Đòi chia tay cảnh sát viên, bà gốc Việt và chồng bị bắn chết ở California

Ba’o Nguoi-Viet

October 7, 2024

ALAMEDA, California (NV) – Một người từng là cảnh sát viên thuộc văn phòng cảnh sát quận 26 tuổi vừa bị kết tội bắn chết tình nhân và người chồng, các viên chức California cho biết.

Năm 2022, Devin Williams, cảnh sát viên Văn Phòng Cảnh Sát Quận Alameda ACSO, nghỉ làm và tới tư gia của Maria Trần và chồng, Benison Trần, tại Dublin, theo thông cáo báo chí do văn phòng biện lý quận công bố hôm Thứ Năm, 3 Tháng Mười được nhật báo The Sacramento Bee đưa tin.

Sau đó, Williams bắn chết hai vợ chồng bằng một khẩu súng do ACSO cấp, các viên chức cho biết.

Xe cảnh sát (Hình minh họa: Pixabay/Pexels)

Người con trai 14 tuổi của vợ chồng nhà Trần có mặt tại nhà vào thời điểm xảy ra án mạng, tờ San Francisco Chronicle từng đưa tin.

Các công tố viên cho biết Williams và Maria Trần có quan hệ tình ái, nhưng Maria Trần đã kết hôn và sống với chồng, các viên chức cho biết.

Maria Trần và Williams gặp nhau tại Bệnh Viện Tâm Thần John George, nơi ông canh gác các tù nhân đang được điều trị y tế còn Maria Trần là một y tá, tờ San Francisco Chronicle đưa tin vào thời điểm đó.

Khi Maria Trần cố gắng cắt đứt quan hệ, Williams liền xuất hiện tại tư gia của bà, theo đơn kiện do KRON thu thập được.

Hai vợ chồng báo cảnh sát vào ngày 8 Tháng Tám 2022, nhưng viên cảnh sát tiếp nhận lời trình báo lại “ưu ái” Williams chỉ vì ông là cảnh sát viên, KRON từng đưa tin, trích dẫn vụ kiện.

McClatchy News liên lạc với ACSO vào ngày 4 Tháng Mười và đang chờ hồi âm.

Năm 2023, thân nhân trong gia đình vợ chồng nhà Trần đệ đơn kiện về cái chết oan uổng, nói rằng nếu Williams bị cho thôi việc, có thể hai vợ chồng đã không chết oan mạng, theo đơn kiện được McClatchy News thu thập.

Sau vụ nổ súng dẫn tới án mạng ngày 7 Tháng Chín 2022, Williams rời khỏi tư gia của nạn nhân và sau đó bị bắt giữ tại Fresno, theo thông cáo báo chí do biện lý quận công bố Tháng Ba vừa rồi.

Giới chức cho biết Williams đang phải đối diện với mức án tù từ 50 năm cho tới chung thân.

Dự kiến bị cáo ​​sẽ hầu tòa vào ngày 12 Tháng Mười Một để lãnh nhận bản án, các công tố viên cho biết.

Dublin cách San Francisco khoảng 30 dặm (48.2 kilometer) lái xe về hướng Đông. (TTHN) 


 

Israel tấn công Beirut trong đợt bắn phá dữ dội nhất từ trước đến nay

Ba’o Nguoi-Viet

October 6, 2024

BEIRUT, Lebanon (NV) – Trong đêm và rạng sáng Chủ Nhật, 6 Tháng Mười, chiến đấu cơ của Israel đã tấn công các vùng ngoại ô phía Nam Beirut, cuộc bắn phá dữ dội nhất vào thủ đô Lebanon kể từ khi Israel ráo riết leo thang chiến dịch chống đánh Hezbollah được khởi đầu từ tháng trước, hãng tin Reuters cho biết.

Những vụ nổ trong đêm đã ầm vang trên khắp Beirut, và từ cách đó vài kilometer người ta có thể trông thấy những tia sáng màu đỏ và trắng trên không trong gần nửa tiếng đồng hồ. Một đám mây xám bay lơ lửng trên thành phố và các cột khói bốc lên trời trong khi nhiều đống đổ nát nằm rải rác trên các đường phố ở vùng ngoại ô phía Nam.

Cho tới nay, đây là cuộc oanh kích lớn nhất trong các cuộc tấn công của Israel vào Beirut, theo lời các nhân chứng và các phân tích gia quân sự trên các đài truyền hình địa phương.

Ngoại ô Beirut phía Nam Lebanon bị Israel không kích rạng sáng ngày 6 Tháng Mười, 2024 (Hình: Daniel Carde/Getty Images)

“Đêm hôm qua là đêm bạo lực diễn ra nhiều nhất so với tất cả các đêm trước đây khi các tòa nhà rung chuyển xung quanh chúng tôi, khiến lúc đầu ai cũng nghĩ đây là một trận động đất. Có hàng chục cuộc tấn công không thể đếm xuể, kèm theo âm thanh vang động chói tai,” Hanan Abdullah, một cư dân tại khu Burj al-Barajneh ở ngoại ô phía Nam Beirut cho biết.

Hình ảnh video trên mạng xã hội cho thấy có nhiều thiệt hại trên xa lộ chạy từ phi trường Beirut xuyên qua vùng ngoại ô phía Nam vào trung tâm thành phố.

Israel cho biết không lực của họ đã “thực hiện một loạt các cuộc tấn công có mục đích nhắm vào các cơ sở tàng trữ võ khí cùng các hạ tầng cơ sở khác của quân Hezbollah trong khu vực Beirut.”

Cuộc oanh tạc dữ dội hồi cuối tuần diễn ra ngay trước dịp kỷ niệm cuộc tấn công ngày 7 Tháng Mười năm ngoái của phe bạo động Hamas từ Gaza đánh vào miền Nam Israel. Mục tiêu của các cuộc không kích của Israel trên khắp Lebanon và của cuộc tấn công xâm lược trên bộ đang diễn tiến tại miền Nam nước này là nhắm đánh vào nhóm bạo động Hezbollah của Lebanon.

Các giới chức Lebanon cho hay những cuộc tấn công của Israel đã sát hại hàng trăm người, bao gồm luôn cả thường dân, khiến 1.2 triệu người phải bỏ nhà cửa chạy trốn.

Liên tiếp trong nhiều ngày, máy bay Israel đã oanh tạc vùng ngoại ô Dahiyeh của Beirut, vẫn được coi là thành trì của phe Hezbollah, nhưng nơi đây cũng còn là nơi sinh sống của hàng ngàn người tỵ nạn Lebanon, Palestine và Syria.

Một cuộc oanh tạc như thế, vào hôm 27 Tháng Chín, đã giết chết thủ lãnh Sayyed Hassan Nasrallah của tổ chức Hezbollah. (TTHN)


 

Ông gốc Việt can tội gọi điện thoại hù dọa giết người ở Boston

Ba’o Nguoi-Viet

October 6, 2024

BOSTON, Massachusetts (NV) – Một người đàn ông California đang phải đối diện với các tội trạng liên bang sau khi bị tố cáo đe dọa bạo lực trong các cuộc điện thoại gọi tới các công ty ở Massachusetts, theo NBC10.

Hôm Thứ Sáu, 4 Tháng Mười, Daniel Nguyễn, 34 tuổi, bị buộc tội dùng lời lẽ đe dọa trong giao dịch thương mại liên bang, văn phòng của quyền Biện Lý Hoa Kỳ Joshua Levy cho biết.

Daniel Nguyễn bị Cơ Quan Điều Tra Liên Bang FBI bắt giữ hôm Thứ Năm và phải hầu tòa liên bang tại San Francisco trước khi bị áp giải tới Boston.

Tòa án và công lý (Hình minh họa: Katrin Bolovtsova/Pexels)

Trong hai tháng đầu năm 2024, nhà chức trách cho biết, Daniel Nguyễn đã năm lần gọi điện thoại cho các công ty tại Massachusetts mà cáo trạng không nêu danh tánh, để lại tin nhắn ghi âm, đe dọa dùng súng AK-47 để “bắn phá” văn phòng của họ. Các công tố viên liên bang cho biết bị can còn thề “tắm máu” các nhân viên bằng cách giết sạch không chừa một mống.

Ngoài ra, các công tố viên cho biết Daniel Nguyễn còn gửi điện thư đe dọa bạo lực những người tại California và Nevada. Nhà chức trách cho biết những tin nhắn đe dọa đó mang tính kỳ thị chủng tộc.

Nếu bị kết tội, bị can sẽ phải lãnh nhận mức án lên tới năm năm tù, tối đa ba năm quản chế và $250,000 tiền phạt, văn phòng của Levy cho biết.

Vẫn chưa rõ bị can có luật sư hay không. (TTHN)


 

VÌ SAO HẦU HẾT NHÀ Ở HOA KỲ ĐỀU LÀM BẰNG GỖ?

Trên thực tế, mặc dù gỗ không cứng bằng bê tông cốt sắt, nhưng vì gỗ có nhiều ưu điểm hơn bê tông cốt sắt do kết cấu nhẹ, đàn hồi mạnh, có khả năng chống chịu tải trọng tác động tức thời và chịu tác động ít hơn khi có động đất lớn. Khi nền móng bị dịch chuyển, kết cấu sẽ tự phục hồi lại nhờ tính đàn hồi của gỗ và khó bị sụp đổ. Giống như những ngày gió, bão có thể làm bẻ cong cây cối, nhưng khi gió ngừng thổi nó có thể khôi phục lại trạng thái ban đầu, ngoài ra đất đai Hoa Kỳ rộng lớn không thiếu tài nguyên gỗ, đôi khi bạn nhìn thấy những ngôi nhà bê tông cốt sắt, nhưng nó được làm bằng gỗ.

Hoa Kỳ rất giàu tài nguyên gỗ, giá gỗ tất nhiên là rẻ, so với bê tông, cho nên việc làm nhà bằng gỗ ở Hoa Kỳ đã hình thành một chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh. Mọi người thợ đã trở nên rất thành thạo trong cách sử dụng vật liệu này. Ngành xây dựng cả vài trăm năm của Hoa Kỳ đã cho thấy có những tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật hoàn thiện từ việc trồng cây, khai thác gỗ, chế biến, đến sử dụng, sơn, ngâm dầu… (hiện nay những cột điện ở Hoa Kỳ cũng sử dụng gỗ) Kích thước gỗ yêu cầu của từng loại là cố định, tất cả đều được sản xuất theo dây chuyền và tiêu chuẩn tại xưởng, người thợ lấy gỗ về là lắp ráp sử dụng được ngay.

Quan trọng bậc nhất của một ngôi nhà là hệ thống điện nước và nước thải sinh hoạt, sau khi các kỹ sư thiết kế thi công xong thì căn nhà đã được 2/3 ngay sau đó những thợ dùng gỗ lắp ghép rất nhanh gọn, việc làm một ngôi nhà gỗ sẽ dễ dàng và nhanh hơn nhiều so với một ngôi nhà bê tông cốt sắt. (Hệ thống điện trong một ngôi nhà cũng rất hay: thắp sáng, đồ gia dụng 97-127 volt. Máy sấy quần áo “ở Mỹ không có phơi quần áo ngoài trời”, máy nước nóng 210-240 volt (những nhà cũ xài gas và điện hỗn hợp, nhà mới không cho xài gas), nhà có hồ bơi dùng 380 volt để sưởi ấm nước hồ bơi khi lạnh giá…Hệ thống ống nước hầu hết đều làm bằng đồng nguyên chất rất bền)

Ngoài ra, việc bảo trì nhà gỗ cũng khá dễ dàng, không cần sửa chữa kết cấu, kích cỡ các thứ đều theo tiêu chuẩn ấn định sẵn nên khi hư hỏng có thể ra tiệm vật liệu xây dựng mua về thay thế dễ dàng, các thành viên trong gia đình có thể tự mình làm được, tiết kiệm được một khoản chi phí. Nếu sử dụng bê tông cốt thép thì dù là nguyên liệu hay nhân công đều sẽ tốn kém hơn rất nhiều.

Kết cấu của nhà gỗ ổn định, độ dẻo dai của gỗ rất lớn, kết cấu của nhà gỗ có thể bù đắp một phần lực rung, trọng lượng nhẹ, có khả năng chống chịu mạnh mẽ. Trận động đất ở Los Angeles năm 1994, nhiều ngôi nhà gỗ bị biến dạng, nhưng dù có di chuyển toàn bộ, rời bỏ nền móng ban đầu thì những ngôi nhà gỗ cũng không dễ bị sập.

Sau trận động đất lớn ở Kobe ở Nhật Bản, ngành xây dựng của họ cũng bắt đầu áp dụng các tiêu chuẩn xây dựng của người Hoa Kỳ để bảo đảm khả năng chống động đất tốt nhất của ngôi nhà.

Hầu hết các ngôi nhà gỗ ở Hoa Kỳ đều được trang trí bằng những tấm vật liệu nhẹ chống cháy (có thể là thạch cao với bột gỗ), những ngôi nhà như vậy không chỉ có thể điều chỉnh nhiệt độ trong nhà mà còn đảm bảo khả năng cách âm, cách nhiệt tốt, nhiệt trong nhà chênh lệch với ngoài trời từ 2 -5 độ F. Hơn nữa, việc trang trí hoặc sửa chữa một ngôi nhà gỗ tương đối dễ dàng và sử dụng đúng cách thì tuổi thọ của nhà gỗ rất dài, nhiều ngôi nhà có thể ở được qua nhiều thế hệ!

Hầu hết người Hoa Kỳ đều làm nhà bằng gỗ, điều này gắn liền với điều kiện đất nước và thói quen sinh hoạt, chúng phù hợp với người dân Hoa Kỳ hơn là nhà bê tông. Mặc dù nhiều người cho rằng gỗ không bền bỉ như bê tông nhưng với việc sử dụng bảo dưỡng đúng cách, nhà bằng gỗ có thể tồn tại hàng thế kỷ…

Nói chung, nhà cửa ở Hoa Kỳ thông thường được làm rất lâu năm thậm chí vài trăm năm và đắt rẻ tuỳ theo từng khu, khu bình dân thì vài trăm, 3,4 trăm, khá hơn thì 5,6 trăm, có cái cả triệu, vài triệu đô…

Tuy vậy, ở Hoa Kỳ chuyện nhà ở chỉ cần vừa đủ. Vì con cái bên này nhỏ ở với bố mẹ, đến 17, 18 tuổi nhiều đứa đã ra khỏi nhà thuê chỗ khác ở, khi có gia đình riêng hầu như không có đứa nào ở chung với bố mẹ mà dọn ra ngoài, lúc ấy nhà to nhà lớn để hai ông bà già ngồi ngắm… thì chỉ có bán nhà vào “viện dưỡng lão?”

Những ngôi nhà một tầng, hai tầng kiểu này có điểm chung là xây tường, bên ngoài có thể tô (trát) hay để gạch mộc tuỳ khu dân cư, còn bên trong được làm bằng vật liệu nhẹ, giống như ván ép có khoảng trống cách âm, cách nhiệt rồi sơn màu tuỳ thích. Tường ngăn các phòng cũng thế, làm bằng vật liệu nhẹ. Mái nhà nhìn xa như lợp ngói, nhưng không phải mà lợp bằng loại vật liệu nhẹ giống như giấy dầu!. Để cho biết tôi vào gara, leo lên kệ còn thừa vài tấm bẻ thử một miếng, ồ chính xác là “giấy dầu”

Cửa sổ từng phòng, cửa lấy sáng cho nhà, cho tầng hầm đều làm bằng mica trong, hoặc kính không có song sắt bảo vệ chỉ có lưới che chắn côn trùng vào nhà với các loại cửa như vậy, khi có sự cố chỉ cần đạp mạnh, hoặc ném chiếc ghế, vật dụng có sẳn…bình chữa cháy vào là vỡ, khung rơi, có thể thoát ra ngay…

Có một điều lạ, nhà bên Hoa Kỳ rất rộng nhưng cửa chính vào nhà lại rất nhỏ, chỉ đủ cho một người đi qua…và hầu hết đều có tầng hầm (Basement). Một điều lạ nữa là nhà nhiều phòng nhưng không phải phòng nào cũng có restroom, thông thường nhà có bốn phòng nhưng chỉ có 02 restroom, một chiếc ở trong phòng lớn, 01 bên ngoài dành cho ba phòng còn lại dùng chung.

Nguồn: tham khảo kỹ sư Thiện – Texas, Hoa Kỳ.

Ảnh internet.

From: Truong Le


 

Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (Kết)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

05/10/2024

Ngô Công Đức (6/3/1975). Nguồn: Bruce McKim / Staff Photographer / The Seattle Times

tiếp theo phần 12

“Sau 30-4-75 lãnh đạo Cách mạng ở Thành phố cho tôi một đặc ân: lên danh sách đề nghị cho một số người có dính dáng đến các hoạt động của tôi khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Danh sách khá dài của tôi đã bị lọc bớt khá đông.” – Hồ Ngọc Nhuận.

Những lời kết án của Lý Quý Chung về Ngô Công Đức

Lý Qúy Chung và nội các 48 giờ (t), với Võ Văn Kiệt (p).

Có thể nói cuốn Hồi Ký không tên của Lý Quý Chung là một là một cái tát vào mặt bạn bè cũ của ông. Khi nó được cho xuất bản với sự chuẩn y của Trần Bạch Đằng cùng với lời đề tựa là lúc Lý Quý Chung biết mình không còn sống được bao lâu nữa.

Vào cái lúc cận kề bên bờ tử sinh mà còn viết được một cuốn Hồi ký như thế kể cũng là điều lạ.

Riêng cá nhân tôi nhận xét về những khuyết điểm của cuốn sách này như sau với tư cách một người đọc.

