Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Đó là sơ Maria Nguyễn Thị Kim Hoa, người đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Y khoa với đề tài “Nghiên cứu biến đổi gen trong chẩn đoán và điều trị bệnh bạch cầu cấp trẻ em tại Bệnh viện Trung ương Huế”.

Mình đã đăng bài về sơ hồi năm ngoái. Là một Nữ Tu Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, sơ Kim Hoa đồng thời là Phó Trưởng khoa Ung bướu – Huyết học – Ghép tủy Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế.

Sơ Kim Hoa được gọi là “Cô tiên của các bệnh nhi ung thư” bởi nhiều em nhỏ đã được sơ cùng các Y Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế cứu chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo này. Là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật ghép tế bào gốc tự thân (GTBGTT), sơ đã miệt mài nghiên cứu, ứng dụng phương pháp ghép tủy để giành giật sự sống lại cho các em.

Sơ Kim Hoa từng trực tiếp chủ trì những ca mổ ghép tủy cho nhiều cháu bé. Không chỉ vậy, với kinh phí mỗi ca mổ lên tới hàng trăm triệu đồng, quá tầm với những gia đình lao động nghèo miền Trung, sơ còn giúp vận động, tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ nhiều nhà hảo tâm để giúp các em có chi phí chữa chạy. Không ít gia đình bệnh nhi đã coi sơ như Ân nhân của họ.

Là dân chuyên Toán tại Trường THPT chuyên Quốc học Huế, sơ Kim Hoa có ý định đi tu để phụng sự Chúa từ khi còn trẻ; mà ngành Y khoa thì rất hợp với tu sĩ nên sơ đã đầu tư thời gian cho việc học các môn “khối B” để thi vào Đại học Y dược Huế. Trở thành Bác sĩ, sơ được Bệnh viện cử đi đào tạo tại Mỹ, Nhật Bản, Singapore. Nhờ ơn Chúa và nhờ quá trình phấn đấu học hỏi không ngừng, sơ trở thành Tiến sĩ Nhi khoa đầu tiên của Bệnh viện Trung ương Huế.

Nói về sơ Kim Hoa, một gia đình bệnh nhi cho biết: “Cô Hoa là nữ bác sĩ tuyệt vời khó có từ nào diễn tả. Cô ấy khác rất nhiều những người mà vợ chồng em từng gặp. Ở cô Hoa mình cảm nhận cô ấy có một sự ấm áp, nhân từ, thân thiện rất khó tả. Không chỉ con của mình mà nhiều bé khác đang điều trị ở đây đều xem cô ấy như một người mẹ thứ hai, một vị thiên thần mang tình yêu thương đến cho con người, cho bọn trẻ.

    Nguồn: Chuoc Dang/Bao Nguyen Quang

Tự hào là con Thiên Chúa


 

Ông An Giang tông chó rồi giết luôn chủ chó

Ba’o Nguoi-Viet

June 19, 2025

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Nghi can Chau Linh E, 31 tuổi, ở thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang, bị bắt với cáo buộc chạy xe gắn máy tông phải chó nhà hàng xóm rồi dùng búa đánh bà này thiệt mạng.

Theo báo VNExpress hôm 19 Tháng Sáu, vào ba hôm trước, nghi can Linh E chạy xe gắn máy về đến gần nhà thì tông một con chó của hàng xóm, bà Nèang Ron, 50 tuổi. Bà Ron thấy vậy, ra đường chửi bới nam nghi can.

Nghi can Chau Linh E (trái) tại đồn công an. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Sau một hồi cự cãi qua lại, nghi can Linh E bực tức lấy một cây búa chẻ củi trong cốp xe đuổi chém bà hàng xóm.

Lúc đó, ông Chau Ao, cha bà Ron, chạy ra ngăn cản cũng bị nam nghi can cầm búa tấn công. Bà Ron thiệt mạng tại chỗ, ông Ao được đưa đi cấp cứu kịp thời nên giữ được mạng sống.

Nam nghi can bị công an bắt giữ gần hiện trường.

Trong một vụ án mạng khác liên quan đến việc nuôi chó, vào đêm 8 Tháng Sáu, nghi can Nguyễn Thị Cúc, 47 tuổi, ở tỉnh Vĩnh Long, sang nhà kế bên phàn nàn với bà hàng xóm 65 tuổi về chuyện con gái bà này thường xuyên dẫn chó đái ị trước cửa nhà mình, gây hôi thối.

Khi nghi can Cúc vừa quay về nhà, mẹ con bà hàng xóm kéo sang nói chuyện phải quấy, dẫn đến xô xát.

Bà cao niên 65 tuổi nắm tóc nghi can Cúc, đè xuống đất. Nữ nghi can sau đó dùng tay đánh vào đầu bà này đến khi nạn nhân bất tỉnh. Bà cao niên chết trên đường đi cấp cứu.

Hiện trường vụ án mạng xảy ra tại thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Đáng lưu ý, hầu hết ý kiến độc giả bên dưới bản tin về sự việc trên báo VNExpress đều tỏ ý bênh vực nghi can Nguyễn Thị Cúc.

Độc giả “Trancongthai1939” cho biết: “Chủ chó có lỗi thả chó phóng uế, đã không nhận lỗi lại còn sang đánh người hàng xóm tố cáo. Theo tôi, việc người hàng xóm bị đánh đau, oan ức và đánh trả là tự vệ chính đáng, không cố ý giết người.”

Độc giả “Bachminhtrieu45” nêu ý kiến: “Người ta đem chó qua cửa nhà mình để cho chó đi vệ sinh. Nếu là mình thì mọi người sẽ xử lý ra sao? Chủ nhà qua nhắc nhở là quá chuẩn mực rồi, không biết điều thì thôi còn kéo đến nhà người ra tay trước. Theo tôi thì nghi can phòng vệ chính đáng và vô tình gây chết người.” (N.H.K) [qd]


 

50 năm kết thúc chiến tranh: Cuộc tranh luận chưa dứt giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh

BBC News Tieng Viet

  • Tác giả,
  • Tiến sĩ Kevin D. Phạm (viết); Bùi Văn Phú (dịch)
  • Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Amsterdam, Hà Lan
  • 18 tháng 6 2025

Chủ điểm của bài viết này là tìm hiểu về các hệ tư tưởng chính trị tại Việt Nam từ đầu Thế kỷ XX cho đến cuộc cách mạng vào giữa Thế kỷ XX, qua đó cho chúng ta thấy hai ví dụ về phản ứng của người Việt đối với chủ nghĩa thực dân Pháp (1858-1954).

Tôi cho rằng các lý thuyết gia người Việt như Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) và Hồ Chí Minh đã áp dụng truyền thống Nho giáo cùng với các hệ tư tưởng phương Tây để đưa ra tầm nhìn khác nhau về việc làm sao đưa dân tộc thoát khỏi ách thực dân. Các cuộc tranh luận của họ vào đầu thế kỷ XX nay vẫn còn mang tính thời sự đối với tranh luận về các hệ tư tưởng hiện đại.

Trong nghiên cứu gần đây về những chủ trương thoát thực dân của người Việt, tôi đã giới thiệu những tư tưởng chính trị Việt Nam vào lĩnh vực học thuật trong lý thuyết chính trị và đặt ra những câu hỏi như: Cuộc sống tốt đẹp là gì? Nên đặt ưu tiên cho những giá trị nào? Ai là thành phần lãnh đạo? Thế nào là một chính phủ tốt?

Ngoài việc đưa ra những đáp án cho những luận đề kinh điển nêu trên về “lý thuyết chính trị”, các nhà tư tưởng người Việt thời kỳ thuộc địa đã tìm câu trả lời cho những vấn đề khác như: Người châu Âu đã cai trị chúng ta như thế nào? Chủ nghĩa thực dân châu Âu có phải là quy luật tự nhiên, kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, như những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội thường nói không? Hay đó là hệ quả của chủ nghĩa tư bản như Lenin vẫn nói? Chúng ta nên làm gì với các giá trị truyền thống của mình trước sự du nhập những ý tưởng mới từ châu Âu? Khi kẻ thực dân hành hạ chúng ta vì không cùng chủng tộc, làm nhục hoặc bóc lột chúng ta, chúng ta nên phản ứng như thế nào? Làm thế nào để tạo nên sức mạnh và đoàn kết giữa chúng ta để chống lại chủ nghĩa thực dân hay làm cách mạng? Nói chính xác thì kháng chiến và cách mạng sẽ được tiến hành như thế nào? Mục tiêu là gì và phương pháp thực hiện nó ra sao? Nói cách khác, viễn cảnh tốt nhất để thoát khỏi nô lệ thực dân là gì?

Thành phần trí thức và giới hoạt động người Việt quan tâm đến những vấn đề nêu trên vốn có xuất thân từ truyền thống Nho giáo, một triết lý xã hội do Khổng Tử khởi xướng. Những người theo tư tưởng Không Tử tin rằng điều đáng giá nhất mà bất kỳ ai cũng có thể làm trong quãng đời của họ là rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, hay “đức hạnh”, để trở nên quan tâm hơn tới tha nhân. Họ tin rằng một người trở nên có đức hạnh hơn thì có thể thúc đẩy sự hòa hợp trong xã hội và tạo ảnh hưởng qua tấm gương tốt của mình (thay vì sử dụng vũ lực hoặc sự đe dọa).

 Tuy nhiên, mỗi lý thuyết gia trong số này đều có cách diễn giải riêng về Nho giáo, và trước làn sóng du nhập của các tư tưởng chính trị-xã hội từ phương Tây, họ có những ý tưởng khác nhau trong cách tổng hợp hay tìm thỏa hiệp giữa truyền thống Nho giáo với các hệ tư tưởng chính trị mới đến từ “phương Tây”, như chủ nghĩa tự do (một hệ tư tưởng chính trị nhấn mạnh đến quyền và tự do cá nhân), dân chủ, cũng như chủ nghĩa Mác. Họ đối chiếu giữa các truyền thống tri thức của nước ngoài để tìm ra những ý tưởng phù hợp với họ. Có rất nhiều nhà tư tưởng Việt đã làm điều này và chúng ta sẽ tìm hiểu về hai người trong số họ.

Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Đảng Xã hội Pháp ở Tours vào năm 1920

Vào một buổi tối mùa đông năm 1919, tại căn hộ ở số 6 Villa des Gobelins thuộc quận 13 Paris, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng Phan Châu Trinh đã có một cuộc tranh luận gay gắt với một học trò của mình – một thanh niên vô danh trạc tuổi con trai của ông. Người thanh niên trẻ này đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi lập luận rằng thực dân Pháp đã làm nhục người Việt Nam trong hơn sáu thập kỷ vì thế đã đến lúc người Việt phải hành động trực tiếp bằng bạo lực. Nhưng ông Phan kêu gọi thận trọng:

“Anh muốn hai mươi triệu đồng bào ta phải làm gì khi trong tay không có vũ khí để chống lại vũ khí khủng khiếp của người Âu? Tại sao chúng ta lại tự sát vô ích để chẳng đi đến một kết quả nào cả?… Phải chăng tốt hơn là chúng ta đòi hỏi một cách mềm mỏng nhưng rất kiên quyết và với lòng kiên nhẫn, nhất là những quyền mà phẩm cách con người cho phép chúng ta đòi hỏi.”

Chàng trai trẻ trả lời:

“Dân An Nam đã chờ đợi thay đổi từ sáu mươi năm nay nhưng chính phủ [thực dân Pháp] không làm được gì đáng kể cho họ thỏa mãn. Nếu trong dân chúng có kẻ nào lên tiếng bày tỏ với nhà đương cục những yêu cầu và nỗi thống khổ của họ và để kêu xin những phương thuốc chống đỡ nỗi khổ đau họ phải gánh chịu, thì người ta trả lời họ bằng nhà tù, bằng lưu đày và tử hình. Nếu bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ để cải tiến tình trạng hiện nay thì bác sẽ phải đợi đến muôn đời.”

