Cấm dân đặt tượng Ðức Thánh Trần trên bục trong sân nhà

Cấm dân đặt tượng Ðức Thánh Trần trên bục trong sân nhà

Nguoi-viet.com

Tượng Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo được đặt trên bục cao 1mét trong sân nhà ông Phương bị xã bắt đem xuống. (Hình: Báo Pháp Luật Sài Gòn)

LÂM ÐỒNG (NV) – Cho rằng người dân đặt tượng Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo trên bục cao là vi phạm, chính quyền xã Ninh Gia, huyện Ðức Trọng buộc phải hạ tượng xuống.

Nói với báo báo Pháp Luật Sài Gòn, chiều 10 tháng 1, gia đình ông Tống Hồ Phương, xã Ninh Gia, huyện Ðức Trọng, vừa gửi đơn khiếu nại về việc chính quyền xã không cho phép gia đình ông đặt tượng Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo trên bục cao trong khuôn viên nhà riêng của mình.

Anh Nguyễn Xuân Quang, cháu ông Phương cho biết, gia đình đặt mua tượng Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo ở làng đá Non Nước, Ðà Nẵng, do các nghệ nhân chạm khắc từ phiên bản của Hội Mỹ Thuật Việt Nam.

Trước khi mang tượng về khoảng 10 ngày, gia đình ông Phương có lên Sở Văn Hóa tỉnh Lâm Ðồng xin phép. Cán bộ nơi đây cho biết “tượng không nằm trong danh mục phải có giấy phép, cũng không thuộc diện cấm nên gia đình cứ làm.”

Thế nhưng, khoảng 15 giờ ngày 4 tháng 1, khi gia đình ông Phương đang dựng tượng lên bục, thì trưởng công an xã Ninh Gia đến yêu cầu hạ xuống. Khoảng hai tiếng sau chủ tịch, phó chủ tịch xã cũng có mặt yêu cầu gia đình hạ tượng. Gia đình ông Phương yêu cầu xã đưa ra văn bản cho rằng việc làm của mình thuộc diện bị cấm thì đại diện xã không có.

Tuy nhiên từ hôm đó trở đi, ngày nào chính quyền xã cũng cho người vào ép gia đình phải hạ tượng xuống. Thậm chí, có lần cán bộ Phòng Văn Hóa Thông Tin huyện Ðức Trọng cùng đi với chính quyền xã và cũng yêu cầu tương tự nhưng gia đình ông Phương không làm theo vì cho rằng pháp luật không cấm.

Thấy không ép được, ngày 6 tháng 1, chính quyền xã này cử cán bộ địa chính xã đến dùng chiêu lập biên bản “vi phạm khi xây dựng cái bục cao 1 mét, rộng 90 cm trái phép.”

“Ðại diện ủy ban xã nói, tội này có thể bị xử phạt từ 3 triệu đến 5 triệu đồng, nhưng đến nay vẫn chưa ra quyết định xử phạt hành chính. Họ bảo gia đình đặt bức tượng ở đâu cũng được nhưng không được đặt lên cái bục. Ðồng thời hạn 60 ngày phải hạ tượng xuống, nếu không sẽ tổ chức cưỡng chế,” anh Quang bất bình nói.

Chiều cùng ngày, nói với báo Pháp Luật Sài Gòn qua điện thoại, ông Nguyễn Ngọc Huyên, chủ tịch xã Ninh Gia, xác nhận sự việc trên.

“Việc xây dựng bục đặt tượng của gia đình ông Phương là vi phạm, nên đã lập biên bản vi phạm. Cụ thể là có hành vi xây dựng công trình xây dựng khác không có giấy phép. Hiện xã đang trong quá trình xử lý nên sẽ thông báo kết quả sau,” ông Huyên nói.

 

Cũng theo ông Huyên, xã không có thẩm quyền trong việc cho phép hay không cho việc làm chủ bức tượng. Nhưng khi đặt bức tượng đó lên cái bục thì không được vì cái bục là công trình vi phạm. Việc ông Phương có được sử dụng bức tượng hay không phải có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền là ngành văn hóa cụ thể là Phòng Văn Hóa Thông Tin huyện và Sở Văn Hóa Thông Tin.

“Gia đình nói là sở cho phép nhưng chúng tôi chưa thấy văn bản nào, chỉ là nói miệng thôi. Tôi nghĩ gia đình phải lập hồ sơ xin phép, nếu sở cấp hoặc không cấp thì cũng phải có trả lời bằng văn bản, thì mới đúng quy định,”ông Huyên nói. (Tr.N)

MÙA XUÂN TÂY TẠNG VÀ CÂU CHUYỆN NHỮNG DÒNG SÔNG

MÙA XUÂN TÂY TẠNG VÀ CÂU CHUYỆN NHỮNG DÒNG SÔNG

Ngô Thế Vinh

Hình 1: Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất. nguồn: activeremedy.org

Hình 1: Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất. nguồn: activeremedy.org

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

If Tibet dries, Asia dies. Nghĩa là: Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết

CỰC THỨ BA CỦA TRÁI ĐẤT

Khoảng ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng.

Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000 m – được mệnh danh là “xứ tuyết”, “nóc của trái đất”, hay “Cực Thứ Ba / Third Pole” — hai cực kia là Bắc Cực và Nam Cực. Tây Tạng với diện tích hơn một triệu km2 gần bằng Tây Âu nhưng cô lập với thế giới bên ngoài bởi ba bề núi non hiểm trở: phía nam là dãy Hy Mã Lạp Sơn, phía tây là rặng Karakoram, phía bắc là các rặng Kunlun và Tangla; riêng phía đông cũng bị cắt khoảng bởi các dãy núi không cao và lũng sâu và thoải dần xuống tới biên giới Trung Hoa, ráp gianh với hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.

Phía tây bắc, Tây Tạng là một vùng đất hoang đông giá, gần như không người no-man’s-land trải dài hơn 1200 km từ tây sang đông. Phía nam là vùng núi non với thảo nguyên, nơi sống của dân du mục với các đàn cừu dê và những con bò Yaks.  Phía đông là tỉnh Kham và đông bắc là tỉnh Amdo (quê hương của Đức Dalai Lama thứ 14) là vùng trù phú và đông dân nhất. Thứ đến là vùng đất phía nam khí hậu bớt khắc nghiệt, nơi có con Sông Yarlung Tsangpo với những phụ lưu như một mạch sống.

Người nông dân Tây Tạng chủ yếu trồng lúa mạch và khoai tây là hoa màu phụ. Khí hậu thay đổi thất thường như mưa đá, đông giá nên mùa màng luôn luôn bị hư hại. Nguồn thực phẩm ổn định hơn là nuôi gia súc ngoài đàn bò Yaks còn có trừu, dê và gà để lấy trứng. Tsampa làm từ bột lúa mạch sấy là món ăn thường nhật của người Tây Tạng. Quốc gia Tây Tạng là hình ảnh mênh mông của những thảo nguyên với núi cao và lũng sâu, bầu trời thường thì trong xanh như ngọc. Cho tới cuối thế kỷ 19, nếp sống của họ vẫn vậy như từ hàng ngàn năm trước.

