THIÊN CHÚA Ở CÙNG MẸ – MẸ Ở CÙNG CHÚNG CON

THIÊN CHÚA Ở CÙNG MẸ – MẸ Ở CÙNG CHÚNG CON

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.8.2013

Trích EPHATA 574

Những năm sau 75, ở miền Nam có thể nói gần như gia đình nào cũng có ít nhất một người phải đi cải tạo do làm việc cho chế độ cũ, hay bị bắt giam vì đi buôn đường dài hoặc vượt biên, và như vậy là quanh năm, luôn luôn có những người mẹ, người vợ, người em gái nào đó đang ruổi rong trên những chặng đường dài để thăm nuôi con, thăm nuôi chồng hay anh trai. Lắm khi không có giấy báo cũng cứ đi với một chút hy vọng mong manh được nhìn thấy mặt người thân, không được thì gửi vào mấy giỏ bàng đựng cây thuốc lá, vài tán đường mía, mấy lạng chà bông và hũ mắm ruốc.

Nhà tôi có ông anh cải tạo tập trung ở Z30C. Đều đặn hàng tháng, mẹ tôi lại chắt bóp từ những đồng lẻ bán đá cục, yaourt, nước mắm, vay thêm một ít nữa, đủ để đi thăm nuôi con. Đến ngày hẹn, quá nửa đêm, tôi chạy chiếc Mobylette cọc cạch đưa mẹ ra góc đường Xô Viết Nghệ Tĩnh và Nguyễn Bỉnh Khiêm, quận 1. Mùa khô hay mùa mưa thì gió khuya cứ luôn se lạnh, hình như lại càng se lạnh hơn vì người ta dạo ấy thiếu ăn, thiếu ngủ, và thiếu mặc, trong lòng lại trĩu nặng những buồn thương. Khoảng hơn chục người đàn bà tội nghiệp loay hoay lụm cụm với nhau giữa những giỏ bàng và bao bị chật căng đồ thăm nuôi, ai cũng ít lời ít điều vì còn phải dành sức cho cả hành trình còn dài…

Khoảng 1g rưỡi, chiếc xe than xịch đến, mọi người như thể đã thạo việc lắm rồi, phụ một tay với bác tài và chú lơ để chất hàng lên. Tôi đứng đó nhìn mà không thể giúp gì được, mẹ tôi bảo: “Cậu cứ về đi để đấy tôi lo, quen rồi !” Và thật nhanh, chuyến xe vội vã khởi hành, chú lơ lấy cái vồ vỗ đùng đùng năm sáu cái vào thùng than đeo ở đuôi xe, lửa xoè ra, hơi nóng phừng phừng, động cơ hộc lên mấy tiếng mệt nhọc và xe bắt đầu lăn bánh. Bóng dáng chiếc xe đen đủi xừng xững lao đi vào giữa những ánh đèn đêm vàng ệch của phố vắng…

Sau những chuyến đi thăm nuôi ông anh như thế, xập tối về lại nhà bình an, mệt thì mệt, bao giờ mẹ tôi cũng có một câu chuyện để kể cho các con nghe, về ông anh ở trại cải tạo lúc này khoẻ hay yếu, về mấy anh CA lịch sự hay hỗn xược, về các tai nạn bà gặp thấy trên đường… Nhiều chuyện vui vui, nhiều chuyện cũng bực mình lắm, nhiều chuyện lại làm cho người ở nhà bị buồn lây cái buồn của người đi.

Nhưng tôi nhớ nhất một lần mẹ kể:

Đi chung với nhau mấy chuyến rồi, nhưng các bà các chị đi thăm nuôi vẫn chưa thân nhau, chẳng ai buồn nói năng gì. Hôm ấy, trời tự dưng trở rét. Xe than nóng thì nóng đấy, nhưng chỉ thấy ấm khi xe phải tạm dừng thôi chứ lúc đang lao đi thì gió tạt hết hơi nóng về đuôi xe, các bà các chị ngồi trong thùng xe cứ phải chịu rét căm căm, dần dần ngồi sát lại với nhau hơn.

