Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai bản tuyên ngôn độc lập

Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai bản tuyên ngôn độc lập

Phạm Cao Dương

VietCatholic News

70 năm nhìn lại: Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.

(A) TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng xã hội chủa nghĩa vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”[1] không hơn không kém.

Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm Thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói được Trần Trọng Kim kể lại như sau:

“-”Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.”[2]

Người ta cần phải nhớ là hơn mươi năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời nhà vua còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của ông trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim “chịu khó” lập chính phủ mới. Ông Bảo Đại nói :

-“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[3]

Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.” Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác, như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.

Nội dung bản Tuyên ngôn

Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:

“ “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.

“ Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.

“Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.[4]

Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.

Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:

Thứ nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong..[5] Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Hoàng Đế Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn hay trực tiếp hơn từ Vua Tự Đức, căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.

Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường đứt cho người Pháp là và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Hoàng Đế Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận chứ không phải là do công lao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến hay chỉ biết một cách lơ mơ. Một chi tiết khác cũng cần phải được chú ý ở đây là hai chữ “độc lập” đã được sử dụng tới hai lần: “nước Nam khôi phục quyền độc lập” và “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập”, trong một bản văn ngắn. Sau này chính Bảo Đại đã dùng danh từ “tuyên ngôn độc lập – proclamation d’indépendance” khi nói tới văn kiện này trong hồi ký của ông.

Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Ta cũng nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói khéo léo nhằm ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật, một điều cả nhà vua và Chính Phủ Trần Trọng Kim luôn luôn quan tâm phòng ngừa.

Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”.”Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành của người Nhật với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.

Thứ tư: “”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.””Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”

Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.

Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?

Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trong nhiều năm trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận[6].

(B) BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.

Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa?

Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?

Thứ nhất , là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt[7], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.

Thứ hai , là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của ông này rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.” [8]

Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người ở bên cạnh nhà vua và được Việt Minh móc nối cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[9]

Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử trước đó, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật.

Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội[10] và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”.[11] Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…[12]

Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.

Nội dung bản Tuyên Ngôn

Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là bàn tuyên ngôn duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.

Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không nhằm vào một đối tượng quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng kể công và nhất là xách động.

Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy rằng nói về lịch sử nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi.

Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.

Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đ ã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.

Điều, như người viết đã nói ở trên, là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh. Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.

Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam… Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai như là một cá nhân đều có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được vì độc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền.

Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.” Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội.

Chính vì vậy Luật sư Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền,[13] dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.

Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được. /-

Phạm Cao Dương

[1] Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.

[2] Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.

[3] – nt – , tr. 51.

[4] Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.

[5] Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.

[6] Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.

[7] S.M.Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103

[8] Võ Nguyên Giáp, “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.

[9] Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế…, tr. 76.

[10] Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.

[11] Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.

[12] – nt-, tr. 134.

[13] Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007. Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.

(*) Chú thích của Tòa sọan: Tác gỉa Phạm Cao Dương là Giáo sư, Tiến sỹ dạy môn Lịch sử và Văn hoá Việt Nam tại một số Đai học Mỹ

Khủng hoảng di dân tràn sang Hy Lạp và Macedonia

Khủng hoảng di dân tràn sang Hy Lạp và Macedonia

Những người di dân đang đợi cảnh sát Macedonia cho phép đi qua biên giới giữa Hy Lạp và Macedonia.

Những người di dân đang đợi cảnh sát Macedonia cho phép đi qua biên giới giữa Hy Lạp và Macedonia.

Giữa lúc người tỵ nạn từ Syria và các nước khác bị xâu xé vì chiến tranh tìm đường từ Hungary đi sang nước Đức và các điểm đến khác ở Châu Âu, hàng ngàn người khác đang bị kẹt ở Hy Lạp và Macedonia, mà không hề biết khi nào họ có thể tiếp tục cuộc hành trình.

Cao Ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc cho hay khoảng 30.000 người di dân đã tới Hy Lạp, kể cả từ 15.000 tới 18.000 người chỉ trên đảo Lesbos mà thôi, trong khi 7.000 người tỵ nạn Syria đã tới Macedonia, một nước cộng hoà thuộc Nam Tư cũ.

Bộ trưởng Nội vụ lâm thời của Hy Lạp Yiannis Mouzalas được Pháp tấn xã dẫn lời nói trên một đài phát thanh ở địa phương rằng tình hình trên đảo Lesbos “sắp bùng nổ”.

Hãng thông tấn Reuters nói cơ quan tỵ nạn LHQ đã ra lời kêu gọi khẩn cấp nói rằng con số người tỵ nạn tìm đường lánh nạn trên khắp Địa Trung Hải để tới Châu Âu sẽ lên tới 400.000 người trong năm nay.

Bà Melissa Fleming, người phát ngôn của Cao Uỷ Tỵ nạn LHQ, được Reuters dẫn lời nói với các nhà báo ở Geneve hôm nay rằng các nước EU phải thiết lập ‘một hệ thống bảo đảm tái định cư”, trong đó mỗi nước cam kết sẽ nhận một con số di dân nhất định.

AFP tường thuật rằng họ có thông tin là Chủ tịch Ủy Hội Âu Châu Jean-Claude Juncker dự kiến ra mắt một kế hoạch vào ngày mai, theo đó Đức sẽ nhận 31.000 người di dân, Pháp nhận 24.000 người và Tây Ban Nha 15.000 người.

Phó Thủ Tướng Đức Sigmar Gabriel nói với báo chí hôm qua rằng nước ông có khả năng tiếp nhận tới 500.000 người tỵ nạn mỗi năm trong vài năm tới.

Đức trước đây nói rằng họ dự kiến sẽ nhận tới 800.000 người tỵ nạn trong năm nay.

Bà Suu Kyi kêu gọi quốc tế giám sát bầu cử Myanmar

Bà Suu Kyi kêu gọi quốc tế giám sát bầu cử Myanmar

Lãnh tụ đối lập Myanmar Aung San Suu Kyi phát biểu tại bang Shan ở miền nam Myanmar, ngày 6/9/2015.

Lãnh tụ đối lập Myanmar Aung San Suu Kyi phát biểu tại bang Shan ở miền nam Myanmar, ngày 6/9/2015.

Lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi kêu gọi nên có một cuộc giám sát quốc tế để theo dõi cuộc tổng tuyển cử ở Myanmar vào tháng 11 này.

Đây là cuộc bầu cử đầu tiên tính từ nhiều thập niên nay từ khi quân đội lên cầm quyền, cho tới khi chế độ quân phiệt kết thúc vào năm 2011.

Trong một băng video tải lên hôm nay trên trang Facebook của chính đảng của bà, là Liên minh Dân chủ Toàn quốc, gọi tắt là NLD, nhà đấu tranh cho dân chủ lâu năm nói rằng cuộc bầu cử này là lần đầu tiên trong nhiều thập niên mà nhân dân Miến Điện có cơ hội mang lại những thay đổi thực sự.

Bà Suu Kyi nói “đây là một cơ hội mà chúng ta không thể bỏ lỡ. Chúng tôi hy vọng rằng cả thế giới hiểu được việc có được các cuộc bầu cử tự do và công bằng quan trọng như thế nào đối với chúng tôi, và đảm bảo các kết quả của một cuộc bầu cử như vậy phải được tất cả các bên liên quan tôn trọng. ”

Bà nói thêm “hãy giúp chúng tôi bằng cách quan sát những gì đang diễn ra, trước các cuộc bầu cử, trong các cuộc bầu cử, và đặc biệt quan trọng sau khi diễn ra bầu cử. Đây là đóng góp lớn nhất mà quý vị có thể làm cho hoà bình và tiến bộ của nước này.”

Hôm này là ngày đầu tiên của chiến dịch vận động chính thức cho cuộc bầu cử ngày 8/11 để bầu ra quốc hội mới và quốc hội đó sẽ chọn tổng thống.

Đảng NLD được dự kiến sẽ đoạt được nhiều thắng lợi trong cuộc bầu cử này. Nhưng bà Suu Kyi không hội đủ điều kiện để trở thành tổng thống, vì một điều khoản trong Hiến Pháp loại trừ bà vì bà có hai người con trai có quốc tịch nước ngoài.

1,001 lý do Gởi Tiền Về Việt Nam

1,001 lý do Gởi Tiền Về Việt Nam

Nguoi-viet.com

Đằng-Giao/Người Việt

CLAREMONT, California (NV) Giáo sư Đại Học Pomona, Thái Cẩm Hưng, hoàn tất công trình nghiên cứu về một đề tài ai ai trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ làm, nhưng không hề hiểu biết chi tiết về việc ấy: Gởi tiền về Việt Nam.

Cuốn sách có tựa đề ‘Insufficient Funds,’ tạm dịch là “Không Đủ Tiền.”

Cuốn sách mới của Giáo Sư Thái Cẩm Hưng.(Hình do ông Thái Cẩm Hưng cung cấp)

“Không đủ tiền” đã lập tức nhận được giải thưởng Sách Hay Nhất Năm 2015 về Á Châu của Hội Xã Hội Học Hoa Kỳ.

Giáo sư Hưng trả lời nhật báo Người Việt: “Tựa này là do một Việt kiều ở Virginia gặp tôi tại Việt Nam đề nghị.”

“Anh ta kể một hôm ra ATM rút tiền nhưng không được, chỉ thấy biên nhận có dòng chữ: “INSUFFICIENT FUNDS:  SORRY YOU CANNOT WITHDRAW MONEY AT THIS TIME. (Không đủ tiền: Xin cáo lỗi, quí vị không thể rút tiền bây giờ).”

Các nhà phê bình gọi đây là một “cuộc nghiên cứu thành công rực rỡ mang tính bước ngoặt,” một tường thuật về tài chánh của người di dân, một “đóng góp lớn lao cho sự hiểu biết của chúng ta về sinh hoạt kiều hối, theo thông cáo báo chí của Đại Học Pomona.

“Tôi nảy ý định viết cuốn sách này là vì tôi nhìn thấy sự tiêu xài gần như vô độ của Việt kiều khi về nước,” giáo sư Hưng nói.

 

 

Giáo Sư Thái Cẩm Hưng trong một buổi thuyết Giảng.  (Hình: Pomona.edu)

“Cho nên tôi muốn tìm hiểu để coi có nguyên nhân gì khiến họ làm như vậy, nguyên nhân sâu xa hơn là khoe khoang, “lấy le””.

Cũng là người Việt di cư, vượt biên đến Mỹ đầu thập niên 1980, nghiên cứu này có ý nghĩa sâu xa cho chính bản thân tác giả.

“Lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó ở tiểu bang Mississippi, tôi từng chứng kiến cảnh cha mẹ tôi gởi tiền về Việt Nam để rồi người nhà trong nước lâm vào cảnh phá sản, mất cả chì lẫn chài,” giáo sư Hưng thuật chuyện.