XỨ SỞ CỦA ĐẠO PHẬT

Đạo Phật du nhập vào Tây Tạng 12 thế kỷ sau khi Phật Thích Ca nhập niết bàn, khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Khí Tông Cương Tán (Songtsen Gampo) là một tù trưởng tài ba đã thống nhất được các bộ lạc trên cả một vùng băng tuyết tới chân Hy Mã Lạp Sơn; ông cưới công chúa Nepal làm hoàng hậu và chính nàng công chúa này đã du nhập đạo Phật vào Tây Tạng. Tây Tạng thời kỳ ấy là một quốc gia hùng mạnh khiến vua Trung Hoa đời Nhà Đường cũng phải xin cầu hòa và gả công chúa cho Khí Công Cương Tán, nàng công chúa gốc Hán này cũng đem đạo Phật vào Tây Tạng. Đạo Phật từ đó đã phát triển rất mạnh trên vùng đất mới, hòa nhập với tín ngưỡng Bon đa thần để biến thể thành một thứ đạo Phật cao siêu và thần bí.

Tới thế kỷ 14 một vị chân tu tên Tống Cáp Ba – Tsongkhapa đã sáng lập nên phái Hoàng Mão Hoàng Y của Phật giáo chính thống Tây Tạng. Sau khi ông mất, người kế thừa cũng là một vị chân tu tên Gendun Drup được toàn thể giới tăng lữ suy tôn làm Dalai Lama (Lama là một từ Tây Tạng có nghĩa là bậc thầy), ông có công phát huy đạo Phật đồng thời cũng xây dựng được một nền hành chánh kết hợp với giáo quyền trị vì quốc gia Tây Tạng. Vị đại sư mưu trí này đã đặt ra quy luật tái sanh của Dalai Lama theo đó khi chết linh hồn vị Dalai Lama sẽ nhập vào một trẻ sơ sinh như hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm – Bodhisatva  Avalokitesara.

Tới thế kỷ 16, do các giáo phái lại chống đối nhau dẫn tới sự can thiệp của quân Mông Cổ, sau đó thì chính Đại Hãn Mông Cổ là Altan Khan do cảm phục kiến thức cao sâu của vị đại sư nên cũng xin quy y, đồng thời phong tước cho vị Lama là Dalai Lama – Dalai là từ Mông Cổ có nghĩa biển cả, bao hàm kiến thức mênh mông.

Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Tây Tạng ghi dấu bằng công trình xây cất Lâu Đài Mùa Đông – Cung Điện Potala 1000 phòng của các vị Dalai Lama, được coi như một kỳ quan kiến trúc của thế giới.

Nhưng về phương diện lịch sử thì ngôi Chùa Jokhang mới là di tích cổ kính nhất, được xây dưới triều vua Khí Tông Cương Tán, nơi chứa tượng Phật do công chúa Nepal thỉnh về. Kỳ quan của Jokhang không phải chỉ là các tượng Phật mà là tấm bia đá dựng trước chùa như di tích lịch sử về một quá khứ hùng mạnh của quốc gia Tây Tạng, đã từng gây khốn đốn cho các vua Trung Hoa đời nhà Đường. Trên tấm bia là bản hiệp ước được phê chuẩn bởi Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 khắc bằng hai thứ tiếng Tây Tạng và Trung Hoa với nội dung [Hình 2]:

“Thỏa thuận cùng nhau về sự liên minh giữa hai quốc gia… tìm cách ngăn ngừa những nguyên nhân gây tàn hại cho hai xứ sở bây giờ và mai sau, để mang lại hòa bình lâu dài cho thần dân hai nước. Thỏa ước được khắc trên bia này để cho các thế hệ tương lai được biết tới.” (1)

h2Hình 2: Jokhang, ngôi chùa có lịch sử hơn 1,300 năm ghi dấu một thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng. Tấm bia ghi bản hiệp ước giữa Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 đã bị phá huỷ. Jokhang, cùng với lâu đài Potala được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới. Nguồn: internet

Giữa thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng [618-907] nơi đầu nguồn Sông Mekong thì lúc ấy Việt Nam lại đang phải sống trong tối tăm nhục nhã dưới ách thống trị của người Tàu với cái tên An Nam Đô Hộ Phủ. Việt Nam đã bị nô lệ Tàu tổng cộng 1050 năm trước khi lấy lại được nền tự chủ với các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần.

Nhưng rồi cũng không tránh được lẽ thịnh suy, những thế kỷ sau đó Tây Tạng lại bị Trung Hoa xâm lấn, thủ đô Lhasa thường xuyên bị chiếm đóng. Đến đầu thế kỷ 20, nhân lúc triều đình Mãn Thanh bị cuộc Cách Mạng Tân Hợi của Tôn Dật Tiên lật đổ, nhân dân Tây Tạng đã lại vùng lên và tuyên bố độc lập nhưng bị đàn áp và đã gặp phải sự thờ ơ đến tàn nhẫn của thế giới. Trung Hoa cho dù dưới thể chế chánh trị nào vẫn xem Tây Tạng như phần lãnh thổ của họ.

MỘT TÂY TẠNG ĐAU THƯƠNG

Năm 1933 khi vị Dalai Lama 13 viên tịch, tương truyền rằng người ta thấy mặt ngài ngoảnh về hướng đông bắc, phía tỉnh Amdo. Kết hợp với một số điềm báo triệu khác, các vị trong hội đồng giáo phẩm tới được ngôi làng Takster tỉnh Amdo và họ đã tìm ra đứa trẻ hai tuổi là đứa con thứ tư trong một gia đình nông dân nghèo khó, và sau một chuỗi những trắc nghiệm thử thách, cậu bé Tenzin Gyatso sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935, được công nhận là hiện thân của Đức Dalai Lama thứ 14.

Amdo lúc đó đang thuộc quyền kiểm soát của quân Trung Quốc nên phải trải qua hai năm thương thuyết khó khăn, cậu bé Tenzin Gyatso mới được rời Amdo lên thủ đô Lhasa và được đưa vào Cung Điện Mùa Hè Norbulingka rồi Cung Điện Mùa Đông Potala để được nuôi dưỡng và giáo dục đúng theo giáo lý bởi những vị cao tăng uyên bác. Trong thời gian đó, một quan nhiếp chính được chỉ định để lo việc nước.

Tình hình càng trở nên tệ hại khi Tưởng Giới Thạch bị thua phải chạy ra đảo Đài Loan (1949), Hồng Quân chiếm trọn Hoa Lục đồng thời cũng xua quân vào cưỡng chiếm Tây Tạng với chiêu bài “giải phóng nhân dân Tây Tạng đang bị giai cấp phong kiến áp bức.”

Và đã có ngay từng đợt hàng trăm ngàn binh lính Trung Cộng tiến vào Tây Tạng, kéo theo sau là gia đình của họ. Khác xa với hứa hẹn ban đầu bảo đảm tự do tín ngưỡng và phong tục tập quán của dân Tây Tạng, họ mở ngay chiến dịch chống tôn giáo, đồng thời thi hành “chánh sách tàm thực/ tầm ăn dâu” không ngừng di dân gốc Hán vào đất nước Tây Tạng.

Năm 1950, do nhu cầu cấp bách của thời cuộc, ở cái tuổi mới 16, Tenzin Gyatso đã phải rất sớm đứng ra đảm đương mọi trách nhiệm chánh trị điều hành quốc gia Tây Tạng.  Năm 1954, Gyatso bị đưa sang Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông trong ý muốn thuyết phục vị Dalai Lama trẻ tuổi ấy chấp nhận một xứ sở Tây Tạng sát nhập vào trật tự nước Trung Hoa.

