Sức mạnh Chúa Thánh Thần

Sức mạnh Chúa Thánh Thần

Chuacuuthe.com


140602005

VRNs (03.05.2014) – Sài Gòn – Mỗi người Công giáo nên đọc Kinh Thánh và luôn nói về Kinh Thánh. Mỗi ngày hãy đọc vài câu. Kinh Thánh sẽ nói với bạn. Đừng chỉ đọc những câu bạn thích vì thấy “hợp” với bạn, mà hãy đọc tất cả, bất cứ câu nào, càng “khó nghe” càng tốt. Đôi khi chúng ta phải làm điều gì đó dù cảm thấy miễn cưỡng.

Theo chu kỳ Mùa Phục Sinh, vợ chồng tôi bắt đầu đọc sách Công Vụ Tông Đồ hàng ngày. Chúng tôi đọc Kinh Thánh nhiều lần trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ thấy vui với các câu chuyện của Giáo hội sơ khai. Các câu chuyện đầy tính nhân bản, lộn xộn, và thực tế. Các tín hữu thời đó đối mặt với quá nhiều thử thách đối với đức tin của họ và cách sống mới của họ. Các thành phố như bị đảo lộn bởi những người ít học nhưng đầy Thánh Thần. Hãy nhớ rằng họ có là những người như thế trước đó vài tuần? Không. Họ chạy trốn, ẩn náu, nhút nhát, sợ hãi,…

Chúng ta hiểu tại sao Phó tế Stêphanô hiên ngang bảo vệ Đức Kitô trước mặt các vị lãnh đạo Do Thái, không sợ sệt, mạnh dạn nói, và chịu chết.

Chúng ta đọc câu chuyện về Phaolô và Sila trong tù, vừa hát vừa cầu nguyện giữa đêm khuya sau khi họ bị đánh đập. Họ “điên” thật! Có bao giờ bạn thấy một người bị bệnh nặng mà vẫn ca tụng Thiên Chúa? Họ dại dột hay điên khùng? Chắc hẳn chỉ có thể là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Đó cũng là Chúa Thánh Thần mà chúng ta lãnh nhận khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, vậy tại sao chúng ta sợ hãi như các Tông Đồ xưa? Phải chăng cuộc đời chúng ta trôi nổi vì chúng ta không nhận ra Chúa Thánh Thần?

Tại sao Chúa Thánh Thần được so sánh với lửa?

Nước biểu hiện sự sinh sản và hoa trái của cuộc sống được trao ban trong Chúa Thánh Thần, lửa biểu hiện năng lực biến đổi nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Khi cầu nguyện, Tiên tri Êlia “xuất hiện như ngọn lửa” và “lời lẽ cháy như ngọn đuốc”, đem lửa từ trời xuống hy lễ trên Núi Camêlô. Sự kiện này là “hình ảnh” của Lửa Thánh Thần, Đấng biến hóa những gì ông chạm vào. Ông Gioan Tẩy Giả “đi trước Chúa trong thần khí và sức mạnh của ông Êlia” và tuyên bố Đức Kitô là Đấng “làm phép rửa bằng Lửa và Thánh Thần”. Còn Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Trong hình “lưỡi lửa”, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ vào sáng ngày Lễ Ngũ Tuần và lòng họ đầy Chúa Thánh Thần. Truyền thống Kitô giáo dùng biểu tượng lửa là một trong các hình ảnh diễn tả sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta thấy Giáo hội nhiệt thành trong sách Công Vụ Tông Đồ là một ĐGH Phanxicô đã nói về Đại hội Giới trẻ tại Rio: “Cha mong muốn kết quả của Ngày Giới Trẻ là gì? Một sự hỗn độn. Sẽ có điều đó. Sẽ có sự hỗn độn ở đây, tại Rio này ư? Sẽ có! Nhưng cha muốn có sự hỗn độn tại các giáo phận! Cha muốn mọi người phải ra đi! Cha muốn Giáo hội ra các đường phố! Cha muốn tất cả chúng ta chống lại những gì trần tục, máy móc, thoải mái, giáo sĩ trị, khép kín, ung dung tự tại. Các giáo xứ, các trường học, các tổ chức,… hãy ra đi!”.

Lễ Ngũ Tuần là ngày khai sinh Giáo hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta chính Ngọn Lửa đã xuống trên các Tông Đồ xưa và đã biến đổi cuộc đời họ.

Nguyện xin Mưa Thánh Linh tuôn đổ trên chúng ta và ban cho chúng ta sự can đảm để dám ra đi và hăng say loan báo Tin Mừng cho mọi người, đồng thời biến đổi chính cuộc đời của chúng ta và mọi người xung quanh chúng ta.

RACHEL ZAMARRON

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

XIN VÂNG

XIN VÂNG

http://www.vietcatholicsydney.net/images/picture/17_899_Me-Vo-Nhiem-Nguyen-Toi.jpg

Một linh mục nổi tiếng thánh thiện và nhiệt thành, có kể lại kinh nghiệm khi được mời dự tiệc tại một nhà giáo dân khá giả trong giáo xứ như sau:

Trong suốt bữa tiệc thịnh soạn hôm đó, giữa tiếng cười nói của thực khách, có một điều làm tôi thắc mắc, đó là tiếng nước chảy đâu đó trong nhà. Vì là lần đầu tiên được mời, tôi không dám lên tiếng, chỉ mong sao có người nhà nhận ra tiếng nước chảy đó.

Sau cùng, không thể cầm lòng được, tôi hỏi một người giúp việc. Với nụ cười lịch sự, người này giải thích:

Cách đây khoảng 40 năm, khi người ta đào móng xây nhà và dựng nông trại, tình cờ họ đã khám phá ra mạch nước ngầm. Thế là họ xây một căn phòng ngay bên mạch nước, kế đó họ xây những căn phòng khác ở chung quanh.

Mạch nước ngay trong nhà mình, tư tưởng đó xâm chiếm tâm trí tôi suốt quãng đường về, và tôi đoán ra đâu là bí quyết hạnh phúc của gia đình giáo dân ngoan đạo và tốt lành đó.

***

Câu chuyện trên đây gợi lại trong tâm trí chúng ta lời sứ thần chào Đức Trinh Nữ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” (Lc 1,28). Vâng, Mẹ chính là mạch suối tràn đầy thánh ân, mạch suối trong lành tươi mát, mạch suối không bao giờ cạn của Thiên Chúa.

Để chuẩn bị cho Ngôi Hai xuống thế làm người, Thiên Chúa đã dọn sẵn cung lòng Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền, xứng đáng cho Con Thiên Chúa ngự đến. Thiên Chúa đã ưu đãi và ban ơn đặc biệt cho Mẹ qua lời sứ thần: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa” (Lc 1,30). Và để bảo đảm cho sự can thiệp đặc biệt này, sứ thần loan báo thêm: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ, và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ” (Lc 1,35). Như vậy việc sinh con này hoàn toàn do Thiên Chúa, xác thịt không tham dự vào.

Cuối cùng, thiên thần đã kết thúc sứ điệp Truyền Tin bằng một lời bảo đảm tuyệt diệu: “Vì không việc gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,38).

Và Đức Maria, với tâm tình đầy tin tưởng, vâng phục và phó thác liền thưa: “Xin vâng” (Lc 1,38). Một câu tuy ngắn gọn nhưng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Một câu đã khai mở kỷ nguyên cứu rỗi. Một câu đã đem lại cho muôn loài niềm hy vọng và bình an.

Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một thế giới tuyệt vọng trong vòng kiềm toả của tội lỗi, đã hy vọng được ơn giải thoát. Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một cung lòng trinh nữ không sinh con, đã được dâng hiến để hạ sinh Đấng Cứu Thế. Với “Uy quyền Đấng Tối Cao”, một nhân loại đang sống dưới ách nô lệ của Satan, đã được tự do làm con cái Chúa.

Lời thưa “xin vâng” của Mẹ không chỉ thốt lên một lần để thay cho tất cả, nhưng là tiếng “Xin vâng” liên lỉ trọn cả kiếp người. Từ tiếng “Xin vâng” đầy phó thác và tuân phục vào ngày Truyền Tin đến lời “Xin vâng” trọn vẹn tin yêu và chấp nhận dưới chân thập giá.

***

Lạy Mẹ Maria, việc Mẹ thụ thai cách lạ lùng là dấu hiệu báo trước sứ mạng cao cả của Hài Nhi. Xin cho chúng con biết vâng phục và phó thác cho chương trình nhiệm màu của Chúa. Nhất là, xin Mẹ cho chúng con biết cộng tác với Ơn Chúa để hoàn thành sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho mỗi người chúng con. Amen!

Thiên Phúc

Chứng cớ phục sinh

Chứng cớ phục sinh

TRẦM THIÊN THU

Chuacuuthe.com

VRNs (19.04.2014) – Sài Gòn – Ngôi mộ thực sự trống trơn. Chúa Giêsu phục sinh hay thi thể Ngài bị đánh cắp? Chắc chắn có điều bất thường đã xảy ra, vì những người theo Chúa Giêsu không còn khóc thương Ngài, che giấu Ngài, và bắt đầu can đảm rao giảng: CHÚA GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH.

14041901

Các nhân chứng đều nói rằng Chúa Giêsu bất ngờ hiện ra với họ trong thân xác như trước khi Ngài chết, trước tiên Ngài hiện ra với các phụ nữ. Trong thế kỷ đầu, các phụ nữ không có quyền gì, số phận lép vế lắm. Thế mà chính Chúa Giêsu lại ưu tiên hiện ra với họ trước, nghĩa là phụ nữ là những người đầu tiên thấy Chúa Giêsu phục sinh. Thật là độc đáo vô cùng. Phụ nữ cũng là những người đầu tiên phát hiện ngôi mộ trống, được nói chuyện với Ngài và đi làm chứng về Ngài.

Sau đó, các tông đồ mới được thấy Chúa Giêsu, và thấy hơn 10 lần. Ngài cho họ xem tay chân và cạnh sườn và bảo sờ thử xem sao. Ngài còn ăn uống với họ, và có lần Ngài hiện ra với hơn 500 người đi theo Ngài.

