Chuyện Đổi Đời: Trình Diện Đi Tù – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng
 
Trước năm 1975, tôi là giáo sư trường Trung học Lương văn Can, quận 8 Sài gòn.

Sau năm 1975, tôi bị đi cải tạo gần 8 năm. Chỉ là một giáo chức, không thuộc diện sĩ quan phải trình diện, vậy mà cũng vô trại Long Thành, Thủ Đức, rồi Lào Cai,Vĩnh Phú và Hà Nam Ninh ngoài Bắc.

Thực sự, thì trước năm 1975, khi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy còn làm phó chủ tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, tôi có tham gia đảng Tân Đại Việt của Giáo sư Huy nhưng chỉ với chức vụ phó Bí thư.

Giữa tháng 6 năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Thành phố Sài gòn, ra lịnh tất cả quân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa phải trình diện học tập cải tạo. Tôi xin ba tôi mười ba ngàn đồng, bằng nửa tháng lương công chức hạng A của tôi (là hạng có mức lương khá lúc bấy giờ) để đi trình diện tại trường Lê văn Duyệt ở Gia Định.

Theo lời kêu gọi đăng trong báo chí và đài phát thanh lúc bấy giờ, “chính phjủ cách mạng” yêu cầu chúng tôi mang mùng mền, thức ăn và tiền bạc để đóng tiền ăn trong một tháng. Trước đó, hạ sĩ quan quân đội cũ được yêu cầu đi học một tuần rồi về làm ăn. Vậy là mọi người đều đinh ninh rằng vậy là những người chịu trình diện, chịu đầu hàng, sẽ chỉ học tập chính trị trong vòng một tháng để hiểu biết đường lối, chính sách của chế độ mới, rồi chắc chắn sẽ được cho về làm ăn. Vì nếu không thả về sau khi học một tháng thì đóng tiền làm gì. Không lẽ nhà cầm quyền vừa thắng trận lại lường gạt kẻ bại trận sao?

Do đó, khi em tôi chở tôi đến trường nữ Trung học Lê văn Duyệt, thấy hai đầu đường có hai xe tăng chỉa họng súng về hai phía của đầu đường Lê văn Duyệt, tôi có cảm giác không yên, lòng xao xuyến khó tả. Sao kỳ quá vậy. Súng ống, xe tăng sắp hàng như đang chuẩn bị đánh trận.

Cũng ngây thơ như tôi, anh Trương chí Thiện là đoàn viên Phong Trào Quốc gia Cấp Tiến và là Tổng Thơ Ký của Liên Minh các đảng gồm Cấp Tiến, Công Nông… không nằm trong diện phải đi trình diện cải tạo. Từ cấp bậc Phó Chủ Tịch và Chủ Tịch cấp quận trở lên mới phải trình diện mà thôi. Nhưng anh Thiện làm ký giả báo Tàu, sau ngày 30 tháng 04, các báo đều bị đóng cửa, ngưng hoạt động, ở nhà cũng buồn, nên xin đi trình diện cùng với anh Trương Tấn Lộc là Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến là cựu Nghị Viên Hội Đồng Đô Thành Sài gòn. Anh Thiện không thuộc diện này nhưng cũng nhất định xin đóng tiền để được học tập, hy vọng sau khi học xong sẽ có “giấy chứng nhận” đã học tập để dễ làm ăn sau này, không còn “bị làm khó dễ”.

Anh Thiện cũng lầm tưởng chỉ đi trong một tháng mà thôi.Sau đó anh ở tù hơn 7 năm, bị bịnh lao phổi, ho ra máu trong trại và anh được về trong bịnh hoạn, tức tối vì bị lường gạt.

Ở trường Lê văn Duyệt, chúng tôi được nhà hàng Bát Đạt đem cơm tới mỗi ngày, cho nên bữa ăn nào cũng thịnh soạn, ăn uống dư thừa, được cho ăn no và ngon nữa nên cứ nghĩ rằng nhà nước mới tử tế, chiêu đãi “trại viên” bằng thức ăn của nhà hàng sang trọng bậc nhất nhì của thành phố Sài gòn.

Sau vài ngày làm thủ tục ghi tên đóng tiền, nộp giấy căn cước, họ phân chúng tôi thành từng đội, tạm thời ở trong các phòng học của nhà trường.

Giữa đêm, đang ngủ ngon giấc, bỗng nhiều ánh đèn “pin” chiếu sáng vào mùng, gọi chúng tôi thức dậy gấp, thu dọn đồ đạc cho gọn nhẹ để di chuyển. Trong đầu óc anh em chúng tôi hết sức hoang mang, đi về đâu, đem ra biển Vũng Tàu thả xuống biển hay đi đâu mà lại lên xe hơi, kéo cửa xe xuống kín mít để không cho ai nhìn thấy và lại đi nửa đêm. Tới gần sáng, chúng tôi được chở vô làng cô nhi Long Thành. Chúng tôi được phân vào dãy bên trái của làng cô nhi. Khu vực này dành cho anh chị em đảng phái chính trị.

Họ phân ra 4 khối: khối một là khu dành cho các viên chức hành chánh từ cấp Chánh Sự Vụ trở lên, các Dân Biểu, Nghị sĩ của Việt Nam Cộng Hoà. Khối hai dành cho những người hoạt động trong đảng phái chịnh trị chống cộng. Khối ba là khối Tình báo đa số làm trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Khối bốn là các viên chức trong ngành Cảnh Sát quốc gia.

Chúng tôi, hoạt động đảng phái được xếp vào khối hai, ở dãy nhà bên tay trái của trại, phân ra nhiều đội. Trong số những viên chức lãnh đạo, tôi nhớ lúc bấy giờ có Luật sư Trần văn Tuyên, Ông Vũ Hồng Khanh, Cựu Nghị Sĩ Trần Trung Dung, Trong đội tôi có Nguyễn Ngọc Minh, anh có 6 người con, là Chủ Tịch đảng Tân Đại Việt quận 5, chủ nhà in. Anh nói với tôi là anh còn 40 triệu ở ngân hàng cho nên anh làm kế hoạch nuôi heo gởi lên cán bộ để hy vọng lấy được số tiền này ra. Đó là hy vọng của anh. Anh đang ở trong tù mà vẫn còn thơ ngây, tin tưởng họ sẽ trả lại cho anh số tiền 40 triệu đồng đó. trong khi ngoài kia, Cộng sản đang chuẩn bị đánh tư sản, cầm tù những người có tài sản mà anh lại còn hy vọng lấy được số tiền này nữa. Nhìn chung, những người quốc gia hoạt động chính trị của phía chúng tôi đa số đều ngây thơ như thế.

Trong tù tôi gặp lại giám đốc Nha Khảo Thí Nguyễn Kim Linh mà trước đây tôi có làm việc hai năm ở nha Khảo Thí. Tôi gặp lại thầy Hà Khải Hoàn, thầy dạy tôi môn Việt văn ở trường trung học Cần Giuộc năm 1957, 1958 nay là phó Giám Đốc Nha học chánh thuộc Bộ Giáo Dục.

Từ Thủ Đức đến trại Lào Cai

Cũng được gọi bất ngờ giữa đêm tối, yêu cầu sắp xếp đồ đạc gọn gàng, hai người chung một cái còng, từ trại Long Thành chúng tôi bị đưa về giam ở nhà tù Thủ Đức. Ở đây không có cuốc đất trồng khoai. Mỗi ngày đọc báo “nhân dân” tờ báo của đảng Cộng Sản. Tuy ở gần Sài gòn nhưng từ ngày trình diện giữa tháng 6 năm 1975 đến nay, đã hơn một năm trời, gia đình không biết chúng tôi còn sống hay đã chết và bị giam giữ ở đâu.?

Tháng 12 năm 1976 chúng tôi được kêu ra sân tập họp cũng hai người cùng chung một còng số 8 lên xe chạy trên xa lộ Biên hoà và đưa xuống bến sông Sài gòn giữa đêm khuya, để lên tàu chuyển ra Bắc.

Lần lượt chúng tôi xuống hầm tàu còn dấu vết than đá trên nền. Khi tàu chạy, họ đóng nắp hầm tàu lại, chúng tôi bị ngộp thở và đã la hét ôm sồm, nấp hầm mới được kéo ra để chúng tôi thở.

Trong chuyến đi này bạn tôi là Lê Như Ninh, người công giáo giới thiệu cho tôi biết Đức Phụ Tá Giám Mục Sài gòn, sau này là Hồng Y Nguyễn văn Thuận, cùng ra Bắc một chuyến với chúng tôi. Anh em đi vệ sinh bằng “sô” xách nước. Khi cái sô đầy phân và nước tiểu thì xách lên trên “boong” tàu để đổ xuống biển. Nhiều khi đang lên cầu thang bị sóng đánh, tàu nghiêng sô nước tiểu và phân người đổ vào đầu, vào cổ, vào áo quần anh em đang ngồi ở phía dưới. Anh em nào bị dính phân, nước tiểu vào người cũng phải chịu trận như vậy trong suốt mấy ngày tàu chạy lênh đên trên biển chứ đâu có được tắm rửa gì đâu?

Con tàu chở tù miền Nam đến cảng Hải phòng vào buổi sáng mùa đông năm 1976. Trời lạnh buốt. Vài chiếc tàu nhỏ đậu ở cảng giống như ở bến đò quê nào đó, chứ không thấy gì to lớn cả. Trời thì lạnh mà đa số anh em tù không có đủ áo quần ấm để mặc hầu có thể chống lại cái lạnh, cái rét của mùa đông miền Bắc. Năm đó có lúc lạnh tới 6 độ C lạnh gần đông đá.

Mùa đông năm 1976, trời quá lạnh, có khi nửa tháng tôi mới dám tắm một lần. Mỗi lần xối nước lên mình, nước bốc thành hơi, khói bay lên mù mịt. Khi nói chuyện, thấy hơi nước bay ra khỏi miệng. May mắn thay tôi có mang theo cái áo mưa lớn bằng “nylon”  rộng thùng thình quá đầu gối. Nhờ nó, tôi chịu đựng được cái lạnh mùa đông năm 1976 và những mùa đông kế tiếp. Cái áo mưa này tôi vá đùm, vá chụp hơn chục miếng vá, đến nỗi “cán bộ quản giáo” tức cai tù nói: “Anh không còn cái áo nào khác sao mà anh cứ mặc cái áo này vậy”. Cái áo này vá tứ tung làm xấu hổ cán bộ cai tù chăng? thấy sự nghèo khổ tột cùng của tôi, không có cái áo lành lặn mà mặc?. Có những anh em khác còn may bao bố để mặc khi gia đình chưa có gởi áo quần vào, trông còn tệ hơn là cái áo vá đùm vá chụp của tôi nữa.

Xuống xe tại cổng trại trung ương số 1 Lào Cai, chúng tôi được dẫn vào khu nhà khá sạch sẽ. Được cho ăn bữa chè nóng hổi. Mấy ngày sau, ngày nào cũng ăn cơm trắng, thịt cá đầy đủ. Chúng tôi có cảm tưởng ở miền Bắc, công an tử tế hơn trong nam. Nhưng chỉ được vài ngày rồi thôi. Mỗi bửa ăn chỉ là một miếng bánh mì mỏng dính, xẹp lép chưa được nửa nắm tay. Ăn hết rồi vẫn còn thấy đói. Có khi trại phát bắp luộc, được vài ba trái. Ăn bắp trái, càng thấy đói hơn nữa vì ba trái bắp thì ăn được mấy hột. Có hôm, chúng tôi được phát bánh mì, nhưng trộn lẫn với than đá. Ăn vào đụng răng, nghe lộp cộp, không thể nhai được. Nhà bếp thu hồi lại, nấu thành cháo, phát cho một ít nước bánh mì để cầm hơi. Đói quá, không ngủ được, nhưng chúng tôi cũng phải chịu chớ có kêu ca được với ai bây giờ.

Lúc nào cán bộ cũng theo dõi chúng tôi xem chúng tôi có nói lời nào chống đối họ không?. Có tìm cách trốn trại không. Vậy mà năm 1976 cũng có mấy anh trốn ra khỏi trại, nhưng đều bị bắt lại ngay hôm đó vì không thể đi xa được. Đa số những người sinh sống ở vùng này là dân tộc thiểu số. Trong trại này, khi chúng tôi đến ở, đã thấy trên các tấm ván trên các hộc đựng đồ lĩnh kỉnh ở đầu chỗ nằm, có khắc tên người Mỹ đã từng bị giam ở đây. Sau này tôi mới biết trại này cũng từng giam tù binh Mỹ. Đó là trại Trung ương số 1 Lào Cai. Đây là trại kiểu mẫu giam tù chính trị.

Trại K3 và K4 Vĩnh Phú

Tôi ở trại K3 Vĩnh Phú ròng rã bốn năm trời. Trại này có nhiều kỹ niệm với tôi hơn hết. Một người tôi không bao giờ quên tên được, đó là đội trưởng đội hai, đội trồng bắp, trồng khoai lang, khoai mì. Sau đó, đương sự nhờ quá tích cực được cất nhắc lên làm thi đua toàn trại K3 Vĩnh Phú. Người đó là Phạm Đình Thanh.

Khi Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào các tỉnh tiếp giáp với Việt Nam, Cộng Sản đưa chúng tôi xuôi về miền nam. Hai bạn tù bị còng tay với nhau, đẩy lên xe bít bùng. Trong khi di chuyển, bên ngoài trời mưa to, xe lắc lư dữ dội, khi chạy có lúc tôi cảm thấy chắc là sắp sa xuống thung lũng hay xuống hố sâu. Tôi ở phía trong xe, gần tài xế, khi xe ngả nghiêng, lôi kéo cả mấy chục người tù từ phía sau xe, chúi mũi dồn về phía trước, đè lên chúng tôi, tưởng đâu đã ngộp thở.Tôi nghĩ chắc mình sẽ chết vì ngộp thở, hay có thể chết vì xe lăn xuống hố và rồi gia đình vợ con, chẳng có ai biết được mình chết ở đâu?.

Mùa hè năm 1978, tôi bị đưa về trại K3 Vĩnh Phú, nơi có đền thờ vua Hùng Vương. K3 Vĩnh Phú nằm ở giữa thung lũng, núi đồi vây phủ xung quanh. Ở đây tôi gặp Cha Khoa tự Khải, Hiệu Trưởng trường trung học Đồng Tiến, Cha Thấy ở Mỹ Tho bị bắt vì trong xe có tiền bạc triệu lúc bấy giờ là số tiền lớn. (Lương công chức hạng A khoảng 30,000 hay 40,000 đồng một tháng).Tôi được phân chia vào đội trồng khoai lang, khoai mì. Mỗi sáng sau khi được phát cho một củ khai lang hay khoai mì nho nhỏ, vác cuốc ra rẫy, cuốc đất, lật từ vuông đất lên, rồi bừa cho nhuyễn để khi mưa xuống gieo hột bắp hay đặt các dây khoai lang. Không đủ trâu để cày, nên người tù chúng tôi phải thay trâu kéo cày.

Tôi ở chung với Luật sư Lê Như Ninh, sống ở Nha Trang, ở tù vì tham gia đảng Dân Chủ, và các anh Võ văn Bé, Phùng văn Chấn, Lê Tấn Hà… nhân viên Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo. Những tháng ngày dài lê thê sống ở K3 này công việc thường là cuốc đất, trong khi ngày ba bữa ăn toàn bo bo không xay. Sau khi ăn chừng năm mười phút thì tất cả bo bo đều được tống ra ngoài hết vì bao tử người không thể tiêu hoá bo bo không xay, bo bo còn nguyên vỏ được. Loại này dùng để cho ngựa hay trâu, bò ăn. Cho nên chúng tôi ăn bo bo được vài tháng, mọi người chỉ còn da bọc xương giống như những con khỉ ốm đói biết đi, những con ma đói đang cuốc đất. Mỗi lần phát cơm, phân chia cơm, mỗi người được một nắp bình thủy cơm, còn là bắp trái loại cứng ngắc nhai không được. Tù nhân chỉ được ăn loại bắp cứng dành cho trâu bò.

Đói mờ mắt. Đói triền miên. Đói dữ dội. Đói quá có nhiều anh em ăn bất cứ thứ gì anh em nghĩ là có thể ăn được, nên anh em thường nói: “cái gì nhúc nhích thì ta ních liền”. Ra ngoài đồng gặp rau má, rau tàu bay, bất cứ thứ rau gì tù nhân đều ngắt ăn sống. Có người khi đi ra đồng làm việc, ăn rau trừ bửa, hay gom ba phần của trại phát, sáng trưa và tối, ăn một lần buổi tối cho no. Anh em tù đa số đều bị bịnh phù thũng. Mùa đông năm 1978 là mùa đông khủng khiếp nhất trong đời tù của chúng tôi. Lần đầu tiên tôi mới biết thế nào là mưa phùn, gió bấc. Ở trong Nam chỉ có mưa nắng hai mùa chứ chưa bao giờ gặp cảnh mưa gió mà còn lạnh lẽo liên tục như thế.

Tôi còn nhớ anh Quế là Giáo sư ở Quảng Nam, Đà Nẳng, là Thanh tra của Sở Giáo dục. Anh bị tù vì tham gia đảng Dân Chủ. Vì quá ốm yếu nên làm việc chậm chạp, cuốc đất không đạt “chỉ tiêu trong ngày”, bị đội trưởng cự nự. Anh cố cuốc mạnh tay hơn, nhanh hơn, nhiều hơn. Tối hôm đó vào khoảng hai ba giờ khuya, anh em nằm gần bên anh Quế hô to lên:

“Anh Quế chết rồi ”.

Không ai biết anh Quế chết vì bịnh gì, nhưng chắc chắn anh đã chết vì bị thiếu ăn, bị bỏ đói lâu dài, bị kiệt sức mà thôi.