Trước nguy cơ diệt vong, năm 1959 nhân dân Tây Tạng lại nhất loạt nổi dậy, nhưng đã bị Hồng Quân trấn áp và tàn sát không thương tiếc. Trong cuốn tự truyện Tự Do Trong Lưu Đầy – Freedom in Exile, Tenzin Gyatso viết:

“Trong gần một thập niên, ở cương vị người lãnh đạo chánh trị và tôn giáo cho dân tộc Tây Tạng, tôi đã cố gắng tái tạo mối liên hệ hòa bình giữa hai quốc gia Tây Tạng và Trung Hoa, nhưng trách vụ ấy không thể hoàn thành. Tôi đi tới kết luận là tôi sẽ phục vụ dân tộc tôi được nhiều hơn nếu tôi sống ở nước ngoài.” (1)

Đức Dalai Lama thứ 14 đã dẫn hơn một trăm ngàn dân Tây Tạng vượt biên giới thoát sang Ấn Độ. Bất chấp sự chống đối và cả hăm dọa của Bắc Kinh, chánh phủ Ấn vẫn giúp định cư số người Tây Tạng lưu vong này nơi thị trấn Dharmasala dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn. Một chánh phủ lưu vong Kashag được hình thành như niềm hy vọng sống còn đối với người dân Tây Tạng trong nước.

Phía Trung Quốc bất kể nguyện vọng dân Tây Tạng ra sao, họ vẫn sát nhập quốc gia này vào “Nước mẹ vĩ đại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.” Tháng 9 năm 1965, Bắc Kinh tuyên bố lập “Vùng tự trị Tây Tạng – Tibetan Autonomous Region” trực thuộc nước Trung Hoa. Điều ấy có nghĩa là quốc gia Tây Tạng bị Bắc Kinh xoá tên trên bản đồ thế giới.

Và rồi các giai đoạn thảm khốc nhất đã diễn ra trong suốt thập niên sau đó khi có cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cả một di sản văn hóa của dân tộc Tây Tạng bị tận diệt một cách công khai và có hệ thống bởi những đoàn Vệ Binh Đỏ. Các đền đài tu viện bị phá trụi, các tranh tượng tôn giáo bị hủy hoại. Hàng chục ngàn người Tây Tạng bị kết tội “phản động” vì không chịu lên án Đức Dalai Lama và từ bỏ đức tin của họ.

Theo thống kê của Trung Cộng (1982) có 3.87 triệu người Tây Tạng, nếp sống đơn sơ và hiếu khách nhưng họ là một dân tộc đang phải sống trong nô lệ và chịu nỗi khổ đau vô hạn “trong nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.

h3Hình 3: Uống nước nhớ nguồn. Ngay sau cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng 1959 bị Bắc Kinh đàn áp đẫm máu khiến Đức Dalai Lama và hơn 100,000 người Tây Tạng phải tỵ nạn sang Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hoà lúc ấy đã tức thời gửi lúa gạo sang cứu trợ. Lúa gạo ấy đã được gieo trồng từ nguồn nước con Sông Mekong. Đức Dalai Lama đã tiếp Phái đoàn Việt Nam tại Darjeeling, Ấn Độ. Từ trái: Gs Lê Xuân Khoa Tổng thư ký Hội Văn hoá Á Châu, Thượng toạ Thích Trí Dũng, Đức Dalai Lama, và Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH Cổ Văn Hai. (4)

Tháng 10 năm 1987, không còn kiên nhẫn hơn được nữa, dân Tây Tạng lại vùng dậy và cũng lại bị quân chiếm đóng Trung Cộng đàn áp tàn bạo. Đã có khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng bị giết, một con số thật khủng khiếp nếu so với tổng số dân Tây Tạng chưa tới 4 triệu.

Để phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trong nước, Đức Dalai Lama đã rời Dharmasala và du hành qua nhiều quốc gia trên thế giới để nói lên nguyện vọng được sống trong độc lập và tự do của nhân dân Tây Tạng.

Tenzin Gyatso chỉ nhận mình là một nhà sư giản dị, không bao giờ tự huyền thoại hóa mình là Phật Sống. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, vẫn luôn luôn là một con người nhu hòa không định kiến, vượt lên trên mọi khen chê. Ông là một con người giàu lòng từ bi, hơn thế nữa là con người của tự do. Với tinh thần bất bạo động linh hoạt – active non-violence, ông luôn luôn cố gắng tái tạo mối liên hệ tin cậy và hòa bình với phía thù nghịch cho dù Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào để gây tai tiếng và bôi nhọ ông.

h4Hình 4: Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng đang chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho nhân dân Tây Tạng. Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự thiêu phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc. Nguồn: AP, photo by Manish Swarup

Cho dù gần đây Trung Cộng cho xây dựng lại một số chùa chiền ở Tây Tạng bề ngoài như một “sửa sai sau Cách Mạng Văn Hóa” nhưng chỉ là để phát triển kỹ nghệ du lịch; cùng một lúc họ cho gài công an chìm vào khắp các tu viện, đi xa hơn nữa Bắc Kinh còn cấm người trẻ đi tu và đồng thời cưỡng bách các vị sư già ngoài 60 tuổi phải về hưu trong khi vẫn không ngừng rêu rao “Tự do tôn giáo là điều được ghi trong hiến pháp”.

Nếu chỉ viếng thăm Tây Tạng “như một khách du lịch” và đi theo đoàn du khách với cô hướng dẫn người gốc Hán thì mọi sự đều rất êm thấm, cũng như một số khách Tây Phương – kể cả chánh trị gia lão thành Edward Heath cựu thủ tướng Anh, được Bắc Kinh tổ chức cho đi thăm Tây Tạng, khi trở về nói mọi chuyện ở đó đều tốt đẹp. Họ nói thật qua những điều dàn dựng và được phép cho thấy. Và bao giờ cũng vậy, những điều cho thấy ấy là một sự dối trá trắng trợn.

TÂY TẠNG VÀ BÀI HỌC AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ

Trong khoảng hơn 20 năm từ 1995, kể từ khi có mối quan tâm về con Sông Mekong dài hơn 4,800 km ấy, về phương diện địa dư chính trị/ geopolitics, người viết luôn luôn xem Tây Tạng như một quốc gia, và con Sông Mekong chảy qua 7 quốc gia – thay vì 6. Nếu không kể Tây Tạng như một quốc gia đầu nguồn, một cách vô thức, cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên hợp thức hoá dã tâm của Bắc Kinh muốn xoá Tây Tạng trên bản đồ thế giới.

Trong buổi lễ trao Giải thưởng Nhân quyền Robert F. Kennedy ngày 9 tháng 11 năm 1998 tại Đại Học Georgetown, Đức Dalai Lama tỏ ý ao ước được viếng thăm Việt Nam năm 2000. Điều đặc biệt hơn nữa là Đức Dalai Lama còn có đề nghị với các học giả Việt Nam hãy cung cấp cho các nhà sử học Tây Tạng những sử liệu liên quan tới mối quan hệ giữa Việt Nam – Trung Hoa và Việt Nam – Tây Tạng.