Thế rồi bất giác mẹ tôi thì thầm: “Kính mừng Maria đầy ân phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà…” Chỉ thì thầm thôi, vì cũng tế nhị, trên xe may ra chỉ vài người có Đạo. Không ngờ được một lúc thì tiếng thì thầm chuyển lên thành tiếng rì rầm. Mẹ tôi nghĩ: Ồ vậy là lần chuỗi chung được rồi đấy, nhưng chắc cũng vừa vừa, còn phải để mấy bà bên lương người ta… tranh thủ ngủ nữa chứ !

Lại thêm một lúc nữa, đến chục thứ ba, thứ tư, thì lạ thay, tiếng đọc kinh rộn hẳn lên, hình như cả xe mọi người đã cùng đọc đều đều, rập ràng, nhất là khi đọc các kinh Kính Mùng. Mẹ tôi còn bình luận thêm là bầu khí trong thùng xe có vẻ còn vui hẳn lên là đàng khác. Và chuyện lạ tiếp theo là chuyến xe ấm áp hẳn lên, dù bên ngoài trời buốt lạnh.

Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, nghĩ trong đầu: Hay nhỉ, hoá ra cả xe lần này lại toàn là dân Công Giáo sao ? Ai cũng đọc kinh ngon lành nhất là kinh Kính Mừng. Đến đoạn phải xướng thứ mấy thì ngắm, lúc đầu mẹ tôi chỉ lẩm nhẩm, bây giờ thì mẹ xướng lên rành rọt cho cả xe cùng nghe…

Đến khi hết chục thứ năm rồi, tự dưng mẹ tôi không thấy nhiều người đọc theo nữa, chỉ còn mẹ và lác đác vài người cùng “Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành…” Mẹ tôi ngoái nhìn mọi người qua những ánh đèn đường lọt vào trong xe quét loang loáng từng đợt, khuôn mặt ai cũng đều thành kính chăm chú lắng nghe ! Mẹ tôi lại bắt bài hát: “Mẹ ơi bao người lạc bước lưu đày…” thì vẫn chỉ thấy vỏn vẹn mấy người hát thôi, số còn lại im lặng thật trân trọng, như muốn nuốt lấy từng lời bài Nguyện Ca với Mẹ Maria.

Xong ván kinh, mẹ tôi mỉm cười với một chị còn trẻ ngồi đối diện, hỏi thăm: “Nhà cô ở Giáo Xứ nào thế ?” Chị ta ngơ ngác không hiểu. Bà ngồi kế bên thấy vậy mới bảo: “Cụ ơi, chắc cô này cũng giống tôi, tôi không phải người bên Đạo !” Nhiều cô nhiều bà khác nữa cũng nhao nhao lên vui vẻ: “Cháu cũng thế…”, “Tôi thờ Phật…”, “Còn tôi thì theo đạo ông bà, cụ ạ !”

Mẹ tôi tròn xoe mắt: “Ơ hay, nhưng sao ban nãy các bà các cô đọc kinh lần chuỗi kính Đức Mẹ của bên Đạo chúng tôi giỏi thế ?” Một bà như thể đại diện tất cả trả lời: “Thú thật với cụ là tôi không thuộc kinh nào bên Đạo cả, nhưng nghe bà đọc đi đọc lại nhiều lần, tự dưng tôi lẩm nhẩm đọc theo rồi thuộc lòng lúc nào không biết. Vâng, thuộc lòng mà vẫn không hiểu gì lắm, cụ ạ, nhưng sao cứ đến đoạn “cầu cho chúng con là kẻ tội, khi nay và trong giờ lâm tử” là tôi lại thấy ấm lòng, nước mắt ứa ra và nghĩ chắc là mình cũng được Đức Mẹ của bên Đạo thương nhiều lắm !”

Sau lúc hàn huyên ấy, mọi người như thân với nhau hơn, móc trong túi ra, người khoanh cơm nắm, người nửa ổ bánh mì không, các bà lớn tuổi còn mời nhau ăn miếng trầu, chuyện trò vui vẻ cứ như là có họ hàng bà con với nhau vậy ! Chuyến xe từ trại về, cái chị trẻ trẻ còn nhắc: “Bác ơi, mình lại đọc kinh nữa đi bác…” Và dọc đường Hàm Thuận – Sàigòn, gặp một tai nạn xe chết người, mẹ tôi còn xin mọi người cùng đọc thêm cho hai người chết tức tưởi ấy 3 kinh Kính Mừng, rồi còn: “Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ…”

Mẹ tôi kết thúc câu chuyện: “Đấy các cô cậu xem, tôi không bịa đâu nhé, từ lúc mọi người trên xe cùng nhau đọc kinh lần chuỗi, rõ ràng không còn thấy rét lạnh nữa, chuyến về cũng không ai thấy bực mình, buồn lo, chán nản hay mệt rũ ra như những lần đi thăm nuôi trước !”

