Kết quả phiên tòa xét xử 12 người chống cưỡng chế đất ở Long An

Kết quả phiên tòa xét xử 12 người chống cưỡng chế đất ở Long An

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-09-16

Do bị CA chặn đường không thể về Thạnh Hóa (Long An) tham dự phiên tòa, chị Trần Ngọc Anh cùng nhiều dân oan khác đã bất ngờ xuất hiện tại trung tâm Sài Gòn để tuần hành và giơ cao những biểu ngữ đòi trả tự do cho 12 Dân Oan

Do bị CA chặn đường không thể về Thạnh Hóa (Long An) tham dự phiên tòa, chị Trần Ngọc Anh cùng nhiều dân oan khác đã bất ngờ xuất hiện tại trung tâm Sài Gòn để tuần hành và giơ cao những biểu ngữ đòi trả tự do cho 12 Dân Oan

Nguyentuongthuy

Mười hai người chống cưỡng chế đất tại huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An bị tòa án đưa ra xét xử sơ thẩm và kết án tù trong phiên xử kéo dài từ ngày hôm qua 15 tháng 9 đến trưa nay 16 tháng 9.

Bản án

Kết quả phiên xử được thông báo cụ thể như sau: bà Mai Kim Hương: 3 năm 6 tháng tù, ông Nguyễn Trung Can ( chồng bà Mai Kim Hương) 3 năm, ông Nguyễn Trung Tài 3 năm; ông Mai Văn Tưng 3 năm; bà Phùng Thị Ly 3 năm; ông Phùng Văn Tuân 2 năm; ông Mai Văn Đạt  2 năm; ông Mai Quốc Hẹn 2 năm tù treo, 4 năm thử thách; ông Nguyễn Văn Tôi 2 năm tù treo, 4 năm thử thách; bà Nguyễn Thị Thắng 2 năm 6 tháng tù treo, 5 năm thử thách. Những người này bị kết tội ‘chống người thi hành công vụ’. Còn hai ông Mai Văn Phong 3 năm 6 tháng tù ; ông  Nguyễn Trung Linh 3 năm 6 tháng, buộc bồi thường 17 triệu đồng cho người bị thương tích vì bị kết án ‘cố ý gây thương tích’.

Ngay sau khi phiên xử kết thúc, cháu Nguyễn Mai Thảo Vy, con gái của hai ông bà Nguyễn Trung Can và Mai Kim Hương cho biết:

“Mẹ cháu bị 3 năm 6 tháng và ba cháu 3 năm tù giam. Mới đầu mọi người trong gia đình cháu không ai nhận tội nhưng sau một buổi nghỉ trưa không biết họ dùng thủ đoạn gì mà đến chiều mọi người đều nhận tội hết.

Luật sư bào chữa đúng thực tế, nêu lên việc cưỡng chế hôm đó sai, có xịt pháo cay làm mọi người trong nhà bị tổn hại đến sức khỏe. Nhưng tòa không đề cập gì đến chuyện đó, họ chỉ giải quyết theo họ là gia đình cháu sai, chứ họ không sai. Cháu thấy bản án này oan cho gia đình.”

“Bản án của mẹ là 3 năm tù ở. Theo cháu là quá nặng vì luật sư nói mẹ có thể trắng án, vì khi phát loa để nói lên tâm tư, suy nghĩ của mình cho mọi người biết thì không cấu thành tội ‘chống người thi hành công vụ’. Bản thân cháu thấy rất vô lý vì trong Hiến pháp Việt Nam điều 25 qui định người dân có quyền tự do biểu tình, quay phim…

Cháu Dương thị Ngọc Châu”

Con gái của bà Phùng Thị Ly, cháu Dương thị Ngọc Châu cũng trình bày ý kiến về bản án và phiên xử được nói là công khai nhưng bản thân cháu không được vào tham dự tòa:

“ Bản án của mẹ là 3 năm tù ở. Theo cháu là quá nặng vì luật sư nói mẹ có thể trắng án, vì khi phát loa để nói lên tâm tư, suy nghĩ của mình cho mọi người biết thì không cấu thành tội ‘chống người thi hành công vụ’. Bản thân cháu thấy rất vô lý vì trong Hiến pháp Việt Nam điều 25 qui định người dân có quyền tự do biểu tình, quay phim, theo dõi chính quyền làm đúng hay sai; nhưng họ ép buộc mình không cho nói; vậy qui định để làm gì!

Mẹ cháu mong có được bản án nhẹ nhàng, thế thôi!”

Theo các luật sư bào chữa cho biết thì 12 dân oan sẽ tiếp tục kháng cáo lên tòa phúc thẩm.

Cưỡng chế lấy đất

Vụ việc được người trong cuộc cho biết diễn ra bảy, tám năm nay rồi. Chính quyền địa phương thu hồi đất của hai gia đình nhưng bồi thường không thỏa đáng. Gia đình đi kiện nhưng vẫn không được giải quyết. Trước lần cưỡng chế vào ngày 14 tháng 4 vừa qua, gia đình của hai ông bà Nguyễn Trung Can- Mai Kim Hương giăng biểu ngữ tuyên bố sẽ ‘quyết tử’ để giữ đất. Thế nhưng lực lượng cưỡng chế vẫn tràn vào và người trong cuộc đã đốt lều tạm giữ đất, ném bom xăng, tạt axit và nổ bình hàn gió đá khiến chừng 20 người trong lực lượng cưỡng chế bị thương từ nặng đến nhẹ.

Tại Hà Nội, do không có điều kiện về địa điểm xử án nên dân oan Cấn Thị Thêu đã cùng dân oan ba miền tập trung tại trụ sở Bộ công an đưa biểu ngữ kêu gọi trả tự do cho các bị cáo biểu thị sự hiệp thông.

Tại Hà Nội, do không có điều kiện về địa điểm xử án nên dân oan Cấn Thị Thêu đã cùng dân oan ba miền tập trung tại trụ sở Bộ công an đưa biểu ngữ kêu gọi trả tự do cho các bị cáo biểu thị sự hiệp thông.

Cháu Dương thị Ngọc Châu cho biết lại tình hình đất đai của gia đình như sau:

“ Gia đình khiếu kiện đất vì họ nói gia đình cháu lấn sông, lấn lộ; nhưng thực tế gia đình sống ở đây đã rất lâu, từ trước chiến tranh, trước năm 65. Họ nói lấn sông, lấn lộ nên chỉ bồi thường cho gia đình 30 ngàn một mét vuông đất thôi. Sau này do mẹ con tranh đấu, kiện tụng họ tăng lên được 45 ngàn một mét vuông, sau này lên được 300 ngàn một mét vuông. Trong khi đó miếng đất đối diện nhà cháu được qui hoạch thành khu đô thị mới, bây giờ lên đến 22 triệu một mét vuông. Một mét vuông đất nhà con không mua được một phần ngàn miếng đất kia nữa! “

“ Họ nói lấn sông, lấn lộ nên chỉ bồi thường cho gia đình 30 ngàn một mét vuông đất thôi…sau này lên được 300 ngàn một mét vuông. Trong khi đó miếng đất đối diện nhà cháu được qui hoạch thành khu đô thị mới, bây giờ lên đến 22 triệu một mét vuông

Cháu Dương thị Ngọc Châu”

Chuyện dài đất đai

Vụ việc của hai gia đình ông Nguyễn Trung Can- Mai Kim Hương và bà Phùng thị Ly như vừa nêu cũng tương tự rất nhiều trường hợp khác tại các tỉnh thành của Việt Nam lâu nay.

Hiện nay rất nhiều người dân bị chính quyền địa phương thu hồi đất đai, ruộng vườn mà theo họ không đúng luật và bất công. Những người trong cuộc cho biết khoản tiền bồi thường cho họ rất thấp, trong khi đất thu hồi lại được rao bán với giá gấp rất nhiều lần. Điều này khiến họ phẩn nộ và khiếu kiện bao lâu nay vẫn không được cơ quan nào giải quyết.

Một vụ việc gây chấn động dư luận tại Việt Nam là trường hợp cho nổ súng hoa cải và bình ga của gia đình Đoàn Văn Vươn tại Cống Rộc, Tiên Lãng, Hải Phòng vào tháng giêng năm 2012. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận biện pháp cưỡng chế của cơ quan chức năng địa phương là sai; tuy nhiên sau đó hai anh em ông Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý vẫn bị bắt, bị tuyên án tù 5 năm mỗi người.

Vào ngày 31 tháng 8 hai anh em ông này được cho ra tù trước thời hạn; tuy nhiên sau khi ra tù ông Đoàn Văn Vươn tuyên bố sẽ tiếp tục theo đuổi những vụ kiện chưa được giải quyết lâu nay về vấn đề đất đầm nuôi thủy sản của gia đình ông.

Một người đấu tranh vì đất đai kiên cường khác là bà Cấn Thị Thêu tại phường Dương Nội, quận Hà Đông. Mới vào tối ngày 15 tháng 9, bà cùng nhiều người dân khác phải ngủ ngay ngoài cổng cơ quan Thanh Tra Bộ Công an để ngày hôm sau được gặp người phụ trách vì ngày trước đó khi đến Bộ Công an họ bị xua đuổi.

Ngay sau khi mãn án 15 tháng tù vào tháng 7 vừa qua, bà Cấn Thị Thêu cũng thẳng thắn cho biết:

“ Đối với tôi từ khi bị bắt cho đến nay và kể từ khi ra tòa, lúc họ cho tôi nói lời cuối cùng, tôi cũng đã nói với họ rằng tôi thề còn hơi thở nào tôi vẫn còn tiếp tục đấu tranh để đòi lại đất đai, tài sản của gia đình tôi và của nhân dân chúng tôi. Tôi quyết tâm đấu tranh chống lại quân cướp đất đến cùng. Khi họ gây ra quá nhiều tội ác, đàn áp, đánh đập chúng tôi, chính họ mới là người thúc đẩy lòng căm thù, đấu tranh của chúng tôi vùng lên đấu tranh chống lại họ. Với hiện tại bây giờ không còn gì để sống, nhân dân chúng tôi như nước vỡ bờ quyết vùng lên để đòi lại những gì chúng tôi đã mất.”

Thực tế cho thấy số người bị cưỡng chiếm đất đai phải đi khiếu kiện lên đến các cơ quan trung ương tại Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh ngày một đông.

Nhiều người trong số họ chưa bị đi tù như trường hợp bà Cấn Thị Thêu hay anh em bà con nhà Đoàn Văn Vươn. Tuy nhiên có những người bị bắt đi một cách bất minh và sẽ phải ra tòa rồi bị tuyên án tù như 12 người ở Thạnh Hóa, Long An vào ngày 15 và 16 tháng 9 vừa qua chỉ vì dám chống lại lực lượng cưỡng chế bằng lời nói và hành động mạnh mẽ.

Vụ xử 12 dân oan: Phóng viên bị khống chế khi chụp hình ngoài khu vực tòa

Vụ xử 12 dân oan: Phóng viên bị khống chế khi chụp hình ngoài khu vực tòa

Tuổi Trẻ

An Long

15-9-2015

Phóng viên Hoàng Nam bị khống chế – Ảnh: AN LONG

TTO – Anh Nam cho biết bị khóa tay, tước điện thoại, máy ảnh rồi đưa lên ôtô, giải vào căn phòng trống tại một cơ quan nhà nước. Anh yêu cầu lập biên bản nhưng những người bắt giữ anh không đồng ý.

Khoảng 9g sáng 15-9, trong lúc ra ngoài khu vực Tòa án huyện Thạnh Hóa (Long An) để tác nghiệp liên quan đến vụ xét xử tội chống người thi hành công vụ, phóng viên Nguyễn Hoàng Nam (bút danh Hoàng Nam, báo Pháp Luật TP.HCM) bị hai dân phòng cùng một số người mặc sắc phục công an khóa tay chở đi.

Phóng viên Hoàng Nam bị khống chế - Ảnh: AN LONG

Trao đổi với Tuổi Trẻ, anh Hoàng Nam cho biết khi anh vừa đưa máy ảnh định chụp một số cảnh cơ quan chức năng đang làm công tác giữ gìn trật tự xung quanh khu vực tòa án thì hai người mặc đồng phục dân phòng và một cán bộ mặc sắc phục công an đến nói phóng viên không được chụp ảnh lực lượng này và yêu cầu xóa ảnh.

“Dù tôi đã nói là phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM, có giấy giới thiệu, khu vực này không có bảng cấm quay phim chụp ảnh, phóng viên tác nghiệp theo luật báo chí, trong trường hợp này tôi không đồng ý xóa hình, nhưng một người đàn ông mặc thường phục đến chỉ mặt tôi bảo phải xóa ảnh ngay. Tôi yêu cầu vị này xuất trình thẻ ngành thì vị này chỉ đưa ra một tờ giấy nhỏ có một mặt màu đỏ giống như thẻ ngành công an nên tôi đề nghị cho xem mặt còn lại của tờ giấy này nhưng vị này không đồng ý và yêu cầu tôi xuất trình giấy tờ. Tôi vừa định lấy giấy tờ đang để trong balô thì người mặc thường phục này bất ngờ xông vào khóa tay tôi trước sự chứng kiến của nhiều cán bộ công an đang làm nhiệm vụ tại khu vực”, Hoàng Nam kể lại.

Hoàng Nam tiếp tục bảo rằng mình không vi phạm pháp luật, sao lại giữ người thì hai dân phòng, công an và người mặc áo trắng nói trên tiếp tục khống chế, tước điện thoại, máy ảnh rồi đưa lên ôtô, giải vào căn phòng trống tại một cơ quan nhà nước gần đó.

Tại đây, dù Hoàng Nam yêu cầu lập biên bản nhưng những người bắt giữ trên không đồng ý, cho đến khi một cán bộ công an khác đến yêu cầu thả Hoàng Nam ra. Theo Hoàng Nam, khi đã được thả ra, người đàn ông mặc áo trắng trên vẫn tiếp tục chỉ mặt Hoàng Nam đe dọa “sẽ xử đẹp”.

Vụ việc khiến Hoàng Nam bị trầy xước ở cẳng tay.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Văn Nhớ – trưởng Công an huyện Thạnh Hóa – cho biết đúng là có xảy ra sự việc trên.