Và ai cũng hiểu rằng Đức Dalai Lama muốn nhân dân Tây Tạng tìm đến “Bài học Việt Nam”, làm thế nào dân tộc Việt vẫn lấy lại được nền tự chủ sau cả ngàn năm đã bị người Tàu đô hộ và quyết tâm đồng hóa. Đó như một “thông điệp hy vọng” của những người dân Tây Tạng đang bị Trung Quốc áp bức như hiện nay. (4)

Nhưng cũng để thấy ngay một khác biệt sâu xa giữa hai quốc gia Việt Nam và Tây Tạng. Trong hơn một ngàn năm bị đô hộ ấy, Trung Hoa chưa có nạn nhân mãn, Việt Nam vẫn là xứ xa xôi còn bị coi là man di chưa xuống xa tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, chưa phải đối đầu với “chính sách tàm thực di dân Hán hóa” như thảm trạng hiện nay của Tây Tạng, khiến dân Tây Tạng đang mau chóng trở thành thiểu số trong biển người Hán ngay trên chính quê hương của họ. Với chiêu bài dân chủ nhân danh quyền tự quyết, nếu có một cuộc trưng cầu dân ý diễn ra trên đất nước Tây Tạng do Bắc Kinh chủ xướng, thì đó là một “cuộc tự sát” mà không một người dân Tây Tạng nào có thể ngây thơ chấp nhận.

Đã 16 năm kể từ năm 2000, Đức Dalai Lama năm nay cũng đã hơn 81 tuổi, và không có cuộc viếng thăm nào của Đức Dalai Lama tới Việt Nam. Chấp nhận hay không cuộc viếng thăm ấy là một thử thách can đảm đối với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội. Đó cũng là thước đo mức tự chủ của Việt Nam đối với Trung Quốc.

TÂY TẠNG MẠCH SỐNG CỦA CHÂU Á

Các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng. (2)

Phía tây, gần rặng núi Kailash là hai con Sông Indus và Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi.

Phía nam là con Sông Yarlung Tsangpo hay “nguồn tinh khiết” còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông mang tên Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, thuộc Ấn Độ Dương.

Phía đông là khởi nguồn của các con sông lớn khác: Sông Dương Tử 6,500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải, còn Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi sang đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.

Phía nam là hai con Sông Irrawaddy và Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman, những con đập thuỷ điện Made-in China nay đang bắt đầu xiềng xích và huỷ hoại hệ sinh thái của hai con sông Miến Điện này. [Hình 5]

h5Hình 5: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave MacMillan 2014

Riêng con Sông Mekong dài hơn 4,800 km, mang nhiều tên khác nhau, bắt nguồn từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá,” tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng,” qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ,” xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn” cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long “chín con rồng” với hai nhánh chính là Sông Tiền và Sông Hậu đổ ra Biển Đông bằng chín cửa sông, và nay chỉ còn bảy.

Cũng để thấy một con Sông Mekong hoang dã không còn nữa khi 6 con đập dòng chính khổng lồ Vân Nam đã hoàn tất, và 12 con đập hạ lưu Lào và Cam Bốt đang lần lượt được triển khai, cùng với những kế hoạch thuỷ lợi nguy hiểm là chuyển dòng lấy nước trên suốt chiều dài con Sông Mekong. Hậu quả là sự suy thoái của toàn thể hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long thì khô hạn, nhiễm mặn và đang chết dần.

TIẾNG NÓI BẢO VỆ MÔI SINH

Đức Dalai Lama không chỉ là vị lãnh đạo tinh thần của dân Tây Tạng, ông còn là tiếng nói của “từ tâm” luôn luôn đấu tranh cho nhân quyền và bảo vệ môi sinh cho toàn hành tinh này.

Với quốc gia Tây Tạng, Đức Dalai Lama đã giành ưu tiên cho bảo vệ môi sinh thay vì thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng.

“Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 – 10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi.”

Đức Dalai Lama đã nói với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer như vậy trong một gặp gỡ ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8, 2009. Nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10-8-2009

Từ trên đầu nguồn, những con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc phá huỷ một cách toàn diện và có hệ thống: với khí thải từ các nhà máy gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết đang tan rã, rồi nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, tàn phá sinh cảnh, gây ô nhiễm các nguồn nước; những con sông trên Cao nguyên Tây Tạng cũng đang bị Trung Quốc xiềng xích bởi những con đập thuỷ điện và người dân Tây Tạng thì bị đuổi ra khỏi vùng đất đang sinh sống của họ.

h6Hình 6: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014

Hoa Lục xác nhận là sẽ xây các con đập lớn trên thượng nguồn Sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân của 3 quốc gia này.

Giới chức Hoa Lục cho biết họ sẽ còn xây thêm những con đập khác giữa các quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Nguồn năng lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển Đông. Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định: “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng của Trung Quốc”.

Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc — thực ra là trong lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại tới mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh:

Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Tsangpo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn Sông Lancang – Mekong”.

h7Hình 7: Cứu Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á. Nguồn: International Campaign for Tibet

Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương nhưng Đức Dalai Lama cũng rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông đề cập tới vấn đề môi sinh với một tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và luôn luôn muốn “giữ xanh” hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [06.05.1986]:

“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này… Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau.”

NGÔ THẾ VINH

California, ngày 11.01.2017

_____

Tham khảo:

1/ Freedom in Exile; The Autobiography of The Dalai Lama. Tenzin Gyatso, Hodder & Stoughton Ltd, London, 1990.

2/ Meltdown in Tibet: China’s Reckless Destruction of Ecosystems from the Highlands of Tibet to the Deltas of Asia. Michael Buckley. Palgrave MacMillan, New York, 2014   

3/ Global Ecology and the Made in China Dams; Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 2010; http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62

4/ The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Press, Người Việt Books, Nxb Giấy Vụn 2016.

CHÚC MỪNG ANH – ĐẶNG XUÂN DIỆU.

From facebook:  Phan Thị Hồng with Hoang Le Thanh.
CHÚC MỪNG ANH – ĐẶNG XUÂN DIỆU.

Ngày mai 12/1/2017, Người bị tuyên án 13 năm tù – anh Đặng Xuân Diệu – bị trục xuất sang Pháp chữa bệnh.

Báo cáo từ CA Nghệ An cho biết chiều nay 12/1, Công An tỉnh Nghệ An đã tới gia đình anh Đặng Xuân Diệu để thông báo: TNLT Đặng Xuân Diệu sẽ lên đường đi Pháp vào tối mai, 13/1/2017, kết thúc sớm 13 năm thi hành án (kể từ 30/7/2011).

Anh Diệu là 1 trong nhóm 14 thanh niên bị khép vào điều 79 BLHS.

Anh đi Pháp theo chữa bệnh vì sức khoẻ hiện đang rất kém.

Chúc mừng anh Diệu & gia đình, mặc dù anh sẽ không được gặp mẹ anh trước khi đi (từ trại giam Xuyên Mộc – HCM – Paris).

Cảm ơn anh Tam Trương Minh và nhiều anh em bạn bè khác đã kiên trì đồng hành suốt thời gian qua.

—————————–

Đại diện nhà nước CHXHCN Việt Nam vừa chính thức tới gặp thân nhân của tù nhân lương tâm Đặng Xuân Diệu ở xóm 3 xã Nghi Đồng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để thông báo cho gia đình biết Nhà nước Việt Nam đã chính thức chấp nhận đề nghị của một số cơ quan ngoại giao Quốc tế trong việc từ bỏ việc giam giữ anh Đặng Xuân Diệu kể từ ngày 12 tháng 1 năm 2017.

Anh Đặng Xuân Diệu là một trong ba người bị án cao nhất (13 năm tù giam) trong vụ án 14 thanh niên Công giáo năm 2011 với nhiều tai tiếng bấy lâu nay.