Học giả John Warwick Montgomery cho biết: “Năm 56 sau công nguyên, tông đồ Phaolô cho biết rằng có hơn 500 người đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh và nhiều người trong số đó vẫn còn sống (1 Cr 15:6-8). Điều đó không có nghĩa là các Kitô hữu thời sơ khai có thể dựng chuyện như vậy rồi rao truyền cho những người nhẹ dạ cả tin bằng cách làm ra thân thể Chúa Giêsu” (1).

Các học giả Kinh Thánh Geisler và Turek nói: “Nếu sự phục sinh không xảy ra, tại sao tông đồ Phaolô lại dám đưa ra con số nhiều các chứng nhân như vậy? Nếu không đúng, tông đồ Phaolô sẽ mất uy tín với các tín hữu Côrintô vì ông nói dối trắng trợn” (2).

Tông đồ Phêrô nói với đám đông ở Xê-da-rê về lý do ông và các tông đồ khác đã tin Chúa Giêsu sống lại: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:39-41).

Học giả Kinh Thánh Michael Green (người Anh) nói: “Những lần Chúa Giêsu hiện ra chính xác như bất cứ thứ gì cổ xưa… Không thể nói rằng những điều đó đã không xảy ra” (3).

Sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là một sự kiện lịch sử đã thực sự xảy ra, không là huyền thoại như nhiều người vô thần đã nói. Các cuộc nghiên cứu khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện sự chính xác mang tính lịch sử của Kinh Thánh. Ngoài các sách Phúc Âm và sách Công Vụ, còn có những chứng cớ về sự hiện hữu của Chúa Giêsu phục sinh trong các tác phẩm của Flavius Josephus, Cornelius Tacitus, Lucian Samosata, và Tòa án Tối cao Do-thái (Jewish Sanhedrin).

Đây là 7 chứng cớ về sự phục sinh cho thấy Đức Giêsu Kitô đã thực sự trỗi dậy từ cõi chết:

1. Ngôi mộ trống

Ngôi mộ trống có thể là bằng chứng hùng hồn nhất về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Có 2 lý do chính được những người không tin đưa ra: Ai đó đã lấy trộm xác Chúa Giêsu, hoặc các phụ nữ và các tông đồ đến không đúng mộ. Người Do-thái và người Rôma không có động cơ để cướp xác, còn các tông đồ quá nhát đảm và phải trốn quân lính Rôma. Các phụ nữ thấy mộ trống và không còn thấy xác Chúa Giêsu, họ biết chắc đó là mộ an táng Chúa Giêsu. Giả sử họ đến không đúng mộ, Tòa án Tối cao Do-thái có thể lấy xác ở đúng mộ để ngăn cản chuyện phục sinh. Vải liệm Chúa Giêsu được xếp gọn gàng trong mộ, kẻ trộm nào cũng vội vàng, không ai lại cẩn thận như vậy. Chính các thiên thần nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

2. Các nữ chứng nhân đạo đức

Các nữ chứng nhân là bằng chứng rằng Phúc Âm là tài liệu lịch sử chính xác. Nếu được bịa đặt, không tác giả cổ nào lại dùng phụ nữ làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Phụ nữ là giai cấp công dân thứ yếu trong thời đó, chứng cớ của họ không được xem xét ở tòa án. Nhưng Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phục sinh hiện ra trước tiên với bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và mấy phụ nữ đạo đức khác. Ngay cả các tông đồ cũng không tin bà Ma-ri-a khi bà nói về ngôi mộ trống. Chúa Giêsu luôn tôn trọng các phụ nữ này, Ngài đề cao họ bằng cách cho họ trở thành nhân chứng đầu tiên về sự phục sinh của Ngài. Các Thánh sử đã kể lại hành động lúng túng này, vì đó là cách nó xảy ra.

3. Các tông đồ can đảm

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, các tông đồ đã trốn biệt trong các phòng khóa chặt cửa, sợ sẽ đến lượt mình bị lôi đi xử tử. Nhưng có sự thay đổi khác thường: Họ đang là những người nhát đảm trở thành những người rao giảng can trường. Bất kỳ ai biết bản chất con người thì đều hiểu rằng con người không thể thay đổi mau chóng như vậy nếu không có sự tác động lớn. Sự ảnh hưởng đó là được thấy Thầy sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn phòng còn khóa kín cửa, trên bờ biển Ga-li-lê, và trên núi Ô-liu. Sau khi thấy Thầy phục sinh, tông đồ Phêrô và các tông đồ khác đã ra khỏi phòng và đi rao giảng về Đức Kitô phục sinh, bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra với mình. Họ không còn trốn tránh vì họ đã biết sự thật. Cuối cùng, họ hiểu rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người và cứu mọi người thoát khỏi tội lỗi.

4. Biến đổi Giacôbê và những người khác

Cuộc sống biến đổi là một bằng chứng khác về Chúa Giêsu phục sinh. Tông đồ Gia-cô-bê, anh em họ với Chúa Giêsu, đã từng nghi ngờ không biết Chúa Giêsu có là Đấng Mê-si-a hay không. Nhưng sau đó, ông đã trở thành người lãnh đạo can đảm của giáo đoàn Giê-ru-sa-lem, thậm chí còn bị ném đá chết vì đức tin. Tại sao? Kinh Thánh nói rằng vì Đức Kitô phục sinh đã hiện ra với ông. Thật là cú sốc cho người anh em của ông còn sống, sau khi nghe tin này. Tông đồ Gia-cô-bê và các tông đồ khác cũng đều trở thành các nhà truyền giáo hăng say vì họ đã được thấy và chạm vào Đức Kitô phục sinh. Với các chứng nhân như vậy, Giáo hội sơ khai đã phát triển mau chóng, lan rộng từ Giê-ru-sa-lem tới Tây phương, tới Rôma và xa hơn nữa. Gần 2.000 năm qua, những người gặp được Đức Giêsu phục sinh đều thay đổi cách sống.

5. Đám đông

Đám đông hơn 500 người đã cùng nhau tận mắt thấy Chúa Giêsu phục sinh (1 Cr 15:6-8). Thánh Phaolô nói rằng đa số họ còn sống khi ông viết lá thư đó, khoảng năm 55 sau công nguyên. Chắc chắn họ nói với người khác về “sự lạ” này. Ngày nay, các tâm lý gia nói rằng không thể có số đông người như vậy mà chỉ là ảo giác cộng đồng. Các nhóm nhỏ cũng thấy Chúa Giêsu phục sinh, chẳng hạn như các tông đồ, ông Clê-ô-pa và người bạn đồng hành. Họ cùng thấy một sự việc, còn trường hợp các tông đồ, họ còn sờ vào Chúa Giêsu và xem rõ các vết thương của Chúa Giêsu, rồi tận mắt thấy Ngài ăn uống nữa. Không thể nào là ảo giác, vì sau khi Chúa Giêsu lên trời, họ mới không còn gặp lại Ngài.

6. Phaolô trở lại

Cuộc trở lại của Thánh Phaolô là bằng chứng mạnh mẽ về việc biến đổi cuộc đời mau chóng. Là Sao-lê cùa thành Tác-sô, ông là người bắt đạo dữ dội. Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với ông trên đường Đa-mát, ông trở thành nhà truyền giáo của Kitô giáo. Ông chịu 5 lần đánh bằng roi, 3 lần đánh đập, 3 lần đắm tàu, 1 lần bị nén đá, chịu nghèo nàn và bị chế nhạo. Cuối cùng, hoàng đế Nê-rô của Rôma đã chặt đầu Phaolô vì tội không chịu bỏ niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Điều gì khiến Phaolô chịu cực hình như vậy? Các Kitô hữu tin rằng cuộc trở lại của Phaolô là nhờ ông đã gặp được Đức Kitô phục sinh.

7. Người ta dám chết vì Chúa Giêsu

Vô số người đã dám thí mạng vì Chúa Giêsu, chắc chắn sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện có thật trong lịch sử. Truyền thống nói rằng có 10 tông đồ trong Nhóm Mười Hai đã tử đạo vì Đức Kitô phục sinh. Hàng trăm, hàng ngàn Kitô hữu thời sơ khai đã chịu chết tại đấu trường Rôma và tại các nhà lao tù vì họ vững tin vào Đức Kitô phục sinh. Ngày nay, người ta cũng vẫn bị bách hại vì tin vào Đức Kitô phục sinh. Rất nhiều vị tử đạo đã chết ở nhiều nơi suốt gần 2.000 năm qua, vì họ vững tin rằng Chúa Giêsu sẽ ban cho họ sự sống đời đời.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Y-Jesus.com và Christianity.about.com)

______________________________

(1) John W. Montgomery, Lịch sử và Kitô giáo (Downers Grove, ILL: InterVarsity Press, 1971), 78.

(2) Norman L. Geisler và Frank Turek, Tôi Không Đủ Tin Để Là Người Vô Thần (Wheaton, IL: Crossway, 2004), 243.

(3) Michael Green, Thập Giá Trống Trơn Của Chúa Giêsu (Downers Grove, IL: InterVarsity, 1984), 97, trích dẫn trong John Ankerberg và John Weldon, Biết Sự Thật Về Sự Phục Sinh (Eugene, OR: Harvest House), 22.

XIN MẸ CỨU GIÚP CON MỌI NƠI MỌI LÚC, NHẤT LÀ TRONG GIỜ CHẾT!

XIN MẸ CỨU GIÚP CON MỌI NƠI MỌI LÚC, NHẤT LÀ TRONG GIỜ CHẾT!

…. Câu chuyện xảy ra tại thành phố Hal nằm dọc theo kênh đào Charleroi. Hal chỉ cách Bruxelles – thủ đô vương quốc Bỉ – khoảng vài cây số. Tại đây có nhà thờ Công Giáo kiểu gô-tích tôn kính bức tượng ”Đức Mẹ Đen”. Bức tượng tạc từ thế kỷ XIII và nổi tiếng vì làm nhiều phép lạ.

