởng và nếu bạn không chuẩn bị trước có thể bạn sẽ không bao giờ có cơ hội để làm điều đó.

Tôi hy vọng rằng câu chuyện của tôi sẽ giúp bạn có một quyết định sáng suốt hơn cho chính mình hoặc cho người thân của mình. Hãy suy nghĩ thật kỹ vì tuổi giả có thể là quãng thời gian hạnh phúc nếu bạn biết cách lựa chọn đúng để chúng ta có thể đồng hành, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau sống bình yên và cùng nhau già đi một cách hạnh phúc, êm thắm!

Peace.

Trần Văn Giang (ghi lại)

Orange County

Tháng 3/2025 


 

SINH HOẠT VIỆT NAM: TANG MA – Xuân Sương

Xuân Sương

 Dĩ nhiên là “phú quý sinh lễ nghĩa”. Nhưng cái lễ nghĩa do “phú” sinh ra đôi khi lấp lấn hết phần “quý”. Mình có câu “Được voi đòi tiên”. Giờ này làm gì còn tiên, thôi thì tiên giả cũng được, thêm một thứ giả chẳng chết ai.  Pháp có câu “Không thể có mọi thứ được”, thực tế và chí lý, nên “thiệt” hơn.

Hồi anh bạn từ Pháp về Hà nội tình cờ dự đám tang thân nhân, thấy bà chị dâu sướt mướt đúng kiểu cha (chồng) chết: chị nằm xuống đất lăn rất nhiều vòng ngoạn mục, bứt tóc bứt tai, mặt mày diễn tả nỗi đau đớn bi ai cùng cực, nước mắt nước mũi chan hoà đất bụi bám khắp người. Kiểu thiên tai đại nạn cũng chưa ai oán cỡ này. Đã đời rồi đùng một cái chị đứng bật lên như lò xo, nói cười rổn rảng bình thường, sai bảo chồng con làm cái nọ cái kia, nhanh gọn chuẩn mực. Anh bạn ngơ ngác không tin vào mắt mình, cứ như đang xem kịch. Kể lại mà anh còn vẻ bứt rứt xấu hổ. Được một anh khác trấn an Ờ, tục lệ ngoài bắc là vậy đó, mới chứng tỏ con cháu tiếc nuối sự ra đi của cha mẹ, khóc không… ướt đấ⁵t thì sẽ bị hàng xóm quở chúng nó chỉ chờ cho cha mẹ biến đi.

Cho nên nghề khóc mướn trước kia e ấp, bây giờ nhiều người lên hàng trung gia đại gia nên nó biến thành doanh nghiệp rồi, người hành nghề trước kia còn thẹn thùng, bây giờ hiên ngang rồi. Con cháu không khóc, ít khóc hay khóc không bài bản (vì nhà đâu có người chết mỗi tuần mà biết khóc cho bài bản), thì đã có người khóc thay. Cầm mi cà rô nằm lăn ra đất mà gào cho làng trên xóm dưới đều nghe. Phải gào cho thống thiết bi ai, mỗi gia đình mỗi cảnh cho nên thê lương mà phải hạp với tang gia, cha chết đừng réo ối mẹ ôi, con chết đừng rú ối chú thím ôi. Bởi vậy đợi gì “nghề chơi mới lắm công phu”. Mới sinh ra không ai bày cũng biết khóc, nhưng khi hành nghề thì phải tập tành điệu nghệ. Nhiêu khê lắm chớ đùa à. Khóc càng thảm thiết càng như thật thì càng được tiền.

Vì mình có tục “bán bà con xa mua xóm giềng gần”, nên nhà bên cạnh có người ra đi thì láng giềng để trở 3 ngày, chồng cô vợ cậu nửa ngày cũng không (mấy ông dượng bà mợ vô tích sự ấy mà). Có cái đĩa bày ra đấy cứ đặt vào mươi nghìn cho tên mình được xướng lên tỏ lòng tiếc thương ông/bà nhà bên cạnh mặc dù có thể mới gây dữ dội hay ấu đả hôm qua (là cho người bất đắc kỳ tử, chớ bịnh nằm đó thì ấu đả với ai). Đang nằm trong bụng mẹ mà muốn chứng tỏ lòng nuối tiếc ông/bà không kiên nhẫn chờ ngày mình chào đời thì mẹ cứ bỏ tiền vào đĩa là đứa bé trong bụng dù mới tượng hình vài ba tháng cũng rành cách thắm thiết phơi bày gan ruột. (May người viết bài này chưa từng dự đám tang ngoài bắc, chớ nhìn thấy thiên hạ diễn xuất kiểu này mà nín không nổi phải bật cười thì là đại hoạ).

