Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN?

Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN?

Mai Thanh Truyết (Danlambao) – Câu hỏi cho hôm nay: “Ngày mai, tương lai Việt Nam có tươi sáng, có trở thành một cường quốc hay không tùy thuộc vào thể chế chính trị có thay đổi thành dân chủ hay không?”
Đây là một sự thật rất rõ ràng mà có lẽ không người dân Việt Nam nào không thấy. Nhưng trước khi có dân chủ thì phải thoát khỏi ách độc tài toàn trị của cộng sản và chính vì vậy mà có phong trào đấu tranh với ĐCSVN. Tuy nhiên, công cuộc đấu tranh với ĐCSVN thường xảy ra với những cuộc vận động chưa dứt khoát mà thường hay giao động giữa hai mục tiêu: thay đổi thay thế chế độ CSVN.
 
“Thay đổi”“Thay thế” là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau vì nó đòi hỏi những phương pháp đấu tranh khác nhau. Vì thế hai vấn đề mang tầm vóc chiến lược này cần phải được phân định rõ ràng và suy xét cẩn thận. Một khi mục tiêu đã được thống nhất thì phong trào đấu tranh sẽ cùng hướng về một điểm và sẽ tạo sức mạnh tổng hợp.
Một phương cách để tìm hiểu hai khuynh hướng là bằng cách đối chiếu quan điểm và lập luận giữa hai khuynh hướng thay đổithay thế. Từ sự đối chiếu sẽ hiện ra những điểm khôn ngoan hay sai lầm trong những hành động thực hiện. Phần tiếp theo được xếp theo hình thức đối đáp giữa hai khuynh hướng trong từng vấn đề hay quan điểm:
1. Quyền lực của ĐCSVN quá lớn chưa thế lực nào có thể đánh đổ
Khuynh hướng thay đổi:
Chế độ CSVN hay quyền lực của ĐCSVN quá lớn, quá bao trùm chưa thể lật đổ họ được. Những vấn đề căn bản trong khuynh hướng thay đổi có thể liệt kê như sau:
– Về chính trị, ĐCS có mặt, chi phối và kiểm soát mọi ngõ ngách trong cuộc sống của người dân VN. ĐCS tuy ngày nay bị thoái hóa nhưng “uy tín” và thành phần cảm tình với ĐCS vẫn còn quá đông.
– ĐCS đã ý thức được những mầm mống có thể gây nguy hại cho họ nên đã tìm cách nắm giữ tất cả các thành phần có thế lực trong xã hội như giới trí thức, giới doanh gia tư nhân, giới xã hội dân sự, báo chí.
– ĐCS đã học được những bài học Cách mạng Hoa Lài và nắm giữ quân đội rất chặt, đồng thời cũng học từ Tàu cộng về việc thành lập những cơ quan đặc biệt chống biểu tình hùng hậu và đánh trả một cách sắt máu.
– Tinh thần đối kháng của người dân Việt Nam chưa thấy thể hiện. Số lượng người dân thờ ơ và an phận còn quá nhiều. Đối diện với tất cả những trở ngại này, người dân tay không làm sao có thể chống lại? Cho dù có cả triệu người biểu tình cũng sẽ chẳng làm đổ được một nhà cầm quyền có quân đội chống lưng.
 
Khuynh hướng thay thế:
Chế độ độc tài nào cũng nắm gọn mọi quyền lực trong tay để có thể kiểm soát dân chúng.
– Họ chỉ có một phương pháp cai trị duy nhất là bằng bạo lực vì quyền cai trị của họ không đến từ dân chúng.
– Chính sự độc đoán này là yếu điểm của họ. Yếu điểm đó là không danh chính ngôn thuận và không hợp lòng dân, hay nói cách khác ĐCSVN không có chính nghĩa.
– Họ chỉ có thể đánh lừa dân chúng qua tuyên truyền hay mua chuộc dân chúng qua việc ban phát đặc quyền đặc lợi cho một tầng lớp nào đó để làm hậu thuẫn.
– Tất cả những cách thức lấy lòng dân này là sự cố gắng gượng ép cần luôn luôn phải có động lực thúc đẩy. Và nếu động lực thúc đẩy yếu đi thì những thành phần đi theo sẽ giảm đi hay biến mất.
Phương pháp đấu tranh dùng để lật đổ chế độ CS là bất bạo động. Với phương pháp này, việc sở hữu bạo lực chẳng đem lại lợi thế nào cho nhà cầm quyền vì bạo lực chỉ có thể chống lại bạo lực.
– Làm sao có thể đem xe tăng ra bắt người công nhân phải đi làm việc?
– Làm sao công an có thể bắt bỏ tù những người rút tiền của mình ra khỏi nhà băng?
– Sức mạnh của quân đội sẽ không góp gì được cho thế lực của nhà cầm quyền nếu phương pháp bất bạo động được sử dụng khôn khéo.
– Vì thế quyền lực của nhà cầm quyền sẽ không lớn khi cuộc đấu tranh được chuyển sang môi trường bất bạo động và việc lật đổ một nhà độc tài là chuyện khả thi.
2. Dân chúng Việt Nam chưa đủ hiểu biết để có thể thiết lập một thể chế dân chủ ổn định
Khuynh hướng thay đổi:
– Dân chúng Việt Nam chưa đủ ý thức, hiểu biết về dân chủ nên chưa biết tranh đấu cho quyền công dân.
– Nếu thực hiện dân chủ ngay lập tức ở Việt Nam thì sẽ chỉ tạo nên đảng phái chia rẽ, xâu xé nhau và làm đất nước yếu kém đi.
– Cách tốt nhất là thực hiện dân chủ từng bước để bảo đảm sự chuyển tiếp ổn định. Hơn nữa, trong giai đoạn khởi đầu phát triển kinh tế, Việt Nam cần phải có ‘một chút’ độc tài mới có thể phát triển được, như đường đi của các nước Nam Hàn, Đài Loan, Singapore.
– Về nhân quyền, các thứ quyền làm người này chỉ nên giao cho người dân từng bước với giáo dục và thông tin để người dân có thời gian thực tập, tránh khỏi việc lạm dụng và đưa đến tình trạng rối loạn xã hội. Các quốc gia Âu Mỹ cũng đã trải qua cả trăm năm mới có sự trưởng thành dân chủ ngày này. Phương cách thả lỏng dân chủ từng bước là cách thực hiện dân chủ ổn thỏa nhất.
 