Tại thành phố Hal cạnh con kênh Charleroi đã xảy ra tai nạn thảm thương. Một bà mẹ góa sống với đứa con trai duy nhất. Một ngày, cậu bé chơi với bạn cạnh con kênh. Không hiểu hai cậu bé rượt đuổi nhau thế nào mà cậu trai con bà góa trượt chân rớt xuống kênh. Cậu bạn hoảng hốt chỉ biết gào lên kêu cấp cứu. Bà mẹ càng hoảng hốt hơn và cũng chỉ biết hét lên những lời kêu cứu thảm thiết.

May mắn vào ngay lúc đó có một thanh niên đi về hướng này. Nghe tiếng kêu chàng đoán ngay sự việc. Chàng tức tốc nhảy xuống kênh và lặn sâu dưới dòng nước. Mấy phút sau chàng vớt được cậu bé và mang lên bờ, trước đôi mắt đẫm lệ của bà mẹ. Người ta xúm lại cấp cứu cậu bé. Cậu từ từ hồi tỉnh. Cậu thoát chết nhờ hành động mau mắn và dũng cảm của người thanh niên lạ mặt.

Trước công ơn to tát như thế làm sao cám ơn cho đủ người đã cứu mạng sống con mình??? Bà mẹ góa lại quá nghèo! Nghĩ lui nghĩ tới bà thấy không gì quý hơn là tặng chàng trai ảnh đeo có hình Đức Mẹ Đen của nhà thờ gô-tích thành phố Hal. Bà đưa tặng chàng và nói:
– Chắc chắn Đức Mẹ MARIA nghe lời tôi cầu cứu nên đưa đẩy cậu đến và cứu vớt kịp thời con trai tôi bị nạn.
Chàng thanh niên lúng túng trả lời:
– Tôi không biết là có đúng như thế không, bởi vì, thú thật với bà, tôi là người không tin!

Tuy nói thế nhưng trước cái nhìn khẩn thiết của bà mẹ chàng chấp nhận ảnh thánh Đức Mẹ MARIA. Chàng cũng hứa sẽ mang ảnh như lời bà xin để ghi nhớ cuộc gặp gỡ với cậu bé con bà ..

Gần mấy chục năm trôi qua .. chàng thanh niên dũng cảm năm xưa, nay là người đàn ông lớn tuổi. Ông bị bệnh nặng và được điều trị tại một nhà thương bên Thụy Sĩ. Nhà thương do các nữ tu điều khiển. Cùng vào thời kỳ đó, tại vùng này, có vị Linh Mục người Bỉ về đây nghỉ ngơi. Thỉnh thoảng Cha đến thăm viếng các bệnh nhân theo lời xin của các nữ tu. Một ngày, Cha đang trên đường gần nhà thương thì thấy một nữ tu chạy đến xin Cha tới giúp một bệnh nhân đang hấp hối. Chị nói:

– Xin Cha đến mau! Ông ta đang mê sảng!

Khi vị Linh Mục đến bên giường Cha hiểu rằng người bệnh nói tiếng Flamand. Ông muốn bịt tai và xua đuổi tất cả những gì có liên hệ đến tôn giáo. Bằng tiếng Flamand vị Linh Mục nói vào tai người bệnh:
– Xin ông an tâm, không ai dám làm trái ý ông! Chúng tôi chỉ cầu nguyện cho ông thôi!

Nói xong vị Linh Mục thoáng thấy nơi cổ bệnh nhân có lấp lánh ảnh đeo Đức Mẹ MARIA. Không giữ được bình tĩnh Cha ngạc nhiên nói:
– Ông mang một ảnh đẹp như vậy mà ông lại không muốn tôi nói với ông về Đức Chúa GIÊSU KITÔ và về Đức MARIA, Mẹ của Ngài và cũng là Mẹ của chúng ta sao???

Người hấp hối bỗng chốc như hồi tỉnh. Bằng từng câu rời rạc, ông kể lại câu chuyện vớt một cậu bé và lời hứa với bà mẹ cậu bé là sẽ mang ảnh Đức Mẹ MARIA suốt đời để ghi dấu cuộc gặp gỡ. Và ông đã giữ lời hứa. Vị Linh Mục thật cảm động. Ngài cúi xuống cầm tay người bệnh và nói:
– Chú bé mà ông cứu sống chính là tôi! Mẹ tôi vẫn kể lại câu chuyện ấy và nhắc tôi nhớ đến ông luôn. Chúng tôi suốt đời ghi ơn ông .. Và ông không thấy là chính Đức Mẹ MARIA đưa tôi đến đây gặp lại ông để giúp ông trong giây phút trọng đại cuối đời sao?

Người bệnh cũng cảm động không kém vị Linh Mục. Ông bỗng trở nên an bình hơn. Ông chấp nhận xưng tội và xin rước Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU làm của ăn đàng. Sau đó, ông nhắm mắt an nghỉ trong vòng tay trìu mến ghi ơn của vị Linh Mục.

… Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Lạy Rất Thánh Đồng Trinh MARIA, Mẹ đã vui lòng nhận lấy tước hiệu là Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho được giục lòng chúng con trông cậy vững vàng, thì con nài xin Mẹ dủ lòng thương, cứu giúp con trong mọi nơi mọi lúc, khi phải các cơn cám dỗ, khi sa phạm tội, và khi gặp các sự khốn khó trong đời con, và nhất là trong giờ chết. Lạy Mẹ hay thương, xin cho con siêng năng chạy đến cùng Mẹ luôn luôn. Con tin rằng, con siêng năng chạy đến cùng Mẹ, thì làm cho Mẹ càng sẵn lòng nghe lời con. Xin Mẹ ban cho con ơn trọng này, là siêng năng cầu xin Mẹ, và được lòng trông cậy Mẹ như con thảo, ngỏ cho Mẹ nghe lời con hằng cầu xin, mà hằng cứu giúp con, và ban cho con được ơn bền đỗ đến cùng. Lạy Mẹ yêu dấu hay thương giúp, xin Mẹ ban phúc lành cho con, và cầu bàu cho con khi này và trong giờ lâm tử. AMEN.

Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước Việt Nam con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó. Sau hết cho các Linh Hồn đáng thương trong Lửa Luyện Ngục.

Thánh MARIA, lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin cầu bàu cho con. Lạy Thánh Anphongxô là quan thầy bào chữa con, xin giúp đỡ con trong những khi khó ngặt thiếu thốn biết chạy đến cùng Đức Bà MARIA.

Lạy Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Anphongxô, cầu cho chúng con.

(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA VIERGE MARIE”, Mambré Éditeur 1992, trang 57-58)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

THIÊN CHÚA Ở CÙNG MẸ – MẸ Ở CÙNG CHÚNG CON

THIÊN CHÚA Ở CÙNG MẸ – MẸ Ở CÙNG CHÚNG CON

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.8.2013

Trích EPHATA 574

Những năm sau 75, ở miền Nam có thể nói gần như gia đình nào cũng có ít nhất một người phải đi cải tạo do làm việc cho chế độ cũ, hay bị bắt giam vì đi buôn đường dài hoặc vượt biên, và như vậy là quanh năm, luôn luôn có những người mẹ, người vợ, người em gái nào đó đang ruổi rong trên những chặng đường dài để thăm nuôi con, thăm nuôi chồng hay anh trai. Lắm khi không có giấy báo cũng cứ đi với một chút hy vọng mong manh được nhìn thấy mặt người thân, không được thì gửi vào mấy giỏ bàng đựng cây thuốc lá, vài tán đường mía, mấy lạng chà bông và hũ mắm ruốc.

Nhà tôi có ông anh cải tạo tập trung ở Z30C. Đều đặn hàng tháng, mẹ tôi lại chắt bóp từ những đồng lẻ bán đá cục, yaourt, nước mắm, vay thêm một ít nữa, đủ để đi thăm nuôi con. Đến ngày hẹn, quá nửa đêm, tôi chạy chiếc Mobylette cọc cạch đưa mẹ ra góc đường Xô Viết Nghệ Tĩnh và Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1. Mùa khô hay mùa mưa thì gió khuya cứ luôn se lạnh, hình như lại càng se lạnh hơn vì người ta dạo ấy thiếu ăn, thiếu ngủ, và thiếu mặc, trong lòng lại trĩu nặng những buồn thương. Khoảng hơn chục người đàn bà tội nghiệp loay hoay lụm cụm với nhau giữa những giỏ bàng và bao bị chật căng đồ thăm nuôi, ai cũng ít lời ít điều vì còn phải dành sức cho cả hành trình còn dài…

Khoảng 1g rưỡi, chiếc xe than xịch đến, mọi người như thể đã thạo việc lắm rồi, phụ một tay với bác tài và chú lơ để chất hàng lên. Tôi đứng đó nhìn mà không thể giúp gì được, mẹ tôi bảo: “Cậu cứ về đi để đấy tôi lo, quen rồi !” Và thật nhanh, chuyến xe vội vã khởi hành, chú lơ lấy cái vồ vỗ đùng đùng năm sáu cái vào thùng than đeo ở đuôi xe, lửa xoè ra, hơi nóng phừng phừng, động cơ hộc lên mấy tiếng mệt nhọc và xe bắt đầu lăn bánh. Bóng dáng chiếc xe đen đủi xừng xững lao đi vào giữa những ánh đèn đêm vàng ệch của phố vắng…

Sau những chuyến đi thăm nuôi ông anh như thế, xập tối về lại nhà bình an, mệt thì mệt, bao giờ mẹ tôi cũng có một câu chuyện để kể cho các con nghe, về ông anh ở trại cải tạo lúc này khoẻ hay yếu, về mấy anh CA lịch sự hay hỗn xược, về các tai nạn bà gặp thấy trên đường… Nhiều chuyện vui vui, nhiều chuyện cũng bực mình lắm, nhiều chuyện lại làm cho người ở nhà bị buồn lây cái buồn của người đi.

Nhưng tôi nhớ nhất một lần mẹ kể:

Đi chung với nhau mấy chuyến rồi, nhưng các bà các chị đi thăm nuôi vẫn chưa thân nhau, chẳng ai buồn nói năng gì. Hôm ấy, trời tự dưng trở rét. Xe than nóng thì nóng đấy, nhưng chỉ thấy ấm khi xe phải tạm dừng thôi chứ lúc đang lao đi thì gió tạt hết hơi nóng về đuôi xe, các bà các chị ngồi trong thùng xe cứ phải chịu rét căm căm, dần dần ngồi sát lại với nhau hơn.

