Nhìn hình ảnh người tù số 503 này….

From facebook:  Tran Dat shared Lê Bích Trâm‘s post.
 
Image may contain: 2 people, people standing
Lê Bích TrâmFollow

Nhìn hình ảnh người tù số 503 này bị còng tay ra toà hôm qua phát đi khắp thế giới mà không khỏi nghĩ suy.

Đang là tổng thống, bà Park Geun Hye bị luật pháp điều tra rồi bị kéo xuống, bắt giam vào tù 6,5m2 và nay đưa ra toà như bao nghi phạm, không chiếu lệ gì việc bà làm tổng thống và là ái nữ của cố tổng thống.

Bà cũng không trưng ra thân thế gia đình hay vị trí hiện tại để đòi hỏi điều gì, mà có đòi hỏi cũng không được. Toà hỏi “Nghề nghiệp của bị cáo là gì?”, bà trả lời “Tôi không có nghề nghiệp gì cả”.

Toà kéo dài hai tháng là sự trừng phạt nặng với bà, và tiếp sau đó có thể là một án chung thân. Từ tổng thống đến bị cáo ra toà hôm nay, mọi việc diễn ra rất nhanh, chỉ trong vòng hai tháng.

Luật pháp xứ Hàn nghiêm minh khiến ai cũng phải nể. Và nhất là quan lại hủ bại và làm bậy thấy hình ảnh nghiêm minh này sẽ phải chùn tay.

Xứ Hàn từ nghèo khó nhanh chóng vươn lên thành hổ là nhờ cột trụ pháp luật nghiêm minh đó, từ đó mới sinh ra nền kinh tế và văn hoá hùng mạnh.

( hình Nguyễn Trường Uy)

 

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

From facebook:  Phan Thị Hồng added 5 new photos 
Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Phân tích của Nguyễn Quang Duy Melbourne Úc

Giá Trị Tinh Thần Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa.

Nguyễn Quang Duy

1. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1956
2. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 (Ấn bản chánh)

Nền Cộng Hòa non trẻ của miền Nam Việt Nam đã chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975, nhưng giá trị tinh thần cộng hòa vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Nhân kỷ niệm 60 ngày bản Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa ra đời ngày 26-10-1956 xin được ôn lại các giá trị có thể học hỏi từ tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa.

1. HIẾN PHÁP 1956

Ngày 26/10/1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức thông báo kết quả Trưng cầu Dân Ý truất phế Bảo Đại, thành lập Việt Nam Cộng hòa, với Hiến ước Tạm thời làm cơ sở pháp lý điều hành quốc gia.

Tháng 3/1956 một Quốc hội Lập hiến với 123 dân biểu được bầu. Đến tháng 7-1956 Quốc Hội bỏ phiếu thông qua bản Hiến Pháp. Ngày 26/10/1956 Hiến Pháp được Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm ban hành.

Tinh thần lập hiến và dân chủ chưa đủ

Chiếu điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc Hội Lập Hiến tự động trở thành Quốc Hội Lập Pháp và Quốc Trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên Việt Nam Cộng Hòa.

Lẽ ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác Quốc Hội Lập Hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc Hội Lập Pháp và một Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.

Điều 3 “Tổng thống lãnh đạo Quốc dân” mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 “Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp.”, Nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2 “Chủ quyền thuộc về toàn dân”.

Nói cách khác quyền lực tuyệt đối đã được Hiến Pháp trao cho Tổng Thống do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.

Trong khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của địa phương phải được đặt hàng đầu, Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào Trung ương không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.

Thiên thứ 9, quy định việc sửa đổi Hiến pháp, với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.

Tam Quyền Phân Nhiệm

Vai trò và nhiệm vụ của Tổng Thống, của Quốc Hội và của Thẩm phán được nêu rõ trong các Thiên (Chương) ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp 1956.

Thiên thứ sáu dành cho Đặc biệt Pháp viện là một tòa án đặc biệt có thẩm quyền xét xử Tổng thống, Phó Tổng thống, Chánh án Tòa Phá án, và Chủ tịch Viện Bảo Hiến, trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội.

Thiên thứ bảy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó Tổng thống là Chủ tịch có nhiệm vụ trình bày sáng kiến và phát biểu ý kiến về các dự thảo, dự án kinh tế.

Thiên thứ tám về Viện Bảo Hiến nhằm phán quyết về tánh cách hợp hiến của các đạo luật, sắc luật, và quy tắc hành chánh.

Kinh Tế Tự Do

Chương hai nêu rõ việc Quốc gia (chính phủ) công nhận và bảo đảm tất cả các quyền tự do cá nhân.

Đặc biệt Điều 20: “Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.” Cùng với việc khuyếch trương kinh tế tự do, chiếu theo điều 20 này chính phủ đã có những chính sách vô cùng tích cực.

Lấy thí dụ, chính phủ quy định các loại xe chuyên chở công cộng như xe taxi, xe lam, xe xích lô… cho nhập cảng xe mới và đem bán trả góp cho tài xế. Các loại xe này nhanh chóng trở thành những phương tiện di chuyển thông dụng nhất tại miền Nam.

Chương trình Người cày có ruộng, chính phủ mua lại ruộng đất của điền chủ đem bán lại cho tá điền qua phương cách trả góp.

Ngoài một số hoạt động công ích xã hội, như điện, nước, hàng không,… sinh hoạt kinh tế hoàn toàn tự do. Chính phủ không cạnh tranh với tư nhân. Chính phủ chỉ giữ vai trò khuyết trương kinh tế và bảo đảm tư nhân cạnh tranh một cách công bằng và hợp pháp.

Ngay trong giáo dục Chương trình tư thục được chính phủ khuyến khích và nâng đỡ. Nhờ đó chia sẻ gánh nặng với chính phủ và đã đào tạo nhiều thế hệ thanh niên sẵn sàng đóng góp cho quốc gia dân tộc.

Chính phủ còn cho thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, An Hòa, Nông Sơn, … nhiều nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn…

Các quốc gia khác sau khi giành được độc lập đều có khuynh hướng bảo vệ thị trường, chính phủ trực tiếp làm kinh tế, quốc hữu hóa công xưởng, đề ra các chính sách bảo vệ thị trường.

Trong khi miền Nam lại theo kinh tế tự do nên kinh tế và kỹ nghệ đã phát triển nhanh hơn các quốc gia trong vùng.

Hòa giải tranh chấp lao công

Thiên thứ bẩy về Hội đồng Kinh tế Quốc gia mà hội viên gồm các nghiệp đoàn và các ngành hoạt động kinh tế, các tổ chức hoạt động xã hội liên hệ với kinh tế và các nhà kinh tế học.

Chính phủ cũng đề ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ, giảm thiểu các tranh chấp lao công, khiến cho xã hội hài hòa cùng nhau phát triển sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

Đây là một điểm son của của xã hội miền Nam, nhờ đó cộng sản không thể lợi dụng biến các cuộc biểu tình đình công đòi hỏi quyền lợi của giới thợ thuyền thành những cuộc biểu tình chính trị.

Tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc

Trong lời mở đầu Hiến Pháp nêu rõ: “…dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh và nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.”