Vâng, tôi biết bà mẹ già đạo đức chân chất của tôi chẳng bao giờ bịa chuyện. Cụ luôn có cái xác tín rất… trực giác, không lý luận, không thần học cao xa chi cả. Tôi ngộ ra vấn đề không phải là một thứ ảo giác tâm lý hay một thứ ám ảnh tập thể chi cả, đơn giản chỉ là Lòng Tin thuần phác của những con người đang phải chịu nhiều đau khổ đã gặp được lòng chạnh thương từ ái hay cứu giúp của Mẹ Maria.

Kính Kính Mừng khởi đầu với ý nghĩa “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Kính Kính Mừng lại kết thúc với ý nghĩa “Mẹ ở cùng chúng con”.

Từ sau khi nghe chuyện mẹ tôi kể, lại đi tu trong DCCT như vậy cũng đã được hai mươi lăm năm rồi, tôi cũng dần bỏ đi cái lý trí duy chứng ương ngạnh, mềm lòng ra, và xác tín “Thiên Chúa ở cùng Mẹ – Mẹ ở cùng chúng con” để biết tập cầu nguyện với Mẹ bằng chuỗi Mai Khôi, điều lâu nay tôi vẫn có ý coi thường, chỉ là chuyện của mấy cụ già nhà quê như mẹ của tôi, chuyện đàn bà ấy mà…

Lm. LÊ QUANG UY, DCCT, 1.8.2013

MẸ TỪ BIỆT CÕI THẾ

MẸ TỪ BIỆT CÕI THẾ

Ba ngày trước khi Mẹ từ trần, các Tông Đồ và Môn Đệ đã tụ họp đông đủ tại Jêrusalem trong mái ấm nhà Tiệc Ly. Thánh Phêrô đến trước nhất, đến Phaolô rồi đến các Tông Đồ khác. Mẹ tiếp đón các Ngài bằng một tình thương hiền ái, Mẹ xin các vị ban phép lành trong xúc động. Mẹ từ giã từng Môn Đệ, từng Tông Đồ và chung tất cả những người tham dự, rồi Mẹ đứng lên và nói với các Tông Đồ rằng:

“Hỡi các con yêu dấu, các con là Thầy của Mẹ, Mẹ thiết tha yêu thương các con trong Con Chí Thánh của Mẹ. Theo ý Người, Mẹ sắp sửa về trời, nhưng ở đó, Mẹ hứa sẽ ấp ủ các con trong Trái Tim Mẹ như một người Mẹ. Xin các con hãy cố gắng làm vinh danh Chúa và truyền bá đức tin. Các con hãy giữ lời Con Chí Thánh Mẹ, hãy tưởng niệm cuộc sống và cái chết của Người, hãy thực hành giáo lý của Người, hãy yêu mến Giáo Hội. Các con hãy yêu thương nhau trong mối dây Đức Ai hòa thuận. Còn con, hỡi Phêrô, Mẹ xin trao phó cho con Gioan và tất cả mọi người.”

Lời đó như mũi tên lửa xuyên cắm vào tâm hồn mỗi người hiện diện. Ai cũng tê tái đau khổ trào lệ xuống tay Mẹ yêu dấu của mình. Một lúc sau Mẹ khuyên mọi người im lặng cầu nguyện với Mẹ. Nhà Tiệc Ly ngập đầy hương thơm thiên quốc. Một ánh sáng chói lọi từ nhà phát ra, ai ai cũng nhìn thấy. Mẹ cúi mình trên chiếc sạp gỗ nhỏ, chắp tay lại, mắt nhìm cắm vào Chúa Giêsu, Trái Tim Mẹ cháy bừng lên trong tình yêu mến Chúa. Các Thiên Thần hát lên những bản tình ca diễm lệ. Mẹ thốt lên lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá “Con phó Linh Hồn con trong tay Cha.”