Một trong những điểm đáng chú ý, ông nhận định rằng rất nhiều mối quan hệ gia đình của người Việt đã bị “tài chánh hóa,” nghĩa là nền tảng tình cảm gia đình được xây dựng dựa trên tiền bạc.

Gởi tiền về cho thân nhân ở Việt Nam là cách biểu lộ tình thương.

Rất đông gia đình gốc Việt ở nước ngoài gởi tiền cho thân nhân với giá quá đắt, bất chấp sự bấp bênh tài chánh của họ ở ngay tại đây.

Những gia đình này làm chỉ vừa đủ “trên mức nghèo,” theo ấn định của chính phủ là $23,000/năm cho gia đình bốn người, hoặc $14,000/năm cho một người.

Thế mà, vì gởi tiền về Việt Nam, họ phải chịu sống cảnh nghèo nàn, túng thiếu. Họ tự đặt mình vào một tầng lớp mà các nhà xã hội học gọi là “the missing class,” một giai cấp bị lãng quên, trong các cuộc thảo luận về an sinh xã hôi hoặc cơ hội tìm việc làm, giáo sư Hưng ghi nhận.

“Họ tiện tặn, không dám tiêu xài để gởi tiền trên mức họ làm ra cho nên trong khi họ có thể trợ giúp cho thân nhân ở Việt Nam có được cuộc sống thoải mái, bao nhiêu người đã mang công, mắc nợ.”

“Đây là một hy sinh lớn.”

“Khổ nỗi, rất hiếm người nhận tiền ở Viêt Nam thấu hiểu được sự hy sinh này bởi vì chả bao giờ người gởi lại nói thật hoàn cảnh tài chính của mình, của những người đã sang đến Mỹ.”

“Họ muốn để người nhà nghĩ rằng họ đã đạt được “giấc mơ Mỹ” và đón nhận sự nể phục và tôn kính của thân nhân.”

Ở chương Sáu, sách bàn về chuyên gởi tiền lâu dần thành một thói quen.

“Đa số, khi đã gởi tiền vài lần thì thân nhân bắt đầu có hy vọng, trông mong, nên người gởi buộc phải tiếp tục gởi vì không muốn người nhà thất vọng.”

Chương Bảy bàn về tình tạng những đòi hỏi của người trong nước bị cám dỗ bởi những nhu cầu vật chất phải xài đồ ngoại một cách thiếu thực tế nên tạo áp lực thân nhân nước ngoài.

Chương Chín đề cập đến những câu chuyện thương tâm: Một ông và một bà coi việc gởi tiền như một bổn phận, vì gởi quá nhiều tiền trong thời gian dài nên lâm vào hoàn cảnh phá sản.

Xấu hổ và mặc cảm với thân nhân đã khiến họ không dám liên lạc nữa; họ cắt đứt với gia đình. Trong lúc ấy, gia đình ở Việt Nam không hiểu lý do gì.

“Ở góc nhìn khác, khi về nước, những Việt kiều này thường tiêu tiền phung phí khiến thân nhân không thể ngờ rằng Việt kiều người nhà của mình lại có thể lâm vào cảnh túng thiếu ở nước ngoài được.”

 

Tác giả Thái Cẩm Hưng.  (Hình do ông Thái Cẩm Hưng cung cấp)

“Tôi xin nhấn mạnh, cuốn sách này hoàn toàn không phê bình hay châm biếm những người gởi tiền được đề cập mà là để chúng ta cảm thông cho họ, cho hoàn cảnh của họ.”

“Tôi có hai cảm giác rất trái ngược khi viết cuốn ‘Tiền không đủ,” một là buồn và một là thích thú. Buồn cho những cảnh sống quá thê thảm và tạm bợ, còn thích thú là vì những tình thương sâu đậm qua sự hy sinh cho thân nhân.”

Giáo sư Hưng nêu rằng, người di cư có những lợi điểm hơn những sắc dân khác như dân da trắng hoặc da đen nghèo vì họ có chỗ để cho và tiêu xài.

Người Việt di cư tìm được giá trị và nhân phẩm mà họ không thể có được nếu không có quê hương nghèo nàn để quay lại.”

“Tôi cảm động vô cùng khi nghe về quyết định của một số người. Có người cố tình lấy hết tiền trong thẻ tín dụng để gởi về Việt Nam bởi vì họ có được sự hài lòng.”

Nhân phẩm, cảm giác thương yêu gia đình, cảm giác thành đạt là những gì chúng ta tìm được khi giúp đỡ thân nhân ở Việt Nam.

Theo thống kê của Ngân Hàng Thế Giới, trong năm 2015, ước tính số tiền Việt kiều ở Mỹ gởi về Việt Nam là $6.8 tỷ trong tổng số $12 tỷ từ các nước khác.

Năm 2008, giáo sư Thái Cẩm Hưng cho phát hành cuốn sách khác mang tựa đề “For Better or for Worse: Vietnamese International Marriages in the New Global Economy,” tạm dịch: “Tốt Hơn hay Tệ Hơn: Những Cuộc Hôn Nhân Quốc Tế của Người Việt Trong Bối Cảnh Kinh Tế Toàn Cầu Mới.”

Phụ lục:

Ước Tính Tiền Gởi Về Việt Nam Năm 2015: $12 tỷ

American Samoa: $1 triệu

Úc: $1 tỷ

Áo: $15 triệu

Azerbaijan: $1 triệu

Bangladesh: $80 triệu

Belarus: $1 triệu

Bỉ: $10 triệu

Bulgaria: $2 triệu

Cambodia: $111 triệu

Canada: $843 triệu

Trung Quốc: $124 triệu

Cộng Hòa Czech: $209 triệu

Đan Mạch: $47 triệu

Phần Lan: $25 triệu

Pháp: $53 triệu

Đức: $647 triệu

Guam: $2 triệu

Hong Kong: $53 triệu

Hungary: $14 triệu

Iceland: $3 triệu

Ấn Độ: $2 triệu

Ireland: $7 triệu

Italy: $21 triệu

Nhật: $167 triệu

Bắc Hàn: $2 triệu

Nam Hàn: $522 triệu

Lào: $34 triệu

Malaysia: $109 triệu

Moldova: $1 triệu

Mông Cổ: $1 triệu

Hà Lan: $58 triệu

Tân Caledonia: $4 triệu

Tân Tây Lan: $26 triệu

Na Uy: $72 triệu

Philippines: $1 triệu

Ba Lan: $12 triệu

Nga: $52 triệu

Cộng Hòa Slovak: $6 triệu

Tây Ban Nha: $6 triệu

Thụy Điển: $74 triệu

Thụy Sĩ: $58 triệu

Thái Lan: $62 triệu

Timor-Leste: $1 triệu

Ukraine: $11 triệu

Anh: $124 triệu

Mỹ: $6.8 tỷ

Uzbekistan: $2 triệu

(Nguồn: Migration and Remittances Factbook 2015 – World Bank)

Báo Việt Nam đả kích phóng viên bị tước thẻ hành nghề

Báo Việt Nam đả kích phóng viên bị tước thẻ hành nghề

VOA

Nhà báo Đỗ Hùng của tờ Thanh Niên điện tử bị cách chức, rút thẻ hành nghề vì

Nhà báo Đỗ Hùng của tờ Thanh Niên điện tử bị cách chức, rút thẻ hành nghề vì “đụng chạm đến những biểu tượng thiêng liêng của dân tộc như Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

VOA Tiếng Việt

08.09.2015

Một tờ báo ở trong nước mới viết rằng việc nhà báo Đỗ Hùng của tờ Thanh Niên điện tử bị cách chức, rút thẻ hành nghề là “bài học cho kẻ ngông cuồng”, và là “quả báo” vì “đụng chạm đến những biểu tượng thiêng liêng của dân tộc như Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

Tờ Năng lượng mới (Petro Times) còn dẫn lời “nhiều người cho rằng, hình thức xử lý đó là xác đáng, là luật pháp đã được thực thi”.

Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn hôm 4/9 đã ký quyết định thu hồi thẻ nhà báo đối với ông Đỗ Hùng, Phó Tổng thư ký tòa soạn điện tử báo Thanh Niên, một ngày sau khi báo này “triệu tập phiên họp khẩn” để miễn nhiệm chức vụ đối với ông.

Bộ hay được các phóng viên gọi là 4T cũng yêu cầu tờ báo có số người đọc thuộc loại lớn ở Việt Nam phải nộp lại thẻ của nhà báo này trước ngày 18/9.

Cả báo Thanh Niên cũng như Bộ Thông tin và Truyền thông đều không nêu ra lý do cụ thể vì sao ông Hùng lại bị cách chức.

Trong bài viết đăng trên mục “Xã hội” hôm 8/9, tờ Năng lượng mới viết thêm rằng “Đỗ Hùng đã có nhiều lần sử dụng blog và mạng xã hội đăng tải những bài viết có nội dung sai trái, gây bức xúc trong cộng đồng suốt 2 năm qua”.

Tờ báo là cơ quan ngôn luận của ngành dầu khí Việt Nam còn sử dụng từ như “anh ta” hay gọi tên không chức danh để đề cập tới nhà báo Đỗ Hùng cùng với cách viết mang tính cáo buộc, một chiều, như thường thấy trong các thông tin về tội phạm mà công an Việt Nam từng phát cho báo chí.

Hiện trang Facebook cá nhân của ông Hùng không còn truy cập được, và VOA Việt Ngữ không thể liên lạc với ông để xin phỏng vấn.

Các nhà báo ở trong nước nhận định với VOA Việt Ngữ rằng nhà báo này vấp phải “sự cố” trên sau khi đăng một đoạn viết trên trang Facebook nhân ngày Quốc khánh 2/9, trong đó có nhắc tới ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Trong khi nhiều người cho rằng đoạn viết ngắn sử dụng toàn dấu sắc có tính chất hài hước, một số người khác lại nghĩ rằng nó giễu cợt những đóng góp của hai nhân vật trên.

Đoạn đó là một trong 5 bài viết bị tờ Petro Times nêu lên, coi đó là “một phần nhỏ trong những hành vi sai trái, những nội dung xấu mà Hùng phát tán trên Internet”.

Tờ báo này viết thêm: “Hùng treo trên facebook của mình bài “Quốc khánh” với sự giễu cợt, đả kích, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cả ý nghĩa thiêng liêng của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9”.

Trong khi đó, blogger Đoan Trang, một người từng làm báo ở Việt Nam, viết trên trang Facebook cá nhân: “Không biết tuyên giáo và tòa soạn báo Thanh Niên căn cứ vào đâu để xử lý cách chức, thu hồi thẻ của một nhà báo đã viết một status hài hước trên facebook”.