Thế giới về sau đã biết đến chàng trai trẻ tuổi này với cái tên Hồ Chí Minh. Trong căn phòng tối hôm đó có một mật vụ ngầm đã ghi âm cuộc đối thoại giữa hai người. Người này được lệnh chính quyền Pháp theo dõi Hồ Chí Minh vì bởi kể từ mùa hè năm ấy, ông đã gây nên cho họ những nghi ngờ.

Khi đó, ông Hồ đã gửi một bản kiến nghị mang vẻ chính thức đến các đại biểu tại Hội nghị Hòa bình Paris ở Versailles. Bản kiến nghị không yêu cầu độc lập, thay vào đó, nó chứa đựng các yêu cầu công nhận các quyền tự do căn bản cho người Việt ngay cả khi vẫn còn dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Ông Hồ đã ký thay mặt cho Nhóm những người Việt Nam yêu nước mà ông và người thầy của ông, Phan Châu Trinh, sau đó nhận ra rằng các thỉnh cầu này đã không được quan tâm.

Qua những trích dẫn, cả Hồ Chí Minh và Phan Châu Trinh dường như đã thể hiện một quan điểm quen thuộc được công nhận, đó là về phẩm giá của con người: phẩm giá là thứ thừa hưởng ở mỗi con người riêng lẻ, nó là sự biện minh cho các quyền, và nó đòi hỏi sự công nhận của xã hội. Phan Châu Trinh nghĩ rằng người Việt Nam nên đòi từ người Pháp “những quyền mà phẩm giá con người cho phép chúng ta được có.” Hồ Chí Minh có quan điểm ngược lại, với lập luận rằng người Việt Nam phải buộc người Pháp công nhận phẩm giá của người Việt Nam.

Nhưng rồi cả hai bắt đầu nhận ra những hạn chế của quan điểm qui ước về phẩm giá. Biết rằng phẩm giá vốn có ở mỗi cá nhân không làm dịu đi nỗi đau khi chứng kiến sự phủ nhận phẩm giá của dân mình. Người Việt phải chờ bao lâu và phải “đòi hỏi” bao nhiêu lần thì thực dân Pháp mới chịu công nhận phẩm giá và quyền của họ? Nếu người Pháp không bao giờ làm vậy thì sao? Và nếu không có thực thể nào mạnh hơn Pháp để trừng phạt người Pháp hoặc buộc họ phải công nhận phẩm giá của người Việt Nam thì sao? Vậy phải làm gì? Câu trả lời hiển nhiên là kháng chiến và làm cách mạng.

Nhưng như đã đề cập ở trên, điều khó xác định hơn nhiều chính là hình thức cụ thể mà kháng chiến và cách mạng nên diễn ra như thế nào. Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có tầm nhìn khác nhau về kháng chiến và cách mạng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam và có bài phát biểu về “Đạo đức và luân lý Đông Tây” ở Sài Gòn. Trong bài phát biểu, ông lập luận rằng Việt Nam bị Pháp đô hộ là vì người Việt yếu kém, xuất phát từ việc thiếu đạo đức Nho giáo đích thực. Sự yếu kém của người Việt là do sự suy đồi của vua quan Việt khi họ bóp méo tư tưởng Nho giáo để biện minh cho sự cai trị áp bức của họ. Chính điều đó khiến dân tộc bị che mắt để không hiểu đúng về đạo đức và luân lý Nho giáo đích thực. Điều này tạo ra sự yếu kém ở người Việt nên dễ bị khuất phục trước ngoại bang.

Phan Châu Trinh đã từng sống mười ba năm ở Pháp và ông nhận thấy người châu Âu phát triển hơn về mặt đạo đức xã hội. Ông lập luận rằng người Âu biết cư xử tử tế với đồng bào của họ vì “người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ.” Ngược lại, “lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?”

Tóm lại, ông cho rằng người châu Âu có bản sắc “Nho giáo” hơn người Việt và điều này là do người châu Âu có truyền thống phản ứng lại chế độ quân chủ chuyên chế của họ bằng cách thúc đẩy “tự do” (ý ông là quyền của con người) và “dân chủ” (ý ông là “chính quyền theo pháp luật”).

Ông lập luận rằng nếu người Việt muốn tự cường và xây dựng phẩm giá dân tộc, họ nên từ bỏ truyền thống quân chủ của mình và thay vào đó áp dụng chủ nghĩa tự do và dân chủ từ châu Âu như một “phương thuốc”. Làm như vậy, ông lập luận, sẽ cải thiện đạo đức và luân lý của người Việt, từ đó cho phép tư tưởng Khổng Mạnh được phát huy trọn vẹn ở Việt Nam:

“Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về… Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.”

Thông thường, những lý thuyết gia chính trị coi chủ nghĩa tự do của “văn minh châu Âu” là một sự đối lập với “Nho giáo.” Vậy làm sao Phan Châu Trinh có thể đưa ra lập luận này? Hóa ra là vì ông gạt bỏ sự tập trung của chủ nghĩa tự do vào quyền và tự do cá nhân, và tập trung diễn giải nó như một hệ tư tưởng đề cao quyền và tự do của người dân. Thông thường chúng ta có thể cho rằng việc hiểu sai các truyền thống ngoại lai là điều không tốt, nhưng Phan Châu Trinh cho thấy rằng việc diễn giải một cách tích cực – dù có phần lý tưởng hóa – các tư tưởng ngoại lai có thể là một phương thức sáng tạo như một “phương thuốc” làm sống lại các truyền thống đang tàn lụi của chính mình.

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang người học trò trẻ tuổi của Phan Chu Trinh, người sau này được biết đến với tên gọi Hồ Chí Minh.

Hãy trở lại với buổi tối năm 1919 ấy. Hồ Chí Minh, thất vọng với Phan Châu Trinh, lang thang qua những con phố của Paris, đến tòa soạn các báo để tìm cách phổ biến các yêu sách của mình, nhưng chẳng ai quan tâm, ngoại trừ những người theo Đảng Xã hội Pháp. Với sự cảm thông, họ đã mời ông đến các cuộc họp của họ.

Lúc bấy giờ, những đảng viên Xã hội Pháp đang theo dõi sát những diễn biến của cuộc cách mạng Nga, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đang chuyển từ lý thuyết sang thực tiễn. Họ tranh luận xem liệu nước Pháp có nên theo hướng cải cách dần dần (evolution) hay đi theo người Nga, với một cuộc cách mạng hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Hồ Chí Minh là sự áp bức đối với các dân tộc đang bị thực dân cai trị. Tại các cuộc họp này, ông nêu vấn đề là nếu quan tâm đến việc giải phóng người bị áp bức, tại sao không ai nói về chủ nghĩa thực dân?

Sau đó, trong các buổi họp này, có một ai đó đã trao cho Hồ Chí Minh một bản sao của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin. Mặc dù khi đó Hồ Chí Minh đã quen với những ý tưởng cộng sản, nhưng việc đọc Lenin là một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của ông. Đối với Hồ Chí Minh, Lenin đã đưa ra những lý luận thuyết phục nhất về vấn đề thực dân áp bức cũng như giải pháp cho những gì cần phải làm.

Hồ Chí Minh nổi tiếng là người đã tham gia vào việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào tháng 12 năm 1920. Ông bắt đầu viết báo đăng trên các tạp chí, đưa ra lập luận rằng người Việt phải tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lén đưa các ấn phẩm này về Việt Nam. Đó là cách người ở trong nước đã được giới thiệu đến chủ nghĩa Mác.

Vào một ngày trong năm 1922, Hồ Chí Minh nhận được lá thư mang tính nhượng bộ của Phan Châu Trinh.

“…Anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan [Văn Trường] là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu.

“Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này… Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [Hoàng Xuân Hãn giải thích là ‘ngựa non háu đá’],…

“…Lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hy vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự… Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công…”

Sau đó Hồ Chí Minh rời Pháp sang Nga và Trung Quốc và rèn luyện trong nhiều năm để trở thành một nhà cách mạng trước khi trở về nước vào năm 1941 để lãnh đạo phong trào giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, ông đọc Bản tuyên ngôn Độc lập và chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng người Pháp không nhượng bộ. Họ vẫn cố gắng tìm cách quay lại chiếm đóng Việt Nam, đẫn đến cuộc kháng chiến của người Việt và khơi mào cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Người Pháp cuối cùng thua ở Điện Biên Phủ năm 1954 và một năm sau thì người Mỹ vào Việt Nam.

Lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Hồ Chí Minh đã phát triển một lý thuyết cách mạng, theo kiểu tinh thần gia trưởng vì ông tin rằng Đảng Cộng sản tiền phong nên hành động như bậc “cha mẹ” của dân vì ông coi nhân dân như những đứa trẻ chưa phát triển cần được hướng dẫn về đạo đức và chính trị. Ông cho rằng lãnh đạo của Đảng phải là những “cha mẹ” khôn ngoan, nhân từ của các con.

Để trở thành “cha mẹ” tốt, Hồ Chí Minh lập luận rằng các lãnh đạo của Đảng phải trau dồi đạo đức cách mạng cho chính bản thân qua việc thường xuyên “phê và tự phê.” Chỉ khi đó họ mới có thể dẫn dắt quần chúng một cách hiệu quả trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, song với đó, ông cũng diễn giải lý thuyết cách mạng của mình là mang tính dân chủ. Ông nhấn mạnh rằng chính quyền là “đầy tớ” của dân và dân là “chủ của đất nước.” Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tập thể nhân dân vừa là người chủ của đất nước vừa là trẻ thơ cần có được dìu dắt về đạo đức.

Trung tâm của quan điểm này là quan niệm của Khổng giáo về tự tu dưỡng. Hồ Chí Minh tin rằng lãnh đạo phải thấm nhuần đức tính cách mạng. “Muốn làm cách mạng, trước hết phải cải tạo tâm hồn. Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải cải tạo bản thân.” Đối với ông, đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là quá trình liên tục gắn kết với nhau – một quan điểm mà ông tiếp thu từ án thư Đại học của Khổng giáo, một tác phẩm đưa ra lập luận rằng bằng cách thay đổi bản thân, người ta tự động thay đổi thế giới: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”

Nếu như Phan Châu Trinh kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa tự do, thì Hồ Chí Minh lại kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Phan Châu Trinh, chủ nghĩa tự do nên được sử dụng để đạt được những điều tốt hơn của Nho giáo. Ngược lại, đối với ông Hồ, Nho giáo nên được sử dụng để bồi dưỡng đạo đức cách mạng để tiến tới chủ nghĩa cộng sản:

“…Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lenin!”

Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức Nho giáo là tốt, nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp đã ngăn cản người Việt thực hành đạo đức Nho giáo bằng cách áp bức họ qua bóc lột, rượu chè và thuốc phiện. Do đó, ông đã thúc giục lãnh đạo Đảng:

“Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.”

Cần lưu ý, ở đây, “nhân dân” tiếp tục được xem như những “đứa trẻ” cần được giáo dục lại. Và cũng cần lưu ý bốn đức tính cốt lõi này (cần, kiệm, liêm, chính) có nguồn gốc từ đạo Khổng như thế nào. Đây là những gì ông gọi là “đạo đức cách mạng.”