Mẹ nhắm mắt, tắt thở. Mẹ đã tắt thở vì tình yêu Chúa mãnh liệt, không còn phép lạ nào ngăn cản nữa, nên đã phá vỡ những ràng buộc của thân xác, chứ không phải một suy nhược bệnh tật hay tai nạn nào. Mẹ sống nhờ phép lạ. Phép lạ ngừng, Mẹ đi vào cõi chết !

Linh Hồn nguyên tuyền của Mẹ từ giã Thân Xác Trinh Vẹn của Mẹ, và ngay lúc đó, Mẹ được tôn lên ngai trong một vinh quang khôn tả. Tại nhà Tiệc Ly, mọi người nghe được tiếng nhạc thiên quốc xa dần trong không gian. Đoàn Thần Thánh tháp tùng đã đi theo Chúa Giêsu và Mẹ lên trời.

Thân xác Mẹ là Cung Thánh của Thiên Chúa ngự trị, mặc một vẻ lộng lẫy chói ngời, và tỏa hương thơm thánh thoát. Các Tông Đồ buồn nhưng thanh thoát hân hoan trước những việc lạ lùng vô songấy. Tất cả đều như ngây ngất một lúc dài, rồi mới bắt đầu hát lên được bài thánh ca mừng Mẹ.

Mẹ qua đời vào ngày thứ Sáu, lúc 3 giờ chiều, ngày 13 tháng 8 năm 55 sau Chúa Giáng Sinh. Năm ấy Mẹ được 70 tuổi kém 16 ngày.

Các Tông đồ lấy áo quan đem vào bên giường Mẹ, hai Ngài kính cẩn nương thi thể Mẹ đặt vào áo quan. Ánh ngời chói giảm đi mãi cho tới lúc mọi người nhìn thấy gương mặt Mẹ và đôi tay. Các Tông Đồ khiêng Xác Thánh Mẹ qua phố Jêrusalem đến mồ. Có hàng ngàn hàng vạn các Thiên Thần từ trời xuống đưa xác Mẹ. Thánh Phêrô và Gioan đặt xác Mẹ vào trong mồ, với niềm tin kính và dễ dàng như khi đặt vào áo quan. Các Ngài lăn tảng đá lớn lấp cửa mồ theo phong tục. Lễ an táng xong,

Các Thánh trở về trời, nhưng các Thiên Thần hầu cận vẫn còn ở lại tiếp tục tấu nhạc cho tới khi dân chúng giải tán hết.

MẸ VINH QUANG HỒN XÁC VỀ TRỜI

Linh hồn rất Thánh Mẹ đã hưởng phúc trên Thiên Đàng 3 ngày, Thiên Chúa tỏ cho các Thần Thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài, là phục sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời đem linh hồn Mẹ xuống mồ thánh của Mẹ, giữa muôn vàn Thiên Thần, Các Thánh, các Tổ Phụ và các Tiên Tri. Đến mồ thánh, Chúa phán :

Mẹ của Cha đã được dựng thai Vô Nhiễm, Cha đã mặc lấy nhân tính từ nơi bản thể Vô Nhiễm ấy. Thể Xác Cha là Thể Xác của Mẹ. Mẹ cũng đã đồng công vào mọi công trình cứu chuộc của Cha, nên Cha phải phục sinh cho Mẹ để Mẹ nên giống Cha mọi sự .”

Toàn thể Các Thánh đều ca tụng, tán dương trước lời công bố của Chúa Giêsu. Tức thì linh hồn vinh hiển của Mẹ vào lại thân xác đồng trinh của Mẹ, trả lại sự sống và tất cả mỹ lệ cho thân xác ấy mà không hề chạm đến tảng đá che cửa mồ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật 15 tháng 8, liền sau nửa đêm Xác Thánh Mẹ ở trong mồ 30 giờ, như Xác Thánh của Chúa.