Cho đến nay, đã có 12 trong tổng số 14 người bị kết án đã được trả tự do. Hai người còn lại đó là anh Hồ Đức Hoà với 13 năm tù giam và chị Nguyễn Đặng Minh Mẫn với 8 năm tù giam.

Việc nhà nước Việt Nam chấp nhận phóng thích anh Đặng Xuân Diệu là kêt quả của rất nhiều năm đấu tranh, vận động của các tổ chức theo dõi nhân quyền, các tổ chức nhân đạo, các cơ quan ngoại giao và nỗ lực của nhiều cá nhân.

Có rất nhiều nguồn tin cho biết, các cá nhân, tổ chức khác vẫn đang theo dõi chặt chẽ việc giam giữ hai người còn lại của vụ án này và hồ sơ vụ án này sẽ còn được họ sử dụng trong nhiều năm tới như một bằng chứng về tình trạng bắt người, xét xử, giam cầm và tra tấn người một cách tuỳ tiện vô luật pháp của nhà nước Việt Nam hiện nay.

Chúng ta hãy cùng chờ xem các diễn biến tiếp theo về trường hợp anh Đặng Xuân Diệu và vụ án này.

Theo tin Fb: Tam Trương MinhHoàng Dũng

Image may contain: 1 person, text

Người đàn ông nhập viện bất thường sau khi rời trụ sở công an

 Người đàn ông nhập viện bất thường sau khi rời trụ sở công an

  • Đăng Nhật       
  • Thứ Tư, ngày 11/01/2017

(Dân Việt) Theo bản tường trình của vợ ông Lê Văn Long (SN 1971), sau khi làm việc tại trụ sở Công an thị trấn Đăk Hà (huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum), ông Long phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Kon Tum trong tình trạng vỡ ruột non, gãy xương quai hàm, bầm tím nhiều nơi trên cơ thể…

ong-long

 

 

 

 

 

 

 

Ông Long đang điều trị tại bệnh viện.

Cà Mau: Cầu vừa thông xe, chưa khánh thành đã sập

Chân Trời Mới Media added a new video.

Cà Mau: Cầu vừa thông xe, chưa khánh thành đã sập

Chiếc cầu Ô Rô ở Xã Đất Mũi, Huyện Ngọc Hiển, Tỉnh Cà Mau vừa gây xôn xao cả nước khi vừa khánh thành ít hôm đã sập đùng xuống nước. May cầu sập trong đêm, nên không nghe nói có ai bị thiệt mạng. Tuy nhiên cầu sập trong tình trạng chẳng có gì đè lên nó!

Các phóng viên không giấu nỗi ngao ngán tình trạng thi công ẩu chiếc cầu 4 tỉ và xây trong 3 năm này không thua gì dân địa phương nên đưa ra lời bình hơi nặng so với truyền thông lề đảng.

Nguồn clip: HGTV

Chủ bút Người Việt sang làm trưởng Ban Việt Ngữ đài VOA

 Chủ bút Người Việt sang làm trưởng Ban Việt Ngữ đài VOA

Nhà báo Phạm Phú Thiện Giao. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

WASHINGTON, DC (NV) – Nhà báo Phạm Phú Thiện Giao vừa từ nhiệm chức chủ bút nhật báo Người Việt để sang làm trưởng Ban Việt Ngữ đài phát thanh Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) tại Washington, DC, bắt đầu từ Tháng Giêng, 2017.

Nhà báo Phạm Phú Thiện Giao gia nhập nhật báo Người Việt năm 2002, bắt đầu cầm bút năm 2003, và sau đó làm phụ tá tổng thư ký.

Năm 2008, ông làm biên tập viên chương trình Việt Ngữ đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA), Washington, DC.

Ông bắt đầu đảm nhiệm vị trí chủ bút nhật báo Người Việt, Westminster, từ năm 2009 đến năm 2017.

Ông Giao tốt nghiệp kỹ sư cơ khí tại Sài Gòn và cao học kinh tế tại Hoa Kỳ.

Theo trang web của đài VOA, các chương trình tiếng Việt đầu tiên được phát thanh từ năm 1943 đến năm 1946. Ðến năm 1951, Ban Việt Ngữ bắt đầu hoạt động liên tục cho đến nay.

 

Hiện nay, VOA tiếng Việt có hai buổi phát thanh mỗi ngày tại Việt Nam, và có bản tin trên Internet, phục vụ trên 90 triệu thính giả/độc giả Việt Nam trong nước và hàng triệu người Việt ở nước ngoài.

Ngoài ra, VOA tiếng Việt cũng phát hành một trang báo mạng tại địa chỉ www.voatiengviet.com và các chương trình truyền hình trên mạng ở trang nhà, Youtube, và Facebook, với nội dung chính là tin thời sự liên quan đến Việt Nam, Châu Á, và thế giới, cùng các chuyên mục khác về phụ nữ, đời sống, thể thao, dạy Anh Ngữ… (Ð.D.)

Thủ tướng Việt Nam thừa nhận nợ công vượt trần

 Thủ tướng Việt Nam thừa nhận nợ công vượt trần

VOA

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thừa nhận nợ công của chính phủ Việt Nam đã vượt trần

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thừa nhận nợ công của chính phủ Việt Nam đã vượt trần

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thừa nhận nợ công của chính phủ Việt Nam đã vượt trần và cảnh báo về nguy cơ sụp đổ nền tài khóa quốc gia nếu tình trạng này không được chấm dứt.

Tại một hội nghị tổng kết ngành tài chính được tổ chức tại Hà Nội hôm 6/1, thủ tướng được các báo trong nước trích lời cho biết tỷ lệ nợ công tăng rất nhanh, trung bình gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP trong 5 năm qua.

Theo ghi nhận của truyền thông trong nước, bộ tài chính ước tính nợ công của Việt Nam chiếm 64.73% GDP vào cuối năm ngoái – gần chạm ngưỡng cho phép 65%.

Nên hay không nên bỏ Tết ta?

Nên hay không nên bỏ Tết ta?

Hương sắc Tết cổ truyền

Hương sắc Tết cổ truyền

 

Sau khi Giáo sư – Tiến sĩ Võ Tòng Xuân lặp lại ý kiến của 11 năm trước cho rằng Việt Nam không nên ăn Tết cổ truyền nữa mà nên theo Nhật Bản, chỉ tổ chức mừng Tết dương lịch, một số trí thức trong nước đã lên tiếng tán thành, ủng hộ đề nghị này của ông, nhưng cũng có người cho đây là bản sắc của Việt Nam, không thể bỏ được.

Trả lời VTC News, GS. Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường đại học Nam Cần Thơ nói việc tổ chức Tết Nguyên Đán dài ngày sẽ khiến cho Việt Nam mất nhiều cơ hội làm ăn, giao thương với các đối tác nước ngoài, nhất là trong điều kiện Việt Nam còn là một nước nghèo. Ủng hộ quan điểm của GS. Xuân, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương, cũng cho rằng ăn Tết cổ truyền gây ra nhiều lãng phí, giảm hiệu quả kinh tế vì bỏ lỡ các giao dịch, hội nghị, giao ước quốc tế… Kinh tế gia Phạm Chi Lan cũng đồng ý quan điểm trên. Theo bà, nếu gộp Tết tây và Tết ta với nhau, con cháu những người Việt ở nước ngoài sẽ thuận tiện về thăm gia đình, họ hàng tại Việt Nam.