Nhìn chung Hiến Pháp 1956 xây dựng trên tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc, tinh thần này được tiếp tục duy trì trong Hiến Pháp 1967.

2. HIẾN PHÁP 1967

Sau đảo chánh 1-11-1963, miền Nam bị đẩy vào tình trạng khủng hoảng chính trị. Các chính phủ quân sự và dân sự liên tiếp được thành lập. Để có cơ sở pháp lý mỗi chính phủ đã ban hành Hiến Chương riêng.

Mãi đến tháng 9/1966, một Quốc Hội Lập Hiến gồm 117 Dân biểu được bầu ra. Một Ủy ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập rút ưu khuyết điểm Hiến Pháp 1956, nghiên cứu và tham vấn nhiều bản Hiến pháp các quốc gia khác, đặc biệt là Pháp, Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Hiến Pháp 1967 tam quyền phân lập, dân chủ và phân quyền

Ngày 01/04/1967 Hiến Pháp 1967 được công bố theo đó nguyên tắc kiểm soát và đối trọng giữa các nhánh quyền lực được triệt để tuân thủ.

Lập pháp gồm lưỡng viện, hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập. Vai trò và nhiệm vụ của lập pháp, của hành pháp và của tư pháp được nêu rõ trong các Chương ba, bốn và năm của bản Hiến Pháp.

Để tránh nguy cơ độc tài, Hiến pháp 1967 đặt ra chế độ Tổng thống với Lưỡng viện Quốc Hội và với chức vụ Thủ Tướng nhằm chia sẻ trách nhiệm và quyền hành của Tổng thống.

Đặc biệt, Chương 5 Điều 70 nêu rõ: “Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như: xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.” Các Điều 65, 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 114 tạo cơ sở pháp lý cho các chính quyền địa phương.

Chương 6 về vai trò và nhiệm vụ của các Định Chế Đặc Biệt bao gồm Đặc Biệt Pháp Viện, Giám Sát Viện, Hội Đồng Quân Lực, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội, Hội Đồng các Sắc Tộc.

Vai trò chống tham nhũng của Giám Sát Viện được nêu rõ: “Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.”

Chính Đảng và Đối Lập

Chương 7 về Chính Đảng và Đối Lập, nền Đệ Nhị Cộng Hòa khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng đối lập như sau:

Điều 99

1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.

2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.

Điều 100 – Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.

Điều 101 – Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.

Điều 102- Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.

Sinh hoạt chính trị ở miền Nam cho đến 30-4-1975 đã chiụ nhiều ảnh hưởng chủ trương lưỡng đảng đối lập, các đảng Khối hay chính trị gia đã hình thành những liên kết đối lập về đường lối và chánh sách quốc gia.

Thêm vào đó để tránh tình trạng Quân Đội cấu kết với các đảng phái chính trị làm đảo chánh, Chương 2, Điều 23 cấm “Quân nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái”.

Hữu sản hóa nhân dân

Điểm mạnh nhất của mô hình Đệ Nhất Cộng Hòa là phát triển kinh tế tự do, điểm mạnh này đã được tiếp tục trong thời Đệ Nhị Cộng Hòa. Về Công Nghiệp, Khu Kỷ Nghệ Biên Hòa là một thành tựu phát triển vào bậc nhất trong vùng Đông Nam Á. Mặc dù chiến tranh kinh tế và kỹ nghệ miền Nam vượt hẳn các quốc gia trong vùng.

Điểm đặc biệt của Hiến Pháp 1967 Điều 19 phần 2 “Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân” và Điều 22 “Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.” Sự thành công của chánh sách Người Cày Có Ruộng và Chương trình cơ giới hóa nông nghiệp chính là nhờ các điều khoản nói trên.

Hiến pháp nhân bản, khai phóng và dân tộc

Thừa kế tinh thần Đệ Nhất Cộng Hòa, Hiến pháp 1967 lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm quốc sách. Điều 11 ghi rất rõ “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.”

Điều 2 phần 2 nêu rõ tinh thần cộng hòa “Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.”

Các điểm nổi bật

Nhìn chung Hiến pháp 1967 vừa ngắn gọn, rõ ràng, vừa nêu rõ chính phủ phải bảo đảm những quyền tự do căn bản, kể cả quyền đối lập chính trị. So với các quốc gia trong vùng Đông Nam Châu Á cùng thời, Hiến pháp 1967 chỉ rõ sự tiến bộ vượt bực của Việt Nam Cộng Hòa.

Còn so với thực tế Việt Nam Cộng Hòa có một số đặc điểm nổi bật như:

1. Các quyền tự do căn bản đã được chính phủ bảo đảm, đặt biệt là quyền tư hữu;

2. Xây dựng được một nền dân chủ tam quyền phân nhiệm, phân lập và phân quyền;

3. Xây dựng thành công một nền văn hóa giáo dục, lấy nhân bản, khai phóng và dân tộc làm căn bản;

4. Tôn giáo, văn học, văn nghệ, nghệ thuật phát triển;

5. Báo chí tự do;

6. Theo kinh tế thị trường tự do;

7. Nhưng vẫn bảo đảm được công bằng xã hội và dân sinh như y tế đại chúng hay thực hiện luật Người Cày Có Ruộng;

8. Một xã hội dân sự phát triển.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy các yếu tố trên là căn bản trong việc phát triển quốc gia. Nghĩa là nếu miền Nam không rơi vào tay cộng sản thì Việt Nam Cộng Hòa sẽ không thể kém xa các quốc gia Đông Nam Châu Á như hiện nay. Nếu không nói là sẽ vượt trội hơn nước người.

Tinh thần lập hiến và thượng tôn pháp luật pháp thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đó và sẽ được học hỏi kế thừa khi Việt Nam có tự do dân chủ.

Nguyễn Quang Duy

Melbourne, Australia (Úc).
25-10-2016

No automatic alt text available.
Image may contain: text
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, sunglasses and text
 
LikeShow more reactions

Comment

Nguyễn Thái Hợp: Một chuyến đi đau lòng!

  1. Nguyễn Thái Hợp: Một chuyến đi đau lòng!

VOA 18.5.2017

Giám Mục Nguyễn Thái Hợp trao petition đến cựu thị trưởng Geneva, Michel Rosetti, trong buổi tiếp tân do đương kim thị trưởng Guillaume Barazzone và các chính khách khác cùng tổ chức.

Đang trong chuyến đi vận động quốc tế ở châu Âu và trao thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa, Giám mục Giáo phận Vinh Phaolo Nguyễn Thái Hợp nói với VOA rằng ông đau lòng khi phải thực hiện một chuyến đi mà lẽ ra là của những người cầm quyền.

Đây là chuyến đi ngoài dự phóng cũng như chuyên môn của chúng tôi vì thực sự chúng tôi không được đào tạo để thực hiện những chuyến đi như vậy. Chúng tôi là những người làm mục vụ. Đáng lẽ những chuyến đi như vậy phải là của những người cầm quyền”.

Từ chối giúp đỡ của quốc tế

Trong chuyến đi kéo dài hai tuần tới Na Uy, Đức, Bỉ và Thụy Sĩ, phái đoàn của Giáo phận Vinh đã có những cuộc tiếp xúc với Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu, một số Bộ Ngoại giao, các tổ chức thuộc Giáo Hội Công Giáo và các tổ chức xã hội dân sự.