Trong khi đó, nhiều phóng viên cũng đặt câu hỏi như blogger này, đồng thời bày tỏ lo ngại về nghề đầy rủi ro ở Việt Nam cũng như việc các nhà báo bị “vạ miệng” trên Facebook thời gian qua.

Một nhóm thậm chí còn lên tiếng vận động Bộ 4T trả lại thẻ nhà báo cho ông Hùng.

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Võ Thị Hảo

RFA

  • Đặc xá cướp giết hiếp. Giam giữ tù lương tâm

Đợt đặc xá quy mô lớn của chính quyền VN trước 2/9/2015 với số lượng 18.298 tù hình sự đã khiến dư luận được một phen ngỡ ngàng.

Có phạm nhân giết người, tòa phạt 14 năm tù, nay ở  chưa được một nửa thời hạn đã tha bổng(có dư luận cho rằng do cô ta có thân hình bốc lửa và ở tù giùm cho một con ông cháu cha) !

Tội trộm cướp, tham nhũng, cướp giết hiếp, ma túy đều được đặc xá một cách  rộng rãi khác thường.

Riêng người có lương tâm, vô tội, chỉ đấu tranh cho sự thật và tự do nhân quyền như Trần Huỳnh Duy Thức, anh Ba Sàm, Tạ Phong Tần, Nguyễn Ngọc Già, Bùi Hằng.. và nhiều người khác thì cho đến nay vẫn bị giam cầm dù người VN và thế giới đã nhiều lần lên tiếng phản đổi.

Cung cách quản lý xã hội như vậy chính là đặc trưng của 70 vận hành chính thể sau cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9.

  • 70 năm dân thành “khách trọ“

Những ngày cuối tháng 8/2015, người VN chứng kiến tại Malaysia một sự kiện mà dù đã gần một thế kỷ mơ ước và gẳng gỏi, người VN cũng không thể có được. Người dân đã thực hiện quyền làm chủ đất nước và vận mệnh của mình bằng cách rầm rộ xuống đường biểu tình yêu cầu thủ tướng đương nhiệm Najib Rajak của họ phải từ chức chỉ vì phát hiện ra ông ta có dấu hiệu tham nhũng. Chính quyền không đàn áp họ, vì đó là quyền đương nhiên của dân, không ai có quyền xâm phạm.

Trong khi ở VN, nhà cầm quyền đàn áp tất cả những người ôn hòa bày tỏ nguyện vọng chống TQ xâm lấn lãnh hại, dân oan đi khiếu kiện và những người chống tham nhũng, những trí thức bất đồng chính kiền.

Đó là nghịch cảnh rõ ràng tố cáo bản chất của nền chính trị, thể hiện người dân là khách trọ hay là chủ trên đất nước của mình.

Người dân trong một nước tôn trọng dân chủ và nhân quyền thì mới thực sự có đất nước.

Tại VN, dân không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền thay đổi thể chế chính trị và nhà cầm quyền khi họ không làm những cảm kết trước dân, người dân đương nhiên chỉ là những kẻ  phải lưu vong trên chính Tổ quốc của  mình.

VN là một trong những thể chế chính trị độc tài cộng sản cuối cùng trên thế giới đã dùng những thủ đoạn khôn khéo để tồn tại, Cái gọi là thành quả đổi mới – thực chất là đổi mới nửa vời chỉ cốt để cứu thể chế chính trị cộng sản toàn trị VN khỏi sụp đổ dây chuyền theo hệ thống xã hội chủ nghĩa,  nới một chút nút thắt cổ người dân để họ làm kinh tế rồi bóc lột của họ tận xương tủy để làm giàu cho cá nhân.

Mặc dù đời sống kinh tế của người VN hiện nay có cao hơn so với thời cách đây 70 năm, nhưng trong cùng một thời gian đó, kinh tế các nước có cùng xuất phát điểm thấp như VN trong khu vực đã tăng cả 7, 8 lần.

Với bộ máy tham nhũng hiện nay, chi thường xuyên đã chiếm tới 72% ngân sách, tiền trả nợ lên tới 25%, chỉ còn khảng 3% ngân sách là chi cho đầu tư phát triển. Quan chức chính quyền, cơ quan đoàn thể nay còn không thèm giấu bộ mặt vô liêm sỉ, trơ trẽn tha hồ cấu kết với nhau cướp đoạt tiền của dân trên mọi lĩnh vực từ thuế phí chí, buộc dân phải hối lộ, đổi tiền lấy chữ ký trên mọi lĩnh vực, kể cả vay tiền nước ngoài hay cho phép đầu tưcng xuyên thất thoát, kém hiệu quả. Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói „ Cứ vay tiền ào ào thì không phát triển đất nước, trả nợ không được thì đến ngày là sụp“.

  • “Một cổ ba tròng“

Tỉ lệ thuế và phí dân VN phải chịu  đóng/GDP cao từ 1,5 đến 3 lần các nước trong khu vực. là để nuôi tới 3 bộ máy chồng chéo chéo chức năng, nhiệm vụ với nhau: đảng cộng sản, chính phủ, các tổ chức  đoàn thể, chính trị xã hội trong Mặt trận tổ quốc từ TW tới địa phương.

Sau 70 năm cách mạng Tháng tám thành công, dân một cổ thêm ba tròng. Tiền thuế của dân đã phải trả cho giới cai trị bóc lột và để bảo vệ cho một chế độ xã hội bất công. Ông Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh niên đã nhận định rằng từ 50- 70% ngân sách nhà nước đã rơi vào túi quan tham. Người dân sẽ bị đàn áp nếu không chịu nô lệ, nhẫn nhục đóng thuế, phí nuôi bộ máy cai trị.

Lấy tiếng rằng nông dân được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp,, nghe tưởng rằng nhà nước nhân đạo lắm, nhưng trên thực tế khác hẳn. Nông dân phải gánh trên 1.000 loại phí và lệ phí! Sự tham lam tàn bạo này chưa từng có trong lịch sử VN.

Sáng 10/8/2015, báo cáo  Ủy ban thường vụ QH tại phiên thảo luận dự thảo Luật phí và lệ phí cho biết, như với nông nghiệp, dù vừa qua đã ra soát bỏ nhiều loại nhưng vẫn còn 937 khoản phí và 90 lệ phí. Ông Nguyễn Sinh Hùng than: „một quả trứng mà gánh tới 14 loại phí thì đúng là …trời đất ơi(theo Vnexpress 10/8/2015 „Nông dân vẫn chịu trên 1000 loại phí và lệ phí“) .

Những lời hứa trịnh trọng được nêu trong Tuyên ngôn độc lập về thực thi quyền tự do, bình đẳng, quyền con người, điều đã khiến người VN tin và do đó đã dốc toàn lực ra ủng hộ Việt Minh và đảng cộng sản, qua 70 năm, càng ngày càng chứng minh rằng đó chỉ là mớ giấy lộn, một lá bùa hữu hiệu để chính quyền cộng sản độc tài cướp đoạt quyền con người, quyền tự chủ của người dân mà thôi.

  • Đặc trưngThời đại Hồ Chí Minh: huynh đệ tương tàn, tụt hậu xa so với thế giới, dân bị nô lệ hóa

Về việc tự vỗ ngực khen ngợi và che giấu những tội ác của mình, ít ai bằng đảng cộng sản VN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói không một chút căn cứ thực tế :“ Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử VN, đánh dấu kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Trong khi đó, chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận là VN đang đứng chót bảng xếp hạng tỏng nhóm ASEAN-6, thậm chí có lĩnh vực còng thấp hơn cả Lào, Campuchia, Myanmar, ba nước được coi là kém phát triển nhất trong khối.

Lời vỗ ngực tự khen trên của Nguyễn Phú Trọng cũng không khác gì lời tự khen trên xương máu những nạn nhân trong cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cách đây gần 70 năm tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội VNDCCH: Luật cải cách ruộng đất của chúng ta là chí nhân chí nghĩa, hợp lý hợp tình…“.

* Cần cách mạng thể chế

70 năm minh chứng sự bất lương của thể chế độc tài cộng sản là đã quá đủ..

Thậm chí không một nỗ lực cải cách nào có thể thay đổi được nó về bản chất. Những người muốn cài cải cách như Trần Xuân Bách, Võ Văn Kiệt đã có quyền lực lớn nhưng cũng bó tay hoặc bị hãm hại vì cải cách là đụng đến quyền lợi riêng nhiều quan chức, chưa kể có một bộ máy tình báo Hoa Nam đứng đằng sau.

Nguyên nhân nào đã khiến người VN ngày nay nổi tiếng thế giới, nhiều nơi phải ghê tởm người VN khi VN liên tục xuất khẩu sự vô văn hóa, gái điếm, trộm cắp, buôn lậu, ma túy, sự giết chóc ra toàn thế giới? Những ác quỷ tàn sát cả mẹ cha, chồng vợ, bạn bè, thân chỉ vì vài đồng bạc từ đâu ra?

Đều là những sản phẩm của con đường vạch ra từ 70 năm trước.

Khi xã hội không có công bằng, người dân không tương lai, và hình mẫu của họ là những quan chức dối trá, cướp ngày thì được vinh thân phì gia, nhiều người dân, đặc biệt là lớp trẻ, sẽ tuyệt vọng và noi gương quan chức, cũng sống như ác quỷ.

Vì thế, cần một ngày Quốc khánh khác cho VN. Không phải quốc khánh đau thương và lọc lừa 2/9.

VTH

Người Việt tử vong trong vụ ẩu đả đẫm máu ở Nhật

Người Việt tử vong trong vụ ẩu đả đẫm máu ở Nhật

Camera giám sát an ninh quay được cảnh vụ ẩu đả.

Cảnh sát ở Osaka, Nhật Bản, đang điều tra một vụ giết người sau một cuộc ẩu đả hôm 6/9 làm 1 người Việt thiệt mạng.

Khoảng 11 giờ đêm (giờ địa phương), một người phụ nữ lái xe qua hiện trường đã gọi cảnh sát để thông báo một vụ ẩu đả giữa một nhóm 4-5 người cầm dao và gậy bóng chày và một người đàn ông nằm trên mặt đất.

Khi cảnh sát đến hiện trường, họ phát hiện một người đàn ông nằm bất động với nhiều vết đâm ở bụng và ngực. Người đàn ông này được đưa tới bệnh viện nhưng đã chết.

Camera giám sát an ninh cho thấy có tổng cộng 6 kẻ tấn công chạy trốn khỏi hiện trường.