Thôi thì trong lúc tang gia bối rối nước mắt cũng đâm bối rối chẳng biết chạy đàng nào, người chuyên nghiệp bình tĩnh hơn sẽ điều khiển con đường nước mắt cho hạp lẽ trời. Cái nghề bị coi là giả dối này cũng như nghề đóng kịch thôi, khác cái không được cười trên sân khấu. Nghe bên Đài Loan có cô Liu Jun Lin nào đó (xin mở cái ngoặc nhỏ: một số báo đã Việt hoá tên cô là Lưu Quân Linh, nghe còn hiểu là Tàu. Chớ nhiều tên như Trần Thanh…, Lê Văn…, Nguyễn Đức… gì gì, y chang tên Việt, làm sao  phân biệt Ta-Tàu? Vì vậy dám xin quý báo đừng Việt hoá tên ai cả, cho dễ hiểu.  Mạnh Đức Tư Cưu do Tàu phiên âm, rồi từ đó mình phiên âm lần nữa, bố chẳng bảo thì ai biết là Montesquieu cho nổi. Đóng ngoặc), là đời thứ ba hành nghề này, nói cô xúc cảm thật, khóc thật, cho nên rút được nước mắt của tang gia đôi khi điếng người không khóc nổi. Mà nước mắt thường được đựng trong bình thông nhau và đã chảy ra thì dễ lây lan. Cô nổi tiếng nhờ thực thi môn khóc mướn này rất điệu nghệ và sáng tạo, cho là nghề cao quý, bầu đoàn vài chục mạng nhảy cả aerobic trước khi nằm soãi dưới đất nhào tới quan tài trong tiếng nhạc “buồn như đưa đám” do anh cô thực hiện. Đồng ý là vai đào thương có vẻ dễ đóng hơn đào hài, nhưng nước mắt ở đâu mà đổ ra như suối mỗi ngày với vẻ mặt chân thành đứt ruột thì cũng phải cao cường. Bởi vậy nghe nói khách hàng rất hài lòng và túi cô rất ấm.  Có thể dần dần sẽ giống phong tục Phi châu chăng, tang ma nhảy nhót tưng bừng giúp người ra đi cũng vững dạ.

Chuyện đó là ngoài bắc. Trong nam thì không thấy nhưng tang ma bây giờ có vẻ “vui” hơn. Cũng còn một ít nhà đòn chuyên bộ kèn bát âm ò í e thảm não, chớ phần đông là tân nhạc. Nói chung thì bài Phật Giáo Việt Nam coi như ban nhạc nào cũng thuộc nằm lòng. Nghe nói bữa nhà kia có đạo Chúa, ban nhạc quen tay vẫn cứ ca tụng Phật Giáo Việt Nam. Đời ai mà chẳng có lúc nhầm, với lại chuyện giận dỗi trách móc chỉ dành cho người còn thở. Và bài Lòng Mẹ thì cũng nằm lòng, bởi có ai từ đất chui lên đâu, nên nếu mình đi trước thì chứng tỏ mình tri ơn và xin lỗi mẹ, nếu mẹ nằm trong đó thì… càng tuyệt chớ sao. Một ít đám dạo bài Riêng Một Góc Trời của Ngô Thụy Miên, riêng Trịnh Công Sơn chiếm giải là nhạc sĩ của tang ma, Một Cõi Đi Về, Cho Một Người Vừa Nằm Xuống… nhất định văng vẳng, bất kể người bên trong quan tài là nam phụ lão ấu vẫn cứ  “anh nằm xuống” cái đã, ít nhất cũng đúng cái tư thế, như Faulner  As I Lay Dying. Tức là tự cổ chí kim từ đông sang tây chỉ một mình ông Thanh Tâm Tài Nhân giở chứng dựng đứng Từ Hải lên, chớ chưa bao giờ nghe ai đã, hay đang dậm chân bước vào quan tài mà ngồi được cả.