  • Cuốn sách dành quá nhiều trang để nói về giai đoạn làm báo, làm dân biểu và vai trò nhân chứng của tác giả vào giây phút chót của ngày lịch sử 30/4/1975. Đây là những trang sách vung bút nhất và ‘bốc nhất’. Nhưng lại tỏ ra quá ít ỏi, hầu như không nói được gì để nói về giai đoạn 1975 cho đến lúc tác giả qua đời (3/3/2005). Mà nói đúng ra giai đoạn sau quan trọng hơn giai đoạn trước. Phải chăng cũng là một cách để ông tránh né bị kiểm duyệt và bị cắt bỏ?
  • Đọc toàn bộ cuốn Hồi Ký, nó toát ra hai điều: Sự đề cao mình một cách hơi lộ liễu trong vai trò làm báo, làm dân biểu đối lập, về việc tiếp xúc với vài người ngoại quốc. Sư tự đề cao còn trở nên quá lố như trong vai trò Tổng trưởng thông tin trong chính phủ 48 giờ Dương Văn Minh. Về điều này, nó trở thành đối tượng cho cựu chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh gửi thư cho Ủy Ban Mặt trận Tổ Quốc, thành phố Hồ Chí Minh đặt một số vấn đề với tác giả Lý Quý Chung về sự đầu hàng vô điều kiện của ông Dương Văn Minh và về sự vắng mặt vào hai ngày chót của cuộc đầu hàng-( 30-4 đến ngày 2-5) của Lý Quý Chung. Sự tự đề cao này còn được Hồ Ngọc Nhuận phản bác lại trong vai trò Lý Quý Chung là phụ tá chủ nhiệm, v.v. Một sự đề cử bốc đồng- theo Hồ Ngọc Nhuận- của Ngô Công Đức. Nếu có mặt tự đề cao mình, về mặt kia thì thói đời, ông lại tỏ ra quá nhún nhường nếu không nói là quỵ lụy như việc rắp tâm xin được gia nhập đang cộng sản. Sự tự hạ mình như vậy- cũng khó nói- nhưng nó lại bàng bạc trong thứ ngôn ngữ của những nhà báo tự hạ thấp mình xuống. Chẳng hạn khi ông hạ bút viết:

30 năm sau nhìn lại ngày 30-4-1975 mới thấy rõ hơn gíá trị của ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó- chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp của người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất xứ sở- thì chắc chắn đất nước hôm nay không an bình phát triển, ổn định như đang có.”(30)

Sự tự hạ mình này cũng được Võ Long Triều ghi nhận:

Lý Quý Chung là người mà tiếng đời thường gọi là ‘theo voi hít bã mía’. Chỗ nào có lợi lộc là anh hết lòng phò tá. Cho nên mới đọc sơ vài trang ‘Hồi ký không tên’ của anh là tôi đã ngửi thấy mùi nịnh hót cộng sản, bóp méo sự thật để chứng minh cái lý tưỡng ba xu, có lẽ của Trần Bạch Đằng mớm cho anh cũng như cộng sản bóp méo hay sửa đổi lịch sử để biện minh cho cái gọi là cách mạng và chế độ cộng sản.”(31)

Khi viết bốc và nịnh bợ như thế, ông đã quên cái cảnh vợ con ông đói meo, nheo nhóc. Cái cảnh mà người ta chưa hề bao giờ thấy ở miền Nam trước 1975. Đó là cái cảnh cười ra nước mắt khi vợ ông âm thầm ở nhà đã cho người tháo các cửa kính trên lầu ba để lấy tiền mua gạo cho con ăn. Khi về, ông tưởng mấy người đó là ăn trộm..

Mấy dòng sau đó ông viết: “Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ tôi vẫn tưởng nằm mơ!”

Ông đã tố cáo người chủ nhiệm tờ Tin Sáng, Ngô Công Đức bộ mới, bóng gió gọi là ‘có người muốn theo Tito hay Walesa’ hay ‘móc nối với sư sãi gốc Miên và với Khmer Sơrai của Sơn Ngọc Thành. Đây là sự ám chỉ quá độc ác, giết người dưới chế độ cộng sản. Lý Quý Chung viết:

Nếu không có mâu thuẫn nội bộ, liệu Tin Sáng có kéo dài được sự tồn tại? Một tờ báo gồm các trí thức cũ Sài gòn, hoạt động như một doanh nghiệp tư nhân, anh Đức nắm tờ báo như một ông chủ báo trước 1975, lại rơi vào thời điểm Đông Âu bắt đầu chứng kiến những biến động.”(32)

Công đoàn đoàn kết của Walesa đã phát động lật đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan. Vậy nếu báo Tin Sáng tiếp tục tồn tại thì sẽ ở vị trí nào trong bối cảnh chính trị đó?

Tài liệu dẫn chứng của Hồ Ngọc Nhuận cho thấy Lý Quý Chung là người bất tín, bất nghĩa. Nhưng tôi chỉ không đồng ý với nhận xét của Hồ Ngọc Nhuận đổ cho lòng dạ con người hay thói đời. Nhận thức như thế là trốn tránh sự thật. Việc làm của Lý Quý Chung là việc làm bình thường trong chế độ cộng sản. Trước đây, những trí thức bạn bè của Trần Đức Thảo cũng làm cái việc mà Lý Quý Chung đã làm ngày hôm nay và nhiều người khác cũng đã làm như vậy. Trong cái tổ chức ấy, họ tổ chức sắp xếp, phân tổ để kiểm soát lẫn nhau, rồi rình mò, ám hại nhau, ngay cả tố cáo nhau lấy điểm nếu cần. Chính Trần Bạch Đằng khi cổ võ cho Tin Sáng được tái xuất hiện, ông ta cũng cài một nhân viên thân tín của ông là Kỳ Phương vào tòa báo. Dương Văn Ba cũng phải nhìn nhận: làm báo trong chế độ mới là theo sự hướng dẫn của Đảng. Nhờ sự hướng dẫn và dìu dắt của ông Kỳ Phương mà tờ Tin Sáng an toàn hơn.(33)

Dương Văn Ba còn viết thêm: “Ông Trần Bạch Đằng khá sâu và khá bén nhạy trong vấn đề dìu dắt và hướng dẫn báo Tin Sáng đi theo đường lối Cách Mạng. Những ý kiến có tinh cách chỉ đạo của ông thường được đưa ra rất nhẹ nhàng như những gợi ý, soi đường.”(34)

Trong chế độ VNCH ai có thể chỉ đạo các ông? Các ông hung hăng tố cáo các lãnh đạo miền Nam mà không sợ, vì biết rằng tối nay về ngủ ngon, không có người đến bắt cóc mang đi thủ tiêu! Khác nhau là ở chỗ đó.

Dương Văn Ba nặng nhẹ với Ngô Công Đức

Ngô Công Đức (6/3/1975). Nguồn: Bruce McKim / Staff Photographer / The Seattle Times

Trước đây tôi cứ đinh ninh bộ ba Ngô Công Đức-Hồ Ngọc Nhuận-Dương Văn Ba là thân thiết nhau lắm. Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba đã từng cứu Ngô Công Đức tại Vĩnh Bình, khi viên tỉnh trưởng là đại tá Chung Văn Bông tìm cách bắt Ngô Công Đức trong việc đánh người trong bữa tiệc nhậu. Hồ Ngọc Nhuận phải mượn máy báy của tướng Kỳ xuống cứu Ngô Công Đức. Khi Ngô Công Đức tìm đường tỵ nạn sang Pháp, họ thường thư từ với nhau, bạn mày tao chia xẻ nhiều chuyện.

Sau 1975, khi Ngô Công Đức từ Pháp về lại Việt Nam, sau 1975, Hồ Ngọc Nhuận và Dương Văn Ba là những người đầu tiên đến nhà Ngô Công Đức ở Thị Nghè (nhà của chị Hai Ngô Công Đức).

Nhưng không phải vậy sau khi đọc Hồi ký Những Ngã rẽ của Dương Văn Ba. Dương Văn Ba có một nỗi bực bội là nghĩ rằng ông bị người khác bót lột, lợi dụng sức lao động của ông.

Ngay khi làm báo Điện Tín, ông Dương Văn Ba đã ‘đốt’ Nghị sĩ Hồng Sơn Đông, một tay chân của Dương Văn Minh là làm giàu trên xương máu ký giả. Ông tính ra tờ Điện Tín bán ra mỗi ngày 80 ngàn số, mỗi số 15 đồng. Tiền bán báo thu vào trên một triệu đồng, tiền quảng cáo thu trên 200 ngàn đồng. Trong khi đó chi phí cho toàn Ban Biên Tập khoảng 200 ngàn đồng. Tiền giấy, tiền công in, tiền thuê thợ sắp chữ khoảng 400 ngàn đồng. Lãi thu hàng tháng khoảng 20 triệu đồng. Lãi tính ra ngoại tệ khoảng 80 ngàn đô-la.

Dương Văn Ba than tiếp,  “Làm chủ báo kiếm lời 80% lợi nhuận còn ký giả, người viết báo, thợ sắp chữ chiếm 15% còn lại.”(35)

Chính ở điểm này mà Dương Văn Ba ghét Ngô Công Đức khi làm tờ Tin Sáng, Bộ Mới, sau 1975. Dương Văn Ba dựa vào câu nói sau đây để thấy Ngô Công Đức không giữ lời:

Tôi đứng cái, chủ nhiệm tờ Tin Sáng để làm chỗ dựa hoạt động cho các anh em trong thời kỳ mới. Chúng ta cùng ra sức xây dựng và phát triển nhật báo Tin Sáng có sức mạnh và độc giả đông đảo hơn thời kỳ trước đây. Tài chinh thu được, một mình tôi không giữ hết, tôi sẽ lo cho các bạn để các bạn cũng có cơ ngơi, nhà cửa đàng hoàng, sống thoải mái về tài chính…tôi là người đủ khả năng làm việc này. Tôi hứa không quên sau này sẽ chia phần cho các bạn… các bạn hãy làm việc hết sức mình…”(36)

Và như trước đây, Ngô Công Đức dựa vào bọn lái buôn giấy người Hoa như tên Thạch Như Ke, tục gọi là Tỷ Giấy và sự tiếp sức của Nguyễn Tống Hạnh cũng như con trai của Nghị sĩ Hồng Sơn Đông là Hồng Ngọc Hải. Ba người này là những trợ thủ đắc lực cho Ngô Công Đức làm giàu. Công việc làm ăn cứ thế điều hành thông suốt, tiền thu vào ào ào. Gần 6 năm trời làm báo, Ngô Công Đức thu vào được bao nhiêu?

Phần những người làm công viết báo thì được đối xử như chủ và thợ trước đây. “Khi giải thể báo Tin Sáng, dù đó là một điều rất bất ngờ đối với Ngô Công Đức nhưng chính ông ta là người tiếp tục được thụ hưởng hầu hết mọi quyền lợi vật chất được tạo ra trong 6 năm lao động của tập thể viết báo Sài Gòn trong chế độ mới.”

Thế là vào đầu năm 1981 nổ ra cuộc tranh chấp và đã đến tai các cơ quan có trách nhiệm của đảng Cộng sản ở thành phố và Trung ương.

Sự tranh chấp và nứt rạn đến hồi phải chấm dứt. Chính quyền thành phố buộc lòng phải rút giấy phép, không cho phép Ngô Công Đức tiếp tục xuất bản báo Tin sáng. Tin Sáng bị đóng cửa và được gọi một cách văn vẻ là ‘hoàn thành nhiệm vụ lịch sử’ của thời kỳ quá độ.

Chỉ có Lý Quý Chung đứng về phía Dương Văn Ba. Riêng Hồ Ngọc Nhuận vẫn tỏ ra bênh vực Ngô Công Đức bằng mọi giá và lên tiếng phản biện lại Lý Quý Chung và Dương Văn Ba trong một bài báo được đăng trên Dien dan forum ngày 10/7/2015, nhan đề “48 năm , một mẩu chuyện nhỏ”.

Và Dương Văn Ba kết luận, việc Tin sáng nghỉ hưu non không có vấn đề chính trị mà chủ yếu là không thể để một người tiếp tục thụ hưởng và những người khác tiếp tục bị bóc lột bất công.

Dương Văn Ba còn nhắc lại lời của Âu Quang Cảnh, một cựu doanh nhân nổi tiếng của Sài Gòn, ban tặng cho Ngô Công Đức biệt danh rất độc, “người Do Thái da vàng” (c’est un Juif jaune).

Sau khi Hồi ký Những ngã rẽ được lưu hành trên Việt Studies, một số những người từng quen biết hoặc làm việc trên tờ Tin Sáng đã yêu cầuu Hồ Ngọc Nhuận phải lên tiếng thay cho Ngô Công Đức nay đã không còn nữa để có cơ hội trả lời.

Tôi nghĩ là cả hai Ngô Công Đức cũng như Hồ Ngọc Nhuận đã không muốn làm lớn chuyện và vì thế trong Hồi ký Đời của Hồ Ngọc Nhuận, bản cũ đều không hề đả động đến công việc này. Trong bài 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ, ông thú nhận không biết viết những gì và viết thế nào. Bởi vì ông cho đó là chuyện gia đình, không muốn tự mình vạch lưng mình. Nhưng có một số sự việc thiết tưởng ông nên bạch hóa. Đó là về các bá cáo mật ông đã đề cập đến trong bài 48 năm một mẩu chuyện nhỏ, đăng trên diendan.org

Các bá cáo này có bản viết tay, có bản đánh máy cẩn thận, có bản nói về chuyện hằng ngày, về phát biểu trong các các cuộc họp phóng viên, tòa soạn, về việc đi đây đi đó của người này người nọ: có bản phân tích tỉ mỉ về quá khứ, hành động lời nói, thái độ lập trường, tư tưởng, ý đồ… đặc biệt của Ngô Công Đức, cả những lời ‘dặn dò, tâm sự’ của Đức với người nầy, người nọ cũng được nêu lên để dẫn chứng, cả những lưu ý phải tìm hiểu, đi sâu , điều tra thêm về những biểu hiện hay quan hệ với đây đó của Đức. Đặc biệt trong một bá cáo dài, với mấy tóm tắt về quá trình hoạt sđộng của Đức, có một điểm viết:’ Từ 1975-1979: Đức muốn tạo tại Tin Sáng thành một giang sơn, mộc ốc đảo riêng và từ đó làm bàn đạp cho các hoạt động ngầm của mình. Tin Sáng là một khu an toàn’. Tôi cứ nghĩ những bá cáo sẽ mãi mải nằm đó, để luôn nhắc nhở tôi về ‘lòng dạ con người’, về ‘thói đời’. Nhưng tôi cũng nghĩ, ngày nào đó, chúng cũng sẽ trở thành một cuốn sách nhỏ thuộc thể loại ‘ điều tra’ khá hấp dẫn. Nếu thật cần.”

Sự thực mà nói, khi có Hồi ký không tên được xuất bản thì Hồi ký Đời của ông Hồ Ngọc Nhuận và Hồi ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba đều đã tới tay Trần Bạch Đằng.

Trần Bạch Đằng đã xác nhận điều ấy trong lời giới thiệu mở đầu Hồi ký không tên của Lý Quý Chung. Ông Trần Bạch Đằng viết: “Gần đây, tôi có hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận, cùa Dương Văn Ba, và bây giờ của Lý Quý Chung. Sắp tới sẽ còn nhiều hồi ký nữa.”(37)

Sự lên tiếng muộn màng của Hồ Ngọc Nhuận chỉ vì tình thế không cho phép ông giữ im lặng được nữa. Tuy nhiên, Hồ Ngọc Nhuận tỏ ra thẳng thừng với Lý Quý Chung, Nhưng đối với Dương Văn Ba, ông do dự và tìm cách gỡ rối cho Dương Văn Ba.

Hồ Ngọc Nhuận đối đầu với Võ Long Triều-Dương Văn Ba-Lý Quý Chung

Võ Long Triều 2011

Trước 1975, tôi không có cơ hội để biết đến tên tuổi Hồ Ngọc Nhuận. Tôi chỉ thực sự biết đến ông khi về Việt Nam và có dịp đọc một bản Hồi Ký Đời của ông. Hồi Ký Đời, nếu tôi nhớ không lầm thì hầu như không có mấy ai có cơ hội đọc hồi ký này. Vì trên nguyên tắc nó không được phép xuất bản.

Phải thú thực là tôi đã đọc kỹ.

Theo tôi và có thể dưới mắt ông Võ Long Triều cho thấy Hồ Ngọc Nhuận khá nhất trong đám Dân biểu đối lập. Ông có thể là bạn thân của Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Huỳnh Công Minh, Lý Chánh Trung, nhất là Võ Long Triều và nhiều anh em làm việc ở quận tám như Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Võ Văn Bé, v.v. Về phía dân biểu thì có các dân biểu như Dương Văn Ba. Ngoài ra còn có dân biểu Kiều Mộng Thu mà hai người sát cánh nhau như bóng với hình. Họ hoạt động chung với nhau ban ngày, ban đêm về lại nhà của… Dương Văn Minh. Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận bảo lãnh chẳng những cho Kiều Mộng Thu mà còn cả ông chồng của bà là ông Nguyễn Chức Sắc khỏi đi học tập. Ngoài ra còn có các ông Lâm Phi Điểu, cụ Nguyễn Văn Huyền, luật sư Trần văn Tuyên, v.v. sinh viên tranh đấu như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy.

Sau này qua Võ Long Triều, ông có thể quen cả Nguyễn Cao Kỳ và nhiều người khác trong chính phủ.

Khi ông có dịp qua Pháp và có cơ hội tiếp xúc với đại diện chính quyền cộng sản như đại sứ Nguyễn Văn Tiến, ông Đinh Bá Thi. Về sự tiếp xúc liên lạc này cũng như gặp gỡ với Trần Bạch Đằng sau này, ông đều dấu kín không thấy viết trong Nhật ký.

Về phía các nhân vật chính quyền cộng sản, ông thân quen với Trần Bạch Đằng, Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ, Mai Chí Thọ, nhất là ông Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt.

Cứ nhìn chung, người ta thấy ông Võ Long Triều có một sự ưu ái đặc biệt với Hồ Ngọc Nhuận. Ông viết:

“Hồ Ngọc Nhuận là người thuộc đàn em, tôi quý mến vì có tài, có tình, khá lanh lợi, năng nổ, nhưng rất tiếc thay thiếu sự hiểu biết sâu xa về chính trị. Ngày nay, viết về anh ta, tôi hối tiếc vì đã mất một người cộng sự đắc lực có khả năng. Tôi buồn gần như mất một người em, một người bạn đồng hành.”(38)

Tôi cho rằng những giãi bầy của ông Võ Long Triều là chân thành. Trên thực tế, chính ông Triều đưa ông Hồ Ngọc Nhuận về làm quận trưởng quận 8. Còn hơn thế nữa, ông Triều đưa bạn mình về giữ chức Tổng Giám Đốc thanh niên và sau này tính giao Bộ Thanh niên cho Hồ Ngọc Nhuận. Về công việc làm báo, cũng chính ông Triều đưa Hồ Ngọc Nhuận về làm giám đốc chính trị của tờ báo Đại Dân Tộc. Khi Hồ Ngọc Nhuận cần tiền để tranh cử cũng chính Võ Long Triều đòi Ngô Công Đức đưa 100.000 cho Hồ Ngọc Nhuận. Ngô Công Đức không đưa tiền mà chỉ đưa cho Hồ Ngọc Nhuận chiếc xe La Dalat cũ để đi vận động tranh cử.

Về phía Hồ Ngọc Nhuận, ông cũng không phải loại người vô tình. Chính Võ Long Triều cũng nhìn nhận “Nhuận là người đã giúp tôi rất nhiều trong mọi hoạt động.”