“Theo báo cáo về vụ việc, một số anh em dân phòng trong lúc làm nhiệm vụ đã nóng vội khi mời Hoàng Nam về nơi có người tiếp chính thức nên đã để xảy ra sự việc đáng tiếc trên. Tôi đã liên hệ với Hoàng Nam để hỏi thêm tình hình đồng thời cũng đã góp ý cho những anh em đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự quanh phiên tòa”, ông Nhớ nói.

Chiều cùng ngày, ông Nguyễn Hòa Nhã – phó giám đốc Sở Thông tin truyền thông Long An – cho biết đã nhận được thông tin vụ việc trên và cũng đã liên hệ với Hoàng Nam để nắm thông tin, đồng thời báo cáo vụ việc về UBND tỉnh Long An.

Khi lòng dân hết chịu nổi!

Khi lòng dân hết chịu nổi!

Bùi Tín

Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh 2/9 , các bài diễn văn của những nhà lãnh đạo đầy những danh từ sáo rỗng, trái hẳn với thực tế. Nào là thành quả vĩ đại, sự nghiệp vẻ vang, chiến thắng lịch sử, thời đại vinh quang, tương lai đầy hứa hẹn…

Nhưng tình hình đúng vào dịp này, đảng CS hình như cố tình trình diễn bộ mặt thật của mình. Nhà báo Đỗ Trường chỉ đùa cợt giải trí tinh thần với bài viết gồm toàn các chữ dấu sắc trên mạng cá nhân đã bị rút thẻ và sa thải, bất chấp hiến pháp và luật pháp. Sinh viên Phạm Lê Vương Các của trường Kinh Doanh và Công Nghệ bị buộc phải viết đơn xin thôi học chỉ vì em có tinh thần dân chủ và thật sự dấn thân cho dân chủ. Nghiêm trọng hơn, khi các bạn chiến đấu của tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật đến thăm, chúc mừng anh, gồm có giáo sư Phạm Minh Hoàng, các bạn Trần Thị Nga, Đặng Xuân Hoà, Trương Minh Tâm, Chu Mạnh Sơn, khi ra về đã bị một bọn côn đồ lưu manh hành hung rất táo tợn, gây thương tích. Bà con địa phương nhận diện bọn hung thủ là tay chân cộng tác viên của công an Lâm Đồng, chúng được CA thuê đi đâm thuê chém mướn, có tên là tội phạm hình sự đang thụ án sẽ được giảm án và thưởng tiền, cho về thăm nhà (theo mạng Dân luận cuối tháng 8/2015).

Theo nhà báo Đoan Trang kể lại trên mạng Dân Luận, khi cô và các bạn lên sân bay để đón anh Nguyễn Quang A từ Hoa Kỳ về  bị công an giữ lại 15 tiếng, trong khi ngồi chờ, cả nhóm bị bọn du côn cũng do công an thuê đánh đập tàn bạo, một tên rất to lớn đã bẻ tay cô, chửi rủa cô; tên này đã được chụp hình.

Lẽ ra tất cả mọi cấp công an cần phải học thuộc lòng Điều 20 của Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm thân thể, được pháp luật bảo vệ sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.  Điều 23 còn ghi: “Công dân có quyền tự do đi lại, cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước”.  Anh Nguyễn Quang A và cô Đoan Trang có quyền kiện ngành công an, những kẻ tự nhận là công bộc, đầy tớ của dân!

Với hàng chục vụ như trên xẩy ra hàng ngày, cuộc sống xã hội thật ngột ngạt, không có bình an cho mọi công dân. Bộ Chính trị đã tỏ ra vô cảm, bất động trước cuộc sống lam lũ, bất an của nhân dân. Không những vậy, cuộc sống còn ngột ngạt , đầy uất hận tăng thêm hàng ngày. Nền thống trị của một đảng tự nhận là cách mạng vì dân, đã phá sản hoàn toàn trong cuộc sống, lại còn tệ hại cay nghiệt hơn trước.

Sức chịu đựng của người dân là có hạn. Sự kiên nhẫn của toàn dân là có hạn.

Cuộc “xoay trục” để thoát Trung và gắn bó với các nước dân chủ mà nhiều đảng viên cấp cao hy vọng, toàn dân trông chờ có vẻ chỉ là đóng kịch, động tác giả. Đúng vào lúc Hoa Kỳ là nước hùng mạnh nhất khẩn thiết dang tay kết bạn, đúng vào lúc anh láng giềng lớn giở trò trở mặt có hành động xâm lược tạo điều kiện cho ta dứt tình, thì Bộ Chính trị run tay không dám bẻ lái vào con đường sáng sủa đầy triển vọng, vẫn cứ theo con đường mòn cũ kỹ, đầy ải dân tộc không biết đến bao giờ. Dân tộc Việt Nam ta với truyền thống giữ nước và dựng nước vẻ vang không thể cam chịu sự thống trị độc đoán kéo dài thêm nữa, để bất công lan rộng, người thật lòng yêu nước thương dân đòi tự do cho mọi người thì vẫn bị đầy đọa trong nhà tù.

Dân tộc Việt Nam xứng đáng được sống một cuộc sống khác hẳn thực tế hiện nay, một xã hội dân chủ, công dân được tự do, bình đẳng, sự phân phối thành quả lao động và đổi mới công bằng hợp lý, một xã hội an bình, thân ái, phồn vinh, có hạnh phúc thật sự cho mỗi gia đình, cho toàn xã hội, nghĩa là một cuộc sống đáng sống, một cuộc sống hạnh phúc. Nếu không có Đảng CS, xã hội ta ắt sẽ được như thế.

Thái độ bảo thủ giáo điều, vô trách nhiệm với đất nước lâm nguy của Bộ Chính trị hiện tại chỉ làm  cho nhân dân thức tỉnh thêm, như cố tình đổ dầu vào ngọn lửa phẫn nộ đến căm giận của quần chúng mong chờ một sự đổi thay rõ rệt.

Tinh thần các chiến sỹ dân chủ đối lập trong các tổ chức xã hội dân sự lên cao thêm với số lượng hơn hẳn trước. Anh chị em rủ nhau lên tận cổng nhà tù để đón mừng công khai những người tù lương tâm được trả tự do, còn rủ nhau ra sân bay đón bạn chiến đấu từ xa về, còn tranh luận tay đôi với các viên chức chính quyền, vạch mặt bọn du côn ác ôn tay sai của công an gây sự, hành hung, với lý lẽ chặt chẽ và tư thế người giảng giải lẽ phải cho họ.

Anh em anh Đoàn Văn Vươn ra tù, tuyên bố vô tội và tiếp tục đấu tranh đòi công lý và quyền làm ăn trên đất vườn ao hồ do các anh lấn biển khai phá; bạn bè người thân đón chào các anh như những anh hùng trong các vòng tay thân thiết. Nhà các anh luôn nhộn nhịp đón các bạn xa gần trong tình thương yêu đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn. Đại tá đối lập Nguyễn Đăng Quang, anh Hoàng Xuân Phú và các bạn trẻ cũng về Tiên Lãng để thăm 2 anh và đặc biệt ca ngợi 2 chị Báu và Thương, vợ của hai anh.

Cũng với tinh thần cao như thế, nhà báo Trương Duy Nhất ra tù lập tức tuyên bố sẽ tiếp tục đấu tranh vẫn với “Blog Một Góc Nhìn khác”, không mảy may e ngại sau những ngày tháng gian nan trong tù CS. Nhà tù CS đã vô tình tôi luyện anh.

Đông đảo bà con dân oan mất đất đã liên kết lại trong từng tỉnh, từng vùng, với tình nghĩa keo sơn cùng cảnh ngộ, chung lòng thương yêu đùm bọc nhau.

Thái độ ngang ngược của Bộ Chính trị, hứa hẹn hão với thế giới “sẽ giải quyết các vấn đề nhân quyền”  cũng làm dấy lên sự giận dữ và bực bội của thế giới. Nhiều nghị sỹ Hoa Kỳ, Úc, Thuỵ điển … lên tiếng đòi tự do cho các tù lương tâm, kết nghĩa với một số anh chị em, nêu đích danh các tù nhân họ đỡ đầu, như nhà báo Tạ Phong Tần, cô Bùi Minh Hằng, anh Trần Huỳnh Duy Thức. Một thượng nghị sỹ Hoa Kỳ còn công bố thư riêng gửi cho cô Hằng ở trong tù để ca ngợi, khích lệ an ủi cô.

Tất cả những sự việc trên đây trước kia là rất hiếm. Nay tình hình đối với một bộ phận lớn nhân dân là hết chịu nổi. Ai gây nên cảnh bất công, lạc hậu triền miên của đất nước? Bao nhiêu ý kiến kiến nghị tâm huyết chân thành đã bị bỏ qua, những người yêu nước, thương dân nhất thì bị cầm tù, trong khi ngành công an chà đạp Hiến pháp, luật pháp tha hồ hoành hành kết hợp với bọn con đồ lưu manh.

Lãnh đạo đảng CS hãy dành thì giờ đọc những bài tâm huyết đầy sức thuyết phục của nhà nghiên cứu – nhà ngoại giao Nguyễn Trung về Đại hội đảng XII sắp đến. Các bạn hãy đọc tiểu thuyết chính trị của Nguyễn Trung với đầu đề ngắn gọn: . Tác giả dùng hình ảnh để cảnh báo rằng Đảng CS đã phạm quá nhiều sai lầm, là nguyên nhân chính của tình trạng lạc hậu bất công kinh hoàng của đất nước trong 70 năm cầm quyền, 40 năm thống nhất đất nước. Tốt nhất là lãnh đạo đảng tỉnh ngộ sáng suốt giữ cho đảng CS tồn tại bằng cách tự thay đổi, vượt lên chính mình, chủ động cùng giới trí thức và giới kinh doanh lương thiện thỏa thuận một sự thay đổi triệt để mang tính chất cách mạng, cùng toàn dân phấn chấn đi vào kỷ nguyên Dân chủ. Đó cũng là con đường sáng, khôn ngoan sống còn duy nhất của Đảng CS.  Nếu như Bộ Chính trị vẫn giữ con đường toàn trị quay lưng lại với nhân dân, một mực mù quáng coi dân như cỏ rác thì nhân dân hết chịu nổi và tất yếu phải cùng nhau đứng dậy dành quyền sống cho mình, cho gia đình, cho quê hương, tổ quốc.

Lòng kiên nhẫn, sức chịu đựng của nhân dân là có giới hạn. Đến quá “ngưỡng” của kiên nhẫn, chịu đựng thì sẽ xảy ra, cuốn phăng mọi rác rưởi không ai chống lại nổi. Đó là lũ của lòng dân, được giới trí thức và các tổ chức xã hội dân sự cảnh báo trước, đã từng diễn ra tại nhiều nước bị gông cùm toàn trị đè nén quá lâu.

Mong rằng Bộ Chính trị ghi nhớ chân lý  “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”.

Hungary đóng cửa biên giới, chặn làn sóng di dân

Hungary đóng cửa biên giới, chặn làn sóng di dân

Nguoi-viet.com

BUDADPEST, Hungary (AFP) Chính phủ Hungary hôm Thứ Ba ra lệnh đóng cửa biên giới với Serbia để ngăn chặn làn sóng người di dân đang cuồn cuộn kéo vào, trong khi chính phủ Ðức lên tiếng đả kích các quốc gia khác trong khối EU, gọi là điều “đáng xấu hổ” vì không nhận thêm di dân sau khi có thêm 22 người chết trên biển.


Hungary nay đóng cửa biên giới hoàn toàn với di dân. (Hình: Getty Images)

Quyết định của Budapest được đưa ra sau khi giới chức Áo và Slovakia khởi sự việc tạm thời kiểm soát biên giới, như Ðức đã làm từ ngày hôm trước.

Ðây là điều đi ngược lại với thỏa thuận Schengeng có từ nhiều năm nay giữa các quốc gia EU, nhằm đối phó với hơn nửa triệu người di dân đang kéo đến biên giới của khối này từ đầu năm tới nay.

Phó Thủ Tướng Ðức Sigmar Gabriel nói rằng Âu Châu “tự làm xấu hổ chính mình” sau khi các bộ trưởng EU không đạt được thỏa thuận hôm Thứ Hai về việc san sẻ gánh nặng đón nhận người di dân.

Cảnh sát Hungary dùng hàng rào kẽm gai khóa lại khoảng trống rộng chừng 40m, vốn cho đến khuya ngày Thứ Hai vẫn được người di dân dùng để vượt qua biên giới.

Tuy nhiên đến sáng Thứ Ba, cổng qua biên giới tại Roskzke và Asothalom đều bị đóng, khiến hàng trăm người bị kẹt trên lãnh thổ Serbia, không biết khi nào sẽ vào được quốc gia thành viên EU này để tiếp tục đi tới Ðức hay Áo như những người di dân trước đó.

Việc đóng cửa được thực hiện sau khi Hungary ban hành luật mới, theo đó coi việc vượt biên giới bất hợp pháp là một tội có thể bị phạt tới ba năm tù. (V.Giang)

Một vài kỷ niệm nho nhỏ với Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện

Một  vài  kỷ  niệm  nho  nhỏ  với  Thi  sĩ  Nguyễn  Chí  Thiện

Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Thi sĩ, Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện (1939 – 2012) là một nhân vật được nhiều người quý trọng mến phục vì tinh thần kiên cường bất khuất của ông chống lại chế độ độc tài tàn bạo của đảng cộng sản tại Việt nam. Đã có rất nhiều người viết về ông, đặc biệt kể từ ngày ông lìa trần tại California vào tháng 10 năm 2012. Nay nhân ngày giỗ đọan tang của ông, tôi xin ghi lại một vài kỷ niệm thật dễ thương và đáng nhớ với một người bạn đã từng sát cánh với anh chị em chúng tôi trong tổ chức Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (MLNQ) có trụ sở chính đặt tại miền Nam California.

Từ hồi năm 2001, khi dọn về cư ngụ tại California, anh Thiện đã thường xuyên sinh họat với MLNQ chúng tôi. Anh được mời tham gia với tư cách là một thanh viên trong Ban Cố vấn của MLNQ – trong đó có những nhân vật có tên tuổi như Bác sĩ Nguyễn Tường Bách là bào đệ của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Luật sư Trần Thanh Hiệp, Giáo sư Đoàn Viết Họat v.v…

Trong các phiên họp định kỳ mỗi tháng, anh Thiện thường có mặt và anh luôn đóng góp những ý kiến thật là xây dựng tích cực và quý báu cho Ban Điều hành chúng tôi.