Chia sẻ với VOA về kết quả chuyến đi, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói các cuộc tiếp xúc với các tổ chức quốc tế càng khiến ông thêm đau lòng.

Buồn vì cách xử sự của những người cầm quyền, của những người đại diện của dân. Chẳng hạn, một điều cụ thể mà chúng tôi nhận thấy, khi ở Việt Nam tôi cũng đã nghe, là một số nước muốn đến để giúp đỡ cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam có thể nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của thảm họa và nhất là xử lý thiên nhiên đã bị thảm họa đó bằng những phương pháp khoa học, kỹ thuật hiện đại để trả lại vùng biển miền Trung, và cho người dân biết thảm họa đến bao nhiêu, thảm họa kéo dài bao nhiêu, bao giờ có thể ăn cá được, bao giờ có thể đi ra biển được v.v.. Không những nhà nước đã từ chối một số nước, mà ngay cả cơ quan của Liên Hiệp Quốc cũng đã có những đề nghị đó mà không hiểu tại sao những người đại diện của dân cũng từ chối đề nghị của cơ quan Liên Hiệp Quốc. Điều đó khiến tôi cảm thấy đau lòng”.

Mị dân và vô trách nhiệm

Hơn một năm sau khi xảy ra thảm họa môi trường lịch sử, Giám mục Nguyễn Thái Hợp nói những câu hỏi rất căn bản của người dân như nguyên nhân của thảm họa, tác hại của nó thế nào, kéo dài bao lâu, khi nào biển miền Trung được khôi phục trở lại… vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.

“Cho tới hôm nay, tôi thấy rằng chúng tôi chỉ gặp được những câu trả lời một cách rất mị dân và vô trách nhiệm. Chẳng hạn có những quan chức, khi thảm họa xảy ra ít lâu, đã xuống biển tắm để nói với dân rằng ‘Tắm đi!’. Có những người trả lời một cách vô trách nhiệm rằng biển miền Trung cũng như dân tộc Việt Nam oai hùng nên nó tự có thể tẩy xóa được thảm họa, những chất độc trở lại tình trạng ban đầu”.

Những “cuộc xung đột đau lòng”

Kể từ khi xảy ra thảm họa môi trường ở vùng biển miền Trung hồi tháng 4/2016, nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại địa phương và trên khắp các tỉnh thành đòi chính quyền và Formosa phải minh bạch thông tin về thảm họa và bồi thường xứng đáng cho người dân.

Mặc dù phía chính quyền nói đã phân phối số tiền đền bù 500 triệu đôla của Formosa tới các nạn nhân trực tiếp của thảm họa, nhưng nhiều người dân không đồng tình với cách giải quyết của chính quyền. Gần đây, các cuộc biểu tình tiếp tục diễn ra, đặc biệt tại tỉnh Nghệ An.

“Nguyên nhân sâu xa vẫn là chưa đền bù xứng đáng. Có những người lẽ ra phải được đền bù xứng đáng thì vẫn chưa được vào danh sách [đền bù]. Có những người không liên quan gì đến thảm họa môi trường, không phải là nạn nhân thì đã được đền bù. Tại sao vậy? Phải chăng vì tham nhũng, vì lợi ích nhóm?”,Giám mục Nguyễn Thái Hợp đặt câu hỏi.

Tỉnh Nghệ An vốn không được chính quyền xếp vào danh sách bồi thường của thảm họa Formosa, nhưng nhiều người dân địa phương nói họ đã mất nguồn sinh kế, lâm vào cảnh nợ nần vì ảnh hưởng trực tiếp của thảm họa.

Giám mục Nguyễn Thái Hợp cho biết ông đã hai lần làm việc với chính quyền tỉnh Nghệ An và được chính quyền tỉnh cho biết đã đề đạt ra trung ương để đưa một số khu vực ở Nghệ An vào danh sách nạn nhân cần được bồi thường. Tuy nhiên cho tới nay, ông vẫn chưa nhận được câu trả lời cho vấn đề này. Theo ông, chính sự phẫn uất của người dân đã dẫn đến những “cuộc xung đột đau lòng” giữa người dân và chính quyền.

“Chuyện này đáng lẽ giải quyết một cách êm thắm giữa người dân và chính quyền, mà cuối cùng không được giải quyết, đưa đến những cuộc xung đột. Những cuộc xung đột đó thật sự rất đau lòng. Càng đau lòng hơn khi người dân bị đánh đập trong khi họ là những nạn nhân cần được đền bù xứng đáng”.

Người dẫn đầu phái đoàn của Giáo phận Vinh cho biết chuyến đi vận động lần này là một chuyến đi “tiếp cận”, giúp cho các thành viên biết cách nghiên cứu, sắp xếp và đề đạt các thỉnh nguyện của người dân một cách cụ thể hơn để gửi tới nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế khác nhau, với mong muốn giúp cho các nạn nhân của Formosa sớm tìm được câu trả lời cho những băn khoăn của họ và được đền bù thỏa đáng.

Tính đến sáng 18/5, thỉnh nguyện thư về thảm họa Formosa trên trangwww.thamhoaformosa.com đã có trên 195.000 người ký tên.

Giáo phận Vinh có quyết định thành lập Ban Hỗ trợ các nạn nhân thảm họa ô nhiễm môi trường biển miền Trung vào tháng 9/2016, 5 tháng sau khi bắt đầu xảy ra hiện tượng hải sản chết hàng loạt, khiến đời sống kinh tế trong khu vực gần như tê liệt.

Tân tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in mời linh mục làm phép dinh tổng thống

Tân tổng thống Nam Hàn Moon Jae-in mời linh mục làm phép dinh tổng thống

vietvatican.net

Seul – Như một tín hữu Công giáo tốt lành, trước khi đến định cư ở một ngôi nhà mới, tân tổng thống Hàn quốc Moon Jae-in đã nghĩ đến việc làm phép nơi ở mới, đó là “Nhà Xanh” – nơi cư ngụ chính thức của tổng thống Hàn quốc, nơi đặt các văn phòng tổng thống và cũng là nơi đón tiếp các quốc trưởng đến thăm Hàn quốc.

Tân tổng thống Hàn quốc Moon Jae-in đã mời cha xứ của mình – linh mục đang coi sóc giáo xứ Công giáo Chúa Ba Ngôi ở vùng phụ cận Hongje-dong,, Seul, nơi ông ở từ tháng một năm nay – đến làm phép “Nhà xanh”.

Cha Phaolô Ryu Jong-Man đã nhận lời mời của tổng thống và hôm 13/05, cha đã đến Nhà Xanh để ban phép lành cho những người ở đó, làm phép cho ngôi nhà và các đồ vật.

Cha xứ Phaolô đã đặt tay trên tổng thống và vợ của ông và cầu nguyện cho ông, cầu cho ông được “khôn ngoan như Vua Solomon”. Cha cũng nói với tổng thống: “Trước khi quyết định về vấn đề của đất nước, anh chị em hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ đến với anh chị em và ban cho anh chị em ánh sáng và sức mạnh của Người.