Như chúng ta biết, Hồ Chí Minh và tầm nhìn của ông đã tiếp tục dẫn đường cho những người cộng sản Việt Nam vượt qua cuộc chiến tranh chống Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), vượt qua cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1955-1975). Hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay được gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong khi đó, tư tưởng của Phan Châu Trinh dù đã từng truyền cảm hứng cho một số người nhưng lại rồi bị rơi vào quên lãng sau khi ông qua đời năm 1926. Tuy vậy, những nét chính về chủ nghĩa cộng hòa của ông đã xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Và ngày nay đang có sự hồi sinh tiềm năng và quan tâm đến tư tưởng của Phan Châu Trinh cũng như ông vẫn rất được kính trọng và ca ngợi ở xã hội Việt Nam đương đại.

Play video, “Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?”, Thời lượng 12,20

12:20

Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Trong căn hộ đó tại số 6 Villa des Gobelins vào buổi tối mùa đông năm 1919, cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có vẻ quen thuộc với nhiều người trong chúng ta. Để đáp lại bất công, bóc lột, thống trị và sự phân biệt chủng tộc, chàng thanh niên tỏ ra mất kiên nhẫn và thúc giục hành động ngay trong khi người đàn ông lớn tuổi thì thận trọng và khuyên nhủ thực hiện những thay đổi chậm rãi và bền vững.

Nhưng chính trong căn hộ ấy, những hạt mầm đã được gieo xuống cho các cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Trực giác con người cho thấy nếu những ai có lợi thế về quyền lực mà không nhận ra phẩm giá của những người ở vị thế yếu kém hơn và không đưa họ vào các cuộc thảo luận về lợi ích chung, thì những người yếu thế ấy sẽ tìm cách xây dựng phẩm giá của họ theo những cách khác – dù là bạo lực hoặc phi bạo lực, dù là phá hoại hay kiến tạo.

Vài tháng trước, tôi đã thăm Việt Nam, một đất nước dường như đang khởi sắc. Tôi đã đến viếng mộ Phan Châu Trinh và lăng Hồ Chí Minh và suy ngẫm về những tầm nhìn khác nhau của họ. Rõ ràng là cả hai đều được kính trọng ở Việt Nam, nhưng các bài phát biểu của lãnh đạo Việt Nam hiện nay cho thấy rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chính thức chiếm ưu thế so với tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Dù vậy, tôi vẫn tự hỏi: Liệu đề xuất của Phan Châu Trinh về việc kết hợp các tư tưởng phương Tây về chủ nghĩa tự do và dân chủ với Nho giáo có còn phù hợp ở Việt Nam ngày nay không? Những lập luận do Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh đưa ra có còn hữu ích cho những ai đang quan tâm đến các câu hỏi đương đại như: Chính quyền Việt Nam hiện đang – hoặc nên – dựa trên cơ sở tư tưởng nào để xây dựng tính chính danh? Những tư tưởng nào định hướng (hoặc nên định hướng) cho những hoạt động của thanh niên? Về kiểm duyệt và giới hạn của tự do ngôn luận về chính trị? Và về bản sắc của cộng đồng người Việt hải ngoại (nơi rất nhiều người Việt như tôi lớn lên với cả tư tưởng “tự do” và đạo lý Nho giáo truyền thống)?

Hay, phải chăng, ngày nay, Việt Nam cần một hệ tư tưởng hoàn toàn khác? Những câu hỏi như vậy vẫn còn để ngỏ.

Tác giả Kevin D. Phạm là phó giáo sư/tiến sĩ về lý thuyết chính trị tại Đại học Amsterdam, chuyên về tư tưởng chính trị thế kỷ XIX và XX, với chú trọng vào dân chủ, tự do và cách mạng qua các nền văn hóa. Tác phẩm của ông, The Architects of Dignity: Vietnamese Visions of Decolonization – Những kiến trúc sư của phẩm giá: Những viễn kiến của người Việt về giải thoát khỏi ách thực dân (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2024), giới thiệu các nhà tư tưởng chính trị Việt, tiếp cận với những tranh luận về lý thuyết chính trị, chú trọng đến cách họ thách thức các quan niệm của phương Tây về phi thực dân hóa và phẩm giá. Nghiên cứu của ông được phổ biến trên các tạp chí như Philosophy and Global Affairs, The Review of PoliticsEuropean Journal of Political Theory.


 

Ông chồng đổ xăng dọa đốt nhưng gây cháy lớn ở Bình Dương

Ba’o Nguoi-Viet

June 18, 2025 

BÌNH DƯƠNG, Việt Nam (NV) – Một ông đến tiệm tóc ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tìm vợ rồi xảy ra cãi vã nên lấy xăng dọa đốt, không ngờ ngọn lửa bùng lên cháy lớn.

Theo báo Dân Trí, khoảng 10 giờ 30 phút sáng 18 Tháng Sáu, ông Huỳnh Văn P., 33 tuổi, quê An Giang, mang can xăng đến tiệm spa ML (cũng là phòng tập yoga) trên đường ĐT 743C, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, để tìm vợ đang làm đẹp tại đây.

Vụ cháy tiệm tóc và quán bún riêu ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. (Hình: Xuân Đoàn/Dân Trí)

Tại đây, giữa hai người sau đó xảy ra cãi vã.

Tức giận, ông P. đã tạt can xăng trước tiệm, dọa đốt vợ. Lúc này, ở sát vách tiệm spa là khu vực bếp của quán bún riêu. Bất ngờ, ngọn lửa bắt vào xăng gây bốc cháy tiệm spa, lan sang quán bún riêu bên cạnh và làm cháy một xe hơi, bốn xe gắn máy để phía trước hai tiệm.

Nhiều người hoảng loạn bỏ chạy bằng cửa sau. Nghi can đổ xăng bị bỏng nặng. Lửa bén vào người ông P. làm ông ta bị phỏng ở vai, chân và chạy ra đường kêu cứu.

Nhận được tin báo, Phòng Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy Cứu Nạn Cứu Hộ Tỉnh Bình Dương điều động nhiều xe chữa cháy và lính cứu hỏa đến hiện trường dập lửa. Khoảng 15 phút sau, ngọn lửa được dập tắt.

Vụ cháy làm hư hỏng chiếc xe hơi, một số xe gắn máy và nhiều đồ đạc trong tiệm gội đầu và quán bún riêu.

Chiều cùng ngày, Công An Tỉnh Bình Dương lấy lời khai những người liên quan, khám nghiệm hiện trường để làm rõ dấu hiệu phạm tội của ông P.

Làm việc với công an, nghi can P. cho biết “chỉ đổ xăng dọa, chứ chưa châm lửa” và không biết vì sao lại cháy.

“Lúc ngọn lửa bùng lên, tôi và con gái cũng có mặt trong cửa tiệm spa, thấy lửa cháy to đành mở cửa sau chạy thoát thân, may mắn không bị thương, thường ngày P. ở nhà rất hiền lành, ít nói, nhưng không biết hôm nay sao lại như vậy,” mẹ vợ ông P. nói với báo Pháp Luật TP.HCM.

Hiện trường vụ cháy, ông giận vợ đổ xăng dọa nhưng xảy ra cháy lan. (Hình: Đình Trọng/Lao Động)

Liên quan đến hỏa hoạn, báo Lao Động hôm 18 Tháng Sáu dẫn tin từ Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy và Cứu Nạn Cứu Hộ Bộ Công An cho biết, trong năm tháng đầu năm 2025, Việt Nam xảy ra 1,497 vụ cháy, làm chết 39 người và bị thương 39 người, thiệt hại tài sản ước tính khoảng 138 tỷ đồng ($5.2 triệu) và 216 hécta rừng.

Ngoài ra, cả nước đã xảy ra 11 vụ nổ, làm năm người chết, 14 người bị thương. Thiệt hại tài sản ước tính khoảng 50 tỷ đồng ($1.9 triệu).

Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy phân tích, các vụ cháy chủ yếu xảy ra ở thành thị, chiếm 54.8%, còn lại là ở nông thôn.

Theo đó, có 539 vụ cháy nhà dân; 94 vụ cháy nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh; 41 vụ cháy chung cư; 10 vụ cháy chợ; ba vụ cháy siêu thị, cửa hàng bách hóa; bốn vụ cháy quán bar, karaoke; 11 vụ cháy trụ sở làm việc; 216 vụ cháy kho, cơ sở sản xuất, kinh doanh; năm vụ cháy cơ sở giáo dục; ba vụ cháy cơ sở quốc phòng… (Tr.N) [qd]


 

LỜI THỀ Y ĐỨC CỦA CÁC TÂN BÁC SĨ SÀI GÒN XƯA…- BS ĐỖ HỒNG NGỌC

BS ĐỖ HỒNG NGỌC

Bác sĩ ở Saigon ngày xưa phải đọc lời thề Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp.

Chúng ta hãy tìm hiểu về Hippocrates cũng như lời thề củả ông nhé :

Hippocrates là một y sĩ Hy Lạp thời cổ đại (khoảng 460 – 370 Trước Công nguyên) được xem là ông tổ của nền y khoa phương Tây. Ông là người khởi xướng nền y khoa mang tính khoa học trong hoàn cảnh hệ thống y khoa của Hy Lạp thời đó là hệ thống chữa bệnh một nửa là y học một nửa là pháp thuật phù thủy và tất nhiên không khỏi bị chống đối kịch liệt. Do đi trước thời đại, chống lại lối mòn xưa cũ gắn với cường quyền, Hippocrates lúc đó bị tù 20 năm. Ở trong tù, bộ óc thiên tài của ông không chịu phận tù đã viết nên quyển “Cơ thể phức tạp” về cơ thể con người mà rất nhiều điều trong đó vẫn đúng cho đến ngày nay.

“Lời thề Hippocrates” là lời tuyên thệ của các thầy thuốc khi vào nghề. Ở Việt Nam ta còn gọi là “Lời thề Y đức”. Trải qua thời gian với một không gian hầu như khắp toàn cầu, lời thề Hippocrates có nhiều dị bản khác nhau. Tuy nhiên, bản gốc của lời thề Hippocrates được nhiều nước lưu giữ như sau:

“Tôi tuyên thệ với Apollo, thần chữa bệnh, Asclepius, Hygieia và Panacea, và tôi minh chứng với tất cả các nam thần, các nữ thần, tôi gìn giữ, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, lời thề sau đây:

Yêu kính, như là cha mẹ tôi, người đã dạy tôi môn học này; sống hòa nhã với thầy và nếu cần, chia sẻ tài sản với thầy; chăm sóc con cái thầy như là anh chị em tôi và dạy họ môn học này.

Tôi sẽ kê toa vì lợi ích của bệnh nhân, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, và không bao giờ làm hại ai.

Tôi không bao giờ đưa thuốc giết người cho bất kỳ ai hỏi tôi và sẽ không tư vấn một kế hoạch như vậy; và cũng như thế tôi sẽ không cho bất kỳ người phụ nữ nào một dụng cụ phá thai. Nhưng tôi sẽ giữ tinh khiết cho đời tôi và cho nghề nghiệp của tôi.

Tôi sẽ không giải phẫu để lấy sạn, kể cả đối với bệnh nhân biểu lộ là mang bệnh này; tôi sẽ dành việc giải phẫu cho những y sĩ, chuyên gia về bệnh này.

Mỗi căn nhà tôi bước vào, tôi bước vào vì lợi ích của bệnh nhân của tôi, giữ gìn tôi khỏi mọi ý đồ xấu xa và mọi cám dỗ và đặc biệt là khỏi các khoái lạc tình yêu với phụ nữ hay với nam giới, dù họ là người tự do hay nô lệ.

Tất cả mọi điều tôi biết trong khi hành nghề hay trong giao tiếp với mọi người, mà không nên để lộ ra ngoài, tôi sẽ giữ bí mật và sẽ không bao giờ tiết lộ.