Với sự hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị xã hội ở trong nước và nhất là qua những thông tin chính xác mà anh thu thập được từ nơi các bạn bè thân tín của anh tại quốc nội – anh Thiện đã góp ý hướng dẫn rất tận tình cho anh chị em chúng tôi trong MLNQ trước những vấn đề quan trọng tinh tế liên quan đến công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt nam. Anh luôn biểu lộ một lập trường kiên định dứt khóat đối với chế độ độc tài thâm độc của người cộng sản từ xưa đến nay. Mà anh cũng được tất cả anh chị em chúng tôi quý mến vì cái phong cách điềm đạm nhân ái của một sĩ  phu quân tử, theo đúng với truyền thống xưa nay của dân tộc chúng ta.

Và qua anh Thiện, chúng tôi còn được biết thêm về cái tư cách đáng quý của những người bạn tù chính trị thân thiết lâu năm với anh, cụ thể như các anh Kiều Duy Vĩnh, Phan Hữu Văn v.v…

Anh Thiện không lái xe, nên nhiều người trong số anh chị em chúng tôi thay phiên nhau đến đón anh và chở anh về mỗi khi có các buổi họp của MLNQ. Và mỗi lần đi chung xe với anh Thiện, chúng tôi lại còn được anh chuyện trò tâm sự về nhiều khía cạnh trong cuộc sống riêng tư ở Việt nam, cũng như ở nhiều quốc gia trên thế giới mà anh đã có dịp đi qua. Còn ngòai ra, thì anh Trần Phong Vũ mới là người tài xế thường xuyên lo chuyên chở anh Thiện đi khắp nơi.

Vào khỏang năm 2008, trong lần đi chung xe với anh sau một phiên họp của MLNQ, thì anh Thiện có than thở tâm sự riêng với tôi đại để như thế này: “Ở vào cái giai đọan già yếu bệnh tật như lúc này, sao tôi thấy chán nản bi quan quá đối với cuộc đời tại thế này đấy, anh ạ…” Nghe vậy, tôi không khỏi thắc mắc, vì đối với một con người chiến sĩ kiên cường sắt đá như “Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện” vốn đã từng vượt qua được bao nhiêu đày đọa áp bức trong nhà tù cộng sản suốt gần 30 năm ròng rã – ấy thế mà lúc này đang sinh sống tại một nơi có đày đủ tự do và tiện nghi thỏai mái như ở nước Mỹ, anh lại đâm ra chán chường yếm thế đến như vậy!

Và tôi nhớ mình đã trả lời anh như sau: “ Thông thường vào lúc cuối đời, sau khi đã trải qua bao nhiêu sóng gió đọan trường trong cuộc sống, thì các cụ xưa hay nói đến chuyện “Tu Thân Tích Đức” để rồi chuẩn bị “về với ông bà tổ tiên” thôi. Nói cách khác, người lớn tuổi thì tìm cách nâng cao tâm hồn mình lên một bình diện tâm linh và tôn giáo – như trong tiếng Pháp người ta gọi đó là một thứ “dimension spirituelle/religieuse” vậy mà… Nghe tôi nói như vậy, anh Thiện tỏ vẻ trầm ngâm và không nói gì thêm nữa cho đến lúc chúng tôi chia tay nhau ở một địa điểm mà anh phải đến để tham dự một phiên họp khác nữa.

Vào năm 2013, nhân dịp Đại Hội lần thứ XI của MLNQ được tổ chức tại miền Nam California, Bác sĩ Lâm Thu Vân, một đại biểu đến từ Canada đã phát biểu trong phần Tưởng niệm hai vị Cố vấn vừa mới qua đời mới đây, đó là Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện và Bác sĩ Nguyễn Tường Bách. Bằng một giọng thật xúc động Bác sĩ ThuVân nói :”Đây là hai người chiến sĩ mà tôi luôn kính trọng như là thần tượng gương mẫu cho công cuộc tranh đấu gian khổ vì lý tưởng Tự do, Dân chủ và Nhân quyền của dân tộc Việt nam chúng ta vậy…”

Như dân gian vẫn thường nói: “Cọp chết thì để lại bộ da, người ta chết thì để lại cái nết”. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã đi xa, lìa khỏi cõi tạm này. Nhưng cái nết na, đạo hạnh và cái chí khí kiên cường bất khuất của anh thì vẫn còn lại mãi như là một tấm gương sáng ngời cho các thế hệ mai sau vậy./

Westminster California, tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tôi đã gặp lại Chị Lài tại Ba lan

Tôi đã gặp lại Chị Lài tại Ba lan

Bút ký của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tháng 6 năm 2012 vừa rồi, trong chuyến đi Âu châu, tôi đã có dịp đến thăm gia đình chị Trần Thị Lài tại thành phố Cracovie là cố đô của nước Ba lan. Chị Lài theo học Ban Cử nhân Văn chương Pháp tại Đại học Văn khoa Sài gòn vào giữa thập niên 1950. Hồi đó, chúng tôi cùng sinh họat chung với nhau trong Nhóm Sinh viên Công giáo do cha Nguyễn Huy Lịch làm Tuyên úy hướng dẫn.

Nhóm chúng tôi có chừng 30 thành viên là sinh viên thuộc nhiều phân khoa khác nhau và thường gặp gỡ trao đổi với nhau sau khi cùng tham dự Thánh lễ ngày Chủ nhật tại nhà nguyện thuộc Tu viện Mai Khôi trên đường Nguyễn Thông gần với Bệnh viện Saint Paul. Ở độ tuổi 20 – 25, chúng tôi sinh sống thật hồn nhiên, vô tư lạc quan yêu đời giữa lòng một xã hội tương đối thanh bình và thịnh vượng ở miển Nam Việt nam thời đó.

Sau khi tốt nghiệp đại học, chị Lài đi dậy môn Pháp văn mấy năm tại Nữ Trung học Gia Long. Rồi chị đi qua Pháp để học thêm lên bậc cao học. Vào khỏang năm 1964, chúng tôi được tin là chị Lài thành hôn với anh Stefan Wilkanowicz và theo chồng về sinh sống tại Ba lan. Có thể đây là trường hợp đầu tiên mà một người từ miền Nam Việt nam lập gia đình với người Ba lan và đến sinh sống tại quốc gia dưới chế độ cộng sản này.

Mùa hè năm 1970, chị Lài về thăm gia đình tại Việt nam nhân dịp Lễ Giỗ Đầu của thân phụ là Cụ Trần Văn Lý – người đã từng giữ chức vụ Thủ Hiến Trung Việt dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại vào năm 1950. Và các bạn chúng tôi đã thật vui mừng được gặp lại chị Lài sau mấy năm xa cách. Buổi hội ngộ thân tình ấm cúng này cũng diễn ra như xưa tại văn phòng của cha Lịch trong Tu viện Mai Khôi.

Chị kể cho chúng tôi về nhiều chuyện khó khăn phức tạp dưới chế độ cộng sản ở Ba lan, đặc biệt là nếp sinh họat của người công giáo thời đó. Chị cho tôi địa chỉ của anh Stefan Wilkanowicz là phu quân của chị lúc đó đang làm cho văn phòng của Pax Romana quốc tế có trụ sở tại thành phố Fribourg Thụy Sĩ. Thế mà vào cuối năm 1970, khi tôi có việc qua Genève thì cũng tìm đến Fribourg để thăm anh Stefan luôn thể, nhưng vì đúng vào dịp nghỉ lễ Noel, nên tôi đã không gặp được anh.

Từ ngày qua định cư ở Mỹ năm 1996, tôi đã dò hỏi nhiều nơi, nhưng cũng không làm sao liên lạc được với chị Lài, kể cả qua địa chỉ e-mail do một anh bạn gửi cho. Mãi đến khi tôi qua Paris vào mùa Xuân năm 2012, thì nhờ được bà con ở Ba lan cho biết số điện thọai chính xác của gia đình chị ở thành phố Cracovie, nên tôi mới liên lạc nói chuyện được với chị Lài. Qua điện thọai, tôi nghe được giọng nói của chị thật rõ ràng và mạnh mẽ, biểu lộ nỗi vui mừng được tin về một số bạn bè thân thiết từ cái thời còn đi học đã trên 50 năm xưa ở quê nhà Việt nam.

Và vào đầu tháng 6, tôi đã bay từ thành phố Frankfurt nước Đức để tới thăm anh chị Lài & Stefan Wilkanowicz tại cái thành phố là cố đô của Ba lan. Như vậy là kể từ ngày gặp nhau lần cuối ở Saigon vào năm 1970 cho đến năm 2012 này – tức là sau 42 năm thì chị Lài và tôi mới lại có cơ hội gặp nhau ở Ba lan là quê hương của chồng chị. Rõ ràng đây là một cuộc hội ngộ trùng phùng rất mực kỳ thú đối với cả hai phía chúng tôi.

Trong dịp này, tôi đã đến sinh sống vài ngày với gia đình anh chị tại một căn hộ trên lầu ba của một chung cư tọa lạc trong khu trung tâm thành phố Cracovie. Anh chị có hai cháu gái đều đã trưởng thành và có gia đình ở riêng, nên hiện trong nhà chỉ còn có hai vợ chồng già sống chung với nhau mà thôi. Mỗi ngày thì có người đến giúp dọn dẹp nhà cửa bếp núc và đi chợ mua sắm thực phẩm cho gia đình.

Ở vào tuổi 83, chị Lài đã bắt đầu có dấu hiệu suy thóai về mặt trí nhớ, nên khi chuyện trò trao đổi với tôi, thì có nhiều câu hỏi chị cứ nhắc đi nhắc lại hòai. Trái lại, anh Stefan ông xã của chị, thì dầu đã ở tuổi 87 mà anh vẫn còn rất sáng suốt tinh tường. Anh nói tiếng Pháp khá trôi chảy lưu lóat và ra tay lo lắng chăm sóc cho tôi thật là chu đáo tươm tất.

Để bạn đọc tiện bề theo dõi câu chuyện của ”một gia đình Việt – Ba lan” này, tôi xin lần lượt ghi lại chi tiết hơn về chị Lài, anh Stefan và cháu gái tên Việt nam là Lan.

1 – Câu chuyện của chị Lài.

Gặp lại chị Lài lần này, tôi được nghe chị kể lại nhiều kỷ niệm xa xưa ở Việt nam mà chị nhớ rất kỹ. Cụ thể như chị nói về chuyện ông cụ hồi làm Quản Đạo ở Đà lạt hồi trước năm 1940, thì đứng ra tổ chức cho một số bà con từ miền Bắc vào làm nghề trồng rau ở vùng cao nguyên này. Chị còn nhớ lúc đi theo thân phụ ra bến xe để đón lớp người này mang theo cả gia đình cùng với mọi thứ gồng gánh nồi niêu chén bát từ mãi xứ Hà Đông Nam Định vào lập nghiệp ở địa phương.

Chị cũng kể lại những năm tháng theo học nội trú tại trường của mấy ma soeur người Pháp với kỷ luật khá nghiêm khắc – mà nhờ vậy chị tiếp thu được số vốn kiến thức vững chắc, nhất là với môn Pháp văn và cổ ngữ La tinh – khiến cho chị có thể tiến xa trên đường học vấn sau này.

Chị vẫn còn nhớ cái thời tham gia viết báo Thông Cảm với Nhóm Sinh viên Công giáo chúng tôi năm xưa ở Saigon. Chị gọi các bạn thời đó đều có tinh thần của người chiến sĩ dấn thân phục vụ xã hội và là những người đồng điệu với chị nữa (militants – âmes soeurs). Khi nghe tôi nhắc đến tên những người đã ra đi – điển hình như cha Nguyễn Huy Lịch, anh Dược sĩ Trần Quý Thái v. v…, thì chị đều nhớ đến và bày tỏ lòng thương tiếc đối với những nhân vật mà chị đã từng sát cánh gắn bó thân thiết trong thời gian cùng sinh họat chung với nhau đã đến trên nửa thế kỷ trước đây.

Trên Internet, tôi còn được đọc một bài phỏng vấn khá nhiều chi tiết do chị Lài trả lời cho một nhà báo người Ba lan tên là Malgorzata Dzieduszycka vào khỏang năm 1994. Bài báo có nhan đề tiếng Anh là : ” An interview with Lai Wilkanowicz, a Vietnamese woman who has been living in Poland for 30 years “ (Bài Phỏng vấn với bà Lài Wilkanowicz, người phụ nữ Việt nam đã sống ở Ba lan suốt 30 năm). Chị Lài kể lại về mối tình của chị với anh Stefan mà chị gặp gỡ lần đầu tiên khi cùng tham dự một Hội nghị quốc tế của Pax Romana được tổ chức vào năm 1957 tại San Salvador ở Nam Mỹ.Và mãi đến năm 1964, sau khi vượt qua bao khó khăn trở ngại, thì chị mới có thể đến Ba lan để cùng chung sống với anh được.

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, chị Lài còn cho biết chị đã dịch nhiều tài liệu từ tiếng Ba lan sang tiếng Pháp – đặc biệt là các sách của Tổng Giám Mục Karol Wojtyla. Nhờ vậy mà chị mới có đủ phương tiện tài chánh để lo giúp trang trải mọi phí tổn rất nặng nề cho người em ở Việt nam có thể qua định cư bên nước Pháp. Chị cũng còn dịch cả cuốn tiểu sử của nữ tu Faustyna là người được coi như một “Sứ giả rao truyền về sự sùng kính Lòng Thương Xót Chúa” (Divine Mercy) nữa.

Và mới đây vào tháng 10/2012, báo Đàn Chim Việt còn giới thiệu cuốn Tự truyện của cháu Lan là con gái đầu lòng của anh chị, thì bài báo còn ghi là chị Lài đã cho xuất bản vào năm 2004 một cuốn Hồi ký bằng tiếng Ba lan với nhan đề : “ Từ Việt nam đến Ba lan : truyện của một người con gái quan huyện”. Các chi tiết này, quý bạn đọc đều có thể đọc trên Internet, nên tôi khỏi cần ghi thêm ở đây nữa.