Trang tin Nippon News cho biết, 2 người khác, cũng được cho là công dân Việt Nam, được tìm thấy trong tình trạng chảy máu nghiêm trọng và ngã quỵ gần một tòa nhà chung cư.

Một nhân chứng tận mắt chứng kiến vụ việc cho biết, tất cả những người tham gia ẩu đả đều là người Việt.

Nhân chứng này nói: “Họ ngã gục trong một vũng máu. Tất cả đều là người Việt. Đó là một cuộc ẩu đả giữa những người Việt”.

Cảnh sát cho biết, cả 3 nạn nhân đều sống trong cùng một khu chung cư. Cảnh sát cũng đang điều tra để xác định danh tính người đàn ông thiệt mạng.

Theo Japan Today, Tokyo Reporter, TBS News, Nippon News

Văn hóa giáo dục Việt Cộng dạy con người tàn ác, mất nhân tính

Văn hóa giáo dục Việt Cộng dạy con người tàn ác, mất nhân tính

Giáo Già (Danlambao)Văn hóa giáo dục Việt Cộng sau thời gian quá dài của 40 năm lộng hành nhồi sọ, “dạy con người tàn ác, mất nhơn tính”, đang bị một học sinh 14 tuổi cho là “cải lùi”, để tuổi trẻ và thế hệ thứ 3 dũng cảm bước lên làm lịch sử “cải tiến”…, để tới lúc, dù có thể là rất lâu, một tỷ lệ cao hơn học sinh Việt Nam có thể công khai, lớn tiếng chỉ trích Bộ Giáo dục và bất kỳ cơ quan nhà nước nào làm ăn tồi tệ…, để cái chính quyền gian ác, bất tài, thất đức… hiện nay bị đẩy lùi vào chỗ dơ bẩn nhứt của lịch sử.

*

Trong bài viết “Tại Sao Họ Lại Hung Ác Đến Vậy”, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc [xem hình], trên blog của đài VOA, ngày 25/8/2015, cho biết (xin trích nguyên văn):

Tối ngày 8 tháng 8 vừa qua, trong một quán karaoke ở Hải Phòng, nghĩ là anh Nguyễn Tuấn Định nhìn “đểu” mình, một số thanh niên dùng tuýp sắt đánh anh đến bị chấn thương sọ não, phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Chưa đã cơn giận, các thanh niên này còn chạy đến bệnh viện dùng dao chém chết anh Định ngay trên băng-ca lúc chờ bác sĩ khám và chữa.

Mấy ngày sau, ở Bến Tre, Huỳnh Văn Phương và Lê Văn Tèo, cả hai đều 35 tuổi, đi xe gắn máy, bị đụng quẹt vào xe của anh Phạm Văn Phường, 25 tuổi. Phương và Tèo nhào xuống đánh anh Phường. Chưa đủ, Phương và Tèo chạy vào một căn nhà dọc đường lấy dao ra cắt cổ anh Phường. Nạn nhân chết ngay tại chỗ.

Ra đường thì thế; ở nhà có an toàn hơn không? Không. Cũng trong mấy tháng vừa qua, ở Việt Nam xảy ra mấy vụ giết người, ở đó, cả gia đình đều bị giết.

Như vụ giết người tại Nghệ An, chẳng hạn. Vy Văn Mằn vào vườn của anh Lô Văn Thọ hái trộm mấy trái chanh, bị anh Thọ bắt gặp. Hai người cãi vã nhau. Mằn nhào đến đánh anh Thọ. Chưa đủ. Mằn chụp con dao chém liên tục vào đầu anh Thọ khiến anh Thọ chết tại chỗ. Vợ anh Thọ, chị Lê Thị Yến thấy vậy sợ hãi ôm con chạy trốn. Mằn rượt theo. Gặp bà Chương, mẹ anh Thọ, Mằn chém chết; sau đó, chém chị Yến và cả đứa con chị địu trên lưng, mới một tuổi. Như vậy, chỉ vì mấy trái chanh, Vy Văn Mằn giết cả gia đình anh Lô Văn Thọ, kể cả một em bé sơ sinh.

Vụ giết người ở Nghệ An xảy ra chưa bao lâu thì đến vụ giết người cũng tàn độc không kém ở Bình Phước. Nguyễn Hải Dương, 24 tuổi, bị gia đình người yêu phản đối, bèn rủ bạn đến nhà người yêu cũ, giết sáu người trong gia đình, kể cả người mình từng yêu. Chỉ có một em bé chưa tới hai tuổi là được tha mạng.

Rồi xảy ra vụ án ở Yên Bái. Vì một sự tranh chấp nhỏ trên mảnh đất làm nương, Đặng Văn Hùng, 26 tuổi, xô xát với anh Trần Đức Long. Bị đánh, Anh Long bỏ chạy, Hùng rượt theo, chém tới tấp vào đầu vào cổ anh Long nhiều nhát. Chị Hoa, vợ anh Long, bỏ chạy. Hùng rượt theo, chém chị chết. Chưa hết. Hùng chạy vào nhà anh Long, chém chết em vợ anh Long. Cũng chưa hết. Thấy con trai anh Long, mới hai tuổi, đang đứng trên giường, Hùng “tiện tay” nhào đến chém mấy nhát khiến bé chết ngay tại chỗ.

Sau đó Giáo sư Quốc viết thêm: “Ở trường học, chỉ cần một chút xích mích, học sinh, kể cả học sinh nữ, ẩu đả và hành hạ nhau trước cái nhìn dửng dưng của các học sinh khác”.

Đi tìm nguyên nhơn của sự tàn ác mất nhơn tính đó, không tìm đâu xa, chỉ nhìn từ 40 năm trở lại đây, kể từ ngày Cộng sản Bắc Việt hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam, ngày 30-4-1975, hẳn ai cũng thấy việc VC giáo dục con trẻ như thế nào, và văn hóa VC thể hiện trong các tác phẩm văn chương như thế nào.

Xin nói qua một chút về chuyện giáo dục. Ở nhà trường, VC đã dạy tuổi thơ tinh thần gian ác ngay từ khi con trẻ vào lớp 1 bậc tiểu học. Trong quyển giáo khoa lớp 1, khi dạy toán cộng chúng đã dùng xác người để dạy học trò: “5 tên ngụy + 2 tên đế quốc bị bắn chết = 7”. Chỉ với bài toán cộng này mọi người nhận ra tính cách tàn bạo của nền giáo dục VC trong mục đích “dùng giáo dục học đường trang bị cho trái tim và khối óc tuổi thơ lên 5 lên 6 chuyện giết người”. Chúng đã nhồi sọ tuổi thơ; dạy tuổi thơ dửng dưng với chuyện giết người.

Trong khi trước đó, ở các lớp học của Việt Nam Cộng Hòa, cô giáo thường cho học sinh làm toán, đại khái như: Bà bán hàng mua 1 con gà $4 và 1 con vịt $3; tổng cộng là 3$+$4=$7; bà đem ra chợ bán, 1 con gà $5 và 1 con vịt $4; tổng cộng là $5+$4 = $9; nhờ đó bà lời được $9-$7 = $2. Nhìn qua bài toán này VC kết luận: “Bà bán hàng tượng trưng cho tư bản, chúng đã bóc lột của nhân dân $2”.

Để rồi từ đó, dạy tuổi thơ căm thù tư bản, căm thù những kẻ đã bóc lột nhân dân, làm cho nhân dân nghèo đói, khiến tuổi thơ ủng hộ cuộc “cách mạng giải phóng nhân dân khỏi bàn tay bóc lột của tư bản, khỏi cảnh nghèo đói, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp”.

Chưa hết, chính Đinh Thế Huynh (sinh năm 1953, quê Nam Định), Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI; từng là Tổng biên tập báo Nhân dân, Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam; lúc còn là một kẻ viết văn, trong bài viết “Trâu Cũng Đánh Mỹ”, được cho cô giáo dùng dạy học sinh trong lớp học, có nội dung được sao chụp lại đính kèm.

Trên lãnh vực giáo dục VC đã bịa chuyện để “nhồi sọ nhân dân” ngay từ lúc “nhân dân” còn quá nhỏ, chưa biết “đâu đúng, đâu sai”, chẳng những nghe cô giáo “dạy sao biết vậy”, lại còn hãnh diện về “kỳ tích” đánh Mỹ, giết Mỹ, của trâu; trâu còn biết giết Mỹ, sao em không biết giết Mỹ; trâu còn căm thù Mỹ, sao em không căm thù Mỹ. Trẻ thơ đâu biết “giết Mỹ” là “giết người” và “giết người” là “tàn ác”. Trẻ thơ bị nhồi sọ như vậy đó, khiến cho lớn lên con người mất hết nhơn tính, để rồi xem chuyện “giết người” là chuyện dửng dưng, không chút áy náy.

Bước sang lãnh vực văn học, sự tàn ác còn được thể hiện khủng khiếp hơn nữa. Xin kể qua một chút về kẻ được gọi là nhà văn Tạ Duy Anh, trong tác phẩm của mình ông này viết:

“… Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ nguỵ cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng nguỵ bị mình xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ.”

Không cần biết đó là chuyện có thật hay hư cấu, nhưng sự tàn ác của nó đã đến tận cùng của khủng khiếp. Chính cái tàn ác khủng khiếp đó đã tiêm nhiễm vào não trạng của bọn công an và côn đồ xã hội chủ nghĩa, khiến đâu đâu người ta ai cũng thấy sự tàn ác khủng khiếp của bọn cầm quyền xã hội chủ nghĩa, từ tên quản giáo trong các trại tù “cải tạo”, cho đến tên công an trên đường phố trấn áp người biểu tình chống Trung cộng xâm chiếm đất nước, đàn áp dân oan khiếu kiện, hay ôn hòa bày tỏ nguyện vọng, đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam…, hay nhẹ nhàng như đón chào người tù lương tâm mãn hạn tù.

Điển hình như cuối tháng 8 năm 2015 vừa qua, ngày 28 tháng 8 năm 2015, đoàn người đón tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật mãn hạn tù trở về bị hành hung (xem hình 1); trong số này có ông Lê Đình Lượng bị đánh đập gây thương tích (hình 2), cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam cũng bị hành hung (hình 3), anh Chu Mạnh Sơn bị đánh đổ máu đầu (hình 4) [Nguồn ảnh: Fb Thúy nga/Trần Khắc Đạt]…

Nhìn lại 40 năm qua, trong thời gian đầu, sự nhồi sọ và bạo lực gian ác của kẻ cầm quyền xã hội chủ nghĩa có khiến người dân Miền Nam sợ hãi; nhưng sự gian dối càng lúc càng lộ liễu và sự sợ hãi cũng càng lúc càng phai lạt, nhứt là kể từ thế hệ thứ hai, ánh sáng “cởi mở” rọi vào các hóc hiểm của lòng tham và ngang ngược ngụy biện xã hội chủ nghĩa đã không còn như trước, người dân đã lần hồi “sáng mắt”. Họ không còn tin nghe những gì VC nói. Họ đã tận mắt thấy những gì VC làm.