Khi Võ Long Triều ra tranh cử dân biểu thì chính Hồ Ngọc Nhuận vận động cho Võ Long Triều ở khóa II tại Bến Tre dưới nhãn hiệu của tờ Tin Sáng. Sau 1975, khi Võ Long Triều bị đi học tập cải tạo thì cùng với người cậu của ông Triều là ông Trí Việt cùng với Dương Văn Long vận động xin cho ông Triều được đi học tập cải tạo về sớm. Khi được có giấy xuất cảnh, ông Triều gặp rắc rối với giấy nợ thiếu thuế 25 triệu. Số tiền 25 triệu này do ông Triều đã đứng ra bảo lãnh cho người quản lý báo tại một ngân hàng. Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận phải can thiệp với ông Mai Chí Thọ và cuối cùng ông Trưởng Ban Thanh Lý đã cho một tờ giấy hợp lệ ngân hàng.

Vậy thì nếu có sự bất đồng giữa hai người chỉ vì họ không cùng đi một hướng? Năm 1968, khi sang Paris, ông Hồ Ngọc Nhuận đã gặp phía bên kia. Và cụ thể khi về Sài Gòn, ông đã được móc nối với Trần Bạch Đằng.

Ông trở thành người của phía bên kia. Sự ngăn cách chia đôi giữa tình bạn và chính trị là một chọn lựa mất mát cho cả cả hai phía? Mặc dầu vậy, họ vẫn giữ liên lạc cho đến 1994.

Vào những ngày 27, 28, 29 tháng Tư, do được lệnh của phía bên kia, ông cũng như Hồ Văn Minh, Lý Chánh Trung đã lánh mặt không liên lạc với nhóm ông Minh và không có trong danh sách trong chính phủ Dương Văn Minh. Và cũng nhờ cái thế liên lạc với phía bên kia mà Hồ Ngọc Nhuận được cái đặc ân là lên danh sách những người khỏi phải đi học tập.

Năm 1994, Hồ Ngọc Nhuận sang Paris và gặp lại Võ Long Triều, họ đã để cả một đêm để dốc bầu tâm sự và rồi đường ai nấy đi. Hồ Ngọc Nhuận cũng nhìn nhận việc chọn lựa theo cộng sản là một choix malheureux. Nhưng cả hai người hiểu chữ malheureux khác nhau. Và căn cứ vào lời thú nhận này, Võ Long Triều trách cứ Hồ Ngọc Nhuận nặng lời và cuốn Hồi Ký của ông đã được tờ Người Việt đăng tải.

Từ đó câu chuyện trở thành lớn hơn kéo theo Đỗ Quý Toàn (Ngô Nhân Dụng) vào cuộc.

Tình bạn mà những người như Hồ Ngọc Nhuận, Võ Long Triều, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức coi như lẽ sống ở đời, như gạch nối giữ họ lại với nhau lại luôn luôn bị thử thách vì những tham vọng chính trị hay những tham vọng danh vọng và nhất là tiền bạc vật chất chia rẽ họ.

Cho nên sứt mẻ và đổ vỡ lúc nào đó sẽ bộc phát không tránh khỏi. Võ Long Triều cuối cùng đã dành chia tay với Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba và nhất là Hồ Ngọc Nhuận. Đến lượt Ngô Công Đức với Lý Quý Chung, Dương Văn Ba rồi Hồ Ngọc Nhuận với Lý Quý Chung, với Ba. Để còn lại gì?

Trong khi vô số những người bạn bên lề, bạn thân không đủ thân, đồng chí không đủ mức độ tin cậy, làm báo, làm xã hội không đủ tài trí ngang tầm, luôn luôn ở thế nghe, thế thi hành một số đông như thể thì vẫn giữ được một khoảng cách không quá xa mà cũng không quá gần.

Họ vẫn giữ được cái quan hệ tình người và sống đẹp cho đến ngày hôm nay.

Viết điều này, tôi muốn những người bạn của Dương Văn Ba có cơ hội nhìn lại mình. Rất tiếc những người như Lý Quý Chung, Ngô Công Đức đã không còn nữa. Phần Dương Văn Ba thì nay sống cũng như thể chết sau ba lần bị đột quỵ; thần chết gõ cữa nhà ông có thể đã không tìm ra số nhà, vì ông thuê nhà, đổi địa chỉ nên thần chết đành quay gót!

Nay chính thức chỉ còn có Hồ Ngọc Nhuận, một mình.

Phần Hồ Ngọc Nhuận, ông đã để công viết một bài dài nhan đề 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ. Mẩu chuyện tuy gọi là nhỏ này kéo dài 48 năm và viết dài khoảng 42 trang. Ông đã đi lại từ đầu những ngày chung nhau làm báo, cùng hoạt động trong môi trường chính trị khuynh đảo miền Nam, cùng tìm tới một ngã rẽ chung và chia xẻ những khó khăn, niềm hãnh diện nếu có của tờ Tin Sáng trong một chế độ cộng sản.

Niềm vui này đã tắt lịm sớm sủa sau 6 năm thử thách. Cái test và bài học làm báo tự do không thể nào có thể có được trong chế độ cộng sản,

Cái câu nhắn nhủ Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận “làm một tờ báo y như cũ” của “mấy ông lãnh đạo cách mạng” là một câu lừa phỉnh từ đầu đến cuối.

Mặc dầu là một bài viết biện hộ cho Ngô Công Đức với rất nhiều chi tiết, nhiều thiện ý vun xới vào. Tôi cũng chỉ nhìn thấy bài báo được tô hồng như một hoài niệm quá khứ, hoài niệm về những giai đoạn hào hùng của tuổi trẻ chống lại chế độ miền Nam. Và sau 1975 họ ăn một cái bánh vẽ có chia phần.

Nhưng họ lại tưởng lầm họ đang viết lại lịch sử.

Sự có mặt của tờ Tin Sáng như một trắc nghiệm xem, người ta có thể nào sống hòa đồng xây dựng trong một chế độ XHCN được không? Câu trả lời, đây là một ảo tưởng hay một đánh giá sai lầm nghiêm trọng về bản chất CNXH.

Đó là thất bại thứ nhất của bài viết của Hồ Ngọc Nhuận.

Thất bại thứ hai của bài 48 năm, một mẩu chuyện nhỏ là ông Hồ Ngọc Nhuận viết mà không dựa trên thực tế và những con số, viết mà che đậy rồi cũng lòi cái đuôi viết không trung thực. Tự bài viết nó tố cáo cái sự không trung thực ấy như sau.

Trong trường hợp Lý Quý Chung, tôi cũng không đồng ý là ông Lý Quý Chung tỏ ra võ đoán khi gán ghép xa gần Ngô Công Đức với phong trào đoàn kết, với Walesa ở Ba Lan trong âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản. Đây là cách thức hành xử thường thấy trong các tổ chức cộng sản, muốn ám hại ai thì gán cho tội âm mưu, tội phản động. Đó là một bản án tử hình đối với Ngô Công Đức rồi. Nhưng về mặt đời sống vật chất Lý Quý Chung có cái lý của ông. Tuy được sắp xếp là phụ tá chủ bút thứ ba của Tin Sáng, đồng lương không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn là đồng lương chết đói. Nếu tất cả đều ăn ngô độn khoai thì còn chấp nhận được. Trong khi đó Ngô Công Đức, chủ nhiệm lại có đời sống quá dư thừa làm sao không so sánh và bực bội?

Trong bài viết của ông Hồ Ngọc Nhuận, ông không che đấu được niềm vui và hãnh diện vì tờ Tin Sáng được độc giả miền Nam ái mộ. Báo bán chạy, nhiều khi các trẻ bán báo đã bán chợ đen. Nếu như thế thì số phát hành phải nhiều lắm. Tiền lời ấy đi đâu, để vào đâu? Nhân viên tòa soạn thì đã có mức lương do chính công đoàn quyết định. Tuy nhiên, trong Nhật ký của ông, không bao giờ ông nói rõ ràng, minh bạch về tiền. Lương công nhân bao nhiêu. Lương chủ nhiệm, chủ bút bao nhiêu? Ông Và Ngô Công Đức góp vốn vào Tin Sáng lúc đầu báo nhiêu? Phải có một tổng kết tài chánh cuối năm chứ? Rõ ràng là không minh bạch.

Trong khi đó, qua ông Nguyễn Hữu Hiệp, trả lời nhà báo Alain Ruscio, tác giả cuốn sách “Vivre au Vietnam”, 1981, các ông lại có thể đưa ra những con số rất chính xác. Trong mục ‘liên lạc với bạn đọc ‘do ông Dương Văn Long phụ trách đã ghi nhận từ tháng 7-1975 đến tháng 7-1979, tòa báo đã nhận được 39. 673 thư, 2.7000 cú điện thoại., v.v.”(39)
Thợ bửa củi hay thợ mộc? Cũng trong sách của Alain Ruscio có ghi lại câu trả lời của Lý Quý Chung như sau:

Comme la plupart de mes amis ici, j’ai vécu l’experience des deux régimes de presse. Tu connais le mot de Duc, notre Directeur: Auparavant, nous étions des bucheron, aujourd’hui des menuisiers.”

Trong khi đó, trong hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận ghi khác: “Trước đây chúng tôi là thợ bửa củi, bây giờ chúng tôi là thợ mộc đục và bào nhẵn.

Ý nghĩa trong câu trích dẫn của Hồ Ngọc Nhuận ngược hẳn. Phải chăng Lý Quý Chung hay chính Alain Ruscio đã sửa và cắt bỏ các chữ “đục, bào nhẵn”?

Ông Hồ Ngọc Nhuận luôn nói tới Đại gia đình Tin Sáng. Điều đó cũng đúng, sau 1975, mọi gia đình đều sa cơ lỡ vận nên bám vào Tin Sáng. Hằng trăm nhân viên là bạn bè, là bà con thân thuộc, ngay cả vợ con các nhà báo, các giáo chức, các sinh viên đã chạy vào Tin Sáng như một chỗ tựa. Vợ Dương Văn Ba, em gái, em rể cũng làm cho Tin Sáng. Hai người con trai lớn và con dâu của cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông cũng là nhân viên Tin Sáng. Ông Nguyễn Chức Sắc, chồng bà Kiều Mộng Thu, một phó tỉnh trưởng hành chánh, vì không viết báo nên cùng con trai làm ở ban sắp chữ. Con trai lớn của Lý Quý Chung, chưa đủ tuổi đi làm cũng được sắp xếp làm văn phòng.

DB Kiều Mộng Thu (bìa phải hàng sau), DB Ls Trần văn Tuyên (ngồi giữa, hàng trước), kế bên là DB Trần Văn Sơn (mặc veston, cầm giấy, Hải quân Trung tá, bút danh sau 1975 là Trần Bình Nam) và những dân biểu đối lập khác trong cuộc tuyệt thực 24 giờ trước thềm quốc hội để phản đối cái họ gọi là “Chính quyền tham nhũng, không hiệu quả và áp bức” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Sài Gòn, ngày 10 tháng 2, 1975. Một dân biểu cầm bảng với ảnh TT Thiệu bị gạch chéo với hàn chữ: “Còn Thiệu là còn chiến tranh, nghèo đói. Thiệu phải từ chức” trước một bàn thờ có lư và chân đèn cầy với một tu sĩ Phật giáo. Nguồn ảnh: AP Photo / Ut

Điều đó tự nó bầy ra một thực trạng là dân miền Nam, ngay cả nhũng thành phần hợp tác với cộng sản cũng không có đất sống. Họ đổ xô vào Tin Sáng để kiếm miếng cơm và để có tư thế chính trị tạm ổn.

Báo bán chạy mà để gần hai trăm nhân viên ăn những bữa ăn thanh đạm thì đó là một điều tủi nhục đầy nước mắt cho họ. Ông Hồ Ngọc Nhuận ghi:

Bếp ăn tập thể thời đó ở đâu cũng có và cũng vậy thôi, nghĩa là cũng cơm độn bo bo, khoai lang hay nhiều nhất là mì sợi, nhưng cái đáng nói là Đức và tôi, với sự giúp sức của anh chị Hồ Ngọc Cứ, đã đặt bếp ăn và phòng ăn tập thể ngay tại phòng khách lớn của nhà báo, người ăn cả chủ lẫn khách mời, kể cả khách nước ngoài đều có thể quan sát các chị bếp, qua các ô kính sạch trơn, trong suót.”(40)

Không ai đặt câu hỏi: vì sao nên nỗi này? Vì sao trong chiến tranh, người dân miền Nam vẫn có của ăn của để? Vì sao sau chiến tranh, đã dành được độc lập, họ im lặng chịu đựng như thế? Tại sao sau chiến tranh, người ta phải ăn cơm độn ngô, độn khoai? Tại sao thế?

Trong khi chủ nhiệm báo mỗi ngày nhậu nhẹt, uống rượu Tây với mấy tên bao thầu phát hành báo gốc người Tầu? Nhân viên Tin Sáng không có đủ tiền phải uống rượu pha cồn, rượu Lebon, uống xong người nào cũng ngất ngư, nửa sống, nửa chết. Không bao giờ Ngô Công Đức hoặc Hồ Ngọc Nhuận công bố kết quả tài chánh trong năm cho anh em Tin Sáng biết. Nhưng đây là hoàn cảnh của Lý Quý Chung viết lại một cách gián tiếp tố cáo Tin Sáng:

Có một hôm đi làm về tôi thấy có bóng ai leo bên ngoài cửa sổ phòng ngủ lầu một, tôi định hô lên ăn trộm thì vợ tôi kịp cản lại. Nàng bảo nhỏ: ‘Không phải ăn trộm đâu, em bán cửa kính cho người ta.’ Tôi định phản ứng. Sao lại tận cùng thế này! Nhưng kịp nhớ lại: những gì có giá trị có thể bán được thì đã bán hết rồi! Lúc đó không bán kính cửa sổ thì đào đâu ra tiền để chi dùng trong nhà. Nhà tôi bà tầng có đến hàng chục cái cửa sổ, cho nên cũng thu về một số tiền kha khá, có thể đối phó thêm một thời gian nữa. Ngay tức thời chiều hôm đó, cả gia đình tôi có một buổi cháo gà xé phay bù đắp những ngày ăn uống kham khổ. Nhưng bán mãi rồi cũng không còn gì để bán nữa. Thế là chúng tôi chỉ còn một giải pháp cuối cùng là… bán nhà. Nhà lúc đó giá rẻ mạt. Căn nhà đó bây giờ có thể bán với giá 600-700 cây vàng, nhưng lúc ấy bán không hơn hai chục cây. Khi dọn ra că nhà thuê ở đường Lê Lợi, nằm phía sau bệnh viện Sài gòn, vợ chồng tôi chỉ mang theo một số bàn ghế và một cây đàn Piano. Đây là chiếc Piano thứ hai. Chiếc đầu tiên chúng tôi đã bán trong những ngày đầu gỉải phóng.”(41)

Vợ Lý Quý Chung xoay ra bán cơm tấm bì ngoài lề đường, nhưng bị phường ngăn cản, vào ngõ, ế khách nên đành dẹp.

Ông Hồ Ngọc Nhuận nghĩ sao khi đọc đoạn trên? Sau khi Tin Sáng ‘hoàn thành nhiệm vụ’, ông Lý Quý Chung ra Hà Nội làm tổng thư ký báo Lao Động, năm 1990; ông viết:

“13 năm tôi sống với Cúc Phượng tràn đầy hạnh phúc (chúng tôi có một đứa con trai Lý Quý Phúc). Hầu như chúng tôi không có một cuộc cãi vã to tiếng nào. Cuộc sống vật chất của gia đình dễ chịu hơn khi tôi bắt đầu làm báo Lao Động.”(42)

Xin đọc tiếp những lời tố cáo của Dương Văn Ba. Theo Dương Văn Ba, do quen biết các linh mục trong nhà in Nguyễn Bá Tòng, các linh mục này đã đồng ý cho Ngô Công Đức xử dụng toàn bộ hệ thống máy in được coi là tân tiến nhất lúc bấy giờ với căn nhà ba tầng lầu, góc đường Bùi Chu và Bùi Thị Xuân. Tiền thuê nhà trả cho các linh mục là bao nhiêu không ai biết. Dương Văn Ba còn cho biết rõ báo Tin Sáng bán rất chạy. Theo Dương Văn Ba,

Các bạn cứ tưởng tượng, một tờ báo phát hành 60, 70 chục ngàn số một ngày, có cả gần một trang quảng cáo, thu hoạch lợi nhuận của tở đó to cỡ nào? Tờ báo tư nhân cũa Ngô Công Đức được chính quyền thời kỳ mới không đánh thuế, dành ưu đãi về giá giấy, doanh thu được hưởng trọn vẹn trong gần 6 năm trời, số lợi nhuận có được Ngô Công Đức sử dụng vào những việc gì?”

Dương Văn Ba viết tiếp,

Quan hệ chủ thợ trong việc trả lương báo Tin Sáng vẫn giống như thời kỳ trước giải phóng. Mọi người được cấp phát lương cố định suốt 6 năm, không có một lần tăng lương, ngoài việc cấp phát một ít quà cấp nhân dịp lễ lộc.”

Sở dĩ Dương Văn Ba ta thán như vậy, bởi vì khi mới thành lập tờ báo, Ngô Công Đức có nói riêng với mấy anh em chủ chốt được mời như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu An và một vài anh em khác:

Tôi đứng cái, chủ nhiệm tờ Tin Sáng để làm chỗ dựa hoạt động cho các anh em trong thời kỳ mới. Chúng ta cùng ra sức xây dựng và phát triển nhật báo Tin Sáng có sức mạnh và độc giả đông đảo hơn thời kỳ trước đây. Tài chính thu được, mộ một mình tôi không giữ hết, tôi sẽ lo cho các bạn để các bạn cũng có cơ ngơi, nhà cửa đàng hoàng, sống thoải mái về tài chính..tôi là người đủ khả năng làm việc này. Tôi hứa không quên sau này sẽ chia phần cho các bạn, các bạn hãy làm việc hết sức mình.”

Phần Ngô Công Đức, theo Dương Văn Ba, đã biết xử dụng những người như ông Hồng Ngọc Hải, con trai nghị sĩ Hồng Sơn Đông tham gia vào việc tổ chức in ấn và phát hành, cùng với một tay trùm buôn giấy người Hoa tên là Thạch Như Ke, tục gọi là Tỷ Giấy với sự tiêp tay của Nguyễn Tống Hạnh. Bộ ba này vừa có tiền, vừa chạy áp phe giỏi, làm kinh tế giỏi, đẻ ra tiền để hỗ trợ cho Ngô Công Đức. Ba viết tiếp,

“Họ thuộc vào loại “dân nhậu có cỡ”, sáng sớm đã có thể lai rai 5-3 chai bia, chiều tối luôn luôn có mặt ở các quán nhậu với 5 -7 chai rượu chát đỏ (thời kỳ đó thịnh hành rượu Cabernet của Hungary) ông Đức đã vận dụng được tài năng làm ăn của nhóm người này, để vẫn có thể trót lọt trong các ngóc ngách của phát hành, dù là phát hành thời kỳ mới, nhưng trong giai đoạn đầu vẫn nằm trong hệ thống của những anh chị có máu mặt thời kỳ phát hành cũ. Biệt tài của ông Đức là “nhậu“ thì vẫn cứ “nhậu”, đi “chơi” thì vẫn cứ đi “chơi”, “bồ bịch” trai gái (mặt này ông cũng mạnh không thua gì nhậu), thì vẫn cứ trai gái, nhưng quan trọng hơn, việc làm ăn vẫn cứ điều hành thông suốt, guồng máy vẫn cứ chạy đều, tiền tiếp tục vẫn thu vào ào ào. Đó là bản lãnh một nhà kinh doanh tài giỏi.”(43)

Thay lời kết luận

Nay thì kẻ còn sống để có thể trao đổi vỏn vẹn còn có hai người: Võ Long Triều-Hồ Ngọc Nhuận.