Mới mấy hôm trước trong đội tù cũng có người chết vì ăn cóc nướng ở lò rèn. Có lẽ vì anh nướng vội vã, không kịp làm sạch sẽ, nên khoảng vài giờ sau khi ăn thịt cóc, chừng nửa đêm, anh kêu đau bụng, không có thuốc và cũng không chở đi cấp cứu kịp và hôm sau thì anh chết.

Trong thời gian này khoảng cuối năm 1978 đầu năm 1979, cứ vài ngày là có vài người ra đi. Anh em liên tục đóng hòm chôn cất bạn tù. Vài người tù khiêng bạn mình ra bìa rừng, chôn vội vàng vùi dập. Không có ai được phép khóc thương. Vợ con ở nhà cũng chẳng hay có một người, một tù nhân đã chết.

Ở K3 Vĩnh Phú tôi có gặp Nguyễn Minh Diệu học cùng lớp trường Trung học Cần Giuộc 1955 – 1959. Gặp Phan tấn Ngưu ở K5, gặp Dương Bồng Quảng con chủ nhà máy xay lúa ở Chợ Trạm, bạn học chung ở trường Tấn Thành, Chợ Trạm 1954-1955.

Những tháng này là thời gian đói khát dữ dội nhất và cũng bị kềm kẹp, khống chế nhiều nhất. Một lời nói than van hay dèm pha nhà nước được báo cáo lên cán bộ là có thể bị cùm chân, cùm tay từ 14 ngày trở lên.

Một lần đang ở trong phòng nghe tiếng la thất thanh ở bên ngoài, tôi dòm qua cửa sổ phòng giam thấy 4 cán bộ đang đá một tù nhân như đá banh. Họ đá anh này từ trái sang phải, từ góc nầy sang góc kia, đá chán thấy mệt, họ mang anh vào phòng giam riêng.

Mùa hè năm 1982, tôi được chuyển sang K4 Vĩnh Phú và được đưa về đội 8, đội làm ruộng. Tôi được biết đây là nơi thường giam giữ những người tội nặng của miền Bắc. Vùng này có tên là Mai Côi, Thác Guồng. Đến Mai Côi, Thác Guồng này mà được trở về đời sống bình thường là chuyện hy hữu. Thông thường đã bị giam ở đây coi như sẽ chết.

Mỗi buổi sáng sớm chúng tôi vác cuốc ra ruộng, lội xuống nước sâu quá đầu gối. Ruộng này là vũng nước ao tù, là vùng tận cùng là chỗ trũng, nước từ các con suối ở thượng nguồn trong vùng rừng núi trên cao gôm về, cho nên chứa đủ tất cả các chất độc nhất do lá rừng, vi trùng, chất thối rửa của súc vật, côn trùng qui tụ về đây. Chúng tôi làm ruộng này chừng một tháng thì rụng hết lông chân và bị sốt vàng da. Loại sốt này rất đặc biệt, ai bị bịnh này không thể đứng được, tay chân rã rời, không ăn uống gì được, nếu ăn chút cháo cũng bị ói ra hết. Mỗi khi bị bịnh, không đi đứng được, phải nhờ bạn bè cõng.

Trong đội 8 của chúng tôi quá nửa đội bị bịnh sốt vàng da. Anh Minh cùng đội đã phải cỏng anh Đề lên trạm xá, vài ngày sau anh Đề lại cõng anh Minh lên trạm xá vì bịnh này. Tôi cũng bị bịnh này không ăn uống được hơn một tuần lễ. Nếu không có bác sĩ Thịnh biết cách điều trị bịnh này, chắc tôi cũng như nhiều anh em tù khác đã được chôn cất ở bìa rừng thuộc thung lũng Mai Côi, Thác Guồng của tỉnh Vĩnh Phú này.

Mai Côi, Thác Guồng là địa danh mà dân miền Bắc, Hà nội rất sợ, đó là nơi “đi dễ, khó về”. Một lần trong dịp Tết ta, anh em trong trại đang nấu nướng vì được nghỉ ngơi trong mấy ngày này. Vợ một anh lính gác, áo quần vá nhiều chỗ, ẩm đứa con, đi vào bên trong trại tìm xin thuốc uống cho con. Chị này đi hỏi anh em nào có thuốc cảm hay thuốc ho để cho cháu dùng. Tôi không hiểu tại sao chị không lên trạm xá của công an. Nhưng tôi thấy chị ăn mặc áo quần vá víu như thế, chứng tỏ chị cũng nghèo quá, khổ như chúng tôi mà thôi. Chúng tôi ở tù trong, thì chị ở tù ngoài.

Tôi còn nhớ có lần đi làm rẩy ở Vĩnh Phú, gặp dân chúng ngoài đường, họ nói: “Tôi tưởng mấy anh sẽ giải phóng chúng tôi chứ, tôi đâu có ngờ ngày hôm nay tôi gặp các anh ở đây”

Sau mấy năm thấy tù nhân chết quá nhiều, trại cho tổ chức nhận quà năm ký từ miền Nam, để cho vợ con của tù nuôi tù, đỡ gánh nặng nhà nước. Sau này, mới hiểu sở dĩ có vụ cho thăm nuôi là vì bắt đầu có thương thuyết vơi phía Mỹ về sô phận tù chính trị của miền Nam. Nếu để bọn tù chết hết, đâu còn thứ gì mang ra đổi chác với Mỹ được. Do vậy, nhiều khi gia đình gởi nhiều hơn năm ký mỗi ba tháng cũng được cho thông qua vì khi có quà cáp anh em cũng có biếu cán bộ như thuốc lá, đường, bánh trái, thuốc uống trị bịnh cảm, thuốc bổ, vitamin, thuốc sốt rét…

Trại Hà Nam Ninh

Cuối năm 1982, chúng tôi được chuyển đến trại Hà nam Ninh gần Hà nội. Đây cũng là lúc diễn ra nhiều thay đổi.

Một lần khám xét đồ đạc của tù, thấy mấy cuốn sách về Lê Nin, một cán bộ coi tù nói “giờ này mà còn đọc cuốn sách này”. Từ câu nói này, tôi thấy văn hóa miền Nam đã tác dụng ngược trở ra miền Bắc.

Khi tôi còn bị giam giữ ở K3 Vĩnh Phú cán bộ cấm chúng tôi hát nhạc vàng, gọi là “nhạc ngụy”, nhạc làm cho mất nước. Nếu có ai hát nhạc vàng bị báo cáo lên thì có thể bị cùm chân bị giam riêng. Cái nón có mũ lưỡi trai ở phía trước cũng bị chê là của Mỹ ngụy yêu cầu cắt bớt. Đội nón từ miền nam đem ra là bị phê bình, chỉ trích. Đi dép râu thì được. Nón cối thì được. Cái gì của miền nam đều là xấu cả.

Nhưng rồi một hôm tôi được phân công nhổ cỏ ở chung quanh khu nhà cán bộ ở vì lúc đó tôi bị bịnh quá không ra ngoài đồng cuốc đất được. Tôi nghe từ trong phòng của cán bộ đang hát nhạc vàng của miền nam. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cấm tù nhân hát nhạc vàng mà cán bộ lại hát nhạc vàng. Như vậy văn minh, văn hoá miền nam đã ảnh hưởng ra miền Bắc bằng chứng là nhạc vàng bị cấm hát, nhưng họ lại thích nghe, say mê những bản nhạc vàng đó.

Bắt đầu ở đây anh em hát “nhạc vàng” thoải mái. Ban đêm, bên ngoài buồng giam có lính gác đi tuần kiểm soát, bên trong anh em hát “nhạc vàng” không còn bị phạt nữa. Trong trại lúc bấy giờ tôi nhớ có thầy Hòa là Đại Đức tuyên úy Phật giáo, thuộc hàng trăm bài hát “nhạc vàng”. Thầy Hoà có thể hát liên tục vài giờ cũng không hết nhạc. Đêm nào không hát, cán bộ ở bên ngoài còn yêu cầu anh em hát “nhạc vàng” cho vui. Cán bộ cộng sản đã mê “nhạc vàng” rồi.

Văn minh, văn hóa miền Nam Việt nam đã ảnh hưởng vào tâm tư, tình cảm của người cộng sản miền Bắc.

Sau ba mươi năm tất cả những điều gì trước đây họ chỉ trích, họ cấm đoán, họ bỏ tù ngày hôm nay họ cho thực hiện lại hết như buôn bán tự do, không còn ngăn sông cấm chợ nữa. Nhưng họ áp dụng chế độ tư bản theo luật rừng rú vì tất cả luật pháp cũ họ đều hủy bỏ mà luật lệ mới chưa thành hình. Khi chiếm miền nam xong, họ đóng cửa trường Luật, đóng cửa trường Đại học Văn khoa Sài gòn.

Sau khi thắng trận họ tưởng làm kinh tế như đánh đấm ngoài mặt trận. Bán cà phê vĩa hè, hớt tóc vĩa hè cũng phải vô hợp tác xã. Do đó mà toàn dân phải ăn độn bo bo, ăn gạo có nhiều bông cỏ, trước khi nấu phải mất rất nhiều thì giờ lượm bông cỏ ra.

Sự dối trá đã ăn sâu vào nhà cầm quyền lẫn dân chúng, phải lường gạt nhau để sống. Nhà cầm quyền lường gạt dân. Dân lường gạt nhà cầm quyền và lường gạt lẫn nhau. Lương tâm của con người đem dấu vào sọt rác.

Nếu sống đàng hoàng, mua bán đàng hoàng thì không sống nổi. Nên dân chúng phải lươn lẹo. Trong giai đoạn ngăn sông cấm chợ, muốn sống còn, phải dối trá, phải lươn lẹo, đi mua thịt lậu từ dưới quê lên để bán, mua đường, mua áo quần cũ, mua bán đồ phế thải. Chở ít gạo từ tỉnh này sang tỉnh kia để kiếm lời. Khi đi buôn bán nếu qua mặt được công an kinh tế thì sống, nếu bị bắt thì mất vốn. Nhưng không buôn bán thì lấy gì mà sống.

Hôm nay nhà cầm quyền thông báo nói không đổi tiền, sáng hôm sau, giới nghiêm, đổi tiền làm cho nhiều người sạt nghiệp. Thông cáo kêu gọi quân nhân, công chức, sĩ quan trình diện học tập trong một tháng, nhưng giam mãi không biết ngày về, không ra tòa kêu án, ngồi bốc lịch dài dài. Mỗi ba năm anh em gọi là một “cây gậy”. Không ai biết mình sẽ phải ở mấy “cây gậy” đây? Ba năm, sáu năm, chín năm, mười hai năm … Ở tù không biết ngày nào về với gia đình hay vĩnh viễn sống trong miền rừng núi Thanh Hóa, Nghệ An, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh …Trung Quốc có Tân Cương. Nga sô có Tây Bá Lợi Á dành cho tù nhân vĩnh viễn định cư ở đó.

“Tù cải tạo” dành cho người miền Nam thua trận thực sự không hy vọng có ngày trở về với gia đình, nếu những lãnh tụ cộng sản không thình lình thấy là mạng sống của đám tù này bỗng là thứ có thể thương thuyết đổi chác với phía Mỹ. Nhờ vậy mà trình trạng nhà tù bỗng thấy dễ thở hơn.

Thời gian sống tại trại Nam Hà là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời ở tù. Lúc này quà cáp thường xuyên gởi ra từ vợ con ở trong nam. Cán bộ đã cởi mở hơn. Họ đã nhìn thấy sĩ quan, công chức miền Nam không phải là những người ăn gan, uống máu. Họ đã hiểu phần nào về người bại trận.

Thân nhân của các tù nhân từ trong Nam gởi tiền ra cho chúng tôi, để chúng tôi mua thịt cá, trái cây. Nhiều khi cán bộ dễ dãi để chúng tôi nấu chè, nấu cơm, nấu canh chua trong phòng giam. Họ dễ dãi cho nấu nướng là để họ bán được hàng, để họ kiếm thêm tiền. Với cái lon Guigoz chúng tôi kho thịt, nấu cơm, nấu canh v.v…thật là tiện dụng. Cần giẻ rách, một ít dầu là chúng tôi có thể đun một nồi chè ở trong phòng giam.

Mỗi sáng chúng tôi đi ra đồng làm cỏ để cấy lúa. Tôi thấy nhiều người ra đồng quá trễ. Hơn 11 giờ mới cầm cuốc, lếch thếch kéo ra đồng làm việc.

Tôi hỏi họ: “Sao các anh đi làm trễ quá vậy?”

Họ trả lời: “Đi ra sớm mà làm gì, làm cho hợp tác xã chứ có phải cho mình đâu. Làm nhiều, làm ít cũng chia chác như vậy mà thôi.”

Khi cuốc đất, họ khều khều vài lát cuốc như phủi bụi; một lát, họ đã kéo nhau về nghỉ. Tôi suy nghĩ dân miền Bắc làm việc như vậy hỏi rằng khá giả làm sao được. Vậy mà họ đã thắng miền nam. Thế mới lạ chứ.

Nếu “Trương Chi đẹp trai” đó là tựa bài viết của Dương Hùng Cường để mô tả dân miền nam nghe tiếng hát Trương Chi thì những người nhẹ dạ rất mê, rất thích nhưng trong thực tế thấy gương mặt của Trương Chi thì không còn có thể mê được nữa. Nghe Cộng Sản tuyên truyền thì đa số đều rất thích nhưng thực tế, họ làm ngược lại những điều họ nói, nên sau khi chiếm miền nam rồi thì “Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng bỏ xứ mà đi”. Cho nên dân miền Nam không bao giờ quên được câu nói để đời của Cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”

Ba tôi có cảm tình với Việt Minh, Cộng sản vì bạn của ba tôi là ông tư Lê đã theo kháng chiến từ những năm 1945. Khoảng năm 1948, 1949 Việt Minh đánh đồn Chợ Núi, quận Cần Giuộc, Tư Lê có vào nhà ba tôi để trò chuyện. Ba tôi cho mượn ống quẹt để châm hút thuốc lá. Sau trận đánh đồn đó ba tôi bị ông Tổng Nhì và Pháp bắt, đánh để khai thác về Việt Minh (Cộng sản) và ba tôi đã bị bịnh nhiều, nằm điều trị ở nhà gần một năm.Từ đó ba tôi rất hận và ghét Pháp và có cảm tình với Việt Minh. Sau này, dĩ nhiên ba tôi cũng không có cảm tình với người Mỹ và quân đội quốc gia. Khi tôi ra ứng cử Nghị viên Hội đồng đô thành Sài gòn, để chuẩn bị ứng cử Dân Biểu, Nghị sĩ sau này, ba tôi đã nói: “Ẩm tao ngồi chức đó tao cũng nhảy xuống” có ý nói với tôi là “bỏ tiền ra ứng cử chi cho tốn kém, mất thì giờ” mà ba tôi cũng không ưa chức vụ đó nữa.

Khi di chuyển từ K4 Vĩnh Phú qua trại Hà nam Ninh, tôi được đưa về phân trại A. Tôi gặp đủ hết các anh em cùng bị giam chung với tôi ở Long Thành như Mai Kim Đỉnh cùng học chung ban Cao Học trường Chính Trị Kinh Doanh ở thương xá Tax, Sài gòn những năm 1972-1974, Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa chủ nhiệm của Ban Tuyên Huấn của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến và của đảng Tân Đại Việt. Gặp lại một số học trò cũ bị giam ở đây vì theo nhóm kháng chiến “phục quốc”, chống Cộng sau năm 1975.

Nhóm này cũng ở tù khá lâu, bảy, tám năm hay hơn nữa nhưng khi có chương trình HO để đi định cư tại Hoa Kỳ thì những người này không được xếp vào diện HO vì họ được xem là những thành phần chống đối sau năm 1975.

Sống ở phân trại A một thời gian ngắn, họ lại tách một số chúng tôi ra, di chuyển về phân trại C của trại Hà Nam Ninh.

Không khí tù đày đã dễ thở hơn so với những thời gian trước. Khi chúng tôi có quà cáp thăm nuôi đã đút lót cán bộ thuốc lá, bánh kẹo, thuốc uống từ trong Nam gởi ra. Chúng tôi được mua thức ăn do cán bộ tổ chức bán như thịt heo, thuốc lá. Ngay cả rượu chúng tôi cũng có thể mua được bằng cách liên hệ với người dân sống chung quanh trại.

Tôi đã ở tù lâu quá rồi, gần tám năm. Mang trong người đủ thứ bịnh, không chết là may mắn lắm rồi.

Sau khi ăn Tết trong trại Hà Nam Ninh chừng vài tháng, cán bộ gọi anh em tập họp lại, ngồi ngoài sân, gọi tên từng người sang ngồi một bên và yêu cầu đứng lên vào phòng thu dọn đồ đạt. Lúc đó, anh em mới biết mình sẽ được thả cho về.

Khi ra khỏi trại, tôi không muốn nhìn trở lại chỗ mà tôi đã bị giam cầm trong thời gian dài ở đó.

Xe hơi chở chúng tôi bỏ vào khu nhà ga xe lửa chờ có chuyến đi vào trong nam. Vài người trong chúng tôi đi tìm cà phê để uống. Phố xá tiêu điều. Thành phố Hà Nội lúc bấy giờ (đầu năm 1983) là thành phố chết, không có buôn bán gì. Uống cà phê cũng phải uống chui. Đi ra nhà sau của tiệm cà phê không có bảng hiệu gì cả, mua cà phê đen uống với đường đã là quí lắm rồi. Họ không có bán cà phê sửa vì đó là một xa xỉ phẩm.

Ngồi trên xe lửa xuôi về miền Nam, đến Quảng Ngãi chúng tôi còn mấy bộ áo quần cũ trên bảy năm, mùng mền mang theo lúc đi trình diện vậy mà tôi bán cũng được mấy chục đồng bạc lúc đó. Với số tiền này tôi mua được tô hủ tiếu để ăn uống dọc đường.