Một cuộc cung nghinh trang trọng đầy hoan lạc không thể tả được, giữa các Thần Thánh rước Mẹ về Thiên Đàng cả hồn lẫn thể xác. Chúa Cha ra tiếp đón Mẹ với một cuộc tiếp đón thỏa lòng nhất. Chúa Cha phán “Con yêu dấu, Con hãy lên hưởng vinh quang hơn hết các thụ tạo” Mẹ chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Chúa Cha lại phán : “Maria nữ tỳ của Chúng Ta, Con đã làm cho Chúng Ta thỏa lòng. Con có toàn quyền trên Vương Quốc Chúng Ta, và được tôn phong làm Chủ Mẫu, làm Nữ Vương độc nhất của Thiên Quốc

Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một Vương Miện Vinh Quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ. Cùng lúc ấy từ ngai Chúa phán ra : “Hỡi người Con chí ái, Vương Quốc của Ta là Vương Quốc của Con, Con là Chủ Mẫu, là Nữ Vương các loài thụ tạo. Từ ngai cao cả này Con sẽ thống trị toàn thể thụ tạo, hỏa ngục, trần gian và thiên đàng. Mọi loài đều phải phục tùng Con. Chúng Ta trao ủy cho Con quyền bính Thần Linh của Chúng Ta, để Con nâng đỡ, bảo trợ và làm Mẹ hết mọi người công chính và là Mẹ Giáo Hội chiến đấu trần gian .”

Trong lúc ở Thiên Đàng xẩy ra sự kiện vinh quang đó, thì ở trần gian, nơi phần mộ của Mẹ. Thánh Phêrô và Gioan nhận thấy tiếng nhạc Thần Trời đã ngưng, nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, các Ngài kết luận: “Mẹ đã phục sinh và lên trời cả hồn cả xác .”

Tảng đá che lấp cửa mồ được cất ra, mọi người chỉ còn thấy trong mồ chiếc áo còn nguyên trạng thái khi liệm. Thánh Phêrô nâng chiếc áo lên rồi quỳ xuống, tỏ lòng tôn kính tin phục Mẹ đã phục sinh và lên Trời.

Trích Truyện Cuộc Đời Của Đức Mẹ

do Tác giả Thánh nữ Maria Agrêđa tường thuật

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Chân dung Đức Mẹ (37)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Chân dung Đức Mẹ (37)

Đăng bởi lúc 2:05 Sáng 12/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (12.02.2013) – Sàigòn

Chân dung Đức Mẹ

Cách đây mấy tháng, một anh bạn tinh nghịch hỏi tôi: “Có phải Cha thích ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp phải không?”. Tôi vui vẻ đáp: “Lẽ dĩ nhiên rồi”.  Và đón được ý nghĩ của ông bạn, tôi nói tiếp: “Nhưng xin ông bạn chớ nên cho rằng tôi thích ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp hơn cả chỉ vì tôi là tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế và là chủ nhiệm một tờ nguyệt san mang tên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đâu nhé”.

Trên phương diện lịch sử và mỹ thuật, thì ảnh Đức Mẹ hằng Cứu Giúp
đứng vào bậc nhất, vì ảnh ấy họa lại bức ảnh Đức Mẹ chỉ đường (Hodegetria), tức
là ảnh cổ kính nhất trong Giáo hội đã được tôn kính ở Constantinople, như bạn
Thanh Dũng sẽ nói trong số báo này. Mặc dầu chúng ta không biết được khuôn mặt
Đức Mẹ ra sao, như lời thánh Augustin đã nói về thế kỷ thứ tư: “Chúng tôi không
được biết gì về khuôn mặt của Nữ Trinh Maria” (De Trin. VIII,5,7), nhưng khuôn
mặt hình trái xoan của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có những nét rất Á Đông và tuyệt
đẹp, khiến nhiều nhà nghệ sĩ lừng danh đã không hết lời ca ngợi.

Nhưng trên phương diện đức tin và thần học, bức ảnh ấy là một tuyệt tác diễn tả chân dung tinh thần của maria cách trung thành hơn hết. Mỗi nét đều nói lên sứ mạng cao cả của Maria.