Thế rồi bất giác mẹ tôi thì thầm: “Kính mừng Maria đầy ân phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà…” Chỉ thì thầm thôi, vì cũng tế nhị, trên xe may ra chỉ vài người có Đạo. Không ngờ được một lúc thì tiếng thì thầm chuyển lên thành tiếng rì rầm. Mẹ tôi nghĩ: Ồ vậy là lần chuỗi chung được rồi đấy, nhưng chắc cũng vừa vừa, còn phải để mấy bà bên lương người ta… tranh thủ ngủ nữa chứ !

Lại thêm một lúc nữa, đến chục thứ ba, thứ tư, thì lạ thay, tiếng đọc kinh rộn hẳn lên, hình như cả xe mọi người đã cùng đọc đều đều, rập ràng, nhất là khi đọc các kinh Kính Mùng. Mẹ tôi còn bình luận thêm là bầu khí trong thùng xe có vẻ còn vui hẳn lên là đàng khác. Và chuyện lạ tiếp theo là chuyến xe ấm áp hẳn lên, dù bên ngoài trời buốt lạnh.

Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, nghĩ trong đầu: Hay nhỉ, hoá ra cả xe lần này lại toàn là dân Công Giáo sao ? Ai cũng đọc kinh ngon lành nhất là kinh Kính Mừng. Đến đoạn phải xướng thứ mấy thì ngắm, lúc đầu mẹ tôi chỉ lẩm nhẩm, bây giờ thì mẹ xướng lên rành rọt cho cả xe cùng nghe…

Đến khi hết chục thứ năm rồi, tự dưng mẹ tôi không thấy nhiều người đọc theo nữa, chỉ còn mẹ và lác đác vài người cùng “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành…” Mẹ tôi ngoái nhìn mọi người qua những ánh đèn đường lọt vào trong xe quét loang loáng từng đợt, khuôn mặt ai cũng đều thành kính chăm chú lắng nghe ! Mẹ tôi lại bắt bài hát: “Mẹ ơi bao người lạc bước lưu đày…” thì vẫn chỉ thấy vỏn vẹn mấy người hát thôi, số còn lại im lặng thật trân trọng, như muốn nuốt lấy từng lời bài Nguyện Ca với Mẹ Maria.

Xong ván kinh, mẹ tôi mỉm cười với một chị còn trẻ ngồi đối diện, hỏi thăm: “Nhà cô ở Giáo Xứ nào thế ?” Chị ta ngơ ngác không hiểu. Bà ngồi kế bên thấy vậy mới bảo: “Cụ ơi, chắc cô này cũng giống tôi, tôi không phải người bên Đạo !” Nhiều cô nhiều bà khác nữa cũng nhao nhao lên vui vẻ: “Cháu cũng thế…”, “Tôi thờ Phật…”, “Còn tôi thì theo đạo ông bà, cụ ạ !”

Mẹ tôi tròn xoe mắt: “Ơ hay, nhưng sao ban nãy các bà các cô đọc kinh lần chuỗi kính Đức Mẹ của bên Đạo chúng tôi giỏi thế ?” Một bà như thể đại diện tất cả trả lời: “Thú thật với cụ là tôi không thuộc kinh nào bên Đạo cả, nhưng nghe bà đọc đi đọc lại nhiều lần, tự dưng tôi lẩm nhẩm đọc theo rồi thuộc lòng lúc nào không biết. Vâng, thuộc lòng mà vẫn không hiểu gì lắm, cụ ạ, nhưng sao cứ đến đoạn “cầu cho chúng con là kẻ tội, khi nay và trong giờ lâm tử” là tôi lại thấy ấm lòng, nước mắt ứa ra và nghĩ chắc là mình cũng được Đức Mẹ của bên Đạo thương nhiều lắm !”

Sau lúc hàn huyên ấy, mọi người như thân với nhau hơn, móc trong túi ra, người khoanh cơm nắm, người nửa ổ bánh mì không, các bà lớn tuổi còn mời nhau ăn miếng trầu, chuyện trò vui vẻ cứ như là có họ hàng bà con với nhau vậy ! Chuyến xe từ trại về, cái chị trẻ trẻ còn nhắc: “Bác ơi, mình lại đọc kinh nữa đi bác…” Và dọc đường Hàm Thuận – Sàigòn, gặp một tai nạn xe chết người, mẹ tôi còn xin mọi người cùng đọc thêm cho hai người chết tức tưởi ấy 3 kinh Kính Mừng, rồi còn: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ…”

Mẹ tôi kết thúc câu chuyện: “Đấy các cô cậu xem, tôi không bịa đâu nhé, từ lúc mọi người trên xe cùng nhau đọc kinh lần chuỗi, rõ ràng không còn thấy rét lạnh nữa, chuyến về cũng không ai thấy bực mình, buồn lo, chán nản hay mệt rũ ra như những lần đi thăm nuôi trước !”

Vâng, tôi biết bà mẹ già đạo đức chân chất của tôi chẳng bao giờ bịa chuyện. Cụ luôn có cái xác tín rất… trực giác, không lý luận, không thần học cao xa chi cả. Tôi ngộ ra vấn đề không phải là một thứ ảo giác tâm lý hay một thứ ám ảnh tập thể chi cả, đơn giản chỉ là Lòng Tin thuần phác của những con người đang phải chịu nhiều đau khổ đã gặp được lòng chạnh thương từ ái hay cứu giúp của Mẹ Maria.

Kính Kính Mừng khởi đầu với ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Kính Kính Mừng lại kết thúc với ý nghĩa “Mẹ ở cùng chúng con”.

Từ sau khi nghe chuyện mẹ tôi kể, lại đi tu trong DCCT như vậy cũng đã được hai mươi lăm năm rồi, tôi cũng dần bỏ đi cái lý trí duy chứng ương ngạnh, mềm lòng ra, và xác tín “Thiên Chúa ở cùng Mẹ – Mẹ ở cùng chúng con” để biết tập cầu nguyện với Mẹ bằng chuỗi Mai Khôi, điều lâu nay tôi vẫn có ý coi thường, chỉ là chuyện của mấy cụ già nhà quê như mẹ của tôi, chuyện đàn bà ấy mà…

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.8.2013

MẸ TỪ BIỆT CÕI THẾ

MẸ TỪ BIỆT CÕI THẾ

Ba ngày trước khi Mẹ từ trần, các Tông Đồ và Môn Đệ đã tụ họp đông đủ tại Jêrusalem trong mái ấm nhà Tiệc Ly. Thánh Phêrô đến trước nhất, đến Phaolô rồi đến các Tông Đồ khác. Mẹ tiếp đón các Ngài bằng một tình thương hiền ái, Mẹ xin các vị ban phép lành trong xúc động. Mẹ từ giã từng Môn Đệ, từng Tông Đồ và chung tất cả những người tham dự, rồi Mẹ đứng lên và nói với các Tông Đồ rằng:

“Hỡi các con yêu dấu, các con là Thầy của Mẹ, Mẹ thiết tha yêu thương các con trong Con Chí Thánh của Mẹ. Theo ý Người, Mẹ sắp sửa về trời, nhưng ở đó, Mẹ hứa sẽ ấp ủ các con trong Trái Tim Mẹ như một người Mẹ. Xin các con hãy cố gắng làm vinh danh Chúa và truyền bá đức tin. Các con hãy giữ lời Con Chí Thánh Mẹ, hãy tưởng niệm cuộc sống và cái chết của Người, hãy thực hành giáo lý của Người, hãy yêu mến Giáo Hội. Các con hãy yêu thương nhau trong mối dây Đức Ai hòa thuận. Còn con, hỡi Phêrô, Mẹ xin trao phó cho con Gioan và tất cả mọi người.”

Lời đó như mũi tên lửa xuyên cắm vào tâm hồn mỗi người hiện diện. Ai cũng tê tái đau khổ trào lệ xuống tay Mẹ yêu dấu của mình. Một lúc sau Mẹ khuyên mọi người im lặng cầu nguyện với Mẹ. Nhà Tiệc Ly ngập đầy hương thơm thiên quốc. Một ánh sáng chói lọi từ nhà phát ra, ai ai cũng nhìn thấy. Mẹ cúi mình trên chiếc sạp gỗ nhỏ, chắp tay lại, mắt nhìm cắm vào Chúa Giêsu, Trái Tim Mẹ cháy bừng lên trong tình yêu mến Chúa. Các Thiên Thần hát lên những bản tình ca diễm lệ. Mẹ thốt lên lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá “Con phó Linh Hồn con trong tay Cha.”

Mẹ nhắm mắt, tắt thở. Mẹ đã tắt thở vì tình yêu Chúa mãnh liệt, không còn phép lạ nào ngăn cản nữa, nên đã phá vỡ những ràng buộc của thân xác, chứ không phải một suy nhược bệnh tật hay tai nạn nào. Mẹ sống nhờ phép lạ. Phép lạ ngừng, Mẹ đi vào cõi chết !

Linh Hồn nguyên tuyền của Mẹ từ giã Thân Xác Trinh Vẹn của Mẹ, và ngay lúc đó, Mẹ được tôn lên ngai trong một vinh quang khôn tả. Tại nhà Tiệc Ly, mọi người nghe được tiếng nhạc thiên quốc xa dần trong không gian. Đoàn Thần Thánh tháp tùng đã đi theo Chúa Giêsu và Mẹ lên trời.

Thân xác Mẹ là Cung Thánh của Thiên Chúa ngự trị, mặc một vẻ lộng lẫy chói ngời, và tỏa hương thơm thánh thoát. Các Tông Đồ buồn nhưng thanh thoát hân hoan trước những việc lạ lùng vô songấy. Tất cả đều như ngây ngất một lúc dài, rồi mới bắt đầu hát lên được bài thánh ca mừng Mẹ.

Mẹ qua đời vào ngày thứ Sáu, lúc 3 giờ chiều, ngày 13 tháng 8 năm 55 sau Chúa Giáng Sinh. Năm ấy Mẹ được 70 tuổi kém 16 ngày.