Cha Phaolô nói về tân tổng thống, người cha biết rõ, là một người khiêm nhường, cởi mở và nhân hậu. Cha cho biết ông luôn đeo một nhẫn chuỗi Mân Côi ở ngón tay thứ tư của bàn tay trái: dấu hiệu của lòng sùng kính Mẹ Maria.

Tổng thống Moon Jae-in đã chọn bắt đầu vào ở trong Nhà Xanh vào ngày lễ Đức Mẹ Fatima và do đó, việc phục vụ quốc gia của ông bắt đầu dưới sự bảo trợ của Mẹ Maria.

Cha Phaolô đã tặng cho vợ chồng tổng thống một bức tranh có ý nghĩa hòa bình. (Agenzia Fides 17/5/2017)

Hồng Thủy

Stalin: tư tưởng độc tài và gia đình bất hạnh

Stalin: tư tưởng độc tài và gia đình bất hạnh

BBC

Tù Liên Xô
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Tù khổ sai làm kinh tế xây dựng chế độ ‘xã hội chủ nghĩa’ Liên Xô

Trong tiếng Anh, Stalinism có hai nghĩa: đó là phương pháp lãnh đạo kiểu Stalin dùng bộ máy an ninh để khủng bố nhân dân, cán bộ đảng cộng sản; và chủ nghĩa Stalin, một dòng ý thức hệ.

Nhưng các hành vi và suy nghĩ của Josef Stalin (1878 -1953) cũng ảnh hưởng nhiều đến gia đình, vợ con ông.

Phương pháp và tư tưởng của Stalin

Theo Bách khoa Toàn thư Anh (Britannica), cơ sở lý luận của Stalinism được Josef Stalin nêu ra là đề cao bộ máy nhà nước.

Nếu như ý thức hệ xã hội chủ nghĩa theo cách truyền thống nói nhà nước “sẽ dần tan biến đi” trong xã hội tương lai không còn giai cấp, Stalin lại nhấn mạnh rằng để đạt mục tiêu phi giai cấp đó, cần làm nhà nước mạnh lên đã.

Stalin cũng nêu ra khái niệm “tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, đặt Liên Xô thành trung tâm của phong trào cộng sản và cánh tả thế giới.

Nói ngắn gọn thì bảo vệ Liên Xô là bảo vệ chủ nghĩa xã hội, và nhiệm vụ này có ý nghĩa cho cả nhân loại.

Điểm chính yếu khác của chủ nghĩa Stalin là “tiêu diệt các kẻ thù bên trong (Liên Xô), và bên ngoài”.

Bên trong, cho đến năm 1939, gần như tất cả các nhà cách mạng thuộc nhóm Bolshevik cũ tham gia chính biến 1917 đã bị thủ tiêu.

Đấu tranh giai cấp trở thành chính sách cơ bản để tham lọc và tiêu diệt toàn bộ tầng lớp trí thức, có của, nông dân giàu có và tư sản Nga.

Đặc biệt, dùng sức của kẻ thù giai cấp để xây dựng kinh tế cũng thành chính sách của Liên Xô thời Stalin.

Ước tính có từ 7-15 triệu người dân Xô Viết bị đầy vào cách trại tù khổ sai để khai phá các vùng đất xa xôi, lạnh lẽo.

Bên ngoài, tiêu diệt kẻ thù cũng được thực hiện chừng nào cuộc cách mạng quốc tế chưa hoàn tất trên toàn thế giới.

Từ trái: Stalin và vợ, bà Nadia
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Từ trái: Stalin và vợ, Nadezhda Alliluyeva

Về nguyên tắc lãnh đạo, Stalinism chủ trương tập trung quyền lực vào một người, tạo ra chủ nghĩa sùng bái cá nhân.

Trong một thời gian dài cho đến khi chết, Josef Stalin vừa làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, vừa làm Thủ tướng Chính phủ.

Nhưng những người bênh Stalin cũng nói đến “thành tích” của nhà độc tài Liên Xô “có quyền lực hơn bất cứ ai trong lịch sử”, theo Britannica.

“Stalin đã công nghiệp hóa Liên Xô, cưỡng bức hợp tác hóa nông nghiệp và dùng công an trị để khủng bố, đồng thời đánh thắng nước Đức trong cuộc chiến 1941-45.

“Stalin cũng đã mở rộng sự kiểm soát của Liên Xô sang cả một vùng vành đai Đông Âu.

Ông ta triệt tiêu hoàn toàn tự do cá nhân, chống lại sự thịnh vượng cá nhân nhưng cũng tạo ra một cơ sở công nghiệp và quân sự hùng mạnh và đưa Liên Xô vào kỷ nguyên hạt nhân.”

Nhiều bi kịch

Về gia đình, cuộc đời Stalin và tính cách ông ta gây ra nhiều bi kịch cho thân nhân.

Stalin
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Phương pháp lãnh đạo kiểu Stalin dùng bộ máy an ninh để khủng bố nhân dân và cán bộ đảng cộng sản

Stalin có hai đời vợ, một con gái Svetlana Alliluyeva, các con trai Yakov Dzhugashvili, Vasily Stalin và con nuôi Artyom Sergeyev.

Bà vợ đầu tiên, Ketevan “Kato” Svanidze, người Georgia, qua đời năm 1907 sau khi sinh ra con trai Yakov được bảy tháng.

Cậu bé được nhận lễ rửa tội trong Nhà thờ của Chính Thống giáo.

Người vợ thứ hai, Nadezhda (Nadia) Alliluyeva, người Nga, có cha bà, ông Sergei Alliluyev là một nhà cách mạng.

Ông đã cùng vợ Olga cưu mang che dấu Stalin khi trốn tù từ Siberia trở về năm 1911.

Bà Nadia tự sát năm 1932 khi Stalin đang ở đỉnh cao quyền lực.

Đám tang của bà không có mặt người chồng là nhà lãnh đạo tối cao.

Cuộc đời các con của Stalin cũng phản ánh những thăng trầm của Liên Xô.

Con gái duy nhất Svetlana được Stalin yêu quý, đã trốn khi sang Dehli năm 1966 để lo đám tang cho người tình Ấn Độ.

Tại Dehli, bà vào Sứ quán Hoa Kỳ xin tỵ nạn chính trị rồi sang sống ở Mỹ.

Bà nhập tịch Hoa Kỳ, lấy chồng là kiến trúc sư William Wesley Peters, rồi chọn tên Lana Peters.

Cuộc bỏ trốn của bà đã gây một cú choáng cho dư luận Liên Xô thời Brezhnev.

Con gái duy nhất Svetlana được Stalin yêu quý
Bản quyền hình ảnh   GETTY IMAGES
Con gái duy nhất Svetlana được Stalin yêu quý

Dù đã thay tên đổi họ, cho đến khi qua đời năm 2011 ở Wisconsin, Lana Peters nói rằng bà chưa bao giờ thoát khỏi “cái bóng” của người cha.

Con trai cả của Stalin, Yakov Dzhugashvili giữ nguyên họ Georgia.