Nếu tôi giữ lời thề này một cách thành khẩn, tôi sẽ được an hưởng đời tôi và thực hành nghề tôi, được mọi người kính trọng mãi mãi; nhưng nếu tôi đi trái đường và vi phạm lời thề, những điều ngược lại sẽ đến với tôi”.

BS ĐỖ HỒNG NGỌC

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

Tác giả bài hát KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ đã về Nhà Chúa

Thao Teresa

 Tác giả bài hát KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ đã về Nhà Chúa

Xin tạ ơn Chúa với cha Phêrô Kim Long.

Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết về cha Kim Long:

TIỂU SỬ LM. NS. KIM LONG…..

Lm Phêrô Nguyễn Kim Long (bút danh Kim Long) sinh ngày 9 tháng 1 năm 1941 tại Nam Định, trong gia đình Công giáo. Năm 1954, ông theo gia đình di cư vào Nam.

17 tuổi, ông đã sáng tác bài thánh ca đầu tay “Con hân hoan”, và sau đó ba năm, năm 1960, phổ nhạc lời Việt cho “Kinh Hòa Bình” – tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.

Thụ phong linh mục năm 1968, Lm Kim Long được cử đi du học tại Học viện Thánh nhạc giáo hoàng ở Roma, tốt nghiệp năm 1972 với các bằng Magistero (bình ca) và Cử nhân Thánh nhạc.

Trở về Việt Nam, ông giữ chức quản xứ Đức Hòa (Mỹ Tho) và là giảng viên thánh nhạc tại Đại học Đà Lạt, Đại học Thành Nhân và nhiều Đại chủng viện khác.

Sau 1975, ông phụ trách giảng dạy và biên soạn giáo trình âm nhạc liturgy, đồng thời giữ nhiều chức vụ cao như Phó chủ tịch Ủy ban Thánh Nhạc và Tổng thư ký Ủy ban Phụng Tự – Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Với hơn 50 năm sáng tác, Lm Kim Long đã sáng tác khoảng 3.000–3.500 bài thánh ca, là một trong bốn nhạc sĩ hàng đầu của dòng bình ca Việt Nam.

Các tác phẩm tiêu biểu như “Kinh Hòa Bình”, “Chúa không lầm”, “Con hân hoan”, và nhiều tuyển tập khổng lồ như “Ca lên đi”, “Bài ca suy niệm” đã trở thành nền tảng của thánh nhạc Việt.

Ông được đánh giá là “cây đại thụ trong nền thánh nhạc Việt Nam” với phong cách âm nhạc đơn giản, sâu lắng, dễ đi vào lòng người.

Theo thông tin mới nhất, Lm Phêrô Nguyễn Kim Long đã qua đời vào lúc 12 giờ trưa ngày 17 tháng 6 năm 2025.


 

 Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già

MC Nguyễn Ngọc Ngạn

 Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già.”

Tôi không biết từ lúc nào, bàn tay cha bắt đầu run khi cầm đôi đũa. Mẹ thì hay quên, vừa kể chuyện xong lại hỏi: “Má nói chưa con?”

Lúc đầu, tôi bật cười nhẹ. Sau đó là im lặng.

Rồi một ngày, tôi chợt thấy dáng cha đứng ở cửa… nhỏ bé đến lạ.

Và bỗng hiểu: chúng ta đang chứng kiến người từng là bức tường vững chãi nhất trong đời mình… lùi dần vào phía hoàng hôn.

Người già không cần gì nhiều.

Chỉ mong con cái bớt cao giọng.

Chỉ mong có ai ngồi cạnh, nghe họ kể chuyện cũ mười lần như mới.

Chỉ mong mỗi lần lỡ tay làm rơi bát, không bị thở dài.

Họ từng là người đỡ ta qua những ngày chập chững.

Giờ đến lượt ta dắt họ đi qua những bước cuối cùng của kiếp người.

Làm người tử tế không cần điều gì cao xa.

Chỉ cần đủ dịu dàng với người đã từng vì ta mà gồng lên cả một đời.

Vì mai này, khi họ đi rồi… sẽ chẳng ai còn hỏi ta ăn chưa, hay nhắc ta mặc thêm áo khi trở trời.

Hãy thương khi còn kịp.

Đừng đợi đến lúc chỉ còn được gọi tên họ trong gió…

(Theo MDang – An Nhiên Giữa Dòng Đời)


 

Những ngày cuối ở bên cha – HOANG LE

 HOANG LE

Viet cho ngay father day

Một tháng  trước ngày Father day , ba bị stroke phải gọi xe cấp cứu đưa vào phòng ICU . Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ , ba được cứu sống ra khỏi bệnh viện, họ đưa ba qua Rehab để điều trị tiếp và tập cho ba đi trở lại. 

Cứ mỗi buổi chiều sau khi tan sở,  tôi đến thăm ba khu rehabilitation ở thành phố Sugarland. Hôm đó là ngày thứ Bảy tôi được về sớm có thời giờ ở với ba nhiều hơn.  Tôi đẩy xe lăn cho ba ra ngoài ngồi hưởng không khí trong lành ngắm cây cảnh trong khu vườn nhỏ dành cho các bệnh nhân. 

“ Ba thấy hoa nở đẹp không ba? ” . Vừa hỏi tôi vừa chỉ tay phía trước có hai cây crape myrtles đang nở những chùm hoa màu hồng đậm và màu trắng đong đưa trong nắng chiều của hoàng hôn. Ba gật đầu nhẹ vì cổ họng đã bị tê liệt  không nói được sau khi bị stroke.  

Không ngờ ngày đó cũng là ngày cuối cùng ba được nhìn thấy hoa của cây crapes myrtle nở trên dương thế. 

Có lẽ rất nhiều người đã nhiều lần đi dự đám tang của bạn bè và của người thân nhưng rất ít ai trong số đó chứng kiến cảnh cuối cùng của một người hấp hối, giây phút mà tâm hồn của một con người đang lìa khỏi xác. Riêng tôi, đó là những giây phút trải nghiệm buồn đau hằn sâu trong ký ức để nhắc nhở cho tôi biết đời là phù du, hãy yêu thương nhiều đi, tha thứ mau đi. 

Khi ông bác sĩ  Michael là người trực tiếp nhận ca của ba tôi chuyển từ khu Rehab đến phòng cấp cứu nói với tôi rằng chắc chắn là ba tôi sẽ không qua khỏi trong vòng hai mươi bốn tiếng nữa, thì thần kinh tôi bỗng bị tê liệt và tim tôi bấn loạn, tôi nắm tay vào thành giường của bệnh nhân để khỏi bị ngã quỵ.  Mỗi buổi tối, tôi đều đọc kinh Chết Lành chung với nhóm Con hẹn gặp Chúa trong nhà thờ nhưng tôi vẫn thấy cái chết chắc là xa lắm. Lúc này tôi mới cảm nghiệm được cái chết thật rất gần và linh hồn thật là vô giá. Tôi cầu nguyện với Chúa cho tôi lấy lại bình tĩnh để có thể làm được gì cho linh hồn của ba tôi đang hấp hối . Linh mục của bệnh viện không có ở đây. Bây giờ mới là chín giờ sáng . Tay của tôi run rẩy tìm số điện thoại của Linh mục Tiến trong Giáo xứ .  Linh mục đang trên đường đi họp nhưng ông nói sẽ hủy bỏ cuộc họp để đến bệnh viện xức dầu Thánh cho ba tôi.  Trong lúc chờ Linh mục đến, tôi cầm xâu chuỗi đọc kinh Lòng thương xót Chúa. Đang cầu nguyện thì một cô gái mang cây đàn guitar bước vào phòng tự giới thiệu tên là Stephanie , music therapist,  hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát không?  Tôi có một chút ngạc nhiên vì trong bệnh viện cũng có dịch vụ này rồi gật đầu đồng ý vì biết ba tôi cũng rất thích nghe nhạc. 

Cô hát bài Amazing grace, tôi nghe não nề nát ruột nát gan . Thấy tôi khóc, cô hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát tiếp không, tôi quay qua nói với cô: “ Stephanie, tôi đã từng nghĩ ông ấy sẽ sống với tôi đến ngày Giáng Sinh nhưng ông đã ra  đi sớm hơn . Bạn có thể đàn và hát chung với tôi bài Silent Night và O Holy Night để xem như ba tôi đã sống với tôi đến Giáng Sinh được không? “Cô ta đồng ý dạo đàn và chúng tôi cùng hát . Sau đó , Stephanie lấy máy recording thâu lại nhịp tim của ba tôi đang đập để sau này mổi lần nhớ ba, tôi có thể nghe và cảm nhận ba vẫn bên tôi. Tôi tiếp tục đọc kinh Lòng thương xót Chúa và lần chuỗi kính Mân côi . Vừa đọc kính vừa khóc nhìn khuôn mặt đau đớn với những nếp nhăn trên trán của ba đang vật lộn với tử thần,  tôi lo lắng tột độ , cầu xin Chúa và Đức Mẹ giữ linh hồn ba tôi lại cho đến khi Linh mục tới. Ba vẫn nghe được tôi đang khóc, hai giọt nước mắt của ba chảy ra từ đôi mắt nhắm nghiền. Huyết áp của ba tôi đã xuống rất thấp 70/ 45  nhưng rồi lên trở lại từ từ 86/57. Rất may Linh mục đã đến kịp lúc. Linh mục đọc những lời nguyện và kinh đặc biệt cho người sắp chết rồi xức nước Thánh lên trán và hai tay của ba. Vừa nhận phép xức dầu xong, tôi nhìn thấy khuôn mặt ba thanh thản ngay tức khắc . Con số nhịp tim trên máy xuống thấp dần. Ba sống thêm mấy phút  chờ mẹ tôi đến để được nắm tay mẹ tôi rồi mới trút hơi thở cuối cùng. Ba đã ra đi lúc 1h15 pm nhanh hơn là bác sĩ đã dự đoán. 

Năm nay ngày Father’s day tôi không còn cha để đến thăm. Năm ngóai cũng ngày này tôi đã đến thăm ba trong Rehabilitation. Ba đang tập đi với một người Physical therapist , tên anh là Kevin. Tôi đã đến cổ vủ cho ba tôi đi những bước đầu tiên sau khi bị liệt nửa người . Tôi đã ôm chúc ba: “ Happy Father day, ba của con. Ba ráng tập đi để về nhà với mẹ và con nha ba.” Tôi cũng chúc anh Kevin “ Happy Father day.” Mặt anh đang rạng rỡ bổng biến sắc,  anh  trả lời tôi giọng lạnh như băng: “ Tôi còn thậm chí không biết ba tôi là ai.” Lúc đó tôi  cảm thấy thương cảm cho anh và nói lí nhí xin lỗi anh. 

Vâng, trên thế giới này có rất nhiều đưa trẻ mồ côi cha từ rất nhỏ hoặc có nhiều người không được may mắn hưởng được tình yêu của người cha. Tôi ước gì họ biết được vẫn còn có một người Cha trên Trời vẫn luôn yêu thương và quan tâm đến họ .  Nhìn hoa crape myrtles đua nhau nở trên các đại lộ doc theo freeway trong mùa hè tháng Sáu , tôi lại nhớ đến những ngày cuối cùng được ngồi cùng với ba ngắm hoàng hôn buông xuống . Mặc dù tôi đã mất một người cha trên dương thế nhưng tôi biết tôi vẫn còn có một người Cha trên trời luôn hằng thương tôi che chở  và bảo vệ tôi . Tôi cũng tin tưởng ba tôi giờ đã ở với Cha trên trời và đang nở một nụ cười bình an mãn nguyện. 