Khuynh hướng thay thế:
Nguyên tắc dân chủ bảo đảm một thể chế chính trị của dân, do dân và vì dân. Đây là một thể chế đem công bằng đến cho mọi người dân và không ai, không đảng phái hay nhóm người nào đứng trên ý dân.
– Nguyên tắc này đã được thực hiện tại đa số các nước trên thế giới và không thể sai lầm. Chỉ có thể chế độc tài CS là sai lầm và hiện còn tồn tại ở Việt Nam và 4 quốc gia trên thế giới.
– Quan điểm dân chủ phải được thực thi từng bước để giữ cho xã hội ổn định và một cách chuyển đổi thích hợp cho phát triển kinh tế vững chãi của các nước chậm tiến là một ngụy biện.
– Về thể chế chính trị, tất cả các cuộc thay đổi từ độc tài sang dân chủ đều là sự thay đổi tức khắc, không từ từ từng bước, vì sự mâu thuẫn giữa độc tài và dân chủ không thể có sự trộn lẫn, hoặc 100% dân chủ hoặc 100% độc tài mà thôi.
– Về phát triển kinh tế thì một số nước như Nam Hàn, Đài Loan hay Singapore đã sử dụng quyền lực nhà nước để điều hướng kinh tế hầu tạo sức mạnh cạnh tranh cho các công ty quốc nội đối với các công ty quốc tế. Chuyện nhà nước nhúng tay vào kinh tế không thể được xem là độc tài nếu mục đích nhắm tới là đẩy mạnh tiềm lực kinh tế quốc gia. Chính sách điều hướng kinh tế của các chính phủ dân chủ là góp tay hỗ trợ, khuyến khích phát triển theo hướng hoạch định. Doanh nghiệp nào thuộc lãnh vực quan tâm của chính phủ sẽ được sự hỗ trợ. Chính phủ dân chủ không nhúng tay vào việc điều hành các doanh nghiệp như hình thức quốc doanh ở các chế độ độc tài.
– Vấn đề trật tự xã hội liên quan tới nhiều lãnh vực khác như giáo dục, an ninh, luật pháp. Bảo vệ nhân quyền là bảo vệ cho mọi người dân được nhà cầm quyền tôn trọng và đối xử công bằng. Chỉ có một chính quyền dân chủ mới bảo đảm nhân quyền cho người dân. Một chính quyền độc tài không bao giờ cho người dân có quyền làm người vì khi cho người dân một vài quyền nào đó thì người dân sẽ không phục tùng chính quyền nữa.
Trong giai đoạn đầu của khuynh hướng thay thế, thiết nghĩ hãy khoan đòi những tiêu chuẩn dân chủ cao. Khi chưa có quyền Tự do thực sự mà muốn có Dân chủ toàn vẹn thì nền Dân chủ đó có thể đưa đến giả hiệu ngay. Trước hết hãy nâng cao Dân trí trong những nỗ lực giành các quyền Tự do hiến định: Quyền Tự do Thông tin-báo chí, và Quyền Tự do lập các Hội dân sự, nghề nghiệp, Ái hữu… mà tuy trên danh nghĩa đã có, nhưng nay phải dành cho có được thực chất.
Chính quyền “thay thế” cần phải dựa trên thế hợp pháp mà gở từng bước, tiến tới quyền làm chủ đích thực của người dân. Có được hai loại Quyền nói trên mới mong tiến lên đòi Quyền thứ ba là Quyền ứng cử và bầu cử, để cải biến dần các cơ quan quyền lực và tiến tới một chính thể Dân chủ pháp trị văn minh phù hợp với Dân tộc.
Một khi chưa có khả năng huy động quần chúng để làm “Cách mạng” lật đổ CSVN trực tiếp, thì đây là cung cách duy nhất để thoát khỏi đêm dài toàn trị. Đây chính là con đường HOÀ BÌNH.
Kiến tạo Dân trí và Xã hội dân sự làm nền tảng, chính là tích cực tạo điều kiện để thời cơ xuất hiện.
Con đường diễn biến như vậy tuy có chậm. Không phải vì chúng ta muốn chậm mà không cách nào làm nhanh hơn được! Nhưng bù lại cũng có ưu điểm là vững bền và hợp với tình tự dân tộc và không có sự can thiệp của “thế lực thù địch” mà người dân phải lo sợ.
 
3. Yếu tố ngoại lai hiện tại
Theo Hà Sĩ Phu: “Tôi đã nhận được câu hỏi rằng Mỹ sẽ có chương trình gì để thay đổi chính phủ Việt Nam và tôi đã trả lời thẳng rằng đó không phải là chính sách của Mỹ. Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị của các quốc gia khác. Lợi ích của Mỹ là muốn thấy một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng, độc lập, tôn trọng dân chủ, nhân quyền và pháp quyền. Việt Nam thành công thì điều đó cũng nằm trong lợi ích của Mỹ”.
Qua chiều hướng trên, chúng ta thấy gì?
Rõ ràng là Hoa Kỳ không muốn tìm cách “thay thế” CSVN ở Việt Nam mà chỉ muốn “thay đổi” một số “chính sách cai trị” của ĐCS!
Về phía Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn chịu thuần phục Tập Cận Bình trong chuyến “triều cống” ngày 12 tháng giêng vừa qua, nói lên tính cách nộ lệ của CSVN qua 15 Hiệp ước từ quốc phòng, kinh tế, chính trị, và thương mại ký ngày 15/1/17.
Như vậy, những người con Việt phải làm gì?
Trước khi tham gia vào bất cứ một cuộc đấu tranh nào, ngay cả trong cuộc sống, nếu không muốn thắng thì không nên bước vào. Sự quyết tâm và ý chí quan trọng hơn tính khả thi của vấn đề.
Và sự quyết tâm trong đấu tranh chống CS là:
Lật đổ, hủy bỏ chế độ CSVN, không phải tìm cách thay đổi nó.
– Có sự quyết tâm dứt khoát trên sẽ giúp chúng ta loại trừ được tâm trạng mất tự tin hay yếm thế và dẫn đến tính ỷ lại.
– Sự trợ giúp bên ngoài của ngoại quốc chỉ là phụ thuộc. Chúng ta phải tự lực cánh sinh.
– Sự quyết tâm còn giúp những người con Việt tránh được những tư tưởng ủy mị, dễ tin như tin vào sự thành thật của ĐCSVN đối với quốc gia, dân tộc trong suốt hơn 70 năm qua!
11.02.2017

Những người tù trở về báo hiệu bình minh của nền dân chủ

Những người tù trở về báo hiệu bình minh của nền dân chủ

FB Lê Văn Sơn

112-2-2017

Ảnh Bùi Thị Minh Hằng. Nguồn: FB Lê Văn Sơn

Ngày 11.02.2017, bà Bùi Thị Minh Hằng, một người đấu tranh kiên cường cho tự do, dân chủ và quyền con người đã được tự do sau 3 năm tù giam. Ngày trở về của bà Hằng là một sự chiến thắng hết sức lớn lao không chỉ cho riêng cá nhân của bà mà cho cả công cuộc đấu tranh của người dân Việt Nam. Sự chiến thắng của lý tưởng, niềm tin và lòng yêu nước đối với sự bắt bớ, giam cầm, nhu nhược khiếp sợ của nhà cầm quyền Hà Nội.

Theo dõi cuộc tiếp đón long trọng của người dân khi bà Hằng bước ra khỏi cổng trại giam cho ta thấy một bức tranh sáng láng, đầy hi vọng của dân chủ và tự do. Hàng trăm người từ khắp mọi nơi đến tận cổng trại giam Gia Trung, Gia Lai và tại Sài Gòn dang rộng vòng tay đón chào bà Hằng. Các hội đoàn, tổ chức xã hội dân sự hiện diện để chúc mừng và nghênh tiếp một người tù trở về.

Những giọt nước mắt của hạnh phúc, niềm vui, sự hi vọng được tỏ lộ một cách sinh động trên từng khuôn mặt của người tù trở về lẫn những người đón chào. Bắt bớ và giam cầm những người yêu nước, nhà cầm quyền Hà Nội được gì và mất gì? Có ngăn cản, trù dập, giam hãm được tinh thần yêu nước và lý tưởng cho một nền hòa bình, dân chủ, tự do thực sự của họ? Có lẽ là không, chắc chắn không.

Bà Bùi Thị Minh Hằng nói gì khi bước ra khỏi cổng trại giam sau ba năm tù? “Tôi vừa tốt nghiệp loại ưu trường đào tạo những người đấu tranh do nhà cầm quyền cộng sản tổ chức”. Ồ, hóa ra, với người đấu tranh coi chính nơi tù đày, đau khổ đó là nơi rèn rủa ý chí chiến đấu mãnh liệt hơn cho họ mà thôi.