Các tư liệu nói hồi trẻ, cuộc tình của Yakov với một cô gái Nga, Zoya bị cha phản đối.

Trong một lần bị tống cổ khỏi nhà, Yakov dùng súng bắn vào ngực nhưng không chết dù viên đạn xuyên vào phổi.

Sau đó, được sự ủng hộ của mẹ kế, Yakov đã kết hôn với Zoya nhưng cuộc hôn nhân chỉ tồn tại không quá hai năm.

Ông trở thành sỹ quan pháo binh bị phát-xít Đức bắt trong trận Smolensk năm 1941.

Phải mất nhiều tuần sau quân Đức mới xác định danh tính của ông là con trai Stalin và đối xử tốt với ông.

Nhưng chính Stalin, trong quân lệnh 270, tháng 8/1941, đã viết rằng mọi sỹ quan và chính ủy Hồng quân Liên Xô chịu bị bắt làm tù binh là kẻ phản bội tổ quốc.

Họ phải nhận án tử hình khi về nước, và thân nhân họ sẽ bị công an bắt.

Theo đúng lệnh này, người vợ thứ hai của Yakov là Yulia Meltzer bị lôi khỏi nhà dù đang nuôi con gái ba tuổi và tống vào ngục ở Lefortovo trong hai năm.

Phía Đức muốn đổi Yakov với Thống chế Friedrich Paulus, tư lệnh quân phát- xít đầu hàng sau trận Stalingrad.

Nhưng Stalin đã nói câu nổi tiếng:

“Tôi không bao giờ đổi thống chế lấy trung uý.”

Yakov chết trong trại tập trung Sachsenhausen ở Oranienburg, gần Berlin, năm 1943 khi 36 tuổi.

Một điều tra kết thúc năm 2000 của nhóm chuyên gia Nga – Mỹ do Giáo sư John Erickson chủ trì đã kết luận Yakov tự sát bằng cách nhảy vào hàng rào cắm điện trong trại.

Xác ông bị quân cảnh Đức bắn nát khi đã chết.

Yakov làm điều đó vì cãi nhau với một tù binh Anh về tin tức rằng chế độ Stalin thảm sát 15 nghìn sỹ quan Ba Lan ở rừng Katyn gần Smolensk tháng 5/1940.

Giáo sư Erickson kết luận rằng nỗi ô nhục khi nghe tin về vụ Katyn đã khiến Yakov muốn kết liễu đời mình.

Năm 1977, trung uý Yakov Dzhugashvili được Liên Xô truy tặng Huân chương Ái quốc hạng nhất.

Người em trai cùng cha của Yakov là Vasily Stalin thì bị ám ảnh bởi cái chết tự sát của mẹ năm 1932 khi cậu bé mới 11 tuổi.

Yakov Dzhugashvili bị quân Đức hỏi cung sau trận Smolensk
Bản quyền hình ảnh   BETTMANN/GETTY
Yakov Dzhugashvili bị quân Đức hỏi cung sau trận Smolensk năm 1941 – ông tự sát chết trong tù năm 1943

Nghiện rượu từ hồi trẻ, Vasily vào quân đội và tốt nghiệp trường phi công.

Lợi dụng tên tuổi cha, sỹ quan này gây ra nhiều điều tiếng như tán gái, lái máy bay khi còn say xỉn.

Năm 1941, Vasily được phong thiếu tá, rồi đại tá chỉ vài tháng sau.

Sau chiến tranh, ông nhận hàm thiếu tướng nhưng không tỏ ra có tài chỉ huy.

Ngay khi Stalin qua đời, Vasily bị bắt khẩn cấp vì các nghi vấn ‘tội gián điệp’, điều các sử gia ngày nay bác bỏ.

Tuy thế, ông vẫn bị giam 7 năm và chỉ được thả năm 1960 sau khi cầu xin tân lãnh đạo Nikika Khrushchev.

Chưa đầy một năm sau, Vasily, lúc này đã bị tước quân tịch và giải ngũ, lại vào tù vì lái xe gây tai nạn.

Ông chết vì bệnh rượu lúc chưa đầy 41 tuổi ở Kazan.

Có tài liệu nêu ra thuyết Vasily đã giết cha hoặc để mặc cho Stalin bị đột quỵ trong nhà nghỉ ngoại ô mà không báo cấp cứu.

Nghi vấn này được sử gia Simon Sebag-Montefiore điều tra trong một phóng sự cho BBC Timewatch hồi 2010.

Trên thực tế, việc để mặc Stalin nằm trên nền sau đột quỵ tại nhà nghỉ ở Kuntsevo tháng 3/1953 là do Lavrentiy Beria, Nikita Khrushchev và Georgy Makenkov, cùng quyết định, theo Joshua Rubenstein.

Còn một người nữa được công nhận là con của Stalin mà không mang dòng máu và họ của ông.

Artyom Fyodorovich Sergeyev, sinh năm 1921, là con của ông Fyodor Sergeyev, bạn Stalin bị chết trong tai nạn xe lửa và được nhà lãnh đạo Liên Xô đón về nuôi.

Ông sau được phong thiếu tướng và qua đời năm 2008 ở Moscow

Quốc hội, họ đã làm gì, họ đã nói gì?

From facebook:  Bạch Hoàn

Ngân sách đã chi ra 3.600 tỉ đồng cho cuộc bầu cử tiến hành hồi giữa năm ngoái. Từng đồng từng cắc đều là tiền thuế của dân. Số tiền ấy tương đương với 200.000 tấn heo hơi những ngày qua. Nghĩa là, nhân dân phải mất tới 2.500.000 con lợn mới bầu ra được hội đồng nhân dân các cấp và đặc biệt là gần 500 đại biểu Quốc hội đang họp hiện giờ.

Mỗi ngày họp, có đại biểu từng nói tốn hết cả tỉ đồng. Quốc hội chưa từng công bố chi phí thực sự nhưng chỉ riêng tiền phụ cấp, tiền xe đưa đón, tiền ăn ở khách sạn… đã ăn không biết bao nhiêu bát cơm của người dân.

Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, là đại diện tiếng nói của nhân dân. Vậy mà, thử nhìn lại xem những ngày qua, họ đã làm gì, họ đã nói gì?

Có một dự án luật mà bao nhiêu năm làm mãi không xong. Bộ Luật hình sự thông qua rồi mới phát hiện biết bao nhiêu lỗi. Và giờ, một đại biểu với vai trò mang tiếng nói của nhân dân vào cơ quan quyền lực cao nhất đất nước, lại đi đề nghị bổ sung thêm tội danh bội nhọ lãnh đạo. Trong khi đó, giả sử dự án luật có đưa vào tội danh này, thì lẽ ra người đại biểu phải cương quyết bác bỏ. Ấy mới là một đại biểu Quốc hội. Bởi đơn giản, không một điều luật nào được phép đứng trên Hiến pháp. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không thể nào có một quy định dành riêng cho lãnh đạo.

Mang tiếng là người đại biểu nhân dân, nhưng có những tiếng nói trong nghị trường mấy hôm nay, tôi không thấy họ đứng về phía dân mà trái lại họ đang đối lập với nhân dân. Không biết, khi nói ra những điều đó, kì họp kết thúc, trở về địa phương tiếp xúc cử tri, họ sẽ ngẩng mặt hay cúi đầu? Họ sẽ nói với cử tri điều gì đây?