Là một trong những người ủng hộ bỏ Tết ta, nhà giáo Phạm Toàn từ Hà Nội, người đứng đầu nhóm biên soạn bộ sách giáo khoa mới cho học sinh Việt Nam, nói với VOA rằng việc bỏ Tết ta còn giúp hạn chế nhiều điều tiêu cực trong xã hội như nạn biếu xén, rượu chè, cờ bạc, tai nạn giao thông… Ông nói:

“Từ lâu mình vẫn nghĩ Việt Nam chỉ nên làm một cái Tết dương lịch thôi. Là vì thế này, cái Tết ta chỉ phù hợp với một nước nông nghiệp, nên có cái bài ‘Tháng Giêng là tháng ăn chơi’. Ngày xưa thì được, bây giờ thì không được. Bây giờ là phải làm việc có kỷ luật, tính đến chuyện làm, chuyện học, chuyện con người. Con người Việt Nam bây giờ năng suất thì kém. Tết ra thì cơ quan, học sinh, sinh viên, giáo viên lè phè lè phè. Dư âm của Tết Việt Nam tệ lắm. Trước Tết thì chạy chỗ nọ, chạy chỗ kia…”

Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, hiện đang có 3 luồng ý kiến xung quanh chuyện tổ chức Tết âm lịch. Một luồng ý kiến cho rằng nên bỏ hẳn Tết âm lịch và chỉ mừng Tết dương lịch như các nước phương Tây hay Nhật Bản. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng vẫn nên tổ chức cả hai dịp Tết dương và âm lịch như lâu nay. Ý kiến thứ ba cho rằng nên gộp hai dịp Tết làm một. TS. Nguyễn Xuân Diện giải thích nguyên nhân của vấn đề gây tranh luận này.

“Sở dĩ có cái tâm lý như thế này là bởi vì cái Tết bây giờ nó không như ngày xưa nữa. Ngày xưa, người ta chờ đợi một cái Tết để được ăn uống, chơi bời, ăn mặc đẹp, thăm thú… Nhưng bây giờ tất cả những nhu cầu đấy không còn như xưa nữa. Ngay cả Tết cổ truyền, người ta thay vì về quê quán, thì cũng có những người thích đi du lịch v.v… Tâm lý của người Việt Nam trước cái Tết cổ truyền cũng không còn như ngày xưa”.

Nhà giáo Phạm Toàn và nhiều trí thức khác cho rằng Việt Nam chỉ nên giữ lại những tập tục đẹp của dịp Tết âm lịch và gộp chung vào dịp Tết dương lịch cho phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước. Ông nói:

“Nếu cần thì cho Tết dương lịch nghỉ hẳn từ Giáng sinh đến Tết dương lịch. Hoặc có thể Tết dương lịch cho nghỉ hẳn 3 ngày, 4 ngày, tùy. Cái đó là cái quyền của mình. Nhưng ngày Tết chỉ nên nghỉ một lần thôi”.

Tuy nhiên, TS. Nguyễn Xuân Diện lại cho rằng Tết âm lịch là một dịp tết cổ truyền của Việt Nam, có liên quan đến những nét văn hóa rất đặc trưng của Việt Nam như mùa vụ, lễ hội, cúng tế… hay tâm lý hướng về cội nguồn của người Việt. Vì vậy cho dù có đang trên đường hiện đại hóa, Việt Nam vẫn nên giữ cái hồn này.

“Xã hội hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là không Tết cổ truyền nữa thì đó là một ý kiến sai lầm và nó sẽ làm cho xã hội Việt Nam mất cân bằng về mặt văn hóa và tâm linh. Bởi điều đó sẽ biến con người thành những con rôbốt, chỉ biết kiếm tiền và làm việc như một cái máy”.

Với quá trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, TS. Diện ủng hộ ý kiến cho rằng Việt Nam vẫn nên giữ cả hai dịp Tết. Ông cho biết thêm:

“Việt Nam hiện đang chuẩn bị một hồ sơ để trình lên UNESCO để công nhận Tết cổ truyền âm lịch là một di sản văn hóa phi vật thể. Là một người nghiên cứu về cổ truyền đã lâu, tôi vẫn tán thành việc vẫn tiến hành songsong cả hai cái Tết âm lịch và dương lịch để giữ lại những nét văn hóa đặc sắc về phong tục và mọi mặt của đời sống văn hóa và tâm lịch của Việt Nam”.

Nhà nghiên cứu của Viện Hán Nôm cho rằng để hạn chế những điều tiêu cực của việc tổ chức Tết Nguyên đán dài ngày, Việt Nam nên tiến hành các nghiên cứu, điều tra khoa học để đưa ra quyết định phù hợp với xã hội hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc Việt.

Ngày mùng 1 Tết Đinh Dậu năm nay rơi vào ngày 28/1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam đã ra thông báo chính thức nghỉ Tết liên tục 7 ngày, từ 26/1 – 1/2/2017.

Đôi dòng suy nghĩ

Đôi dòng suy nghĩ

Chỉ còn 20 hôm nửa là đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc , nhìn cảnh người Việt tỵ nạn

chen chút  nhau về VN để ai là người Việt tự do đều không khỏi xót xa .

Nhớ lại trước kia Ông  Cựu Thủ Tướng Singapore Lý Quang Diệu chỉ mong ước sao cho

Singapore được như » Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông « .

Ngày nay Singapore đã là quốc gia « giàu có nhất Á Châu » .

Trước kia , Nam Hàn có hoàn cảnh chia cắt  giống Nam VN , nhưng cho đến thời Đệ 1 Cộng Hoà

đời sống của người Hàn Quốc còn thua xa Miền Nam VN .

Ngày nay Hàn Quốc đã trở thành « 1 trong 10 quốc gia phát triển nhất TG » .

Còn VN , với 63 năm ở Miền Bắc , 42 năm ở Miền Nam , dưới ách thống trị của

đảng cướp vc đã trở thành  «  quốc gia nghèo nàn lạc hậu , xã hội băng hoại ,

đạo đức ,luân lý suy đồi và hoạ diệt vong ngày càng kề cận  « .

Dẩu rằng VN thật dồi dào tài nguyên : nông , lâm , khoáng ,thuỷ sản  , nhân lực

và chất xám , nhưng tại sao  VN lại trở nên như thế ???  .

Là người có công tâm thì ai cũng biết đó là do « chế độ phi nhân vc » gây nên.  .

Lịch sử mấy nghìn năm của VN chưa có thời nào đen tối  như dưới thời XHCN của vc ,

Theo luật đời thì « kẻ hung bạo nào rồi cũng bị huỷ diệt » ,  nhưng tại sao cho đến nay

vc vẫn tồn tại ???  .

Đan cử trong năm 2015 vc nhận được 11 tỉ đô la kiều hối .

Trong khi từ 1991 đến 2011 , TC đầu tư vào VN    4,3 tỉ đô la tổng số vốn đầu tư  , 2,2 tỉ

tổng số vốn điều lệ ( theo tài liệu luận án thạc sĩ kinh tế của BÀ Nguyễn Thu Hằng – thuộc

Đại Học Kinh Tế ) .

Như vậy là trong 20 năm TC đã đầu tư vào VN chỉ tròm trèm 1 /2 kiều hối vc nhận được trong

năm 2015 của người Việt hải ngoại gửi về .

Còn người VN ở hải ngoại vì tình nghĩa đồng bào giúp đở.