Khi đến ga Hàng Xanh trời vừa sáng. Tôi chỉ còn đủ tiền để kêu chiếc xe xích lô chở về bến xe Phạm thế Hiển. Leo lên xe Lam chạy dọc đường Phạm thế Hiển, tôi nhìn không ra được con đường cũ mà tôi đã đi qua lại thường xuyên trước năm 1975. Bây giờ, sau gần tám năm, cảnh vật thay đổi nhiều quá. Nhà cửa xây cất thêm lấn ra lề đường. Có những nhà mới cất tôi nhìn không ra. Về tới nhà lúc nào tôi cũng không hay.

Bước vào nhà của mình mà thấy quá xa lạ. Có mấy đứa trẻ con ngồi học ở trong nhà mà tôi đâu có biết đứa nào là con tôi đâu. Khi tôi đi “học tập cải tạo” con út tôi mới vừa tám tháng, khi về đứa út cũng đã 8 tuổi rồi, làm sao tôi biết nó cho được. Đứa con trai 9 tuổi chạy xuống nhà sau, lúc đó bà xã tôi đang nấu cơm. Nó nói: “Má ơi có ông nào vô nhà kìa.”

Tôi vừa bước vô nhà mình, đi thẳng ra phía sau nhà, gặp bà xã đang nấu cơm, gặp cậu bảy Bích, tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi đã khóc, không thể nào cầm giữ nước mắt cho được. Người ta khóc vì buồn rầu, đau khổ. Tôi khóc vì tưởng chừng như đã chết rồi mà được sống lại. Tôi đâu có ngờ tôi còn sống để được về với gia đình sau gần 8 năm trong các trại tù khắc nghiệt ở các miền thượng du, núi rừng âm u miền bắc.

Giấy ra trại ký ngày 28 tháng 02 năm 1983, ngày tôi về tới nhà trình diện công an phường là 9 tháng 3 năm 1983 ngót nghét còn ba tháng nữa là đủ 8 năm tù, vì cái tội duy nhất là tội tham gia đảng phái quốc gia.

Ngẫm lại, tôi thấy mình còn được ông trời thương, được sống sót về với gia đình, để cho các con của tôi có cha, cho tôi có cơ hội phụ giúp phần nào sinh kế cho gia đình vợ con. Và rồi sau cùng, có cơ hội đưa gia đình tới được nước Mỹ tự do để làm lại cuộc đời.

Xin tạ ơn trời, tạ ơn người, và biết ơn nước Mỹ.

Ngày 26 tháng 04 năm 2015

Phùng Văn Phụng

Vietbao.com đăng ngày 28 May 2015 trong trang “Viết Về Nước Mỹ”


 

Hơn 3.000 thuyền nhân bị giết ở đảo Kokra Thailand – -Lapson Luu

 Việt Nam xưa và nay – Khoa Phan

-Lapson Luu

Nỗi ám ảnh kinh hoàng mà nhiều người không biết là đã có ít nhất 3.000 Thuyền Nhân bị Hải Tặc Thái thảm sát ở đảo KoKra.

Trong giai điểm từ 1977-1982 Hải Tặc bắt nhiều thuyền nhân đưa vào hoang đảo KoKra. Chỉ nội trong năm 1981 thống kê cho thấy có 452 chiếc thuyền tị nạn bị tấn công và con số thuyền nhân bị hải tặc thái thảm sát gần 900 người trong cùng năm 1981 – Số thuyền nhân đến được đất Thái mỗi năm khoảng hơn 15.000 người và tổng số thuyền nhân chết ngoài biển do sóng gió, thiếu thức ăn, hải tặc với thống kê cao nhất là 400.000 người bỏ xác ngoài biển khơi.

Liên tục vào những năm 1977-1982 là thời gian cao điểm Thuyền Nhân tị nạn từ Việt Nam đi qua vịnh Thailand để đến Thái, Indonesia và Malaysia – Hải Tặc Thái bắt nhiều thuyền đưa vào KoKra để cướp, hảm hiếp phụ nữ và giết chết ngay sau đó.

Tờ báo Hồn Việt của ký giả Nguyễn Hoàng Ðoan trong năm 1978 đã ghi lại câu chuyện của những người tị nạn bị bắt lên đảo KoKra vượt thoát ra và kể lại nhiều câu chuyện rùng rợn xảy ra tại nơi đây. KoKra có một bia đá nằm ở hướng Bắc của hòn đảo là nơi có diện tích rộng nhất. Đây là nơi bọn Hải Tặc Thái thường đưa phụ nữ VN bắt được ra hảm hiếp tập thể cho tới khi họ ngất đi thì sẽ bị đẩy xuống biển.

Một chiếc thuyền tị nạn trôi dạt vào KoKra cuối năm 1977 kể lại thuyền của họ có 8 người – 3 phụ nữ, một đứa bé và 4 đàn ông khi bị sóng đánh trôi dạt vào đảo , mọi người mừng rỡ vì nghĩ rằng đã có nơi trú ẩn khi gió lớn – Vào được khu vực bia đá thì họ nhìn thấy hàng chữ bằng tiếng Việt được viết nguệch ngoạc – “Đảo này là đảo Hải Tặc hãy rời đi vì họ sẽ giết đàn ông và hảm hiếp phụ nữ!”

Nhanh như chớp, 8 người trở lại chiếc thuyền tìm cách chèo chậm chậm ra khỏi khu vực – vừa rời khỏi đảo KoKra chừng hơn 200 mét thì họ gặp phải một chiếc thuyền lớn hơn của Hải Tặc Thailand từ xa tiến lại gần.

Các thuyền nhân trên tàu 8 người kể lại họ nhìn thấy trên chiếc thuyền Thái có một tay cầm súng carbin và 7 tên khác cầm dao rựa với ánh mắt đẫm máu dữ tợn đang đưa thuyền tiến gần hơn chiếc 8 người.

Trên chiếc thuyền 8 người có 4 thuyền nhân đàn ông, họ là người cùng gia đình – một lính Biệt Cách Dù VNCH, một Biệt Đông Quân VNCH và 2 thanh niên trẻ hơn là Bộ Đội vừa trốn khỏi chiến trường Tây Nam.

Thuyền 8 người Tị Nạn trang bị một súng AK47 còn 4 viên đạn, một khẩu B40 còn một quả và một súng máy không có đạn.

Khi chiếc thuyền hải tặc tới gần thì cây súng máy (không đạn) được người lính Bộ Đội đưa lên để hù và anh Biệt Cách Dù đưa Ak lên bắn một viên bắn sượt ngang mông tên hải tặc đang cầm súng carbin và quả B40 cũng chuẩn bị khai hỏa … Tiếng súng AK đơn độc nổ dòn trong buổi chiều trời gần sẩm tối kéo theo tiếng la hét trên con tàu Hải Tặc nhanh chóng rời bỏ vị trí.

Bỗng chợt từ trên đảo KoKra vọng lên nhiều tiếng phụ nữ khóc thét nghe rợn người. Anh Bộ Đội trẻ bơi rất giỏi vác trên lưng cây AK47 còn 3 viên đạn bơi nhanh về hướng tiếng phụ nữ khóc.

Hai người lính VNCH tìm cách chèo thuyền gần đảo hơn để hỗ trợ cho người em trai Bộ Đội – Họ đã đuổi 5 tên Hải Tặc trên đảo và cứu được 2 phụ nữ còn sống cùng một em bé 4 tuổi – Tất cả 42 người khác trên chiếc thuyền trước đó của nạn nhân đã bị Hải Tặc Thái giết chết sạch…

Lapson Luu

(Đảo KoKra là một hoang đảo, nơi trú ẩn của ngư dân Thailand – Đảo có chiều dài hơn 250 mét và chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 100 mét.


 

Nói lời phải chăng (Phần cuối)

Ba’o Tieng Dan

21-4-2025

Tiếp theo phần 1phần 2phần 3phần 4phần 5phần 6

Chu Sơn: Hơn 35 năm sau cái ngày lịch sử (30–4) mà gần như tình cờ anh Tòng tham dự, có bao giờ anh tự nhìn lại mình, nhìn lại đất nước khi nhớ nghĩ lại những gì mình đã làm, những gì mình đã nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh Sài Gòn?

Huỳnh Văn Tòng: Không phải chỉ “có bao giờ” mà rất nhiều và gần như thường trực tôi cứ hỏi tại sao? Tại sao? Tại sao cái cơ hội ngàn năm một thuở ấy bị bỏ lỡ, bị phí phạm một cách đáng tiếc? Không phải chỉ với cá nhân tôi, kẻ muốn làm một Việt Cộng tép riu (thuộc lực lượng Thứ Hai) hơn làm một “nhân vật” đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba), cũng không phải những người đứng giữa (thuộc lực lượng Thứ Ba) mà cả một số không ít những người phía bên kia (thuộc lực lượng Thứ Nhất – Việt Nam Cộng Hòa) cũng tiếc một cách quay quắt không được tham dự vào vận hội hòa giải hòa hợp dân tộc, xây dựng đất nước trong hòa bình độc lập và thống nhất sau biến cố 30-4-1975.

Tôi trở về nước đầu năm 1972 sau một thời gian khá dài (9 năm) tiếp cận với nền học thuật Pháp – Tây phương. Sự tiếp cận đó cho phép tôi nhận ra rằng, trí thức, quần chúng Pháp và Tây phương có điều kiện thời gian và nền tảng học thuật để nhận biết chủ nghĩa Marx, phong trào Cộng sản quốc tế và cách mạng tháng 10 Nga sớm và chính xác hơn trí thức và quần chúng Việt Nam. Đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương thành lập sớm hơn đảng Cộng sản Việt Nam hàng chục năm, nhưng rồi nhân dân Pháp và phương Tây đã không chọn mô hình Xã hội Chủ nghĩa để đổi mới đất nước họ như khẳng định của các lý thuyết gia Cộng sản là sự phát triển kinh tế của phương Tây đã chín mùi và sự trưởng thành của giai cấp công nhân và quần chúng lao động ở các nước này đã sẵn sàng để cách mạng Xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi.

Sự chọn lựa này chủ yếu do nền tảng văn hóa truyền thống của họ sâu dày và trình độ học thuật của họ cao. Họ thừa nhận Marx – Angel và các nhà hoạt động cách mạng theo ý thức hệ Cộng sản ôm ấp lý tưởng và khát vọng trong sáng và cao đẹp. Nhưng đồng thời họ nghi ngờ khả năng hiện thực của học thuyết Marx và chủ nghĩa Lenin. Cuối cùng đảng Cộng sản Pháp và các đảng Cộng sản Tây phương đành chấp nhận làm lực lượng đối trọng chính trị và phản biện xã hội đóng vai trò thúc đẩy sự đổi mới, sự tiến bộ trong các nước Tư bản chủ nghĩa, và ủng hộ công cuộc giải trừ các thế lực thực dân đế quốc tại các thuộc địa.

Trong khi đó lý tưởng cộng sản, cách mạng tháng 10 Nga, chủ nghĩa Lenin lại nhanh chóng chiếm lĩnh tâm trí đa số người Việt ở trong nước cũng như Việt kiều tại Pháp. Lý do của sự quy hướng này là khát vọng độc lập tự do, công bằng xã hội vô cùng mãnh liệt nơi một số bộ phận không nhỏ trí thức, và ước mơ đổi đời một cách cấp thiết của toàn thể đồng bào cùng khổ (90% là nông dân) trước tình cảnh đói nghèo và nô lệ cùng cực do chế độ thực dân. Còn một lý do nữa của sự quy hướng này là mặt bằng nhận thức chung của dân tộc chưa đủ để vượt qua tình trạng mê tín dị đoan đã biến học thuyết Marx thành những tín điều tôn giáo và đảng Cộng sản thành một giáo hội không sai lầm, một guồng máy bạo lưc có quyền lực tuyệt đối trong mọi lãnh vực của đời sống đất nước.

Tôi đã từng nhận định như thế về đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án ở trường đại học, đặc biệt là sau chuyến viếng thăm, quan sát, học hỏi dài ngày (6 tháng) tại những cơ quan thông tấn báo chí danh tiếng trên thế giới, tôi đã hiểu vì sao Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng tìm thấy con đường giải phóng đất nước dân tộc sau khi đọc luận cương của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Lòng yêu nước sâu nặng và sự phẫn nộ mãnh liệt trước tội ác của bọn đế quốc thực dân đã lấn lướt khả năng suy luận lạnh lùng và khách quan của những người ngoài cuộc, hay của những người đã tìm thấy nơi học thuyết Tư sản Dân quyền những giá trị cách mạng triệt để như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và đặc biệt Nguyễn An Ninh vào thời điểm thập niên thứ hai của thế kỷ trước.

Tôi trở về nước với ý định tìm đường tham gia kháng chiến để giải tỏa ray rức là kẻ thờ ơ vô trách nhiệm trước tình hình đất nước ngày một lún sâu vào thảm cảnh chiến tranh xâu xé vô vọng. Hòa bình, độc lập, thống nhất đối với tôi vào thời điểm đó vẫn là mục tiêu hàng đầu. Vấn đề thể chế sẽ là sự đồng thuận của cả dân tộc sau khi đạt được các mục tiêu ấy. Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn sẽ rút kinh nghiệm từ những sai lầm tai hại trong các cuộc cải cách, cải tạo mà họ đã thực hiện trên miền Bắc trước và sau 1954. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không thể không biết tới những tội ác kinh khủng: Giết chết và đày đọa hàng trăm triệu con người trong các cuộc thanh trừng, đấu tranh giai cấp đẫm máu và sự điêu tàn suy sụp toàn diện tại Liên xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Tôi đã sai lầm khủng khiếp.

Do suy nghĩ đơn giản như vậy, tôi chấp nhận đề nghị của ông Chu Sơn cùng với Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Trực, Bùi Minh (những người thân cận của thượng tọa Trí Quang) tiếp sức cho phong trào đô thị Huế bằng hành động cụ thể là thúc đẩy Lực lượng Hòa giải Dân tộc sớm thành lập, liên kết nó với các tổ chức, phong trào đô thị Sài Gòn, Huế và cả miền Nam, góp phần hình thành lực lượng Thứ Ba tại Sài Gòn, tạo điều kiện mở rộng hoạt động của nó ra các tỉnh miền Trung, kết nối tất cả thành lực lượng Thứ Ba thống nhất cho cả Miền Nam.

Ông Chu Sơn cần chú ý: Sáu nhân vật hàng đầu của chính phủ Dương Văn Minh, trừ luật sư Nguyễn Văn Huyền là người Công giáo, năm người còn lại là Phật giáo đồ, là Phật tử thuần thành. Hai trong số đó là luật sư Vũ Văn Mẫu, giáo sư Bùi Tường Huân là nhân vật lãnh đạo của Lực lượng Hòa giải do thượng tọa Trí Quang bàn thảo cùng đại tướng Dương Văn Minh sắp xếp đề cử vào chức vụ Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Việc giáo sư Bùi Tường Huân giữ chức bộ trưởng quốc phòng là chủ ý của thượng tọa Trí Quang thể hiện ý chí và khát vọng hòa bình theo tinh thần của đạo Phật và đường lối chủ trương của giáo hội Phật giáo. Việc Dương Văn Minh đề cử các nhân vật khác từ Phó Tổng thống trở xuống đêu có sự đồng thuận của thượng tọa Trí Quang.

Không phải chuyện tình cờ khi sáng sớm ngày 30 tháng 4 Nguyễn Hữu Thái tới chùa Ấn Quang và sau đó thượng tọa Trí Quang điện thoại đề nghị các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu nhanh chóng chấp nhận đầu hàng. Nguyễn Hữu Thái và tôi tới dinh Độc Lập và đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 có manh mối từ những cơ duyên như thế, chứ không phải tình cờ như ông Chu Sơn đã nhận xét. Những việc chúng tôi làm, những điều chúng tôi nói tại dinh Độc Lập và Đài phát thanh đơn giản nhằm thực hiện câu châm ngôn mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã hành xử suốt đời ông: Dĩ bất biến ứng vạn biến. Cái bất biến đối với chúng tôi vào thời điểm đó là Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc, toàn dân chung sức chung lòng xây dựng đất nước sau 117 năm bị xâm lược, chiến tranh tàn phá và xâu xé, tương tàn.

Lời kêu gọi ấy sau hơn một phần ba thế kỷ chắc chắn câu chữ có thay đổi do ký ức hao mòn nhưng nội dung vẫn trước sau như một. Làm sao quên được khi tôi biết chắc chắn rằng nhiều người trong số học trò, bạn bè, bà con thân thuộc và cả một số quen biết tôi gián tiếp vì lời kêu gọi ấy mà tin tưởng, mà ở lại để rồi phải chịu đọa đày, sĩ nhục, đói khổ, tù đày, tuyệt vọng, chết chóc. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản tiến hành sau 1975 đã biến tôi thành kẻ lừa dối. Thậm chí có một cô học trò đã nói thẳng vào mặt tôi rằng: “Ông đích thực là một tên cò mồi. Gia đình tôi vì ông mà bị sập bẫy”.

Ông Chu Sơn biết không, cô học trò ấy là một trong những sinh viên thân thiết nhất của tôi, đã cộng tác hết mình với nhóm chúng tôi trong suốt hai năm “tôi nghĩ rằng mình là một Việt Cộng”, là đồng chí, đồng sự của ông Chu Sơn trong nhiệm vụ hỗ trợ cho phong trào đô thị Huế. Suốt hai năm ấy tôi nhận được từ cô sự tin tưởng và quý trọng. Cô vận động cha cô – một trung tá trong quân đội Việt Nam Cộng hòa – cùng gia đình (mẹ và bốn em) “ở lại để cùng với đất nước làm lại cuộc đời”. Nhưng rồi họ đã bị sập bẫy – chính xác như lời cô nói – Cha cô đã bị đưa đi cải tạo dài ngày, nhà bị lấy. Đứa em trai kế thi đậu nhưng không được vào đại học vì là con ngụy quân. Cô tiếp tục học hai năm cuối, tốt nghiệp cử nhân nhưng không xin được việc làm cũng vì là con ngụy. Mẹ và cô phải lăn ra chợ trời để lo cái ăn cho cả nhà và thăm nuôi cho chồng, cho cha.