Bắt giam và bỏ tù người yêu nước có ngăn chặn được hàng hàng lớp lớp những người khác tiếp bước trên con đường đấu tranh không vậy? Mục tiêu này của nhà cầm quyền Hà Nội lại thất bại. Mỗi khi có một ai đó bị bắt giam, hàng trăm ngàn người lên tiếng phản đối và tố cáo sự vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Hàng chục, hàng trăm người lên tiếng yêu cầu đi tù thay hoặc bắt giam họ.

Những năm gần đây, các tù nhân lương tâm trở về sau những năm tháng bị giam cầm được hân hoan đón chào như những người hùng dân tộc, người dân đã có cái nhìn rộng mở hơn, những câu hỏi được đặt ra sắc bén hơn: “Tại sao những người tù này lại được đón chào như một vị anh hùng vậy? Họ bị nhà nước nói là phản động cơ mà, tại sao họ lại hãnh diện, mạnh mẽ, kiên cường, can đảm hơn sau những năm tháng tù tội vậy?”.

Có người lại nói: “Đi tù về mà được đón chào long trọng thế này tôi cũng muốn làm ‘phản động’, cũng muốn đấu tranh, cũng muốn hòa cùng nhịp bước với họ”.

Rõ ràng, người dân nhận chân được thực tại xã hội ngày càng nhiều hơn, người dân biết và hiểu nhiều hơn về quyền con người, về tự do dân chủ. Từ biết, hiểu dẫn đến yêu và dấn thân đấu tranh thật là dễ dàng, nhẹ nhàng.

Nhận thức xã hội theo quá trình thời gian, từ những sự kiện, bối cảnh hiện tại cuộc sống nó tác động mạnh mẽ vào trí não con người. Qua đó từ thờ ơ, vô cảm họ dần được cảm thụ và hình thành nên lý tưởng, từ lý tưởng chuyển bước sang hành động sẽ nhanh chóng hơn qua những cú hích.

Những cuộc bắt bớ giam cầm người yêu nước, những trải nghiệm đau thương và sự can đảm, kiên cường trong lý tưởng, những cuộc trả tự do và được đón tiếp nồng hậu, long trọng và đầy tình yêu thương của xã hội đối với các tù nhân lương tâm nó cũng giống như những cú hích thúc đẩy con người và xã hội vậy.

Chúng ta tin rằng, những tù nhân lương tâm là một nét vẽ đẹp, điểm nhấn quan trọng trong bức tranh tổng thể của công cuộc đấu tranh cho một nền hòa bình, tự do, dân chủ, công chính, bác ái của đất nước Việt Nam.

MỘT CHIẾC QUAN TÀI… ĐẦY YÊU THƯƠNG!!

MỘT CHIẾC QUAN TÀI… ĐẦY YÊU THƯƠNG!!
MOT CHIEC QUAN TAI 1

Sáng nay đưa một người bạn từ Thái Lan về lại USA, tự nhiên bỗng thấy thương bạn mình, thương lắm… về lại Hotel Lobby ngồi uống coffee, mở laptop ra đọc tin tức, đọc tài liệu và sẵn viết tiếp tục những bài viết trong mục “Ly coffee đầu ngay và bài bình luận” mà 6 ngày nay “bận đi chơi nên gián đoạn”, để chia sẻ với đồng nghiệp, đồng hương, thân hữu và nhất là bạn đọc trên FaceBook và website…

MOT CHIEC QUAN TAI 2

Một bản tin thật xúc động không nói nên lời, đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn thấy “đau”. Tống thống Donald Trump đi cùng con gái ra phi trường đón nhận chiếc quan tài của một quân nhân Hoa Kỳ vừa làm xong nhiệm vụ… “không thành”. Đều đáng ghi nhận ở lúc này là một việc làm đơn giản nhưng nói lên được người tổng tư lệnh “mới toanh” của Hoa Kỳ, ông Donald Trump chưa từng làm chính trị, và cũng chẳng bao giờ giao du với giới quân đội trước khi ông ứng cử, và bên cạnh hiện tại biết bao nhiêu công việc đang đè nặng trên vai ông, trên vai chính quyền ông, nhưng ông cảm nhận được sự mất mát của gia đình người quân nhân, mất mát một đứa con của quốc dân Hoa Kỳ và chính bản thân ông. Tổng thống Trump ra lệnh ngưng lại hết tất cả, để đi đón “chiếc quan tài” của một người lính Navy Seal đang chiến đấu thì phải “bỏ cuộc” để mặc chiếc áo gỗ trở về Hoa kỳ. Hình ảnh này chưa từng thấy ở bất cứ vị tổng thống tiền nhiệm “nhiều kinh nghiệm” chính trị, quân sự nào… thường chúng ta chỉ thấy các tổng thống tiền nhiệm đợi đến ngày “cựu chiến  binh” mới xuất hiện hoặc đọc bài “điếu văn”, hay khi nhận hung tin cả toán quân, cả đoàn quân, và cả “hàng hàng” quan tài trở về từ chiến trường , thì “may đâu” mới có Tổng thống ra tận máy bay đón chào, chứ không chỉ có một quan tài của một người quân nhân Mỹ… Nhưng, rất tiếc những việc làm thiện tâm của tân tổng thống Donald Trump thực hiện thì giới truyền thông bao chí Hoa Kỳ rất thích “tịnh khẩu”… ngộ nhỉ!!

MOTC CHIEC QUAN TAI 3

Qua bài viết “đánh biệt kích” của nhà bỉnh bút Nguyễn Đạt Thịnh, ông cũng nói lên ít nhiều hình ảnh vị tân tổng thống Hoa Kỳ đã làm một điều rất đẹp… đó là sự đáng kính mến của ông dưới con mắt của quốc dân (mặc dù, lúc nào nhà bỉnh bút gốc Việt này cũng viết bài chống báng ông Trump nói riêng và đảng cộng hòa nói chung một cách triệt để)…

“Đánh biệt kích” là sử dụng một đơn vị nhỏ, vô cùng thiện chiến và được huấn luyện đặc biệt về kỹ thuật đột ngột tấn công địch quân, đánh nhanh, đánh tàn khốc ngay từ những phút đầu để đạt tối đa kết quả, rồi cũng nhanh chóng rút lui, trước khi địch kịp phản ứng.

Năm ngày sau khi nhậm chức, và trong bữa ăn tối thứ Tư, 25 tháng Giêng, 2017 với tân Bộ Trưởng Quốc Phòng -Đại tướng về hưu James Mattis- Tổng Tư Lệnh Donald Trump đã chuẩn thuận cho thực hiện cuộc đột kích ngày 28 tháng 1, vào một căn cứ của Qaeda tại Yemen. Cuộc tấn công biệt kích này mang danh xưng nguỵ trang Yakla raid.

Tham dự bữa dạ tiệc còn có Phó Tổng Thống Mike Pence, cố vấn an ninh Michael T. Flynn, Đại Tướng Joseph F. Dunford Jr. tổng tham mưu trưởng quân lực Hoa Kỳ, và hai cố vấn Jared Kushner, Stephen K. Bannon -những nhân vật tạo thành “bộ tham mưu quân sự” của Bạch Cung.

Trực thăng đưa họ vào triền núi Yakla để tấn công căn nhà của lãnh tụ Al-Qaeda Abdul Rauf al-Dhahab; trên đường bay vào mục tiêu toán biệt kích nhận được tin là địch đã được báo động và đang bố trí phòng thủ.
Mất yếu tố bất ngờ, đáng lẽ cấp chỉ huy hành quân phải ra lệnh hủy bỏ cuộc đột kích, nhưng họ chỉ thông báo trên máy truyền tin cho toán biệt kích biết, rồi để mặc cuộc hành quân diễn tiến.