Các Tông đồ lấy áo quan đem vào bên giường Mẹ, hai Ngài kính cẩn nương thi thể Mẹ đặt vào áo quan. Ánh ngời chói giảm đi mãi cho tới lúc mọi người nhìn thấy gương mặt Mẹ và đôi tay. Các Tông Đồ khiêng Xác Thánh Mẹ qua phố Jêrusalem đến mồ. Có hàng ngàn hàng vạn các Thiên Thần từ trời xuống đưa xác Mẹ. Thánh Phêrô và Gioan đặt xác Mẹ vào trong mồ, với niềm tin kính và dễ dàng như khi đặt vào áo quan. Các Ngài lăn tảng đá lớn lấp cửa mồ theo phong tục. Lễ an táng xong,

Các Thánh trở về trời, nhưng các Thiên Thần hầu cận vẫn còn ở lại tiếp tục tấu nhạc cho tới khi dân chúng giải tán hết.

MẸ VINH QUANG HỒN XÁC VỀ TRỜI

Linh hồn rất Thánh Mẹ đã hưởng phúc trên Thiên Đàng 3 ngày, Thiên Chúa tỏ cho các Thần Thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài, là phục sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời đem linh hồn Mẹ xuống mồ thánh của Mẹ, giữa muôn vàn Thiên Thần, Các Thánh, các Tổ Phụ và các Tiên Tri. Đến mồ thánh, Chúa phán :

Mẹ của Cha đã được dựng thai Vô Nhiễm, Cha đã mặc lấy nhân tính từ nơi bản thể Vô Nhiễm ấy. Thể Xác Cha là Thể Xác của Mẹ. Mẹ cũng đã đồng công vào mọi công trình cứu chuộc của Cha, nên Cha phải phục sinh cho Mẹ để Mẹ nên giống Cha mọi sự .”

Toàn thể Các Thánh đều ca tụng, tán dương trước lời công bố của Chúa Giêsu. Tức thì linh hồn vinh hiển của Mẹ vào lại thân xác đồng trinh của Mẹ, trả lại sự sống và tất cả mỹ lệ cho thân xác ấy mà không hề chạm đến tảng đá che cửa mồ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật 15 tháng 8, liền sau nửa đêm Xác Thánh Mẹ ở trong mồ 30 giờ, như Xác Thánh của Chúa.

Một cuộc cung nghinh trang trọng đầy hoan lạc không thể tả được, giữa các Thần Thánh rước Mẹ về Thiên Đàng cả hồn lẫn thể xác. Chúa Cha ra tiếp đón Mẹ với một cuộc tiếp đón thỏa lòng nhất. Chúa Cha phán “Con yêu dấu, Con hãy lên hưởng vinh quang hơn hết các thụ tạo” Mẹ chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Chúa Cha lại phán : “Maria nữ tỳ của Chúng Ta, Con đã làm cho Chúng Ta thỏa lòng. Con có toàn quyền trên Vương Quốc Chúng Ta, và được tôn phong làm Chủ Mẫu, làm Nữ Vương độc nhất của Thiên Quốc

Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một Vương Miện Vinh Quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ. Cùng lúc ấy từ ngai Chúa phán ra : “Hỡi người Con chí ái, Vương Quốc của Ta là Vương Quốc của Con, Con là Chủ Mẫu, là Nữ Vương các loài thụ tạo. Từ ngai cao cả này Con sẽ thống trị toàn thể thụ tạo, hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Mọi loài đều phải phục tùng Con. Chúng Ta trao ủy cho Con quyền bính Thần Linh của Chúng Ta, để Con nâng đỡ, bảo trợ và làm Mẹ hết mọi người công chính và là Mẹ Giáo Hội chiến đấu trần gian .”

Trong lúc ở Thiên Đàng xẩy ra sự kiện vinh quang đó, thì ở trần gian, nơi phần mộ của Mẹ. Thánh Phêrô và Gioan nhận thấy tiếng nhạc Thần Trời đã ngưng, nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, các Ngài kết luận: “Mẹ đã phục sinh và lên trời cả hồn cả xác .”

Tảng đá che lấp cửa mồ được cất ra, mọi người chỉ còn thấy trong mồ chiếc áo còn nguyên trạng thái khi liệm. Thánh Phêrô nâng chiếc áo lên rồi quỳ xuống, tỏ lòng tôn kính tin phục Mẹ đã phục sinh và lên Trời.

Trích Truyện Cuộc Đời Của Đức Mẹ

do Tác giả Thánh nữ Maria Agrêđa tường thuật

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Chân dung Đức Mẹ (37)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Chân dung Đức Mẹ (37)

Đăng bởi lúc 2:05 Sáng 12/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (12.02.2013) – Sàigòn

Chân dung Đức Mẹ

Cách đây mấy tháng, một anh bạn tinh nghịch hỏi tôi: “Có phải Cha thích ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp phải không?”. Tôi vui vẻ đáp: “Lẽ dĩ nhiên rồi”.  Và đón được ý nghĩ của ông bạn, tôi nói tiếp: “Nhưng xin ông bạn chớ nên cho rằng tôi thích ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hơn cả chỉ vì tôi là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế và là chủ nhiệm một tờ nguyệt san mang tên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đâu nhé”.

Trên phương diện lịch sử và mỹ thuật, thì ảnh Đức Mẹ hằng Cứu Giúp
đứng vào bậc nhất, vì ảnh ấy họa lại bức ảnh Đức Mẹ chỉ đường (Hodegetria), tức
là ảnh cổ kính nhất trong Giáo hội đã được tôn kính ở Constantinople, như bạn
Thanh Dũng sẽ nói trong số báo này. Mặc dầu chúng ta không biết được khuôn mặt
Đức Mẹ ra sao, như lời thánh Augustin đã nói về thế kỷ thứ tư: “Chúng tôi không
được biết gì về khuôn mặt của Nữ Trinh Maria” (De Trin. VIII,5,7), nhưng khuôn
mặt hình trái xoan của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có những nét rất Á Đông và tuyệt
đẹp, khiến nhiều nhà nghệ sĩ lừng danh đã không hết lời ca ngợi.

Nhưng trên phương diện đức tin và thần học, bức ảnh ấy là một tuyệt tác diễn tả chân dung tinh thần của maria cách trung thành hơn hết. Mỗi nét đều nói lên sứ mạng cao cả của Maria.

Trước tiên bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nêu cao chức làm Mẹ Thiên
Chúa. Trên nền vàng tượng trưng vinh quang thiên đàng, nổi lên hình bán thân
của Đức Mẹ. Nhưng Mẹ Maria không đứng một mình. Với Mẹ có cả Chúa Giêsu. Ở phía trên có mấy chữ Hy Lạp: “Mẹ Thiên Chúa”. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và tất cả vinh
quang, tất cả những đặc ân khác của Mẹ đều bắt nguồn từ Chúa Kitô. Nơi Mẹ, tất
cả đều hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô là trung tâm của Mẹ. Vì thế lòng sùng kính
của ta đối với Mẹ Maria cũng nhằm một mục đích: Đức Kitô, Vị Cứu tinh và Trung
gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người.

Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria còn là Mẹ của chúng ta, Mẹ của đoàn người được  cứu rỗi, Mẹ của Giáo hội, đúng với tước hiệu mà Đức Phaolô VI đã tuyên bố trong Công đồng Vatican II: Trước hình cụ tử nạn do hai thiên thần dâng lên, Chúa Giêsu run sợ, như ngài sẽ run sợ một ngày kia trong vườn cây dầu. Phần Đức Mẹ, tâm hồn Mẹ tràn ngập đau thương đến trào ra nơi đôi khóe mắt đầy u buồn. Nhưng Mẹ không có một cử động nào để ngăn cản cuộc tử nạn của Con. Mẹ chấp nhận mọi khổ đau, Mẹ cùng chịu tử nạn trong tâm hồn với Chúa Giêsu để chúng ta được cứu rỗi.

Là Mẹ giáo hội, Mẹ Maria luôn chăm nom đến Giáo hội, chăm nom đến
mỗi con người, để đưa tất cả về với Chúa Kitô. Vì thế Mẹ xứng đáng mang tước
hiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp: Đôi mắt dịu hiền của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp không nhìn về Chúa Giêsu, nhưng nhìn về chúng ta, an ủi, nâng đỡ ta. Cái nhìn âu yếm và
đau buồn của Mẹ đã sưởi ấm bao tâm hồn, đã lay tỉnh bao đứa con hoang đàng. Mắt
Mẹ hướng về chúng ta, nhưng tay Mẹ nắm chặt lấy hai tay của Chúa Kitô. Nắm
chặt, không phải để cản ngăn Chúa trừng phạt loài người, nhưng là để đón nhận
tất cả ân huệ của Chúa Cứu Thế. Đón nhận cho Mẹ một cách dồi dào và đón nhận
cho con cái của Mẹ.

Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo hội, Mẹ Hằng Cứu Giúp, đó là ba điểm son của bức chân dung mà Thiên Chúa đã dùng để đưa mọi người về với Đức Maria và sau cùng, về với Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc của Đức Mẹ và của chúng ta.

 

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 203-4/1966

Tràng chuỗi Mân Côi đã cứu rỗi bà cụ 98 tuổi

Tràng  chuỗi Mân Côi đã cứu rỗi bà cụ 98 tuổi

Lm Nguyễn Hữu  Thy

Các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã hằng ngày sốt sắng dâng lên Mẹ Maria Tràng
Chuỗi Mân Côi, những lời Kinh mà chính Thiên Chúa Cha đã truyền cho Sứ Thần
Gabriel công bố, để tỏ lòng tôn sùng và biết ơn Mẹ. Vâng, vì đức tin mạnh mẽ và
lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Mẹ vào sự quan phòng đầy yêu thương của
Thiên Chúa, Mẹ đã thưa „xin vâng“, Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện hy sinh
cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Nhờ thế, Ngôi Hai
Thiên Chúa mới có thể nhập thể làm người và cũng nhờ thế, toàn thể nhân loại
mới được hòa giải với Thiên Chúa và được cứu rỗi.