Võ Long Triều-Ngô Công Đức-Hồ Ngọc Nhuận vốn cùng xuất thân trường St. Joseph Mỹ Tho (Lasan Mỹ Tho), rồi trường dòng Taberd ở Sài Gòn, tình như thủ túc, mà lúc cuối đời họ cũng đành chia tay nhau vì ý thức hệ. Võ Long Triều đi về một phía, hai người kia về một phía mà cuối cùng những người chọn lựa đi về phía kia cũng phải nhìn nhận như Hồ Học Nhuận với Võ Long Triều: un choix malheureux(44).

Phần Ngô Công Đức mà cuộc đời được kể là có rất nhiều thành tựu, nhưng lên voi xuống chó cũng không thiếu, nhưng trước khi chết lại ví mình như cánh lục bình trôi bập bềnh trên sông nước Hậu Giang!

Phải chăng ít nhiều, người dân miền Nam cũng rơi vào hoàn cảnh lục bình trôi?

Có những người từng trôi từ Bắc vào Nam, rồi cuối cùng trôi ra hải ngoại? Phải chăng đó là những người may mắn, tốt số? Còn những kẻ khác như Ngô Công Đức-Hồ Ngọc Nhuận-Un choix malheureux. Lục bình trôi ấy trở thành bèo băm cho heo ăn?

Đúng vậy. Tôi nhìn lại thì thấy hầu như như không một người nào, trí thức, chuyên viên của miền Nam, trong đám họ đã được trọng dụng.

Họ chỉ là thứ bèo băm, độn thêm cho lợn ăn!

Ngay những loại chuyên viên như Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh hay nhóm Chiều thứ Sáu với các ông Trần Bá Tước, Phan Thành Chánh, Đỗ Hải Minh, Nguyễn Thông Minh, Lê Mạnh Hùng, Võ Hùng, Vốc Văn Huệ, Mai Kim Đĩnh, Trương Quang Sáng, Lê Đình Khanh, Tuấn Anh, Võ Gia Minh, Trần Quý Hỷ, Đỗ Nguyên Dũng, Phan Tường Vân, Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn, Hồ Xích Tú, Nguyễn Ngọc Hồ, Đỗ Trung Đường cũng chỉ được dùng như một chuyên viên có tính giai đoạn mà không bao giờ có vai trò quyết định, vai trò lãnh đạo.(45)

Ông Lâm Võ Hoàng, một chuyên viên ngân hàng trước 1975 là người có thiện chí thuộc loại ‘khùng’, hết lòng phục vụ mong cho đất nước khá hơn cũng đã có lần mai mỉa: “Nhiệm vụ của tôi như nhiệm vụ con gà đẻ trứng. Đẻ ở đâu cũng không hay, đẻ rồi người ta mang đi làm gì cũng không biết, họ luộc ăn hay đem đi ấp cũng chẳng quan tâm.”(46)

Nhưng một nhận xét sâu sắc hơn nữa về chế độ cộng sản của Lâm Võ Hoàng nằm trong câu sau đây,

Việt Nam không có chuyện gì là không dám làm. Chỉ có một điều không dám thôi! Đó là làm đúng!”

Nay thì Lâm Võ Hoàng đi ‘tu cạn’, làm các công tác xã hội từ thiện dưới bóng Thánh giá của Chúa.

Riêng trường hợp nhóm lực lượng thứ ba tụ tập chung quanh Ngô Công Đức để làm tờ Tin Sáng. Một mục tiêu của bài viết này, nói cho chính xác thì chính Hồ Ngọc Nhuận là cái mắt lưới, chỗ trung gian liên lạc giữa cộng sản do ông Trần Bạch Đằng-Hồ Ngọc Nhuận trước 1975. Ông Hồ Ngọc Nhuận viết:

Sau 30-4-75 lãnh đạo Cách mạng ở Thành phố cho tôi một đặc ân: lên danh sách đề nghị cho một số người có dính dáng đến các hoạt động của tôi khỏi đi học tập cải tạo tập trung. Danh sách khá dài của tôi đã bị lọc bớt khá đông.”(47)

Bao nhiêu người không phải đi học tập mà chỉ phải đi học tập tại chỗ là do sự quyết định cũng như sự can thiệp của Hồ Ngọc Nhuận? Trường hợp Dương Văn Ba đáng lẽ phải đi học tập như mọi người mà nếu không có sự vận động can thiệp tích cực của Hồ Ngọc Nhuận thì cũng phải đi học tập như mọi người khác.

Nhưng có hai người mà đáng lẽ, theo tôi, Hồ Ngọc Nhuận phải can thiệp. Đó là trường hợp luật sư Trần Văn Tuyên, trưởng khối Xã Hội-Dân tộc trong Hạ Nghị viện thì Hồ Ngọc Nhuận phải miễn cưỡng chịu bó tay. Quá khứ hoạt động đảng phái Quốc Dân Đảng trong hầu như suốt cuộc đời của luật sư Tuyên không thể nào cân bằng với vài năm đứng đầu nhóm dân biểu đối lập dù ông có tên trong danh sách đề nghị “khỏi đi học tập cải tạo tập trung” của Hồ Ngọc Nhuận.

Và một người quan trọng hơn cả, gấp hai lần luật sư Trần Văn Tuyên, đàn anh và người đỡ đầu cho nhóm Hồ Ngọc Nhuận-Ngô Công Đức-Dương Văn Ba trong nhiều năm, là kỹ sư Võ Long Triều. Hồ Ngọc Nhuận cũng đành ‘bó tay’! Có lẽ đây là một nỗi cay đắng để lại trong nhiều năm đối với kỹ sư Võ Long Triều và cũng đưa đến sự chia rẽ không hàn gắn được.

Nhìn lại tờ Tin Sáng sau 1975, nó như một cái phao cứu sinh cho đám chủ lực thành phần thứ ba. Hầu như không thiếu một ai cả.

Nhập vào nhóm Tin Sáng ít ra có một bảo đảm chính trị như thể gia nhập hội trí thức yêu nước. Vì thế có mặt những người đã từng viết cho Tin Sáng, hay Điện Tín như các ông Phan Ba, Minh Đỗ, Trần Trọng Thức, Trương Lộc, Kiên Giang Hà Huy Hà, Sơn Nam, Vũ Hạnh. Rồi hàng chục nhà giáo bạn bè của Dương Văn Ba như Huỳnh Công Minh, Hoàng Ngọc Biên, Cao Thanh Tùng, Võ Văn Điểm, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Đào Văn Phước, Nguyễn Ngọc Thạch, Diễm Châu.

Hai gương mặt chống đối nổi tiếng Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan.

Trung tá Trương Minh Đẩu, chánh văn phòng Đại tướng Minh.

Tiếp theo là các cựu dân biểu đối lập thời VNCH như Nguyễn Văn Binh, Phan Xuân Huy, Hồ Ngọc Cứ, Đinh Xuân Dũng, Hồ Văn Minh, Dương Văn Long, Tạ Văn Bo, Huỳnh Ngọc Diêu, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Công Hoan, Trần Văn Thung, Nguyễn Hữu Hiệp.

Chưa kể thêm bà con anh em, vợ con đem vào làm cho Tin Sáng. Càng đông người đổ xô về Tin Sáng càng chứng tỏ sự thất thế, sự mất chân đứng của họ trong chế độ mới. Tổng cộng gần 200 người sống dựa vào Tin Sáng!

Sau đó, một số đã tìm cách vượt biển đi ra nước ngoài như Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đồng, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Công Hoan, Trần Văn Thung, Diễm Châu, Đinh Xuân Dũng, v.v. Những người này thường ẩn mình để khỏi lộ diện một cách không cần thiết!

Một vài lời nhắn với Ông Hồ Ngọc Nhuận

Đọc hồi ký của ông, cảm tưởng chung là không đến nỗi nào. Tuy nhiên, tôi vẫn tìm ra nhiều sụ việc ông đã cố tình che dấu.

  • Thứ nhất: ông đã không cho biết rõ ràng khi làm dân biểu và được đi sang Pháp, ông đã tiếp xúc với các đại sứ cộng sản tại Paris cũng như có dịp gặp ông Trần Đình Thi, v.v. Ông đã dấu tất cả công việc đi đêm lén lút với phía cộng sản mà sau này ông Võ Long Triều đã hé lộ ra một phần.
  • Ông bỏ qua không đề cập đến lời tố cáo của Dương Văn Ba về ông và về Lý Chánh Trung. Lời tố cáo đích danh hai người đã nhận tiền của cộng sản Hà Nội, tiền đô-la la hẳn hoi, để tổ chức, chi trả cho sinh viên xuống đường đi biểu tình. Chuyện này như thế nào? Có thật như lời Dương Văn Ba tố giác không?
  • Khi từ Pháp về, ông đã được Trần Bạch Đằng móc nối và ông là lá bài tay sai cho cộng sản. Về điều này, Lý Quý chung đã biết được và nói với bạn bè là: “Hồ Ngọc Nhuận đã móc nối với cộng sản và sau này, Hồ Ngọc Nhuận sẽ là cái dù che chắn cho anh em miền Nam.” Ông cũng là người móc nối với Họa sĩ Ớt, tức Huỳnh Bá Thành và vì vậy, Huỳnh Bá Thành đã khuyên ông cũng như Hồ Văn Minh, Lý Chánh Trung, vào phút chót không có mặt trong chính phủ Dương Văn Minh. Ông đã lánh mặt trong những ngày này ở dinh Hoa Lan.
  • Đúng như nhận xét của Lý Quý Chung, ngay sau giải phóng, ông được trao cho nhiệm vụ chọn lọc một số người có công với cách mạng và khỏi phải đi trình diện học tập. Chỉ phải học tập tại chỗ. Ông cũng là trí thức miền Nam duy nhất có hy vọng nằm trong bộ máy chính quyền cộng sản sau 1975.
  • Ông là người trích dịch khá nhiều cuốn sách của Alain Ruscio như phần dẫn chứng về tờ Tin Sáng. Nhưng ông lại cố tình không nhắc nhở gì tới Annexe no. 5 nhan đề ‘Lettres aux amis d’Occident’(48). Trong lá thư dài 4 trang và hai trang với chữ ký của các trí thức miền Nam trong đó nội dung là lên án Tàu Cộng không muốn Việt Nam độc lập và ý đồ xâm lăng của Trung Quốc. Phần thứ hai nội dung tập trung vào việc giải thích và biện hộ cho chế độ cộng sản Hà Nội sau khi cưỡng chiếm miền Nam đã không có tắm máu, không có khủng bố đỏ, không có bách hại tôn giáo, không có sự tố cáo công khai, không có bạo lực khủng bố ý thức hệ, không có tẩy não, học tập cải tạo,

Không phải là những người tù khổ sai, cũng không phải là những người tù chính trị và những trung tâm này mà chúng tôi có đến thăm một vài nơi, không có giống chút nào với những trại tập trung. Ở đây, người ta học tập và làm việc. Người ta nghe đài radio và đọc báo. Những chuyến viếng thăm của gia đình, việc gửi thư và gửi quà được cho phép. Một phần lớn những người học cải tạo đã được trở về với đời sống bình thường . Dĩ nhiên, đối với gia đình và cá nhân những người ấy thì đây là một thử thách lớn lao . Nhưng sự tham gia vào xã hội mới có cái giá phải trả.

Hồ Chi Minh ville 29-6-1979.”

Trong số những người ký tên có ông và những người bạn của ông như Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Châu Tâm Luân, Phan Khắc Từ, Huỳnh CôngMinh và không thể thiếu Lý Cháng Trung.

Chẳng những ông là người ký tên vào ‘Lá thư gửi cho bạn bè ở Âu Châu’, có nhiều lý do cho thấy, chính ông là người đi vận động xin chữ ký vì ông là người giao thiệp rộng rãi với nhiều người nhất.

Phải nhìn nhận với sự thú nhận của ông với Võ Long Triều là: Đó là một chọn lựa bất hạnh. Thưa ông, có đúng phải vậy không?

Tôi còn một thắc mắc cuối cùng đặt ra với ông Hồ Ngọc Nhuận. Đó là thường thì những nhà văn, nhà bất đồng chính kiến trong nước muốn phổ biến tài liệu, sách vở của mình thì thường gửi cho một số cơ quan truyền thông ở hải ngoại. Chẳng hạn như

Tủ sách Tiếng Quê Hương do các anh Uyên Thao, Trần Phong Vũ chủ trương đã từng in nhiều sách vở từ trong nước gửi ra, nhiều khi biết là lỗ, nhưng vẫn cho in để có dịp giới thiệu những người bất đồng chính kiến trong nước. Những nhà văn, trí thức bất đồng chính kiến này thường là những người xuất thân từ trong lòng xã hội cộng sản từ 1954-1955 trở đi như các trường hợp sau đây:

  • Vũ Thư Hiên với Đêm giữa Ban NgàyTrắng trên đen (sách dịch Gonzalez-Gallego)
  • Bùi Ngọc Tấn với Hậu Chuyện kể năm 2000, Viết về bè bạn, Vũ Trụ không cùng
  • Nguyễn Mạnh Tường, Kẻ bị khai trừ
  • Tô Hải, Hồi Ký của một thằng hèn
  • Lê Mỹ Hân, Một Người – Một đời, Quê Hương Ngày trở lại
  • Tạ Duy Anh, Sinh ra để chết, Đi tìm nhân vật
  • Võ Thị Hảo, Dạ tiệc Quỷ
  • Vũ Cao Quận, Gửi lại trước khi về cõi
  • Nguyễn Thanh Giang, Nhân Quyền và Dân Chủ ở Việt Nam.(49)

Sau này thì có thêm công ty Người Việt vào cuộc và đã in một vài cuốn như Bên Thắng Cuộc (I và II) của Huy Đức và gần đây đây cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh.

Liệt kê tạm đầy đủ như thế để thấy rõ ràng những nhà bất đồng chính kiến trên có một sự tin tưởng vào các cơ quan truyền thông hải ngoại như Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Trí thức ‘thiên tả’ miền Bắc và trí thức chống cộng hải ngoại có một sự đồng thuận không cần nói ra.

Nhưng riêng những thành phần lực lượng thứ ba, vốn có gốc gác miền Nam, sau đó theo cộng sản thì hình như có một điều gì đó để họ cảm thấy dị ứng, e ngại đối với những người Việt hải ngoại.

Như trường hợp Lữ Phương, ông chỉ gửi bài, tài liệu cho Viet-studies.org và Diendan.forum vốn nằm trong nhóm lực lượng thứ ba. Hai nhóm này cũng chả ưa gì cộng sản, chán mứa với cái chủ nghĩa ấy và công kích cộng sản một cách kịch liệt. Phê bình, công kích cộng sản là một chuyện, họ vẫn tránh né cộng đồng người Việt Quốc gia hải ngoại.

Có điều gì tương đồng giữa lực lượng thứ ba hải ngoại và lực lượng thứ ba trong nước?

Riêng trường hợp hai ông Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận có nhiều bạn bè thân đang làm truyền thông ở hải ngoại và có một số bạn bè từng cộng tác với tờ Tin Sáng sau 1975 mà hiện nay cũng đang ở hải ngoại.

Vì cớ gì, các ông không gởi để bạn bè mình phổ biến?

Chẳng hạn bạn bè cùng lớp và thâm giao của Dương Văn Ba như Huỳnh Phan Anh ở San Jose, Hoàng Ngọc Biên (không học cùng lớp), Phạm Phú Minh cũng cùng lớp hiện là chủ bút tờ báo mạng Diễn đàn Thế kỷ 21, Nguyễn Đồng và vợ là chị Nguyễn Thị Hợp làm việc cho Tin sáng sau 1975 và đã làm việc lâu năm cho tờ Người Việt. Tôi rất rõ ràng là không phải cứ làm việc cho Tin Sáng sau 1975 là cùng phe phái.

Nếu muốn in cuốn hồi ký Những ngã rẽ mà giao cho Phạm Phú Minh thì chắc cũng được anh tận tình lo liệu không mấy khó khăn. Hoặc tôi cũng thẳng thắn – không cần dấu diếm, úp mở gì cả – là nếu giao cho tôi thì tôi cũng có thể tôi nhờ Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản không mấy khó khăn gì.

Trường hợp Hồ Ngọc Nhuận lại càng dễ dàng hơn nữa. Ông có thể nhờ Võ Long Triều, một người cũng rất có uy tín với tờ báo Người Việt; hoặc giao cho dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ thì chắc ăn, một trong những người sáng lập góp vốn trong công ty Người Việt ngay từ lúc sơ khởi, cũng vốn là bạn trong Phong trào TSC, cũng được điều về làm giám đốc trong bộ Thanh Niên.

Và chắc ăn hơn nữa là giao cho ông Đỗ Quý Toàn, thuộc lớp cựu trào và hiện nay vẫn là cây bút chống Cộng chủ lực của tờ Người Việt, thành viên sáng lập công ty Người Việt, có tờ báo mà trước khi có những xích mích ông coi là

“Tờ báo đó lại là của những người tôi từng coi là bạn và tới giờ nầy tôi vẫn muốn kính nể như là những người không thể để cho bất cứ ai lợi dụng để dựng chuyện bôi xấu bạn bè mình.”(50)

Theo Hồi ký Đời, khi hay tin ông có dịp sang Pháp, thì ông Đỗ Quý Toàn từ Montréal đã bay sang Bordeaux để gặp ông. Cũng theo ông thì vợ ông Đỗ Quý Toàn “và các bạn khác trong tờ Người Việt, tại Quán Văn Nghệ của anh Nguyễn Ngọc Thạch ở số 14 đường Lam Sơn, Quận Bình Thạnh, Sàigòn.”

Phòng Trà VĂN NGHỆ, 14 Lam Sơn, P 6, Q. Bình Thạnh, TP Hô Chí Minh, ĐT ( 3510-4390 ). Ảnh (2010),

Nhưng khi ông gửi thư cho ông Đỗ Quý Toàn ghi địa chỉ báo Người Việt về bài số 28, Hồi ký Võ Long Triều đăng trên báo Người Việt thì tờ Người Việt đã tự động cắt bỏ đoạn này.