MOT CHIEC QUAN TAI 4

Do đó, ngay khi nhảy ra khỏi trực thăng, người lính biệt kích đã bị địch quân chào đón bằng nhiều loạt đạn AK47. Trực thăng võ trang bắn tới tấp vào quân Al Qaeda, trợ chiến cho người chiến sĩ biệt kích. Một chiếc Bell Boeing V-22 Osprey bị hư hại trong lúc đáp xuống đổ quân, gây thương tích cho ba chiến sĩ biệt kích, chiếc trực thăng V-22 Osprey đó -trị giá $75 triệu phải phá hủy bằng bom.

Anh Chief Petty Officer William Owens tử trận trong 50 phút kịch chiến với quân Al Qaeda; không quân trợ chiến gây nhiều tổn thất cho thường dân Yakla; trong số thường dân tử nạn có cô bé 8 tuổi, con của nhà tu chống Mỹ Anwar al-Awlaki.
Ông này bị drone giết ngày 30 tháng Chín, 2011, tại Al Jawf Governorate, Yemen.

Trong một thông cáo, tướng Mattis xác nhận người chiến sĩ tử trận là Chief Petty Officer William “Ryan” Owens, 36 tuổi, và ca tụng Owens đã “dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho đất nước, và bảo vệ truyền thống cao thượng của người lính Mỹ.”

MOT CHIEC QUAN TAII 5

Bản thông cáo còn viết là cuộc đột kích giết 14 địch quân, trong số này có ba lãnh tụ Al Qaeda. Owens nhập ngũ vào tháng Tám 1998, anh được thăng cấp “chief” tháng Chạp 2009; anh được tưởng thưởng ba huy chương đồng, hai trong ba huy chương này có kèm theo chữ V -có nghĩa là combat valor -anh dũng trên chiến trường.

Anh tử trận trong trận đánh biệt kích vào xào huyệt địch, ngoài anh, lực lượng hành quân còn có sáu người bị thương.

Hôm thứ Tư mùng 1 tháng Hai, Tổng Thống Donald Trump đã cùng ái nữ Ivanka Trump đến căn cứ Không Quân Dover, Tiểu bang Delaware để đón thi hài anh “Ryan” Owens. Anh là tử sĩ đầu tiên chết trong lúc phục vụ dưới quyền Tổng tư lệnh Trump.

WILLIAM OWENSW

(hình: biệt ký Navy Seal -William Owens)

Đánh biệt kích là lối đánh duy nhất có tiềm năng giúp Hoa Kỳ chiến thắng quân khủng bố IS và Al Qaeda mà không phải trả cái giá quá đắt của chiến thuật cổ điển. Người lính Hoa Kỳ vô cùng can trường lại được trang bị hùng mạnh, được yểm trợ bằng một hỏa lực khiếp đảm, giúp họ tạo ra nhiều chiến công thần thoại.
Thành công nhất trong chiến thuật “đánh biệt kích” là cuộc hành quân Operation Neptune Spear thực hiện ngày mùng 2 tháng 5, 2011, tấn công xào huyệt ẩn trốn của trùm khủng bố Osama bin Laden, người sáng lập ra lực lượng Al Qaeda.

Lực lượng tấn công là Toán Sáu, Người Nhái. Trách nhiệm tổ chức cuộc tấn công là CIA, cộng tác với JSOC (Joint Special Operations Command-Bộ Chỉ Huy Phối Hợp Chiến Tranh Đặc Biệt).

BIET KICH 1

Hai tiếng đồng hồ trước phút khởi diễn hành quân, bộ tham mưu chiến tranh của chính phủ đã tụ họp tại Bạch Cung để chứng kiến trận đánh được trực tiếp truyền hình.

Tổng cộng lính biệt kích Mỹ giết 5 tên khủng bố trong xào huyệt Pakistan của bin Laden và bắt sống 18 tên khác. Chiến tranh chống khủng bố Hồi Giáo không gây cho Mỹ những tổn thất quá đáng như vậy, nhưng lại dài hơn, đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và học hỏi hơn.

Bất cứ người quân nhân nào của Hoa Kỳ cũng được kính mến và được biết ơn. Họ là những người con yêu quý của quốc dân siêu cường này. Họ được đón tiếp trong vinh dự, hùng hồn sau những cuộc chiến trở về, và bên cạnh họ luôn được đón nhận một cách trân trọng, kính thương khi họ trở về nằm trong chiếc quan tài. Đặc biệt, lần này chính đích thân tổng thống Donald Trump và ái nữ Ivanka Trump ra tận phi trường đón nhận một chiếc quan tài người lính Biệt Kích Seal mang tên  William “Ryan” Owens. Anh đã hy sinh cho tổ quốc, anh nằm xuống trong vinh quang mặc dù công việc chưa hoàn thanh. Tân tổng thống Trump đầu tiên đón nhận anh về với một tấm lòng biết ơn bằng trái tim của một công dân Hoa Kỳ…

Thật cảm động !!

PHAN NGUYÊN LUÂN

CHUYỆN BUỒN: ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

CHUYỆN BUỒN: ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

CHUYEN BUON

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mời các  Bạn đọc đoạn kết cuốn sách của  tác giả người Đức này, quá hay, khi nào sách in ra, mỗi người chúng ta phải mua  một vài cuốn để dành cho con cháu, chắt chung ta đọc để chúng hiểu sự thật lịch sử.

MC Người Đức … nhưng anh nầy có vẻ hiểu chuyện VN hơn rất nhiều người .Cuốn sách Đức: “A reporter’s love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:

Đoạn kết

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.”

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.

Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?

Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.”

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?
Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?
Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.

Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”
Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố.”

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.

Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bảnđoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Anh Thiệu Van An gởi

Tết của nguời già ở Mỹ

Tết của nguời già ở Mỹ

Theo một thống kê của Cơ quan an sinh xã hội bang California, Mỹ, trong tổng số 400 nghìn người Việt hiện đang sinh sống ở miền Nam California, có khoảng 15 nghìn người trên 65 tuổi. 1/3 ở chung với con cháu. Số còn lại, ở trong các viện dưỡng lão (nursing home).

Vẫn theo thống kê này, những người Việt già trên đất Mỹ rất sợ bị đưa vào nursing home!

  1. Xế chiều 29 tháng Chạp, tôi lái xe đến Viện Dưỡng lão thành phố Westminster, Orange County. Đây là cơ sở được xem như khá nhất trong số những viện dưỡng lão tại miền Nam Cali. Vì là ngày giáp tết nên quang cảnh khá lặng lẽ. Ở các lối đi trong khu vực dành cho người Việt, trên những băng ghế đặt rải rác dưới những tàn cây, không có cụ nào tản bộ hay ngồi nghỉ chân, trò chuyện. Bãi đậu xe cũng chỉ thấy lác đác vài chiếc của nhân viên trực. Nhìn qua khu dành cho người Mỹ, người Hàn Quốc và khu dành cho người Mexico thì  đông người hơn. Có lẽ họ không biết hôm nay là giao thừa của người Việt.

Vào trong, tất cả đều vắng vẻ. Một lát, tôi mới thấy một y tá đẩy chiếc xe lăn, trên đó là một cụ ngoẹo đầu, mắt nhắm nghiền, rớt dãi chảy dài xuống khóe miệng. Trước cửa phòng số 6, một bà ngồi im lìm trên chiếc ghế nhựa, nét mặt thẫn thờ. Tôi hỏi: “Bà có con cháu vào thăm chưa?”. Nhìn tôi một lát, bà lắc đầu kèm theo tiếng thở dài mệt mỏi.