2 – Câu chuyện của anh Stefan.

Anh Stefan năm nay đã ngòai 87 tuổi mà vẫn còn làm việc đi đứng vững vàng. Stefan là một trí thức Công giáo có tên tuổi ở Ba lan, anh đã từng làm Tổng Biên tập trong nhiều năm cho nhà xuất bản có tiếng Znak và cả cho một tờ tuần báo nữa. Anh là một thành viên của tổ chức “Bảo tàng Khu Thiêu người Auschwitz” xưa kia của Đức Quốc Xã. Và Stefan cũng có chân trong Hội Đồng Giáo Hòang về Giáo Dân (Pope’s Council for Lay Catholics).

Anh dẫn tôi đi khắp nơi trong thành phố bằng xe taxi hay xe bus để làm việc này chuyện nọ một cách dễ dàng. Chị Lài có nhắc anh dẫn tôi đến thăm nhà xuất bản Znak là cơ sở anh đã gắn bó cộng tác từ nhiều năm, nhưng đúng lúc đó thì cơ sở này đang đóng cửa để sửa chữa lại, nên tôi đã không có dịp đến thăm viếng nhà xuất bản có danh tiếng này.

Stefan cho tôi biết : Bản luận văn tốt nghiệp đại học của anh lấy chủ đề là : “L’émancipation ouvrìere selon Emmanuel Mounier” (Sự Giải phóng giới Lao động theo chủ trương của Emmanuel Mounier là người khởi xướng ra chủ thuyết Nhân vị (Personnalisme) ở Pháp từ sau Đệ Nhất Thế chiến và cũng là sáng lập viên của tạp chí Esprit mà hiện vẫn còn tiếp tục ấn hành). Và chúng tôi có dịp trao đổi về các tác giả thuộc trường phái Nhân bản Thiên chúa giáo ở Pháp vào giữa thế kỷ XX như Jacques Maritain, Gabriel Marcel – mà từ hồi còn là sinh viên chúng tôi đã say mê theo dõi học hỏi. Trong nhà anh, tôi thấy vẫn còn các số báo mới nhất của tạp chí Esprit từ Pháp gửi cho anh – báo này từ sau 1975 thì tôi không hề thấy xuất hiện tại Việt nam nữa.

Stefan còn kể lại cho tôi cái kỷ niệm sinh họat sôi nổi với các “Công nghị cấp giáo phận” (synode diocésain) dười thời Giám mục Karol Wojtyla cai quản giáo phận Cracovie (mà sau này đó chính là vị Giáo hòang nổi danh Jean Paul II của Giáo Hội Công giáo La mã). Anh nói : Phải có đến 500 đơn vị các synode này với khí thế nô nức của mọi giới công giáo hội họp thảo luận về các khía cạnh đổi mời của Giáo hội Công giáo tại địa phương. Đó là một phong trào tự phát của quần chúng công giáo mà chính quyền cộng sản không thể làm cách nào mà cấm cản hay dẹp bỏ được. Tuy vậy, lên đến cấp quốc gia (synode national), thì các công nghị này lại không thể nào đạt kết quả mong muốn được.

Trả lời câu hỏi của tôi là : “Liệu bây giờ có thể gây lại phong trào quần chúng tôn giáo như vậy nữa chăng?”, thì Stefan cho biết : “Bây giờ nhờ có Internet, thì giới trẻ có nhiều điều kiện thuận tiện để phát động phong trào canh tân như đã khởi sự từ khỏang 40 năm trước ngay tại giáo phận Cracovie này.” Cuộc trao đổi giữa anh và tôi kéo dài trong nhiều giờ với nhiều chi tiết lý thú về quá trình xây dựng và phát triển phong trào canh tân của giới Công giáo Ba lan  –  mà tôi sẽ có dịp ghi lại đày đủ hơn trong một bài riêng biệt khác.

Mà ở đây, tôi muốn ghi ra sự nhận xét của mình về sự bền vững của tình yêu giữa hai anh chị Lài & Stefan – đó là cả hai người đều ôm ấp theo đuổi cùng một lý tưởng của người chiến sĩ – như chính chị Lài đã nói với tôi :  Chúng ta đều là những “militants”, là “âmes-soeurs” với nhau. Và cả hai anh chị suốt cuộc đời đều họat động trong lãnh vực văn hóa của Giáo hội Công giáo Ba lan – cụ thể là sát cánh chặt chẽ với Tổng Giám mục Karol Wojtyla ở Cracovie là người sau này trở thành Giáo Hòang Jean Paul II nổi tiếng.

Hồi ký của chị Lài cũng như Tự truyện của cháu Lan đã ghi chi tiết về mối tình này. Kể cả trong bài phỏng vấn vào năm 1994 đã nêu ở trên, thì chị Lài cũng đã nói nhiều về mối tình keo sơn tuyệt vời này nữa.

Và tôi cũng còn chứng kiến việc anh Stefan chăm sóc tận tụy và trìu mến đối với người bạn đời hiện đang có triệu chứng của bệnh Alzheimer nữa.

3 – Câu chuyện của cháu Lan, trưởng nữ của anh chị Lài – Stefan.

(tên đày đủ là : Lan Marzena Wilkanowicz – Devoud)

Tôi chưa có dịp gặp cháu Lan, vì anh Stefan cho biết cháu sống tại Paris với người chồng là dân Pháp. Tôi đóan cái chữ Devoud ở cuối cái tên dài như được ghi ở trên, thì đó là tên họ của chồng cháu. Lan là tiếng Việt như Hoa Lan (Orchidea), Marzena mới là tên tiếng Ba lan. Còn Wilkanowicz là tên họ nội của cháu. (Tên mẹ là Lài (Jasmine) – em gái chị Lài có tên là Huệ (Lily), thì cũng lại là một thứ Hoa nữa)

Cuối tháng 10 năm 2012, cháu Lan có cho ấn hành cuốn Tự truyện bằng tiếng Ba lan tại thủ đô Varsovie và đã có nhiều bà con người Việt tại Ba lan đến dự buổi ra mắt. Cuốn sách này đã được giới thiệu trên báo điện tử Đàn Chim Việt và được nhiều độc giả chú ý theo dõi. Vì không đọc được nguyên tác bằng tiếng Ba lan – mà cũng chưa thấy có bản tiếng Anh hay tiếng Pháp – nên tôi xin phép được trích dẫn một vài đọan trong bài báo của Đàn Chim Việt như sau đây để giới thiệu với quý bạn đọc câu chuyện của cháu Lan :

…”Lan Marzena là kết quả của mối tình “không tưởng vô cùng lãng mạn của người trí thức Ba lan với cô gái Việt Nam dòng dõi – trong khi chiến tranh, chính trị và khỏang cách địa lý là những rào cản thách thức tưởng như không thể vượt qua.”

“Mẹ cô, Maria Teresa Trần Thị Lài là con gái của quan Trần Văn Lý, người từng giữ chức cai quản tại Đà lạt thời Pháp thuộc. 28 tuổi, bà gặp người chồng tương lai trong cuộc Họp mặt Thanh niên Công giáo Pax Romana tại San Salvador (Nam Mỹ) và … sau 7 năm xa cách, bà quyết định lấy ông Stefan Wilkanowicz khi đó là ký giả của tuần báo Công giáo Tygodnik Pawzechny…”

“… Mối tình của ông bà Wilkanowicz “ly kỳ và có khi còn hay hơn cả phim Hollywood, vì là chuyện có thật” (theo lời ghi của cô Lan)”.

“… Lan Marzena dẫn ta tới gặp các nhân vật lịch sử cận đại của Ba lan mà chị gặp, kết thân và học hỏi – trong đó có Thủ Tướng đầu tiên của Ba lan dân chủ Tadeusz Mazowiecki, các nghệ sĩ, nhà văn, các tên tuổi tạo mode Anh, Pháp mà chị từng làm việc cùng trong 13 năm làm Tổng biên tập đầu tiên của nguyệt san “Elle” Ba lan…”

4 – Để tóm lược lại.

Khi tìm đến thăm gia đình chị Lài ở Ba lan, tôi chỉ nhắm mục đích thật đơn giản là gặp lại người bạn thân thiết từ thuở còn đi học ở Saigon trên nửa thế kỷ trước. Nhưng sau cuộc viếng thăm này, tôi thật không ngờ là chị bạn của mình đã trải qua một cuộc sống cam go mà thật sôi động giữa lòng một đất nước xa lạ dưới sự kềm kẹp ngặt nghèo của chính quyền cộng sản. Và tôi thật vui mừng thấy được anh chị Lài – Stefan đã vượt qua được bao nhiêu nghịch cảnh sóng gió và giữ vững được niềm tin son sắt của mình đối với Đạo Công giáo – mà cả hai dòng họ của anh chị ở Việt nam cũng như ở Balan đã gắn bó vững chãi từ bao nhiêu thế hệ trước.

Bài viết này chỉ nhằm ghi lại một cách sơ lược về chuyến thăm viếng của tôi đến với gia đình anh chị. Do vậy, nó chỉ có tính cách riêng tư về tình cảm bạn hữu giữa chúng tôi – kể cả giữa một số bằng hữu quen biết trong thế hệ sinh viên chúng tôi ở Saigon thời trước mà thôi.

* Vì thế, tôi hy vọng sẽ có bà con hiện sinh sống ở Ba lan có điều kiện tham khảo trực tiếp từ các tài liệu viết bằng tiếng Ba lan – để rồi trình bày cho công chúng độc giả người Việt hiểu biết tường tận hơn về một gia đình “Việt – Balan” với nhiều tình tiết thật là ly kỳ sinh động này. Mong lắm thay!

Costa Mesa California, Tháng 11 năm 2012

Đòan Thanh Liêm

Ghi chú: Chị Teresa Maria Trần Thị Lài đã qua đời tại Cracovie vào đúng ngày 15 tháng Tám năm 2014.

LÊN ĐƯỜNG KHAI PHÓNG!

LÊN ĐƯỜNG KHAI PHÓNG!


Bài phát biểu của ông Nguyên Ngọc
tại lể khai giảng Trường Đại học Phan Châu Trinh

Hôm nay, mồng 9 tháng 9 năm 2015, kỷ niệm ngày sinh của nhà chí sĩ, nhà văn hóa và nhà giáo dục kiệt xuất Phan Châu Trinh, cũng là ngày truyền thống của trường ta, trường Đại Học Phan Châu Trinh làm lễ Khai giảng khóa K 15, khóa học 2015-2019.

Thay mặt lãnh đạo nhà trường, tôi xin chào mừng và chân thành cám ơn các vị đại biểu đã đến chia vui cùng thầy trò chúng tôi. Xin chào mừng tất cả các thầy cô, các cán bộ nhân viên, các sinh viên và cựu sinh viên của trường. Và đương nhiên, lời chào nồng nhiệt nhất hôm nay của tất cả chúng ta là dành cho các tân sinh viên, chào mừng các em nữ và nam từ khắp nơi, có em từ tận Thái Bình cuối Đồng bằng sông Hồng, có em từ tận Thành phố Hồ Chí Minh xa xôi, đã đến với không gian Phan Châu Trinh thân yêu của chúng ta. Tôi xin phép, và tôi tin chắc tất cả quý vị đều đồng ý cho phép tôi hôm nay dành diễn từ khai giảng này để chủ yếu nói với các tân sinh viên, những thành viên mới mẻ và trẻ trung của gia đình Phan Châu Trinh.

Các em thân yêu,

Như các em đều biết, trường của chúng ta có tên là trường Đại học Phan Châu Trinh. Và tôi xin nói: Những người sáng lập ngôi trường này đã chọn cái tên ấy với tất cả tâm huyết và với một ý tứ sâu xa. Bởi vì đấy là tên của một con người rất đặc biệt, cũng có thể nói rất kỳ lạ, hết sức độc đáo và là người sáng suốt nhất trong lịch sử cận đại và hiện đại của nước ta. Sự sáng suốt của ông còn soi đường cho chúng ta đến tận ngày nay.

Phan Châu Trinh sinh ra khi đất nước chìm đắm trong vòng nô lệ tối tăm và thảm khốc. Và khi ông bước vào đời, nghĩa là đến tuổi như tuổi các em hôm nay, thì tất cả các cuộc nổi dậy cứu nước của tất cả những người anh hùng dũng cảm và tài năng nhất để chống ngoại xâm giải phóng dân tộc bấy giờ đều thất bại đau đớn. Cha của Phan Châu Trinh là một vị tướng anh hùng đã chết trong một cuộc khởi nghĩa anh hùng, tuyệt vọng và thất bại cay đắng như thế … Trước tình hình bức thiết đó, nảy sinh câu hỏi nóng bỏng: Vì sao? Và làm thế nào? Tất cả bấy giờ đều chỉ có một câu trả lời: Phải anh hùng hơn nữa! Dám hy sinh nhiều hơn nữa ! Tất cả. Trừ một người. Người đó là Phan Châu Trinh. Ông nói: Không, không phải như vậy, không thể đi con đường ấy nữa. Ông là người duy nhất đi tìm và đã tìm thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc bị đày đọa vào vòng nô lệ thảm khốc, không phải trong sự thiếu anh hùng của nhân dân, mà là ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về văn hóa của đất nước, so với thế giới, một thế giới đã đổi khác về căn bản – ngày nay ta gọi là thế giới toàn cầu hóa – mà ông cũng là người duy nhất hồi bấy giờ nhận ra. Ông nói chính sự tăm tối và ngu dốt, sự lạc hậu quá xa so với thế giới hiện đại là nguyên nhân khiến Việt Nam mất nước. Ông khẳng định căn bệnh chết người của dân tộc là căn bệnh về văn hóa, ngu dốt và lạc hậu về văn hóa. Và để chữa trị một căn bệnh về văn hóa thì chỉ có một phương thuốc duy nhất, đó là Giáo dục. Phan Châu Trinh chủ trương một cuộc cải cách giáo dục căn bản, hiện đại, triệt để, toàn diện, rộng lớn, đưa Việt Nam thành một nước văn minh, tiên tiến, cùng nhân loại năm châu. Có như vậy thì nền độc lập đươc dành lại dù bằng cách nào mới là độc lập thật sự, độc lập mới bền vững, nhân dân mới thật sự có hạnh phúc …

Tiếc thay, những điều kiện éo le của lịch sử đã khiến cho chương trình vĩ đại của Phan Châu Trinh bị dở dang. Lịch sử đã đi theo con đường khác. Độc lập và thống nhất đã được dành lại. Nhưng, tôi nghĩ hôm nay chúng ta cần dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau, chúng tôi có trách nhiệm thẳng thắn nói với các bạn trẻ sự thật này: nay chúng ta đã có độc lập rồi, nhưng căn bệnh chết người Phan Châu Trinh đã thấy và thống thiết muốn chạy chữa cho dân tộc hơn một trăm năm trước thì về cơ bản vẫn còn nguyên đấy. Vẫn là nguy hiểm chết người. Việt Nam vẫn là nước lạc hậu, đứng ở hàng cuối không chỉ của thế giới, mà ngay của khu vực, của châu Á và Đông Nam Á. Chúng ta phải dũng cảm và thẳng thắn nói với nhau sự thật ấy. Chính vì vậy mà ngôi trường này mang tên là trường Phan Châu Trinh. Ngôi trường này được thành lập, tất cả chúng ta có mặt ở đây, các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của trường, và các em sinh viên trẻ trung, quan trọng và chủ yếu nhất là các em, chúng ta có mặt ở đây là để góp phần, dù là nhỏ nhoi, tiếp tục chương trình sống còn do nhà giáo dục vĩ đại Phan Châu Trinh khởi xướng và còn bị dở dang. Trường của chúng ta nhỏ, còn non trẻ và nghèo, sức của mỗi chúng ta hạn chế, nhưng chúng ta có một lý tưởng lớn, chúng ta, người dạy, người học, chúng ta biết chúng ta tham gia vào một chương trình to lớn và có ý nghĩa sinh tử đối với đất nước này, hôm nay và ngày mai.