  HOANG LE


 

Thư Viết Từ Chân Núi – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

 Vĩnh Chánh

Hầu như sau những trận đánh lớn, đơn vị thường được di chuyển về sau chiến tuyến, dưỡng quân, bổ túc quân số, tân trang quân dụng, chỉnh đốn chiến thuật, chờ đến phiên tái lâm chiến, trong nay mai. Để tưởng nhớ đến cuộc chiến đã chấm dứt 50 năm, Lá Thư Viết Từ Chân Núi xin ghi lại những nỗi niềm của người lính cùng niềm tin, hy vọng và tình yêu qua chiều dài của cuộc chiến tại Miền Nam Việt Nam.

Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi

Các anh đi, đến bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông (Các Anh Đi – Nhạc sĩ Văn Phụng)

Bạn thân mến!

Tất cả chúng ta đã trải qua những giai đoạn khác nghiệt trong chiến tranh và hậu chiến, khi Miền Nam Việt Nam phải chống trả sự xâm lăng khát máu của CS Miền Bắc. Hình ảnh của những xuôi ngược hiểm nguy trong bước đường chinh chiến, những hy sinh hào hùng của người lính chiến – những mất mát chết chóc, những đau thương tủi nhục, những thảm cảnh do pháo kích bừa bãi của Việt Cọng vào các thành phố, những lần chạy giặc, Biến Cố Mậu Thân, Đồi 31 Hạ Lào, Đại Lộ Kinh Hoàng, Trận Đánh Đồi Charlie, Tử Thủ An Lộc, Hải Chiến Hoàng Sa, những di tản triệt thoái không lối thoát, những kinh hãi trong vượt biên vượt biển, những đọa đày trong ngục tù CS, và những bôn ba, những cố gắng phi thường khi làm lại cuộc đời trên xứ người.

Một số không nhỏ anh em chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc, một số lớn khác đã mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn, và hầu như tất cả chúng ta còn lại cùng gia đình và bao người thân quen đều cùng phải gánh chịu những hư hao  gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực trong khói lửa binh đao. Sau ngày gãy súng trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh trên biển. Khi làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp cuộc sống bạc đãi trong nhà tù lớn tại quê hương …      

Bạn ơi!

Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá, mà không có tao loạn phong trần. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi, mà không có máu lửa và nước mắt. Tuy nhiên, bên cạnh nguy hiểm thường trực của chiến tranh, phải chăng chúng ta vẫn luôn mang một hy vọng sống còn về lại với người thân, hay một tình yêu trong lòng, một hạnh phúc thầm kín và một giấc mơ hiền hòa khi thanh bình. Vì vậy, trong gian truân nguy hiểm, trong địa ngục trần gian, trong sóng gió cuộc đời, phải chăng chúng ta đã luôn cầu nguyện xin Ơn Trên cứu giúp chúng ta vượt thoát và đưa chúng ta về chốn bình an. Và phải chăng lồng vào giữa đời người lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khó, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để vươn lên trong thử thách bão lửa, và sống sót. Cho dù đó là tình yêu quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ, là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.

        Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng

        Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết. Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết đến những nỗi niềm trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc. Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lửng giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em là bấy nhiêu lần nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình dấu kín trong ba lô, hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:

“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn

Mấy tháng rồi tao không được ôm em

Tao thèm làm tình như tao thèm sống

Tao thèm hôn em, hôn liên miên…” 

(Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc/ Tác giả Nguyễn Tiến Cung}

        Song song với cuộc chiến là những câu chuyện về những người lính xông pha nơi chiến trường có những người yêu để lại đằng sau. Là những tình cảnh dạt dào thắm thiết của chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông buồn trông chờ” Là những thơ tình trang tải nổi nhớ nhung của nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Những thầm kín, những mơ mộng, những tâm sự, những dự tính, những ôm choàng, những nụ hôn hay những gắn bó thể xác, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc tình ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau chàng là “bại tướng cụt chân”; hay cuộc tình vụt tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc tình bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngã nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người tình còn đó anh nhớ không anh”.

        Bạn thân mến, trong thời gian chờ ra đơn vị, tại BV Đỗ Vinh, tôi tình cờ đọc lại cuốn truyện dịch “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết”. Một câu truyện về người lính, tình yêu và sự chết xẩy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu vì lý do gì cuốn truyện này đã để lại bấy giờ cho tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi vơi đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chưởi thề, nghiến răng của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em, hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an ủi trìu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nhìn thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những câu nói bâng khua, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn truyện từ tay các em gái hậu phương…

        Câu truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” của tác giả Erich M. Remarque chọn bối cảnh nước Đức trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Anh lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2 năm ở chiến trường Miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được tình yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đình. Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn gì để phải sợ mất mát thêm đã nảy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi mãnh liệt vươn lên, trong âu lo mơ mộng, ngọt ngào khắc khoải, nồng nàn ân ái, hy vọng mơ mộng, bàng bạc mong manh trong nỗi buồn miên man vô định của có nhau hôm nay, xa nhau ngày mai, rồi mất nhau. Thay vì đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi hòn đạn từ chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”, thế nhưng tôi lại liên tưởng đến một khép kín của cả một khung trời, của nguyên cả một giấc mơ nhẹ nhàng bình dị vụt biến khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Một cái chết quá dửng dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Mà chỉ một dấu chấm hết. Như tiếng hát Soprano đang vút cao bỗng chợt ngưng. Mong manh thay cho một cuộc tình tuyệt đẹp của thời chiến, đến nhanh và tan nhanh, mà trong đó bao hình ảnh của thủa tình tự bên nhau, bao lời yêu thương, bao cảnh âu yếm tuần tự quay diễn nhanh trước khi đôi mắt khép kín rồi tất cả tan biến vào hư vô.

        Đọc truyện người để nhìn lại thực tế cuộc chiến tranh chống CS xâm lăng của ta, cảm thương người lính của ta, trân quý tình yêu của họ. Người lính chiến vẫn làm bổn phận người trai khi đất nước cần, tình yêu vẫn giống nhau trên danh nghĩa, và cái chết vẫn là cái chết dưới mọi hình thức, bình đẳng cho cả quan lẫn quân, bình thản như trong một giấc ngủ, hay hung bạo với thân thể nổ tung, xác người bầm dập không toàn thây, hoặc một cái chết từ từ trong đau đớn mang đầy thương tích loang máu đào.

        Bạn ơi! Vậy người lính của chúng ta là những ai? Phải chăng đó là những người trai trẻ theo tiếng gọi non sông, kẻ động viên hay đôn quân, người tình nguyện nhập ngũ; là những người con của thế hệ, kẻ trước người sau, xa rời mái trường, quê nhà và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Họ thuộc mọi thành phần của xã hội tự do Miền Nam, đến từ mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu ngang qua Cố Đô Huế rồi đến Duyên Hải nắng đẹp Miền Trung, lên tận Cao Nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn Thủ Đô Sàigòn-Gia Định mến yêu, xuyên qua những mảnh đất phì nhiêu màu mở của Đồng Bằng Cửu Long đến tận cùng Cà Mâu, bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền Nam Bắc Trung, đồng một lòng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ các trường Đại Học Quân Sự Hải Lục Không Quân, từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung Đồng Đế, Dục Mỹ, TT Huấn Luyện Nhảy Dù… và của các địa phương. Họ là những:

“Người lính trẻ đã một thời giong ruổi

Đem tình người tình lính trấn biên cương

Vẫn một lòng chung thủy với quê hương

Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng” (Huy Văn)

        Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ, cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, tình nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống kẻ thù xâm lăng. Họ là những người con ưu tú của đất nước trong mọi binh chủng mà tổ quốc luôn ghi ơn khi họ đền nợ nước.

“Xin tạ lỗi với đời trai khói lửa

Những địa danh ngang dọc bước quân hành

Đoàn tráng sĩ qua sông lần vĩnh biệt

Tưởng đang còn cuộc rượu lúc tàn canh

(Xin Một LầnTạ Lỗi – Trần Ngọc Nguyên Vũ)

        Còn những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng là em gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, trong một thị trấn, ở làng bên cạnh, cùng một quận lỵ, một trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng Sĩ trong trại gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong các áo bà ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi ta dừng chân uống nước ở ven đường; Đó cũng là những nữ sinh môi đỏ má hồng vùng Cao Nguyên hay các nữ sinh trong đồng phục áo trắng hay đầm hồng, jupe xanh với áo sơmi trắng tung tăng trên các đường phố …

“Thấy em xỏa tóc ngả nghiêng bên trời

Ta cầm một sợi lên chơi

Ai dè suốt cả một đời lao đao”   (Nguyên Miên Thảo)

           Em là người con gái ta chưa quen biết nhưngchợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem, quán phở quán hủ tiếu, đang ăn vụng bò bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà ta muốn tìm quen theo về tận nhà. Họ cũng là người em hậu phương đến choàng vòng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về làng”, là người mà ta tình cờ bắt gặp có một đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn nhiên khiến ta bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một mái tóc mây hồng ngiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền khiến ta mê mẩn dù lời nói khó hiểu” mô tê răng rứa – anh đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu – Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”…Là bao nỗi nhớ. Bao chờ mong. Bao vấn vương. Bao mộng ảo. Bao diệu kỳ không nên lời…Là con suối nhẹ nhàng đi qua tim ta. Là cơn đau nhức nhối trong nỗi thương nhớ

“Nếu một mai bé nhìn hoa dù nở

Lời tỏ tình anh gởi đó nghe cưng

Hoa dù tròn như nguyện ước yêu thương

Anh lơ lửng giữ dòng đời vạn biến…”

        Chuyện tình của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lãng mạn và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, đột ngột lâng lâng đến, để rồi nhanh chóng đi vào thương đau. Cuộc tình lính chiến như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ tình, ngay sau lần đầu gặp nhau “chưa nắm tay em mà lòng đã yêu, chưa uống môi em mà tình đã say!” Với người lính, cuộc tình thường long đong ray rứt, yêu trong vô vọng, yêu trong cuồng si, yêu trong chớp nhoáng, dù chỉ để đổi lấy một phút bên em rồi cả đời vĩnh viễn mất nhau. Đó cũng là một cuộc tình chớp nhoáng, đam mê mạo hiểm, bất chấp ngày mai, thuộc loại tình lính là “tính liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.

 “Hôn em mà đất trời say, Môi không ướp rượu mà ngây ngất buồn”.

Tuy chai sạn trong phong sương, nhưng người lính rất mềm yếu, ngây ngô, dễ rung động và non nớt trong tình trường “Đôi khi muốn nói yêu em nhưng ngại ngùng đành lãng phai!” Người lính thường xin chịu phần thua thiệt, lo sợ cho sự xa mặt cách lòng, cạm bẫy và cám dỗ của đèn màu đô thị, nhưng tình yêu đã nuôi dưỡng họ, cho phép họ thơ thẩn giữa những thực tế khắc nghiệt của chiến tranh. Tình yêu cho họ thêm ý chí và tinh thần chiến đấu. Vì vậy tình yêu của lính cao thượng, biết chấp nhận sầu ly, biết thông cảm cho tình cảnh của người hậu phương, “đường vào ngày mai sỏi đá, thôi, em về, quên hết đi ngày xưa!” Nhận thư Má viết ngắn gọn “con Tú qua thăm Má và khóc, nói nó không thể đợi con được. Tuần sau nó sẽ lấy chồng, là thầy giáo gần nhà”, người lính hoa mắt, đông đá, sau một vài câu chửi thề, xách súng bắn một tràng chỉ thiên. Nổ nghe như pháo ngày cưới. Ông Thầy cũng đành lắc đầu. Thế là xong! Còn với ông Thầy “tử thương” vì tình thì sao? Thầy và đám đệ tử tụm lại làm vài chầu ngất ngư để quên sầu hay tưởng như quên sầu, rồi lầm lì để sau đó tình nguyện lãnh nhiệm vụ nguy hiểm nhất cho đơn vị trong lần đánh tới. Càng yêu và khi được yêu, người lính càng lúc càng nghiệm rõ tình yêu mang đến sức sống, niềm hy vọng, giúp họ tự tin và quyết chí xông xáo, xong nhiệm vụ để được sớm đi phép thăm em. Tình yêu là nắng ấm giữa giông tố đời lính. Nuôi nấng ta khi ta bị thương tật. Nâng ta dậy khi ta bị chà đạp. Là nơi bám víu khi ta sa cơ thất thế. Là ân tình của hạnh  phúc cuối  đời.