Tù đày, đói khổ, cực nhục và tuyệt vọng là những gì họ nhận được từ ngày “miền Nam được giải phóng”. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với những gì tôi đã đoan chắc với cô ấy trước 30 tháng 4. Quả thực tôi là kẻ nói dối, là một thứ cò mồi… Cô ấy đã hoàn toàn chính xác khi không gọi tôi là Thầy như trước, mà gọi tôi là ông, và xỉ vả tôi như thế…

Chu Sơn: Xin lỗi anh Tòng. Tôi thấy trên trán anh đã lấm tấm mồ hôi. Tôi đã hành anh suốt cả buổi chiều. Tuy vậy tôi vẫn muốn chính anh, chứ không phải tôi, kết thúc cuộc trò chuyện này bằng một vài câu ngắn gọn.

Huỳnh Văn Tòng: Hồi học bên Pháp tôi may mắn làm học trò của ba vị thầy lỗi lạc: Giáo sư Chesneax, giáo sư Jean Lacouture và giáo sư Phillipe Devillieris. Các vị ấy và nền đại học, truyền thông báo chí Pháp và quốc tế dạy cho tôi phương pháp nghiên cứu khoa học và tư duy lịch sử trên cơ sở của nền văn minh phương Tây – Ky tô giáo. Qua các vị ấy và nền tảng văn hóa học thuật ấy, tôi hiểu nhiều hơn về thế giới và đất nước dân tộc mình.

Về dạy đại học Vạn Hạnh và làm “Việt Cộng nội thành”, tôi lại may mắn tiếp cận với ba vị thầy lỗi lạc và thâm trầm hơn: Thầy Thích Minh Châu, thầy Thích Trí Quang, thầy Hồ Hữu Tường. Ba vị này và môi trường đại học Vạn Hạnh dạy cho tôi tình yêu đất nước, lòng bao dung, trách nhiệm nhân loại và chúng sinh theo cốt tũy đạo Phật và tinh hoa Phật giáo Việt Nam.

Qua các cuộc trao đổi, các vị ấy thường nhắc nhở tôi câu châm ngôn: “Tồn tại là tồn tại trong những tương quan”. Câu châm ngôn này với những giải bày của các vị ấy giúp tôi nhìn nhận văn hóa, lịch sử Việt Nam, hiện tình đất nước và các mối quan hệ quốc tế chính xác và công bình hơn.

Chúng ta đang ở trong đất nước. Đất nước đang ở trong thế giới. Tất cả thường trực vận động và đang trên đà chuyển hóa. Kết quả của cuộc vận động chuyển hóa ấy thế nào tùy thuộc vào nhận thức và bản lãnh sống của tất cả mọi chủ thể tham dự.

Khẳng định như thế để thấy rằng, mối chủ thể tồn tại từ cá nhân, gia đình, địa phương, thành phần dân tộc, đảng phái, tôn giáo, quốc gia, cộng đồng khu vực và quốc tế đều chia phần trách nhiệm trước quá khứ và hiện thực cuộc sống.

Không đổ hết trách nhiệm, cái xấu và lỗi lầm lên đầu đối phương, không dùa hết cái tốt, cái đúng, cái ưu việt về phía mình.

Không trông chờ sự tôn trọng của kẻ khác, của quốc gia dân tộc khác khi bản thân mình, cộng đồng mình, dân tộc đất nước mình chìm đắm trong chia rẽ, xâu xé, nô lệ và hủ bại.

Đất nước chưa có độc lập, hòa bình, thống nhất; dân tộc chưa có tự do và hạnh phúc như chúng ta đã mơ tưởng, như đảng Cộng sản đã rêu rao và tiếp tục lảm nhảm.

Hết nô lệ Pháp, Mỹ, chúng ta đang nô lệ Tàu. Hết bị áp bức bóc lột bởi chế độ vua quan chuyên chính, chúng ta đang bị đàn áp bóc lột tồi tệ hơn, triệt để hơn bởi bạo quyền lý Toét, xã Xệ, thị Nỡ và Chí Phèo: Đảng Cộng sản.

Sau hơn một thế kỷ rưỡi chiến tranh, chết chóc, đọa đày và đổ nát để rồi chúng ta có được ngày nay sao?

Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 và hai câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Bùi Giáng.

***

Chu Sơn: Câu hỏi bỏ lửng của anh Tòng kết thúc cuộc trò chuyện của chúng tôi vào khoảng 8 giờ tối một ngày cuối tháng 4 năm 2010, chưa đầy một năm ba tháng trước ngày anh qua đời (tháng 7 năm 2011).

Mấy trang ghi chép này chắc chắn không tránh được những sai sót ngoài ý muốn. Xin anh Tòng rộng lòng tha thứ.


 

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Le Thanh Hoang Dan

Copy FB Nguyễn Tuấn

“‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’.

Hôm qua là một ngày lịch sử, vì Amanda Ngọc Nguyễn trở thành nữ phi hành gia gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ.

Amanda (tên tiếng Việt là Ngọc) sanh năm 1991 tại California. Ba của cô là Nguyễn Minh Tú và má là Tăng Ngọc Lan, là ‘thuyền nhân’ tị nạn, gốc Bạc Liêu.

Amanda là một học sinh xuất sắc và có khả năng lãnh đạo. Tốt nghiệp trung học hạng thủ khoa (Valedictorian) và được các đại học lừng danh (như UCLA, Stanford, Barkeley, Harvard, v.v.) sẵn sàng cấp học bổng. Amanda quyết định chọn Harvard, vì đó là mục tiêu cô đặt ra và phấn đấu lúc còn ở bậc trung học. Chuyện kể rằng, trong phòng riêng, cô viết trên bảng trắng những lời tự rèn luyện và tự giữ kỉ luật để sao cho vào được Đại học Harvard.

Ở Harvard, Amanda theo đuổi chương trình cử nhân [tạm dịch] Văn chương và Khoa học (Bachelor of Arts and Science) và tốt nghiệp năm 2013. Trong thời gian theo học ở Harvard, Amanda cũng tiếp tục là một ‘hiện tượng’. Học giỏi, viết văn hay, hoạt động xã hội tích cực là những đặc tính của cô gái trẻ.

Ở tuổi 19, Amanda đi du lịch ở Bangladesh. Ở đó, gặp chuyện bất bình, Amanda giúp truy tố một người đàn ông đã giết cháu gái mình vì đứa cháu bị hiếp. Cô sáng lập ra nhà để nuôi 500 trẻ mồ côi ở Kenya. Điều phi thường là tất cả những việc đó cô làm được trong lúc ở tuổi sinh viên!

Ngay sau khi tốt nghiệp năm 2013, Amanda được nhận vào làm ‘intern’ (thực tập sinh) tại trung tâm không gian NASA và đồng thời làm việc cho trung tâm vật lí thiên văn Harvard–Smithsonian Center for Astrophysics. Amanda có thời gian làm người liên lạc viên tại Toà Bạch Ốc cho Bộ Ngoại giao Mĩ. Thật ra, ngay từ lúc ở Harvard cô đã có ý tưởng nghiên cứu về vũ trụ và làm phi hành gia.

Nhưng giấc mơ phi hành gia bị gián đoạn sau một biến cố quan trọng trong đời xảy ra vào năm 2013. Năm đó, cô bị một tên sinh viên con nhà rất rất giàu hiếp trong kí túc xá ở Massachusetts. Lúc đó Amanda chưa truy tố kẻ tội phạm ra toà vì nghĩ rằng mình chưa đủ tài chánh và tài nguyên để ra toà mà có thể kéo dài nhiều năm.

Cảnh sát cho biết rằng luật pháp Massachusetts cho phép cô có thời gian 15 năm để truy tố kẻ tội phạm. Nhưng trong thời gian đó, nạn nhân phải cứ 6 tháng làm thủ tục để gia hạn bộ ‘rape kit’ (pháp y chứng). Sau 6 tháng mà không có gia hạn thì pháp y chứng sẽ bị huỷ bỏ (và nạn nhân khó truy tố kẻ tội phạm)!

Sau khi nói chuyện với nhiều nạn nhân khác, Amanda nhận ra sự vô lí của luật pháp và quyết định phải thay đổi bộ luật bất công đó.

Năm 2014, Amanda quyết định sáng lập hiệp hội RISE (Đứng Lên) để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của nạn nhân bị hiếp. Năm 2016, qua sự bảo trợ của Thượng nghị sĩ Jeanne Shaheen, Amanda đưa dự luật vào Quốc Hội Mĩ và được Hạ Viện cũng như Thượng Viện thông qua.

Tháng 10/2016 Tổng Thống Barack Obama chánh thức kí đạo luật Sexual Assault Survivors’ Rights Act, và đến nay, đạo luật này đã được thông qua ở 25 tiểu bang, yêu cầu chánh phủ phải minh bạch trong quá trình xét nghiệm nạn nhân bị hiếp.

Năm 2016 Amanda nghỉ việc ở Bộ Ngoại giao để dành toàn thời gian cho việc điều hành tổ chức RISE.

Amanda được trao rất nhiều giải thưởng danh giá ở Mĩ và trên thế giới. Trong danh sách giải thưởng có giải Heinz Award về chánh sách công, “Time 100 Next”, “Forbes 30 under 30”, và Nelson Mandela Changemarker Award. Năm 2019, cô được đề cử giải Nobel Hoà Bình.

Khi nghe tin được tuyển chọn làm phi hành gia bay vào vũ trụ, Amanda viết trên trang truyền thông xã hội rằng ‘Là những thuyền nhân tị nạn, gia đình tôi nhìn lên những vì sao để tìm đường đến tự do’ (‘As boat refugees, my family looked to the stars to guide their way to freedom’) và nói với má cô rằng ‘Mẹ băng qua đại dương để con có thể chạm vào bầu trời’ (‘You crossed the ocean so I can touch the sky.’)”

#CàPhêBuổiSáng #ĐiểmBáo


 

CHUYỆN ĐỜI Ở HÀNH LANG BỆNH VIỆN…- Tác giả : Trần Linh

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều 

Tác giả : Trần Linh

Khi mẹ nằm truyền, mình đi ra ngoài và hỏi thăm người đàn bà mà mình thấy đã ngồi đó rất lâu:

– Trễ rồi sao cô chưa về?

– Cô chưa có tiền đóng để mua dây, mua…vì mai tới ngày chạy thận.

– Cô đóng nhiêu ạ?

– 260 đồng. Sáng nay cô lấy 100 tờ vé số, bán được 50 tờ, còn 50 tờ nhờ bà kia bán mà chắc chưa hết nên chưa đưa tiền qua….

…Cô ở một mình, tối trải ghế bố ngủ ngoài kia, cả ngày đi bán vé số kiếm tiền trị bệnh.

– Để con đi đóng cho cô nha.

– Con giỡn chơi hà.

Mình vào phòng tìm y tá hỏi thăm. Bạn í ngạc nhiên:

– Ủa, cô Hường không có người thân mà. Chị quen gì với cô?

– Chị không quen, nhưng chị muốn đóng cho cô ấy. Một tháng cô hết bao nhiêu em hén?

– Dạ, một tháng 2,5 triệu. Chị đóng một tháng luôn hay mấy trăm ngàn thôi?

…..

Mình suy nghĩ, vì mình chỉ đưa mấy triệu để lo cho mẹ, nếu đóng cho cô mà lỡ Bs nói đóng thêm gì cho mẹ thì không đủ. Thế là, mình đi hỏi xem mẹ còn gì phải đóng tiền,  bạn nói không…Mà mình còn thẻ nữa.

– Em ơi, chị đóng luôn cho cô ấy 2 tháng. 5 triệu nha.

Bạn y tá ngạc nhiên nhìn mình, hỏi lại có đúng không. Mình gật đầu. Bạn cho tờ giấy đóng tiền, thế là mình vội chạy đi đóng ở dãy nhà khác – kịp để về chăm mẹ.

Ôi trời, mình không tưởng tượng được khi đưa biên lai cho cô ấy. Cổ đâu tin, đọc đi đọc lại tên mình xem có đúng không, rồi đọc số tiền…Là thiệt rồi, cổ thốt lên vậy…

…Rồi cổ khóc, khóc ngon ơ như có gì chất chứa trong lòng, nay được tuôn ra ngoài – người đàn bà bán vé số mang bệnh mà không có người thân – 2 tháng tới đây, chắc vơi đi khó nhọc nhiều lắm!

Rồi cũng trên dãy hành lang ấy, có cô kia đã níu tay mình:

– Cô ơi, đỡ tui dậy đi vệ sinh được không? Bị mệt và choáng nên tui không ngồi lên được.

– Cô không có ai đi cùng à?

– Con tui nó bận hết rồi, tui đi một mình.

Thế là mình đỡ cô dậy, dìu cô đi. Vào nhà vệ sinh, ngay cả quần cô cũng không kéo nổi. Mình lại loay hoay giúp cô, đứng đó cho cô nắm vào tay vì ngồi không vững.

Cô đi xong, mình chùi rửa sạch sẽ cho cô rồi dìu ra ngoài. Cô nói, sáng giờ chưa ăn gì, muốn đi mua mà không bước được.

Thế rồi mình lại chạy đi, mua 2 hộp sữa Ensure mang về cho cô 1 hộp, cô vé số 1 hộp. Mình nói, cô đưa số điện thoại con của cô, con gọi.

Cô đọc số, mình gọi và nghe giọng con trai.

– Em ơi, mẹ em yếu lắm, em vào lo cho mẹ.

Giọng bên kia gắt lên:

– Đã vào đó là có bác sĩ, y tá, không ai lo hay sao mà đưa số cho chị gọi.

– Ủa em, dù có ai đi nữa thì mẹ em cũng phải có người nhà chứ.

– Chiều tối xong việc mới vào được, chị chuyển máy cho mẹ tôi đi.

Mình muốn chửi ghê trời, nghe cái giọng điên hết cả người, nhưng rồi sợ cổ buồn, nên thôi.

– Tui có 2 đứa con, một trai, một gái. Trai có vợ rồi, còn gái thì chưa lập gia đình. Tụi nó bận lắm, muốn nhờ cũng khó.

…Rồi cô lại nói mình dìu nằm xuống ghế, đợi khỏe tí rồi tui ra phòng cấp cứu.

Lòng mình xót xa quá đỗi, chạy vội vào canh chừng mẹ:

– Cha mi, đi đâu nãy chừ để mẹ trông.

…Mình ỏn ẻn, nói con đi nhiều chuyện ở ngoài kia. Mẹ mệt, nhưng mẹ cười rất tươi…Mình nhìn mẹ – rồi lại nghĩ đến những người đàn bà nơi góc hành lang bệnh viện…

     Có vào viện mới hiểu lòng con cái …

Tác giả : Trần Linh


 

ĐỀ TÀI VỀ ĐÀ NẴNG CUỐI THÁNG 3,1975 – BS PHÙNG VĂN HẠNH

 BS PHÙNG VĂN HẠNH

Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975 được nhiều người viết. Tác giả bài viết dưới đây, Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh, một đàn anh thân thương và tài giỏi, từng hướng dẫn các SV Nội Trú năm thứ Sáu của ĐH YKH thực tập môn chỉnh hình tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Đà Nẵng. Bs. Phùng Văn Hạnh tốt nghiệp YK Saigon năm 1961, cùng năm với quý thầy Phùng Hữu Chí, Vũ Công Thưởng, Nguyễn Văn Tự, và với Bs. Vĩnh Toàn (anh đầu của Vĩnh Chánh).

Bs. Phùng Văn Hạnh bị CS bắt vào tù 12 năm vì chỉ trích chế độ CS. Sau khi được về nhà năm 1988, Bs. Hạnh vượt biên liền trong cùng năm, và được tàu Pháp của nhóm Médecins Sans Frontières (trên tàu có sẵn Bs. Lê Trang Châu đi cứu người vượt biển) vớt ngoài Biển Đông, định cư tại Montreal năm 1989. Tại cộng đồng này, Bs. Phùng Văn Hạnh là một khuôn mặt hoạt động tốt đẹp trong Văn Bút Hải Ngoại và trong các hội đoàn chống cộng. Dưới văn danh Khánh Giao, Bs, Phùng là tác giả của nhiều sách và thơ, như Tình Yêu Hiện Sinh, Một Kiếp Người, Một Hạt Đậu Hai người Khiêng, Quê Hương, Nhật Ký Một Bạn Tù…

Bs. Phùng Văn Hạnh từng hiện diện 2 lần tại Đại Hội YKH HN. BBT chọn đăng “Đà Nẵng Những Ngày Cuối Tháng 3 1975”, như một tưởng nhớ đến một người Thầy kính mến, một Đàn Anh tận tụy truyền dạy y khoa cho các thế hệ đàn em và một chiến sĩ chống Cộng nặng tình với quê hương. Bs. Phùng Văn Hạnh tạ thế tháng 11, năm 2021, tại Montreal.