Dĩ nhiên, mục đích chính và trực tiếp của Kinh Mân Côi là nhằm tôn thờ Đức
Kitô, chứ không phải Mẹ Maria. Vì khi đọc Kinh Mân Côi, các tín hữu suy ngắm 20
mầu nhiệm cuộc đời cứu thế của Đức Kitô – 5 Sự Vui, 5 Sự Sáng, 5 Sự Thương và 5
Sự Mừng – mà trong đó Mẹ Maria giữ một vai trò trọng yếu, mang tính cách quyết
định, họ sẽ khám phá được tình yêu vô biên của Thiên Chúa ban cho nhân loại qua
Đức Kitô, Con Một của Người. Và chính sự tôn thờ Thiên Chúa, lòng biết ơn và
cảm tạ Đức Kitô qua Kinh Mân Côi của các tín hữu là chính sự tôn vinh làm đẹp
lòng Mẹ Maria nhất, vì mục đích duy nhất đời Mẹ là tôn thờ và làm sáng danh
Thiên Chúa. Đàng khác, Kinh Mân Côi là lời kinh được bắt nguồn trong Kinh
Thánh.

Trong Tông thư Marialis Cultus thời danh của Ngài, ĐTC Phaolô VI khẳng định
rằng: „Tràng chuỗi Mân Côi là một lối cầu nguyện theo Phúc Âm“ và ĐTC
Gioan Phaolô II còn cụ thể hơn: „Thực ra việc lần hạt Mân Côi không gì khác
hơn là cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Thánh Nhan Đức Kitô
.“ Bởi vậy, chính ĐTC
Gioan Phaolô II đã đánh giá: „Kinh Mân Côi là một lời kinh đơn sơ, nhưng đẹp
và sâu xa nhất
“. Còn nhà thần học Karl Rahner thì nhận định rằng: „Kinh
Mân Côi là con đường ngắn nhất và chắc chắn nhất, dẫn chúng ta tới cùng Thiên
Chúa.“
Nói cách khác, Kinh Mân Côi là con đường chắc chắn dẫn tới sự cứu
rỗi. Suốt dòng lịch sử trên 2000 năm của Giáo Hội đã minh nhiên chứng nhận điều
đó. Ở đây chúng tôi xin trích câu chuyện kể có thật của cha Gereon Goldmann
OFM, một nhà truyền giáo lâu năm tại Nhật Bản như sau:

Tại khu ngoại ô „Cầu Gỗ“ của thủ đô Tokyo có khoảng 500.000 dân sinh sống và
trong số đó có vài ba trăm tín hữu Công Giáo thuộc giáo xứ St. Elisabeth. Khu
ngoại ô „Cầu Gỗ“ vốn được coi là một trong những khu phố nghèo nhất của thủ đô
Tokyo rộng lớn với dân số 13 triệu người. Khắp khu ngoại ô này hầu hết các nhà
đều làm bằng gỗ và thấp nhỏ. Khu ngoại ô này là cả một viện dưỡng lão khổng lồ,
được chăm sóc về mặt y tế một cách khá chu đáo. Trong số các vị cao niên sống ở
đây, mà đa số đã phải nằm liệt giường từ nhiều năm hay từ hằng chục năm rồi, có
một số nhỏ là người Công Giáo.

Hàng tháng tôi đến thăm các ông bà cụ người Công Giáo và mang Mình Thánh Chúa
cho họ hai lần. Một hôm vào khoảng 2 giờ sáng máy điện thoại nhà tôi reo. Đó là
cú điện thoại của cô y tá điều dưỡng trực, cô báo cho tôi hay là tôi phải đến
gấp, vì ở ngôi lều số 8 có người đang hấp hối và rất mong muốn gặp tôi.

Thế là tôi lấy xe máy và mang theo dầu thánh chạy đến viện dưỡng lão ngay lập
tức. Người canh cổng quen biết tôi nên liền mở cổng cho tôi vào. Cô y tá điều
dưỡng cũng đã chờ tôi sẵn ở lối vào. Tôi liền hỏi cô người hấp hối nằm ở đâu và
tôi cứ đinh ninh là một ông cụ người Công Giáo mà tôi thường đến thăm viếng.
Nhưng cô y tá trả lời: „Không phải ông cụ người Công Giáo muốn gặp cha,
nhưng là một bà cụ khác
.“ Nghe cô y tá nói, tôi cứ tự thắc mắc mãi, vì theo
tôi biết thì tại ngôi lều số 8 đâu có bà cụ già nào là người công Giáo. Cô y ta
dẫn tôi tới giường một bà cụ mà trước đây mỗi lần tôi tới viện dưỡng lão bà đều
đăm đăm nhìn tôi như muốn trao đổi với tôi điều gì đó.

Nhìn bà cụ tôi đoán biết bà không thể qua được, tuy nhiên bà cụ vẫn còn đủ sức
nói chuyện rất rõ ràng, dù rằng bà chỉ nói một cách chậm rãi mà thôi. Từ trên
80 năm qua, bà cụ luôn cầu xin Chúa cho bà trước khi chết được gặp một Linh mục
Công Giáo và hôm nay tôi là một Linh mục Công Giáo đang đứng trước mặt bà.

Tôi liếc nhìn tấm bảng ghi tên tuổi của bà cụ treo ở đầu giường, tôi biết được
bà cụ đã 98 tuổi. Tôi liền hỏi bà là tại sao bà lại muốn gặp vị Linh mục Công
Giáo. Sau một lúc lâu với những câu nói cắt quảng, bà cụ kể tiểu sử đời bà. Bà
từng là một nữ học sinh của một trường Công Giáo. Tại trường bà đã được một nữ
tu dạy trong suốt ba năm trời. Và khi bà 17 tuổi bà đã được chịu phép Rửa Tội
gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Bà nói: „Con đã được nhận lãnh nước thánh và
tiếp sau đó là bánh thánh của Chúa
.“ Nhưng sau đó, bà lập gia đình, và theo
truyền thống xưa kia ở Nhật thì việc lập gia đình là do gia đình dàn xếp, cha
mẹ đặt đâu con ngồi đó. Và chồng bà là một thầy Sãi coi giữ một ngôi chùa ở
trên miền núi cao hẻo lánh. Thế là bà phải sống trong ngôi chùa, hằng ngày lau
dọn trong chùa, chăm sóc các ngôi mộ và trong ngày cầu siêu cho các vong linh
bà phải chu tất công việc hương khói. Chồng bà biết bà là người Công Giáo nên
ông vẫn để bà được tự do đi nhà thờ, nhưng ở khắp miền đó không hề có ngôi nhà
thờ nào cả. Và sau đó bà sinh con, nhưng chẳng bao giờ bà có thể đi nhà thờ
được. Và cuộc đời bà cứ trôi qua như thế trong suốt 70 năm trời. Sau đó, lần
lượt chồng bà và tất cả các con bà đều qua đời, và một vị Sư khác đến trụ trì
ngôi chùa nên bà bó buộc phải rời bỏ ngôi chùa và đến ngụ tại viện dưỡng lão
này.

Tôi hỏi bà là trong bao nhiêu năm dài như thế có khi nào bà nghĩ đến Thiên Chúa
của các Kitô hữu không thì bà đăm đăm nhìn tôi một cách lạ thường và cố sức đưa
cánh tay phải khẳng khiu ra khỏi tấm mền đang đắp trên người bà, giơ lên cho
tôi xem Tràng chuỗi Mân Côi bà đang cầm trong tay. Bà nói: „Trong bao nhiêu
năm trời, chưa một ngày nào mà con không mang Chuỗi tràng hạt Đức Bà trên
người, hoặc con cầm trong tay hay bỏ trong túi, hằng ngày và nhiều lần trong
ngày con đã lần hạt Mân Côi. Con đã hằng ngày lần hạt Mân Côi cầu Chúa cho con
trước khi chết được gặp một vị Linh mục Công Giáo để ngài mang cho con bánh thánh
của Chúa
.“

Nói xong, bà cụ bắt đầu cầu nguyện. Bà đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng
Maria. Trong khi bà cụ cầu nguyện như thế thì tôi liền ban Bí tích Xức Dầu cho
bà, vì xem chừng sự sống của bà không còn kéo dài bao lâu nữa, chỉ còn được
tính bằng phút bằng giây mà thôi. Quả thật, khi tôi chưa hoàn tất các nghi thức
Xức Dầu, thì bà cụ trong khi đang lâm râm cầu nguyện Tràng chuỗi Mân Côi đã nhẹ
nhàng trút hơi thở cuối cùng trong an bình. Chắc chắn linh hồn bà đã được Mẹ
Maria sai các Thiên Thần đón về Trời để thưởng công cho lòng trung thủy gắn bó
của bà với Mẹ qua Tràng chuỗi Mân Côi.

Câu chuyện bà cụ già người Nhật Bản trên đây đã hùng hồn khẳng định rằng „chưa
hề có ai cầu khẩn Mẹ Maria mà Mẹ không nhận lời và để ra về tay không“. Vâng,
Mẹ Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên sót bất cứ ai luôn gắn bó với Mẹ bằng Tràng
chuỗi Mân Côi. Mẹ sẽ cứu vớt họ khỏi bị hư mất đời đời. Lời hiệu triệu năm xưa
của Mẹ tại Fatima „Các con hãy siêng năng lần hạt Mân Côi“ vẫng còn vang
vọng mãi trong mọi tâm hồn.

„Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay
và trong giờ lâm tử. Amen“

( Trích trong: Die schönsten Mariengeschichten, Heft 16, Miram-Verlag
Jestetten
)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Vài Suy Niệm Bất Chợt Về Chúa Jesus Và Mẹ Maria

Vài Suy Niệm Bất Chợt Về Chúa Jesus Và Mẹ Maria

(01/08/2013)

Tác giả : Chu Tất Tiến

nguồn: Vietbao.com

Buổi sáng. Mưa nặng hạt. Những cành đào trụi lá yếu đuối, gầy guộc, như đang run lên, lạnh lẽo. Các đóa hồng hết mùa buồn bã chấp nhận những cánh mong manh rơi lả tả dưới chân. Những bông hoa xứ cũng bạc mầu đi, rũ rượi. Cả khu vườn chìm trong ảm đạm của cơn mưa dầm cuối năm làm cho không gian mang tính chết chóc, u ám đến rợn người.