Đã chọn là một đại biểu quốc hội thì sứ mệnh tối thượng của họ phải là phụng sự nhân dân.

Nếu không chất vấn xem chúng ta tham gia những thứ như sáng kiến Một vành đai, một con đường của Trung Quốc thì được gì, mất gì?

Nếu không chất vấn về việc phát triển ồ ạt các nhà máy nhiệt điện đốt than, về nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ, về việc kiểm soát để hạn chế ô nhiễm môi trường?

Nếu không chất vấn việc giải quyết hàng loạt dự án thua lỗ, chậm tiến độ liên quan đến nhà thầu Trung Quốc?

Nếu không chất vấn ai phải chịu trách nhiệm và biện pháp kiểm soát quyền lực để chấm dứt tình trạng cả họ làm quan, tình trạng con ông này cháu bà kia thăng tiến thần tốc?

Nếu không chất vấn về việc một mặt tuyên bố chú trọng chất lượng tăng trưởng kinh tế nhưng giải pháp để đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng lại là tăng cường hút dầu thô lên bán thì thực chất những quyết tâm bằng lời nói kia có ý nghĩa gì?

Nếu không chất vấn giải pháp cân đối ngân sách, cắt giảm chi tiêu thay vì tăng thuế môi trường và cứ thế nhấn nút thông qua thì sẽ khoan thủng sức dân?

Còn rất nhiều cái nếu. Nếu như thế thì họ ngồi ở đó để làm gì?

Và nếu cứ như thế, liệu người dân có tiếc những đàn lợn của mình không?

Vì sao hàng nghìn người Việt ở lại Mỹ dù quá hạn visa?

Vì sao hàng nghìn người Việt ở lại Mỹ dù quá hạn visa?


Theo phúc trình của Bộ An ninh Nội địa, tính tới cuối năm 2016, hơn 600 nghìn người tới thăm Hoa Kỳ vẫn ở lại nước này, dù đã hết hạn visa.

Theo phúc trình của Bộ An ninh Nội địa, tính tới cuối năm 2016, hơn 600 nghìn người tới thăm Hoa Kỳ vẫn ở lại nước này, dù đã hết hạn visa.

Hàng nghìn người Việt nằm trong danh sách người nước ngoài ở quá hạn thị thực ở Hoa Kỳ, trong xu hướng mà giới hữu trách nước này nói là gây “nguy cơ về an ninh quốc gia”.

Theo phúc trình của Bộ An ninh Nội địa Hoa Kỳ, công bố đầu tuần này, tính tới cuối năm 2016, con số người Việt ở quá hạn visa đi du lịch hoặc giao thương ở Mỹ là khoảng 3 nghìn người.

Lý do thứ nhất, họ sang bên này với chủ ý ở lại. Cái thứ hai, họ bị ‘gạ’ sang bên này bằng con đường du lịch, với sự hứa hẹn được đi làm này kia, nhưng mà chủ sử dụng lao động, chẳng hạn ở tiệm nail [sơn sửa móng tay] hoặc tiệm ăn, lại không gia hạn cho họ visa. Hoặc là chồng bảo lãnh họ sang xong rồi không làm giấy tờ gì hết, và coi như người vợ kẹt cứng với người chồng, cứ ở suốt ngày trong nhà.

Trong khi đó, con số du học sinh hoặc sinh viên trao đổi của Việt Nam ở quá thời hạn thị thực được cấp là hơn 1 nghìn người.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc Điều hành BPSOS, tổ chức từng giúp đỡ một số người Việt gặp rắc rối vì ở quá hạn visa, nói với VOA Việt Ngữ rằng có nhiều lý do dẫn tới tình trạng này.

Ông nói thêm: “Lý do thứ nhất, họ sang bên này với chủ ý ở lại. Cái thứ hai, họ bị ‘gạ’ sang bên này bằng con đường du lịch, với sự hứa hẹn được đi làm này kia, nhưng mà chủ sử dụng lao động, chẳng hạn ở tiệm nail [sơn sửa móng tay] hoặc tiệm ăn, lại không gia hạn cho họ visa. Hoặc là chồng bảo lãnh họ sang xong rồi không làm giấy tờ gì hết, và coi như người vợ kẹt cứng với người chồng, cứ ở suốt ngày trong nhà”.

Việt Nam nằm trong số các quốc gia có số lượng du học sinh nằm trong top 10 ở Mỹ với con số lên tới hơn 20 nghìn sinh viên, trong khi số du khách Việt tới Mỹ cũng ngày càng tăng, với hàng chục nghìn người mỗi năm.

Việt Nam nằm trong số các quốc gia có số lượng du học sinh nằm trong top 10 ở Mỹ với con số lên tới hơn 20 nghìn sinh viên.

Việt Nam nằm trong số các quốc gia có số lượng du học sinh nằm trong top 10 ở Mỹ với con số lên tới hơn 20 nghìn sinh viên.

Ngoài Việt Nam, công dân các quốc gia Đông Nam Á khác cũng nằm trong “danh sách đen” của Bộ An ninh Nội địa Mỹ là Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines hay Thái Lan.

Khi được hỏi lý do vì sao mà người Việt lại chấp nhận rủi ro để ở lại Mỹ, tiến sĩ Thắng nói thêm: “Qua bên này, họ làm ăn, buôn bán được dễ hơn, rồi họ có những khu mà chỉ cần nói tiếng Việt thôi họ cũng có thể lẫn lộn vào trong đó. Ở bên Mỹ dù sao cũng dễ kiếm tiền hơn. Mỗi ngày làm lao động thì cũng kiếm được một số tiền và dành dụm được gửi về trong nước”.

Qua bên này, họ làm ăn, buôn bán được dễ hơn, rồi họ có những khu mà chỉ cần nói tiếng Việt thôi họ cũng có thể lẫn lộn vào trong đó. Ở bên Mỹ dù sao cũng dễ kiếm tiền hơn. Mỗi ngày làm lao động thì cũng kiếm được một số tiền và dành dụm được gửi về trong nước.

Ông Thắng nói thêm rằng tổ chức của ông đã “can thiệp cho một số trường hợp” và chứng minh họ có “đủ tư cách tị nạn hay là nạn nhân của nạn buôn người”.

Theo phúc trình của Bộ An ninh Nội địa, tính tới cuối năm 2016, hơn 600 nghìn người tới thăm Hoa Kỳ vẫn ở lại nước này, dù đã hết hạn visa.

Cho dù con số này rất nhỏ so với khoảng 50 triệu người tới thăm Mỹ, Bộ này nói trong phúc trình trên rằng những người ở quá hạn thị thực gây ra một “nguy cơ về an ninh quốc gia”.

Tin cho hay, hai kẻ không tặc trong vụ khủng bố 11/9 ở Mỹ, khiến hàng nghìn người thiệt mạng, cũng từng thuộc diện này.