Tên bà là Trần Thị Nghị, 74 tuổi. Bà sang đây theo diện bảo lãnh của đứa con trai. Bà kể: “Hồi đầu, mọi sự tốt đẹp lắm. Nhưng được vài năm, con dâu tôi nói tôi ở dơ vì lúc đứa cháu nội bị sổ mũi, tôi lấy tay bóp mũi, vắt nước mũi cho nó. Bực mình quá, tôi nói hồi nhỏ tao cũng hay vắt nước mũi cho chồng mày vậy, mà có sao đâu! Thế là nó cấm tôi không được đụng đến con nó nữa. 3 tháng sau, chồng nó nghe lời nó, đưa tôi vào đây”.

Ở một phòng khác, cụ ông Nguyễn Văn Đức, 71 tuổi, nằm co quắp trên giường. Hỏi ra mới biết cụ bị bệnh suyễn. Đưa tay chỉ một hộp bánh, 2 hộp mứt, 2 hộp kẹo nằm chỏng chơ trên bàn, cụ phều phào: “Cái này con tôi cho, cái kia là của hội thiện nguyện, còn hộp đó là quà tặng của nhà chùa”.

Theo tập quán người Việt, một gia đình mà 2, 3 thế hệ gồm ông bà, cha mẹ, con cháu cùng ở chung với nhau thì được xem như gia đình hạnh phúc, ăn ở có đức, có hiếu. Nhưng người Mỹ nói riêng và người phương Tây nói chung, với bản tính thực tế thì họ lại không nghĩ vậy bởi lẽ ngay từ khi còn trẻ, họ đã được học tính tự lập – và điều này đã tác động rất lớn đến thế hệ người Việt thứ 2, thứ 3 – là những người sang Mỹ từ khi còn bé, hoặc sinh ra trên đất Mỹ. Họ hầu như ít nói tiếng Việt mà chỉ dùng tiếng Mỹ – ngay cả khi về nhà.

Phần lớn họ chịu ảnh hưởng nặng của lối sống Mỹ: 18 tuổi là ra ở riêng, cha mẹ già thì đưa vào viện dưỡng lão. Sự thành công về mặt học vấn, tài chính đã khiến họ chẳng còn quan tâm nhiều đến quá khứ của cha ông. Nếu như ở Việt Nam, con cái thường ngồi im nghe cha mẹ giáo huấn – dù ngồi một cách miễn cưỡng – thì ở Mỹ, phần lớn người Việt thế hệ thứ 2, thứ 3 lại chọn cách bỏ đi ra ngoài, không cần quan tâm đến những gì cha mẹ mình đang nói, dẫn đến xung đột… Sự xung đột lắm khi chỉ bắt nguồn từ một nguyên nhân nhỏ nhoi nhưng không được giải quyết thấu đáo, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng.

Bà Lý Thị Vân, 69 tuổi, nằm tại phòng số 3, nói: “Có những điều ở Việt Nam coi là bình thường thì qua đây lại trở thành bất bình thường. Trong một bữa ăn chẳng hạn, lúc tôi dùng cái muỗng của tôi để múc canh trong tô canh thì thằng con rể tôi trợn mắt nhìn tôi rồi từ đó đến cuối bữa, nó không đụng vào tô canh đó nữa!”.

Vì vậy, với những người Việt cao tuổi ở miền Nam Cali, ba chữ “viện dưỡng lão” từ lâu đã là cơn ác mộng. Nó đánh thốc vào tim tạo thành những cơn kinh hãi, đến độ đã có một cụ quỳ sụp xuống ngay trước cổng vào viện dưỡng lão, chắp tay vái con ruột mình: “Ba lạy con, con cho ba về nhà, ba trải ghế bố nằm trong gara cũng được chứ con đừng bắt ba vô đây”. Ông Trần Ngọc Lâm chẳng hạn, khi tôi hỏi vợ con ông ra sao, có thường xuyên vào thăm ông không thì ông bực bội: “Làm ơn đừng nhắc đến vợ, đến con tôi nữa. Vợ, con mà để tôi sống như thế này à?”.

Ông Lê Cẩm, ở phòng số 9 trong viện dưỡng lão, kể: “Năm tui 68 tuổi, đi đứng bắt đầu yếu, mắt mờ, tay run, con trai tui nói mai đưa ba vô nursing home. Tưởng nó giỡn chơi, ai dè sáng hôm sau nó đưa tui vô thiệt. Tui hỏi nó sao con nỡ lòng nào mà làm vậy. Nó nói tỉnh bơ: Già rồi thì vô viện dưỡng lão chứ làm vậy là làm sao!”. Hỏi ông có biết mai là tết âm lịch cổ truyền không? Ông nói biết vì ba bữa trước, con ông vô thăm, có đem cho mấy hộp mứt. Trên gò má nhăn nheo của ông bỗng lăn dài những giọt nước mắt: “Tết nhất là ngày sum họp gia đình. Vậy mà…”.

  1. Công bằng mà nói, sự sợ hãi viện dưỡng lão của các cụ cao niên người Việt – ngoài việc bị tách ra khỏi môi trường gia đình quen thuộc – mà hầu hết các cụ đều nghĩ rằng mình bị bỏ rơi, bị con cháu hắt hủi, thì còn một nguyên nhân nữa. Đó là khi tuổi tác đã  cao, sức khỏe các cụ cũng sẽ xuống và bệnh tật ắt phải tới. Chuyện không thể tự chăm sóc cho mình là lẽ đương nhiên khi bệnh trạng các cụ tới thời kỳ nghiêm trọng, và cách giải quyết duy nhất là đưa các cụ vào viện dưỡng lão.

Anh Kevin Nguyen, có người mẹ 72 tuổi, hiện đã ở viện dưỡng lão, nói: “Tôi và vợ tôi đều phải đi làm, hai đứa con đi học nên không lấy đâu ra thời giờ chăm sóc mẹ tôi.  Còn nếu mướn y tá hay điều dưỡng đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc mẹ tôi thì tôi không đủ tiền”.

Một trong những nguyên nhân nữa dẫn đến việc các cụ buộc phải vào viện dưỡng lão. Đó là về già, các cụ thường bị lẫn, mất trí nhớ, thậm chí không nhận ra vợ (hoặc chồng) hay con cái, không cho họ tới gần. Anh Kevin Nguyen, nói tiếp: “Mẹ tôi đổi tính, trở nên khó chịu. Cụ luôn gắt gỏng, nghi ngờ tất cả mọi người”.

Chị Lam Hương, có mẹ cũng ở viện dưỡng lão tâm sự: “Cụ nhà tôi lúc nào cũng nghi ngờ có người ăn cắp tiền của cụ mặc dù tiền đó là của con, cháu cho. Ngày nào cũng vậy, cụ lôi túi tiền ra đếm vài chục lần rồi cũng không dưới chục lần, cụ chửi um lên, bỏ ăn, thậm chí cuốn quần cuốn áo đòi ra khỏi nhà vì “nhà này toàn quân ăn cắp”. Riết rồi không ai chịu nổi nữa, chúng tôi đành đưa cụ vào viện”.

Nỗi sợ phải vào viện dưỡng lão còn có một lý do khác: Đó là nhân viên của nhiều viện dưỡng lão thiếu khả năng chuyên môn, thiếu sự nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ lưỡng, cộng với sự cắt giảm tài trợ của chính quyền do thiếu hụt ngân quỹ dẫn đến số người bị ngược đãi, bị bỏ mặc trên cả hai phương diện sinh lý lẫn tâm lý càng ngày càng tăng, chưa kể có cụ còn bị bắt phải nín lặng, không được phép than phiền, kêu cứu khi lên cơn đau dạ dày hay đau khớp.

Cụ ông Trần Văn Sinh, trước khi sang Mỹ là y tá ở Bệnh viện Bình Dân, TP HCM, nói: “Một thời gian dài, tôi bị trầm cảm vì tuyệt vọng, và tôi được cho uống thuốc an thần một cách rất thản nhiên. Khi tôi báo cáo việc này với ban quản trị, thì con tôi lúc vào thăm đã bị ngăn chặn với lý do là làm trở ngại việc điều hành”.