Thưa quý vị,

Các em thân yêu,

Ở trên tôi có gọi Phan Châu Trinh là một nhà giáo dục lớn, có lẽ điều ấy hơi lạ, xưa nay người ta thường vẫn coi và vẫn gọi ông là một chí sĩ yêu nước, hoặc có nhiều hơn nữa, là một nhà văn hóa. Song như ta vừa thấy, một trong những đặc sắc nhất của Phan Châu Trinh là ở chỗ ông đồng nhất giáo dục với giải phóng, theo ông chỉ có giáo dục mới thật sự giải phóng được con người, thật sự giải phóng được dân tộc. Ông quan niệm giáo dục tức là giải phóng. Ở đây có một ý tứ rất thâm sâu, mà hôm nay tôi muốn được nói với các em vì trường chúng ta thiết tha đi theo quan niệm này, sẽ cố gắng tối đa thực hiện nó trong mọi hoạt động của mình, đến cả trong “khí quyển’’ của không gian Phan Châu Trinh mà thầy trò chúng ta cố gắng cùng nhau xây dựng nên, cùng sống và làm việc trong đó. Suốt 4 năm. Và rồi các em sẽ mang theo ra đời, suốt đời.

Nhà thơ lớn của nước Anh John Keats có một câu nói thâm thúy về giáo dục, Keats nói: ‘’Giáo dục không phải là chất cho đầy, mà là đốt lên ngọn lửa’’. Chất cho đầy (kiến thức) tức là rót từ bên ngoài vào, từ bên trên xuống, đổ cho đầy vào đầu con người được coi là một cái thùng ù lì, bị động. Đốt lên ngọn lửa là khêu cháy từ bên trong. Giáo dục khêu cháy từ bên trong, vì giáo dục bắt đầu bằng lòng tin rằng trong mỗi con người đều có, tiềm ẩn, mầm mống của một ngọn lửa, tức những năng lực có thể và cần được đánh thức dậy để phát triển. Giáo dục là giải phóng, là đánh thức. Đánh thức cái vốn đã có sẵn trong từng con người, từng người học, từng sinh viên. Hôm nay, trong ngày đầu tiên các em bước chân vào trường, tôi muốn nói với các em điều này: ở trường này có một phương châm, một niềm tin: không có sinh viên kém. Em nào cũng giỏi, tất cả, không trừ một ai, tạo hóa rất công bằng, mọi người đều giỏi, mỗi người giỏi một cái, một cách, người giỏi toán, người giỏi văn, người giỏi ngoại ngữ, người giỏi tin học, người giỏi nhạc, người giỏi đá bóng, người hát hay, người vẽ đẹp, người năng nổ trong giao tiếp, người thâm trầm trong suy nghĩ …, đều quý, xã hội đều cần vì xã hội có những nhu cầu hết sức đa dạng. Sở dĩ ta coi người này hay người kia là kém, dốt, vì ta thường có lối đòi hỏi chủ quan, vô lý và kỳ quặc, cứ một mực đòi mọi người đều phải giỏi cùng một thứ mà ta cũng rất chủ quan coi là quan trọng nhất, ai không giỏi theo đúng đòi hỏi chủ quan của ta thì ta cho là dốt, khinh miệt và đẩy qua một bên trên đường đi tới của cộng đồng. Nói cho đúng, đấy là một tội ác, bởi vì người bị ta chủ quan coi là dốt sẽ đinh ninh mình dốt thật, chẳng đáng gì trong xã hội, mất hết tự tin, tự coi thường, tự khinh bỉ chính mình, sẽ lủi thủi với cái dốt tưởng tượng, thành một ám ảnh tủi nhục suốt đời.

Ở trường này chúng ta nhất quyết không làm như vậy, không đi theo con đường phi nhân bản, phi giáo dục đó. Chúng ta chủ trương làm một kiểu giáo dục khác, một kiểu giáo dục hạnh phúc, giáo dục đem lại cho con người hạnh phúc, giáo dục khiến cho con người hạnh phúc hơn, giáo dục làm cho con người tự tin và tự hào về chính mình, tôi muốn đề nghị chúng ta gọi là ‘’kiểu giáo dục Phan Châu Trinh’’. Trong 4 năm tới, bắt đầu từ hôm nay, trường chúng ta, thầy trò chúng ta quyết cùng nhau làm cho kỳ được một trong những việc quan trọng nhất: bằng mọi cách (trong đó có một cách rất quan trọng là chương trình giáo dục khai phóng mà chốc nữa thầy Chu Hảo sẽ trao đổi cùng các em), giúp cho mỗi em tự hiểu mình, tự khám phá và phát hiện chính mình, biết cho ra, hiểu cho rõ mình giỏi cái gì, đặc sắc nhất cái gì, từng em. Theo tôi, đó là công việc quan trọng nhất của mỗi thầy cô giáo, nằm trong chiều sâu căn bản của thiên chức nhà giáo nơi mỗi thầy cô. Nhưng cũng đương nhiên, trước hết, chủ yếu, đó phải là nổ lực của các em, từng em, với sự giúp đỡ của các thầy cô, của các bạn, của toàn bộ môi trường giáo dục mà chúng ta phải cùng nhau tạo ra ở đây. Trước hết ở các em, từng em, tôi nhắc lại. Bởi vì phát triển bao giờ cũng là tự phát triển, như cái cây phải tự nó lớn lên, không ai có thể lớn lên thay nó được.

Và một quá trình như vậy chỉ có thể có kết quả khi nó là một sự hợp tác khắng khít, dân chủ, tự do và bình đẳng giữa chúng ta, người dạy và người học, thầy và trò.

Ở trường này có một nhận thức rõ ràng: sinh viên là công dân đi học. Sinh viên cần ứng xử như một công dân có trách nhiệm, và cần được tôn trọng như một công dân tự do. Chúng ta tôn trọng đúng mức lễ độ truyền thống và hiện đại giữa thầy và trò, người lớn tuổi hơn và người ít tuổi hơn, người đi trước và người đi sau, nhưng chúng ta bình đẵng trước chân lý cuộc sống và chân lý khoa học. Trường có quy định: trên lớp học, sinh viên sẽ không xưng con, xưng cháu, mà xưng tôi, một cách bình đẳng và tự tin, hoặc cũng có thể xưng em với giáo viên, các giáo viên xưng thầy, cô với các em. Để cùng nhau trao đổi, và thảo luận, tranh luận, vì lẽ phải chung, trong một ngôi trường thật sự văn minh.

Các em thân yêu,

Giáo dục là việc khó, mà cũng là việc thật đẹp, rất khó mà cũng lại đẹp nhất. Bởi, như đã nói, đây là việc đánh thức dậy những gì những gì hay nhất, đẹp nhất trong mỗi con người để con người ấy phát triển tự do và hạnh phúc. Khó và đẹp còn ở chỗ con người là vô cùng đa dạng, mỗi em là một thế giới. Mỗi em một khác, mỗi lớp, mỗi năm, mỗi khóa một khác. Vừa rất căn bản, vừa rất mới lạ, luôn mới lạ. Vừa chắc chắn trên những nền tảng chung cơ bản, vừa lại rất cá biệt, bao giờ cũng mới mẻ, cũng khác thường. Cho nên tôi luôn nghĩ, nói theo cách nào đó, thì về cơ bản giáo dục là việc một thầy một trò, một người cùng với một người khó nhọc và tha thiết đi tìm ra chính mình. Tôi luôn mong ước, và tôi nghĩ các thầy cô giáo cũng vậy, luôn muốn được đến tận từng em, hiểu được từng em, gần gũi và là bạn của từng em, để ta cùng làm cho thành công công việc khó khăn mà đẹp đẽ này. Sẽ rất hạnh phúc cho cả thầy và trò ta.

Vậy đó, các em thân yêu, hôm nay ta lên đường.

Một lần nữa, thay mặt nhà trường, thay mặt các em, tôi xin cám ơn các vị đại biểu đã đến cùng thầy trò chúng tôi trong ngày lên đường của chúng tôi hôm nay.

Còn với các em, ta hãy cùng chúc nhau một hành trình khai phá thật đẹp và thật thành công.

Nguyên Ngọc.

Tâm sự cùng Vũ Đức Đam

Tâm sự cùng Vũ Đức Đam

Nguyễn Tiến Dân

14-9-2015

Nguyễn Phú Trọng, là đảng trưởng của cái đảng CS Việt nam. Hiển nhiên, trong cái đảng ấy, ông phải là, người thông tuệ nhất. Ông, đi như ngựa vía. Hôm nay, còn ở Mỹ  Ngày mai, đã bay sang Nhật. Tất bật, là thế. Chẳng biết, có nên cơm cháo gì. Và, ông học được, những gì ở đó? Trong đống sách, mà ông đã đọc: Có lẽ, không có sách, dạy cách “trị Nước– an Dân”. Bởi, thấy ông, không rành việc đó. Ông, gối đầu giường, quyển Tây du ký. Và, đã từng, trích dẫn nó, để bao biện: Cửa Phật, tôn nghiêm là thế. Vậy mà, Đường Tăng, cũng phải đi hối lộ. Ngụ ý, dưới sự lãnh đạo của “Đường Tăng” Nguyễn Phú Trọng: Hối lộ, phải coi là, chuyện bình thường  hết sức bình thường. Đừng có mơ, chống được tham nhũng.

Tôn Ngộ Không, là thần tượng của ông. Sang thăm Trung cộng, chẳng cần giữ “thể diện Quốc gia”: Ông, tìm gặp cho bằng được, anh hề Lục Tiểu Linh Đồng và, hãnh diện, đứng bằng vai – phải lứa với nó. Rồi, trơ trẽn, cho chữ kí của mình, lên… sách của người ta. Nhìn cảnh đó, nhiều kẻ thối mồm, chúng, bình phẩm rằng: Cả đời, ông chỉ thích, những trò khỉ. Và, chẳng làm được, một việc quái gì, cho ra hồn. Rõ là, 1 lũ láo khoét. Riêng tôi, hâm mộ ông lắm. Tôi thích nhất, câu nói của ông: “Kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch và phản động”.

Đã đành, là như thế. Nhưng, vẫn băn khoăn: Ối lúc, chính các ông, xuyên tạc sự thật và bịa đặt trắng trợn. Tốt, nói thành xấu. Đen, nói thành trắng. Ngày, nói thành đêm. Không biết, có nên, kiên quyết đấu tranh, chống lại các ông?

Vũ Đức Đam, kính mến. Được truyền cảm hứng, từ lời nói, đầy tính “trí tuệ” của ông: “Tại sao, chúng ta tốt, mà vẫn cứ nghèo?”. Tôi cầm bút, muốn tâm sự, cùng ông.

Tôi với ông, vốn “hai người xa lạ”. Lí tưởng, chẳng thể tương thông – Văn hóa, chẳng thể tương đồng. Xuất sứ khác nhau – Tuổi đời cách biệt. Cơm ông ăn – áo ông mặc – bổng lộc mà ông lĩnh: Tất thảy, đều do Nhân dân Việt nam và Đất nước Việt nam, cung phụng. Nhưng, trên hết và trước hết: Ông, chỉ phục vụ, cho cái đảng CS của ông. Còn tôi, tất cả, đều do Sư tử cung phụng. Vì vậy, phải nhất nhất nghe theo và, cúc cung phục vụ nàng. Không bao giờ, có chuyện: Ban ngày, ăn cơm của Sư tử. Nhưng, tối đến, lại mang tấm thân trai tráng, đi phục vụ, bà hàng xóm.

Khác nhau, là thế. Nhưng, “đôi bên chức tước, chẳng kém gì nhau”. Ông, là Phó Thủ tướng Chính Phủ. Cái Chính phủ, do những người CS, dùng lưỡi lê – xe tăng và nhà tù, để lập ra. Còn tôi, là Phó thường dân khốn khổ. Bị chính quyền CS của các ông lừa đảo và trắng trợn cướp đi, hàng chục tỷ VNĐ. Tất cả, đều là tiền mặt. Thế mà, tôi chẳng dám ho he. Khuất phục, trước cường quyền: Tôi, thật hèn hạ. Thiên hạ, đầy người dũng cảm. Tôi, kể ông nghe, chỉ 2 ví dụ.

Khi, giặc Pháp, kéo đến nhà của “Bà má Hậu giang”. Bà, thật bất khuất:

Má thét lớn, tụi bay đồ chó.

Cướp của tao, còn định bắt cả tao.