Nghi lễ thì nhà càng phú càng “hoành tráng”. Mười tám “nghệ nhân” bận áo dài gấm đỏ, đội mũ cao vài gang tay kiểu mũ quan Tàu. Mở đầu ông trưởng nhóm quỳ lạy bàn thờ với bó nhang nghi ngút, xong lùi ra chia nhang cho từng người và cứ bốn người một quỳ lạy tiếp, cuối cùng là ông phó nhóm (thì cứ tạm gọi vậy) vào lạy cuối cùng. Cũng như cuộc thi Olympic có khai mạc và bế mạc vậy mà. Tất cả đều nhịp nhàng, nghề nghiệp. Rồi tám người khiêng quan tài. Bởi khi liệm thì hai chân hướng ra cửa sẵn sàng bước đi nên họ đảo lại một vòng cho mắt người quá cố hướng vào nhà, phần chân quan tài gục lên xuống ba lần ý là chào vĩnh biệt căn nhà thân yêu lần cuối trước khi lên đường về nơi cư trú mới. Đi một chút còn chào huống chi đi vĩnh viễn.

Hồi xưa, sáu thanh niên con cháu hay hàng xóm giúp ghé vai vào, nặng kể gì vì không quen, mặt mày buồn bã tự nhiên, cảm động. Bây giờ các anh nhà đòn “làm việc” thôi, có gì mà họ phải buồn nếu không ác miệng nói là vai càng bị đè thì túi càng phồng. Hồi xưa người ta gõ cái phách, theo mấy tiếng gõ thì bước đi chầm chậm như mấy cô người mẫu, mấy tiếng gõ thì dừng lại, mấy tiếng gõ thì đưa áo quan xuống huyệt, khẽ khàng tối đa để ly nước đặt trên quan tài không chao đổ. Có lần bên Tây, gia đình kia cũng đặt ly nước trên quan tài, đưa trước cho bốn anh lực lưỡng lo vụ khiêng mỗi người một “bì thư” kiểu bên mình đi hội họp, nói đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, dặn đừng làm chao ly nước. Mà Tây cóc hiểu chuyện đó, mới rục rịch khiêng là ly nước nhào xuống, đổ như nước mắt.  Bây giờ bên nhà cũng  không còn phách hay ly nước nữa, cứ đặt quan tài xuống, gập ghềnh hả, thì nhấc lên đặt xuống lại. Sai đâu sửa đấy mà.

Xe tang thì đỏ hay đen dát vàng. Không rồng rắn suốt buổi trên đường nữa, đám tang ra ngoại ô có xe ca đưa đi, muốn rượt sát xe tang tài xế tự cho mình cái quyền vượt đèn, bấm còi la người khác dù người đó đi đúng. Inh ỏi nhức óc cho người chết thị oai lần cuối.  Có lần ở Huế tình cờ thấy xe gì gì bên trên nhiều cái dù hay lọng màu hồng tươi chạy ngang tiệm ăn, hỏi con bé dọn bàn “Đám cưới hả chaú”, “Dạ không, đám tang”. Ngạc nhiên quá.  

Đặc biệt ở Việt Nam không có cạc chia buồn, vì nếu có thể thì phải đến tận nơi phúng viếng, ở xa thì điện thoại hay gửi vòng hoa hay gì gì chớ không có lệ gửi cạc. Nhưng cạc tin vui thì đủ kiểu, có cả cạc mừng sinh nhật chó mèo. Bây giờ đại gia thì nhiều, người nào tay cầm củ riềng dẫn chó tới bờ  vực thẳm nước sôi thì khác, mà chó cột nơ bận áo quần đi với bà chủ ra bờ biển hay hồ bơi thì khác, nên cũng phải mừng nó tăng tuổi thọ.