Theo tìm hiểu của tôi, Viện Dưỡng lão thành phố Westminster có khoảng 90% là người già trên 65 tuổi. Số còn lại là từ 80 tuổi trở lên. Cũng xin nói thêm là ở Orange County, các viện dưỡng lão đều do người Mỹ làm chủ và điều hành. Nó thường được chia làm hai khu chính là nội trú và bán trú cùng nhiều khu phụ. Khu nội trú dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành cho những bệnh nhân sau khi điều trị ở bệnh viện nhưng không đủ tiền để nằm lại vì viện  phí rất cao, nên phải chuyển vào viện dưỡng lão để nằm chờ, lúc bình phục họ sẽ về nhà.

Thường thì nhân viên quản lý sắp xếp các khu theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu cho người Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan v.v… Nếu thiếu phòng, các cụ phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Chả thế mà cụ bà Lê Thị Lài, 67 tuổi, sau hơn 2 tháng ở chung với khu người Mỹ da đen rồi lúc được chuyển sang khu người Việt, cụ ngơ ngác như người tâm thần, hỏi gì cũng ú ớ. Nếu người Việt vào đông, các cụ được nhà bếp nấu riêng món ăn Việt nhưng chỉ vào buổi trưa và buổi tối, còn bữa sáng vẫn phải ăn món ăn Mỹ. Hầu hết những trường hợp được đưa vào đây là do bệnh lý, đòi hỏi phải có sự trợ giúp thường trực của nhân viên y tế cùng các thiết bị mà chỉ các viện dưỡng lão mới có khả năng cung cấp. Những người này thường mắc phải những bệnh gây mất năng lực về thể chất lẫn tinh thần,  hoặc họ yếu đến nỗi không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự ăn uống được.

Trao đổi với tôi, phóng viên Vince Gonzales thuộc Đài CBS, người đã làm những phóng sự về vấn đề ngược đãi người già ở các viện dưỡng lão cho biết: “Nhiều người trong số họ cần có sự chăm sóc suốt đời vì họ không bao giờ có thể hồi phục để có thể tự chăm sóc cho mình, chứ đừng nói là cho về nhà. Tương lai của họ một là sẽ chết trong viện dưỡng lão, hai là chuyển vào bệnh viện nếu bệnh nặng rồi chết ở đó và ba là bệnh viện trả về để chờ chết…”.

  1. Đã đến bữa cơm chiều. Những cụ còn khỏe thì chậm chạp lê bước, hoặc tự mình lăn xe xuống nhà ăn. Yếu quá thì nằm trong phòng, chờ điều dưỡng mang thức ăn đến. Cô Jenny Pham, một điều dưỡng người Việt ở đây, cho biết: “Viện có rất ít điều dưỡng Việt Nam nên tụi em thường bị điều đi phục vụ toàn khu, chứ không cứ gì khu người Việt”. Theo luật riêng của tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là các dịch vụ khẩn cấp, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3 hoặc 2 tiếng mỗi ngày.

Jenny Pham nói tiếp: “Khi có đoàn kiểm tra, viện dưỡng lão thuê mướn thêm điều dưỡng cho đông đủ, đồng thời sắp xếp cứ 1 điều dưỡng chăm sóc cho 10 người theo luật định để che mắt. Khi đoàn kiểm tra đi, mỗi đứa tụi em lại phải chăm sóc cho 19, 20 người…”. Tôi hỏi: “Mấy hôm nay, gia đình các cụ vào thăm có nhiều không?”. Jenny Pham đáp: “Cũng ít thôi, chủ yếu là các hội đoàn thiện nguyện, các tổ chức tôn giáo. Em biết có 26 cụ từ ngày vào đây, có cụ ở đã 5 năm nhưng chưa thấy ai đến thăm lần nào”.

Tôi hỏi: “Đêm giao thừa có tổ chức gì không?”. Jenny Pham lắc đầu: “Dạ không, mấy cụ còn khỏe, còn minh mẫn thì tụ họp nhau lại uống trà, nói chuyện hồi xưa. Còn hầu hết đều nằm trên giường. Nhiều cụ khi em hỏi ngày mai là mùng 1 tết rồi, biết không? Có cụ nhe răng cười, chẳng biết gì hết”.

Tôi ra về và lúc bước ngang phòng số 7, một đôi vợ chồng trẻ cùng hai đứa con đang đứng cạnh một cụ già ngồi trên xe lăn. Người phụ nữ nói: “Chào ông nội đi rồi về con”. Ông cụ miệng méo xệch: “Bay cho nó ở chơi thêm chút nữa, vừa mới vô mà”. Anh con trai đỡ lời: “Con đưa các cháu vào chúc tết ba, bây giờ dẫn  tụi nó đi coi xiếc cá heo. Vé mua rồi, sắp tới giờ diễn rồi…”.

Dẫu biết ở bầu thì tròn, ở ống thì dài, sống đâu theo đó, nhưng sao tôi vẫn thấy nao lòng vì ở quê nhà giờ này, gia đình nào chắc cũng đang quây quần, sum họp…

Sưu tầm

Chúng ta chiến thắng trong chiến tranh để trờ thành NGƯỜI THUA CUỘC

Bài cũ nhưng vẫn còn đúng, còn giá trị

Chúng ta chiến thắng trong chiến tranh để trờ thành NGƯỜI THUA CUỘC

FB Trâm Lê

9-2-2016

Có thể đối với nhân dân VN, ngày 30/4/1975 là mốc lịch sử thống nhất tổ quốc. Thống nhất đất nước, hết tiếng bom đạn, hết lo âu về cuộc chiến đều là giấc mơ của mỗi người dân VN nói riêng và những người yêu hòa bình trên thế giới nói chung. Tôi ko đề cập đến chế độ cộng sản hay cộng hòa ở đây, bài viết này tôi chỉ đề cập duy nhất đến 1 thứ. Đó là người Việt, sự tự cường dân tộc.

Một dân tộc lớn mạnh thì phần lớn nằm ở sự tự cường của dân tộc đó. Không thể phủ nhận sự tự cường dân tộc ở chính “người anh em láng giềng” Trung Quốc. Tuy họ mang nhiều cái nhìn tiêu cực từ chúng ta như đồ ăn bẩn, chất độc, hàng nhái v.v.. Nhưng nhiêu đó chỉ là 1 phần nhỏ, cái mà chúng ta phải nhìn nhận lại mình là họ dám làm được những thứ họ cần. Vậy VN mình sao lại không như vậy? Hãy quay trở lại quá khứ 1 chút, chúng ta sẽ biết nguyên nhân.

Sáng 11/9/1975 quyết định số 111/CP chính thức áp dụng lên 17 tỉnh thành miền Nam và nó mang tên “Đánh tư Sản”. Sự kiện này chính thức loại bỏ dần tính tự cường dân tộc của VN theo khái niệm kinh tế. Nội dung chính của sự kiện này như sau: Tịch thu nhà và cưỡng chế toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống. Cưỡng chế giải tán toàn bộ các công ty doanh nghiệp tư nhân, tiểu thương, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.

Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy các sản phẩm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà bông hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh .v.v… Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa. Các nhà sách về khoa học kỹ thuật cũng như các tác phẩm văn học thế giới cũng bị tịch thu tiêu hủy với 1 lý do chung “văn hóa phẩm đồi trụy”.

Hiển nhiên cánh cửa kết nối khoa học kỹ thuật hiện đại đến VN đã bị chặn lại. Kế đó là đường lối quốc hữu hóa toàn bộ đất đai của nhân dân qua hình thức “Tập đoàn sản xuất” là một sai lầm nghiêm trọng dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.