Bạn thân mến!

Phải chăng em yêu anh vì yêu dáng phong trần hiên ngang của anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù. Yêu cái nhìn nồng nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với tiếng cười sảng khoái của anh. Yêu sự chìu chuộng săn đón của anh, yêu con đường mình cùng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng mang theo mây trời và giông bão vào đời em. Là mong đợi những thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ. Là thích nghe anh kể chuyện đời quân ngũ, chuyện xông pha ngoài trận tuyến. Thương anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao carré, làn da đen thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ lính trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin anh, biết cầu nguyện Ơn Trên gìn giữ anh và theo dõi bước chân anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Yêu anh là chấp nhận những ngày cô đơn xa anh, những chiều dạo phố một mình, ráng làm quen với tên xa lạ của những nơi anh bước qua, là đến thăm anh trong quân y viện. Làm vợ anh là chấp nhận thương đau thua thiệt, chắt chiu với tiền lính nuôi đàn con dại, là đếm những ngày xa anh, là tạm ở tại hậu cứ trong căn phòng nhỏ lợp tôn, hay nay đây mai đó theo đơn vị anh và đành phó mặc tương lai cho số phận. Là lỡ làng đời em. Ai trong chúng ta đã không một lần ngậm ngùi trước hình ảnh chẳng thể quên của người cô phụ trẻ tuổi phủ phục bên cạnh quan tài chồng, tay xoa xoa lá cờ che kín nắp hòm, thì thầm những lời yêu đương giữa những nức nở.

Xin tạ lỗi với ai người chinh phụ

Đã hóa thân nàng Tô Thị trông chờ

Đứng sừng sững giữa hai vầng nhật nguyệt

Nhỏ xuống dòng lệ máu bốc thành thơ

Xin tạ lỗi cùng em người hiền phụ

Đã vì ta lận đận suốt một thời

Cùng ngụp lặn trôi theo dòng sinh mệnh

Tấm gương đời cuối thế kỷ hai mươi (Trần Ngọc Nguyên Vũ)

           Bạn thân mến!

Có tình yêu hay chưa có tình yêu, người lính vẫn dũng cảm xông pha trận tuyến, làm tròn bổn phận giao phó. Thương tật hay chết chóc là chuyện không ai mong muốn nhưng vẫn chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có khi đi đong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm,hay nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập…Có cái chết đến nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái vì can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở về tận nhà trong hòm nhôm? Trong giây phút tử thương, “nằm chết như mơ” ấy, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng kêu lên Mẹ ơi, như anh đã từng làm khi đau ốm hay trong rủi ro? Có đủ chăng anh thì giờ nhớ đến người vợ bé bỏng luôn trông ngóng chờ đợi anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ anh thầm yêu mà anh đành giã từ nơi ngôi làng xa trên bước đường chinh chiến?!

Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ  (Lá thư Pleime – Lê Anh Tuyến)

         Người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi. Họ là những cứu tinh của đơn vị, là huyền thoại của đất nước. Chết trận là chết không một than vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà.

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông. (Trần Trung Đạo)

Khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình

“Anh đi mãi, không bao giờ trở lại! Tôi viết vần thơ của thời hoang dại. Những vần thơ hoài niệm nhớ thương anh. Và đêm nay, trong khóe mắt long lanh giọt lệ buồn…Tôi khóc anh vĩnh biệt!”  (Hồ Sĩ Duy)

            Khi một người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu nhau, Một thoáng ngậm ngùi, thì các bạn thân mến ơi, là những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước nghỉ ngơi dưới chân núi, chúng ta cần phải ngồi gần bên nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Xin đừng hững hờ. Chớ xa lánh nhau. Và xin đừng quên nhau. Hãy nhớ: những người sống sót, bại trận như chúng ta đây vẫn còn nợ những người tử trận. Mãi mãi không quên!!

Bạn ơi!

Xin hãy cùng nhau thắp nén nhang lòng, cầu xin cho anh linh các tử sĩ được vinh hiển chốn ngàn thu.  Xin cho tình đồng đội chúng ta vẫn trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một nhà. Cùng tham gia sinh hoạt cộng đồng chống CS, làm nghĩa vụ giúp đỡ anh em thương phế binh của ta ở quê nhà, đồng thời góp thêm bão lửa và sức sống cho các tù nhân lương tâm, xem đó như một trách nhiệm chung. Mong các thế hệ hậu sinh thấu hiểu về tinh thần chiến đấu bất khuất cùng lịch sử của VNCH và tiếp tục dương cao ngọn cờ tự do.

Chúng ta học hỏi từ quá khứ đau thương để rút kinh nghiệm sống được thực tế hơn. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhìn thẳng vào tương lai với tất cả sự nhiệt tình và lòng trung kiên còn lại, để tiếp tục nuôi nấng ý chí trong hoài bão rằng, một ngày không quá xa, quê hương sẽ sớm thoát xiềng xích của CS, và dân lành sẽ được sống trong một chính thể mới, thật sự có tự do, bình đẳng và bác ái.

Viết cho tháng 4, 2025

Vĩnh Chánh


 

Giáo sư Vũ Quốc Thúc gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012

Luật Khoa Saigon 67-75Chanh Le

  Uyên Vũ

Nov 23 – 2021

Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc – Cựu Thống Đốc ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, nhà kinh tế học và chính khách VNCH, người góp phần quan trọng trong việc đào tạo môn kinh tế học tại trường Đại học Luật khoa và Trường Hành chính Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa – vừa qua đời tại Paris ngày 22 Tháng 11/2021, hưởng thọ 102 tuổi.

Theo thông báo của gia đình, thánh lễ cầu nguyện cho giáo sư Vũ Quốc Thúc sẽ được cử hành ngày 25 Tháng 11/2021 tại Giáo xứ Việt Nam ở Paris; lễ hỏa táng được cử hành ngày 1 Tháng 12/2021.

Gia đình Giáo sư Vũ Quốc Thúc vốn không phải là Kitô hữu, ông đã đón nhận đức tin vào Chúa, gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012. Theo trang vncatholic thì:

“Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.

Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Saigon, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng”.

Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói : « Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh».

Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

Xin Chúa đón nhận linh hồn Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc sớm hưởng nhan thánh Chúa.


 

Thăm trại Tị Nạn Mã Lai và Nam Dương sau 50 năm viễn xứ – Nguyễn Ngọc Duy Hân

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi đã về lại Toronto – Canada bình an sau 3 tuần lang thang ở Mã Lai và Nam Dương, chủ yếu là đi thăm các hòn đảo từng là nơi tạm trú của thuyền nhân Việt Nam. Tạ ơn Chúa, cảm ơn mọi người, tôi đã  được học hỏi thêm về tình người, về quê hương và tin rằng nhờ thế có thể sống tốt hơn.

Âm vang câu hát “Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương, Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong” vẫn còn vang vọng trong lòng. Số là mỗi khi thắp hương cầu nguyện trước mộ phần các thuyền nhân xong, chúng tôi đều hát và thấm thía hơn bao giờ hết nỗi đau qua những nốt nhạc này.

Lịch trình thăm viếng của nhóm chính thức bắt đầu vào thứ Hai 28 tháng 4, 2025, nhưng 3 anh em Toronto chúng tôi đã ra phi trường từ 24 tháng 4. Đi sớm mấy ngày để ghé thăm thành phố Kuala Lumpur và nghỉ ngơi. Chuyến bay dài gần 21 tiếng, cộng thêm giờ phải tới sớm, giờ chờ chuyển tiếp máy bay nên tổng cộng lượt đi và về hết khoảng 60 tiếng đồng hồ. Ôi chuỗi thời gian dài ớn quá là ớn. Mà khi tới nơi rồi cũng có yên đâu, suốt ngày thường xuyên chúng tôi phải ở trên xe bus, xe van, trên tàu lớn, tàu nhỏ hoặc máy bay nhỏ… “Thôi rồi còn chi đôi mông tôi!” Ba tuần lúc nào cũng bồng bềnh chênh vênh, nên mỗi khi được đặt 2 chân xuống mặt đất thì thấy thật là hạnh phúc! Giá mà Elon Musk chế xong được cái ống chui tọt vào là tới nơi thì hay biết mấy.

Nhớ lại cách đây gần 10 năm, khi đó ông xã còn sống, chúng tôi có đi hành hương châu Âu với nhóm nhà thờ, mà tôi là một trong những người tỉnh táo để giúp các bác lớn tuổi hơn kéo hành lý, trả lời họ hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu, ngày mai sẽ làm gì. Thế mà bây giờ tôi lại chính là một trong những “bác” lớn tuổi đó, tức là cần người giúp di chuyển vali, cần người trả lời hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu hoặc ngày mai sẽ làm gì. Rõ chán!

Bây giờ xin được xuống câu vọng cổ chia sẻ lý do tôi tham dự chuyến đi này. Trong nhóm có các anh chị không biết vượt biên là gì nhưng vẫn hăng hái tìm về nguồn, cũng có các anh chị dù không phải trong ban tổ chức, mà vẫn tham dự nhiều lần chỉ để thắp hương cầu nguyện ở các mộ phần – thật là cao cả, cũng có một số em trẻ đi theo cha mẹ. Riêng tôi thì thú thật xem qua chương trình chẳng lấy gì làm hào hứng. Gì đâu mà ngày nào cũng đi thăm nghĩa trang, mà tôi biết thời tiết ở các nơi này rất nóng, lại phải trèo đèo lội suối ở các nơi đầy muỗi mòng, khỉ ho cò gáy theo đúng nghĩa đen. Hơn nữa, thời gian cuối tháng Tư 2025, tôi muốn ở nhà để giúp tổ chức 50 năm Quốc Hận tại tòa thị sảnh Toronto và quốc hội Ottawa – đây là truyền thống chúng tôi chưa vắng mặt năm nào. Tôi lại đã đóng tiền cọc để đi du thuyền qua Âu Châu chơi với nhóm bạn, rồi công ty tôi đang làm cũng khó cho phép vắng mặt liên tục 3 tuần…. Đủ thứ lý do tại, bị, thế mà cuối cùng tôi cũng được đi với nhóm, thật là một điều quá vui mừng. Nghĩ lại nếu không đi, tôi sẽ hối tiếc nhiều lắm.

Tôi đã thực hiện dùm ý nguyện của ông xã. Khi đi qua các hòn đảo kỷ niệm nơi anh từng đặt chân đến, tôi đã thở phào thầm nghĩ “Mission Completed”. Rất buồn là ông xã – anh Nguyễn Ngọc Duy – mới qua đời cách đây 7 tháng vì bệnh phổi lúc 65 tuổi. Từ nhiều năm nay, lúc nào anh cũng ước ao về thăm lại đảo Air Raya rồi trại tị nạn Galang, nơi tôi và anh đã gặp nhau, nhưng lần nào cũng có trở ngại. Những ngày cuối đời anh lại nhắc tới trại tị nạn nhiều hơn, nên tôi rán đi dùm anh dù biết đi một mình sẽ rất buồn.