                           ***

Đà Nẵng những ngày cuối tháng Ba 1975

 Sau khi thỏa hiệp Paris ký kết, Mỹ xuống thang chiến tranh. Dân sự bị thương cũng giảm. Các bác sĩ AMA giảm dần. Ban mê Thuột rồi Pleiku mất. Cao nguyên di tản. Quảng trị, Thừa thiên mất. Những ngày cuối tháng ba, 1975, Đà- nẵng đầy người chạy giặc. Cộng sản có biết tại sao mà lắm người sợ họ thế? Ông bác tôi đã từng nếm mùi trại giam cộng sản, đã đứng tim chết khi nghe cộng sản trở lại. Cha tôi cũng thế. Lính khắp nơi ùn về đầy đường. Tôi gặp một tiểu đội Địa phương quân. Họ vẫn còn kỷ luật lắm. Anh tiểu đội trưởng đi đầu, súng mang trên vai. Các đội viên đi hàng một, mũi súng chúc xuống đất. Chắc họ từ một đồn nhỏ ở ngoại ô vào thành phố. Mắt họ buồn và sợ sệt. Họ đi mất hút ở cuối đường. Có súng nổ lẻ tẻ. Xe tăng, súng ca-nông bỏ lại trên đường phố. Dân sự di tản từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi, ngủ trên lề đường

 Một thiếu phụ gia tài chỉ là đôi thúng gánh trên vai. Trong mỗi thúng là một em bé 2 đến 4 tuổi. Rất nhiều gia đình đã đi bộ vượt đèo Hải vân 20 km đường dốc núi. Bên Sơn Chà xe nhà binh nghẹt đường. Ngoài bờ biển, bến cảng mọi người ùn ra tìm ghe để có thể ra tàu lớn đậu ngoài khơi. Gia đình tôi lên phi trường. Lúc gần đến, gặp cả đoàn xe cộ của một ông tướng sư đoàn cũng chạy giặc, phải tránh ra bên đường, nhường cho họ qua. Ngay cổng phi trường, xe dân sự sắp hàng dài hai bên đường. Chỉ đi bộ vào cổng. Một ký giả ngoại quốc chận tôi lại phỏng vấn. Tôi đã nói gì, bây giờ chẳng nhớ. Song một người bạn ở Thụy sĩ lúc đó có thấy tôi xuất hiện trên truyền hình. Máy bay hàng không dân sự đã ngừng bay. Một nhóm người thiện chí đứng ra liên lạc với Saigon. Họ tổ chức ra máy bay trong trật tự. Có hai chuyến cất cánh suông sẻ. Song Việt cộng bắt đầu pháo kích vào phi trường. Mọi người tìm chỗ núp, rồi ùn ùn rời phi trường vì Saigon cho biết là máy bay không ra nữa. 

Chúng tôi đi bộ về nhà. Nửa đường gặp xe của một nha sĩ bạn. Anh ta chở gia đình tôi về đến nhà. Súng lính vất lại, nghẹt cả đường cống sâu trước nhà. Vào nhà, vợ tôi chia cho mỗi đứa con một xách áo quần và một ít tiền. Tất cả quì xuống trước bàn thờ Chúa. Nhà tôi dặn: “đang loạn lạc như thế nầy, chúng ta có thể bị ly tán. Nếu may ra các con đi chung với nhau, nhớ đứa lớn che chở đứa bé. Anh em nhớ yêu thương nhau”. Thấy cảnh đau lòng, tôi rời nhà lên bệnh viện, định phi tang những bài viết chống cộng mà tôi bỏ lại ở văn phòng, trong ấy có một bài đả kích Hồ chí Minh. Vào hành lang, thấy người ta nằm la liệt. Kẻ thủng bụng, ruột lòng thòng. Người bể đầu, gãy tay chân, băng quấn sơ sài, đẫm máu. Một bạn giáo sư trung học, ôm chầm lấy năn nỉ:

“vợ tôi bị bắn thủng ruột đã 6 giờ rồi, chưa được ai chăm sóc”. Lúc ấy nhà thương không còn một bác sĩ nào cả. Tôi ghé văn phòng làm việc trống trơn, huỷ diệt bức thư điều trần, đưa kế sách cứu miền Nam, và những bài báo chống Cộng do tôi viết. Tôi xé nhỏ, bỏ vào nhà cầu và dội nước. Xong tôi vào khu giải phẫu. May sao nhân viên còn tại chỗ một nửa. Tôi cho mang vợ người bạn vào mổ. Sau đó các ca khác lại tuần tự mang vào. Chiều hôm đó BS Phạm văn Lương vào phòng mổ thăm tôi. Tôi hỏi sao không lo trên BV Duy Tân mà xuống đây. Ông y tá trưởng nói nhỏ vào tai tôi là BS Lương nay làm thị trưởng, đi thị sát BV toàn khoa đó. Sau nầy tôi mới biết là BS Lương được tỉnh hội Phật Giáo đưa lên làm thị trưởng Đà-Nẵng trong những ngày cuối tháng ba, 1975(đài BBC có loan tin).

Một mình mổ đến chiều hôm sau thì ông y tá trưởng gõ cửa phòng mổ và nói: “có ông sĩ quan cách mạng nói bác sĩ hãy ngừng mổ cho dân sự, và mổ cho các chiến sĩ cách mạng bị thương”. Hỡi ôi, thế là cộng sản đã vào thành phố! Tôi nói với ông y tá trưởng là cứ ca nào nặng thì đem vào trước, không phân biệt dân sự, cách mạng. Đó là va chạm đầu tiên mà sau này tôi bị kiểm điểm là có lập trường nhân đạo chung chung, không có quan điểm cách mạng. Chừng 10 ngày sau, thì các bác sĩ cách mạng ở trên núi xuống tiếp thu bệnh viện. Lúc đó các ca cấp cứu đã giải quyết xong. Cả khu giải phẩu nhận giấy khen của Ủy ban quân quản Đà-nẵng là đã có công trong sự ổn định y tế thành phố.

Các bác sĩ bị kẹt lại dần dà đến nhận việc và được gọi là lưu dung. Xưa kia đi làm hơi tùy tiện vì đôi khi phòng mạch tư nhiều khách. Nay ai đến cũng đúng giờ. Bắt đầu là giao ban, toàn thể bác sĩ họp lại với bác sĩ giám đốc để trình bày phiên trực ngày hôm trước, nghe chỉ thị mới và phê bình những thiếu sót nếu có. Cách làm việc nặng phần trình diễn, phí phạm thì giờ. Sau giao ban, đi khám bệnh phòng rồi đi mổ những ca lên chương trình từ cuối tuần trước. Có điều đặc biệt là bác sĩ cách mạng chuồn đâu mất lúc 10 giờ sáng. Tìm không ra. Sau này hỏi ra mới biết đó là thói quen đã có tự ngoài Bắc. Vì sáng không ăn, hoặc ăn ít nên 10 giờ đói, phải tìm chỗ kín nằm nghĩ. Có một bác sĩ thuốc mê đã được đào luyện ở Tiệp khắc, được nhân viên phòng mổ cho ăn xoài. Anh ta trầm trồ khen ngon hết lời vì chưa bao giờ nếm thử trái cây ngon như thế. Một anh khác kể là ngày Tết được chia bồi dưỡng một gói tiêu nhỏ. Về nhà rủi làm đổ. Phải thắp đèn lên kiếm từng hạt. Họ nói ở ngoài Bắc nghe tuyên truyền là trong Nam cực khổ lắm. Bây giờ mới tỉnh ngộ. Vào Saigon chơi về, họ khoe là như ra ngoại quốc. Nói là phồn vinh giả tạo, song toàn là đồ thiệt đẹp và tốt.

Những ngày đầu tháng tư, 1975, các bác sĩ VC trên núi về, tiếp thu TTYTDK Đà-Nẵng và Bệnh viện Đức. Họ chỉ lo về hành chánh, chứ chuyên môn thì đợi các bác sĩ Hà-Nội vào. Về giải phẫu thì họ chỉ đứng xem Vài người tỏ ra hiếu học, vào phụ mổ với các bác sĩ lưu dung. Tôi nhớ có Bác sĩ cấp bực Đại úy, vào phụ tôi để tái tạo một ống chân vỡ nát vì mìn. (Hắn ta là bác sĩ riêng cho thầy cũ Tám Trinh, nay đổi tên Nguyễn xuân Hữu, Phó bí thư đảng bộ Liên khu V. Phải mất ba giờ và nhiều cố gắng mới giữ được cái chân. Cuối ca mổ, đáng lý nói: ca này khó ác liệt, tôi tự nhiên buông câu nói theo thói quen: ca này khó ác ôn côn đồ Việt Cộng. Anh ta nhìn tôi không nói gì. Các y tá quanh tôi đều sửng sốt. Không biết anh ta có báo cáo gì không. Song sau này không thấy ai nhắc đến chuyện đó.

Trong suốt hơn một năm làm việc với CS, tháng ngày cũng qua nhanh, vì rất bận rộn. Những ngày đầu, mổ liên miên để giải quyết xong nhiều ca cấp cứu, Những tháng kế tiếp là mổ cho dân quê trở về làng khai khẩn nhưng đồng ruộng bỏ hoang trong chiến tranh, vướng phải mìn hay đạn ca- nông chôn dưới đất. Giải phẫu tái tạo tiếp theo cho những tật nguyền do vết thương chiến tranh gây ra. Ngoài ra nào giao ban, nào học chính trị mỗ tuần vài lần. Làm việc trong không khí u uất, vì nghe lắm lời phi lý, ngu xuẩn của bọn cán bộ, lắm chế độ hà khắc, kiểm soát tư tưởng, việc làm, những tranh cải lý thuyết v.v..

Bất hạnh thường không đến một mình. Đã buồn bực vì phải kẹt ở lại với CS, lại càng buồn thêm vì sự ra đi của người cha thân yêu. Ngày tôi chở vợ con lên phi trường để di tản, tôi đã năn nỉ cha mẹ tôi cùng đi, nhưng cha tôi một mực từ chối vì ông đã bị bại hai chân từ ba năm nay, hậu chứng xuất huyết não, và phải di chuyển trên xe lăn. Ông không muốn là gánh nặng cho tôi. Mẹ tôi thì chỉ chịu đi khi cha tôi cùng đi, vì bà phải săn sóc cha tôi tật nguyền. Khi chúng tôi không di tản được, từ phi trường trở về, hai ông bà đã khóc sướt, và lo cho tương lai chúng tôi. Hai ngày sau cha tôi chết êm thắm. Ông đã bị đứng tim trong giấc ngủ. Buổi sáng mẹ tôi mang sửa lại cho ông uống, thì thấy ông nằm bất động, tay chân lạnh ngắt. Cũng như bác tôi, cha tôi vì sợ quá, tim già đã ngưng đập khi nghĩ đến những hình phạt khủng khiếp trong tù CS. Mặc dù mới trải qua một cuộc đổi đời chưa hết bàng hoàng, tôi vẫn tổ chức ma tang thật chu đáo, với rất nhiều bà con thân thuộc theo linh cữu ra nghĩa địa. Tôi phải mướn nhiều xe ca, trong khó khăn hiện tại. Cha ơi, xin yên nghỉ bằng an trong nước Chúa.

Lúc say sưa làm việc những năm chiến tranh, theo lời khuyên của một bác sĩ Mỹ, tôi gom góp hồ sơ các ca chữa thương với đầy đủ phim, ảnh, ghi chú theo dõi. Ông cho tôi một máy ảnh, và tôi thuê một thợ chụp ảnh phụ tá cho tôi chụp hình bệnh nhân trước và sau khi mổ, diễn tiến bệnh khi nằm tại nhà thương và tái khám. Hồ sơ được lưu trữ trong một căn phòng lớn của bệnh viện. Tôi định khi nào rảnh rổi sẽ viết bài, dựa trên nhận xét lâm sàng để rút ra những kết luận hữu ích. Hai tháng sau khi cộng sản vào, thấy rảnh, tôi xuống phòng lưu trữ hồ sơ thì thấy các hộc trống trơn. Hỏi ra mới biết là tổ nhà bếp trên núi xuống nấu cơm cho bệnh nhân, vì thiếu củi đun, nên lấy hồ sơ nhóm lửa. Bao nhiêu tâm huyết đổ sông. Xưa kia nhà thầu cung cấp cơm nước cho bệnh nhân. Họ đâu có nấu nướng trong bệnh viện.

Tôi có nhiều giấc mơ đơn giản. Song đều thất bại. Lúc còn hoạt động trong đoàn Sinh viên công giáo, có đọc thuyết “Kinh tế và nhân bản” ( economie et humanisme) của cha Lebret, có dự định cùng các bạn đồng chí hướng lập những đoàn thiện chí gồm nhiều chuyên viên về thôn quê chia sẻ đời sống của nông dân. Bác sĩ lo chữa bệnh, truyền bá vệ sinh. Kỹ sư nông nghiệp, cơ khí, chăn nuôi, tìm cách nâng cao sản xuất. Tổ chức hợp tác xã, tiếp xúc với công ty ngoại quốc, tìm thị trường, vốn đầu tư..mong cho dân giàu, nước mạnh. Song khi ra trường, thì chiến tranh tràn lan, thôn quê không còn an ninh. 

Cuối năm 1974, thấy tình hình miền Nam sắp có nguy cơ rơi vào tay Việt cộng, mà trí thức thì chơi mạt chược và trùm chăn quá nhiều, định đi khắp các tỉnh, diễn thuyết, kết hợp những người thiện chí, cố nổ lực tối đa để trong sạch hoá bộ máy chính quyền, tất cả mọi người có thể cầm súng được phải chia phiên nhau ra trận. Không có nạn con ông cháu cha. Trí thức phải xuống xã ấp, phá vòng vây nông thôn bao vây thành thị. Chính phủ tuyên bố tình trạng quốc gia lâm nguy, đóng cửa Trung học và Đại học. Đưa người qua Mỹ diễn thuyết hầu giành hậu thuẫn dân Mỹ. Nếu cần cầu viện Tây âu. Sắp xếp các ý tưởng, trình bày trong một bức thư điều trần gửi quốc hội và tổng thống với đề tài “Tổ Quốc lâm nguy, đề nghị biện pháp giải cứu”. Giáng sinh 1974, tôi vào Sài-gòn, đưa thư điều trần cho bạn bè xem, song không ai hưởng ứng, vì họ đoan chắc với tôi là Mỹ sẽ không bỏ miền Nam. Sau đó tình hình Miền Nam suy sụp quá nhanh. Tuy thế lúc Việt cộng vào, đã có người muốn lập công, đưa cho chúng tài liệu, nên bị hạch hỏi. Phải làm kiểm điểm vài lần, nhận có nêu lên vấn đề, song chưa phổ biến sâu rộng. Cuối cùng muốn viết vài bài về chuyên môn mình cũng không được, vì tài liệu đã bị đốt cháy ra tro.

Khi sang Canada, đi Mỹ chơi gặp một đồng nghiệp cũ ở Bệnh viện Đà-nẵng, nay hành nghề ở Westminster, Cali. Anh ta nói với tôi: “người chống cộng có hệ thống như anh, thì lại kẹt ở lại. Còn lè phè như chúng tôi, thì lại thoát. Oái ăm thiệt!”

Kể ra cũng tại số mình long đong, chạy trời không khỏi nắng. Tôi đã bỏ lỡ nhiều dịp may: năm 1973, cộng đồng người Hoa ở Đà-Nẵng muốn có một nhà thương riêng cho họ, nên dạm hỏi tôi có muốn bán dưỡng đường của tôi với giá 20 triệu. Vì đang làm ăn phát đạt tôi từ chối. Nếu tôi chịu bán, tôi sẽ trích ra độ một triệu, mua thông hành cho cả gia đình, lấy cớ đi Mỹ học rồi ở lại luôn. Một bác sĩ bạn tôi đã ra đi như thế.

Cuối 1974, nhân có người cháu, Đại uý lái phi cơ trực thăng, đóng ở Cần thơ, chuyển về không đoàn I. Anh ta nhờ tôi xin về xưởng sửa chữa trực thăng, vì thấy đi bay, có nhiều hiểm nguy. Nhờ quen biết tôi đã thoả mãn cho anh ta. Nhận thấy miền Nam sắp mất, tôi bảo anh ta sửa chữa thật tốt một trực thăng, đổ đầy nhiên liệu, sẵn sàng chở gia đình anh ta với gia đình tôi đi Sài gòn hoặc Thái Lan, khi Đà- Nẵng có nguy cơ mất. Hôm 27-03-75, vì quen biết với gia đình Giám đốc Hàng không Việt Nam Đà-Nẵng, chúng tôi được họ mời chia xẻ một chuyến bay chót đặc biệt dành riêng cho gia đình họ. Trong khi chờ đợi máy bay từ Sài-gòn ra, tôi đến thăm người cháu gần đó, để xin ít nước uống cho các con tôi, vì đêm qua ra đi vội vã quên mang nước theo. Vào nhà tôi thấy gia đình nó chuẩn bị lên trực thăng mà tôi đã dặn để dành cho việc tẩu thoát, nếu Đà-Nẵng mất. Nó nói: “con có điện thoại lại nhà dượng, kêu dượng lên đi, nhưng không ai trả lời. Thế bây giờ dượng đi với chúng con?”. Tôi từ chối vì cho rằng đi máy bay tiện lợi hơn là trực thăng. Tôi trở lại với gia đình và ra sân bay, vì máy bay đã đáp xuống ở một chỗ hẹn trước. Nhưng chuyến bay ấy bị quân nhân phi trường tước đoạt. Cảnh súng bắn đì đoàng, người đạp lên người, chen lấn lên máy bay, làm cả hai gia đình chúng tôi đứng xa mà ngó. Cuối cùng máy bay cất cánh có cả người đeo tòn teng vào bánh xe, rụng rơi dần. Cùng lúc ấy, đạn pháo Việt cộng nổ gần phi đạo chúng tôi hoảng hốt dắt díu nhau chạy. Sau này gặp lại ở Mỹ, nó tiếc hùi hụi là hôm đó trực thăng nó trực chỉ Sài-gòn mà không có gia đình ông dượng ân nhân, có sáng kiến hay.