Và ngay từ ngày đầu tang gia bắt đầu bối rối cho đến khi chiếc xe cuối cùng rời nghĩa trang, bao nhiêu là máy hình máy quay phim hăng say hoạt náo ghi lại danh tính trên các vòng hoa phúng điếu, các cảnh trong nhà ngoài ngõ, các gương mặt đã đến chào lần cuối cùng.  Xin cho một người vừa nằm xuống thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang… Con nít bên Tây lấy làm khó chịu về những kỷ niệm này, thường hỏi tại sao những hình ảnh buồn bã đó lại được ghi và giữ lại. Người mình ưa kỷ niệm, càng buồn càng quyến luyến, cho nên một chuyện cười kể lần thứ ba thì dù chọc léc cũng chẳng nhe răng, nhưng chuyện buồn thì cả trăm lần mắt vẫn đỏ hoe được.

Đức Phật đã hoài công dạy ngày hôm qua qua rồi,  ngày mai thì chưa đến, hãy chỉ biết và sống hôm nay thôi: “bây giờ và ở đây”. Nhưng dân Việt Nam lại ưa ngoáy về quá khứ và nâng niu kỷ niệm buồn mà vẫn sống khoẻ, còn được thống kê cho là lạc quan nhất thế giới, đúng là một… dân tộc anh hùng!

Xuân Sương

Paris-NT, mai 2013

“Trong trần thế bon chen lắm nỗi/ Lúc người về thể xác cũng về theo…”

From: Tu-Phung


 

SÀI GÒN KHÔNG CÒN NƠI TRÚ MƯA – Bài của Đỗ Duy Ngọc.

NHỮNG BÀI POST HAY. – Bút Chì Gilbert 

    Bài của Đỗ Duy Ngọc.

Sài gòn đang vào mùa mưa. Mưa Sài Gòn bất chợt và đỏng đảnh như cô gái mới lớn. Chẳng có lịch trình, không một báo trước, muốn là làm cái ào, rồi tạnh, nắng lại lên. Cho nên nhiều khi khách đi đường thường quên mang theo áo. Mà nhiều khi có áo cũng chẳng muốn ngừng lại để mặc. Chỉ cần trú đâu đó một lát, tạnh mưa lại tiếp tục đi.

Sài Gòn có những hàng hiên đụt mưa dễ thương. Mưa rớt ào xuống, chạy tấp vào. Nhìn mưa, nghe gió tạt, đốt điếu thuốc, nhìn người xe lướt thướt giữa giòng nước cũng là điều thú vị. Đứng được chỗ mái hiên có gốc cây già, nghe mưa tí tách rơi trên lá, buổi chiều đẹp hơn một chút, đời lãng mạn hơn một tí cho quên buồn của thực tại.

Mưa hơi lâu một tí nữa, nhìn người bên cạnh, nói bâng quơ vài chuyện là thành một câu chuyện về đủ thứ trên đời. Khi người ta còn trẻ, có thể người ta cùng lúc trú mưa với một cô gái lạ, cười làm quen, vài ba câu qua lại, có khi lại thành một chuyện tình. Những cặp tình nhân đang yêu, vội vã chống xe vào chỗ trú, ríu rít nói cười, những bàn tay che mưa cho nhau, những chiếc  khăn lau tóc cho nhau, tất cả sẽ thành kỷ niệm cho một cuộc tình, sau này lại kể cho con cháu nghe chiều mưa ông bà suýt hôn nhau dưới hàng hiên trong buổi chiều mưa Sài Gòn vì nước mưa đọng đẹp quá trên mái tóc của người yêu, vì giọt nước bám trên má người yêu làm em đẹp bội phần. Có khi gió hơi lạnh, hai người trẻ nắm tay truyền hơi ấm qua bàn tay, hay cái quàng vai làm cho tình thêm đậm.

Tuổi chớm già, gặp người cùng thế hệ, nhắc chuyện cũ, tiếc nhớ một thời. Những câu chuyện qua lại làm cơn mưa ngắn lại, đôi khi nối kết thành một tình thân. Cũng có khi, chủ nhà mời vào trong, rót ly trà mời, bàn chuyện thế sự và cơn mưa níu chân người lại, hai kẻ xa lạ hàn huyên như những người bạn cũ. Chỗ trú mưa thành một nối kết. Rồi toả đi khi cơn mưa tạnh, nhưng vẫn sót lại những tình cờ của một cái duyên.