Đến thế hệ thứ ba, nhờ cuộc “giao lưu” với hải ngoại; đặc biệt nhờ nếp sống hải ngoại và truyền thông quốc tế dễ dàng truyền vào quốc nội; nhứt là nhờ internet, sự bưng bít và lừa gạt dư luận của VC không còn bị hơn 700 tờ báo và các đài truyền thanh truyền hình nhà nước VC “bịp” được nữa.

Tuổi trẻ ngày nay, nhứt là các blogger, đã nhờ facebook, twitter… dũng cảm tiến lên “làm lịch sử”, vận động quốc tế cùng vạch mặt công an côn đồ lộng hành. Nhờ vậy, các nhà ngoại giao và báo chí thế giới ngày càng râm ran hơn về vai trò của công an và côn đồ trong nỗ lực bịt miệng người dân không chỉ bằng nhà giam mà còn bằng bạo lực đường phố [xem hình Ông Felix Schwarz, tham tán Chính trị và Nhân quyền đại sứ quán Đức đang thăm hỏi anh Nguyễn Chí Tuyến tại nhà riêng – hồi 10:45 ngày 12/05/2015].

Được biết, nói về chuyện “an ninh giả danh côn đồ đánh dân là hạ sách”, ngày 16-6-2015, phóng viên Hoà Ái của đài RFA cho biết [nguyên văn]: “Hiện ngày càng có nhiều các nhà hoạt động ở VN bị côn đồ tấn công và hành hung, điển hình là trường hợp anh Nguyễn Chí Tuyến và anh Đinh Quang Tuyến bị đánh hồi tháng 5 năm nay. Sau đây, Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với 2 anh Nguyễn Chí Tuyến và Đinh Quang Tuyến về những vụ việc liên quan” [Xem hình Anh Đinh Quang Tuyến (trái) và anh Nguyễn Chí Tuyến (phải) sau khi bị đánh hồi tháng 5 năm 2015].

Hòa Ái: Xin được chào 2 anh Nguyễn Chí Tuyến và anh Đinh Quang Tuyến. Câu hỏi trước tiên, xin được hỏi anh Nguyễn Chí Tuyến rằng có phải vụ việc anh bị côn đồ hành hung hồi đầu tháng 5 vừa qua là lần đầu tiên không, thưa anh?

Anh Nguyễn Chí Tuyến: Lần này coi như lần đầu tiên bị hành hung và bị tấn công nặng. Còn những lần trước thì họ sách nhiễu bằng cách bắt bớ và trong lúc đi biểu tình thì chúng tôi coi đấy là bình thường thôi. Nhưng lần này bị tấn công, bị hành hung thì khá nghiêm trọng vì có thể chưa đến mức lấy tính mạng của tôi, tuy nhiên nếu bị nặng hơn một chút thì tôi có thể bị mất trí nhớ hoặc là thành người bị mắt lòa. Cho nên tôi nghĩ rằng đây là lần nguy hiểm nhất đối với tôi, kể từ trước đến nay.

Hòa Ái: Thưa anh Đinh Quang Tuyến, từ khi bị đánh hôm 19/5 và anh nói là “công an mật vụ tấn công”, sau đó anh phải trải qua một cuộc giải phẩu để nâng sụn mũi, hiện nay sức khỏe của anh ra sao?

Anh Đinh Quang Tuyến: Sau khi bị đánh hôm 19, ngày 20,21,22 thì vào bệnh viện. Chiều 22 mổ, 8 giờ tối xong. Sau khi mổ thì đau. Đau đến sáng 23 thì đỡ hơn. May mắn là sau khi mổ không có biến chứng nào hết. Ngày 24 thì tôi cảm thấy khỏe, tháo băng ra được mặc dù bệnh viện kêu để 5 ngày. Uống thuốc chừng 3-4 ngày sau thì cảm thấy không đau nữa. May là rất mau lành…”

Đó là vài trường hợp điển hình, nó không khiến tuổi trẻ nao núng, sợ hãi, vì sau đó cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền của hai anh Tuyến và nhiều bạn trẻ khác vẫn tiếp tục. Nó còn được tiến hành trên bình diện rộng hơn nữa. Trong cuộc đấu tranh đòi “diễn biến”, về mặt giáo dục, nhiều người đã làm gương thực hiện những “diễn biến” cụ thể, như hợp soạn “sách giáo khoa” dùng cho giáo viên dạy và cho học sinh học ở trường, mà không chờ đợi Bộ Giáo Dục và nhà nước CSVN làm.

Thật vậy, trong bài viết được cho đăng trên đài VOA, ngày 14.08.2015, phóng viên Khánh An cho biết: Nhà giáo Phạm Toàn, người lập ra nhóm Cánh Buồm, nói rằng: “Với hơn 10 năm làm việc nghiêm túc, nhóm đã hoàn thành bộ Sách giáo khoa tiểu học và cho ra mắt bộ sách này hôm 12/8. Bộ sách có sự tham gia của nhiều soạn giả nổi tiếng và được thông qua một ban duyệt bản thảo gồm nhiều nhà nghiên cứu, giáo sư, tiến sĩ. Nhóm đang bắt tay thực hiện bộ sách dành cho lớp 6 trở lên”.

Trong buổi hội thảo ra mắt “Sách Văn và Tiếng việt lớp 6” của nhóm Cánh Buồm hôm 12/8, đã bất ngờ gây thành tiếng vang sâu rộng trong dư luận. Nó cho biết, trong phần đặt câu hỏi, một học sinh lớp 8 tên Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, đã đứng lên phát biểu như sau [trích đoạn ghi âm được đăng tải lên mạng Youtube]: [Xem hình Vũ Thạch Tường Minh học sinh trường Hà Nội – Amsterdam đang phát biểu tại buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm. Ảnh và chú thích: RFA]

“Một điều mà con muốn nói với chính phủ Việt Nam, hay cụ thể hơn là Bộ Giáo dục, theo con, các vị bộ trưởng, thứ trưởng giáo dục không phải là nên áp dụng cả bộ sách này, mà là áp dụng cái lối giáo dục của bộ sách này vào giáo dục Việt Nam, bởi vì bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả. Nên bây giờ con muốn các vị bộ trưởng, thứ trưởng hãy thay đổi đường lối giáo dục của Việt Nam, có thể theo đường lối của Cánh Buồm cũng được, các vị có thể thay cả bộ sách giáo khoa cũng được. Các vị có thể nói là mất thời gian, nhưng con thấy là thời gian các vị cải tiến, cải lùi còn mất thời gian hơn. Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa, giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục con sẽ làm”.

Phát biểu thẳng thắn, không lập luận, không lý lẽ, của một cậu bé 14 tuổi này, đã gây thành trận “bão” dư luận. Video clip ghi âm cậu bé đã được lan truyền nhanh chóng trên mạng xã hội. Nó được gần nửa triệu lượt người xem chỉ sau 4 ngày.

Từ một vài sự kiện cụ thể nêu trên, mọi người hẳn thấy những giọt máu trên đầu những nhà đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ hóa Việt Nam…, như Nguyễn Chí Tuyến, Đinh Quang Tuyến…, sẽ là những giọt nước làm đầy cái “ly đấu tranh”, hoàn mãn cuộc đấu tranh, như Giáo Già từng nói, sau 40 năm trầm luân vì độc đảng độc tài Cộng sản “40 bước tới… bước”.

Cũng vậy, nền văn hóa giáo dục Việt Cộng sau thời gian quá dài của 40 năm lộng hành nhồi sọ, “dạy con người tàn ác, mất nhơn tính”, đang bị một học sinh 14 tuổi cho là “cải lùi”, để tuổi trẻ và thế hệ thứ 3 dũng cảm bước lên làm lịch sử “cải tiến”…, để tới lúc, dù có thể là rất lâu, một tỷ lệ cao hơn học sinh Việt Nam có thể công khai, lớn tiếng chỉ trích Bộ Giáo dục và bất kỳ cơ quan nhà nước nào làm ăn tồi tệ…, để cái chính quyền gian ác, bất tài, thất đức… hiện nay bị đẩy lùi vào chỗ dơ bẩn nhứt của lịch sử.

6/9/2015

Nạn nhân chiến tranh VN lên tiếng về bức ảnh bé trai Syria chết đuối

Nạn nhân chiến tranh VN lên tiếng về bức ảnh bé trai Syria chết đuối

Bà Kim Phúc và phóng viên Nick Út đứng trước bức ảnh 'em bé naplam'

Bà Kim Phúc và phóng viên Nick Út đứng trước bức ảnh ’em bé naplam’

LHQ: Khủng hoảng người tị nạn là ‘thời khắc định hình’ cho châu Âu

07.09.2015

Bà Kim Phúc, bé gái trong bức ảnh do nhiếp ảnh gia Nick Ut của hãng AP chụp năm 1972 vào lúc cao điểm của chiến tranh Việt Nam, nói bà hy vọng cái chết của bé trai người Syria sẽ làm ‘cả thế giới thức tỉnh’.

Hãng tin CBC của Canada tường thuật rằng bà Kim Phúc phát biểu như vậy tại Winnipeg hôm qua, Chủ nhật, khi bà đến Nhà Thờ Baptit Grant Memorial để ký tên sách “Girl in the Picture – Cô gái trong bức Ảnh”.

Tại buổi sinh hoạt này, bà Kim Phúc nhắc tới tình cảnh hàng ngàn người tỵ nạn Syria và những hành động tội ác đã buộc họ phải rời bỏ quê hương ra đi tìm đường sống.

Từng là chủ đề của tấm ảnh được ’em bé napalm’ được thế giới biết đến, được cho là đã có tác động tới công luận quốc tế về chiến tranh Việt Nam, bà Kim Phúc nói tấm ảnh chụp xác của Alan Kurdi, cậu bé 3 tuổi người Syria, trôi giạt vào một bờ biển ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã đặc biệt gây tiếng vang nơi bà, vì bà từng có kinh nghiệm về tác động mà những bức ảnh chụp các thảm hoạ có thể có đối với lịch sử.

Bà Kim Phúc chỉ mới 9 tuổi khi nhiếp ảnh gia Nick Ut chụp tấm ảnh một bé gái không quần áo với nét mặt kinh hoàng, vừa chạy vừa la hét sau khi bị bỏng bom Napalm trong chiến tranh Việt Nam năm 1972. Từ đó, Kim Phúc đã trở thành một biểu tượng sống của những thảm cảnh chiến tranh.