Các quốc gia châu Phi nằm trong số các nước có tỷ lệ người ở quá hạn visa tại Mỹ nhiều nhất trong phúc được công bố trong bối cảnh chính quyền của Tổng thống Donald Trump “mạnh tay” với các di dân không có giấy tờ hợp lệ, nhất là từ quốc gia láng giềng Mexico.

Ân xá Quốc tế kêu gọi thả Trần Huỳnh Duy Thức

 Ân xá Quốc tế kêu gọi thả Trần Huỳnh Duy Thức

BBC

Ông Trần Huỳnh Duy Thức (trái)

Ông Trần Huỳnh Duy Thức (trái) hiện đang thi hành bản án tù 16 năm và đã trải qua tám năm ở trong tù.

Tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế (Amnesty International) gửi thư ngỏ ngày 23/5/2017 kêu gọi Việt Nam thả tự do “ngay lập tức và vô điều kiện” cho ông Trần Huỳnh Duy Thức, người bị tù cách đây tròn 8 năm với tội danh âm mưu lật đổ chính quyền.

Cha của ông Thức là ông Trần Văn Huỳnh nói với BBC trong tám năm qua, gia đình ông đã nhiều lần nộp đơn xin xét lại bản án “oan sai” này, nhưng đều bị giới chức khước từ.

Ông Thức là tù nhân duy nhất trong vụ án ‘Lê Công Định và những người khác’ vẫn còn ở lại trong tù, các thành viên khác là các ông Lê Công Định, Lê Thăng Long và Nguyễn Tiến Trung đã được trả tự do trong những khoảng thời gian khác nhau.

Tổ chức Ân xá Quốc tế trong những năm qua đã nhiều lần gửi thư cho chính phủ Việt Nam về trường hợp của ông Thức nhưng “chưa nhận được bất cứ phản hồi nào”, đại diện của Amnesty, bà Janice Beanland nói với BBC.

 Trong thư ngỏ gửi Bộ trưởng Công an Tô Lâm hôm 23/5, Ân xá Quốc tế viết: “Phiên xét xử của Trần Huỳnh Duy Thức không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế cho một phiên tòa công bằng, coi nhẹ giả định vô tội và quyền được bào chữa.”

“Việc truy tố không cung cấp được bằng chứng nào để chứng minh cho bản cáo trạng,” nội dung thư nhấn mạnh.

Tổ chức Ân xá Quốc tế cũng bày tỏ lo ngại về tình trạng mà ông Thức đang bị giam giữ và về việc ông bị chuyển trại nhiều lần mà gia đình không được thông báo trước.

‘Đối xử hà khắc’

Đại diện của Ân xá Quốc tế, bà Janice Beanland, nhà vận động cho Việt Nam, Lào và Campuchia, cho BBC biết qua email rằng với việc gửi thư ngỏ, Amnesty hy vọng Việt Nam sẽ “suy xét một cách nghiêm túc việc trả tự do cho ông Trần Huỳnh Duy Thức”.

“Ít nhất họ cũng nên đảm bảo điều kiện giam giữ ông Thức được cải thiện, và ông phải được chăm sóc y tế một cách đúng mức.

“Việc các nhà hoạt động như ông Trần Huỳnh Duy Thức bị bắt giam rồi phải chịu điều kiện và cách đối xử hà khắc là điều không chấp nhận được, và là trái với luật quốc tế về nhân quyền,” bà viết.

Amnesty International

“Việt Nam đang không thực hiện trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền được nêu rõ trong những hiệp định quốc tế mà họ đã ký kết.”

‘Thăm hỏi khó khăn’

Ông Trần Văn Huỳnh cho BBC hay trong chuyến đi thăm nuôi gần đây nhất hồi tháng Tư, do điều kiện ánh sáng trong buồng giam không tốt nên thị lực của con trai ông bị ảnh hưởng.

Việc ông Thức cho biết “có hiện tượng ruồi bay ở mắt” khiến gia đình rất lo ngại sẽ “ảnh hưởng đến sức khỏe”, ông Huỳnh nói.

Được biết ông Thức vẫn còn có thể đọc sách và viết thư về nhà từ trại giam số 6 ở tỉnh Nghệ An, “nên gia đình cũng đỡ lo một phần”.

Ông Huỳnh nói với BBC rằng việc đi thăm nuôi con trai ông trở nên khó khăn hơn nhiều từ khi ông Thức bị chuyển tới Nghệ An hồi tháng 5/2016.

Trước đây, khi ông Thức bị giam ở trại giam Xuân Lộc (Đồng Nai) và Xuyên Mộc (Bà Rịa Vũng Tàu), gia đình có thể đi thăm trong ngày. Nay, khoảng cách lên tới 1.400 km nên gia đình phải đi máy bay với chi phí “rất tốn kém”, ông Huỳnh nói.

Bà Janice cho BBC biết Ân xá Quốc tế chưa nhận được phản hồi từ phía giới chức Việt Nam về thư ngỏ mới nhất này.

“Các bức thư ngỏ chủ yếu là gửi đến giới chức nhưng cũng là để thể hiện tình đoàn kết với các nạn nhân bị vi phạm nhân quyền, gia đình và bạn bè của họ cũng như các nhà hoạt động khác đang vật lộn để hành động theo niềm tin của họ trong hoàn cảnh khó khăn.

“Chúng tôi sẽ rất vui nếu chính quyền Việt Nam có phản ứng – nhất là bằng việc thả ông Thức,” bà Janice nói.

Trường dột nát, học sinh Nghệ An phải học ở nhà giữ xe

Trường dột nát, học sinh Nghệ An phải học ở nhà giữ xe

Thiếu phòng học, trường phải lấy nhà để xe, mượn nhà văn hóa xóm để làm phòng học. (Hình: Báo Phụ Nữ TP.HCM)

NGHỆ AN, Việt Nam (NV) – Dãy phòng học hư hỏng, nứt nẻ và dột nát trong khi cơ quan chính quyền chưa có kế hoạch di dời hoặc sửa chữa, buộc nhà trường phải lấy nhà để xe, mượn thêm nhà văn hóa xóm để dạy học.

Theo Báo Phụ Nữ TP.HCM, nhiều năm qua, thầy trò trường Tiểu Học Quỳnh Lập A, xã Quỳnh Lập, huyện Quỳnh Lưu, vẫn phải nơm nớp dạy học trong ngôi trường 40 năm tuổi, đã xuống cấp nghiêm trọng.

 Trường gồm hai dãy nhà với 16 phòng học có diện tích hẹp, chật chội lại thấp nên khá ngột ngạt, nhất là với thời tiết nắng nóng. Trong đó, nhiều phòng tường đã bị nứt toác cả phía ngoài lẫn phía trong, có chỗ vết nứt đã kéo dài và tạo ra khe hở lớn hết sức nguy hiểm.

Nhiều phụ huynh phản ảnh, mỗi lúc mưa xuống, các phòng học bị dột ướt khiến học sinh phải di chuyển chỗ ngồi, trong khi trường có hơn 750 học sinh ở 24 lớp. Dù đã chia các khối lớp học xen kẽ hai ca sáng chiều, học thêm cả ngày Thứ Bảy nhưng số lượng phòng học vẫn không đủ, buộc nhà trường này phải mang bàn ghế ra nhà xe và nhà văn hóa xóm để mở thêm lớp.

Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester

Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester

Một vụ nổ xảy ra tại Manchester khi khán giả xem hòa nhạc rời khỏi địa điểm sau khi xem Ariana Grande biểu diễn.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Người dân của Manchester cùng nhau tưởng niệm nạn nhân của cuộc tấn công khủng bố tối Thứ Hai.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Những cây nến tưởng niệm các nạn nhân của vụ tấn công khủng bố tại quảng trường Albert khiến 22 người chết và 59 người bị thương.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Vụ nổ xảy ra tại sân vận động Manchester Arena khi khán giả đi xem biểu diễn của ca sĩ Mỹ Ariana Grande.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Một người phụ nữ đau buồn được người bạn an ủi khi cô nhìn xuống những đóa hoa tưởng niệm trong một đêm canh thức bên ngoài Tòa Thị chính vào ngày 23 tháng 5 năm 2017.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Đa số các nạn nhân đều là những người trẻ tuổi, thanh thiếu niên và trẻ em vô tội. Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) hôm nay đăng tải trên các mạng xã hội thừa nhận họ đã thực hiện vụ tấn công tàn ác này.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Một vụ nổ xảy ra tại Manchester Arena khi khán giả xem hòa nhạc rời khỏi địa điểm sau khi Ariana Grande biểu diễn. Cảnh sát Greater Manchester đang điều trị vụ nổ như là một cuộc tấn công khủng bố và đã xác nhận 22 người chết và 59 người bị thương.
Tưởng niệm nạn nhân tấn công khủng bố ở Manchester
Một chiếc khăn choàng của Manchester United trong hình trái tim, nằm bên cạnh những bông hoa do các thành viên của công chúng để lại trong một đêm canh thức nến, tôn vinh và tưởng niệm các nạn nhân của vụ tấn công khủng bố. ( Hình ảnh : Getty Images )

Thành Hồ của Việt Nam bị lún chìm ở mức báo động

Thành Hồ của Việt Nam bị lún chìm ở mức báo động

Đỗ Hồng (Danlambao) lược dịch – Tin Hà Nội. – Một bản nghiên cứu hôm thứ ba 18/4 cho biết nạn đất lún tại thành Hồ đang diễn ra ở mức báo động.

Tân Hoa Xã trích dẫn kết quả nghiên cứu được loan báo bởi Bộ Tài Nguyên và Môi Trường của VN cùng Viện Đại Học Kỹ Thuật HCM, cho thấy nhiều khu vực trong 8 quận của thành phố đã bị lún chìm từ 5 tới 10 ly một năm.

Phụ Tá Giáo Sư Lê Văn Trung của Viện Đại học này nói rằng sau khi so sánh thống kê trong 25 năm, thành phố cho tới nay đã bị lún chìm khoảng 0,4 thước.

Ông cảnh cáo nếu vấn đề lún đất không được lưu ý tới, những khu vực bị lún chìm sẽ đối đầu với nạn lún đất trầm trọng, và một số khu vực thậm chí có thể bị chìm xuống nước biển.

Những lý do chính của nạn lún đất tại thành Hồ bao gồm việc khai thác quá mức về nước ngầm, việc thành thị hóa nhanh chóng và các hoạt động chuyên chở sôi nổi.

Tại những vùng đất thấp, nạn lún đất cùng mực nước biển dâng lên (trung bình khoảng 3 ly một năm do sự thay đổi khí hậu) sẽ lan rộng tới những khu vực bị ngập nước hiện tại và tạo ra những khu vực mới.

Tại những khu vực duyên hải, việc khai thác nước ngầm quá mức gây ra sự thâm nhập của nước muối một cách tổng quát sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới việc tăng trưởng của cây cối trong việc phát triển nông nghiệp đặc biệt và có thể chống đỡ được.

Theo Bộ Môi Trường, những vùng của Đồng Bằng Sông Cửu Long tại miền Nam VN cũng đã bị lún chìm.

Nguồn: http://zeenews.india.com/world/vietnams-ho-chi-minh-city-sinks-at-alarming-rate-1997095.html

24/5/2017

50 vụ ô nhiễm lớn trong năm 2016

50 vụ ô nhiễm lớn trong năm 2016

2017-05-24
 
Nhân viên môi trường đô thị sử dụng hóa chất để làm sạch một hồ nước bị ô nhiễm ở trung tâm thành phố Hà Nội vào ngày 19 tháng 5 năm 2016.

Nhân viên môi trường đô thị sử dụng hóa chất để làm sạch một hồ nước bị ô nhiễm ở trung tâm thành phố Hà Nội vào ngày 19 tháng 5 năm 2016.

AFP photo
 
 

Vụ ô nhiễm môi trường do nhà máy thép Formosa gây nên được chính phủ Việt Nam dành một chương riêng để báo cáo cho Quốc hội, trong phần nói chung về ô nhiễm môi trường trong cả nước vào năm ngoái.

Theo báo cáo này thì vào ngày 10 tháng 5 một cuộc họp liên ngành đã đưa ra kết luận rằng Formosa đã khắc phụcc được 52 trong tổng số 53 lỗi, lỗi còn lại là công nghệ luyện cốc sẽ được thay thế vào tháng 6 năm 2019. Ngoài ra theo chính phủ Việt Nam thì Formosa đã đầu tư 1 tỉ đô la Mỹ để cải thiện và bổ sung các công trình bảo vệ môi trường theo yêu cầu của Bộ tài nguyên và môi trường.

Nhà máy Formosa được cơ quan chức năng cho phép vận hành thử nghiệm lò cao từ ngày 21 tháng 5.

Nhà máy Formosa đóng tại khu công nghiệp Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, vào tháng tư 2016 đã xả hóa chất ra biển làm cá chết tại bốn tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên Huế. Thảm họa môi trường này làm ảnh hưởng đến đời sống của hàng ngàn ngư dân miền Trung, cũng như nền kinh tế Việt Nam. Nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra đòi đóng cửa nhà máy Formosa, và chuyện cho phép nhà máy vận hành thử nghiệm trong khi chưa sửa đổi lỗi kỹ thuật công nghệ luyện cốc dấy lên sự chỉ trích của công luận hiện nay.

Bên cạnh đó trong báo cáo về ô nhiễm môi trường của chính phủ có nói là trong năm vừa qua có đến 50 vụ ô nhiễm lớn gây bức xúc công luận.

Theo báo cáo, hiện chỉ có 52 trong tổng số 584 cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ngoài ra có 36 cơ sở công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm cao, cần phải giám sát đặc biệt, và 132 dự án có nguy cơ gây ô nhiễm cần thường xuyên được kiểm soát.

Các ngành công nghiệp sau đây được báo cáo của chính phủ liệt kê là có thể có những doanh nghiệp “đen”, tức là những cơ sở dễ gây tai họa môi trường:

Khai thác chế biến khoáng sản, luyện kim, nhiệt điện, sản xuất pin và bình ắc-quy, thuộc da, lọc hóa dầu, sản xuất giấy, nhuộm, dệt, chế biến thủy sản, chế biến cao su, chế biến mía đường, và xử lý nước thải.