Sau khi nói để ông hiểu, chúng tôi vẫn cho đăng nguyên văn thư của ông để rộng đường dư luận và xin giành quyền cắt bỏ những điều không liên quan gì đến vấn đề được nêu trong thư.”
(Trích thư báo Người Việt, trên số báo ngày thứ hai 26-02-2007).

“Không biết quý vị chủ trương báo NV cắt bỏ đoạn nầy chỉ vì cho rằng nó không liên quan đến vụ việc, hay vì quý vị không thích về Sàigòn, cũng không muốn cho độc giả biết ở báo NV cũng không thiếu người về Sàigòn, mà không chỉ một lần.”(51)

Và vì thế có sự xích mích giữa đôi bên. Nguyễn Ngọc Thạch là cựu sinh viên Đà Lạt, đồng khóa với Dương Văn Ba năm 1961, và cũng là cây bút viết phiếm sâu sắc của Tin Sáng trước 1975 và sau 1975.

Nhân tiện đây cũng nói thêm, và chả có gì cần dấu diếm, là tôi có dịp ra Bắc và chỉ mong gặp nhiều trí thức, nhà văn miền Bắc ở Hà Nội. Vì thế, tôi có đến thăm và đến chơi tòa báo tiến bộ Tia Sáng của các trí thức thuộc loại ‘bô xít’ ngoài Bắc. Nơi đây, tôi có dịp gặp một số nhà văn, trí thức miền Bắc, dự hội thảo, dự các buổi trao giải thưởng, v.v.

Ở Sài Gòn, tôi có được đi dự một buổi vinh danh ông Trần Văn Khê. Dự như thế là vừa được ăn thật ngon, thật đắt tiền, vừa có bao thư, về mở ra có 50.000 đồng. Đủ để bao bạn đi ăn phở và uống cà phê! Chỉ không biết mấy ông lãnh đạo từ miền Bắc vào dự như ông Vũ Mão, tiền máy bay, tiền Hotel và tiền bao thư là bao nhiêu?

Cứ nghĩ đến chuyện bao thư 50.000 đồng là lạ thật.

Trong đó đặc biệt có nhà thơ Lê Đạt (nay đã qua đời) và nhất là nhà văn Nguyên Ngọc. Biết tôi từ Montréal, họ hỏi thăm tôi có biết Đỗ Quý Toàn không. Tôi gật đầu. Họ khen ông Toàn lắm, khen đó là một người chống cộng sản ‘đứng đắn’.

Với những bạn bè tâm giao như vậy, không hiểu vì lý do gì ông Hồ Ngọc Nhuận lại không trao cuốn Hồi Ký Đời cho công ty Người Việt, mà lại trao cho đám trí thiên thức tả ở Paris đã lỗi thời rồi! Và họ không có chủ trương và cũng có thể không có điều kiện xuất bản thành sách.

Bây giờ mà còn tả cái nỗi gì! Thưa ông Nhuận. Và tôi tin chắc cuốn sách sẽ được công ty người Việt giới thiệu chả kém gì cuốn “Bên Thắng Cuộc” hay “Đèn Cù” cả.

Cờ đến tay mà không phất thật uổng.

(30) Lý Quý Chung, Hồi ký Không Tên, phần sau ngày 30 tháng tư
(31) Võ Long Triều, Hồi ký Võ Long Triều, kỳ 26, 19/1/2007
(32) Lý Quý Chung, Ibid.
(33) Dương Văn Ba, Những ngã rẽ, chương 13, Làm báo trong chế độ mới
(34) Dương Văn Ba, Ibid.
(35) Dương Van Ba, Ibid.
(36) Dương Van Ba, Ibid., Chương 14, Nội bộ báo Tin Sáng rạn nứt.
(37) Lý Quý Chung, Ibid., Đọc hồi ký không tên, Trần Bạch Đằng, tháng 8, 2004
(38) Võ Long Triều, Ibid., bài 27.
(39) Alain Ruscio, Vivre au Viet Nam. Con số vừa trích dẫn ở trên chỉ nằm trong phần chú thích của Alain Ruscio.
(40) Hồ Ngọc Nhuận, Đời, Chương X, Anh em Tin Sáng của tôi.
(41) Lý Quý Chung, Ibid., Chương sau ngày 30/4/1975
(42) Lý Quý Chung, Ibid.
(43) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 14, Nội bộ Tin Sáng rạn nứt.
(44) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., Bản 2010.

“Ông đã trả lời với tôi “không sai, nhưng mà c’est un choix malheureux.” Đúng nghĩa chữ Pháp un choix malheureux c’est-à-dire un mauvais choix. Tôi không muốn buộc ông phải nhận sai lầm, tôi càng không muốn chạm tự ái ông làm gì, tôi chỉ muốn hiểu ông rõ hơn thôi.” [Thư Võ Long Triều viết cho Hồ Ngoc Nhuận từ Paris, ngày 12 tháng 6, 1994.]

“Còn tôi nói “ choix malheureux ” là vì cái lý tưởng mà đã hơn một lần tôi sống thật chớ không chỉ nói, nó không thành hay chưa thành, thế thôi… Và vì đất nước vẫn chưa như lòng tôi muốn. Còn như ông muốn hiểu chữ malheureux chỉ có nghĩa là sai, thì đó cũng là cách hiểu vốn có của ông vậy.” [Thư Hồ Ngọc Nhuận viết cho Võ Long Triều từ Bordeaux ngày 17 tháng 6, 1994.]

(45) Người viết bài này có hai cuốn sách của ông Lâm Võ Hoàng, tập trung những bài viết báo của ông trong khoảng 20 năm, in tháng 08-2002.
(46) Xem thêm Đông Hải, Đường hòa nhập của những nhân sĩ chế độ cũ, tuanvietnam.net, tháng 6, 2010.
(47) Hồ Ngọc Nhuận, Đời, trang 163.
(48) Alian Ruscio, Ibid., trang 229
(49) Tiêu Dao Bảo Cự, Tiếng Chim Báo bão, là trường hợp ngoại lệ, tác gỉa là dân miền Nam, theo MTGPMN.
(50, 51) Hồ Ngọc Nhuận, Ibid., “Thơ gởi Đỗ Quý Toàn” 9 tháng 2 năm 2007.


 

Căn nhà này khoảng 20m2 nhưng có 11 con người cùng sống

LS Lê Ngọc Luân

Căn nhà này khoảng 20m2 nhưng có 11 con người cùng sống gồm: đôi vợ chồng trẻ (dân tộc Dao) và 9 đứa con nheo nhóc. Bên trong không có bất cứ cái gì đáng giá, chúng tôi ghé thăm và trao món quà nhỏ rồi tự hỏi họ sẽ sống như thế nào?

Mọi người nói đùa với nhau rằng muốn có nhiều trẻ con thì đứng cạnh rồi chụp tấm hình. Người cha gầy ốm nhưng cũng may các cháu nhìn sáng. Mong mọi thứ an yên với họ.

Tại Thôn Khe O, xã Lục Hồn, Bình Liêu, Quảng Ninh


 

Vì sao 60 không mời rượu, 70 không qua đêm, 80 không để dành cơm, 90 không giữ chỗ ngồi?

Minh Tran

Tuổi già như đèn dầu trước gió, có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Mỗi từng miếng ăn giấc ngủ của họ đều cần được cháu con chăm sóc. Dân gian có câu: “60 không mời rượu, 70 không qua đêm, 80 không để dành cơm, 90 không giữ chỗ ngồi”.

Câu nói gửi đến chúng ta đạo lý gì?

Câu nói ấy có nhiều tầng ý nghĩa khác nhau, nhưng phải trải qua rất nhiều năm chiêm nghiệm và chăm sóc cho bố trong những năm tuổi già, tôi mới dần dần hiểu được ý nghĩa của câu nói đó.

Thời trẻ bố tôi là một người đàn ông khỏe mạnh và chăm chỉ làm việc nuôi cả gia đình.

Khi bố bước vào độ tuổi 60, sức khỏe mặc dù vẫn rất tốt nhưng không còn nhanh nhẹn như trước.

Sau 70 tuổi cơ thể của ông bắt đầu có những biểu hiện người già, tình trạng sức khỏe cũng ngày càng yếu đi.

Cho đến vài năm nay, sức khỏe của bố ngày càng đi xuống khiến con cháu trong nhà ai ai cũng lo lắng.

“60 tuổi không mời rượu, 70 tuổi không qua đêm, 80 tuổi không để dành cơm, 90 tuổi không giữ chỗ ngồi”, câu nói này cho thấy tình trạng sức khỏe của con người theo từng độ tuổi. Dù khỏe mạnh thế nào đi nữa, thì từ 60 tuổi về sau mọi biểu hiện của tuổi già bắt đầu xuất hiện. Những thói quen nhỏ hay những việc mà trước đây ta có thể thực hiện một cách dễ dàng, thì sau 60 mọi thứ cũng trở nên khó khăn.

Vì vậy mới nói “60 không mời rượu”, vì khi con người bước vào độ tuổi 60, uống rượu rất độc hại cho cơ thể. Những bạn trẻ đừng nên mời người đã trên 60 tuổi uống rượu, bởi như thế cũng bằng như hại họ.

Qua tuổi 70, sức khỏe sẽ càng ngày đi xuống, nếu ngủ lại ở nhà người khác qua đêm thì rất có thể sẽ xảy ra nhiều vấn đề không mong muốn. Vì vậy sau tuổi 70 không nên qua đêm ở nhà người khác, nếu sự cố ngoài ý muốn xảy ra thì vừa thiệt mình mà lại đem đến phiền phức cho gia chủ.

70 tuổi gọi là “cổ hy”, 80 tuổi gọi là “điệt”, 90 tuổi gọi là “mạo”. Những người sống đến tuổi 80, 90 là những người đã sống đến cái tuổi “điệt mạo”. Vào lúc này, cơ thể trở nên suy lão và yếu ớt, không thể thích nghi với chế độ ăn uống quá nhiều dinh dưỡng. Vì thế mới nói: “80 không để dành cơm, 90 không giữ chỗ ngồi”.

Câu nói trên cũng là lời nhắc nhở đến con cháu và tất cả chúng ta về phép tắc cư xử với người cao niên. Chẳng phải chúng ta vẫn nói người già như vật báu trong nhà, cần phải trân trọng và chăm sóc tận tình đó sao?

S.T.


 

Tiền đang phá nát môi trường giáo dục-Thái Hạo

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

4-10-2024

Từ đầu năm học tới giờ, tôi liên tục nhận được các tin nhắn của phụ huynh khắp nơi, chia sẻ những bất bình về các khoản thu trên trời dưới đất tại các nhà trường. Trên báo tất nhiên là cũng đang tràn ngập thông tin loại này. Như một đại dịch chưa có dấu hiệu sẽ dừng lại.

Về đại nạn này, trước mắt khi nhà nước chưa có một hành động gì dứt khoát để giải quyết thì chỉ còn biết trông cậy vào phụ huynh. Nếu phụ huynh không tự mình lên tiếng thì chịu, nạn dịch cứ thế lan tràn và ngày càng tàn phá kinh hoàng, làm băng hoại hoàn toàn môi trường giáo dục.

Phụ huynh cần nhớ, nhà trường chỉ được thu và phụ huynh chỉ phải bắt buộc nộp hai khoản tiền, là HỌC PHÍ và Bảo hiểm y tế (BHYT) học sinh.

Tất cả các khoản khác chỉ nộp khi có sử dụng dịch vụ hoặc TỰ NGUYỆN ủng hộ. Ví dụ, nếu con bạn không đi học thêm thì không phải nộp, nếu bạn không sử dụng dịch nhận tin nhắn thì không phải đóng tiền, v.v… Các khoản ủng hộ cũng thế, đó là tự nguyện, không ai có quyền chia đầu người và bắt các bạn nộp được.

Tóm lại là thế này, bạn chỉ nộp học phí và bảo hiểm y tế; từ chối tất cả các khoản tiền khác nếu bạn không dùng dịch vụ hoặc không ủng hộ. Ngoài hai khoản tiền trên, bất cứ trường nào có dấu hiệu ép buộc thì đều đang vi phạm pháp luật.

Bạn phải lên tiếng và đấu tranh. Một mình không được thì kêu nhau cùng đấu tranh. Xin xem thêm chi tiết các khoản được và không được thu ở văn bản luật đính kèm: https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/cac-khoan-nha-truong-duoc-thu-va-khong-duoc-thu-cua-hoc-sinh-nam-20232024-la-nhung-khoan-nao-104593.html

Để làm trong sạch trở lại môi trường giáo dục, cần giải tán Ban đại diện cha mẹ học sinh, vì tổ chức này đã bị biến tướng nặng nề, dưới danh nghĩa các loại quỹ và xã hội hóa, ngoài làm cánh tay nối dài để thu hộ nhà trường ra, Ban này hầu như không có tác dụng gì khác.

Tiền đang làm băng hoại môi trường giáo dục, phá nát quan hệ thầy trò, hủy hoại quan hệ nhà trường – phụ huynh, bóp méo và làm hỏng chương trình giáo dục quốc gia… Một cách căn bản, cần phải “trục xuất” tiền ra khỏi nhà trường, chỉ dùng thuế của người dân đã đóng góp để vận hành nền giáo dục.


 

Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (II)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2024

Xóm Củi, Quận 8, Sài Gòn 1965

Tiếp theo phần 1

Viết được nhận xét trên, quả thực Dương Văn Ba có cái khí chất miền Nam trong đó. Loại người dám nói, nói huỵch tẹt chẳng kiêng nể gì, dám làm, ngay cả làm bậy. Ông có phải là loại người có lý tưởng, theo lý tưởng cộng sản không? Theo tôi được biết là không!

Ngã rẽ thứ hai: Chương trình Xây Đời Mới ở Quận 8

Đây là một chương trình nhằm cải thiện đời sống dân nghèo rất là tốt đẹp; thành phần tham dự chủ chốt vẫn là thành phần giáo sư triết, tốt nghiệp đại học Đà Lạt và một số khác là người Bắc theo Thiên Chúa giáo như các anh Uông Đại Bằng, Hồ Công Hưng, Đoàn Thanh Liêm, Nguyễn kim Khánh và Nguyễn Đức Tuyên.

Chương trình quả thực là có một mục đích, một tầm vóc như một thí điểm làm một cuộc cách mạng xã Hội. Nhiều người đã mang thiện chí của mình ra, dấn thân nhập cuộc, đi tìm một lối đi cho Việt Nam.

Nhưng như mọi điều tốt đẹp khác trên đời này, chương trình Phát tiển Quận 8 trở thành một bước nhảy vào chính trị của một số người. Lý Quý Chung không dính dáng gì đến chương trình này lại được cài đặt ra tranh cử Quốc hội Lập hiến tại quận 8. Và do uy tín và sự vận động của các thành viên trong ban quản trị quận 8. Lý Quý Chung đắc cử. Mặc dầu một số người ra tranh cử dân biểu đã không dính líu gì đến chương trình xã hội này cũng coi chương trình ấy như của chung cả nhóm và họ đã ra tranh cử dựa trên cái vốn chính trị đó.

Lý Quý Chung, một người trẻ nhất trong bọn đã ra tranh cử Quốc Hội Lập Hiến đầu năm 1966 với sự ủng hộ công khai của chương trình Xây Đời Mới ở quận tám.

Lý Quý Chung được coi như một bài toán thử, một test mở đường cho những Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh, Nguyễn Hữu Hiệp, Ngô Công Đức thong dong bước vào nghị trường. Mục đích của chương trình thì tốt đẹp, nhưng sau này nó trở thành một bàn đạp chính trị cho một số người như Lý Quý Chung, bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận.(15)

Họ là những người trẻ làm chính trị mà không vốn.

Thật sự cũng như Lý Quý Chung, Dương Văn Ba đã không dính dáng gì trong Chương trình phát triển quận 8 cả.

Cũng cần nhắc lại rằng có hai loại thành phần sinh viên tham gia các sinh hoạt xã hội, chính trị lúc bấy giờ:

  • Một loại Sinh viên xuống đường

Đó là thành phần những sinh viên tranh đấu. Họ biểu tình, chống chiến tranh, chống chính phủ, đòi đủ thứ. Loại này không nhiều, nhưng lại gây tác động mạnh tới quần chúng và có ảnh hưởng chính trị đến tình hình miền Nam.

Bản chất của nó có tính cách phá hoại và gây rối.

Đó là thành phần sinh viên tranh đấu, biểu tình, chống chiến tranh, chống chính phủ, đòi đủ thứ

  • Nhóm sinh viên lên đường

Những sinh viên Lên Đường. Loại thứ hai âm thầm, thay vì chống đối, phá hoại thì họ âm thầm xây dựng mà trong đó có nhiều loại tổ chức khác biệt: Như các phong trào Du ca, phong trào Hướng đạo, phong trào Thanh niên Thiện chí, Phong trào Học đường mới.

Trong đó nhiều tổ chức do sự tài trực tiếp của Mỹ. Trong các phong trào đó có chương trình phát triển quận 8, do kỹ sư Võ Long Triều đứng ra xin với ông Kỳ mà số thành viên là các cựu sinh viên Triết Đà Lạt các khóa ba và bốn như các anh Uông Đại Bằng, hiệu trưởng ở quận 8, Võ Văn Bé hiệu trưởng ở quận 6 với anh Nguyễn Đức Tuyên. Cộng với một số nhà giáo khác như các anh Nguyễn Phúc Khánh, Dương Văn Long, Nguyễn Ngọc Thạch, Đăng Kỳ Trân. Bên cạnh đó có hai anh Quốc gia hành chánh là Nguyễn Ngọc Phan và Phạm Duy Tu. Ngoài ra một người không thể quên là anh Đoàn Thanh Liêm, một luật sư cùng với bác sĩ Hồ Văn Minh là những người quản lý chương trình phát triển quận 8.

Một trong những thầy giáo đầu tiên và hiệu trưởng đầu tiên của Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 8: (T) Hồ Công Hưng (2014, (P) Uông Đại Bằng (1966).

Phần Hồ Công Hưng, nếu tôi nhớ không lầm, anh cũng hoạt động ở quận 8. Họ đã cùng nhau chọn quận 8, một quận nghèo nhất ở Đô Thành làm thí điểm vào năm 1965, một năm sau lan sang các quận 6, quận 7. Họ giúp dân xây cầu đường trường học. Năm 1968, sau tết Mậu thân, họ phải giúp dân tái thiết xây dựng lại hàng ngàn căn nhà bị tàn phá vì bom đạn. Chương trình hình thành từ năm 1965-1971.

Các khu được chia ra thành các ‘hẻm ước’ ‘khóm ước’.

Tôi rất trân quý những tên gọi này. Nguyễn Cao Kỳ đã hưởng ứng tích cực và đã có lần đưa Phó tổng thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey đến thăm quận tám mà dại diện là Hồ Ngọc Nhuận ra tiếp đón.

Điều thứ hai là sau khi đã lập xong Phong trào chính trị Phục Hưng miền Nam, Võ Long Triều cùng với kỹ sư Nguyễn Bá Nhẫn, kỹ sư Nguyễn Khắc Thành đã đưa nhiều người trẻ của Phong trào ra tranh cử.