Chết? Làm người, ai không chết? Cả cây cỏ, muông thú, cho đến núi đá cũng có
ngày bị sụp đổ. Sự sống, sự chết cứ thay nhau luân chuyển. Có những địa danh
nổi tiếng về du lịch trên thế giới đã từng là ngọn núi lửa hừng hực. Có những
vùng hồ nước xanh tươi lại từng là núi non sừng sững cách đây chỉ hơn trăm năm.
Mặt trái đất đảo lộn không ngừng. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn tiếp tục
đào xới dưới mặt đất để tìm ra những thành phố đã bị chôn vùi cả ngàn năm.
Người ta đang đi và sống trên biết bao nóc nhà, sinh mạng của các lớp người
trước mà không hề hay biết rằng mình đang dẫm chân lên biết bao hạnh phúc, khổ
đau, nụ cười, nước mắt, niềm vui của con người. Vũ trụ cứ xoay chuyển lặng lẽ
và vẫn bùng nở lên từng giờ, từng phút. Người ta cũng không để ý rằng ngày hôm
nay, khoảng cách của trái đất và các thiên hà mỗi ngày một xa nhau hơn, vì vũ
trụ vẫn nở lớn lên khủng khiếp. Nếu chỉ viết những con số về khoảng cách không
gian lên mặt giấy và đọc, chắc sẽ có nhiều người điên loạn vì sợ hãi.

Tất cả, từ vật chất đến tinh thần của con người, của vũ trụ đều thay đổi, hủy
hoại, thoái hóa, chỉ có một điều bền vững muôn đời: “Tình Yêu của Thiên Chúa!”
Đọc lại Thánh Kinh chân chính (không phải những sách Thánh mà đời sau, người ta
chế biến cho thích hợp với nhu cầu phổ biến của một số nhân vật), sẽ thấy rằng
Đấng Sáng Tạo vẫn luôn yêu thương con người qua mọi giai đoạn, vẫn cho con
người hạnh phúc, trên hết là “Hạnh Phúc Trí Tuệ” tức là được hiểu biết, thông
thái, được Tiến Hóa mãi trong Trí Tuệ. Càng ngày con người càng tìm ra những
điều mới lạ, và càng hiểu biết thì những người công chính lại càng kính sợ
Thiên Chúa hơn. Con người ngày nay biết thông cảm với những khổ đau của Thiên
Chúa, đại diện là Chúa Jesus, khi phải “xuống thế làm người và ở giữa chúng ta”
nhiều hơn khi trước. Chúa đã hy sinh xuống trần để cứu độ chúng ta thoát khỏi
vòng đau khổ. Những lời dậy của Chúa Jesus đã nâng con người lên một hàng cao
hơn cái tục lụy trần thế tầm thường và thoái hóa liên tục. Để đáp ơn Chúa, con
người đã viết rất nhiều về sự hy sinh của Chúa, nhất là về những nhục hình mà
Chúa phải chịu vì nhân loại, về sự đóng đinh đau đớn, căng da xẻ thịt, về những
mạo gai đâm sâu vào đầu nhức buốt kinh hoàng, về những đòn roi vút vào thân
thể, móc ra từng miếng thịt, hay về mũi đòng đâm suốt trái tim… Máu Chúa đã đổ
đầy trên mặt đất, thấm đen.

Nhưng có ai biết rằng có một nỗi khổ lớn lao hơn hết mà ít ai nhắc đến là nỗi
khổ của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra muôn vật và con người, lại phải hạ mình
“xuống” để sống chung với tạo vật của Ngài những 33 năm! Tưởng tượng một ông
chủ hãng chế tạo đồ chơi con nít, ngày nào đó phải biến thành chính món đồ chơi
đó, để giúp cho các đồ chơi biết chạy nhẩy tốt hơn…những 33 năm! Thống khổ hơn
cả là trong khi Chúa biết mình là “Chúa tể muôn vật” mà vẫn phải chấp nhận sống
bình thường như mọi vật, ngày qua ngày, ăn uống, sinh hoạt như những tạo vật
của mình, chờ đợi đúng 33 năm để viên mãn ý nguyện của Chúa là hy sinh cho nhân
loại, một nhân loại vô ơn và bội bạc. Những thế kỷ sau này, nhân loại càng xa
rời Chúa, chỉ biết đến quyền lợi, “sex”, tiền, và danh vọng nên tìm mọi cách
giết lẫn nhau hàng loạt, giết tập thể, giết cả một dân tộc, một giống nòi.
Người ta bây giờ nhạo báng Thiên Chúa bằng những khí cụ tinh vi hơn khi Chúa
còn ở thế gian rất nhiều. Đánh Chúa trên màn hình điện ảnh, chửi Chúa qua
Internet, làm nhục Chúa bằng các thứ đồ chơi điện tử, và giết con chiên của
Chúa bằng các vũ khí tinh vi… Nhưng độc ác hơn hết là biến một số tu sĩ yếu
đuối thành “yêu râu xanh” khiến cho các tín hữu khác dần dần mất niềm tin vào
Chúa. Thánh đường dần dần vắng bóng con chiên, cho dù Đức Mẹ, một Thiên Thần
trên Thiên Đàng đã hóa thân xuống thế, thành người nữ tên Maria để hạ sinh
Chúa, hiện nay vẫn còn khóc trên các bức tượng và vẫn làm phép lạ cứu người,
cũng không thấy số tín đồ đông hơn, mà chỉ thấy có nhiều vụ “scandals” trong
nhà thờ xấu xa hơn. Nói về Đức Mẹ, không khỏi không nghĩ đến sự đau khổ của Đức
Mẹ khi biết con trẻ mà mình sinh ra lại chính là Thiên Chúa mà mình thờ phụng,
nên phải hết sức tuân phục chính con của mình rồi phải chứng kiến người con của
mình bị làm ô nhục, bị đòn đánh rách da, phải vác cây thập giá nặng nề, ngã lên
ngã xuống rồi bị lột trần treo lên cây, máu và nước chẩy ra đầm đìa, rồi phải
vĩnh biệt con mình, Chúa của mình, đi vào cõi chết âm u…

Ôi! Những nỗi đau đứt ruột, xé da, tim thắt của Chúa Jesus và Mẹ Maria, có bút
nào diễn tả được, có phim ảnh nào nói lên đầy đủ được? Vậy mà ngày nay, thiên
hạ vẫn trâng tráo làm những nỗi đau ấy cứ dầy lên, tưởng ngập chín tầng trời
bằng những chém giết tàn bạo, bằng sự ghen ghét, đố kị, hận thù luôn muốn tiêu
diệt người khác. Có kẻ còn vác tượng Chúa đi đánh nhau, muốn đập tan lòng tin
tưởng vào tôn giáo khác, muốn máu của người khác tôn giáo đổ ra ngập đường thì
lòng mới thỏa thuê, vui sướng…

Còn biết bao người thật tâm yêu Chúa, thật tâm phụng sự Chúa trong cõi đời ô
trọc này? Hay chỉ yêu Chúa vì lời Chúa hứa: “Hãy xin thì sẽ được. Hãy gõ thì
cửa sẽ mở.” Xin được thì cười vui. Nếu xin không được, thì phẫn nộ, đổ hết tội
cho Chúa…

Ngoài trời, mưa vẫn rơi nặng hạt.

Chu Tất Tiến,

ngày cuối năm 2012.

 

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người (3)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người (3)

Đăng bởi lúc 2:39 Sáng 9/01/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (09.01.2013) – Sàigòn

Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người

Trong một chuyến xe lửa ở xứ xa lạ, nếu một người đồng hành  chỉ một đứa trẻ tầm thường đang đùa chơi với chúng bạn trên đường đầy cát bụi và bảo với ta: em bé ấy chính là Đấng Tạo Thành vũ trụ, Đấng muôn dân mong chờ, đấng sẽ giải phóng nhân loại, Đấng mọi người phỉa kính mến phụng thờ, Đấng sẽ xét xử trần gian,chắc chắn chúng ta sẽ nhún vai mỉm cười rồi thản nhiên tiếp tục đọc báo.

Thế nhưng cách đây gần hai ngàn năm, trên đất Do Thái, giữa một đêm giá lạnh, một hài nhi tên là Giêsu đã sinh ra trong hất hủi và nghèo túng, một hài nhi yếu đuối, mỏng manh, cần đến sự che chở của mẹ mình, phỉa bú mớm, ngủ nghỉ như các hài nhi khác. Đến khi khôn lớn Giêsu cungu cung cắp sách đi học, cũng đùa chơi với các trẻ cùng xóm. Lúc thành niên, vì cảnh túng thiếu của gia đình, Giêsu phải theo học nghề thợ mộc để nuôi mẹ nuôi thân. Sau 30 năm, sống một đời sống bình thường như bao nhiêu người khác, Giêsu đã đi rao giảng Nước Trời, triệu tập được một ít đồ đệ , nhưng sau cùng đã bị giới lãnh đạo Do thái nộp cho trấn thủ Roma và lên án tử hình trên
thập tự giá. Nói tóm, xem bên ngoài, Giêsu là một người Do thái trăm phần trăm
giữa những người Do thái khác.

Nhưng Thánh Kinh cho chúng ta hay con người Do Thái ấy chính là Ngôi Lời Thiên Chúa hằng sống: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga,1,1) Người là Đấng tạo thành vạn vật: “Mọi vật do Người mà có, và nếu không nhờ Người, sẽ không có vật nào” (Ga,1,3). Chính Người là sự sống, là ánh sáng trần gian: “Ngôi Lời là sự sáng thật soi chiếu mọi người” (Ga,1,9). Người là Đấng muôn dân mong chờ, là Đấng giải phóng nhân loại, là Đấng xét xử chúng ta, là Đấng chúng ta phải phụng thờ, vì đó là chính “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga,1,14) – Thánh Gioan đã cảm động nói lên sự lạ ấy: “Điều đã có từ đầu, điều chúng tôi đã từng nghe, điều chúng tôi đã từng thấy tận mắt, điều chúng
tôi đã ngắm nhìn và tay chúng tôi đã sờ đến đó là LỜI HẰNG SỐNG. Quả thật SỰ
SỐNG đã tỏ hiện, chúng tôi đã từng thấy, chúng tôi chứng thật và chúng tôi loan
truyền cho anh em SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI hằng có với CHÚA CHA và đã tỏ ra cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã từng thấy và từng nghe, chúng tôi loan truyền cho cả anh
em nữa, ngõ hầu anh em được hiệp thông với chúng tôi, nhưng sự hiệp thông của
chúng ta là thông điệp với CHÚA CHA và với, ĐỨC GIÊSU KITÔ con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra, ngõ hầu sự vui mừng của chúng tôi được nên trọn”
(1 Ga 1,4).