Trước tiên bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nêu cao chức làm Mẹ Thiên
Chúa. Trên nền vàng tượng trưng vinh quang thiên đàng, nổi lên hình bán thân
của Đức Mẹ. Nhưng Mẹ Maria không đứng một mình. Với Mẹ có cả Chúa Giêsu. Ở phía trên có mấy chữ Hy Lạp: “Mẹ Thiên Chúa”. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và tất cả vinh
quang, tất cả những đặc ân khác của Mẹ đều bắt nguồn từ Chúa Kitô. Nơi Mẹ, tất
cả đều hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô là trung tâm của Mẹ. Vì thế lòng sùng kính
của ta đối với Mẹ Maria cũng nhằm một mục đích: Đức Kitô, Vị Cứu tinh và Trung
gian độc nhất giữa Thiên Chúa và loài người.

Là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria còn là Mẹ của chúng ta, Mẹ của đoàn người được  cứu rỗi, Mẹ của Giáo hội, đúng với tước hiệu mà Đức Phaolô VI đã tuyên bố trong Công đồng Vatican II: Trước hình cụ tử nạn do hai thiên thần dâng lên, Chúa Giêsu run sợ, như ngài sẽ run sợ một ngày kia trong vườn cây dầu. Phần Đức Mẹ, tâm hồn Mẹ tràn ngập đau thương đến trào ra nơi đôi khóe mắt đầy u buồn. Nhưng Mẹ không có một cử động nào để ngăn cản cuộc tử nạn của Con. Mẹ chấp nhận mọi khổ đau, Mẹ cùng chịu tử nạn trong tâm hồn với Chúa Giêsu để chúng ta được cứu rỗi.

Là Mẹ giáo hội, Mẹ Maria luôn chăm nom đến Giáo hội, chăm nom đến
mỗi con người, để đưa tất cả về với Chúa Kitô. Vì thế Mẹ xứng đáng mang tước
hiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp: Đôi mắt dịu hiền của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp không nhìn về Chúa Giêsu, nhưng nhìn về chúng ta, an ủi, nâng đỡ ta. Cái nhìn âu yếm và
đau buồn của Mẹ đã sưởi ấm bao tâm hồn, đã lay tỉnh bao đứa con hoang đàng. Mắt
Mẹ hướng về chúng ta, nhưng tay Mẹ nắm chặt lấy hai tay của Chúa Kitô. Nắm
chặt, không phải để cản ngăn Chúa trừng phạt loài người, nhưng là để đón nhận
tất cả ân huệ của Chúa Cứu Thế. Đón nhận cho Mẹ một cách dồi dào và đón nhận
cho con cái của Mẹ.

Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo hội, Mẹ Hằng Cứu Giúp, đó là ba điểm son của bức chân dung mà Thiên Chúa đã dùng để đưa mọi người về với Đức Maria và sau cùng, về với Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc của Đức Mẹ và của chúng ta.

 

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp


Số 203-4/1966

Tràng chuỗi Mân Côi đã cứu rỗi bà cụ 98 tuổi

Tràng  chuỗi Mân Côi đã cứu rỗi bà cụ 98 tuổi

Lm Nguyễn Hữu  Thy

Các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã hằng ngày sốt sắng dâng lên Mẹ Maria Tràng
Chuỗi Mân Côi, những lời Kinh mà chính Thiên Chúa Cha đã truyền cho Sứ Thần
Gabriel công bố, để tỏ lòng tôn sùng và biết ơn Mẹ. Vâng, vì đức tin mạnh mẽ và
lòng tin tưởng phó thác tuyệt đối của Mẹ vào sự quan phòng đầy yêu thương của
Thiên Chúa, Mẹ đã thưa „xin vâng“, Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện hy sinh
cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Nhờ thế, Ngôi Hai
Thiên Chúa mới có thể nhập thể làm người và cũng nhờ thế, toàn thể nhân loại
mới được hòa giải với Thiên Chúa và được cứu rỗi.

Dĩ nhiên, mục đích chính và trực tiếp của Kinh Mân Côi là nhằm tôn thờ Đức
Kitô, chứ không phải Mẹ Maria. Vì khi đọc Kinh Mân Côi, các tín hữu suy ngắm 20
mầu nhiệm cuộc đời cứu thế của Đức Kitô – 5 Sự Vui, 5 Sự Sáng, 5 Sự Thương và 5
Sự Mừng – mà trong đó Mẹ Maria giữ một vai trò trọng yếu, mang tính cách quyết
định, họ sẽ khám phá được tình yêu vô biên của Thiên Chúa ban cho nhân loại qua
Đức Kitô, Con Một của Người. Và chính sự tôn thờ Thiên Chúa, lòng biết ơn và
cảm tạ Đức Kitô qua Kinh Mân Côi của các tín hữu là chính sự tôn vinh làm đẹp
lòng Mẹ Maria nhất, vì mục đích duy nhất đời Mẹ là tôn thờ và làm sáng danh
Thiên Chúa. Đàng khác, Kinh Mân Côi là lời kinh được bắt nguồn trong Kinh
Thánh.