Nhiều sử gia cho rằng tấm ảnh của nhiếp ảnh gia Nick Ut, chụp 5 đứa trẻ Việt Nam chạy sau một cuộc tấn công bom napalm đã khơi dậy cho phong trào phản chiến. Tấm ảnh mang đã giúp Nick Ut đoạt Giải Pulitzer về ảnh phóng sự năm 1973.

Nghệ sĩ Ấn Độ Sudarsan Pattnaik tạo ra một tác phẩm trên cát ở bãi biển Puri miêu tả cậu bé chết đuối người Syria Alan Kurdi.

Nghệ sĩ Ấn Độ Sudarsan Pattnaik tạo ra một tác phẩm trên cát ở bãi biển Puri miêu tả cậu bé chết đuối người Syria Alan Kurdi.

Hãng tin CBC tường thuật về phản ứng của bà Kim Phúc khi xem bức ảnh của bé trai Syria nói rằng bà đã khóc rất nhiều khi xem tấm ảnh, và tự hỏi “tại sao lại có nhiều đứa trẻ vô tội phải chết như thế. Tôi hy vọng là bức ảnh này sẽ làm cả thế giới thức tỉnh.”

Nay định cư ở Canada, bà Phan Thị Kim Phúc góp tiếng cùng với nhiều tiếng nói khác, kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới hãy làm việc với nhau để giải quyết cuộc khủng hoảng tỵ nạn Syria.

Bà Kim Phúc nói bà hy vọng quê hương thứ hai của bà là Canada, và các nước khác trên khắp thế giới sẽ mở rộng vòng tay và mở cửa biên giới để đón nhận người tỵ nạn Syria.

Theo CBC, Thanh Nien.

Cơ quan hành chính không thể tước quyền hành nghề (*)

Cơ quan hành chính không thể tước quyền hành nghề (*)

Huy Đức

Việc anh Nguyen Thanh Son và chị Nguyen Thi Thao giới thiệu kinh nghiệm của BBC để tham khảo là rất cần thiết (theo anh, chị này thì BBC cấm phóng viên bày tỏ quan điểm chính trị trên mạng xã hội – Nga Pham, Giang Nguyen). Tuy nhiên, nếu bộ quy tắc ứng xử này mà áp dụng ở Việt Nam thì Bộ Thông tin phải… rút thẻ của hơn 20 nghìn nhà báo vì đã ủng hộ đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong một nền chính trị đa đảng, các báo muốn có người đọc, muốn người đọc tin là khách quan thì việc đầu tiên là phải tuyên bố phi đảng phái (cho dù báo Mỹ cũng có tờ ngầm ủng hộ Dân chủ, có tờ ngầm ủng hộ Cộng hòa). Nhưng so sánh báo chí Anh, Mỹ với báo chí Việt Nam thì cũng giống như so sánh một lít với một kilogram, so sánh hai số hạng không cùng đại lượng!

Tuy nhiên, nhầm lẫn hết sức tai hại ở đây là, các anh chị ấy đã chưa phân biệt được mối quan hệ giữa nhà nước – công dân với quan hệ “chủ – thợ”. Bộ quy tắc ứng xử của BBC và phóng viên là quan hệ hợp đồng lao động. BBC có thể “xử lý” một phóng viên bày tỏ quan điểm chính trị trên Twitter hay FB nhưng nếu chính phủ Anh mà “rút thẻ” (tước quyền hành nghề) một nhà báo nào đó chỉ vì họ bày tỏ quan điểm chính trị (có thể là trái với quan điểm của đảng cầm quyền) thì chính phủ đó sụp liền.

Thanh Niên có thể cách chức nhà báo Đỗ Hùng nếu trong hợp đồng lao động (hoặc bộ quy tắc ứng xử) có điều khoản cấm phóng viên… hài hước chính trị. Nhưng, Bộ Thông tin rút thẻ của nhà báo Đỗ Hùng thì lại là một sự lạm quyền. Trong một nhà nước (nếu có) pháp quyền thì một cơ quan hành chính không thể tước quyền hành nghề, cũng như tước quyền tự do ngôn luận (ghi trong Hiến pháp) của công dân (chỉ có tòa án mới có thể áp dụng hình phạt tước các quyền hành một số nghề với những công dân phạm một số tội nhất định nào đó).

Chúng ta có thể không đồng tình với cách viết của nhà báo Đỗ Hùng nhưng nếu chúng ta bào chữa cho quyết định của Bộ Thông tin thì có nghĩa là chúng ta đang bỏ phiếu cho một nhà nước không hiến pháp.

H. Đ.

Nguồn: FB Trương Huy San

Phố bỗng thành sông

Phố bỗng thành sông

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-09-07

Phố bỗng thành sông Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

620.jpg

Đường phố Biên Hòa ngập nước chỉ sau một trận mưa lớn

RFA photo

Your browser does not support the audio element.

Mưa trong vòng một giờ đồng hồ, phố bỗng biến thành sông. Mưa trong vòng một ngày, cả thành phố thành một biển nước. Mưa trong vòng một tuần, cả thành phố bị bế tắc, ngưng trệ vì nước ngập khắp lối… Chuyện này chỉ xảy ra trong thời gian gần đây, khi các con sông nổi giận và khi thành phố trở nên yếu đuối, oằn mình gánh chịu những công trình tốn tiền tỉ nhưng giá trị chỉ tính bằng xu. Những con sông đã thật sự nổi giận.

Sông Đồng Nai nổi giận

Ông Vũ, sống tại Cù Lao Phố, Biên Hòa, Đồng Nai, chia sẻ: “Mưa nó bắt đầu từ Rằm tháng Bảy cho đến tháng Mười, mỗi khi triều cường dâng thì nó ngập thôi. Nước dơ dáy lắm vì nước cống có bao nhiêu trồi lên đường bấy nhiêu mà!”.

Theo ông Vũ, chuyện thành phố Biên Hòa bị ngập nặng chỉ sau chưa đầy một giờ đồng hồ mưa lớn là chuyện chỉ mới có lần đầu. Trước đây thành phố này cũng từng bị ngập nhiều lần nhưng muốn Biên Hòa bị ngập, ít nhất phải mưa kéo dài vài giờ đồng hồ và mưa lớn chứ không như hiện tại.

Trận mưa vào lúc 13h chiều ngày 25 tháng Tám vừa qua chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy một giờ đồng hồ nhưng hầu hết các tuyến đường chính ở thành phố Biên Hòa bị biến thành sông. Và nước sông Đồng Nai cũng dâng cao một cách bất thường. Theo ông Vũ, chuyện này không phải tự dưng mà có, đó là hậu quả của việc đắp sông một cách vô ý thức của các doanh nghiệp.

Ông Vũ nói rằng với các doanh nghiệp vừa muốn mau làm giàu lại vừa không có hiểu biết về sông ngòi, chuyện chấp nhận bỏ ra một ít tiền để lấn sông, tạo thêm mặt bằng sản xuất là một cơ hội hái ra tiền. Nhưng với nhà nước, họ không được phép để xảy ra chuyện này. Vì đây là vấn đề hết sức hệ trọng, không đôn giản chỉ là đắp sông và lấn sông như người ta tưởng.

Bởi với các con sông, dòng chảy, dòng đối lưu và dòng năng lượng thủy triều của bất kì một con sông nào đều phải đòi hỏi cả ngàn năm, thậm chí hàng chục ngàn năm để ổn định. Để tạo ra những vecto ổn định cho dòng chảy, dòng năng lượng như hiện tại, sông Đồng Nai đã từng có sự xê dịch qua lại hai bên bờ với biên độ có khi lên đến cả chục cây số. Sự xê dịch này diễn ra từ năm này qua năm nọ, kéo dài cả ngàn năm, thậm chí cả chục ngàn năm để tạo liên kết bờ, tạo vecto ổn định và tạo trầm tích đáy sông.

Một khi con sông đã đi vào ổn định, đương nhiên là sự ổn định tương đối, điều đó có nghĩa là quá trình xê dịch bờ của nó tạm ngưng trong một thời gian nào đó vì lưu lượng của nó đã phù hợp với liên kết bờ, liên kết đáy. Nhưng có vẻ như nhà nước cũng như doanh nghiệp không hiểu điều này nên mới cho móc hàng chục thủy điện ở thượng nguồn, dưới hạ lưu thì cho đào đắp vô tội vạ. Điều này một lần nữa khiến dòng chảy bị xáo động, vecto của sông cũng như dòng năng lượng thủy triều bị tác động mạnh.

400.jpg

Người dân vất vả di chuyển trên đường ngập nước. RFA photo

Và một lần nữa, sông phải gồng mình tạo ra dòng chảy mới cho phù hợp với địa hình mới sau khi con người đã tác động vào sông bằng cách đào đắp lung tung. Với sông là một sự gồng mình để chữa lành vết thương hai bên bờ. Nhưng với con người, đó là sự nổi giận, cuồng nộ của sông, nó có thể hất bất kì ngôi nhà nào bên bờ sông xuống dòng chảy cuồn cuộn trong một buổi sáng và thậm chỉ sau một trận mưa, nó có thể dâng lũ, xé toạc một bờ bao hoặc hất tung một con đường xuống nước.

Đây không phải là chuyện tưởng tượng mà là kinh nghiệm đáng sợ về sự nổi giận của nhiều con sông trên thế giới, đặc biệt là các con sông tại Việt Nam đã trở nên cuồng dữ, chảy xiết trong mùa mưa vài năm trở lại đây bởi nạn hút cát, đào đắp manh mún để nuôi cá hai bên bờ và xây dựng công trình, nhà cửa trên cơ thể sông.

Ông Vũ đưa ra kết luận, sông có sự sống và có linh hồn, sông sẽ là người bạn thiết và nên thơ của một thành phố, sông làm cho thành phố trở nên xanh mát, sạch sẽ, tươi đẹp. Nhưng đồng thời sông cũng có thể biến thành phố trở thành nơi bất an, nguy hiểm nếu như con người không biết đối xử tử tế với sông. Rất tiếc, những con sông tại Việt Nam hầu như là bị đối xử rất tệ!

Ăn của rừng và ăn của sông

Một cư dân Biên Hòa, Đồng Nai tên Khái, chia sẻ thêm: “Ví dụ mùa mưa thì nước nó dâng lên chừng một hai tiếng thì nó cũng rút chứ nó không ngập lâu. Nói chung thì chưa đến mức ngập nhiều. Nhưng nước nó dơ lắm, bây giờ nếu có tiền mua đất thì nên mua những nơi cao ráo chứ đừng mua chỗ ngập, dơ lắm, mưa ngập mệt lắm…!”.