Thiên Chúa là người, đã ở giữa chúng ta, nhưng loài người không nhìn nhận: “Người ở trong trần gian, trần gian đã được Người tạo dựng nhưng trần gian lại không biết Người. Người đến giữa dân Người, nhưng dân Người không đón nhận” (Ga,1,10). Vì sao dâ Người không đón nhận? Là vì lời hứa của Thiên Chúa không thực hiện như ý họ: họ mong một đế quốc giàu mạnh, đuổi được quân xâm lăng, nhưng Chúa lại đến trong yếu hèn và nghèo khó. Thiên Chúa hiện diện trong nhân loại, nhưng đối với một số đông, hình như Người không có mặt, vì họ không biết nhận chân tướng của Người. sự vinh hiển của Thiên Chúa thì khác sự vinh hiển do trí óc ta nghĩ ra. Ta không thể nhìn nhận những giá trị của Thiên Chúa, nếu ta cứ bo bo với những tư tưởng hẹp hòi của con người. ta cần phải đưa mắt cao hơn chân trời của ta, để nhìn
lên một chân trời mới, phải bỏ nơi đồng bằng để hưởng cảnh huy hoàng của núi
non hùng vĩ. Ta không thể đi tới Chúa, nếu ta chỉ đi con đường của con người.
ta phải bỏ mình, bỏ đường lối của mình, bỏ ý định của mình. Phải đi sâu vào
trong nơi sâu của cõi lòng, phải từ bỏ những gì kéo mình lại, phải bỏ tất cả
những gì cản trở mình đến với Chúa. Chúng ta chỉ đến với Chúa lúc chúng ta biết
bỏ chỗ chúng ta muốn ở mãi mãi. Quá bám vào con người của mình, vào những cái
mình có, ta sẽ quên sự hiện diện của Chúa, ta sẽ chống đối Chúa, xua đuổi Chúa
và muốn ghiết Chúa. Con Thiên Chúa làm người, đã bị dân mình xua đuổi, đã chết
trên thập giá.

Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta gần 2000 năm nay. Nhưng cũng như dân Do Thái, loài người không đón Chúa, xua đuổi Chúa. Trong giây phút thiêng liêng của đêm Giáng Sinh năm nay, chúng hãy mở rộng lòng để đón Người và tin chắc rằng: “NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI Ở GIỮA CHÚNG TA”.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 151 – 12/1961

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

TRẦM THIÊN THU

Năm cũ qua, năm mới tới. Chúng ta không biết năm mới sẽ ra sao, và nhiều người không biết dùng 365 ngày như thế nào.

Khi còn trẻ, Lm Marcos Gonzalez, quản xứ Thánh Gioan Chrysostom ở Inglewood (California, Hoa Kỳ) đã thấy chiếc đồng hồ lớn có khắc chữ “Tempus Fugit” ở phía trên.

Lm Marcos Gonzalez cho biết: “Khi tôi hỏi mẹ tôi điều đó là chữ gì, mẹ tôi nói là THỜI GIỜ TRÔI QUA. Tôi ngạc nhiên và hỏi nghĩa là gì. Bà nói: ‘Cuộc đời ngắn ngủi, hãy dùng mỗi ngày cho tốt’. Từ đó, tôi luôn ghi nhớ”.

Lời khuyên đó là lời nhắc nhớ chúng ta mỗi khi năm mới khởi đầu. Tận dụng thời gian Chúa dành cho chúng ta phải là ưu tiên số một.

Lm James Kubicki, Dòng Tên, người phụ trách trang web ApostleshipOfPrayer.org, nói: “Điều quan trọng nhất đối với chúng ta là nhận biết rằng thời gian là điều quý giá nhất mà chúng ta có, chúng ta sống trong thời gian, thế nên khi chúng ta sử dụng thời gian là chúng ta dùng điều quý giá nhất”. Chúng ta nên tự vấn: “Tôi có đang dùng thời gian đúng như Chúa muốn không?”

Lm Jay Finelli, quản xứ Thánh Linh ở Tiverton, R.I., quản lý trang iPadre.net, nói: “Khi chúng ta trẻ, chúng ta nghĩ mình còn nhiều thời gian. Nhưng thời gian như cát, nó rơi qua các kẽ ngón tay của chúng ta”.

Mặc dù kỹ thuật có thể dùng làm công cụ để học tập, truyền bá Phúc âm và giao tiếp, chúng ta cũng có thể lãng phí thời gian vào các thiết bị hiện đại. Sự thật là nếu chúng ta không nghỉ ngơi và sống cầu nguyện và cân nhắc xem điều gì Chúa muốn, chúng ta chỉ để cho ngày tháng trôi qua mà không dùng thời gian đúng Ý Chúa.

Tác giả Thánh vịnh đã cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (90:12). Chúng ta cần nhìn vào cuộc đời mình trước, nhất là đời sống tâm linh. Chúng ta đang làm gì cho cuộc đời mình để sống với Thiên Chúa và Đức Kitô? Dành thời gian cho Chúa phải là ưu tiên. Nhưng chúng ta lại thường đặ Ngài ở cuối cùng. Chúng ta thực sự nên dành thời gian cho Chúa vì chúng ta muốn dùng thời gian cho Ngài vì sự sống đời đời.

Dành thời gian cho Chúa là thế nào? Pia de Solenni viết nhận xét trên trang PiadeSolenni.com thế này: “Đó là làm cho Thánh lễ là trung tâm của đời sống. Chúng ta nên coi Thánh lễ là trung tâm điểm và là kiểu mẫu cho cuộc đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta nên coi đó như diễn biến trong Thánh lễ. Nếu chúng ta có một ngày tồi tệ hoặc một ngày hạnh phúc, chúng ta có thể coi đó là
đau buồn hoặc vinh quang trong Thánh lễ. Cuộc sống và Thánh lễ không là hai thế
giới riêng biệt”.

Lm Finelli đề nghị thêm những cách dành thời gian sống với Chúa Giêsu, chẳng hạn như đọc Kinh thánh, lần Chuỗi Mân Côi, lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót, đọc sách hạnh các thánh, đọc sách đạo đức,… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tấm gương sáng về việc dùng thời gian một cách khôn ngoan, “Con Đường Nhỏ” của Chị là một triết lý sống.

Đó là cách làm mọi thứ, dù là việc nhỏ nhất, nhưng vẫn làm vì yêu mến Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta cũng sử dụng thời gian như vậy. Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta nên sống vì yêu mến Thiên Chúa. Việc gì cũng trở nên có giá trị nếu làm vì yêu mến Chúa, vì Nước Trời, vì sống đức tin: Cầu nguyện, làm việc nhà, mưu sinh, học
tập, vui chơi, giải trì, nghỉ ngơi, ngủ,…

Chúng ta có thể sống trong sự thánh thiện, và chúng ta sẽ càng ngày càng nhận biết qua mỗi khoảnh khắc quý giá mà chúng ta có để dâng lên Thiên Chúa.

Lm Gonzalez cho biết: “Lúc cuối đời, nhiều người đã hối tiếc vì không cầu nguyện đủ, không dành đủ thời gian cho Chúa, không dành thời gian cho con cái, cha mẹ hoặc người thân. Đó là những điều hối tiếc vì chúng ta không dùng đúng thời gian mà Chúa dành cho mình.

Ngày hôm nay, ngay lúc này, hãy nhìn lại chính mình và cố gắng khắc phục trước khi quá muộn: Thời gian thắm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất chẳng chờ đợi ai. Thiên Chúa vẫn đang kiên trì chờ đợi chúng ta, hãy dành thời gian cho Ngài.

Bậc đáng kính Giám mục Fulton Sheen (tác giả viết nhiều sách hay) khuyên: “Không bao giờ chúng ta không có thời gian để suy niệm; người ta càng ít nghĩ về Thiên Chúa thì càng có ít thời gian cho mình. Thời gian để làm điều gì đó tùy vào cách chúng ta đánh giá. Suy nghĩ là cách xác định việc dùng thời gian; thời gian không khống chế
chúng ta suy nghĩ! Vấn đề tâm linh không bao giờ là vấn đề thời gian, mà là vấn
đề suy nghĩ. Không đòi buộc nhiều thời gian để chúng ta nên thánh, mà chỉ cần yêu mến nhiều”.

JOSEPH PRONECHEN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Đầu năm Dương lịch – 2013

Maria Thanh Mai gởi

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

LỄ HIỂN LINH

Tác giả: Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

nguồn:conggiaovietnam.net

Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay hỏi nửa đùa, nửa thật: “Các bạn yêu nhau lắm, đúng không? Yêu đến mức nếu ngày nào không gặp nhau, ta nhớ thương, nhớ tiếc, nhớ da, nhớ diết, nhớ như có ai xé lòng mình, đúng không?”. Tất cả các bạn đều mỉm cười bẻn lẻn. Tôi nói tiếp: “Các bạn yêu nhau  lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?”. Tất cả trả lời: “thưa không!”.

Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là  tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.

Con người sống với nhau đã là huyền nhiệm dành cho nhau đến vậy, thì chúng ta càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm đối với con người. Lễ  Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh.

Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng. Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người. Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung, và cuộc đời của chính mình nói riêng.

Đúng hơn, Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Người là huyền nhiệm, nên để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành. Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc đời ta, dẫu phải trải qua từng biến cố sướng vui hay hạnh phúc.

Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Người và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Người.

Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện luôn mãi, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Người.

Lm VŨ XUÂN HẠNH