Vận động để có tiền yểm trợ các ứng cử viên này vẫn là kỹ sư Võ Long Triều. Nhưng nhiều người tự hỏi, kỹ sư Võ Long Triều lấy tiền ở đâu để tài trợ nhiều ứng cử viên như vậy?

Dương Văn Ba đã có câu trả lời là kỹ sư Võ Long Triều đã lấy một phần tiền từ Nguyễn Cao Kỳ, phần khác vận động sự tài trợ của các trí thức miền Nam. Tất cả điều này ngay chính những người nhận thụ hưởng số tiền tài trợ cũng không biết thì mọi chuyện suy đoán chỉ bằng thừa.

Một lần nữa, họ đã chính trị hóa các hoạt động xã hội như vận động xây đại học Cẩn Thơ, chương trình xây dựng quận 8 cũng như lợi dụng sự ngây thơ của tướng Kỳ để có đường vào Quốc Hội.

Khi những người này vào được Quốc hội rồi với sự tài trợ tiền bạc của tướng Kỳ, như Dương Văn Ba thố lộ, không một dân biểu đắc cử nào đứng về phe tướng Kỳ.

Sau đây là một danh sách đắc cử vào Hạ viện:

Thầy giáo Phan Xuân Huy ở Đà Nẵng, một con gà nòi của Phật Giáo. Một số các dân biểu trẻ khác, không có một ly ông cụ kinh nghiệm chính trị nào như Bành Ngọc Quý ở Gò Công, Nguyễn Hữu Hiệp tại Đà Lạt và Lê Thành Châu tại Lâm Đồng, Ngô Công Đức ở Trà Vinh, Dương Văn Ba ở Bạc Liêu, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung đơn vị quận một và hai. Bác sĩ Hồ Văn Minh ở quận 6 và Hồ Ngọc Nhuận ở quận 8.

Tôi còn nhớ khi nghe tin các ông Nguyễn Hữu Hiệp và Lê Thành Châu đắc cử ở Đà Lạt (cả hai anh đều học ở Đà Lạt), tôi đặt dấu hỏi phải chăng linh mục viện trưởng đại học Đà Lạt đã nâng đỡ, dùng ảnh hưởng và uy tín của mình để giúp cho Nguyễn Hữu Hiệp đắc cử? Không có một sự tài trợ cả về tiền bạc và ảnh hưởng uy tín cá nhân của linh mục Viện Trưởng, làm sao Nguyễn Hữu Hiệp có thể thong dong vào Hạ Viện? Bằng cách nào họ đã dành được phiếu thắng lợi, hơn phiếu những nhân vật chính trị có uy tín từ ngoài Bắc cỡ bác sĩ Hoàng Cơ Bình?

Những người khác được đắc cử dựa vào tính địa phương. Nhưng bác sĩ Hồ Văn Minh và Hồ Ngọc Nhuận hoạt động trong quận 8 và 6 nên lấy phiếu dễ dàng của các cử tri!

Tôi không hiểu những anh em giáo chức hoạt động ngày đêm, ăn ngủ ngay tại chỗ, đi sát với đồng bào, hy sinh thời giờ và ngay cả sự an nguy đến tính mạng để cho hai ứng viên trên vào Quốc Hội và nhất là Hồ Ngọc Nhuận sau đó trở thành dân biểu đối lập, rồi theo cộng sản, đã nghĩ gì?

Ông Hồ Ngọc Nhuận chỉ có bằng tú tài một, sĩ quan quân đội nay trở thành quận trưởng quận 8 đi trái với mọi thủ tục hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa?

Tôi đã có dịp gặp các anh Hồ Công Hưng (giáo sư triết Đà lạt, dân Kontum, công giáo) và Uông Đại Bằng (giáo sư triết Đà lạt, dân Bắc Kỳ, công gíáo) các anh Đoàn Thanh Liêm, anh Nguyễn Đức Tuyên cũng công giáo, xem ra các anh không để ý đến khía cạnh chính trị Liên Trường cũng như thành phần thứ ba và các anh chỉ biết bằng lòng với những kết quả xã hội đã thực hiện được.

Phải nhìn nhận các anh là người có lý tưởng thật. Chỉ biết phục vụ mặc ai làm gì thì làm.

Riêng anh luật sư Đoàn Thanh Liêm (luật sư, Bắc Kỳ, công giáo) còn ngây thơ và dớ dẩn gấp bội lần. Anh ngồi tù cũng làm thơ nghĩ về các công trình quận 8 và coi Quận tám như một thí điểm về một Xã hội Dân sự trong tương lai?

Ls. Đoàn Thanh Liêm, Tổng Quản lý thứ 2 (sau Bs. Hồ Văn Minh, trước ông Hồ Ngọc Nhuận) của Kế hoạch Xây Đời Mới.

Trong trận chiến tranh dành quyền lực giữa Nam Và Bắc, phải nhìn nhận rằng cánh Liên Trường qua Võ Long Triều, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung đã vượt xa cánh Bắc Kỳ với tướng Nguyễn Cao Kỳ và nhóm giáo sư công giáo, dạy triết nhiều phần.

Câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đây, Hồ Ngọc Nhuận khi làm dân biểu đối lập còn nhiều lần đưa Nguyễn Cao Kỳ vào bẫy như chính ông thú nhận.

Cũng chính Hồ Ngọc Nhuận khi phản bác Võ Long Triều đã lật tẩy như sau:

“Tôi cũng dần hiểu ra, sau nhiều lần Triều gọi điện thoại thúc giục, là anh đã có liên lạc với ông Dương Văn Minh, đã được ông Dương Văn Minh cho biết về việc tôi đề nghị ông về nước, và việc Triều bỏ ra rừng đọc sách khi tôi đang ở nhà ông Minh là một sự giả vờ, một thứ hỏa mù.

Tôi cũng nhớ ra Triều là người, từ năm 1965, vừa tính chuyện hợp tác với Nguyễn Cao Kỳ, vừa luôn tính chuyện ‘đá bàn’, theo chính lời Triều.”(16)

Ông Hồ Ngọc Nhuận sang Pháp chơi có đi thăm ông Dương Văn Minh và ông Triều tình nguyện chở ông Nhuận đến nhà ông Minh. Nhưng để cho ông Nhuận nói chuyện riêng với ông Minh, phần ông Triều ra cánh rừng gần đó nằm đọc sách.

Cho nên Nguyễn Cao Kỳ sau này có thua Nguyễn Văn Thiệu cũng là điều xứng đáng lắm. Một con người như ông Nguyễn Cao Kỳ sau này cứ tức tối ông Nguyễn Văn Thiệu mà không liệu sức mình, không tự xét mình, đánh giá khả năng lãnh đạo của mình thì nói làm gì nữa!

Ngã rẽ thứ ba: Làm chính trị đối lập và làm báo

Trong một số suy nghĩ của Dương Văn Ba, ông đã bày tỏ những khát vọng tuổi trẻ, một khát vọng mà ông gọi là thái độ nổi loạn, một thái độ mà ông cho là đa số sinh viên thời đó chọn lựa.

Cái đa số mà ông nói đến ở đây không ra khỏi con số những người cùng học chung dưới mái trường đại học, môn triết thời đó.

Nay thì đã đến lúc, Dương Văn Ba nghĩ đến tương lai chính trị của ông qua cửa ngõ ra tranh cử dân biểu. Ông nhận định:

Chúng tôi hiện diện nơi đây giữa đồng bằng Nam Bộ, các thế lực chính trị, các thế lực chính quyền công khai hay bí mật, các anh nên nhớ và phải biết tới vùng sông nước và đầm lầy nơi đây.”(17)

Có khoảng gần 20 giáo chức trung học, một số không nhỏ tốt nghiệp ban Triết Đại Học Đà Lạt đã ra tranh cử và đắc cử. Họ thường chưa tới 30 tuổi, không có một chút xíu kinh nghiệm chính trị. Tiền bạc để tranh cử hầu như không có.

Bằng cách nào họ đã có thể đắc cử vào năm 1967?

  • Xét về trình độ văn hóa, trình độ chính trị của dân chúng kể như không có. Điều đó chính là lợi thế của mấy thầy giáo tại địa phương. Họ có cái lợi thế nhất định là người địa phương, có thể được nhiều người biết tới và nếu động viên được một đám đông học sinh, phụ huynh học sinh, họ có nhiều cơ may thắng cử. Người dân địa phương đã bỏ một phiếu tín nhiệm (vote de confiance) cho một thày giáo, một thày giáo đã từng dạy con cái họ, chứ không phải bỏ phiếu cho một chính khách, nhất là nhà chính trị thiên tả. Đây là một vấn đề ít ai lưu tâm tới. Nó chứng tỏ trình độ chính trị của dân chúng còn thấp kém và đơn thuần. Vì thế khi vào được Quốc hội rồi, mấy dân biểu thày giáo này không còn nghĩ tới ai đã bầu họ vào quốc hội. Khi họ đã đắc cử rồi, họ làm theo cái mục đích họ theo đuổi mà đôi khi phản bội lại những người đã đặt niềm tin vào ông thày giáo là họ.
  • Phiếu tín nhiệm và phiếu bầu cử là một bài test dân chủ chính trị Việt Nam ở giai đoạn sơ khởi.
  • Nhưng thiệt thòi là đám thày giáo phần đông đều nghèo, không có tiền để cho những chi phí vận động tranh cử. Nội tiền ký quỹ cho việc tranh cử không biết là bao nhiêu, nhiều khi họ cũng không có đủ tiền. Chi phí giao tế hoặc tiền để mua chuộc phiếu cử tri? Theo Dương Văn Ba, có 10 ứng cử viên ra tranh cử hai ghế dân biểu tại Bạc Liêu, nhưng ông và Thạch Phen là hai người yếu thế nhất. Vì họ không được sự hậu thuẫn của chính quyền Sài Gòn cũng như giới chức trong tỉnh. Họ không được sự hậu thuẫn của các quận trưởng, các cấp chỉ huy quân đội cũng như các xã ấp trưởng. Vậy bằng cách nào họ thắng cử?
  • Ai là người trách nhiệm tài trợ cho họ, dù là những số tiền tối thiểu. Theo Dương Văn Ba, ông được Võ Long Triều tài trợ cho một số tiền là 40 ngàn đồng bằng hai lạng vàng. Vợ chồng Dương Văn Ba gom góp thêm cũng được khoảng chừng 40 ngàn đồng. Các giáo sư bạn gom góp được 20 ngàn. Một bà dì bên vợ cho thêm 20 ngàn nữa. Ba má Dương Văn Ba góp thêm được 20 chục ngàn nữa. Cộng chung số tiền là 140.000, một số tiền quá ít để có thể ra tranh cử. Vậy mà Dương Văn Ba đã thắng? Tôi nghĩ rằng ngay khi thắng cử, Dương Văn Ba cũng không hiểu hết ý nghĩa của việc thắng cử này!
  • Dương Văn Ba có thêm một lợi thế ít người khác có được. Ông đã liên kết với Thạch Phen, một người Việt gốc Khờ Me, rồi gia đình Dương Văn Ba có gốc người Triều Châu và người Việt. Hai người đã lập ra một ban tranh cử chung, xin phiếu cả ba thành phần dân chúng địa phương. Cả ba yếu tố đó cộng lại khiến sau này cả Dương Văn Ba và Thạch Phen đều đắc cử dân biểu Hạ Viện.
  • Dương Văn Ba còn tiết lộ, ông được Võ Văn Kiệt ủng hộ ngầm ở bên trong dân chúng các xã. Tôi có cảm tưởng Dương Văn Ba là một Xuân tóc đỏ?

Vào Quốc hội với tư cách một dân biểu đối lập

Sau đây là nhận định tổng kết của Dương Văn Ba sau khi đắc cử ở Bạc Liêu như sau:

“Sự thắng cử của tôi ở Bạc Liêu, của Ngô Công Đức ở Trà Vinh, của Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ở Sài Gòn phải chăng gián tiếp có sự ủng hộ của phía bên kia. Đây là một cuộc chơi chính trị, phía Mỹ và phía Thiệu buộc phải đánh lá bài tự do dân chủ bề ngoài, phía bên trong mặt trận cũng tương kế, tựu kế lấy gậy đập lưng ông, còn phía các thanh niên trí thức chúng tôi lúc đó với bầu nhiệt huyết sẵn có, dựa vào biến chuyển của thời cuộc, cứ theo con đường lý tưởng mà xốc tới.”(18)

Với cái tinh thần đó, bọn họ vào Quốc Hội với mục đich chính là chống phá Thiệu và Mỹ. Tôi thiển nghĩ với sự tiết lộ này, các vị dân biểu trên chưa bao giờ là người đại diện cho nhân dân miền Nam cả. Họ đã đại diện cho một chính sách xâm lược xuất phát từ Hà Nội và đó là điều đáng tiếc nhất của thể chế dân chủ miền Nam.

Và đây cũng là bước khởi đầu cho cái choix malheureux của cuộc đời làm chính trị của họ.

Họ đã sai ngay từ đầu. Họ đã lạm dụng danh từ đối lập trong các thể chế dân chủ.

Sai lầm ấy có từ trước đó nơi các dảng phái chính trị. Các đảng phái đối lập thay vì tìm các phương tiện chính đáng hợp pháp, họ chỉ tìm những âm mưu lật đổ chính phủ.

Chữ đối lập của họ mang nội hàm đả phá hơn là xây dựng.

Tinh thần đối lập ấy mong muốn một sự lật đổ chính phủ, ngay cả thay đổi một thể chế.

Nên, đáng tiếc thay, một cách gián tiếp, qua nhóm dân biểu này Cộng sản Hà Nội đã có tiếng nói chính thức của họ tại diễn đàn Quốc hội miền Nam.

Và chính quyền miền Nam đã trả lương cho đại diện cộng sản để họ cơ hội chống phá lại miền Nam một cách hợp pháp!

Về điểm này, có bao giờ kỹ sư Võ Long Triều tự trách mình về nhận xét người và việc của ông một cách hồ đồ như thế không, khi ông nhân danh một người quốc gia chống cộng? 20 người ông vận động đưa vào Quốc Hội thì cả 20 người trở thành người của cộng sản sau này!

Vì không đủ túc số, chỉ có trên dưới 10 người cộng cả các đảng phái chính trị nên nhóm Hồ Ngọc Nhuận (Dân Tộc, ủng hộ Dương Văn Minh.) phải liên kết với nhóm dân biểu thân Ấn Quang (Khối xã hội) thành nhóm đối lập Dân Tộc Xã Hội (DTXH). Để bầu ra Trưởng Khối thì sau này mọi người đồng ý mời luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ VNQDĐ làm trưởng khối.

Dân biểu Trần Văn Tuyên vốn là một người Quốc gia chân chính, có nhiều kinh nghiệm chính trị, nhưng liệu ông có thể điều khiển được hai thành phần dân biểu: Một bên Ấn Quang, một bên là ủng hộ Dương Văn Minh mà đằng sau có sự giật giây của cộng sản?

Lại thêm một người quốc gia chân chính, một chính trị gia hàng đầu lão luyện cầm đầu một đám người mà sau 1975 ông mới biết họ là ai? Phần ông Tuyên âm thầm đi học tập cải tạo và chết trong nhà tù cải tạo! Phần các dân biểu khối Ấn Quang, nhiều người là người quốc gia như dân biểu Trần Văn Sơn, sau này họ nghĩ sao về việc hợp tác này?

Thành phần dân biểu còn lại thuộc khối đa số gần 90 dân biểu thân chính quyền. Nhóm này do Phụ tá tổng thống, dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, điều động chi tiền và mua phiếu khi cần. Sau Nguyễn Cao Thăng bị ung thư chết thì phụ tá của ông là Nguyễn Văn Ngân lên thay.

Nhóm Võ Long Triều-Hồ Ngọc Nhuận-Ngô Công Đức-Dương Văn Ba-Lý Quý Chung làm báo

Trong số 5 người được nêu tên ở đây, có thể coi ông Võ Long Triều là người đầu đàn. Đầu đàn xét về mặt tuổi tác, học vấn, thế lực chính trị và tiền bạc. Cái thế lực chính trị được nói ở đây là cơ hội của ông Võ Long Triều quen biết Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ.

Làm thế nào để có sự quen biết này?

(Phỏng vấn Võ Long Triều – Người Việt TV 2011)

Chính ông Võ Long Triều cũng không hề bao giờ tiết lộ trong hồi ký của ông. Nhưng trong giới công giáo qua Chủ nhiệm báo Xây Dựng, linh mục Nguyễn Quang Lãm kể lại thì ông Kỳ khi đó muốn tìm một nhân vật công giáo sạch, nghĩa là không dính líu gì đến chế độ cũ, phải là người miền Nam. Linh mục Lãm đã nghĩ đến ông Võ Long Triều và giới thiệu ông với tướng Kỳ. Kỹ sư Võ Long Triều đã nhắc nhở nhiều lần đến mối giao thiệp giữa ông và tướng Kỳ- một mối liên hệ chính trị mà còn có mối liên hệ bạn bè toi-moi, rất gần gũi, gặp nhau bất cứ lúc nào, có thể cãi nhau nếu cần.(19)

Riêng phần tướng Kỳ, ít nhất trong hai cuốn sách của ông, tìm mỏi mắt mới thấy một đoạn ngắn trong cuốn “Buddha’s Child” nhắc đến ông Võ Long Triều trong chương trình phát triển quận 8.(20)

Theo tôi thì chương trình phát triển quận 8 là món quà duy nhất tạo được sự tin cẩn nơi tướng Kỳ của kỹ sư Võ Long Triều. Khi Phó tổng thống Mỹ Humphrey đến Việt Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã có dịp dẫn ông Humphey đến thăm quận 8 như một bằng chứng về một chương trình mang tầm vóc một cuộc Cách mạng Xã Hội cho người nghèo.

Sự quen biết đó sau này đưa đến chỗ tướng Kỳ tin tưởng và nhờ ông Võ Long Triều giới thiệu thêm ba người khác vào nội các chính phủ. Ông Kỳ cũng dễ dãi mỗi khi ông Võ Long Triều đề nghị các công việc khác như Chương trình phát triển quận 8 cũng như việc thành lập Viện Đại Học Cần Thơ.

Ông Triều cũng là người tài trợ tiền bạc cho một số dân biểu cánh miền Nam ứng cử dân biểu vào Hạ Nghị Viện. Ông cũng là người bỏ tiền ra cho các ông Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận làm báo.

Dưới đây, thử tìm hiểu cặn kẽ mối liên hệ cũng như sự xích mích đến đổ vỡ của họ diễn ra như thế nào?