Bây giờ xin kể sơ về chuyến hành trình. Nhóm có 233 người ghi danh đi thăm các đảo ở 3 nước Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân. Có người chỉ đi một quốc gia rồi về, tôi và một số đông thì đi 2 nước, còn lại khoảng 50 người thì đi cả 3 nơi. Số người tập trung đông nhất ở một thời điểm là trên 100 người. Thật là khẩu phục tâm phục ban tổ chức, nào là đón tiếp hướng dẫn ở từng chặng đường, lo xe, lo khách sạn, giúp vé máy bay, rồi đặt thức ăn, sắp xếp chương trình khoa học và ý nghĩa. Sau chuyến đi chắc hẳn họ già hơn nhiều vì căng thẳng lo lắng.

Riêng cái chuyện sắp hàng đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn. Tôi đã nói đùa khi người thứ 100 “xả nước cứu thân” xong, là đã đến lúc người số 1 cần đi nữa rồi! Các vùng hẻo lánh này nhà vệ sinh rất ít, có nơi còn là loại cầu tiêu xưa, nghĩ lại còn rét dù trời nóng hừng hực! Thế nhưng chúng tôi luôn tận dụng thời gian sắp hàng mà trò chuyện rôm rả, mang bánh trái ra mời mọc nhau nên cũng thấy bớt chán. Nhớ quá những cây cà-rem do thầy Tấn Phước đãi. Nhóm thường đi bằng 2 xe bus lớn và một xe van nhỏ, hôm đó thầy mua kem cho mọi người, nhưng 1 xe bị lạc nên xe của chúng tôi phải ăn dùm hai phần. Trời nóng mà ăn kem vừa mát vừa ngọt vừa thơm mùi sầu riêng thì không gì thích thú bằng. May mắn hơn xe chúng tôi lại có cha Phạm Quang Hồng ở Úc đi cùng, nên lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười, mà cũng hại não lắm vì cha hay đố những câu khó quá!

Nhóm lại có Youtuber Trương Minh Quân với channel TmQ nổi tiếng, lúc nào chương trình cũng được livestream với 40 ngàn người xem. Tôi ở trại mà bạn bè Toronto thường xuyên gởi video thâu từ TmQ cho xem, nhắc là đã thấy Hân ở phút số mấy trong youtube. Vấn đề xài tiền cũng khá rắc rối, tới Mã Lai phải xài tiền Mã, tới Nam Dương phải xài tiền Indo, nhưng nhóm thì có người tới từ Mỹ, có người tới từ Canada, Phần Lan, Úc…. nên chả chục thứ tiền đủ màu đủ loại, đổi qua đổi lại cũng khá nhức đầu!

Ngoài ban tổ chức là nhóm anh em bên Úc như anh chị Sơn-Anh, anh chị Minh-Thanh và bác sĩ Ken, còn có cô Heidi (Hay Đi!), cô Ngọc Ân, anh Long, bố con anh Chính và vài nhân vật rất đặc biệt. Từ khi ghi danh thì chúng tôi đã thường xuyên nhận được bản tin với nhiều chi tiết hữu ích từ anh Sơn. Cháu Ken ở Cali là một nam bác sĩ cao ráo giỏi giang, tấm lòng hy sinh yêu người không biết dùng chữ gì để diễn tả. Một cậu trẻ khác là Jammy sinh ra ngay tại Bi Đông, đi với nhóm lần này là lần thứ 2. Được biết lần đầu Jam đi thì hiểu tiếng Việt rất ít cần thông dịch, nhưng lần này tiếng Việt của cháu đã rất khá. Jam đẹp trai vui vẻ, ai cũng muốn làm mai gả con gái, cháu gái cho. Vào đúng sinh nhật của Jam trong tháng 5, cháu đã tìm cách để được về đứng ngay bệnh viện xưa – nơi Jam sanh ra để chụp hình và “thu thập năng lượng”. Vài cháu khác đi với cha mẹ, nhưng cũng rất hòa mình không tỏ vẻ khó chịu hay bị ép uổng gì cả. Chúng tôi mừng lắm vì có giới trẻ tham gia. Trong nhóm có ít nhất 4 anh, chị không biết trại tị nạn là gì, vì không phải là thuyền nhân, chân nhân hay phi nhân. Họ rời Việt Nam từ 30 tháng 4, 1975 nhưng vẫn muốn tìm về nguồn cội, lịch sử. Một vài anh chị cũng đã tham dự các chuyến này nhiều lần, còn nhớ được đường đi trèo đèo lội suối để đi thăm đầy đủ các khu bia mộ. Ai nấy đều quá chân thành, dễ thương, chăm sóc an ủi nhau… thật là cảm động và quý giá. Tôi vốn bi quan, thường cho rằng người tốt trên đời này không còn bao nhiêu, nhưng qua hành trình này tôi mới cảm nghiệm được “bông hoa còn đẹp, lòng chưa thấm mệt” (thơ Phạm Thiên Thư).

Bây giờ tôi xin sơ lược về lộ trình. Mọi người đã tập trung tại địa điểm đầu tiên là phi trường số 2 Kuala Lumpur – Mã Lai để cùng đi xe bus thăm nghĩa trang đầu tiên tại Terengganu. Sau đó ngày nào cũng thăm viếng nhiều khu mộ tập thể hoặc mộ cá nhân không bỏ sót khu vực chôn cất nào như Kuantan, Dungun, Kota Baru, Besut, Cherang Ruku, Panji, sau đó thăm Romping, Endau, Mersing… Đặc biệt nhóm đã thắp hương trước ngôi mộ tập thể chôn xác nhiều người, trong đó có vợ và con của MC & nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn.

Ban tổ chức cũng sắp xếp để mọi người được viếng mộ các vị đại ân nhân như ông Alcoh Wong, ông Heng… Quý ông này là một trong những người Trung Hoa ở Mã Lai đã bỏ công sức và tình yêu nhân loại để tìm vớt xác, chôn cất rất nhiều thi thể thuyền nhân Việt trôi dạt vào bờ biển Mã Lai hơn 40 năm trước. Ông Wong và thân hữu cũng đã in một cuốn sách tài liệu với chi tiết lịch sử, bản đồ, tên họ của các thi thể mà họ chôn cất. Ban tổ chức đã liên lạc trước với thân nhân của ông Wong, ông Heng và mời họ đi ăn chung với nhóm để tỏ lòng biết ơn. Bà Wong vẫn còn sống và đã giúp rất nhiều trong việc đặt khách sạn, nhà hàng… Bà từng là chủ tịch hội phụ nữ Trung Hoa ở Mã Lai, tuy sức khoẻ kém nhưng luôn có mặt với nhóm. Một người em trai trong gia đình ông Wong khi phải vớt xác người chết chìm trên biển, đã chịu sốc tâm lý nên phải phát nguyện cạo đầu, cầu nguyện. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để nói hết lòng khâm phục và biết ơn những đại ân nhân này, được bắt tay họ tôi rưng rưng nước mắt.

Sinh hoạt chính tại Mã Lai là cuộc hội ngộ tại đảo Bi Đông, nơi từng có hằng trăm ngàn người Việt Nam tạm trú trong khi chờ đi định cư ở quốc gia thứ ba như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… Đúng ngày Quốc Hận lần thứ 50 là 30 tháng 4, 2025, nhóm đã có một buổi lễ thật ý nghĩa ngay tại bờ biển Bi Đông, cùng Chào Cờ hát quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và tôi được hân hạnh đọc phút Mặc Niệm trong buổi lễ. Sau đó nhóm đi vòng quanh biển với lời cầu nguyện của thầy Tấn Phước và cha Quang Hồng, cùng đốt nến, giấy vàng mã, hương trầm cầu nguyện cho người đã khuất và cho quê hương Việt Nam. Tối hôm đó và nhiều đêm sau, nhóm luôn có các buổi hội ngộ tâm sự, ca hát, đốt lửa trại thật cảm động. Đây cũng là cơ hội cho mọi người thi thố tài năng – nào là ngâm thơ, đơn ca, hợp ca với tiếng đàn guitar và kèn harmonica sống động, cũng như dàn Karaoke khá tốt.

Điều mắc cười là tôi vốn khó ngủ, nên xin trả thêm tiền để có phòng riêng tại các khách sạn, thế mà khi ở Bi Đông, không có khách sạn phải ngủ ngoài lều, có lều tới 20 người, thì tôi lại ngủ ngon hơn hết. Có người gọi Bi Đông là Bi Đát, thật không sai với bao câu chuyện bi thương đáng nhớ, chẳng hạn câu nói luôn được lưu truyền “Tình Bi Đông có list thì dông”, tức là tình cảm yêu thương chỉ là tạm bợ, khi được lên list đi định cư thì mọi hứa hẹn liền chấm dứt.

Ngôi chùa tên là Từ Bi còn sót lại vừa có nghĩa là từ bi bác ái, vừa cũng có nghĩa là từ Bi-Đông mà có. Các người đi trước đã kể lại vài câu chuyện tâm linh khá hi hữu, như chuyện ngay sau khi phái đoàn thăm viếng khu mộ tập thể, thì hoa vàng bỗng rộ nở rất nhiều, hoặc một đàn bướm vàng mấy trăm con bỗng xuất hiện bay lượn ngay trên các ngôi mộ, mà theo dân địa phương thì khu này rất ít khi thấy bướm. Một ông người Hoa giúp việc trùng tu các ngôi mộ đã mua vé số với số tàu của người tị nạn, thì đã trúng độc đắc. Ông đã trích ra một phần tiền trúng để bỏ vào quỹ trùng tu. Cũng có nhiều chuyện ly kỳ khi người chết báo mộng để gia đình tìm ra thi hài, hoặc cho biết mộ bị nứt hay tên họ trên tấm bia đã bị khắc sai…

Nhóm cũng đã được tận mắt nhìn bức tượng “ông già Bi Đông” mà thương xót cho những mảnh đời kém may mắn, phải tìm sự sống trong cái chết.

Chúng tôi cũng được đi thăm một quán cà-phê sang trọng nằm dọc theo bờ biển, thuộc khách sạn 5 sao làm từ chiếc thuyền tị nạn mà họ đã mua của Liên Hiệp Quốc. Bảng khắc ghi chú các chi tiết về Boat People rất rõ ràng cảm động.

Vào 2 tháng 5, 2025 nhóm đã rời Mã Lai để cùng đi tới Nam Dương bằng phà qua đảo Batam, mà chúng tôi gọi là Bà Tám cho dễ nhớ. Indonesia là mục tiêu chính mà tôi muốn thăm viếng, vì tôi và ông xã đã từng ở đó. Chúng tôi thăm viếng nghĩa trang thuyền nhân Việt Nam, nhà bảo tàng, nhà thờ Công Giáo, chùa Quan Âm, miếu Ba Cô, bãi biển Galang…Tiếc là rất nhiều di tích ở khu Galang 1 đã bị xóa mất sau gần 50 năm, chẳng hạn các địa điểm như văn phòng Cao ủy, Ban điều hành trại, Trung tâm huấn nghệ, Youth Center, tòa soạn báo Tự Do, đạo quán Hướng Đạo, đồi Nhà thờ, bệnh viện ICM …. đã không còn nữa.