Cơ hội chót là ngày 29-03-75 vẫn còn một bác sĩ Mỹ, môn đồ Quaker, sang Đà-Nẵng làm từ lâu, với tư cách cá nhân, và anh ta không chịu di tản, chỉ ưng ở lại làm việc truyền đạo, chia ngọt bùi với bệnh nhân khu bài lao. Máy bay từ hạm đội Mỹ không ngại hiểm nguy đáp xuống trên nóc bệnh viện Việt Đức. Hai lính Mỹ vào mời bác sĩ ấy ra đi, nhưng anh ta một mực từ chối. Khi thấy tôi đi ngang qua, anh ta kéo tôi vào và năn nỉ tôi đi theo trực thăng ra tàu hạm đội Mỹ. Nhưng lúc ấy gia đình tôi không có mặt ở đó và tôi không muốn ra đi một mình, nên cũng từ chối. Nếu ngày ấy tôi ra đi. Sang Mỹ trở lại nghề và phát đạt, sẽ có phương tiện bảo lãnh cho gia đình qua sau, chậm lắm là vài năm sau và thoát đi tù cải tạo 12 năm. Nhưng đó chỉ là nếu, thực tế thì bi thảm vô kể.

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh


 

Chính quyền Trump cắt $2 tỷ tài trợ đại học Harvard vì bất tuân các yêu cầu

Ba’o Nguoi-Viet

April 15, 2025

CAMBRIDGE, Massachusetts (NV) – Tối Thứ Hai, 14 Tháng Tư, chính quyền liên bang loan báo quyết định đóng băng hơn $2 tỷ ngân sách tài trợ cho đại học Harvard University sau khi nhà trường tuyên bố không chấp nhận các yêu cầu do chính quyền Tổng Thống Donald Trump đưa ra, kể cả việc kiểm tra quan điểm của sinh viên, NBC đưa tin.

Lực Lượng Đặc Nhiệm Hỗn Hợp Chống Chủ Nghĩa Bài Do Thái thuộc chính quyền Trump công bố các quyết định cắt ngân sách trong một tuyên bố nêu rõ “các trường đại học danh giá nhất Hoa Kỳ đang có những suy nghĩ quyền hành độc lập đáng lo ngại.”

Trường đại học thuộc khối Ivy League sẽ bị chính quyền Trump cắt nguồn tài trợ $2.2 tỷ cũng như “hợp đồng trị giá $60 triệu kéo dài nhiều năm.”

Bức tượng John Harvard trong sân trường đại học Harvard University ngày 17 Tháng Ba, 2025 ở Cambridge, Massachusetts. (Hình: Scott Eisen/Getty Images)

Cũng trong Thứ Hai, Harvard University bác bỏ các yêu cầu do chính quyền Trump đưa ra.

“Harvard University sẽ không từ bỏ quyền độc lập hoặc các quyền hiến định,” nhà trường cho biết trong một tuyên bố trên X hôm Thứ Hai. “Harvard, cũng như các trường đại học tư thục, sẽ không để chính quyền liên bang thao túng.”

Tòa Bạch Ốc gửi cho các viên chức nhà trường một “danh sách gồm có các yêu cầu đã cập nhật và mở rộng,” cảnh cáo nhà trường phải tuân thủ nếu muốn “chính quyền liên bang tiếp tục tài trợ,” Viện Trưởng Alan M. Garber cho biết trong một bức điện thư gửi cho cộng đồng Harvard.

Chính quyền Trump đề ra 10 yêu cầu nhằm giải quyết tình trạng bài Do Thái trong nhà trường, trong đó không cho sinh viên quốc tế nhập học nếu có tư tưởng “thù địch với các giá trị và thể chế tại Hoa Kỳ.” Chính quyền cũng muốn một đơn vị thứ ba thanh tra các chương trình liên quan tới “vấn nạn bài Do Thái hoặc thể hiện hành động thao túng ý thức hệ.”

Chính quyền cũng yêu cầu lập tức dẹp bỏ tất cả các chương trình và sáng kiến dính dáng tới đa dạng, công bằng và hòa nhập DEI, kể cả trong chính sách tuyển mộ và chiêu sinh. Chính quyền còn yêu cầu Harvard thực hiện các chính sách “dựa trên năng lực” nhằm thế chỗ DEI.

Garber cho biết đây là các yêu cầu “chưa từng xảy ra,” đồng thời lên án dã tâm “kiểm soát cộng đồng Harvard” bằng cách dò xét quan điểm của sinh viên, giáo sư và viên chức.

Trong một bức thư gửi cho chính quyền Trump, các luật sư cho biết Harvard University “cam kết chống lại chủ nghĩa bài Do Thái và các hành động cố chấp trong cộng đồng nhà trường” nhưng cũng nói rằng các yêu cầu do chính quyền đưa ra “là hành vi xâm phạm quyền tự do của trường đại học vốn được Tối Cao Pháp Viện công nhận từ lâu.”

Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc Harrison Fields công kích Harvard trong một tuyên bố và không có dấu hiệu cho thấy chính quyền sẽ nhân nhượng.

“Tổng Thống Trump đang nỗ lực Gầy Dựng Giáo Dục Đại Học Vĩ Đại Trở Lại bằng cách chấm dứt tình trạng bài Do Thái tràn lan và bảo đảm tiền thuế của người đóng thuế liên bang không góp phần tiếp tay cho nạn kỳ thị chủng tộc nguy hiểm hoặc bạo lực dính dáng tới kỳ thị chủng tộc tại Harvard,” Fields cho biết.

Chính quyền Trump cũng đưa ra những yêu cầu tương tự dành cho các trường đại học khác theo kế hoạch chống vấn nạn bài Do Thái cũng như các lối suy nghĩ mà chính quyền không đồng tình.

Tháng Ba vừa qua, đại học Columbia University đồng thuận với một danh sách có chín yêu cầu từ chính quyền Trump, gồm có lệnh cấm sinh viên đeo khẩu trang tại các cuộc biểu tình, tuyển mộ 36 viên chức an ninh mới cho nhà trường có năng lực bắt giữ sinh viên và bổ nhiệm một viên chức cao cấp đứng đầu lãnh vực học thuật (provost) mới nhằm giám sát khoa Nghiên Cứu Trung Đông, Nam Á và Phi Châu.

Chính quyền Trump còn cắt $400 triệu nguồn tài trợ liên bang dành cho nhà trường, cáo buộc Columbia University “dửng dưng trước tình trạng quấy rối dai dẳng nhắm vào sinh viên Do Thái.” (TTHN)


 

TỐI NAY: NGƯỜI PHỤ NỮ MỸ GỐC VIỆT ĐẦU TIÊN BAY VÀO VŨ TRỤ

BBC News Tiếng Việt 

Amanda Nguyễn, người phụ nữ Mỹ gốc Việt đầu tiên bay vào vũ trụ, sẽ chính thức bắt đầu hành trình vào lúc 8 giờ 30 tối nay 14/4 theo giờ Việt Nam gian trên tên lửa du lịch vũ trụ của tỷ phú Jeff Bezos.

Bà Amanda Nguyễn, 33 tuổi, là con của hai người tị nạn Chiến tranh Việt Nam.

Bà là một nhà khoa học nghiên cứu về du hành vũ trụ sinh học, từng tốt nghiệp Đại học Harvard và từng nghiên cứu tại Trung tâm Vật lý thiên văn Harvard, Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), NASA và Viện Khoa học Du hành Vũ trụ Quốc tế (IIAS).

Ngoài bà Amanda Nguyễn, phi hành đoàn có thêm 5 người phụ nữ khác tham gia sứ mệnh NS-31 – dự án bay lên rìa vũ trụ thứ 11 của đơn vị bằng tên lửa New Shepard.

Họ là cựu nhà khoa học tên lửa NASA – Aisha Bowe, nhà sản xuất phim Kerianne Flynn, nhà báo nổi tiếng Gayle King, ca sĩ Katy Perry và Lauren Sánchez – vị hôn thê của tỷ phú Jeff Bezos.

NEW YORK, NEW YORK – SEPTEMBER 11: Amanda Nguyen speaks at Forbes Power Women’s Summit 2024 on September 11, 2024 in New York City. (Photo by Steven Ferdman/Getty Images)

Getty Images/BBC

#BBCNewsTiengViet #AmandaNguyen #hangkhongvutru #nguoiMygocViet


 

Mỹ hủy hơn 300 visa du học sinh vì “đi ngược lợi ích quốc gia”, gây lo ngại trong cộng đồng quốc tế

Ba’o Dat Viet

April 11, 2025

WASHINGTON – Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã thu hồi hơn 300 thị thực (visa) của du học sinh quốc tế tại Mỹ trong năm nay, với lý do những người này có hành vi hoặc tư tưởng bị cho là “đi ngược lại lợi ích quốc gia”, theo thông tin từ Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio và Đài CNN.

Đây là một phần trong chiến dịch siết chặt kiểm soát nhập cư và an ninh nội địa, trong đó chính quyền Mỹ nhắm đến các cá nhân bị cho là liên quan đến các hoạt động biểu tình, đặc biệt là phong trào ủng hộ Palestine hoặc có hành vi gây rối như chạy xe quá tốc độ, say rượu khi lái xe, hoặc thể hiện quan điểm chính trị nhạy cảm.

Ông Rubio cho biết, phần lớn các trường hợp bị thu hồi visa có liên quan đến làn sóng biểu tình ủng hộ người Palestine tại Dải Gaza và các hành động “cực đoan” khác. “Mỗi khi phát hiện hành vi điên rồ, chúng tôi sẽ hành động”, ông nói thêm.

Theo dữ liệu từ Inside Higher Ed, số du học sinh bị ảnh hưởng đến từ hơn 80 trường đại học lớn trên khắp nước Mỹ, bao gồm Đại học Oregon, Florida, Colorado, Columbia, Yale, Harvard và Stanford.

Tác động lan rộng và phản ứng lo ngại

Nhiều video trên mạng xã hội cho thấy các vụ cưỡng chế trục xuất du học sinh ngay tại khuôn viên các trường đại học. Các luật sư đại diện cho sinh viên quốc tế cho biết thị thực bị thu hồi đột ngột, không có cảnh báo trước và người bị ảnh hưởng không có quyền kháng cáo.

Một số vụ việc đã thu hút sự chú ý lớn của truyền thông Mỹ. Trong đó có Mahmoud Khalil, cựu sinh viên Đại học Columbia và là thường trú nhân hợp pháp, bị bắt ngay tại trường. Hay trường hợp của Xiaotian Liu, nghiên cứu sinh người Trung Quốc tại Đại học Dartmouth, bị hủy visa dù “không tham gia biểu tình, không phạm pháp và không được thông báo lý do”.

Một trường hợp khác là Tiến sĩ Rasha Alawieh – chuyên gia ghép thận tại Đại học Brown – bị trục xuất ngay tại sân bay Boston sau khi nhân viên xuất nhập cảnh phát hiện hình ảnh và video có nội dung liên quan đến tổ chức Hezbollah trong điện thoại cá nhân.

Ngay cả những hành vi nhỏ như mang theo mẫu vật không khai báo cũng bị xử lý nghiêm. Cô Kseniia Petrova, công dân Nga, bị hủy visa sau khi mang theo phôi ếch từ Pháp đến Mỹ, mà theo Bộ An ninh nội địa là “âm mưu buôn lậu”.

Theo các chuyên gia, tuy visa du học mang tính tạm thời, người sở hữu vẫn có quyền tự do ngôn luận như công dân Mỹ. Tuy nhiên, chính sách hiện hành khiến nhóm đối tượng này trở nên dễ bị tổn thương nhất trước các biện pháp trục xuất.

Tác động lên môi trường giáo dục

Hiện có khoảng 1,1 triệu du học sinh quốc tế đang học tập tại Mỹ. Việc siết chặt kiểm soát và gia tăng số vụ hủy thị thực đang khiến nhiều sinh viên lo lắng, ảnh hưởng đến môi trường giáo dục và mối quan hệ quốc tế của các trường đại học.

Trước tình hình này, các trường buộc phải cam kết hợp tác toàn diện với Bộ An ninh nội địa để giám sát sinh viên quốc tế, theo CNN.

Giới phân tích cảnh báo rằng nếu tình trạng này kéo dài, Mỹ có nguy cơ mất đi nguồn lực trí thức toàn cầu và ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị thế hàng đầu của hệ thống giáo dục đại học Mỹ trên trường quốc tế.


 

Chuyện xứ Mỹ … đến cái ngày 30 tháng 4 của xứ mình

Những câu chuyện Nhân Văn –  Tu Le 

Ai đã đọc “CUỐN THEO CHIỀU GIÓ” của bà Margaret Mitchell hẳn sẽ biết cuộc Nội Chiến của Mỹ đã diễn ra khốc liệt thể nào, khi nó kết thúc vào mùa xuân năm 1865 thì đã có hơn sáu trăm ngàn chiến sĩ của cả hai phe không thể trở về gặp mặt bạn bè lẫn người thân.

Những năm sau cuộc chiến, cứ đến độ hoa nở rộ trong vườn thì người Mỹ ở khắp nơi lại mang hoa ra cắm và cầu nguyện nơi mộ chí của những người lính đã ngã xuống trong cuộc chiến này bất kể là lính Nam hay lính Bắc. Người dân thành phố Waterloo của tiểu bang New York vào ngày 5 tháng 5 năm 1866 đã đóng cửa các tiệm bán buôn trong thành phố để mọi người có thể mang hoa và cờ đến cắm lên các ngôi mộ của những người lính tử trận, sự kiện này sau đó được tổ chức hàng năm ở nơi đây.

Ngày 5 tháng 5 năm 1868, Tướng John A. Logan, người đứng đầu một tổ chức cựu chiến binh miền Bắc đã kêu gọi một ngày tưởng nhớ trên toàn quốc để mọi người có thể mang hoa và cờ đi trang điểm những ngôi mộ chiến sĩ, ông chọn ngày 30 tháng 5 và gọi nó là “Ngày làm đẹp các ngôi mộ để tưởng nhớ và ghi ơn” (Decoration Day).

Trong Ngày Decoration Day được tổ chức lần đầu tiên ở nghĩa trang quốc gia Arlington, hơn 5 ngàn người gồm những goá phụ, cựu chiến binh cùng bạn bè lẫn người thân đã đến để đặt hoa và các dải ruy băng lên 20 ngàn ngôi mộ của những người chiến sĩ của cả hai phe.

Sau Thế Chiến thứ I thì ngày 30 tháng 5 dần được biết đến với cái tên Memorial Day (Ngày Tưởng Niệm) và là dịp để người Mỹ tưởng nhớ đến tất cả các chiến sĩ đã ngã xuống trong các cuộc chiến chứ không riêng gì cuộc Nội Chiến. Năm 1968 Quốc Hội thông qua đạo luật Uniform Monday Holiday Act, đạo luật này quy định lấy ngày thứ hai làm ngày nghỉ mỗi khi có dịp lễ lộc với mục đích giúp dân chúng được nghỉ liên tục 3 ngày cuối tuần đặng ăn chơi cho nó đã. Kể từ đó thì Ngày Tưởng Niệm (Memorial Day) hàng năm ở Mỹ sẽ rơi vào ngày thứ hai cuối cùng của tháng năm.

Kể sơ sơ chuyện xứ Mỹ để nói đến cái ngày 30 tháng 4 của xứ mình. Nếu tôi mà là ông tổng Trọng thì tôi sẽ gọi tên cái ngày cuối cùng của tháng tư này là ” Ngày Tiếc Thương”. Tôi sẽ khuyến khích người dân cả nước trong ngày đó đi đến tất cả các nghĩa trang lớn nhỏ mà cắm những bông hoa lên trên mộ của bất cứ ai đã bỏ mình vì những cuộc chiến tương tàn trên xứ Việt mà chẳng cần phân biệt phe nào.

Nếu tôi mà là ông tổng Trọng, tôi sẽ cách chức bất cứ quan chức nào cho phép đốt pháo hoa hay treo cờ phướng loè loẹt khắp phố phường vào cái ngày này, tôi sẽ cho người vả vào miệng bất cứ quan chức nào vẫn còn bô bô những từ “Giải Phóng, Chiến Thắng, Bản Anh Hùng Ca, Vô địch với Vĩ Đại”.

Bởi cho dù đối với người dưng kẻ lạ thì cũng chẳng có một sự phỉ báng nào vô liêm sĩ cho bằng chính vào cái ngày mà người ta tiếc thương cho thân bằng quyến thuộc đã ngã xuống của người ta còn mình lại cứ bắn pháo hoa ăn mừng, cứ lên gân hò hét lải nhải những từ ngữ mất dạy như thể cố  khoét cho sâu thêm nỗi đau của những người có thân nhân chết trận, cũng như khoét cho sâu thêm những mối thù mà bất cứ một chính quyền tử tế nào cũng phải quan tâm xoa dịu.

Kiểu cách đó đối với người dưng kẻ lạ đã là hạ tiện, huống hồ gì giữa người mình mang ra để đối với người mình.

Fb Thuc Tran


 

 Chuyện đau như đùa XHCN:  THÀ CHẾT Ở TỈNH CÒN HƠN LÀ VÔ BV CHỢ RẪY…”

Văn Hóa Việt

Em rễ tui bị K dạ dày di căn, hóa trị ở BVCR đã 8 lần, mỗi lần đi lại đều vô cùng cưc khổ. Ấy là nghe nó nói chứ tui không hình dung được. Cho đến lần tái khám này đi cùng với nó, tui mới biết thế nào là ” lễ độ” với cái sự quá tải và cung cách phục vụ của BV CR

Thôi thì ghi chép lại đây như một nỗi ám ảnh nhớ đời

TẬP 1:

17-3 đi xe KonTum – SG

18.3: xếp hàng từ 5h sáng ở khoa điều trị ( không phải nhập mới). 8h30 đến lượt thăm khám. Xếp hàng chờ lấy máu xét nghiệm. Rồi xếp hàng chờ city. 11h phòng city cho giấy hẹn phải 10 ngày nữa, tức 28-3 mới chụp city được

Cảnh tượng chưa từng thấy ở Bệnh viện Chợ Rẫy – CVD

Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Tri Thức, Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy cho hay bệnh viện thường xuyên trong trạng thái thiếu trang thiết bị y tế, thiết bị hư hỏng không sửa chữa được. 