Theo ông Khái, hậu quả của những trận ngập lụt thành phố không nhỏ chút nào. Bởi ngoài yếu tố vật chất, yếu tố tâm lý xã hội mới đáng sợ. Lấy Sài Gòn và Biên Hòa làm ví dụ, ông Khái nói rằng nếu như những năm trước 1975, Sài Gòn được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” vì ngoài yếu tố xanh, sạch, đẹp, thịnh vượng và lịch sự, Sài Gòn không phải chìm trong những trận ngập lụt mỗi khi mưa tới và Sài Gòn là miền đất hứa của nhiều người tha phương.

Hiện tại, với đời sống lộn xộn, nhiều nơi nhếch nhác bởi mưa ngập, đời sống của đại bộ phận người có thu nhập thấp trở nên bấp bênh… Và Sài Gòn chẳng còn đủ sức để làm cho người dân nơi đây tin rằng mình đang sống giữa một thành phố giàu có, năng động nữa. Thành phố Biên Hòa cũng vậy, sau một trận mưa, mọi thứ trôi lỏm ngõm, xe hơi lấn lướt xe máy, cả phố trở thành sông, nhiều đồ đạt của dân bị ngập ướt và nguy cơ chập điện rất cao.

Ông Khái nói thêm là với đà xây dựng thiếu qui hoạch tổng thể, xử lý chất thải công nghiệp cẩu thả và hệ thống thoát nước hỏng hóc, không đủ tiêu chuẩn khoa học như hiện tại, hầu hết các thành phố trên cả nước đều đối diện với nguy cơ ngập lụt khi mùa mưa tới. Và với đà này, không chừng vài năm nữa, các vùng thôn quê lại tổ chức cứu trợ cho người thành phố mỗi khi sông nổi giận. Đây là chuyện rất có thể xảy ra!

Ông Khái cho rằng sở dĩ các thành phố hiện tại trở nên nhếch nhác, ngập ngụa là bởi người ta đã ăn rừng đến độ rừng không còn máu để chảy, ăn hết rừng, người ta chuyển sang ăn các con sông đến độ sông oằn mình với những vết thương. Việc ăn rừng diễn ra trong các dự án thủy điện, khai thác gỗ lòng hồ vô tội vạ và lâm tặc, kiểm lâm thi nhau tùng xẻo rừng. Việc ăn sông diễn ra trong các dự án nạo vét, cải tạo sông và xử lý nước thải công nghiệp gian dối, hệ thống cống rãnh liên tục đào lên lại đắp xuống… Tất cả những trường hợp này đều do lỗi quản lý mà ra, đây là một loại lỗi hệ thống trong một hệ thống bị lỗi!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Bùi Thanh Hiếu: Nói Trong Im Lặng

Bùi Thanh Hiếu: Nói Trong Im Lặng

Tường An, thông tín viên RFA
2015-09-07

Bùi Thanh Hiếu: Nói trong im lặng Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

620.jpg

Bìa sách Nói Trong Im Lặng của Bùi Thanh Hiếu

Photo by Tường An

Sau quyển « Đại Vệ Chí Dị » được nhà xuất bản Trẻ phát hành tại hải ngoại. « Nói Trong Im lặng” là quyển thứ hai của tác giả Bùi Thanh Hiếu (tức blogger Người Buôn Gió) được Eva Tas Foundation xuất bản. Thông tín viên Tường An giới thiệu quyển sách này đến quý thính giả qua phần phỏng vấn tác giả và nhà xuất bản sau đây:

«Nói trong im lặng»  là tiếng thét của những ngòi bút bị bẻ gẫy trong đêm đen Việt Nam, những tiếng thét đã được mang đến thế giới bên ngoài bởi một người vừa thoát khỏi vũng đen ấy : Bùi Thanh Hiếu.

Viết về những thủ đoạn của chế độ công an tại Việt Nam không phải là một đề tài mới lạ, mỗi ngày tràn đầy trên các mạng xã hội những bản tin tố cáo những hành động đàn áp của công an bằng mọi hình thức, từ đánh đập đến gây thương tích bằng những tai nạn giả.

Quyển « Nói trong im lặng » của Bùi Thanh Hiếu góp vào những tiếng kêu cứu trong vô vọng đó một ánh đuốc, soi sáng một khoảng đêm đen Việt Nam. Quyển sách nhỏ kéo cao hơn nữa tấm màn sân khấu của những gương mặt được nguỵ trang dưới cái tên « công an nhân dân » hay là những ngôn từ cao quý khác. Qua những nhân vật hư cấu, Bùi Thanh Hiếu đã diễn tả lên những con người thật giữa đời thường.

Quyển sách nói về một cựu bộ đội tên B. về hưu, chủ một blog mang tên Tiếng Quê Hương, hiền lành, chân chất, nhìn mọi việc quanh mình bằng cái nhìn đơn giản, hiền hoà, tin vào một chính sách mà ông đã phục vụ suốt cuộc đời cho tới ngày nhận giấy về hưu. Vẫn với một niềm tin son sắt, ông sông yên bình với những bài viết blog . Cho đến một ngày có một người dân oan tìm đến ông kể lể. Cảm thương cho hoàn cảnh của bà, ông B đã giúp bà tìm kiếm những hình ảnh, chứng cứ rõ ràng để tố cáo việc uỷ ban xã thông đồng với uy ban giải toả mặt bằng để trưng thu đất của bà bằng giá rẻ mạt. Ông đã giúp bà Nguyễn làm đơn nộp lên phường với niềm tin son sắt vào guồng máy hành chánh như khi ông còn là một chiến binh lăn lội ở Trường Sơn:

“Ông B cảm thấy họ thật dễ mến. Dù sao trong bộ máy công quyền còn những con người có tâm huyết với dân, tận tụy với công việc như thế này. Ông cảm thấy mình đã làm những việc có ích giúp người cô thế như bà Nguyễn. Chắc thấy tờ biên nhận này bà Nguyễn sẽ mừng lắm.”*

Và sau đó, ông thu thập chứng cứ, viết bài vạch trần việc gian tham đưa lên trang blog của ông và cũng từ đó, bi kịch của gia đình ông bắt đầu mà ông vẫn chưa hề biết

“Ông lấy xe ra về, trong lòng khoan khoái niềm vui. Ông không biết rằng những tờ đơn ấy sẽ chẳng bao giờ đến ủy ban nào cả,  nó sẽ nằm trong két hồ sơ dưới dạng một tập hồ sơ riêng có tên ông ở một cơ quan an ninh bí ẩn trong hàng hà vô số những cơ quan an ninh bảo vệ chính trị, bảo vệ Đảng trên khắp đất nước này.. ít người dân thường nào hay kể cả cán bộ nhà nước biết đến những cơ quan bí ẩn đó.”*

“ Cuốn sách này chỉ nói lên sự thật, những dữ kiện có thật được giả tưởng hoá, một câu chuyện tưởng tượng nhưng hoàn toàn dựa trên những dữ kiện có thật. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy rất thú vị
– ông Rudolf Geel “

Hệ thống an ninh của nhà nước Việt Nam như một mạng nhện vây bủa trên cao treo những mắt cáo nhìn xuống kiểm soát từng hành động, từng suy nghĩ của mỗi con người và bằng mọi thủ đoạn tàn nhẫn, sẵn sàng bẻ gẫy bất cứ ai không khuất phục họ, những thủ đoạn rất hèn mà một cơ quan nhà nước chính trực không bao giờ dùng với người dân của họ. Những bài viết của Ông B đã lọt vào những mắt cáo đó, lời của Tiến, một côn đồ đội lốt công an:

« Xong rồi đây anh, cái con mụ này được thằng C nó dẫn đến nhà thằng B, nhờ thằng B viết bài. Mụ đấy khai là gặp tại nhà thằng B, đưa đơn từ, kể chuyện. Thằng B có quay clip phỏng vấn mụ ấy. Mụ bảo tại chính quyền không giải quyết nên gặp ai là mụ ấy nhờ. »*

Một kế hoạch thật bài bản được đặt ra để cho ông B. vào tròng, trong khi đó, ông B. vô tư vui mừng với ý nghĩ mình đang làm một điều tốt , Thành, một cán bộ an ninh thuộc phòng bảo vệ tư tưởng chính trị nội bộ thuộc khối 5 bộ Công an báo cáo thành tích:

« Báo cáo sếp, đã cho người nắm bắt thông tin về B. Trước tiên em định lựa một số bài viết của hắn có cơ sở pháp lý, để triệu tập hắn đến làm việc. Bước đầu để hắn xác định blog của hắn. Vì vậy em sẽ không nhắc đến những bài viết gay gắt chỉ trích chính quyền của hắn ngay. Đây là những bài của hắn em lựa ra để gọi hắn làm việc. Những bài viết này thì hắn có đủ lý để biện minh, như thế hắn sẽ xác nhận là chủ của blog ….buổi sau nữa khi hắn xác nhận rồi thì làm việc đến các bài khác. »*

Và họ không từ bỏ cả thủ đoạn dùng thân nhân để áp lực cá nhân « phạm tội » một thủ đoạn rất tâm lý thường được áp dụng để làm nhục ý chí những người hoạt động, vì bản thân mình có thể chịu khổ những không thể nhìn thấy thân nhân vì mình mà liên luỵ . Lời của  nhân vật Thành:

Rudolf-Geel_Tong-thu-ky-Eva-Tas-Foundation-350.jpg

Ông Rudolf Geel, Tổng thư ký Eva Tas Foundation

«Nắng nôi đi vất vả nhỉ. Làm tốt đấy, mai xuống chỗ trường vợ thằng B hỏi trường nó về nhân thân vợ nó, quá trình công tác, tư tưởng. Rồi nói thế nào để hiệu trưởng ở đó bắn tin lại cho vợ nó biết là có cơ quan an ninh đến hỏi rồi đấy, nói hiệu trưởng bảo vợ nó về nói nó làm gì thì làm đừng ảnh hưởng vợ  con. »*

Quyển sách nhỏ vẽ lên một xã hội bất ổn với bạt ngàn mưu kế, thủ đoạn của mạng lưới an ninh chằng chịt mà những người đối kháng không một tấc sắt trong tay như những con chim đang vẫy vùng trong mạng lưới đó. Với những nhân vật giả tưởng, Bùi Thanh Hiếu đã ráp những mảnh vụn của một xã hội đầy bất trắc để dựng lên một cảnh đời nghiệt ngã cho những người cầm bút. Tác giả Bùi Thanh Hiếu chia sẻ suy nghĩ của mình khi viết quyển sách này:

« Điều mà tôi muốn thường thì tôi viết tôi để cho độc giả, người ta cảm nhận, tôi chỉ diễn tả lại nỗi khổ, cái khó khăn, những cái mà những người cầm bút viết lên sự thật ở Việt Nam họ phải chịu đựng như thế nào. Tức là tôi muốn đưa đến độc giả cái nhìn về số phận của họ, những cái khó khăn của họ, tức là những cái rất là tế nhị mà họ không thể nói ra, viết ra để mọi người khác nhìn được họ và thông cảm, hiểu cho những người viết phản kháng ở trong nước”.