Khai tử công nghiệp, nông nghiệp thất bại, văn hóa đóng cửa. Mới nghe đến đây tôi cũng không tin rằng VN sẽ thoát ra khỏi chốn tăm tối mịt mù ấy. May thay chính phủ họ cũng đã biết sửa sai, đó là hàn gắn dân tộc sau chiến tranh. Sự kiện tập trung tại Sài Gòn, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.

Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150.000 người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng 600.000 người, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều đại.

Ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là 1,2 triệu người. Sau sự hàn gắn dân tộc này tôi hiểu được chữ Nam Kỳ – Bắc Kỳ. Nó thật đay nghiệt.

Tất cả những ai tại Sài Gòn bị Đảng tịch thu nhà , tài sản đều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng quản lý. Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của Đảng đối với những người bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản. Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này.

Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bỗng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà trước thảm cảnh. Hậu quả của nó là Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Đảng lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.

Cho đến năm 1994 VN thoát khỏi cấm vận và có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ giúp, cùng với chính sách thay đổi nền kinh tế đến hiện tại chúng ta có gì. Chúng ta vẫn chẳng có gì ngoài 1 đất nước làm nhân công cho thế giới, chuyên lắp ráp mà ko có dây chuyền sản xuất của riêng mình. Các chỉ tiêu đặt ra như đưa bao nhiêu ngàn nhân công xuất khẩu lao động cho nước A, B ,C ..v..v.

Các bạn có đau đớn như tôi khi nhìn thấy Campuchia tự hào họ có thể tự chế tạo xe hơi không? Bạn có cảm thấy buồn khi công nghệ Lào đã sử dụng rộng rãi 4G trước VN ko. Hay bạn vẫn đang tự hào VN ta đánh đuổi được thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Hay bạn vẫn đang tự hào về 1 VN đầy ung nhọt, đầy chia rẽ trong chính những người dân. Tôi chỉ tự hào về VN khi nào nó tìm lại được sự tự cường dân tộc.

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan

Hàng trăm thanh niên lao vào để cướp phết với suy nghĩ chỉ cần chạm tay vào quả phết thì cả năm sẽ gặp nhiều may mắn. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

PHÚ THỌ (NV) – Chiều 9 Tháng Hai (13 Tháng Giêng Âm Lịch), lễ hội Phết Hiền Quan (huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) diễn ra. Tuy nhiên, quả phết chưa được tung ra, nhưng hàng trăm thanh niên đã phá rào, nháo nhào lao vào tranh cướp phết cầu may.

Hội Phết Hiền Quan là lễ hội dân gian được tổ chức ngày 12 đến 13 Tháng Giêng Âm Lịch tại xã Hiền Quan, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ và tôn vinh công lao của nữ tướng Thiều Hoa Công Chúa-Ðức Thánh Mẫu Ðại Vương, người giúp hai Bà Trưng đánh giặc Hán cứu nước.

 Hội Phết tái hiện lại hình ảnh Thiều Hoa Công Chúa luyện quân đánh giặc. Lễ hội Phết Hiền Quan gồm bốn phần: rước kiệu, tế lễ, kéo quân, đánh phết. Lễ rước kiệu được tiến hành từ chiều ngày 12 Tháng Giêng. Trên kiệu là các sắc phong, bài vị.

Cướp phết là điểm chính của hội Phết Hiền Quan. Có sáu quả phết và ba quả chúi để những người tham gia lễ hội cùng giành lấy.

Quả phết và quả chúi thường được làm từ gốc tre già hoặc gỗ. Quả chúi nhỏ hơn, đường kính từ 4-5 cm, quả phết đường kính từ 6-7 cm. Người dân quan niệm rằng nếu ai giành được quả phết và chúi hay chỉ chạm được tay vào là cả năm sẽ rất may mắn.

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan
Hàng trăm thanh niên lao vào để cướp phết với suy nghĩ chỉ cần chạm tay vào quả phết thì cả năm sẽ gặp nhiều may mắn. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Theo ghi nhận của phóng viên báo Tuổi Trẻ, tình trạng bạo lực, ẩu đả tại hội Phết Hiền Quan năm 2017 vẫn xảy ra, dù ông chủ tế cầm quả phết từ đền ra bãi phết có sự hộ tống của cảnh sát cơ động và người dân địa phương.

Và dù ban tổ chức hội Phết chỉ chọn 100 người chia làm hai đội thi đấu với nhau, mỗi đội sẽ được phân biệt bằng đai xanh đai đỏ. Tuy nhiên ý tưởng này đã trở thành “bất khả thi” khi hàng trăm người lao xuống bãi phết để cướp phết cầu may.

Tin cho biết, phạm vi của bãi phết năm nay có đường kính khoảng 1,500 mét vuông, được đóng cọc và quây dây bốn góc, xung quanh có lực lượng an ninh túc trực và sẵn sàng can thiệp khi có dấu hiệu ẩu đả.

Tuy nhiên do máu ăn thua nên nhiều nhiều đội chơi mặc dù đã đưa quả phết về đích nhưng vẫn bị đội đối phương giành giật dẫn đến ẩu đả. Nhiều người đã phải nhảy xuống ao để trốn khỏi sự truy đuổi gắt gao của đối phương.

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan
Hàng trăm cảnh sát cơ động tham gia bảo vệ lễ hội nhưng không ăn thua. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Nói với phóng viên báo Tuổi Trẻ, ông Bùi Văn Thanh, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã Hiền Quan, trưởng ban tổ chức lễ hội Phết Hiền Quan năm 2017, cho biết: “Trước khi lễ hội Phết được diễn ra, chúng tôi đã đến các khu dân cư để thông báo với người dân về thể lệ mới và đề nghị mọi người tham gia lễ hội với tinh thần lịch sự có văn hóa và tránh ẩu đả, lợi dụng hội Phết để trả thù cá nhân. Tuy nhiên do lực lượng an ninh quá mỏng và số lượng người đến cướp phết quá lớn nên mong muốn ban đầu của ban tổ chức đã không thể trở thành hiện thực.”

Hàng trăm thanh niên đánh nhau tại hội Phết Hiền Quan
Một thanh niên nằm sõng soài sau khi thoát ra khỏi đám đông. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Ông Thanh cũng cho biết lực lượng an ninh tham gia bảo vệ hội Phết năm nay khoảng 100 người, bao gồm công an tỉnh Phú Thọ, công an huyện Tam Nông và công an xã Hiền Quan.(Tr.N)

Gia đình người Việt vượt biên bị tạm giữ ở Indonesia

Gia đình người Việt vượt biên bị tạm giữ ở Indonesia

RFA
2017-02-10
Anh Nguyễn Minh Quyết (hàng đầu, áo trắng) và chị Trần Thị Lụa tại tòa án Bình Thuận ngày 1 tháng 9 năm 2016.

Anh Nguyễn Minh Quyết (hàng đầu, áo trắng) và chị Trần Thị Lụa tại tòa án Bình Thuận ngày 1 tháng 9 năm 2016.

File photo

Chiếc tàu chở gia đình bà Trần Thị Lụa và Trần Thị Thanh Loan vượt biên lần thứ 2 đã bị cảnh sát Indonesia tạm giữ vào 6 giờ chiều hôm nay, thứ Sáu ngày 10 tháng 2.

Tin chúng tôi nhận được từ Luật sư Võ An Đôn vào tối nay cho biết như vừa nói.

Gia đình bà Trần Thị Lụa và Trần Thị Thanh Loan trước đây đã một lần vượt biên qua Úc, bị trả về Việt Nam vào tháng 7/2015.Tòa án tỉnh Bình Thuận phạt tổng cộng hơn 6 năm tù giam về tội “Tổ chức người khác trốn đi nước ngoài trái phép”.