Tao già, vẫn dư sức cầm dao.

Đứa nào muốn chết, thì nhào vào đây.

Bọn giặc Pháp, chẳng đứa nào, muốn chết. Chúng gập lê và, cắp đít đi về. Anh hùng là thế. Nhưng, bà đâu có thật. Ai đó, đã bốc phét và, nhào nặn ra bà. Bà, sao có thể, so sánh được, với người Anh hùng, bằng xương – bằng thịt, Đoàn Văn Vươn. Giống như bà, Đoàn Văn Vươn, cũng bị cướp. Khi, chúng kéo đàn – kéo lũ đến, các anh đã định, “cầm lấy súng, nhằm thẳng quân thù, diệt chúng nó”. Nhưng, rồi chợt nghĩ: Những chiến sĩ, đi cưỡng chế nhà mình, họ chỉ là, con em của Nhân dân lao động. Họ, đâu phải là, kẻ thù của mình. Các anh, chỉ nổ súng cảnh cáo, 1 cách tượng trưng. Rồi, buông nó. Kết quả, các anh, những nạn nhân, bị lũ kẻ cướp, nhốt vào tù. Gia đình, bị li tán – Nhà cửa, bị san phẳng – Cá tôm, bị khoắng sạch. Tưởng chừng, các anh, thua thảm bại. Sự thực, không phải như thế.

Tiếng súng phản kháng của các anh, dẫu không đanh, như tiếng đại bác, chào mừng Quốc khánh. Nó, chỉ phát ra, từ đạn hoa cải. Nhưng uy lực của nó, gấp vạn lần, thứ hàng mã kia. Nó, đã đánh thức, lương tâm của cả xã hội. Cả nước, xiết chặt tay nhau, hướng về các anh và, lên án lũ kẻ cướp. Lần đầu tiên, chứng kiến cảnh này. Lũ kẻ cướp, phải khiếp sợ và chùn tay. Chúng, buộc phải: “Hủy bỏ, quyết định thu hồi đất. Thi hành các thủ tục, cho phép gia đình ông Vươn, tiếp tục được sử dụng đất”. Nhưng, đời nào, chúng chịu thua trắng. Chúng, là lũ thù dai: Án, vẫn được tuyên, cho những người con, vô tội và bất khuất.

Ông ơi, đã ăn cướp của người ta, lại còn, giở trò đê tiện: Vu khống, để bắt người ta vào tù. Những người CS các ông, có còn tình người nữa hay không? Và, có cần, phải “kiên quyết đấu tranh”, với các ông hay không?

Lũ giặc cỏ, đầy đường. Chẳng có ai, bảo rằng, chúng là người tốt. Nhưng, ít nhất, chúng cũng còn biết “dây máu – ăn phần”. Theo chúng, đi ăn cướp, ai cũng được, chia phần. Nhiều ít, tùy thuộc “công trạng”. Nay, chính các ông, chẳng chút ngượng mồm, công khai thừa nhận: Đã xúi giục quần chúng, đi cướp Chính quyền của bọn Thực dân – Phong kiến. Trước khi đi, các ông hứa: “Ruộng đất, sẽ về tay dân cày – Nhà máy, sẽ về tay thợ thuyền”. Bây giờ, tất cả những thứ đó, đang nằm trong tay các ông. Các ông, đã thực hiện đến đâu, lời hứa của mình?

Ông ơi, đảng CS, “tham như mõ”. Các ông, một mình, hưởng hết mọi thành quả của cái gọi là, cuộc Cách mạng ấy. Ti tiện như thế. Nên gọi các ông, là “người tốt” hay là “kẻ xấu”? Và, có cần, phải “kiên quyết đấu tranh”, với các ông. Để, đem lại, sự công bằng, cho Nhân dân Việt nam, hay không?

Các ông, thường phỉnh phờ, lũ quần chúng nghèo – hèn chúng tôi, rằng: Ừ, thì rõ là đảng CS, độc tài. Nhưng, ối nước, có chế độ độc tài, mà vẫn phát triển như vũ bão. Hàn quốc – Singapore – Đài loan, chẳng hạn. Xã hội của họ, ổn định. Đất nước của họ, giàu – sang. Dân chủ, như Thái lan: khủng bố, xảy ra như cơm bữa.

Đúng là, “nói lấy được”. Các ông, sao không dám, nhìn thẳng vào sự thực: Về mọi mặt, chẳng bao giờ, Việt nam, có thể bén gót Thái lan. Nói chi đến, Hàn quốc – Singapore – Đài loan, cho thêm phần, xấu hổ. Chưa kể, tuy độc tài, nhưng lãnh đạo ở các nước đó, trước hết: Họ, là những người tài giỏi và tử tế. Họ, hết sức công tâm – minh bạch – tự trọng. Nói, đi đôi với làm. Một lòng, vì Đất nước. Họ, không vun vén cho cá nhân và gia đình. Họ, trọng dụng nhân tài. Họ, huy động được, sức mạnh tổng hợp của cả Dân tộc. Cho nên, Nhân dân các nước đó, sống trong ổn định và Đất nước của họ, phát triển bền vững. Còn các ông?

Xưa, có câu: “Sâu – Bọ, lên làm người”. Ám chỉ, thời mạt. Nay, chính ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, xác nhận: Trong số cán bộ CS, có nhiều con sâu lắm. Không dừng lại, ở đó. Ông lo rằng, cứ cái đà này: Mai kia, tất cả, sẽ là sâu hết.

Sâu – Bọ, lên làm người, Xã hội đã hỗn loạn. Sâu – Bọ, mà lãnh đạo Quốc gia., thì chết mẹ nó, cả cái Đất nước này. Một viễn cảnh, khủng khiếp. Chắc, đảng CS, anh minh và sáng suốt, chỉ đưa Dân tộc chúng tôi, đến rìa rìa của cái viễn cảnh đó thôi. Ông nhỉ?

Các ông, ra rả, kêu gọi chúng tôi, phải sống theo “Tấm gương Đạo đức của Hồ Chí Minh”. Nhưng, liệu các ông, có dám: Mở cửa, nhà của các Tổng Bí thư – Mở cửa, nhà của các Ủy viên Bộ Chính trị – Mở cửa, nhà của các Bí thư và Chủ tịch các tỉnh, cho người dân chúng tôi, vào thăm quan. Để, chúng tôi còn biết: Ngày xưa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã sống như thế nào? Các ông, có dám: Công khai, tài sản của các vị đó – Công khai, con cái các vị đó, đã học ở đâu; học phí bao nhiêu, do ai đóng và, bây giờ, đang làm gì? “Cha truyền – Con nối”, có đúng là, bản chất của những người CS?

Tất cả, một cách Quang  Minh  Chính  Đại, trên báo Nhân dân. Cho, cả nước đều biết.

Không dám làm việc đó, chứng tỏ: Chính những người CS các ông, đang sống, còn quá Vua – Chúa ngày xưa. Nhưng, vẫn bịp bợm, mà nói rằng: “Những người CS, rặt 1 lũ thanh liêm – bần hàn. Không có lợi ích nào khác, ngoài lợi ích của Dân tộc”. Hiển nhiên, Nhân dân Việt nam chúng tôi, phải “kiên quyết, đấu tranh” với những luận điệu xuyên tạc và, bịa đặt của các ông. Như, chính lời hiệu triệu của Tổng Trọng.

Nhân nói chuyện Hồ Chí Minh, xin hỏi ông, một chuyện nho nhỏ.

Ông có biết, vì sao: Rất ít người Á đông, tự nguyện “hiến nội tạng sau khi chết”? Ông có biết, vì sao: Những kẻ tử tù, luôn coi, được hưởng đặc ân, khi nhận chỉ dụ: “Trẫm, ban cho ngươi, được chết toàn thây”? Nếu đã biết, xin hỏi tiếp:

Tỉ như, có 1 người, đức cao – vọng trọng, sắp mất. Các con ông, vì quí bố, đã chuẩn bị sẵn, một lũ lang băm. Ông bố, vừa tắt thở: Chúng, nhào vào, giằng lấy xác ông cụ – Chúng, đè ngửa và lột trần truồng ông cụ – Chúng, dùng dao bầu, mổ bụng ông cụ – Chúng, rút ruột ông cụ – Chúng, moi tim, móc óc ông cụ – Chúng, vạch mồm và cắt lưỡi ông cụ – Chúng, khoét mắt ông cụ – Chúng, xẻo 2 hòn dái của ông cụ – Chúng, cho tất cả, vào 1 cái bình thủy tinh, có chứa Formol. Chúng, đem tất cả những thứ đó, cất đi, ở 1 nơi thật xa. Rồi, chúng trưng bày cái xác, thiếu lòng – gan – phèo – phổi ấy. Và, huy động dân làng, hết ngày này – qua tháng khác, đến xem (nói chữ, là chiêm ngưỡng). Người xem đến ít, chúng khuyến mại: Mỗi người đến, được 1 cái bánh mì và 1 chai nước lọc. Ông hãy hỏi, những người, mà ông quen biết – Ông hãy hỏi, dòng tộc nhà ông: Các người, có cam tâm, đứng nhìn. Và, cho phép những đứa con kia, được làm cái việc “đại nghịch – vô Đạo”; “bất Nhân – thất Đức”: Để cho người quá cố, “chết chẳng toàn thây”, như thế hay không?

Chỉ có lũ điên, mới ngang nhiên, trả lời rằng: “”.

Vậy mà, cái việc tày đình như thế, các ông, vẫn ngang nhiên và công khai thực hiện. Trong khi, vẫn xoen xoét cái mồm, mà nói rằng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và muôn vàn kính yêu”. Chẳng thèm, chiếu cố tới nguyện vọng của Người: Sau khi chết, được hỏa táng. Và, chỉ cần, chôn tro cốt, ở 3 quả đồi thấp, ở khắp 3 miền Trung – Nam – Bắc. Một nguyện vọng: Tột cùng của sự bình dị. So với những gì, mà Hồ Chí Minh, đã đóng góp cho đảng CS của các ông.

Ông ơi, sách Luận ngữ, có 1 dòng, như thế này:  …三年无改於父之道,可谓孝矣: (Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ). Tạm dịch: Ba năm, sau khi cha mất, người con, không thay đổi, lời dạy của cha. Thì, có thể, được gọi là, có hiếu.

Đằng này: Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa nằm xuống, chính các ông, đã sửa Di chúc của Người. Người, dặn 1 đằng – các ông, làm 1 nẻo. Phải chăng, những người CS các ông, có hiếu với Người? Phải chăng, bất hiếu, vẫn có thể, được gọi là “người tốt”? Và, có cần, phải “kiên quyết đấu tranh”, với những luận điệu xằng bậy, xuyên tạc và bịa đặt của các ông. Để, thực hiện trọn vẹn, Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh?

Với, vài cái dẫn chứng đó, tôi chỉ muốn, hé cho ông, nhìn sơ qua, phần nổi của tảng băng “CS, là những người tốt”. Nếu tò mò, xin ông, hãy lập ra, 1 cái Diễn đàn hoặc, 1 phiên tòa công khai, cũng được. “Dân già” tôi, sẽ chưng, cho ông và, cả bàn dân thiên hạ, xem nốt, phần chìm của tảng băng đó. Ông, có muốn, nghe tiếp không?

Giờ, hãy bàn về, “người tốt Vũ Đức Đam. Chắc, ông biết câu này:

Trông mặt, mà đặt hình dong.

Con lợn có béo, cỗ lòng mới ngon.

Sách xưa, chép rằng: “Vua Quang Trung, cao lớn. Tóc quăn, da sần. Tiếng nói, sang sảng như chuông. Cặp mắt, sáng quắc. Không có ai, dám nhìn thẳng, vào mắt của ông”. Tướng mạo, dị thường – Tài năng, cái thế – Võ công, oanh liệt.

Bề ngoài của Vũ Đức Đam, nào có kém gì: Người ông, nhỏ thó. Tóc, xanh mươn mướt. Giọng, mượt như nhung. Da, mỏng và mai mái trắng. Cặp mắt, mơ màng. Hiền dịu, như thỏ non. Chẳng có gì, là uy vũ. Thậm chí, còn mảnh mai và ẻo lả, giống như… Hoa hậu Phường. Tài năng của ông, Thiên hạ, nào đã được kiểm chứng. Ngoại trừ, độc chiêu “vi hành”. Mỗi lần “vi hành”, đều dắt theo… 1 tay nhà báo. Để, sau đó, nó còn… viết bài.

Ông “vi hành”, tới bệnh viên. Trước đây, “3 bệnh nhân, 1 giường”. Sau đó, “1 giường, 3 bệnh nhân”.

Ông “vi hành”, tới doanh nghiệp. Nghe doanh nghiệp, kể khổ: “Ông, liên tục lắc đầu, tay nắm chặt và, đập vào góc bàn”. Cứ làm như, những thống khổ của họ, từ trên Trời rơi xuống. Chứ, không phải, do chính nhà cầm quyền CS của các ông, gây ra. Và, ông vô can, trong những sự việc ấy. Sau khi, ông “vi hành”: Mọi thứ, “đâu vẫn hoàn đấy”. Muốn tiến triển ư? Không phải, “Hãy đợi đấy”. Mà là, hãy đợi, đến “ngày 31 của tháng 2”.

Dựa vào đó, lũ thối mồm, chúng bình phẩm: Vũ Đức Đam, chỉ thạo “chém gió” và, thích “đánh bóng”, tên tuổi của mình (Bố khỉ. Tất tần tật, những cán bộ CS, đều thạo món này. Đâu chỉ riêng, mỗi mình Vũ Đức Đam. Ông nhỉ). Nào đã hết. Chúng, lại dè bỉu, mà cho rằng: Tấm bằng Tiến sĩ Kinh tế của ông, là bằng rởm. Bởi, cho đến tận bây giờ, đối mặt với 1 vấn đề, xưa như Trái đất: “nguyên nhân của đói nghèo”. Ông, cũng chẳng hề biết. Và, ngây ngô tự hỏi: “Tại sao, chúng ta nghèo?”

Ngoại trừ, những người CS các ông. Các ông giàu có, bởi các ông: Vơ vét của Đất nước – Bóc lột của Nhân dân và Bóp nặn của thuộc cấp(Thách các ông, chứng minh được, điều ngược lại). Còn lại, tất tần tật, những người giàu có, 1 cách chân chính: Họ, đều là, những người cực giỏi. Bill Gates, là 1 ví dụ.