Không lẽ về, tìm hiểu thì BVCR có chụp city dịch vụ trong ngày. Giá 3.2 triệu, bấm bụng đăng ký, 16h chiều chụp luôn. Một ngày nhịn đói.

Ngày 19-3: tiếp tục xếp hàng để nội soi đại tràng. Đến gần trưa tới lượt, BS cho một toa 3 đơn vị thuốc dặn mua rồi chia ra uống, chiều hôm sau mới nội soi được. Ngày thứ 2 lại nhịn ăn, chỉ uống sữa.

Ngày 20-3: chiều xếp hàng nội soi. 16h xong, có 1 mẫu u sinh thiết phải 10 ngày sau, tức 28.3 mới trả kết quả.

Thế là xong cái nhịn ăn 3 ngày,  ăn tạm ít cháo chống đói rồi về ( hết tập 1)

TẬP 2:

Đi khám bệnh lúc nửa đêm- Ảnh 1.

Thân nhân, người chờ khám chữa bệnh nằm vạ vật qua đêm ở Bệnh viện Chợ Rẫy – Ảnh: AN VI báo Tuổi Trẻ.

27-3 đi máy bay GL -SG vì thằng em bụng sưng to và yếu quá không đi xe nỗi

28.3 lại xếp hàng ở khoa điều trị từ 5h sáng, số thứ tự 41. Không nghe gọi số, chỉ gọi tên Chờ đến 9h phát hiện sao người ta số 8 mấy, 9 mấy vào cả mà mình thì chưa, tui đục thẳng vào phòng khám hỏi. Cô điều dưỡng khó chịu nhưng tui thắc mắc mắc hợp lý nên cũng  lục hồ sơ rồi bảo riêng ca này phải 10h- 10h30 bác sỹ mới khám được. Đến hẹn vào, cô điều dưỡng lại hẹn chiều 2h, vì chưa có kết quả sinh thiết. Tui bực quá bảo: vậy chứ xếp hàng bốc số để làm gì mà đến số không thông báo bệnh nhân biết, cứ để nhịn đói chờ đợi là sao? Cô ấy xin lỗi do quá đông, quá tải nên sơ xuất?!

Chiều 14h quay lại, kết quả sinh thiết u lành, tóm lại là k di căn nhưng chưa đến đại tràng. Và vì bụng sưng to đầy dịch, đau nên BS cho chuyển sang khoa điều trị giảm nhẹ để rút bớt dịch, sau đó quay lại khoa hóa trị tính tiếp sau.

Bệnh viện Chợ Rẫy tiếp nhận bệnh cấp cứu kỷ lục sau nghỉ lễ Quốc khánh 2.9

Bệnh nhân nằm san sát ở khoa Cấp cứu Bệnh viện Chợ Rẫy ảnh của báo Thanh Niên ngày 5-9-2022

Thế là sang xếp hàng khoa điều trị giảm nhẹ. Khoa này ít bệnh nhân nên đến lượt nhanh. Cô BS bảo chiều thứ 6 rồi, giải quyết nhập viện thì nhanh thôi, nhưng thứ 7+ CN BS không làm thủ thuật hút dịch ổ bụng, phải thứ 2, nên nhập cũng mất công, cứ về nghỉ ngơi thoải mái sáng thứ 2 vào nhập cũng được. Nghe quá chí lý nên anh em trở về phòng trọ nghỉ.

Thứ 2 31-3: sáng sớm quay lại Khoa điều trị giảm nhẹ. Lần này BS khác, sau khi thăm bệnh ông bảo thôi cho thuốc về uống, hẹn 14-4 tái khám. Em tui bảo bụng đau lắm, muốn nhập viện rút dịch, với lại chiều thứ 6 BS hứa thứ 2 nhập viện, chứ về uống thuốc thì chiều thứ 6 em đã xin toa rồi về tỉnh, ở lại chị mất 3 ngày? Ông BS nghiêm mặt: ở đây tôi là người chịu trách nhiệm chính, anh cứ về uống thuốc, không cần nhập viện rút dịch đâu…

Thằng em nghe nói không cần rút dịch, nghĩ chắc bị nhẹ chỉ uống thuốc là đỡ nên mừng ra mặt: Dạ dạ… Tui xem toa 5 loại thuốc, thấy có 2 loại quen: paraceramol giảm đau,  lactulose hổ trợ trị trào ngược dạ dày; còn 3 loại không biết- chắc biệt được gì đó.

Quay lại khoa hóa trị theo lời dặn, BS bảo bên kia ( tức khoa điều trị giảm nhẹ) đã nói thế thì cứ về , 14-4 lại tái khám.

Thế là anh em tui lủi thủi ra về.

TẬP3:

Gần 0h đêm, người tới Bệnh viện Chợ Rẫy bốc số đã xếp hàng dài

Xếp hàng từ nửa đêm hôm trước để được khám vào sáng hôm sau. Ảnh của báo Tuổi Trẻ.

Về đến nhà, tra cụ Gồ thì 3 loại thuốc trong toa còn lại hóa ra là thuốc trị viêm dạ dày, chống trào ngược, chả phải biệt dược nào để rút dịch bụng, trị k gì cả. Thằng em tui sốc nặng, lại suy kiệt và đau quá nên nhập bệnh viện tỉnh gấp. BV tỉnh lập tức xử lý hút dịch bụng ngay, truyền nước, thuốc…

Coi như mất toi 2 chuyến đi KT- SG với 2.400 cây số và 14 ngày ở trọ, ăn chực nằm chờ chỉ để nhận 1 cái đơn thuốc(?!). Và theo lịch hẹn tái khám 14-4 tới đây là gần tháng, nếu vào lại BV CR không biết có nên cơm cháo  gì không, nhưng tui chắc thằng em tui không còn hơi sức để đi; thậm chí là die sớm vì đi lại mỏi mòn suy kiệt chứ chưa chắc die vì k di căn đâu.

Thôi thì thà die mẹ ở tỉnh cho nó đỡ khổ thân, đỡ bực mình lại tiết kiệm mớ tiền lo hậu sự cho rồi. Quá sợ cái BV CR!!!

Nguồn:  Như  Ý  Gia  Lai

Lời Bình của Kẻ Đi Tìm:

50 năm giải phóng là sự thụt lùi thê thảm như thế này sao?

Tội nghiệp cho dân tôi

Thương thay cho đất nước tôi.


 

 

Vào Viện Dưỡng Lão – (6 Điều Hối Tiếc)- Trần Văn Giang

Lời giới thiệu

Đây là một câu chuyện dài, thật buồn rất đáng đọc; nhưng cũng là một bài học lớn về việc yêu thương và tôn trọng người cao niên; đồng thời tìm cách giúp họ duy trì tự do và phẩm giá trong cuộc sống còn lại.

Có người nói “Viện dưỡng lão là phòng khách của địa ngục!?” Hay là “Thôi già rồi thì đành phải chịu thôi… Than vãn làm gì nữa hè!” 

Đúng hay sai cũng còn tùy mỗi hoàn cảnh…

Trần Văn Giang

 Nếu chỉ có một điều trong đời mà tôi thực sự hối tiếc thì đó chính là bước chân vào Viện dưỡng lão.

Năm nay tôi 82 tuổi.  Tóc tôi đã bạc trắng, chân cũng không còn nhanh nhẹn như xưa, nhưng tâm trí vẫn còn minh mẫn lắm. Tôi từng nghĩ rằng tuổi giả chỉ đơn giản là một hành trình nhẹ nhàng khi con người ta được tận hưởng quãng thời gian cuối đời trong sự thanh thản.  Nhưng mà không.  Tôi đã sai và sai lầm lớn nhất đời tôi chính là rời bỏ căn nhà mà tôi đã gắn bó suốt hơn nửa cuộc đời để bước vào nơi mà người ta vẫn hay gọi là chốn “An dưỡng tuổi già.

Ban đầu tôi không có ý định vào Viện dưỡng lão vì tôi còn đủ sức chăm sóc bản thân, mặc dù hơi chậm chạp hơn trước một chút.  Nhưng rồi con cái tôi, những đứa con mà tôi đã nuôi nấng bằng tất cả yêu thương, lại bảo rằng đưa tôi vào đó là cách tốt nhất để tôi có một cuộc sống thoải mái, được chăm sóc đầy đủ không phải lo nghĩ gì nữa.  Con gái tôi nắm lấy tay tôi với ánh mắt đầy lo lắng, nhưng cũng có chút thúc giục, nói:

–  “Mẹ vào đó đi. Ở đó có người chăm sóc; Có bác sĩ; Có bạn bè trò chuyện; Ở nhà một mình lỡ có chuyện gì không ai biết được?”

Tôi đã do dự rất lâu.  Căn nhà nhỏ của tôi tuy cũ nhưng đó là nơi lưu giữ bao nhiêu kỷ niệm.  Chiếc tủ gỗ do chồng tôi tự tay đóng từ thời trẻ. Góc bếp nơi tôi vẫn nấu những bữa ăn ấm cúng cho gia đình. Chiếc ghế dựa cũ kỹ cạnh cửa sổ nơi tôi hay ngồi đọc báo vào mỗi buổi sáng…  Làm sao tôi có thể rời bỏ những kỷ niệm đó.  Nhưng rồi tôi cũng xuôi lòng. Tôi tin vào lời con cái.  Tôi tin rằng vào Viện dưỡng lão tôi sẽ có một cuộc sống tốt hơn. Tôi tin rằng mình sẽ được chăm sóc chu đáo, được trò chuyện, được an yên…

Vậy mà ngay khi cánh cửa Viện dưỡng lão khép lại sau lưng, tôi đã nhận ra một sự thật cay đắng. Nơi đây không phải là nhà và có lẽ tôi đã không còn đường quay lại. Bạn có bao giờ tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi một người giả đánh mất tất cả những gì quen thuộc, những thứ làm nên cuộc sống của mình. Tôi cũng từng là người không nghĩ đến điều này cho đến khi chính mình rơi vào hoàn cảnh hiện tại.

Tôi ước chi có ai đó đã nói cho tôi biết trước khi tôi bước vào Viện dưỡng lão.  Nếu bạn hiện ,đang cân nhắc về việc sẽ “Vào Viện dưỡng lão,” dù cho chính mình hay cho người thân, hãy nghe câu chuyện của tôi trước khi quyết định. Vì một khi bạn bước vào Viện dưỡng lão thì cuộc sống của bạn sẽ không bao giờ còn như trước nữa.  Tôi muốn kể cho bạn nghe “Sáu (6) điều mà tôi hối tiếc” như sau.

Hối tiếc 1: Đã mất đi sự tự do.

Sáng hôm đó tôi thức dậy trên một chiếc giường lạ.  Tôi vươn vai theo thói quen định bước ra bên hiên nhả để hít thở chút không khí buổi sáng.  Nhưng rồi tôi chùng lại vì không có hiên nhà nào cả.  Không có ánh nắng nhẹ nhàng len qua khung cửa sổ quen thuộc.  Không có tiếng chim ríu rít trên mái hiên.  Chỉ có bốn bức tường trống trơn và mùi Thuốc khử trùng thoang thoảng trong không khí.

Phải mất một lúc để tôi nhớ ra là tôi không còn ở nhà mình nữa.  Tôi đã ở Viện dưỡng lão. Cảm giác xa lạ ấy không biến mất sau một ngày, một tuần, hay thậm chí một tháng.  Mọi thứ trong Viện dưỡng lão đều vận hành theo một lịch trình cứng ngắc mà tôi không có quyền thay đổi: 7:00 sáng nhân viên y tế mở cửa bước vào đánh thức tôi dù tôi chưa muốn dậy; 7:30 bữa sáng được mang đến dù tôi không hề đói; 9:00 có một buổi sinh hoạt chung nơi mọi người ngồi nghe nhạc hoặc tập thể dục nhẹ; 1:00 ăn trưa dù tôi thích món khác hơn tôi vẫn phải ăn thứ được mang ra.  Mọi thứ đều có sẵn nhưng tôi chẳng được lựa chọn gì cả. Tôi không còn có thể nấu món canh khổ qua nhồi thịt mà tôi vẫn thích; Không thể uống trà vào buổi chiều như tôi vẫn hay làm; Không thể đơn giản đi bộ ra đầu ngõ mua một túi bánh khi thèm một chút đồ ngọt; Ngay cả việc muốn ra đi ngoài cũng phải xin phép và chờ có người hỗ trợ (?).

Tôi nhớ ngày đầu tiên ở đây tôi đã định ra ngoài đi dạo một chút nhưng cửa đã khóa.  Một nhân viên nói tôi:

– “Bác cần ra ngoài ạ?  Để con gọi người dẫn bác đi.”

Tôi sững sờ. Tôi cần ai đó dẫn đi để bước ra ngoài sao?  Dù chỉ là một đoạn đường ngắn thôi.  Dần dần tôi hiểu ra ở đây tôi không còn được quyết định cho chính mình nữa.  Từ một người có thể tự do làm mọi thứ, tôi trở thành một người phải chờ đợi người khác quyết định giúp mình.  Cảm giác mất đi sự tự do không ập đến ngay lập tức.  Nó len lỏi vào từng chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống nó khiến tôi nhận ra những thứ đơn giản nhất như tự chọn giờ ăn; Tự quyết định hôm nay sẽ làm gì là những điều tôi từng xem là hiển nhiên, nhưng giờ lại là một thứ xa xỉ.

Rồi tôi bắt đầu quen dần với việc không thể tự do ra ngoài; Quen với việc phải ăn thứ được đưa ra dù tôi không thích; Quen với việc ngồi chờ đến giờ ngủ dù tôi chưa muốn ngủ.  Nhưng bạn cũng biết:  Không quen, không có nghĩa là chấp nhận. Có những đêm tôi nằm trên giường mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà.  Tôi nhớ lại những ngày còn ở nhà khi tôi có thể tự tay mở cánh cửa nhà mình bất cứ lúc nào.  Khi tôi có thể tự quyết định hôm nay sẽ làm gì khi tôi vẫn còn là người làm chủ cuộc đời mình.  Giờ đây tôi chỉ là một cái tên trên một danh sách, một phần trong hệ thống người già phụ thuộc vào lịch trình của người khác.

Nếu bạn đang cân nhắc đưa cha mẹ mình vào Viện dưỡng lão hoặc chính bạn đang nghĩ đến điều đó.  Hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự tự do của mình để lấy sự tiện lợi không? Bạn có thể chịu đựng được cảm giác mỗi ngày trôi qua mà không thực sự được quyết định điều gì trong cuộc sống của mình không? Vì một khi bạn đã đánh mất sự tự do thì việc lấy lại nó gần như là không thể được.

Hối tiếc 2: Cảm giác bị lãng quên.

Những ngày đầu tiên ở Viện dưỡng lão tôi vẫn còn niềm tin.  Tôi tin rằng dù có xa nhà tôi vẫn sẽ được con cháu quan tâm. Tôi tin rằng dù ở một nơi khác, tình cảm gia đình vẫn không thay đổi.  Ban đầu thì đúng như vậy.

Tuần đầu tiên con gái tôi đến thăm nó mang theo ít bánh ngọt, một hộp sữa và ngồi trò chuyện với tôi suốt cả buổi chiều.  Nó hỏi tôi ánh mắt đầy quan tâm:

– “Mẹ có quen không?  Mọi thứ ổn chứ?”

Tôi mỉm cười gật đầu vì tôi không muốn nó lo lắng. Cuối tuần đó, các cháu tôi cũng đến.  Chúng ríu rít kể chuyện trường lớp.  Chúng ôm tôi rồi chụp vài tấm ảnh.  Tôi cảm thấy lòng mình ấm áp.  Tôi tự nhủ mình không cô đơn đâu. Mọi người vẫn sẽ nhớ đến mình… Nhưng rồi những lần thăm hỏi cứ thưa dần đi.  Tuần thứ hai con gái tôi bận công việc.  Nó chỉ gọi điện thoại dặn dò vài câu rồi gác máy.  Tuần thứ ba cháu tôi nói nó có bài thi ở trường không thể đến thăm Ngoại.  Đến tuần thứ tư thì chẳng còn ai ghé nữa.  Tôi bắt đầu đếm từng ngày mong chờ có ai đó mở cánh cửa phòng nói với tôi rằng “Mẹ ơi con đến rồi.”  Hoặc “Ngoại ơi.  Con nhớ Ngoại lắm…” Nhưng cửa vẫn đóng, điện thoại vẫn im lặng.

Rồi tôi nhận ra tôi không phải là người duy nhất rơi vào tình cảnh này.  Tôi thấy những cụ già khác cũng ngồi lặng lẽ bên cửa sổ; Đôi mắt nhìn ra xa chờ đợi một bóng dáng quen thuộc. Tôi nghe những câu chuyện thì thầm” “Thằng con tôi nói cuối tuần này nó tới; nhưng rồi lại báo là bận”;  “Hôm nay là sinh nhật tôi mà chắc chẳng có ai nhớ đâu?”…  Và tôi hiểu rằng một khi đã vào Viện dưỡng lão rất dễ để người ta lãng quên mình.  Không phải vì con cháu không yêu thương tôi nữa. Tôi biết chúng vẫn yêu tôi, nhưng cuộc sống bận rộn khiến chúng dần dần xem sự vắng mặt của tôi là chuyện hiển nhiên.

Lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được điều này là vào dịp Tết.  Những năm trước, vào ngày 30 Tết, tôi sẽ cùng con gái gói bánh, quét dọn bàn thờ tổ tiên, chuẩn bị mâm cơm cúng mọi thứ luôn rộn ràng ấm áp.  Nhưng năm nay tôi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ của Viện dưỡng lão lắng nghe tiếng pháo vọng từ xa.  Không ai đến đón tôi về nhà.  Không ai nhớ rằng Tết của tôi không phải là ăn một phần cơm cứng ngắc trong bữa ăn tập thể mà là những khoảnh khắc bên con cháu; Là mùi hương trầm nghi ngút trong nhà.