Cái hàng hiên ấy còn là chỗ trú của các chị, các bà gánh hàng rong. Vài tấm nhựa che vội những món hàng linh tinh nhưng nuôi sống cả một gia đình, đôi khi vào trốn mưa, gặp lúc đông người lại bán được vài món ăn chơi chờ mưa tạnh. Những lúc đấy họ lo vì sợ mưa ướt hàng hoá nhưng cũng vui vì bán được thêm mấy món hàng. Đời bán hàng rong sợ nhất là gặp những cơn mưa giữa đường, những chỗ trú mưa là cứu tinh của họ.

Nhưng rồi, những hàng hiên trú mưa của Sài Gòn bỗng một ngày bị đánh mất. Những căn nhà trơ trụi phô mặt ra đường nhìn trống trải và vô duyên như chân dung không tóc. Người Sài Gòn đi đường bắt chợt gặp mưa, loay hoay không chỗ trú, đành làm kẻ đi dưới mưa hay vội vã tấp vào lề mặc áo. Những người bán hàng rong loạng quạng nhìn quanh, rồi ngước mắt buồn đau nhìn trời, còn chỗ nào để nấp những cơn mưa ào ạt, những tấm nilon sao bảo vệ được mấy món hàng.

Bỗng nhiên bị cướp mất chỗ trú dưới mưa, một chút hụt hẫng, một chút tiếc nuối. Làm đẹp cho thành phố, phố vẫn chưa đẹp hơn mà phải ngậm ngùi vì Sài Gòn đã không còn chỗ trú mưa.

Saigon. Chiều 15.5.2017.

Trời đang mưa

DODUYNGOC


 

Hoa Kỳ tạm hoãn áp thuế 50% đối với hàng nhập từ Liên Hiệp Châu Âu

RFI

Tổng thống Mỹ và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu cùng thông báo Hoa Kỳ tạm hoãn áp thuế 50% đối với hàng nhập từ Liên Hiệp Châu Âu cho đến 09/07. 

Đăng ngày: 26/05/2025 

Hinh tư liệu minh họa: Tổng thống Mỹ Donald Trump (P) và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, Thụy Sĩ, ngày 21/01/2020.

Hinh tư liệu minh họa: Tổng thống Mỹ Donald Trump (P) và chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos, Thụy Sĩ, ngày 21/01/2020. AP – Evan Vucci

Thanh Phương

Theo hãng tin AFP, hôm qua, 25/05/2025, chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen đã gọi điện cho tổng thống Mỹ Donald Trump về mức thuế 50% mà ông dọa áp dụng kể từ ngày 01/06 đối với hàng hóa nhập từ các nước Liên Hiệp Châu Âu.

Phát biểu trước khi lên máy bay trở về Washington sau hai ngày nghỉ cuối tuần ở bang New Jersey, ông Trump cho biết bà Ursula von der Leyen muốn tiến hành các cuộc đàm phán “nghiêm túc” về thuế quan và ông đã đồng ý tạm hoãn áp thuế 50% đến ngày 09/07. Về phần mình, chủ tịch Ủy Ban Châu Âu cũng cho biết đã có một cuộc “điện đàm rất tốt” với tổng thống Hoa Kỳ. Trên mạng X, bà khẳng định: “ Châu Âu sẵn sàng thúc đẩy đàm phán một cách nhanh chóng và hiệu quả. Để đạt được một thỏa thuận tốt, chúng tôi cần thời gian cho đến ngày 09/07.” Bà Ursula von der Leyen nhắc lại: “ Liên Âu và Hoa Kỳ có mối quan hệ thương mại quan trọng nhất và chặt chẽ nhất thế giới”.

Thứ Sáu tuần trước, chính tổng thống Trump đã tuyên bố “không cần tìm một thỏa thuận thương mại với Liên Âu ” và dọa áp thuế đối với hàng nhập từ 27 nước thành viên của khối này kể từ ngày 01/06. Ủy Ban Châu Âu, đang đàm phán với Hoa Kỳ nhân danh Liên Âu đã có phản ứng ngay lập tức, yêu cầu Washington phải có “sự tôn trọng”, thay vì “đe dọa”  trong đàm phán với Bruxelles.