Người dân chúng tôi, nghèo hèn – Đất nước chúng tôi, lạc hậu. Bởi, không giống như họ, chúng tôi, có dàn lãnh đạo: Tham lam – Bảo thủ và, cộng thêm, 1 chút Ngu dốt. Vũ Đức Đam, xin ông, chớ có vội, nhảy dựng lên. Hãy khoan, để nghe tôi nói.

Ai mà chẳng biết: Giá thành làm đường ở Việt nam, cao nhất Thế giới. Trong khi, chất lượng của nó, thuộc loại thấp nhất Hành tinh. Bởi, các ông, giao việc này, cho lũ quan tham và đầu đất. Chúng, rút ruột công trình, 1 cách vô tội vạ – Chúng, cố tình, làm sai qui chuẩn. Cho nên, nhiều con đường, vừa làm xong, đã hỏng. Tiền của, lại phải đổ ra, thêm nhiều lần nữa, để sửa. Các ông làm thế, Đất nước này, không nghèo đi, sao được?

Các ông, dồn dân về, ngập ứ trong nội thành Hà nội nói riêng và, các thành phố khác nói chung. Hệ quả, gây áp lực xấu và cực lớn, tới cơ sở hạ tầng: Giao thông – Điện – Nước – Sinh hoạt – Học hành – Môi trường… Để giải quyết chúng, các ông, không có giải pháp căn cơ. “Thủng đâu”, các ông “bịt đó”. Các ông, đổ hàng núi tiền vào, dựng nên, những con đường, “đắt nhất hành tinh”. Nhưng, nào có, giải quyết được, những vấn nạn đó. Các ông làm thế, Đất nước này, không nghèo đi, sao được?

Trong khi: Chưa có, đầy đủ nguồn nhân lực – Chưa có, đầy đủ cơ sở hạ tầng – Chưa có, thị trường của đầu ra ổn định… Các ông, vẫn cố tình, thành lập ra, những Tập đoàn kinh tế Nhà nước. Các ông, bóp mồm – bóp miệng, những người dân chúng tôi. Để, bơm vô tội vạ, những đồng vốn hiếm hoi của Đất nước, cho chúng. Đồng thời, đặt những “đứa trẻ chăn trâu”, vào vị trí lãnh đạo. Ngu và tham như chúng, biết gì về Quản lí. Kết quả, những Tập đoàn kinh tế đó, giống như, những chiếc thùng thủng đáy. Đổ, bao nhiêu tiền vào – mất sạch chừng đó. Ông, có cần, lấy dẫn chứng không? Các ông làm thế, Đất nước này, không nghèo đi, sao được?

Đó, là chưa nói tới, những cái gọi là, “dự án”. Tỷ như Bauxite, ở Tây nguyên. Trong khi: Các nhà khoa học, đã chỉ rõ, những tác hại về môi trường – Các nhà kinh tế, đã tính toán, cho các ông thấy, hiệu quả âm của dự án – Các Nhân sĩ – Trí thức, đã vạch ra, những tác hại về Xã hội và, bản sắc Văn hóa của các Dân tộc Tây nguyên. Nhưng, các ông, nào có chịu nghe. Các ông, vẫn “bảo thủ”. Các ông, cho rằng: “Đây là chủ trương lớn của đảng và Nhà nước”. Nên, vẫn đâm đầu vào. Kết quả, càng làm – càng lỗ. “Mua đắt – Bán rẻ”. Chỉ có đồ ngu, mới làm như thế. Các ông làm thế, Đất nước này, không nghèo đi, sao được?

Bauxite, tai hại như thế. Nhưng, vẫn chưa phải, là thảm họa. Những “Đại dự án”, như: Sân bay Long thành; Đường sắt cao tốc Bắc – Nam… Nếu, được thực hiện: Đất nước này, chỉ còn có mức, đi ăn mày. Nghèo, đã là cái gì.

Suy cho cùng. Đất nước này, nghèo đi bao nhiêu – Các ông, sẽ giàu lên bấy nhiêu. Do đó, xá gì mà không làm. Ông nhỉ.

Vũ Đức Đam, xin hãy 1 lần, bớt u mê. Để, nhìn ra xung quanh. Có ai, “rượu cả vò – chó cả con”, mà vẫn giàu có? Có ai, “bóc ngắn – cắn dài”, mà vẫn giàu có? Có ai, đi vay nợ, với bất cứ giá nào, để ăn chơi, mà vẫn hãnh diện, về chuyện đó?

Không bao giờ. Và, vĩnh viễn, không bao giờ, có chuyện đó.

Sách “Đại học”, luận về sự “giàu có”, như sau: 生财有大道,生之者众,食之者寡. Sinh tài, hữu đại đạo: Sinh chi giả chúng – Thực chi giả quả. Tạm dịch: Đạo làm giàu: Làm nhiều – tiêu ít + Số người đi làm, phải nhiều – số người ăn theo, phải ít.

Dân gian, hóm hỉnh. Họ, dịch là:

Tiền vào, như nước sông Đà.

Tiền ra nhỏ giọt, như cà phê phin.

Ông còn lạ gì: Việt nam, đi lên, từ nền sản xuất Nông nghiệp. Qui mô của mọi thứ, đều nhỏ – lẻ – manh mún. Năng suất lao động, rất thấp. Của cải làm ra, lấy đâu được nhiều. Nhưng, các ông, tiêu như “phá mả”. Tỷ phú, cũng phải khiếp sợ. Thiên hạ, động có cái gì, các ông, phải sắm cho bằng được, những thứ đó. Không những thế, còn phải hoành tráng. Để, “xứng tầm Khu vực và Thế giới”: Thủ đô, to nhất – Tháp truyền hình, cao nhất – Tượng Phật, lớn nhất – Chùa, rộng và đẹp nhất – Đường sắt cao tốc, dài nhất… Các ông làm thế, Đất nước này, không nghèo đi, sao được?

Xưa, mỗi xã, chỉ có 1 ông Chánh tổng. Mỗi làng, chỉ có 1 ông Lý trưởng, cộng thêm, vài chú Tuần đinh. Mọi việc, vẫn giải quyết băng băng. Nay, rỗi rãi, ông hãy ngồi, mà kiểm tra xem: Mỗi xã – Mỗi phường, có bao nhiêu nhân viên Hành chính? Có bao nhiêu nhân viên Công an? Hệ thống, Đảng – Chính (quyền) – Công (đoàn) – Thanh (niên), có bao nhiêu người? Sao công việc, vẫn ì ạch?

Nhân dân, “một cổ – ba tròng”: Vừa phải nuôi, bộ máy Nhà nước – Vừa phải nuôi, bộ máy của Đảng – Vừa phải nuôi, bộ máy “Đoàn thể”. Rặt những loại “ngồi chơi – xơi nước”. Không làm ra tiền, mà vẫn được ăn. Không những thế, lại còn ăn ngon và ăn nhiều. “Thằng còng làm – Thằng thưỡn xơi”. Các ông làm thế: Đất nước này, chưa lụn bại, là bởi vì: Hồng Phúc của Dân tộc Việt, vẫn còn quá lớn.

为之者疾,用之者舒,则财恒足矣Vi chi giả tật – Dụng chi giả thư. Tắc tài hằng túc hĩ. Tạm dịch: Làm ra của cải, phải thật nhanh và, hãy từ từ, khi tiêu chúng. Tiền trong túi, lúc nào, cũng rủng rỉnh.

Ông đã từng, ngồi nghe, Doanh nghiệp kể khổ. Dẫu có điếc lác và lú lẫn, ông cũng phải biết: Tốc độ quay vòng đồng vốn của Doanh nghiệp, là rất thấp. Tỷ suất khấu hao của Doanh nghiệp, là rất cao. Tỷ lệ lợi nhuận/ vốn, là thảm hại. Nguyên nhân, có cần phải nhắc lại không?

Chậm, làm ra của cải. Nhưng, hễ có đồng nào trong túi, các ông, móc ra tiêu rất nhanh. Có lẽ, các ông sợ: Để lâu một chút, tiền sẽ bị thiu – Để lâu một chút, mình hết nhiệm kì và, sẽ không còn có cơ hội, để xà xẻo nữa.

Ngẫm đi – nghĩ lại, phải cải chính đôi chút: Nói các ông “tiêu tiền”, là không hề chính xác. Sự thực là: Những người CS các ông, không hề, biết cách tiêu tiền. Các ông, chỉ thạo mỗi món đốt tiền. Để, tôi nói ông nghe.

Các ông, không hề che giấu tham vọng: “Việt Nam, sẽ trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện đại hóa, vào năm 2020”.

Mục tiêu này, có trở thành hiện thực? Trong khi, cái gọi là, nền Công nghiệp ấy, chủ yếu, đi bằng đôi chân: Xuất nguyên liệu thô và, gia công lắp ráp bán thành phẩm. Đến con ốc vít, đạt tiêu chuẩn Quốc tế, cũng không làm được. Nguyên nhân:

-Sự lãnh đạo, nói cho nhẹ nhàng, là yếu kém của các ông.

-Cơ sở hạ tầng của chúng ta, không tốt. Luyện kim và cơ khí chính xác của chúng ta, còn phọt phẹt. Nói gì đến, những chế phẩm Sinh – Hóa.

-Nhân lực của chúng ta, dồi dào. Nhưng, chất lượng rất kém. Thiếu trầm trọng, đội ngũ Kỹ sư và, Công nhân lành nghề. Cơ bản nhất, từ trên xuống dưới, chúng ta, không có Tác phong Công nghiệp: Trễ giờ – Lười nhác – Vô kỉ luật – Ăn cắp vặt, là những hiện tượng rất phổ biến.

Hãy bắt đầu từ đây và, dồn tiền vào đó. “Tất cả, cho sản xuất”. Có thế, ít nhất, mới mong “thoát nghèo”. Đừng vội đốt, những đồng tiền vốn, mà chúng ta, phải chắt chiu dành dụm, vào những thứ phù phiếm, vô bổ và, chưa thiết thực.Tỷ như:

-Xây cho mỗi tỉnh, một cái nhà hát. Chẳng ai đến xem đâu.

-Xây cho mỗi tỉnh, một khu tượng đài Hồ Chí Minh. Dân, còn đói lắm. Đến ngắm Bác, no sao được.

-Xây la liệt, những Viện Bảo tàng. Xây xong rồi, cho cái gì vào, để bày ở đó. Quan trọng hơn, ai sẽ đến xem.

Viết đến đây, thấy Sư tử, lừng lững bước vào. Nàng, đẩy tôi ra và, ngồi kiểm duyệt. Kiểm xong, nàng cười: “Ông điên rồi. Có 2 điều cần nhớ.Một, không nói chuyện phải – quấy, với những người CS. Hai, chừng nào, họ còn lãnh đạo – Chừng đó, Đất nước này, còn nghèo và hèn. Chấm hết”.

Ôi, Sư tử: Cả bài viết của anh, thua 2 cái gạch đầu dòng của em. Ai dám bảo: “Đàn bà sâu sắc, như cơi đựng trầu”.

Tự nhiên, thấy hết hứng. Và, đành phải, chào ông.

____

Nguyễn Tiến Dân

Tạm trú tại: 544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội.

Điện thoại:  0168-50-56-430

Đức kiểm soát biên giới ngăn dòng di dân đổ vào

Đức kiểm soát biên giới ngăn dòng di dân đổ vào

Di dân lên một chuyến tàu trong vùng tại nhà ga chính ở thành phố Munich, Đức, ngày 13 tháng 9, 2015.

Di dân lên một chuyến tàu trong vùng tại nhà ga chính ở thành phố Munich, Đức, ngày 13 tháng 9, 2015.

Đức đang tạm thời khôi phục biện pháp kiểm soát hộ chiếu dọc theo biên giới của mình với Áo để hạn chế dòng di dân và người tị nạn đang đổ vào nước này.

“Mục đích của biện pháp này là để ngăn chặn dòng người hiện đang đổ vào Đức và quay trở lại một quá trình có trật tự,” Bộ trưởng Nội vụ Đức Thomas de Maiziere cho biết.

Đức và Áo gần đây đã đồng ý cho di dân nhập cảnh trong một nỗ lực nhằm giảm bớt số lượng người tập trung ở Hungary.

Cảnh sát Đức cho biết khoảng 12.200 người tị nạn đang xin được bảo hộ tị nạn tại Liên minh châu Âu đã tràn ngập thành phố Munich ở miền nam vào ngày thứ Bảy.

Trong một nỗ lực kiểm soát dòng di dân, giới chức đường sắt ở cả hai nước loan báo dịch vụ tàu lửa từ Áo tới Đức đã bị đình chỉ hôm Chủ nhật. Không rõ việc du hành theo hướng ngược lại từ Đức tới Áo như thế nào, một phát ngôn viên của công ty đường sắt Áo OeBB nói.

Hơn 430.000 di dân tìm kiếm cuộc sống tốt hơn, trong đó có người tị nạn từ Syria và Iraq, đã vượt Địa Trung Hải đến châu Âu trong năm nay. Gần 3.000 đã thiệt mạng trong hành trình này, theo Tổ chức Di cư Quốc tế.

Con số này đã nhích lên cao hơn vào Chủ nhật khi ít nhất 28 người bị chết đuối ngoài khơi Hy Lạp sau khi thuyền của họ bị lật.

Hàng chục người khác đã được cứu sống gần đảo Farmakonisi ở Biển Aegea phía đông nam.

CS Lũng Đoạn Cộng Đồng: Vô Phương

CS Lũng Đoạn Cộng Đồng: Vô Phương

Trên Việt Báo số ngày 02/09/2015, có một bài viết CSVN “Nỗ Lực Lũng Đoạn của Hà Nội tại Mỹ”. Bài viết cho biết để đánh bóng cho Tổng Bí Thư Nguyễn phú Trọng công du Mỹ, và vận động cho CSVN vào Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái bình dương, Đảng Nhà Nước CSVN đã chi ra nửa triệu dollars cho CSIS (Center for Strategic of International Studies), trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế, một nhóm chuyên gia “think tank” về kinh tế, chính trị và ngoại giao của Mỹ. Và CSVN ở Hà Nội cũng đã trả mỗi tháng 30 ngàn dollars cho Podesta Group, một công ty lobby [vận động] hành lang chính trị tại Hoa Thịnh Đốn, vừa để giúp đánh bóng bộ mặt Hà Nội, vừa vận động cho Việt Nam lọt vào được TPP, bất kể thành tích bất hảo về nhân quyền.”