Mối liên hệ Võ Long Triều-Lý Quý Chung

Theo Võ Long Triều, đại tá Lê Quang Hiền, đổng lý văn phòng của bộ Thanh niên đã nhận Lý Quý Chung là cháu -thật sự họ không có họ hàng gì- biết viết báo xin vào làm việc. Sau khi tiếp Lý Quý Chung, ông đã nhận cho làm phụ trách về báo chí. Thấy Lý Quý Chung là người trẻ trung lanh lợi nên sau này ông Triều cử làm Giám đốc tác động tâm lý. Làm việc chưa được bao lâu thì có quân cảnh đến bắt Lý Quý Chung về tội trốn quân dịch. Lại một phen vận động liên lạc của ông Võ Long Triều để xin hoãn dịch cho Lý Quý Chung. Và để tránh cho Lý Quý Chung khỏi đi quân dịch một lần nữa, ông Triều giới thiệu ông Chung ra tranh cử vào Quốc Hội lập hiến. Lý Quý Chung đã đắc cử ở quận 8.

Tất cả là công trạng của ông Võ Long Triều!(21)

Khi đắc cử, Lý Quý Chung đã không một lời cám ơn các người phụ trách ở quận 8 đã vận động cho anh như các ông Hồ Văn Minh, quản lý chương trình.

Nổi giận, ông Võ Long Triều đã gọi Lý Quý Chung vào văn phòng mắng cho một trận.

Cứ theo như Hồi Ký của Võ Long Triều thì dưới mắt ông cỡ Dương Văn Ba cũng như Lý Quý Chung chỉ là một thứ đàn em cắc ké, bội phản, làm bậy và vô ơn bạc nghĩa. Xin trích dẫn vắn tắt một vài đoạn:

  • Hai người mạnh miệng nài nỉ kết thân là Lý Quý Chung và Dương Văn Ba lại là hai người phản bội trước tiên.
  • Nhưng đối với con người thiếu đạo đức như anh [chỉ Lý Quý Chung – NVL] mà nên dù anh có thực hiện nhiều công tác đáng khen nhờ sự hăng say, liều lĩnh và sáng kiến. Trong ‘Hồi ký không tên’ của anh, anh viết nhiều điều sai trái. Vì thế, tôi tin tưởng, giao trọng trách này cho Dân Biểu Lâm Phi Điểu, con người chín chắn, hiền từ, biết hy sinh vì bạn bè nhứt là vì đại cuộc. Anh Điểu lại có tài khéo léo, giải tỏa mọi bất đồng, hàn gắn mọi rạn nứt giữa anh em và bao che mọi sai lầm của người khác. Tôi còn nhớ có một lần các anh phải thảo luận và biểu quyết một điều khoản nào đó của Hiến Pháp mà Lý Quý Chung và Bành Ngọc Quý vì quá nông nổi phát biểu sai lầm làm tôi bất bình. Sau đó, một mình Lâm Phi Điểu tới nhà giải thích và chịu mọi sự trách móc. Cuối cùng tôi nói thôi bỏ qua đi, anh về bảo với anh em tôi đã quên việc đó rồi. Anh Điểu liền nói: “Tụi nó ngồi trong xe chờ ngoài cửa không dám vô, nhờ tôi đỡ đòn thế, khi nào thuận tiện mới vào gặp anh, bằng không thì chuồn luôn chờ khi khác.”
  • Chỗ khác, ông Triều viết: “Sự thật, Lý Quý Chung chưa bao giờ thấy được phòng họp của nội các chiến tranh ra sao mà dám khẳng định rằng: ‘Trung tá Nguyễn Ngọc Loan tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ. Các phiên họp nội các có sự hiện diện của Trung tá Loan với khẩu súng ‘ru lô’ mang kè kè bên hông.’ Sự bịa đặt khôi hài như vậy mà Lý Quý Chung dám viết, tôi không hiểu nổi.”
  • Cũng theo Võ Long Triều, lý tưởng của Lý Quý Chung là tiền bạc, địa vị. “Có lần Lý Quý Chung rủ tôi chơi hụi 300.000 đồng cùng với những người bạn của tôi như Trương Thái Tôn, Nguyễn Chánh Lý và La Thành Nghệ. Cuối cùng mới khám phá ra rằng Lý Quý Chung đã ‘giựt hụi’. Tôi ra lệnh văn phòng tôi đưa Lý Quý Chung ra tòa. Hồ Ngọc Nhuận phải đến gặp tôi: “Tôi lậy ông, xin đừng bỏ tù thằng Chung.” Sau đành tha không kiện.”

Những nhận xét của Võ Long Triều về Lý Quý Chung có phần đúng. Sau này Hồ Ngọc Nhuận cũng nêu ra một số nhận xét tương tự.

Mối liên hệ Võ Long Triều-Dương Văn Ba

Ông Triều viết trong Hồi Ký của mình: Nói về Dương Văn Ba thì cũng đáng buồn cỡ đó.

Qua lời giới thiệu của Lý Chánh Trung, Võ Long Triều đã cử Dương Văn Ba làm Đặc Ủy Viên thanh niên vùng IV chiến thuật thay thế Lâm Phi Điểu, ứng cử dân biểu Vĩnh Long.

Việc đầu tiên là ông Võ Long Triều đã nhờ Dương Văn Ba cầm tiền mà ông gửi thêm cho vài ứng cử viên dân biểu như Bành Ngọc Quý, Lâm Phi Điểu, mỗi người 30.000 ngàn. Dương Văn Ba mê cờ bạc đã thua hết số tiền trên. Trách mắng Dương Văn Ba về vụ này xong, ông Võ Long Triều lại đưa thêm 90.000 để Dương văn Ba đưa lại cho ba ứng cử viên dân biểu. Và đễ gỡ mặt cho Dương Văn Ba, ông Võ Long Triều dạy Dương Văn Ba phải nói dối như sau:

Tao bận việc ở Sài gòn nên xuống văn phòng ở miền Tây trễ, tụi bay làm gì phải mét với ảnh để ảnh lo âu rồi rủa tao một trận thê thảm, tiền của ảnh gửi đây, tao có cắt xén đồng nào đâu mà tụi bay vội vàng la hoảng như vậy.”

Cũng chính Võ Long Triều thúc đẩy Dương Văn Ba nộp đơn ứng cử dân biểu khi chỉ còn hai ngày hết hạn nộp đơn. Nhờ đó Dương Văn Ba đã đắc cử cùng với Ngô Công Đức ứng cử ở Vĩnh Bình, Hồ Văn Minh ra ở quận 8.

Nhưng sau khi vào Quốc Hội, dù thuộc nhóm dân biểu đối lập. Nhưng theo Hồ Ngọc Nhuận nói lại cho Võ Long Triều viết:

Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân tổng thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi sự thật, anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co và cuối cùng phải thú nhận là có.”

Sau khi Dương Văn Ba thất cử lần tranh cử thứ hai vào Hạ Nghị Viện, cũng theo ông Võ Long Triều,

“Ông đã buộc Ngô Công Đức phải nhận Dương Văn Ba làm việc trong tờ Tin Sáng. Mặt khác, tôi nài xin với Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, cho anh Ba được hoãn dịch hai lần. Anh tiếp tục làm báo kiếm tiền nuôi gia đình. Rồi nghề dạy nghề, Dương Văn Ba trở thành ký giả sáng giá trong tờ báo Điện Tín. Cho đến ngày tôi xuất bản nhựt báo Đại Dân Tộc, gọi Dương Văn Ba về cùng làm việc chung với nhóm anh em, Ba yêu cầu tôi phải trả lương cho anh mỗi tháng năm trăm ngàn đồng thì mới về, bằng không anh vẫn làm việc cho báo Điện Tín, thoái thân của tờ Tin Sáng. Số tiền Dương Văn Ba đòi phải trả lớn gấp năm lần hơn lương của một tổng thư ký giỏi trong làng báo thời đó. Hồ Ngọc Nhuận tức giận tột cùng, nói với Ba rằng:’ Mầy dám bỏ lời thề, phản bội anh em, nhưng anh em sẽ không bao giờ phản bội, bây giờ tao hỏi mầy có bằng lòng làm việc với anh em không? Hay là mày chỉ biết đồng tiền mà bất kể tình bạn kết nghĩa? Câu trả lời của Ba là Không!” (hết trích).(22)

Trên đây, chúng tôi vừa trích dẩn Hồi Ký Võ Long Triều viết về hai người bạn trẻ của ông là Dương Văn Ba và Lý Quý Chung. Để cho đầy đủ, xin được trích dẫn Hồi ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba.

Theo thiển ý, Dương Văn Ba chưa có cơ hội đọc hai tập Hồi Ký của kỹ sư Võ Long Triều nên Hồi Ký Những ngã rẽ hầu như không đế cập đến trường hợp Võ Long Triều phê phán ông. Nếu có đọc thì tôi tin chắc sẽ có một cuộc bút chiến long trời lở đất.

Điểm thứ nhất: Hồi ký Những ngã rẽ cho thấy Dương Văn Ba tự mô tả là người thật thà, không ham tiền, ham bạc. Trái lại là một người lương thiện.

Ông viết như sau:

Chị Năm Jacqueline, chị của bà Thiệu, một lần vào Quốc Hội, thăm tôi tại phòng Đệ nhất Phó Tổng thư kỷ Hạ nghị Viện. Chị nói: ‘Thằng Ba, sao mày quên tình chị em. Mầy chống ông Thiệu làm chi, đó là mầy không khôn. Tình chị em, nếu mày muốn gì kể cả làm Bộ Trưởng thông tin, tao và con Bảy (vợ Thiệu) đủ sức lo cho mày. Bỏ đối lập đi cái gì em cũng sẽ có.”

Tôi đã vô cùng cám ơn chị Năm Jacqueline, vì nhớ tới những ngày ở Mỹ Tho đầy kỷ niệm. Nhưng tôi đã trả lời chị, “Chị đừng buồn, em đã lỡ đi theo con đường khác với ông Thiệu, không thể quay lại được.”

Ông luôn bị ám ảnh về chuyện lương thiện. Trong phần nhận xét về các đại tá Đẩu, thiếu tá Đường, thiếu tá Lộc, những sĩ quan thân cận của tướng Dương Văn Minh, ông Dương Văn Ba đề cao ba người ấy và ‘theo gương các anh, tôi vẫn cố giữ một nếp sống và nếp nghĩ của con người lương thiện và trung thực.’(23)

Sau đây, Dương Văn Ba có thuật lại việc dược sĩ Nguyễn Cao Thăng có mời ông đến ăn cơm chiêu dụ tôi theo chính quyền. Ông Nguyễn Cao Thăng có hứa ngoài việc trợ cấp bao thư ‘lì xì’ mỗi lần bỏ phiếu ủng hộ chính quyền, phủ Tổng thống sẽ can thiệp với Tỉnh trưởng Bạc Liêu chia phân nửa số quota đường, sữa, bột mì hàng tháng cho gia đình tôi. Mỗi tháng tỉnh Bạc Liêu có quota 1.000 tấn đường cát trắng, 1.000 tấn bột mì, 1.000 thùng sữa hộp. Lãnh được phân nửa số quota đó, tôi có thể bán cho các hiệu buôn lớn của người Hoa ở chợ Bạc liêu, làm giàu thật nhanh chóng.

Dĩ nhiên, Dương Văn Ba đã từ chối không làm. Và ông kết luận:

Ông làm thiện, hưởng thiện. Bản thân tôi đã hưởng được cái quả thiện. Tôi bị chế độ này kết án tù chung thân vào cuối năm 1987. Nhưng nhiều người, kể cả một vài ông lớn của chế độ, một số báo chí đã vận động thả tôi ra trước hạn tù. Tôi đã được thả sau khi ở tù 7 năm 4 tháng. Tôi đã được hưởng quả lành.”(24)

Điều thứ hai khi nói về việc ông được hoãn dịch, ông đã nói khác hẳn những gì mà ông Võ Long Triều đã viết trong Hồi ký. Theo Dương Văn Ba, khi thất cử lần thứ hai, ông sắp sửa bị bắt đi quân dịch nên ông mò vào dinh Phó tổng thống Trần Văn Hương, xin bác Hương can thiệp cho tôi được hoãn dịch một hoặc hai năm. Ông viết:

Ông Trần Văn Hương tiếp tôi niềm nở và nói với Nguyễn Thạch Vân (học trò thân cận của ông Trần Văn Hương): ‘Thằng Ba tôi rất thương nó. Nhớ lại lúc làm Thủ tướng, ra điều trần trước Hạ Nghị Viện, bị đám dân biểu gốc Bắc, thân Nguyễn Cao Kỳ la hét, đập bàn, đập ghế, mạt sát. Lúc đó, tôi nhớ mãi chỉ có thằng Dương Văn Ba dám đăng đàn binh vực cho thầy. Bây giờ Thầy phải trả ơn cho nó. Thạch Vân, em liên lạc với Bộ trưởng bộ Quốc phòng nói thầy xin cho Dương Văn Ba được hoãn dịch 6 tháng đến một năm.’”

Anh Nguyễn Thạch Vân đã sốt sắng làm việc đó. Chỉ mấy ngày sau, tôi được Nha Động viên gởi giấy thông báo cho tôi được hoãn dịch đến hết ngày 31 tháng 12 năm 1972. Giấy hoãn dịch do Thiếu tướng Bùi Đình Đạm ký.(25)

Riêng về báo Đại Dân Tộc, tôi xin trích đăng lại Hồi Ký của Dương Văn Ba đã viết như sau:

Đầu năm 1968, tôi chính thức bước vào nghề làm báo với các bài xã luận thưởng xuyên đăng trên báo Tin Sáng. Chưa chịu dừng ở đó, tôi xin giấy phép xuất bản tuần báo Đại Dân Tộc.” [Xin ghi nhận ở đây là tuần báo chứ không phải nhật báo – NVL].

Nhưng vì không có quan hệ với dân buôn giấy nên ông đành để Ngô Công Đức lo liệu. Ông viết tiếp:

“Tuần báo là của tôi, nhưng lại do Ngô Công Đức bỏ tiền ra in, phát hành, thu lợi nhuận.

Chủ nhiệm kiêm chủ bút Dương Văn Ba ăn lương một tháng 30 ngàn đồng (lúc đó bằng 3 lạng vàng) […]

Tổng Trưởng Thông tin Ngô Khắc Tỉnh ký án tử cho Đại Dân Tộc sau 9 tháng hoạt động.”

Nhận xét: Về đoạn trích dẫn trên, cho thấy Dương Văn Ba hậm hực với Ngô Công Đức ngay từ trước 1975, vì cứ bị Ngô Công Đức hớt tay trên, ăn trọn gói.

Cũng theo Dương Văn Ba:

Đến năm 1971, do yêu cầu của kỹ sư Võ Long Triều, tôi ký giấy nhượng tên Đại Dân Tộc để anh Triều đứng tên xin phép xuất bản tờ nhật báo cũng lấy tên Đại Dân Tộc. Vào khoảng cuối năm 1971, Đại Dân Tộc tái xuất giang hồ với tư cách báo hằng ngày. Ba nhân vật chính điều hành báo này là anh Võ Long Triều, (lúc đó là dân biểu quốc hội) dân biểu Kiều Mộng Thu, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.”

Ông Dương Văn Ba đã không nhắc gì đến những chi tiết đã được ông Võ Long Triều viết một cách chi tiết cả.

Ông Võ Long Triều đã xét đoán sai về người và việc và bỏ rơi những người xem ra xứng đáng hơn những người ông đã tài trợ về khả năng và đức độ.

Tôi được biết những người sau đây đều cộng tác làm việc một cách xả thân, hết mình, ăn ở tại chỗ, bất kể nguy hiểm ở quận 8 như luật sư Đoàn Thanh Liêm, các thầy giáo như Hồ Công Hưng, Uông Đại Bằng, Nguyễn Đức Tuyên. Những người này ông dư biết họ đều có học vấn đàng hoàng, có tư cách, có lý tưởng phụng sự xã hội. Và cho đến giờ phút này, họ đều là những người quốc gia chân chính.

Vậy mà ông đã không dùng một người nào chỉ vì họ là người Bắc? Trừ Hồ Công Hưng là người Kontum. Phải chăng vấn đề Nam-Bắc là một đề tài cấm kỵ mà mọi người đều tìm cách né tránh?

Phải chăng chỉ những người thuộc phe cánh miền Nam như vừa nêu trên thì bất kể họ theo cộng sản hay không, ông đều thu nhận, ủng hộ hết mình. Trong Hồi ký của ông, tôi không hề nhận thấy một lời xác nhận nào về việc này?

Nếu chỉ vì tình bạn bị sứt mẻ thì những nhân vật nêu trên có đáng để viết trong Hồi ký cho bạn đọc hay không?

Nhưng có một chi tiết lý thú tôi phải viết ra đây để sổ toẹt những nhà yêu nước, chống Mỹ, những lực lượng thứ ba như Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận do Dương Văn Ba tiết lộ. Ông Dương Văn Ba viết như thế này:

‘Bộ phận hoạt động thành của cộng sản có tiền nhiều hơn những tài phiệt lớn ở Sài Gòn đang đi theo Mỹ-Thiệu. Tiền của cộng sản hoạt động thành đến từ nhiều nguồn tài trợ, nhất là tài trợ Quốc tế. Nó đến từ Trung Quốc, đến từ Liên Xô, đến từ những phong trào Việt Kiều yêu nước thân cộng. Chính mắt tôi đã chứng kiến hai nhà yêu nước thật sự của Sài Gòn (nghèo thấy mẹ) mà cầm xấp đô la tài trợ cho một số sinh viên hoạt động biểu tình. Không biết tôi có nên nói tên hay không.

Dương Văn Ba hài đích danh hai người cầm đô-la phát cho sinh viên biểu tình,

“Cũng cứ nói, dù các đàn anh đáng kính của tôi có giận: Thầy Lý Chánh Trung và anh Hồ Ngọc Nhuận”(26).

Ông Hồ Ngọc Nhuận hình như chưa đọc đoạn văn này!

Dương Văn Ba đã đưa ra nhận xét:

Chế độ cũ phạm nhiều sơ hở về tình báo và kinh tài so với cộng sản. Sử dụng tiền để làm rào cản trong báo chí, Thiệu và các quân sư của ông đã sa vào cái hố to. To đến sau khi thất trận, mới thấm thía, đau đòn về chiến lược cài người đánh trên mọi mặt trận của phía cộng sản.”

Viết được nhận xét trên, quả thực Dương Văn Ba có cái khí chất miền Nam trong đó. Loại người dám nói, nói huỵch tẹt chẳng kiêng nể gì, dám làm, ngay cả làm bậy. Ông có phải là loại người có lý tưởng, theo lý tưởng cộng sản không? Theo tôi được biết là không! Cuộc đời đưa đẩy, hoàn cảnh bầy ra như thế, ông trôi theo. Vì thế, ông đặt tên cho Hồi ký của ông là Những ngã rẽ! Ông khôn ngoan, nhưng vẫn không tính hết được những cái bá đạo, tàn bạo, cái bẫy sập của cộng sản.