Vào đầu tháng 5, Liên Âu đã dọa sẽ áp thuế đối với 95 tỷ euro trị giá hàng hóa nhập từ Hoa Kỳ, trong đó có xe hơi và máy bay, nếu đàm phán thương mại với chính quyền Trump thất bại.

Thượng đỉnh ASEAN tỏ lo ngại về chính sách thuế quan của Mỹ 

Lần đầu tiên từ khi tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành các mức thuế “đối ứng” với thế giới, các nhà lãnh đạo hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) hôm nay, 26/05/2025, họp thượng đỉnh tại Kuala Lumpur, Malaysia. Họ dự kiến đưa ra một thông điệp chung bày tỏ quan ngại sâu sắc về chính sách thuế quan của Hoa Kỳ. 

Theo hãng tin AFP, trong văn bản bài phát biểu khai mạc phân phát cho giới truyền thông, nhưng đoạn này không được đọc khi phát biểu, thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim tuyên bố: “Một sự chuyển đổi trong trật tự địa chính trị đang diễn ra và hệ thống thương mại toàn cầu đang chịu thêm căng thẳng, với việc áp dụng thuế quan đơn phương gần đây của Hoa Kỳ. Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy trở lại trong khi chúng ta chứng kiến ​​chủ nghĩa đa phương đang tan vỡ”.

Các cuộc đàm phán song phương giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Washington đang diễn ra, nhưng khối này vẫn thể hiện một mặt trận thống nhất, theo đánh giá của Malaysia, quốc gia giữ chức chủ tịch luân phiên ASEAN năm nay. 

Theo dự thảo tuyên bố mà AFP xem được, các lãnh đạo ASEAN sẽ bày tỏ “mối quan ngại sâu sắc về việc áp dụng các biện pháp thuế quan đơn phương, đặt ra những thách thức phức tạp và đa chiều” đối với khối này. Nhưng ASEAN cho biết năm nay sẽ không áp thuế quan trả đũa đối với Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ đang xem xét mở rộng quan hệ với khối thương mại khác, bao gồm Liên Hiệp Châu Âu, cũng như tăng cường thương mại giữa các quốc gia thành viên.

Trong cuộc họp thượng đỉnh hôm nay, các lãnh đạo ASEAN cũng sẽ cố gắng gia tăng áp lực với chính quyền quân sự Miến Điện và giải quyết các vấn đề còn lại liên quan đến đơn của Đông Timor xin gia nhập khối các quốc gia Đông Nam Á.


 

Liên Âu kêu gọi “tôn trọng” sau khi tổng thống Mỹ Donald Trump dọa áp thuế 50%

RFI

Sau khi tổng thống Mỹ Donald Trump hôm qua, 23/05/2025, dọa sẽ áp thuế 50% đối với hàng hóa nhập từ Liên Hiệp Châu Âu kể từ ngày 01/06, Ủy viên Thương mại châu Âu tuyên bố Liên Âu muốn đạt một thỏa thuận thương mại với Hoa Kỳ dựa trên “sự tôn trọng”, chứ không phải dựa trên “những lời đe dọa”. 

Đăng ngày: 24/05/2025 

(Ảnh minh họa) Các container tại một bến container ở Duisburg, Đức vào ngày 3 tháng 4 năm 2025.

(Ảnh minh họa) Các container tại một bến container ở Duisburg, Đức vào ngày 3 tháng 4 năm 2025. AP – Martin Meissner

Thanh Phương

Sau khi đưa thông báo trên mạng Truth Social của ông, tổng thống Trump phát biểu với báo chí tại Phòng Bầu Dục của Nhà Trắng để giải thích về mức thuế 50% đối với Liên Âu. Từ Washington, thông tín viên Guillaume Naudin tường trình :

“Thuế nhập khẩu 50% đối với tất cả các mặt hàng đến từ châu Âu ngay từ ngày 01/06. Gần 8 giờ sáng ở bờ đông nước Mỹ, Donald Trump tuyên bố mạnh mẽ như thế.