Sáng mùng 4 Tết âm lịch vừa qua, gia đình bà Trần Thị Lụa và Trần Thị Thanh Loan đã quyết định vượt biên lần thứ hai. Cho đến chiều mùng 4,  luật sư Đôn nhận được điện thoại từ bà Trần Thị Lụa cho biết họ đã vào hải phận Indonesia. Bà nói rằng nếu lần vượt biên này không thành, chính phủ Úc trả về nước, thì hai người sẽ nhảy xuống biển tự tử, chứ không bao giờ chịu trở về Việt Nam chịu án tù.

Vào lúc 9 giờ tối cùng ngày Ban Việt Ngữ RFA có cuộc phỏng vấn với chị Trần Thị Lụa khi chị cùng 17 người khác đang được cảnh sát Indonesia giúp chờ làm thủ tục.

Việt Nam ngăn chặn “tự diễn biến”

Việt Nam ngăn chặn “tự diễn biến”

RFA
2017-02-10
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Bắc Kinh hôm 13/1/2017.

Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Bắc Kinh hôm 13/1/2017.

AFP photo
Chính phủ Việt Nam vừa ban hành Nghị quyết 25 với nội dung nêu rõ ‘tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, tự diễn biến, tự chuyển hoá trong nội bộ.’

Truyền thông trong nước loan tin cho biết chính phủ Hà Nội giao cho Bộ Công an, quốc phòng thực hiện và triển khai nghị quyết vừa nêu. Đây được cho là chương trình hành động của chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII.

Theo nghị quyết vừa ban hành thì Bộ Công an chủ trì nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, phối hợp và làm tốt công tác quản lý chấn chỉnh hoạt động của báo chí, xuất bản.

Nghị quyết nêu rõ sẽ có biện pháp, hình thức xử lý phù hợp đối với những trường hợp cán bộ, công chức, viên chức bị cho là suy thoái, ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’.

Ngoài ra theo Nghị quyết 25 thì sẽ xử lý kịp thời, dứt điểm đơn thư kiến nghị , phản ánh, khiếu nại, tố cáo liên quan đến các biểu hiện ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’ để thông báo ra công chúng.

Trong những năm gần đây có nhiều đảng viên nằm trong hệ thống bộ máy nhà nước Việt Nam công khai ra khỏi đảng vì nhận ra nhiều sai phạm của đảng và nhà nước.

Gần 6.000 người đánh nhau nhập viện dịp Tết: ‘Người Việt ngày càng hung hăng, bê tha, bệ rạc’

Gần 6.000 người đánh nhau nhập viện dịp Tết: ‘Người Việt ngày càng hung hăng, bê tha, bệ rạc’

 (VTC News) – “Gần 6.000 người đánh nhau trong dịp Tết chứng tỏ người Việt ngày càng hung hăng, bê tha, bệ rạc…”, GS. Đặng Vũ Cảnh Khanh nhận định.

Tính riêng 7 ngày Tết Nguyên đán 2017, có 230 người chết vì tai nạn giao thông, gần 6.000 trường hợp đến khám, cấp cứu do đánh nhau.

Nổ như bom ở nhà máy hóa chất tại Trung Quốc

Nổ như bom ở nhà máy hóa chất tại Trung Quốc

TTO – Một vụ cháy nổ lớn xảy ra ngày 8-2 làm rung chuyển nhà máy hóa chất ở Tongling, tỉnh An Huy, miền đông Trung Quốc, thông tin ban đầu chưa có thiệt hại về người.

Nổ như bom ở nhà máy hóa chất tại Trung Quốc
Hình ảnh ghi lại từ hiện trường vụ cháy nổ ở nhà máy hóa chất thuộc tỉnh An Huy, miền đông Trung Quốc – Ảnh: Tân Hoa xã

Những hình ảnh ghi lại từ hiện trường vụ cháy nổ của các hãng thông tấn báo chí Trung Quốc cho thấy các quả cầu lửa khổng lồ bùng lên từ vụ nổ ở khu nhà máy hóa chất.

Theo báo Tongling Daily, lực lượng cứu hỏa ngay lập tức được điều động tới hiện trường và sau đó đã kiểm soát được đám cháy, hiện chưa ghi nhận trường hợp thương vong nào.

Tuy nhiên tờ Nhân dân Nhật báo cho biết có hai người bị thương trong vụ nổ.

Thời gian qua, tại Trung Quốc xảy ra nhiều vụ cháy nổ ở một số nhà máy hóa chất mà nguyên nhân được cho là thiếu kiểm tra an toàn.

Vụ việc kinh hoàng nhất gần đây xảy ra tại khu nhà máy hóa chất ở cảng Thiên Tân hồi tháng 8-2015 khiến 165 người thiệt mạng.

Cháu ruột Hồ Chí Minh thả 10 tấn “cá sát thủ” tàn phá sông Hồng

Cháu ruột Hồ Chí Minh thả 10 tấn “cá sát thủ” tàn phá sông Hồng

“Thượng toạ” Thích Chân Quang niệm chú phóng sinh hay sát sinh?

Bạn đọc Danlambao – Gần 10 tấn cá các loại, trong đó có cả những loài cá ăn thịt nguy hiểm đã được thả xuống sông Hồng vào ngày 5/2/207 (Mùng 9 tháng Giêng âm lịch) trong một buổi lễ phóng sinh do Thượng toạ Thích Chân Quang chủ trì.

Hình ảnh cho thấy, trong số các xô cá được mang thả xuống sông Hồng có cả loài cực kỳ hung dữ và ăn tạp mang tên là cá “chim trắng nước ngọt”.
Theo chuyên gia nghiên cứu Phùng Mỹ Trung, loài cá này có tên khoa học là Colossoma brachypomum, vốn là một loài cá ăn thịt đáng sợ trong họ cá hổ Characidae, có nguồn gốc từ sông Amazon, Nam Mỹ và được du nhập về Việt Nam nuôi từ năm 1998.

“Rất nhiều cá thể của loài này đã vượt khỏi tầm kiểm soát của con người thoát ra vùng lòng hồ. Chúng tấn công ăn thịt rất nhiều các loài cá bản địa, chúng là nỗi khiếp sợ của các loài lưỡng cư, bò sát và ngay cả một số loài thú nhỏ.
 
Những ghi nhận cách đây vài năm tại huyện Thống Nhất, Đồng Nai là cá chim trắng được nuôi trong ao đã cắn đứt ngón tay út của một phụ nữ trong lúc giặt quần áo ở cầu ao. Những con cá chim trắng trên 1 kg trở lên thường hay tấn công đàn vịt con nuôi, chăn thả trong ao.”, vị chuyên gia này dẫn chứng.
Hàng tấn “cá sát thủ” được mang đổ xuống sông Hồng
Rõ ràng, hành động thả hàng tấn cá dữ xuống sông Hồng như trên không thể được coi là “phóng sinh”, mà phải gọi đúng là “sát sinh”. Bởi một khi loài “cá sát thủ” này sinh sôi và phát triển thì đó sẽ là thảm hoạ đối với hệ sinh thái sông Hồng.
Loài cá này từng cắn đứt tay một phụ nữ ở Đồng Nai.
Điều đáng nói, nhân vật đứng ra chủ trì buổi “phóng sinh” lần này là “Thượng toạ” Thích Chân Quang – một nhân vật từng gây ra rất nhiều tai tiếng trong giới tu hành Phật giáo tại Việt Nam.
“Thượng toạ” Thích Chân Quang tên thật là Vương Chí Việt, tự nhận là cháu gọi Hồ Chí Minh là bác ruột.