Quyển «Nói trong im lặng”  69 trang được nhà xuất bản Eva Tas Foundation xuất bản bằng tiếng Anh. Tổng thư ký của Eva Tas Foundation, ông Rudolf Geel cho biết cảm tưởng của ông khi đọc cuốn sách này:

«Cuốn sách này chỉ nói lên sự thật, những dữ kiện có thật được giả tưởng hoá, một câu chuyện tưởng tượng nhưng hoàn toàn dựa trên những dữ kiện có thật. Điều đó làm chúng tôi cảm thấy rất thú vị ».

Qua từng trang sách, những người viết blog, những tiếng nói bất đồng chính kiến sẽ nhận ra mình trong từng con chữ : anh bộ đội về hưu tập tành viết lách, chị công nhân xuất khẩu lặn lội giúp dân oan, người thanh niên công giáo bị côn đồ đánh cho tơi tả ngoài đường phố…v.v…và còn nhiều thủ đoạn để cả một hệ thống công quyền của nhà nước trấn áp những người không cùng quan điểm với họ. Bùi Thanh Hiếu nói:

« Thực ra những gì tôi viết đều dựa trên nguyên mẫu của  sự thật, ngay cả trong quyển sách này thì những nguyên mẫu đó thật đến mức độ tôi không muốn đổi tên họ thành một người khác mà tôi muốn đặt họ là A, là B. Đây là những nhân vật kể cả người viết, kể cả người an ninh, những người công quyền hoặc là những người hàng xóm, tất cả đều trong sự thật mà ra. Tất nhiên laf trong những nhân vật đấy thì tôi lấy một nhân vật cơ bản, nhưng mà trong những sự kiện mà ông ấy phải chịu đựng thì không phải chỉ mình ông ấy thôi maf tôi nhặt của người này, của người kia tôi gom lại thành số phận của ông ấy để mọi người hiểu cái mà ông ấy chịu đựng cũng là những cái mà những người khác phải chịu đựng. Cho nên những người cầm bút họ đọc thì họ sẽ thấy bản thân họ được phản ảnh qua đấy một cách trung thực.”

Và chính những xúc tác rất thật đó đã làm cho ông thực hiện quyển sách này chỉ trong vòng 2 tháng. Tác giả  Bùi Thanh Hiếu cho biết :

«Thực sự là nó ở trên những sự kiện có thật và tôi chỉ cần ngồi tôi hình dung lại, tôi chấp nối lại và cứ thế tôi viết ra thôi chứ nó không phải là một điều gì khó khăn. Với người khác có thể khó khăn nhưng với một người đã trải qua rồi thì như là một chuyện kể lại. Tất cả những người bạn người quen, rồi những cảnh mà họ hoặc bản thân mình phải chịu đựng hiện về rất là nhiều và chính nó tạo cho tôi cái cảm xúc mà tôi hoàn thành nhanh cuốn sách này theo yêu cầu của nhà xuất bản đấy. »

Eva Tas Foundation là một tổ chức tư nhân tại Hoà Lan, được lập ra theo ước nguyện của một phụ nữ  Do thái đến từ Đức và sau này sống tại Hà Lan (1933-2007), bà chủ biên một tạp chí về các nạn nhân của trại tập trung Auschwitz , đồng thời bà cũng là một người  công sản giàu có, đó là lý do bà không được cảm tình của một số thành phần. Những năm cuối của thập nên 90, bà tham gia vào chi nhánh của PEN ở Hà lan và mong muốn sau khi bà mất đi Eva Tas Foudation sẽ xuất bản sách của những nhà văn, nhà thơ trong các nước mà tự do truyền thông bị bóp nghẹt. Eva Tas Foudation đã xuất bản sách của các nhà văn từ Ethopia, Honduras, China, Việt Nam ….v.v…các tập thơ của nhà thơ Bùi Chát và Lý Đợi cũng đã từng được Eva Tas Foundation xuất bản.  Mục tiêu của nhà xuất bản này là phá tan bức màn kiểm duyệt của các nước độc tài, ngăn cấm tự do thông tin bằng cách giúp đỡ tài chánh, xuất bản sách cho những bloggers, nhà văn, nhà thơ tại các quốc gia đó. Ông Rudolf Geel cho biết:

«Chúng tôi mong muốn mọi người biết những gì xảy ra trên thế giới trong lãnh vực kiểm duyệt, nó diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, ở Trung Quốc diễn ra một cách khác và ở Việt Nam lại diễn ra theo một cách khác.  Chúng tôi có nhiều quan hệ với nhà văn bất đồng chính kiến hoặc những nhà văn bị theo dõi, chúng tôi giúp họ về tài chánh và chúng tôi giúp những nhà văn trong những quốc gia như thế xuất bản sách của họ.

“ Tôi không biết là tôi sẽ gặp những khó khăn hay không nhưng mà trách nhiệm của tôi trong khi tôi đang an toàn như thế này thì tôi phải viết hộ cho mọi người.
– Bùi Thanh Hiếu ”

Và nếu chúng tôi có thể xuất bản hàng loạt những cuốn sách như thế thì chúng tôi có thể có một hình ảnh tổng quát về cách cai trị trong một quốc gia, cách họ kiểm soát tự do ngôn luận của người khác và  chúng tôi muốn phổ biến nó đến với những người quan tâm đến quyền tự do bày tỏ tư tưởng, vì thế điều quan trọng là chúng tôi không bán, chúng tôi phát miễn phí những quyển sách này »

“Nói trong im lặng”  là phần thứ nhất của quyến sách thứ hai của Bùi Thanh Hiếu, một thanh niên giang hồ của ngõ Phất Lộc, được biết nhiều qua blog Người Buôn Gió của anh. Quyển thứ nhất “Đại Vệ chí dị “cũng thuộc dạng lịch sử giả tưởng, do nhà xuất bản Giấy Vụn xuất bản và Trẻ phát hành ở hải ngoại. Ông Bùi Thanh Hiếu cho biết đang tiếp tục cho phần 2 của quyển “Nói trong im lặng” phần này sẽ nói về số phận của những luật sư, ông Bùi Thanh Hiếu nói:

«Trong cuốn sách này thì tôi nói về người cầm bút, phần 1 tôi nói về người cầm bút. Phần thứ hai thì tôi nói về một nhân vật là luật sư, tức là ở Việt Nam thì có những nhân vật nhà văn, nhà báo, luật sư, họ gặp rất nhiều khó khăn, phần thứ hay này thì tôi viết về luật sư và vẫn là cái bộ máy của an ninh công quyền kia họ đàn áp, ở phần 2 này tôi viết về những luật sư. Nếu tôi tìm được người nào tài trợ xuất bản hoặc tôi sẽ dành dụm tiền tôi tự xuất bản lấy. Tôi sẽ dùng số tiền bán được giúp đỡ các anh em trong nước. Ngay như cuốn sách này được bản quyền 5000 € thì tôi cũng gửi mấy món tiền về cho một số người dân oan, dân nghèo trong nước cũng hết. »

Được một tổ chức ở Đức mời sang Đức để sáng tác, với những quyển sách như thế này,một ngày nào đó, phải trở về Việt Nam thì những gì sẽ chờ đợi ông, Bùi Thanh Hiếu nói :

«Tôi không biết là tôi sẽ gặp những khó khăn hay không nhưng mà trách nhiệm của tôi trong khi tôi đang an toàn như thế này thì tôi phải viết hộ cho mọi người. Mình ở trong nước mình đã sợ mình không dám xuất bản, mà nếu ở bên ngoài mình cũng sợ nốt thì bao giờ mình mới viết được ? bao giờ mình mới xuát bản cho độc giả hiểu được ? “

Luật sư, nhà văn, bloger, dân oan……đều cùng mang những chiếc còng vô hình trên quê hương của chính họ, nhà tù sẵn sàng đón rước họ xuyên qua những nghị định oan nghiệt. Tiếng nói của họ rơi vào khoảng không im lặng của hàng rào kiểm duyệt. Liệu họ có đủ nghi lực để thực hiện giấc mơ được biến suy nghĩ thành lời nói mà không bị bất cứ một hành động đàn áp nào ? Hay là rồi họ cũng phải khuất phục trước mạng lưới trùng trùng thủ đoạn của cơ quan an ninh đầy quyền lực để rồi trở thành như ông B. ở cuối đời :

Trong viễn cảnh về một tương lai gia đình yên ổn, mỗi lần ở thành phố ra, đi qua vườn hoa trước cửa dinh thủ tướng. Ông B cúi đầu không dám nhìn những người dân oan gầy còm, xơ xác đang trải chiếu nằm vỉa hè kêu oan vì mất đất.
Không phải riêng mình ông B cúi đầu. Có nhiều người viết như ông đã từng nhắm mắt để khỏi nhìn những cảnh trái ngang. Có người viết ra sự thật rồi lại chỉnh sửa năm bảy lần đến khi sự thật thành một điều mơ hồ……. Mỗi người viết ra sự thật đều phải đắn đo cái giá của mình phải trả, mỗi lần như thế, sự thật cứ vơi dần… ” *

Những người cầm bút những người bất đồng chính kiến, những người biết nói và dám nói lên tiếng nói của mình ở Việt Nam không bao giờ biết được số phận của mình sẽ trôi về đâu. Họ sẽ không bao giờ có một cuộc sống thanh thản như bao người an phận khác, mạng lưới an ninh bao trùm lên đời sống của họ, theo họ trên từng con hẻm.  Người cựu chiến binh B cuối cùng cũng đã khép mình trước những thủ đoạn tinh vi của bộ máy an ninh khi ông đặt bút ký vào tờ biên bản rút lại lời khai, để vợ ông được tiếp tục đi dạy và để cánh cửa đại học cho đứa con gái được rộng mở.

Hồ sơ ông B. được đóng lại và số phận nghiệt ngã một nạn nhân khác lại âm thầm bắt đầu khi «Thành mở tủ lấy ra một bìa hồ sơ mới, nắn nói ghi tên hiệu hồ sơ… »*

* :  Trích đoạn trong bản tiếng Việt của quyển «Nói Trong Im Lặng » Bùi Thanh Hiếu (bản tiếng Anh Eva Tas Foundation xuất bản)