Thị trường ngay lập tức lao dốc trước đòn mới đánh vào thương mại toàn cầu. Vài giờ sau, tại Phòng Bầu dục, Donald Trump giải thích: Đó là cách đàm phán của ông.

“Tôi chỉ nói rằng đã đến lúc chơi theo cách tôi biết chơi. Tôi không tìm kiếm một thỏa thuận. Đã quyết định rồi, là 50%. Chúng ta sẽ xem điều gì xảy ra, nhưng khi chúng ta nói chuyện, thuế này sẽ bắt đầu được áp dụng ngày 1 tháng 6 và như thế đấy. Họ đối xử không tốt với chúng ta. Họ không đối xử tốt với đất nước chúng ta. Họ đã tụ lại nhau để lợi dụng chúng ta. Nhưng tôi nhắc lại một lần nữa, sẽ không có thuế quan nếu họ xây dựng nhà máy của họ ở đây. Bây giờ,nếu ai đó đến và muốn xây dựng nhà máy ở đây, chúng ta có thể hoãn lại hoặc đình chỉ (áp thuế), trong thời gian nhà máy đang được xây dựng. Điều đó sẽ phù hợp… Có lẽ vậy.”

Donald Trump nhắc lại rằng ông đã đạt được thỏa thuận với Vương quốc Anh và Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, thỏa thuận đã được ký sau khi Bắc Kinh trả đũa mức thuế của Hoa Kỳ. Leo thang căng thẳng kéo dài cho đến khi mọi người nhận ra rằng có lẽ cần phải tỉnh táo lại.” 

Lời đe dọa áp thuế 50% của tổng thống Trump đã khiến toàn bộ các thị trường chứng khoán châu Âu hôm qua chao đảo, chỉ số của thị trường Paris giảm 1,65%, Frankfurt giảm 1,54% …

Phản ứng của Liên Âu 

Đáp lại lời đe dọa đó, Ủy viên Thương mại châu Âu Maros Sefcovic khẳng định Liên Âu thật sự muốn đạt một thỏa thuận với Hoa Kỳ dựa trên “sự tôn trọng“, chứ không phải trên “những lời đe dọa“. Từ Bruxelles, thông tín viên Pierre Benazet gửi về bài tường trình :

“Ủy viên Thương mại Châu Âu Maros Sefcovic đã lên lịch cuộc họp qua điện thoại vào hôm qua với Đại diện Thương mại Mỹ Jamieson Greer tại Washington. Cuộc điện đàm sẽ không làm thay đổi lập trường của mỗi bên vì nó diễn ra sau những lời đe dọa của Donald Trump, nhưng những lời đe dọa này chưa thực sự làm thay đổi cục diện hiện tại. 

Hiện giờ Liên Hiệp Châu Âu đang phải chịu mức thuế hải quan 25% đối với thép, tiếp đến là 25% đối với ô tô và sau đó, giống như phần còn lại của thế giới, chịu mức thuế 10% mà Donald Trump gọi là “thuế đối ứng”. 

Đây cũng không phải là lời đe dọa đầu tiên, vì tổng thống Trump ban hành mức thuế chung là 25% đối với Liên Hiệp Châu Âu (hiện đang được tạm hoãn áp dụng trong 90 ngày) và còn có mức thuế 200% đối với rượu. Do đó, đối với phía châu Âu, đây chỉ là một cách đàm phán mới của Mỹ trong khi chính họ châu Âu đã tạm dừng các biện pháp trả đũa. Liên Âu đã công bố một loạt các biện pháp trả đũa đối với 100 tỷ euro hàng nhập khẩu từ Mỹ và không loại trừ khả năng đánh vào các tập đoàn Internet lớn của Mỹ trong các hoạt động thương mại của họ tại châu Âu.”

Ngoài mức thuế 50% đối với Liên Âu, hôm qua, tổng thống Trump còn dọa sẽ áp thuế 25% đối với Apple và các nhà sản xuất điện thoại thông minh khác, trừ phi những tập đoàn này sản xuất các điện thoại đó ở Hoa Kỳ. Ông nói thêm là mức thuế 25% này sẽ được áp dụng kể từ cuối tháng 6. Hiện nay, phần lớn điện thoại của Apple được lắp ráp tại Trung Quốc.