May mắn là ở Galang 2, chính quyền Indo đã cho trùng tu, làm museum với nhiều ảnh chụp, mô hình, đền thờ Mẹ Maria và bản đồ Việt Nam rất lớn. Đặc biệt có 14 chặng đàng Thánh Giá của Chúa Giesu làm trên 14 con tàu tị nạn vừa to vừa đẹp để thu hút du khách. Chúng tôi đi xe bus hoặc thuyền qua các đảo nhỏ như Letung (gọi theo tiếng Việt là Lê Tùng), Air Raya, Keramut, Tarempa, biển Padang Melang, khu phố shopping Nagoya… Chúng tôi được ban tổ chức sắp xếp đến tận nơi thăm viếng, tặng quà cho các cô nhi viện, trường học, nhà dưỡng lão… thật là cảm động. Các em học sinh tiểu học tại 4 trường mà chúng tôi ghé thăm đều mặc đồng phục thật đẹp để chào đón khách, ca hát rất dễ thương. Các em và dân địa phương đều rất hiền lành, khuôn mặt lộ ra nét chân thành đáng mến, không thấy trộm cắp lừa lọc, không ai phải đề phòng kẻ gian, đời sống thật là an bình.

Tại Galang chúng tôi được đi ngang cầu tàu, nơi từng có bảng để chữ “Cửa ngõ của Tự Do và Tình Người”. Người ta cũng có câu “Galang tình xù”, nhưng tình cảm của tôi và anh Duy thì may mắn thay không bị xù! Chúng tôi quen nhau ở Galang, thề hứa và đám cưới ở Cali sau 3 năm rời khỏi trại tị nạn. Tôi đi Cali mang quốc tịch Mỹ, còn anh đi Toronto mang quốc tịch Canada. Một người họ Nguyễn, một người họ Trịnh, tuy có phân tranh nhưng sống với nhau 40 năm ở Toronto tạm ổn cho tới khi anh mất vì bệnh phổi. Cầu tàu này là nơi đưa tiễn của biết bao người. Nhớ làm sao những lon coca cola, những ly milo sữa đá, những chai bia, những bao thuốc lá hiếm hoi … Chúng tôi cũng rất xúc động khi đi ngang khu vực được gọi là “Con đường Máu” – nơi các thuyền nhân Galang đã từng phải xuống đường biểu tình. Gần 20 người đã phải tự sát khi bị cưỡng bức hồi hương vì không đủ tiêu chuẩn tị nạn. Quân đội Indonesia đã từng phải vùng vũ lực để can thiệp. Chúng tôi cũng được thăm 2 ngôi mộ của “Romeo và Juliet”, là đôi nam nữ trẻ đã phải tự vẫn vì gia đình hận thù không cho cưới nhau sau khi đã vượt biên thành công. Cũng có một số ngôi mộ của những người ăn cháo rắn bị trúng độc chết, hoặc uống rượu pha cồn nên cháy ruột mà qua đời, thật là buồn và đáng tiếc vì đã thoát được Việt Nam nhưng vẫn không đến được đất định cư.

Nhóm cũng dành thời gian viếng Miếu Ba Cô dưới tàng cây bồ đề to lớn tại Galang 2. Câu chuyện được kể lại là có hai cô gái bị hải tặc xâm hại nên rất mặc cảm, đau khổ. Người Việt lúc đó lại không ý tứ, hay xầm xì chỉ trỏ, 2 cô lại không đủ bằng chứng pháp lý để được nhận đi định cư. Giọt nước làm tràn ly khiến hai chị em cùng quyết định treo cổ trên cây là khi họ bị vu oan ăn cắp chiếc bóp của nhân viên Cao ủy. Nghe nói có 1 cô gái khác vì ghen tức với sắc đẹp của cô em, mà cô em này lại được con trai người chủ tàu yêu thương, nên chính cô gái này đã lấy cái bóp bỏ vào phòng đổ oan cho 2 chị em. Ngày 2 chị em quyên sinh trước lúc họ được chấp nhận đi định cư chỉ một ngày.

Chúng tôi cũng nghe nhắc lại câu chuyện thương tâm của 12 cô gái Việt bị cướp biển hãm hại, bọn quỉ dữ trói 12 cô khỏa thân lại thành một chùm rồi thả trôi trên biển. Người ta chỉ thấy 11 xác, nhưng vì có nút thòng lọng thứ 12, nên tin là đã có 12 nạn nhân xấu số. Tôi vốn mít ướt nên khóc sướt mướt khi nghe chuyện, và thắc mắc bọn ác độc bắt các cô cưỡng hiếp đã đành, nhưng sao lại phải bỏ công cột xác lại thả trôi? Câu trả lời là bọn này có lẽ mắc bệnh bạo dâm, muốn cảm giác mạnh, muốn chơi trò ma quỉ! Ôi lòng dạ con người, ôi đau khổ và hệ lụy sinh ra từ cộng sản, làm sao tả hết những đau thương nhục nhã, làm sao để xóa bỏ nỗi đoạn trường từ những câu chuyện vượt biên.

Xin lỗi nãy giờ kể toàn chuyện buồn, tôi xin thay đổi kể vài chuyện nho nhỏ vui hơn. Ngoài đi thăm bia mộ, chúng tôi cũng được đi tắm biển vài lần. Có một khu vực gọi là “Water of God” là nơi biển rất vắng, thuộc loại đặc biệt được bảo tồn với nước trong xanh và san hô thật đẹp. Một vài anh chị hơi ngần ngại vì con thuyền đưa nhóm đi tới khu này hơi nhỏ, áo phao cấp cứu lại cũ kỹ nên quyết định về lại khách sạn. Tôi thì thầm nhủ cứ liều, chết thì về với anh Duy lo gì! Nhưng số tôi cũng lớn nên đã trở về toàn mạng, mang theo một bụng nào là nước dừa tươi, nào là cá biển mực nướng thơm ngon được dân địa phương phục vụ ngay tại bãi biển. Cũng được biết trái thanh long và rau muống trên các vùng đất Nam Dương là do người tị nạn Việt Nam mang tới, và dân địa phương rất trân trọng loại giống mới này.

Tôi cũng đi thăm viếng các ngôi chùa, đền thờ Hồi giáo lớn, 2 lần được đi xe ôm dạo phố. Một lần do cô Indo làm bếp tại Homestay cho quá giang đi chợ chung. Lần khác 4 chị em chúng tôi trả tiền đi vòng quanh đảo Tarempa chung với nhau bằng xe hai bánh, xem thác 7 tầng. Cảnh chiều trên đảo vắng thật đẹp với sương mờ bảng lảng, nhưng có một đoạn dài ông tài xế bị lạc, trời lại tối nên tôi khá lo sợ. Không rõ bác tài lạc đường hay ông ta cố ý đem tôi đi bán! Nhưng nghĩ lại nếu cần bán, chắc họ đã chọn các cô gái trẻ đẹp, loại ốm yếu sắp về hưu như tôi thì đâu có ai mua. Nghĩ vậy nên tôi yên tâm, và may mắn thay chúng tôi đã trở về không suy xuyển gì!

Tôi lại được một thời gian dài không phải đi làm, ngày 3 bữa thịnh soạn không phải nấu ăn thật là sung sướng, nhưng báo hại bị lên mấy ký, lại thêm bị muỗi và rệp cắn nên rất “mập mình”. Tôi tên Hân, nếu nặng thêm tức là thêm vào dấu nặng, thì từ “Hân” hoan sẽ trở thành “Hận” thù, thật không nên nặng thêm tí nào!

Điều thú vị trong chuyến đi hầu như ai cũng khóc, cũng mít ướt kể cả các anh to con, râu ria tướng tá nhìn rất “ngầu”. Ừ nhỉ, nhắc tới kỷ niệm, mất mát và biệt ly ai mà cầm lòng cho được. Trên các con tàu và các nơi dừng chân, chúng tôi đều có những lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới. Nhóm lại treo thêm 4 lá cờ lớn là cờ Indo, cờ Mã Lai, cờ Phi Luật Tân và Việt Nam ở các sinh hoạt chính nên nhìn rất trang trọng và ấm cúng.

Chúng tôi cũng nhắc tới những đêm Noel ở nhà thờ Galang, người ta đốt hai hàng đuốc dọc theo đường đồi, tạo ra hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi nhớ tới Linh Mục Dominici và Mục Sư Flemming, cả hai đều giỏi tiếng Việt và giúp người tị nạn rất nhiều. Ngày mới tới Galang được nhóm Tin Lành phát cho mỗi người một túi bánh kẹo và sách vở chúng tôi rất quý. Riêng cha Dominici thì khá thân với chúng tôi. Hồi đó bạn bè nói anh Duy là con cưng của cha Dominici. Quả vậy, anh Duy từng là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, suốt ngày lo làm chuyện xã hội như sửa đường đi, giúp xây phòng tắm kín đáo hơn, giúp tổ chức picnic, văn nghệ… Các bác già thuộc Hội đồng Giáo xứ xin tiền làm công tác có khi bị từ chối, nhưng nếu anh Duy gặp cha Dominici trình bày kế hoạch sinh hoạt cho giới trẻ, thì cha đồng ý ngay. Riêng tôi cũng có duyên may được nhận làm việc cho báo quán Tự Do ở Galang với lương tháng khá cao. Tôi cũng được may mắn trúng giải thi thơ năm 1981, với bài thơ “Nước Mắt Yêu Thương” mà chị Ánh Linh đã diễn ngâm lại trong buổi đốt lửa trại.

Cha Dominici giúp chuyển thư của trại viên cho thân nhân, bênh vực người tị nạn bị hà hiếp, sáng lập báo Tự Do, viết cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi” và nhiều bài báo rất ý nghĩa. Bài này dài quá rồi tôi xin được nói về cuốn sách của cha trong một dịp khác. Ngày cha mất vì ung thư ruột già, chúng tôi ở Toronto có tổ chức lễ cầu nguyện và tri ân tại 2 nhà thờ ở Toronto, người không Công Giáo cũng tham dự khá đông và rất cảm động. Chúng tôi cũng từng được cơ hội đi “Tĩnh Tâm” với cha ở tại Toronto, hiểu rằng chính bản thân Chúa Giêsu cũng từng phải đi sang Ai Cập tỵ nạn. Cha đang được đề cử để phong chức Chân Phước trong đạo Công Giáo.

Chúng tôi về lại Toronto an toàn vào khuya ngày 14 tháng 5, 2025, trong khi nhóm vẫn tiếp tục đi thăm Phi Luật Tân. Cho tới bây giờ trong Whatsapp Group, chúng tôi vẫn luôn thường xuyên nhận được hình ảnh, video, sáng tác nhạc, chia sẻ tâm tình để ân tình còn mãi, và đặt hy vọng vào những lần gặp gỡ khác trong tương lai.

Khép lại chuyến trở về quá khứ để hiểu rõ thêm thân phận thuyền nhân và hoàn cảnh người tị nạn, sống lại một lần nữa với kỷ niệm, tôi thấy mình quá may mắn và thật lòng trân trọng khoảng thời gian này. Tôi nhủ lòng đừng quên những hy sinh mà thế hệ người tỵ nạn Việt Nam trước đó đã gánh chịu – để mang lại đời sống tự do và dân chủ cho các thế hệ sau. Xin đặc biệt tri ân ban tổ chức và từng người trong nhóm, nhất là hai anh Nhỏ và Kiệt trong nhóm Toronto đã giúp tôi trong suốt đoạn đường. Tôi lại càng hiểu rõ hơn giá trị của Tự Do, càng biết mình phải cố gắng hơn nữa để góp phần trao ra, học gương hy sinh dù chỉ với những việc và tâm tình đơn sơ nhất. Vài người bạn rủ tôi vận động xin thêm ít tiền để nhóm gia đình Bi Đông có thêm chi phí mà tu sửa mồ mả, làm thêm các di tích của thuyền nhân. Tôi chưa biết mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ góp tay dù những việc bé nhỏ nhất. Xin tri ân tận đáy lòng, và cũng không quên cảm ơn ông xã đã phù hộ cho tôi có một chuyến đi thật ý nghĩa và bình an.

Nguyễn Ngọc Duy Hân