Và Trung Cộng, theo tin của báo chí Pháp, nhơn khi TC tổ chức cuộc duyệt binh rầm rộ ngày 3/9 ở Bắc Kinh, Nhân dân Nhật báo, tiếng nói chánh thức của Đảng CS TQ cũng thuê nhiều trang báo ở ngoại quốc để vinh danh sự hy sinh của kháng chiến quân và nhân dân Trung Hoa, về chiến công của đảng Cộng sản, nhưng hoàn toàn im lặng về vai trò «đứng mũi chịu sào» của quân đội Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo.

Người Việt hải ngoại nhứt là người Mỹ gốc Việt ở Mỹ chiếm trên phân nửa tổng số ngưới Việt hải ngoại, không lạ gì cái trò ma mãnh, mua chuộc này trong tuyên truyền quốc ngoại của CSVN và CSTQ. Riêng CSVN có cả một nghị quyết do Bộ Chánh Trị của Đảng Nhà Nước là bộ chỉ huy có mười mấy đảng viên nhưng quyền cao chức trọng nhứt của Đảng Nhà Nước CSVN. Ngày 10 tháng 4 năm 2007 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị Quyết số 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Ngân sách dành cho nghị quyết này không phổ biến vì là mật quỹ, bí mật dùng để đài thọ cho tuyên truyền đen trắng xám và công tác tình báo mua chuộc, bôi bẩn các nhân sĩ và dân cử gốc Việt. Nhưng chắc chắn là lớn lắm vì cái gì chớ việc đánh bóng để tuyên truyền thì CS xài tiền không cần đếm. Như Bà Nguyễn thị Bình đi dự Hoà Đàm Paris, mua cái khăn choàng mắc nhứt nước Pháp; Lê đức Thọ đi chiếc xe DS của Pháp, sang trọng, mắc tiền nhứt nước Pháp. Nhưng hiệu năng công tác thì chẳng ra gì, sau 3 năm công tác, bộ Ngoại giao CSVN dưới sự chủ toạ của người đứng đầu bộ này là ông Phạm Gia Khiêm đã tổ chức một hội nghị gọi là sơ kết ba năm thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ chính trị và chương trình hành động về công tác đối ngoại với người Việt Nam ở nước ngoài, kết quả chẳng ra gì, những người có trách nhiệm ngoại giao, mật vụ, tuyên truyền bị kiểm điểm nặng.

Thất bại nhứt là vần đề nhân quyền và quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ vốn là trở ngại trung tâm trong bang giao giữa Washington và Hà nội. Với Nghị Quyết 36, không những biến hai trở ngại thành trở ngại trung tâm mà thành trở ngại không thể vượt qua được. Với Nghị Quyết 36, người Việt hải ngoại thấy bằng giấy trắng mực đen “ý đồ” rõ “ý đồ” của CS muốn thao túng, lũng đoạn, đối phó với người Việt hải ngoại theo kiểu đấu tranh giai cấp của CS: “địch và ta một mất một còn”. Nghị Quyết 36 nhiều lần dùng tư ngữ “lực lượng thù địch” để chỉ người Việt hải ngoại.

Định luật sinh tồn, căn cước tỵ nạn CS đòi hỏi, cùng một mối lo thúc đẩy người Việt liên kết lại để chiến đấu tự vệ chánh đáng trước cuộc gây hấn của CS. Cách kết hợp của các đoàn thể tôn giáo, chánh trị, văn hoá, xã hội của người Việt sống trong chế độ tự do, dân chủ ở hải ngoại khác với CS như trắng và đen. Người Việt hải ngoại việc ai nấy làm, đoàn thể ai nấy giữ trong sinh hoạt bình thường của thực thể mình. Nhưng tất cả những đường đi nuớc bước của các thành tố của công đồng đều đứng chung trên một mẫu số chung, như đường local vào xa lộ khi có chuyện lớn. Đó là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Đó là một cách nói mới hợp xu thế thời đại nhưng căn cơ, nồng cốt vẫn là chống CS, giải thể CS. Vì nơi đâu có tự do, dân chủ, nhân quyền là không có CS. Vì tự do, dân chủ, nhân quyền là khắc tinh, huỷ thể của CS.

CS bản chất, bản tánh độc tài đảng trị toàn diện nên không hiểu tinh lý của tự do, dân chủ, nên tuyên truyền chê người Việt hải ngoại cộng đồng, đoàn thể chia đôi, chia ba. Họ không hiểu tinh lý của tự do, dân chủ là tuy hai nhưng là một (out of many, one). Nhờ vậy mà dân chủ có sức mạnh kết hợp luôn luôn mạnh mẽ, sáng tạo và bền vững hơn thống nhứt theo kiểu kim tự tháp thời độc tài chuyên chính vua chúa hay độc tài phác xít, Đức quốc xã và CS.

CS nói lớp già xuất thân từ VN Cộng Hoà theo ông theo bà chết hết thì người Việt hải ngoại hết đấu tranh. Một sai lầm rất lớn. Sự thật và xu thế của thế hệ 1 rưởi, 2 đang kề vai gánh vác việc chung của cộng đồng do phụ huynh để lại. Hầu hết những đại diện dân cử Mỹ gốc Việt và số dân biểu, nghị sĩ tiểu bang, liên bang đơn vị bầu cử ngay hay gần cộng đồng người Mỹ gốc Việt là ủng hộ cuộc đấu tranh, và tham gia đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN một cách bền vững và tích cực – có tăng số người chớ không có giảm. Yêu nước, thương dân, yêu mến, đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền không có trẻ hay già.

Quốc kỳ VNCH nền vàng ba sọc đỏ không còn pháp nhân công pháp mà vẫn được cả chục tiểu bang, cả trăm thành phố Mỹ công nhận là di sản, là biểu tượng của cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN của người Mỹ gốc Việt. Một em bé học tiểu học ở Mỹ thấy cô giáo giở sách giáo khoa Mỹ chỉ cờ đỏ sao vàng là cờ VN, em ấy nói “no” với Cô, và khi về nhà thưa với ba má vào trường giải thích cho Cô biết. Ba má báo động và cộng đồng vào trường trình bày, tặng cho trường cờ VN nền vàng ba sọc đỏ thì trường không sử dụng cờ CSVN nữa. Riết rồi CSVN dù có bang giao với Mỹ nhưng chỉ treo ru rú như gián ngày trong khuông viên sứ quán và lãnh sự thôi.

Còn CSVN và TC tưởng “nén bạc đâm toặc tờ giấy”, dùng tiền triệu Đô la, mướn báo Mỹ đăng bài cậy đăng, mua chuộc các cơ sở sưu khảo nâng bi, đánh bóng lãnh đạo Đảng Nhà Nước CS đến thăm hay nói chuyện khi công du Mỹ. Nhưng kết quả như quăng tiền qua cửa sổ. Ở nước Mỹ thừa mứa thông tin, nghị luận trên truyền thông đại chúng, đọc không hết, nghe xem không kịp, ít có ai bỏ thì giờ xem những bài cậy đăng trả tiền.

Người Mỹ gốc Việt ở Mỹ đa số là những thành phần ưu tú của VNCH tỵ nạn CS ra hải ngoại, nên hiểu được sự vận hành của nền dân chủ đại diện, của những người đại diện dân, nhứt là những nghị viên, dân biểu, nghị sĩ ở trong vùng có cộng đồng Việt. Người Việt hải ngoại vận dụng tối đa sức mạnh của dân chủ. Ra ứng cử, ủng hộ người có lập trường giống mình, không phân biệt sắc tộc. Vì thế cả chục tiểu bang, cả trăm thành phố đại diện cho phân nửa dân số Mỹ thừa nhận quốc kỳ VN nền vàng ba soc đỏ. Hạ Viện liên bang Mỹ hơn ba lần thông qua Nghị Quyết, luật Nhân Quyền VN có kèm chế tài với viên chức CS vi phạm; qui vị dân biểu liên bang Mỹ còn tổ chức thành một tập hợp gồm một số vị đấu tranh cho nhân quyền VN. Nhờ vậy xảy ra rất thường, rất nhiều các cuộc điều trần chất vấn về nhân quyền VN.

Thế nên khi Tổng Bí Thư Nguyễn phú Trọng của CSVN, một số dân biểu như nữ Dân biểu Zoe Lofgren, đã lên tiếng mạnh mẽ phản đối Tổng Thống Obama đã tiếp đón Trọng, khi mà Việt Nam vẫn tiếp tục đàn áp Nhân Quyền. Bộ Ngoại Giao phải trả lời việc CSVN vào được TPP hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào lãnh vực, có tôn trọng Nhân quyền hay không

Khi Ô Đại sứ Ted Osius tạo thành một xì can đan, không xuất hiện nơi có quốc kỳ VN sợ mất job. Một nữ công dân Mỹ gốc Việt bị lột dây đeo có quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ trong một cuộc gặp gỡ của Ted Osius. Dân cử Mỹ và gốc Việt gởi thơ phản đối với Bộ Ngoại Giao và có tin đang nhờ luật pháp điều tra coi ai đã xâm phạm quyền tự do phát biểu hiến định của nữ công dân Mỹ gốc Việt này.

Những điều trên cho thấy CSVN vô phương dùng tiền bạc mua chuộc báo chí, lợi dụng bang giao với Mỹ để thao túng hay lũng đoạn cộng đồng người Việt hải ngoại./.

Vi Anh

 

Tham nhũng ở Việt Nam vẫn thế: Nghiêm trọng nhưng bất lực

Tham nhũng ở Việt Nam vẫn thế: Nghiêm trọng nhưng bất lực

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Trong báo cáo về tham nhũng năm nay, chế độ Hà Nội thú nhận tham nhũng vẫn nghiêm trọng, diễn ra ở tất cả các ngành, các cấp nhưng số vụ tham nhũng bị phát giác lại giảm!

Đồ họa của tờ Tuổi Trẻ đưa trên báo cáo về tham những của chính phủ
Việt Nam năm 2015. (Hình: Tuổi Trẻ)

Khi thay mặt chế độ Hà Nội trình bày về báo cáo vừa kể trước Ủy Ban Tư Pháp của Quốc Hội, ông Trần Đức Lượng, phó Tổng Thanh Tra Chính Phủ, thú nhận, kỷ cương, kỷ luật ở nhiều ngành còn buông lỏng, việc phòng-chống tham nhũng còn hình thức, hiệu quả thấp. Đồng thời “vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh tham nhũng khi thực hiện một số chủ trương, chính sách lớn như: cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu và hoạt động tín dụng của một số tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại, hoàn thuế…”
Ông Nguyễn Văn Hiện, chủ nhiệm Ủy Ban Tư Pháp của Quốc Hội CSVN, nhận định, tham nhũng vẫn nghiêm trọng nhưng số vụ tham nhũng bị phát giác lại giảm đi, rõ ràng là chuyện rất đáng chú ý. Còn ông Nguyễn Đình Quyền, phó chủ nhiệm của ủy ban vừa kể thì nói thẳng, cần phải xem lại hiệu quả hoạt động phòng-chống tham nhũng, đặc biệt là cơ quan chuyên trách về phòng-chống tham nhũng.

Một phó chủ nhiệm khác của Ủy Ban Tư Pháp Quốc Hội CSVN tên là Lê Thị Nga, yêu cầu chính phủ phải nêu đích danh các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện tốt hoặc chưa tốt việc phòng-chống tham nhũng vì Quốc Hội của chế độ từng yêu cầu báo cáo về phòng-chống tham nhũng phải cụ thể.

Dựa vào báo cáo mà thanh tra chính phủ cung cấp, bà Nga yêu câu thăm dò ý kiến của dân chúng và doanh giới về 11 bộ, ngành, địa phương tự cho rằng tham nhũng ở những nơi đó không nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng.

Bà Nga cũng yêu cầu nhà cầm quyền trung ương Hà Nội phải giải thích tại sao trong khi có đến 63 tỉnh, thành phố và khoảng 30 bộ, tính ra gần cả trăm đầu mối nhưng chỉ có 19 đầu mối báo cáo về việc phòng-chống tham nhũng.

Ông Nguyễn Công Hồng, cũng là phó chủ nhiệm Ủy Ban Tư Pháp của Quốc Hội Việt Nam như ông Quyền và bà Nga thì nhận định, trước đây, phòng-chống tham nhũng không hiệu quả thì cho rằng tại… cơ chế, gần đây thì đổ tại… thể chế nhưng theo ông, vấn đề không nằm ở đó mà nằm ở chỗ, các giải pháp mà chính phủ để ra chỉ nhằm… phòng ngừa, trong khi lẽ ra phải có các giải pháp tấn công tham nhũng!

Ông Trương Trọng Nghĩa, một đại biểu của Quốc Hội thì yêu cầu nhà cầm quyền trung ương báo cáo cặn kẽ với Quốc Hội việc mua các ngân hàng thương mại với giá 0 đồng trong thời gian vừa qua. Ông Nghĩa cảnh báo, các ngân hàng đó là của một số ông chủ tư nhân. Họ điều hành kém, thua lỗ, mất sạch vốn đầu tư là chuyện của họ nhưng chính phủ không cho phá sản mà mua lại với giá 0 đồng (quốc hữu hóa). Quốc Hội cần phải biết những ngân hàng này đã làm mất bao nhiêu tiền mà dân chúng gửi vào, những khoản tiền đó chảy đi đâu và chính phủ Việt Nam sẽ lấy tiền từ đâu để trả thay? Có tham nhũng từ chuỗi ngân hàng thua lỗ – phá sản này hay không?

Chín năm trước, Việt Nam ban hành Luật Phòng-Chống Tham Nhũng. Từ đó đến nay, tham nhũng nghiêm trọng hơn. “Trọng tâm” của công việc phòng-chống tham nhũng ở Việt nam trong năm tới là… chuẩn bị sửa Luật Phòng-Chống Tham Nhũng. (G.Đ)