Không phải là tất cả người Việt tự do ở hải ngoại đã mất đi lý tưởng đấu tranh để

giải thể chế độ phi nhân vc , nhưng  thật đau lòng để biết là  số người  đã

tiếp tay giúp cho đảng cướp vc  tồn tại  , ngày càng thêm đông đảo  .

Họ là ai ? – «  là những kẻ đã tự phản bội cái tư cách tỵ nạn «  , gồm :

  • Những người chưa từng nếm mùi địa ngục của các trại tù cải tạo, vùng kinh tế mới,
    hay những cuộc vượt biên , vượt biển hải hùng ( vì đã thoát đi từ 1975) .
  • Những ngài HOđã quên cái quá khứ  trong lao tù cs , về VN để hưởng thụ
    trên của các cháu gái khốn khổ tuổi đáng cháu ngoại , cháu nội .
  • Những Bà đã quên đi vết rách do hải tặc gây nên, về VN để khoe áo gấm hoặc  hưởng
    thụ những đặc sản của quê hương .
  • Những  kẻ vì háo danh , hám lợi về VN  .
  • ………………………

VC dự trù năm 2016 sẽ thu về 12 tỉ đô la kiều hối , nhưng chỉ được “biếu” có 9 tỉ .
Thất thu 3 tỉ đô la. Tại sao người Việt tự do của chúng ta lại không đánh vào chỗ đó ? .

Vấn đề của VN ta  ,đừng mong quốc gia nào khác làm thay . Hảy đồng tâm  «  KHÔNG VỀ VN
(trừ lý do chính đáng ) KHÔNG GỬI TIỀN VỀ VN «  , tạo thời cơ để dân trong nước thức tỉnh và
vùng lên . Chắc chắn trong 1, 2 năm chế độ vc sẽ sụp.
Nhân vô thập toàn , ai trong đời cũng có lúc hành xử không đúng , tôi viết lên đôi dòng này
không nhằm chỉ trích mà chỉ mong thức tỉnh những ai còn nghĩ đến tiền đồ tổ quốc  , trong khả năng
góp phần xây dựng lại đất nước  , đừng để quá muộn rồi hối tiếc cũng vô ích

HQ.tkd

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

duc-datlailatma

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

Hãy quay về tìm nó ở trong ta
Chỉ cần tâm thanh thản sẽ nhận ra
Vì hạnh phúc là điều đơn giản nhất

Khi ăn uống biết ngon là hạnh phúc
Khi tai còn nghe rõ những âm thanh
Khi mắt còn thấy rõ áng mây lành
Khi đi đứng nói làm đều tự tại

Biết giúp ích nhân loại điều thiết thực
Biết sẻ chia vật chất lẫn tinh thần
Biết cảm thông mọi rắc rối thế nhân
Biết trang trải bằng tình thương chân thật

Người hạnh phúc nhất là người trầm tĩnh
Trái tim người thật sự vị nhân sinh
Mọi việc làm có chánh niệm phân minh
Sự an tịnh tâm hồn luôn có mặt.

( Tường Vân )

duc-dat-2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGUYỄN ĐẶNG MINH MẪN, sinh nhật trong tù.

From facebook:   Phan Thị Hồng‘s post.
Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: 5 people, people standing, text and outdoor
Image may contain: 1 person
Image may contain: 4 people, people standing
Image may contain: flower
Phan Thị Hồng added 5 new photos — with Suong Quynh 

 NGUYỄN ĐẶNG MINH MẪN, sinh nhật trong tù.

Ngày 10/1/2017, sinh nhật 32 tuổi người con gái đang ở trong tù !!!

NGUYỄN ĐẶNG MINH MẪN bị bắt ngày 31 tháng 7 năm 2011. Cô, mẹ cô là bà Đặng Ngọc Minh và anh trai Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc bị Tòa án tỉnh Nghệ An xét xử trong phiên tòa kéo dài hai ngày 8 và 9 tháng 1 năm 2013 với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền theo điều 79 Bộ Luật hình sự Việt Nam” cùng với nhóm tất cả 14 nhà yêu nước, hoạt động nhân quyền và thanh niên Công giáo ở Vinh.

Trong vụ án này, 79 năm tù là mức án dành cho 14 con người yêu nước.

Đặc biệt, trong vụ án này có 3 mẹ con cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn cùng bị bắt, gồm mẹ cô bà Đặng Ngọc Minh (SN 1957), anh trai Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc (SN 1980) và Nguyễn Đặng Minh Mẫn (SN 1985) cùng trú tại TP Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị tuyên án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế. Người mẹ Đặng Ngọc Minh bị tuyên 3 năm tù và 2 năm quản chế. Bà Minh mãn án vào ngày 10 tháng 6 năm 2014. Người anh trai Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc bị 3 năm án treo.

Chúc Mừng sinh nhật một cô gái tuổi đời còn rất trẻ mà đã hơn 5 năm lao khổ trong ngục tù, chuỗi ngày tù ngục của cô còn dài thăm thẫm.

Căm phẫn, đau đớn và xót xa!

Lại thêm một cái Tết trong đêm đông lạnh lẽo dành cho những con người yêu nước !!!

Xin gióng một tiếng chuông nhớ thương một người !!!

Tai họa Formosa, phân nửa sự thật và sự suy đồi

Kính Hòa, phóng viên RFA
2017-01-09
Ban giám đốc tập đoàn Formosa cúi đầu xin lỗi người dân Việt Nam tại cuộc họp báo công bố lý do cá chết hàng loạt ở miền trung Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 2016 tại Hà Nội.

Ban giám đốc tập đoàn Formosa cúi đầu xin lỗi người dân Việt Nam tại cuộc họp báo công bố lý do cá chết hàng loạt ở miền trung Việt Nam ngày 30 tháng 6 năm 2016 tại Hà Nội.

AFP photo

Môi trường và chính trị

Vụ nhiễm độc biển, làm cá chết hàng loạt, do chất thải của nhà máy luyện thép Formosa gây ra, bùng nổ vào đầu tháng tư năm 2016. Hàng ngàn tấn cá chết dạt vào bờ biển Hà Tĩnh, Quảng Bình, QuảngTrị, và Thừa Thiên Huế trong tháng tư và tháng năm. Tai họa môi trường này làm cho hàng chục ngàn ngư dân mất việc làm, kéo theo hàng loạt những cuộc biểu tình bảo vệ môi trường, đòi đền bù, trong đó có những cuộc biểu tình lên đến 10 ngàn người.

Thế nhưng vụ Formosa không được Bộ tài nguyên và môi trường xếp vào một trong 10 sự kiện nổi bật của ngành tài nguyên và môi trường trong năm 2016.

Trong 10 sự kiện nổi bật mà Bộ tài nguyên môi trường công bố, có phân nửa là các nghị quyết, hay chỉ thị của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam. Nhà báo độc lập Huỳnh Ngọc Chênh nhận xét về danh sách 10 sự kiện này:

“Tôi chỉ nhớ loáng thoáng tôi đọc cách đây vài ngày, không còn nhớ rõ, mà nó chả đáng là những sự kiện, trong đó có chuyện triển khai nghị quyết đảng chi đó, chỉ là những chuyện vớ vẩn chẳng phải là một sự kiện.”

Rất nhiều người được chúng tôi tiếp xúc đều nói rằng không thể chối cãi rằng thảm họa Formosa là một sự kiện cực kỳ lớn, thậm chí mang tầm vóc quốc tế, xuyên biên giới.