Lúc đó tôi mới thực sự hiểu một khi bạn rời khỏi cuộc sống thường ngày của con cái, bạn cũng rời khỏi những thói quen của họ. Họ sẽ tiếp tục với công việc với gia đình nhỏ của họ họ sẽ nhớ đến bạn nhưng không còn là mỗi ngày.  Họ sẽ vẫn yêu thương bạn, nhưng không còn dành thời gian cho bạn như trước và rồi dần dần bạn trở thành một cái tên trong ký ức của họ – Một điều gì đó quan trọng nhưng không còn là ưu tiên.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão hoặc định gửi cha mẹ mình vào đó, hãy tự hỏi là bạn có sẵn sàng sống những năm tháng cuối đời trong sự mong chờ mà không biết khi nào người thân sẽ đến thăm bạn.  Có chắc rằng dù bạn không còn ở nhà con cháu vẫn sẽ đến gặp bạn thường xuyên như họ hứa bởi vì một khi bạn bước vào nơi này, cuộc sống ngoài kia sẽ tiếp tục nhưng không còn có bạn trong đó.

Hối tiếc 3: Mất đi ý nghĩa cuộc sống.

Tôi từng nghĩ rằng khi về già, con người ta chỉ cần một nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi.  Tôi từng tin rằng không phải làm gì cả là một điều tốt… Nhưng không phải vậy.  Ngày còn ở nhà tôi luôn có việc để làm.  Sáng thức dậy tôi pha một ấm trà; Tưới mấy chậu cây ngoài hiên; Rồi tự nấu một bữa ăn đơn giản; Tôi có thể ra chợ đi dạo trò chuyện với hàng xóm; Tôi có thể tự tay thu dọn nhà cửa giặt rũ quần áo sắp xếp lại những kỳ vật cũ… Những điều nhỏ nhặt ấy khiến tôi cảm thấy mình vẫn còn giá trị, vẫn có một mục đích sống.  Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão mọi thứ đột nhiên dừng lại.

Tôi không cần phải nấu ăn nữa vì bữa ăn được đưa đến tận nơi dù tôi có thích hay không; Tôi không cần phải quét dọn nữa; Nhân viên vệ sinh làm tất cả rồi; Tôi không cần lo lắng gì cả nhưng tôi cũng chẳng còn gì để làm.  Ban đầu tôi nghĩ đây là một điều tốt (!);  Cuối cùng thì mình cũng được nghỉ ngơi.  Nhưng chỉ sau vài tuần, tôi bắt đầu cảm thấy trống rỗng.  Buổi sáng thức dậy, tôi chẳng biết hôm nay mình sẽ làm gì?  Tôi ngồi trên giường nhìn quanh căn phòng nhỏ tự hỏi mình có thực sự còn ý nghĩa gì không?

Tôi không phải người duy nhất cảm thấy như vậy. Tôi nhớ có một bác tên Minh trước đây là một thầy giáo.  Lúc còn ở nhà bác vẫn dạy kèm mấy đứa trẻ trong xóm vẫn đọc sách mỗi ngày.  Nhưng khi vào đây, bác chẳng còn học trò cũng chẳng còn sách vở mỗi ngày.  Bác chỉ ngồi yên trên chiếc ghế cũ, lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ.  Một lần tôi hỏi bác không định làm gì sao?  Đọc sách viết gì đó chẳng hạn?  Bác thở dài:

–  “Tôi cũng muốn lắm nhưng chẳng ai cần tôi nữa. Không có ai để dạy. Không có ai để chia sẻ. Tôi dần dần quên mất mình là ai.”

Câu nói ấy ám ảnh tôi.  Một người từng là thầy giáo; Một người đầy tri thức từng cống hiến cả đời cho học trò giờ đây ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ tự hỏi mình còn ý nghĩa gì nữa không?  Tôi chợt nhớ lại những người bạn đồng niên ngày xưa.  Một bác từng là thợ mộc ngày nào cũng sửa chữa đóng bàn ghế; Một cô từng là thợ may lúc nào cũng bận rộn với kim chỉ.  Nhưng khi vào đây tất cả đều trở thành những con người ngồi chờ thời gian trôi qua.  Không phải vì họ không muốn làm gì mà vì ở đây chẳng có gì để làm cả.

Dần dần tôi hiểu ra một điều con người không chỉ cần ăn uống và ngủ để tồn tại.  Chúng ta cần có một mục đích một lý do để thức dậy mỗi sang; Một điều gì đó để mong chờ nhưng ở Viện dưỡng lão những thứ ấy dần dần bị lấy đi.

Nếu bạn đang nghĩ đến việc vào Viện dưỡng lão thì hãy tự hỏi điều gì khiến cuộc sống của bạn có ý nghĩa?  Bạn có thể sống mà không có trách nhiệm; Không có công việc gì để làm; Không có ai cần đến bạn không?  Vì khi đã mất đi ý nghĩa cuộc sống bạn không còn thực sự sống nữa.  Bạn chỉ đang tồn tại.

Hối tiếc 4:  Sức khỏe suy giảm nhanh hơn mong đợi.

Trước khi vào Viện dưỡng lão tôi vẫn còn khá khỏe so với tuổi của mình.  Tôi không thể chạy nhanh như thời trẻ, nhưng tôi vẫn có thể tự đi chợ tự nấu ăn tự làm những công việc nhỏ trong nhà mỗi sáng.  Tôi vẫn có thói quen đi bộ quanh khu phố để giữ cho chân cứng cáp.  Nhưng mọi thứ thay đổi nhanh hơn tôi tưởng.

Ngày đầu tiên vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra mình không cần phải làm gì nữa: Bữa ăn đã có người mang đến tận phòng không cần phải đi chợ, không cần đứng bếp, có nhân viên chăm sóc.  Nếu tôi cần gì chỉ cần bấm nút sẽ có người giúp ngay không cần phải đi bộ xa vì mọi thứ đều ở ngay trong khuôn viên chỉ vài bước chân.  Nghe qua thì có vẻ như một cuộc sống lý tưởng;  Nhưng chính sự thoải mái đó đã làm cho cơ thể tôi yếu đi nhanh chóng.  Ban đầu, tôi chỉ nghĩ rằng mình được nghỉ ngơi; Nhưng rồi chỉ sau vài tháng tôi bắt đầu cảm thấy hai chân mình yếu hơn, đi lại chậm hơn, thậm chí đứng lên cũng thấy khó khăn hơn.

Rồi tôi bắt đầu để ý đến những người xung quanh.  Có một bà tên Lành ngày đầu vào đây bà vẫn còn nhanh nhẹn tự đi lại bình thường nhưng chỉ sau vài tháng bà bắt đầu dựa vào gậy để đi rồi dùng xe lăn và cuối cùng thì bà không còn đủ sức đứng lên một mình nữa.  Một ngày nọ, bà nhìn tôi cười buồn.  Tôi không biết nó xảy ra từ khi nào, nhưng tôi có cảm giác như mình già đi cả chục năm chỉ sau vài tháng.

Lúc còn ở nhà, dù tôi không tập thể dục nhiều nhưng ít nhất tôi vẫn di chuyển vẫn phải tự làm mọi thứ.  Điều đó giúp cơ thể tôi duy trì được sự linh hoạt.  Nhưng khi vào đây, tôi ít vận động hẳn.  Tôi bắt đầu ngồi nhiều hơn, và cũng nằm nhiều hơn.  Rồi tôi nhận ra cơ bắp của mình dần yếu đi.  Có một bác sĩ từng nói với tôi:

– “Cụ biết không, khi một người già ngừng vận động họ sẽ mất khả năng vận động nhanh hơn gấp nhiều lần so với người trẻ.  Cơ thể con người vốn dĩ cần được hoạt động.  Khi cụ ngừng đi lại ngừng làm việc cơ thể cụ sẽ bắt đầu suy yếu.”

Đúng vậy.  Nếu tôi biết trước điều này tôi sẽ cố gắng vận động nhiều hơn ngay cả khi đã vào đây.  Nhưng vấn đề là môi trường này không khuyến khích điều đó.  Khi mọi thứ đều được làm sẵn người ta sẽ dần quên mất cách tự chăm sóc chính mình.

Nếu bạn đang cân nhắc Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có còn động lực để duy trì sức khỏe khi mọi thứ đã được làm thay cho bạn không?  Bạn có đủ mạnh mẽ để tự thúc ép mình vận động ngay cả khi không còn ai nhắc nhở?  Vì một khi bạn ngừng sử dụng cơ thể mình bạn sẽ bắt đầu mất đi; và đến khi nhận ra điều đó có thể đã quá muộn để lấy lại.

Hối tiếc 5:  Mất đi sự riêng tư.

Còn nhớ ngày còn ở nhà, tôi có một căn phòng riêng, một không gian của riêng tôi. Tôi có thể đóng cửa bất cứ khi nào tôi muốn nếu tôi thấy mệt.  Tôi có thể nằm dài cả buổi mà không ai làm phiền.  Nếu tôi muốn tắm tôi chỉ cần bước vào phòng tắm mà không cần xin phép ai. Tôi tự quyết định mình làm gì khi nào và như thế nào.  Nhưng khi bước vào Viện dưỡng lão, tôi nhận ra rằng sự riêng tư là một thứ xa xỉ.  Tại đây cánh cửa phòng không bao giờ thực sự thuộc về tôi nữa.  Nhân viên y tế có thể vào bất cứ lúc nào để khám tình trạng sức khỏe của tôi; Người dọn vệ sinh gõ cử cửa rồi bước vào ngay cả khi tôi chưa kịp trả lời; Những cuộc kiểm tra định kỳ được thực hiện mà tôi không có quyền từ chối. Tôi không trách họ vì họ chỉ làm đúng như được chỉ định; Nhưng cái cảm giác bị theo dõi mọi lúc mọi nơi; Cái cảm giác không còn một góc riêng để thực sự gọi là của chính mình nó không dễ chịu chút nào.

Nhưng điều khiến tôi đau lòng nhất không phải là mất đi sự riêng tư mà là mất đi phẩm giá của một con người. Ở nhà, tôi tự tắm rửa tự mặc quần áo tự chăm sóc bản thân, nhưng ở đây khi tôi bắt đầu yếu đi tôi buộc phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Tôi muốn đi tắm tôi phải chờ nhân viên hỗ trợ. Tôi cần đi vệ sinh, nếu tôi không tự đi được tôi phải nhấn chuông gọi.  Tôi muốn mặc bộ quần áo mình thích; nhưng nếu không phù hợp với quy định tôi cũng không được mặc.

Bạn có biết cảm giác đứng trước một người xa lạ để họ giúp bạn làm những việc rất cá nhân, trong khi cả đời bạn đã tự làm những việc ấy là như thế nào không? Nó không chỉ là sự bất tiện mà nó là sự tổn thương.  Tôi nhớ có lần tôi bị sốt.  Người hơi yếu nên y tá giúp tôi thay đồ dù cô ấy rất nhẹ nhàng, rất chuyên nghiệp, nhưng tôi cảm thấy mình không còn là chính mình nữa.  Tôi không còn là một người phụ nữ từng sống độc lập, từng tự chăm sóc bản thân.  Tôi chỉ còn là một người già, một bệnh nhân, một con số trong danh sách và điều đó thực sự rất đau lòng.

Không phải ai cũng cảm thấy như tôi.  Một số người ở đây có thể quen với điều đó; Thậm chí chấp nhận nó, nhưng với tôi một người đã từng tự do, từng tự quyết định cuộc sống của mình thì việc mất đi quyền kiểm soát ngay cả những điều nhỏ nhất là điều khiến tôi thấy mình không còn là mình nữa.

Nếu bạn đang nghĩ đến Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có sẵn sàng đánh đổi sự riêng tư để đổi lấy sự chăm sóc.  Bạn có chấp nhận việc mỗi ngày có thể bạn sẽ cần nhờ ai đó giúp làm những điều mà bạn từng làm một cách tự nhiên, bởi vì một khi bạn mất đi sự riêng tư bạn cũng mất đi một phần phẩm giá của chính mình và điều đó khó lấy lại hơn bất cứ thứ gì khác.

Hối tiếc 6:  Khó khăn khi muốn rời đi.

Lúc mới bước vào Viện dưỡng lão, tôi đã tự nhủ rằng đây chỉ là một thử nghiệm.  Tôi nghĩ nếu không hợp mình có thể rời đi bất cứ lúc nào; nhưng tôi đã quá ngây thơ.  Tôi còn nhớ ngày đầu tiên con gái tôi đưa tôi đến đây nó siết chặt tay tôi và nói:

–  “Mẹ cứ thử một thời gian xem sao.  Nếu không thích mẹ có thể về nhà.”

Câu nói đó khiến tôi an tâm phần nào. Tôi nghĩ rằng mình vẫn có sự lựa chọn.  Thế nhưng chỉ sau vài tháng tôi nhận ra rằng việc rời đi không đơn giản như tôi nghĩ.   Một ngôi nhà cũ không còn là của tôi nữa.  Lúc tôi vào Viện dưỡng lão, căn nhà của tôi vẫn còn đó nhưng tôi không còn ở đó để giữ gìn nó.  Con cái tôi bắt đầu sắp xếp lại mọi thứ.  Chúng bớt đi những đồ đạc không cần thiết.  Thậm chí có ý định bán một số món đồ cũ.  Hàng xóm cũng dần dần quên đi sự có mặt của tôi.  Những người từng ghé qua trò chuyện mỗi sáng giờ đây không còn nhớ tôi đã từng sống ở đó?

Một ngày nọ, tôi nói với con gái rằng tôi muốn trở về nhà. Tôi tưởng rằng nó sẽ vui mừng, nhưng thay vào đó tôi thấy sự do dự trong mắt nó:

– “Mẹ có chắc không?  Mẹ về nhà rồi ai chăm sóc mẹ?  Mẹ có tự lo được cho mình không?”

Tôi cứng họng.  Tôi biết rằng mình đã yếu hơn trước.  Tôi biết rằng sự tự tin mà tôi từng có giờ đã lung lay và tôi sợ.  Tôi sợ rằng nếu tôi rời khỏi Viện dưỡng lão tôi sẽ không biết cách thích nghi với cuộc sống bên ngoài nữa.  Y như con chim đã được nhốt nuôi trong chuồng quá lâu. Tôi đã quá quen với việc có người mang cơm đến tận nơi; Có người nhắc nhở uống thuốc; Có người hỗ trợ khi cần.  Giờ đây nếu tôi trở về tôi phải tự lo mọi thứ tôi thì liệu có làm được không?  Sức khỏe của tôi đã thay đổi từ khi mới vào đây.  Tôi vẫn còn khỏe mạnh, nhưng như tôi đã nói ở phần trước, việc ít vận động đã khiến tôi yếu đi nhanh hơn.  Tôi không còn đi bộ nhanh như trước.  Tôi không còn đủ sức nấu ăn một cách linh hoạt.  Y như tâm trạng con chim nuôi trong chuồng lâu ngày nay được thả, tôi không còn cảm giác tự tin khi sống một mình.

Tôi nhận ra một sự thật cay đắng:  Chính thời gian sống ở đây đã khiến tôi trở thành một người không còn đủ sức để trở về.  Trước đây tôi từng nghĩ rằng Viện dưỡng lão chỉ là một điểm dừng chân tạm thời nhưng thực tế càng ở lâu tôi càng mất đi khả năng tự lập và dần dần Viện dưỡng lão trở thành nơi duy nhất mà tôi có thể tồn tại.  Tôi nhìn quanh và thấy nhiều người khác cũng rơi vào tình trạng giống mình.  Có cụ bà từng nghĩ rằng bà chỉ vào đây một thời gian để hồi phục sức khỏe nhưng rồi bà không bao giờ rời đi nữa vì bà đã quen với sự phụ thuộc.  Có cụ ông từng nói rằng sẽ về nhà khi thấy ổn định hơn nhưng sau một năm ngôi nhà của ông bị bán đi và ông không còn nơi nào để về nữa.

Tôi chợt nhận ra một sự thật mà không ai nói với tôi trước đây:  Việc vào Viện dưỡng lão là một quyết định dễ dàng nhưng một khi đã vào thì việc rời đi lại là điều gần như không thể làm được – A Mission Impossible!

Nếu tôi có thể quay ngược thời gian tôi sẽ tìm cách ở lại nhà lâu hơn. Tìm kiếm những giải pháp khác thay vì từ bỏ mái ấm, bước vào đây quá vội vàng.  Tôi sẽ nhờ con cái thuê một người giúp việc bán thời gian.  Tôi sẽ thử sống với một người bạn già để cùng nhau hỗ trợ.  Tôi sẽ tìm đến những trung tâm hỗ trợ người cao niên mà không nhất thiết phải vào một nơi như thế này… Nhưng tôi đã không làm như vậy; và bây giờ tôi không biết mình có thể quay lại cuộc sống cũ hay không?

Nếu bạn đang suy nghĩ về Viện dưỡng lão, hãy tự hỏi bạn có chắc mình sẽ dễ dàng rời đi (trở lại nhà cũ) nếu không thích?  Việc trở lại không dễ như bạn tưởng và nếu bạn không chuẩn bị trước có thể bạn sẽ không bao giờ có cơ hội để làm điều đó.

Tôi hy vọng rằng câu chuyện của tôi sẽ giúp bạn có một quyết định sáng suốt hơn cho chính mình hoặc cho người thân của mình.  Hãy suy nghĩ thật kỹ vì tuổi giả có thể là quãng thời gian hạnh phúc nếu bạn biết cách lựa chọn đúng để chúng ta có thể đồng hành, cùng nhau trưởng thành, cùng nhau sống bình yên và cùng nhau già đi một cách hạnh phúc, êm thắm!

Trần Văn Giang , Orange County. 

Tháng 3/2025