Tưởng bám vào Võ Văn Kiệt như cái dù hộ mệnh là xong. Dễ mấy ai leo lên được chức Phó thủ tướng, rồi thủ tướng? Người ta kể cho tôi, ông và một số người khác thường tụ họp ở Thủ Đức, đánh tennis vởi ông Võ Văn Kiệt, rồi ăn nhậu với nhau.

Nhưng guồng máy ấy khi cần, họ thanh toán nhau, khai trừ nhau mà ông là nạn nhân.

Trong thời gian ông ra tòa, rồi đi tù, Phó thủ tướng Võ Văn Kiệt đã không dám có một lời can thiệp trực tiếp.

Dương Văn Ba đúng là nạn nhân của cặp Nguyễn Văn Linh-Võ Văn Kiệt. Bảo rằng ông hối lộ, tham nhũng, hủ hóa cán bộ. Tôi nghĩ có thể là có. Làm ăn trong chế độ ấy mà không biết hối lộ, có ăn có chia chác phải quấy thì chỉ có dẹp tiệm!

Nhưng cuối cùng thì họ chỉ gán ghép ông vào tội chính trị thì hết đường đỡ. Tội cấu kết, phản động thì chẳng khác một bản án tử hình. Ông bị tù hơn 7 năm trời mới được cứu gỡ ra. Kể cũng là một thời gian khá dài đấy chứ.

Mối liên hệ Võ Long Triều-Ngô Công Đức

Theo nhận xét của Dương Văn Ba: Ngô Công Đức có số mệnh làm việc gì cũng thành công!(27)Nhận xét ấy có thể là tóm tắt cả cuộc đời hoạt động của Ngô Công Đức.

Học lực ít, nhưng lanh lẹn, tháo vát, chơi với đủ giới nhất là dân giang hồ, biết soay sở, nắm thời cơ. Ngô Công Đức vốn có bà con xa gần với tổng giám mục Nguyễn Văn Bình. Tôi được biết sau 1975, vị tổng giám mục bị nhiều áp lực tứ phía mà vốn bản tính hiền lành nên cũng lao đao nhiều chiều. Buổi tối rảnh rỗi có khi Ngài ra nhà Ngô Công Đức ăn cơm, hàn huyên trong tình gia đình đã làm ông thư giãn nhiều.

Cũng nhờ mối liên hệ này mà khi Ngô Công Đức ra tờ Tin Sáng viết bài chửi bới ‘nặng ký’ chế độ Nguyễn Văn Thiệu cũng hăng lắm. Nhưng vẫn được để yên. Không một lần bị đóng cửa cho đến 1975.

Phải chăng ông Nguyễn Văn Thiệu còn nể mặt Tổng giám Mục Nguyễn Văn Bình?

Sau 1975, Trần Bạch Đằng giao cho làm tờ Tin Sáng, đến 1981 thì tan gánh, được coi là đã: hoàn thành nhiệm vụ.

Ngô Công Đức có điều kiện tài chánh, cộng uy tín cá nhân, cộng tài làm ăn tháo vát đứng ra quy tụ anh em cũ lại trong đó có Lý Quý Chung, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận và nhiều anh em khác như Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm, Nguyễn Hữu An, Nguyễn Văn Binh, Trần Ngọc Báu, Hoàng Ngọc Biên, Trương Lộc, Trần Trọng Thức, Phan Ba, Minh Đỗ, Hồ Ngọc Cứ. Và nhiều nữ cựu sinh viên luật hay Văn Khoa cũng có mặt trong tờ Tin Sáng.

Tôi vẫn nhận ra cái việc quần hào tụ họp chung quanh tờ Tin sáng là có ý nghĩa nhất. Cái ý nghĩa là trong lúc khốn quẫn, bị vây bọc và mất hết phương tiện mưu sinh. Ngô Công Đức vẫn là thứ hảo hán thu nhận mọi liên hệ anh em vào làm Tin Sáng.

Chưa có tòa báo nào như thế mà trí thức có, nhà báo có, nhà chính trị có, giáo sư có, cựu quân nhân có, tù cải tạo được thả về. Rồi vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, chị của bạn bè, cháu của bạn bè đều quây quần trong một tờ báo để người nào cũng có việc. Để không phải đạp xe xích lô, xe ôm không phải bán thuốc lá lẻ, bán vé số đầu đường, để không phải mở cà phê ‘ôm’ và nhất là không mất nhân phẩm làm vợ một tên cán bộ.

Việc làm của Ngô Công Đức sau này cũng y hệt khi Dương Văn Ba thu nhận người làm cho Cimexcol Minh Hải.

Nó có cái nét đẹp của nó trong cái hoàn cảnh cực đoan bi phẫn!

Đây cũng là hình ảnh nổi bật công việc làm báo bất đắc dĩ của mấy chị để khỏi mất nhân phẩm! Nào là các chị Đặng Thị Ánh Nguyệt (luật sư tập sự thời chế độ cũ), Huỳnh Thị Mỵ Cơ từng là vợ phó đốc sự hành chính, Lã Thị Kim Thoa (cử nhân luật), Phan Thị Kim Hoanh, Phạm Thị Minh Tánh, Hoàng Hữu Ly (cử nhân xã hội học), Phạm Thanh Vân (cử nhân luật), Huỳnh Thị Thanh Vân (cử nhân luật)(28).

Bà Huỳnh Thị Thanh Vân sau này lập gia đình với linh mục Nguyễn Ngọc Lan là một thái độ chọn lựa có nhân phẩm nhất.

Thật ra, Sài Gòn sau 1975, người ta đều sống bất đắc dĩ, làm bất đắc dĩ như thế cả.

  1. Trí Quang đang làm chính trị thì bất đắc dĩ phải trở lại chùa quy ẩn. TGM Nguyễn Văn Bình đang tu thì bất đắc dĩ ra làm chính trị.

Kẻ làm chính trị phải đi tu. Kẻ đi tu lại phải làm chính trị.

Thày giáo thì nay đi đạp cyclo. Kẻ trước đây đạp cyclo nay lên làm phường trưởng. Đại tá đi đánh giặc thì nay đi bán vé số hay vá xe đạp. Trong số gần 200 nhân viên của Tin Sáng, thật sự chỉ có độ 2, 30 chục người là có tay nghề còn tất cả đều làm bất đắc dĩ cả.

Và cả miền Nam làm những công việc bất đắc dĩ như thế! Có biết không?

Sau khi Tin Sáng ‘đứt phim’, Ngô Công Đức xoay ra buôn bán, làm chủ hãng sơn mài, đồ gốm vẫn được chính quyền mới giúp đỡ. Lại hái ra tiền chả thua gì lúc làm báo cả. Không lạ gì cả Võ Long Triều đến Dương Văn Ba trước đây khi ra báo đều phải nhờ đến một tay của Ngô Công Đức, vì ông có quan hệ đến dân buôn giấy, biết lo lót giới phát hành, biết phải quấy với nhóm Cựu chiến binh lo phát hành và cả với Trung Ương tình báo VNCH cũ. Ông cũng từng làm ăn với Mỹ, với chính quyền miền Nam cũ cũng trót lọt. Mà đi với cánh phản chiến miền Nam là hợp khẩu vị, vì Ngô Công Đức cũng như Lữ Phuong rất kỵ “rơ” với cán bộ miền Bắc. Nhiều phần do sự thúc đẩy và ảnh hưởng của Hồ Ngọc Nhuận mà Ngô Công Đức xoay trục.

Rơi vào vòng xoáy của cộng sản, tôi nói thật ông là người duy nhất không bị cái guồng máy đó nghiền nát.

Sau này là dân biểu được dịp sang Paris cùng với Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, ông có cơ hội móc nối với cộng sản và trở thành người của họ sau 1975.

Được Trần Bạch Đằng tin cẩn và giao cho làm tờ Tin Sáng bộ mới với điều kiện cứ làm báo như cũ. Do khéo xoay sở, ông đã được các linh mục gốc Bùi Chu giao lại cơ sở nhà in Nguyễn Bá Tòng với toàn bộ máy móc và một cơ sở đồ sộ 3 tầng ở đường Bùi Chu.

Ông đã thu tập được hầu hết các nhà báo cũ của các tờ Tin Sáng, Điện Tín, Đại Dân Tộc về hợp tác với Tin Sáng bộ mới. Một số đông trí thức miền Nam cũng thỉnh thoảng viết bài cho Tin Sáng như quý ông Phạm Hoàng Hộ, Trần Kim Thạch, Võ Tòng Xuân, Chu Phạm Ngọc Sơn, Nguyễn Xuân Oánh cũng như các cộng tác viên cũ như Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Châu Tâm Luân, Vũ Hạnh.

Một người có tài năng như thế xem ra trái ngược với những điều nhận xét của ông Võ Long Triều sau đây. Theo Võ Long Triều thì văn hóa của Ngô Công Đức rất kém, không có được văn bằng tú tài. Mặc dầu vậy, ông Võ Long Triều đã trao cho Ngô Công Đức một triệu rưởi để hùn làm báo Tin Sáng (báo Tin Sáng được độc giả thích đọc, nhất là mục ký tên Tư Trời biển do Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận và My Sơn Nguyễn Ngọc Thạch thay nhau viết). Nói là hùn nhưng Võ Long Triều cũng thừa biết rằng Ngô Công Đức làm gì có một triệu rưởi để hùn. Võ Long Triều chỉ đặt để Hổ Ngọc Nhuận làm Giám Đốc chính trị để kiểm soát Ngô Công Đức. Cũng theo ông Võ Long Triều thì tờ báo lời nhiều, nhiều lắm, nhưng Ngô Công Đức không hề chia một cắc lời, thậm chí không trả vốn.

Ông viết:

“Tôi có nhắc một lần, nhưng Đức làm ngơ. Tôi cũng không quan tâm, vì mục đích xuất bản báo là để tạo một vũ khí chính trị phục vụ lý tưởng chứ không phải để kiếm lời. Vả lại lợi tức của trại chăn nuôi, trường Anh Văn London School, trường Mẫu giáo Claire Joie cũng đủ cho việc chi tiêu trong gia đình.”(29)

Ở đây, ông Triều không nói rõ, lý tưởng gì, chăn nuôi gì? Theo Hồ Ngọc Nhuận thì ông Triều rất thành công trong việc nuôi heo và nuôi chim cút!(31)

Nói chung, Võ Long Triều đánh giá Ngô Công Đức là ‘tính nết quá khích và xảo quyệt’. Khi Võ Long Triều đòi 100.000 đồng để cho Hồ Ngọc Nhuận có tiền vận động ra tranh cử, Đức không đưa và chỉ đưa cho Nhuận chiếc xe La Dalat cũ kỹ để làm phương tiện đi vận động mà thôi.

Cái tính xảo quyệt của Ngô Công Đức đã có sẵn khi cùng học với Võ Long Triều, Hồ Ngọc Nhuận tại trường Saint Joseph Mỹ Tho rồi.

Vì thế, Võ Long Triều biết được bản chất của Ngô Công Đức nên xa dần lẩn tránh anh ta một cách nhẹ nhàng. Mọi giao dịch ít khi trực tiếp mà chỉ qua trung gian Hồ Ngọc Nhuận mà thôi.

Xem tiếp phần 3

(15) Theo Hồi Ký Võ Long Triều, ông đã cài đặt Lý Quý Chung về quận 8, để ứng cử vào Quốc Hội Lập Hiến, mặc dầu Lý Quý Chung không dính dáng gì đến sinh hoạt của chương trình này. Đây cũng là một việc làm tắc trách của ông Võ Long Triều, lạm dụng các anh em làm việc ở quận 8, vận động cho Lý Quý Chung. Sau đó, Lý Quý Chung đã không một lần bầy tỏ dù là một lời cám ơn với các anh em trong chương trình xây dựng quận 8. Sau này đến lượt bác sĩ Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ra ứng cử các quận 6 và quận 8 thì đều đắc cử cả.
(16) Hồ Ngọc Nhuận, Hồi Ký Đời, đã sửa chữa đăng trên diển đàn Forum, Chương 15-16
(17) Dương Văn Ba, Những ngã rẽ chính trị, Chương 5 . Làm chính trị-Vào Quốc Hội
(18) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 5
(19) Có thể tin cẩn vào lời nói của linh mục Nguyễn Quang Lãm, vì sau này cũng chính vị linh mục này giới thiệu đại tá Lê Quang Hiền làm đổng lý văn phòng cho Tổng trưởng Thanh niên võ Long Triều. Cũng chính đai tá Hiền giới thiệu Lý Quý Chung vào làm việc trong Bộ. Tất cả những chi tiết này được ông Triều viết lại trong Hồi Ký Võ Long Triều, bài 24: Hoạt động trong Nội các.
(20) Nguyễn Cao Kỳ, Buddha’s child, trang 127-138
(21) Hồi ký Võ Long Triều, Hoạt động trong nội các
(22) Tất cả phần Dương Văn Ba, Lý Quý Chung được trích dẫn trong Hồi ký Võ Long Triều, kỳ 26, 19-1-2007.
(23) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 12, Ngô Công Đức trở về Sài Gòn
(24) Dương Van Ba, Ibid., Chương 5, Làm chính trị- Vào Quốc Hội
(25) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm Báo Sài Gòn, phần 2
(26) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm báo Sài Gòn, Phần 2
(27) Dương Văn Ba, Ibid., Chương 4, Làm báo Sài Gòn, Phần 2
(28) Dương Văn Ba, Ibid.,Chương 3, Làm báo trong chế độ mới
(29) Hồi ký Võ Long Triều, bài 27 


 

Phú Yên bắt giữ 2 vợ chồng với cáo buộc ‘lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo’

Ba’o Nguoi-Viet

October 3, 2024

PHÚ YÊN, Việt Nam (NV) – Bị can Nguyễn Văn Trong, 54 tuổi, và vợ, bà Lê Thị Hòa, ở huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên, vừa bị bắt, khởi tố với cáo buộc “lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, tố giác để làm đơn gửi nhiều cấp, nhiều ngành.”

Theo báo Thanh Niên hôm 3 Tháng Mười, hai vợ chồng bị can Trong bị Công An Huyện Sơn Hòa quy tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước…”

Bị can Lê Thị Hòa (thứ tư, trái qua) và chồng, ông Nguyễn Văn Trong (thứ nhì, phải qua), lúc bị bắt. (Hình: Minh Thanh/Thanh Niên)

Hồ sơ của công an cho biết, vợ chồng bị can Trong nhận quyền sở hữu một khu đất rộng 240 mét vuông tại thị trấn Củng Sơn, huyện Sơn Hòa, nhưng tòa án địa phương không công nhận điều này.

Do vậy, từ năm 2022 đến nay, vợ chồng bị can Trong làm 104 đơn tố cáo, đơn khiếu nại, đơn tố giác tội phạm, đơn đề nghị, đơn phản ánh, gửi đến nhiều cơ quan từ cấp huyện đến trung ương tố cáo, khiếu nại, tố giác các cán bộ, lãnh đạo địa phương.

Bản tin cho rằng, vợ chồng bị can Trong không chấp nhận rằng các đơn tố cáo, khiếu nại của họ “là sai sự thật” theo giải thích của nhà chức trách.

Vụ bắt giữ hai bị can diễn ra sau khi họ bị cho là “tiếp tục lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo, tố giác trong thời gian dài.”

Trong một vụ tương tự xảy ra hồi đầu Tháng Tám, theo tờ Tuổi Trẻ, bị can Nguyễn Đình Trung, 66 tuổi, ở quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, bị bắt, khởi tố cũng với cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước…”

Vụ kiện của vợ chồng bị can Nguyễn Văn Trong liên quan một khu đất tại huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. (Hình: Phú Yên)

Công An Thành Phố Đà Nẵng quy chụp cho bị can Trung “soạn thảo, lan truyền nhiều đơn tố cáo, tố giác sai sự thật, bịa đặt gửi nhiều cơ quan tổ chức từ trung ương đến địa phương.”

Ngoài ra, ông này còn bị khép cho hành vi “chia sẻ thông tin chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội.”

Các báo khác tại Việt Nam cũng đưa về vụ bắt giữ ông Trung nhưng không cho biết chi tiết về các đơn tố cáo của bị can này nhắm vào giới chức hoặc cơ quan nào.

Trước đây, cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước…” chủ yếu nhắm vào giới bất đồng, xã hội dân sự.

Gần đây, tội danh này được khép cho những người trung niên, cao niên khiếu kiện đất đai ở các địa phương. (N.H.K) 


 

Israel bắt đầu tấn công trên bộ tại Li Băng

Ba’o Dat Viet

October 1, 2024

Ngày 1/10, quân đội Israel chính thức khởi động chiến dịch trên bộ tại  Li Băng, tập trung vào các mục tiêu khủng bố của Hezbollah và cơ sở hạ tầng ở miền nam Li Băng. Theo thông tin từ NBC News, Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) đã tiến hành các cuộc đột kích dựa trên thông tin tình  báo chính xác, nhằm bảo vệ người dân Israel sống dọc biên giới phía bắc, khu vực thường xuyên bị đe dọa bởi Hezbollah.

Trước đó, khu vực biên giới giữa Israel và Li Băng đã chứng kiến nhiều vụ pháo kích nặng nề, đặc biệt tại ngôi làng Wazzani. Đồng thời, quân đội Li Băng đã rút lui khỏi các vị trí gần biên giới, chuyển quân lên phía bắc khoảng 5 km. Israel tuyên bố vùng biên giới phía bắc nước này là “khu vực quân sự khép kín”, cấm người dân đi vào, đồng thời kêu gọi giữ bí mật về thông tin di chuyển của binh sĩ để đảm bảo an toàn cho chiến dịch.

Trong khi đó, tại thủ đô Beirut của Li Băng, quân đội Israel đã tiến hành ít nhất 6 cuộc không kích vào các khu vực phía nam, nơi được coi là thành trì của Hezbollah. Quân đội Israel đã kêu gọi người dân sống ở khu vực Dahiyeh sơ tán trước khi tiến hành các cuộc tấn công, nhằm tránh thiệt hại lớn về người.

Theo nguồn tin từ NBC News, chính phủ Israel đã thông báo với Mỹ về kế hoạch đổ quân vào Li Băng, nhưng cam kết sẽ giới hạn về quy mô và thời gian của chiến dịch. Tuy nhiên, một số quan chức Mỹ đã rò rỉ thông tin này trước khi chiến dịch bắt đầu, gây ra sự bất bình trong nội các an ninh Israel.

Về phía Mỹ, Washington vẫn đang theo dõi sát sao tình hình và chưa phát hiện bất kỳ động thái di chuyển vũ khí nào từ Iran, điều có thể báo hiệu một phản ứng từ Tehran. Tuy nhiên, Iran đã cho thấy sự sẵn sàng hành động nhanh chóng nếu cần thiết, mặc dù nước này cũng ra tín hiệu rằng họ không muốn cuộc xung đột mở rộng thành một cuộc chiến tranh quy mô lớn hơn.