Tuy nhiên một nhà hoạt động môi trường nổi tiếng ở Việt Nam là kỹ sư Nguyễn Huỳnh Thuật cho rằng:

“Nó (vụ Formosa) không chỉ là vấn đề môi trường mà còn là một câu chuyện chính trị nữa, cho nên tôi cũng không rành lắm. Đâu phải vấn đề gì dân đồng ý mà họ đồng ý đâu.”

Không đếm xỉa gì đến nỗi bất hạnh của dân. Người ta chỉ coi trọng vai trò của nhà nước và sự lãnh đạo của đảng thôi. Họ coi đấy là số một. Và như thế hết sức là bi kịch.
-Ông Nguyễn Khắc Mai

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh cho rằng vụ Formosa không chỉ đơn giản là một tai nạn do doanh nghiệp gây ra mà nó còn liên quan đến hàng loạt quan chức Việt Nam đã cấp giấy phép hoạt động cho công ty này, từ ông cựu Thủ tướng, cựu Bộ trưởng cho đến viên bí thư tỉnh ủy Hà Tĩnh. Vì thế theo ông Huỳnh Ngọc Chênh:

Qua những chuyện như vậy thì thấy rằng họ không đưa sự kiện Formosa vào trong 10 sự kiện là họ có ý đồ, muốn bưng bít không cho người dân nhớ đến chuyện này.”

Lên tiếng giải thích với công luận Việt Nam tại sao vụ Formosa không được đưa vào làm một trong những sự kiện quan trọng của ngành tài nguyên môi trường, một quan chức Việt Nam của Bộ Tài nguyên  và môi trường nói rằng chỉ ghi nhận những sự kiện mang tính tích cực mà thôi.

Một cựu viên chức từng phụ trách ngành dân vận của đảng cộng sản Việt Nam là ông Nguyễn Khắc Mai nói với chúng tôi rằng việc đưa tin tức theo kiểu chỉ loan báo những điều tốt đẹp vẫn còn trong não trạng quan chức Việt Nam.

“Đó là cái bệnh, cái tật bệnh của chủ nghĩa Mác Lê Nin, phải nói thẳng như vậy. Bởi vì thực chất người ta coi dân không ra gì. Không đếm xỉa gì đến nỗi bất hạnh của dân. Người ta chỉ coi trọng vai trò của nhà nước và sự lãnh đạo của đảng thôi. Họ coi đấy là số một. Và như thế hết sức là bi kịch.”

Ông Nguyễn Khắc Mai còn so sánh chế độ của đảng cộng sản ngày nay còn kém hơn các triều đại phong kiến trước kia, khi vua quan đứng ra nhận lỗi lầm hoặc tổ chức tưởng nhớ những người dân thiệt mạng khi những vụ thiên tai địch họa xảy ra.

Thông tin có lợi và thông tin có hại

000_CL918-400.jpg
Từ trái qua: Bộ trưởng Bộ nguồn tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông Trương Minh Tuấn, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng tại cuộc họp báo công bố lý do cá chết hàng loạt ở miền trung Việt Nam. Ảnh chụp ngày 30/6/2016 tại Hà Nội. AFP photo

Nhận định về việc loan truyền tin tức về những vụ tiêu cực tại Việt Nam trong những năm vừa qua nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh cho biết là do ảnh hưởng của mạng lưới thông tin điện tử nên những người cầm quyền tại Việt Nam cũng cho phép một sự thông tin tự do hơn:

“Càng ngày nhà nước cũng mạnh dạn công khai thông tin, kể cả những thông tin tiêu cực, không bưng bít một cách tuyệt đối như ngày xưa. Nhưng việc công khai nó ra cũng chưa đến đâu cả, vẫn tùy theo thông tin, có lợi hay không có lợi cho đảng, cho nhà cầm quyền.”

Liên quan đến tại họa môi trường Formosa, ông Nguyễn Huỳnh Thuật cho rằng có lẽ chính quyền sợ rằng nếu xếp vụ này vào một trong 10 sự kiện nổi bật nhất trong ngành môi trường trong năm 2016, nhà nước sợ rằng dân chúng sẽ vin vào đó tiếp tục đòi hỏi việc đền bù cho mình, hay là sẽ tiếp tục kéo theo những cuộc phản kháng.

Cách nhìn nhận vấn đề như vậy của nhà nước Việt Nam bị ông Nguyễn Khắc Mai cho là rất kém, lợi bất cập hại:

“Ngu xuẩn thì mới làm như vậy, chứ nếu mà khôn ra thì biết an ủi dân, để từ đó người ta có thể quên đi, người ta tha thứ cho. Còn làm như thế này tưởng để người ta quên đi, nhưng thật ra lại nhấn vào, khoét sâu vào nổi đau của dân tộc.”

Một nửa sự thật

Theo kỹ sư Nguyễn Huỳnh Thuật, người từng phản kháng thành công việc xây dựng hai nhà máy thủy điện có nguy cơ gây hại môi trường trên sông Đồng Nai, thì cái cách nhìn nhận vấn đề hiện nay của chính quyền là cái cách chỉ đưa ra được phân nửa sự thật. Ông nói tiếp:

“Vấn đề là sự thật cần được nhìn nhận, nhìn nhận được rồi thì mình sẽ có cách để chuyển hóa, để cho nó tốt hơn. Không dám nhìn nhận sự thật thì nó rất là khó. Mà trong bối cảnh này thì sự thật chưa được nhìn nhận, cũng như nhiều sự thật trước kia không được nhìn nhận.”

Kết thúc buổi nói chuyện với chúng tôi, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, người từng tham gia các cuộc biểu tình vì môi trường sau vụ Formosa, một lần nữa nhấn mạnh tầm vóc thảm họa Vũng Áng Formosa:

Tập thể những nhà lãnh đạo phải can đảm nhìn vào sự thật.
-Ông Nguyễn Huỳnh Thuật

Đó là một sự kiện vô cùng lớn, từ Nghệ An vào đến Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, làm cho bao nhiêu ngư dân điêu đứng, làm cho cả một nền kinh tế biển và du lịch ở cả dãy đất miền Trung bị thiệt hại nặng nề. Mà cho đến bây giờ người dân vẫn chưa tìm ra lối ra để sinh sống. Cho nên đó là một sự kiện rất lớn.”

Ông Nguyễn Khắc Mai cho rằng ông lo rằng những diễn biến sau khi xảy ra thảm họa, cái cách nhà cầm quyền giải quyết sự việc là một điều nguy hiểm rất nghiêm trọng cho đất nước và dân tộc Việt Nam hiện nay:

Tôi sợ đây là một vấn đề mà tôi cho là sự suy đồi văn hóa, một văn hóa chính trị đang suy đồi, và đấy là nỗi bất hạnh của dân thôi.”

Ông Nguyễn Huỳnh Thuật, người đang thực hiện thành công khu du lịch sinh thái Rừng Gọi tại vùng Nam Cát Tiên, lại có cái nhìn lạc quan hơn, mặc dù ông vẫn cho rằng có nhiều câu chuyện về môi trường tại Việt Nam không kết thúc có hậu như chuyện ông và đồng nghiệp phản đối các dự án thủy điện trên sông Đồng Nai. Theo ông thì để giải quyết những vấn đề đó cần một sự can đảm của tập thể những nhà cầm quyền, dám nhìn thẳng vào sự thật.