Trong Tông thư Marialis Cultus thời danh của Ngài, ĐTC Phaolô VI khẳng định
rằng: „Tràng chuỗi Mân Côi là một lối cầu nguyện theo Phúc Âm“ và ĐTC
Gioan Phaolô II còn cụ thể hơn: „Thực ra việc lần hạt Mân Côi không gì khác
hơn là cùng Mẹ Maria chiêm ngắm Thánh Nhan Đức Kitô
.“ Bởi vậy, chính ĐTC
Gioan Phaolô II đã đánh giá: „Kinh Mân Côi là một lời kinh đơn sơ, nhưng đẹp
và sâu xa nhất
“. Còn nhà thần học Karl Rahner thì nhận định rằng: „Kinh
Mân Côi là con đường ngắn nhất và chắc chắn nhất, dẫn chúng ta tới cùng Thiên
Chúa.“
Nói cách khác, Kinh Mân Côi là con đường chắc chắn dẫn tới sự cứu
rỗi. Suốt dòng lịch sử trên 2000 năm của Giáo Hội đã minh nhiên chứng nhận điều
đó. Ở đây chúng tôi xin trích câu chuyện kể có thật của cha Gereon Goldmann
OFM, một nhà truyền giáo lâu năm tại Nhật Bản như sau:

Tại khu ngoại ô „Cầu Gỗ“ của thủ đô Tokyo có khoảng 500.000 dân sinh sống và
trong số đó có vài ba trăm tín hữu Công Giáo thuộc giáo xứ St. Elisabeth. Khu
ngoại ô „Cầu Gỗ“ vốn được coi là một trong những khu phố nghèo nhất của thủ đô
Tokyo rộng lớn với dân số 13 triệu người. Khắp khu ngoại ô này hầu hết các nhà
đều làm bằng gỗ và thấp nhỏ. Khu ngoại ô này là cả một viện dưỡng lão khổng lồ,
được chăm sóc về mặt y tế một cách khá chu đáo. Trong số các vị cao niên sống ở
đây, mà đa số đã phải nằm liệt giường từ nhiều năm hay từ hằng chục năm rồi, có
một số nhỏ là người Công Giáo.

Hàng tháng tôi đến thăm các ông bà cụ người Công Giáo và mang Mình Thánh Chúa
cho họ hai lần. Một hôm vào khoảng 2 giờ sáng máy điện thoại nhà tôi reo. Đó là
cú điện thoại của cô y tá điều dưỡng trực, cô báo cho tôi hay là tôi phải đến
gấp, vì ở ngôi lều số 8 có người đang hấp hối và rất mong muốn gặp tôi.

Thế là tôi lấy xe máy và mang theo dầu thánh chạy đến viện dưỡng lão ngay lập
tức. Người canh cổng quen biết tôi nên liền mở cổng cho tôi vào. Cô y tá điều
dưỡng cũng đã chờ tôi sẵn ở lối vào. Tôi liền hỏi cô người hấp hối nằm ở đâu và
tôi cứ đinh ninh là một ông cụ người Công Giáo mà tôi thường đến thăm viếng.
Nhưng cô y tá trả lời: „Không phải ông cụ người Công Giáo muốn gặp cha,
nhưng là một bà cụ khác
.“ Nghe cô y tá nói, tôi cứ tự thắc mắc mãi, vì theo
tôi biết thì tại ngôi lều số 8 đâu có bà cụ già nào là người công Giáo. Cô y ta
dẫn tôi tới giường một bà cụ mà trước đây mỗi lần tôi tới viện dưỡng lão bà đều
đăm đăm nhìn tôi như muốn trao đổi với tôi điều gì đó.

Nhìn bà cụ tôi đoán biết bà không thể qua được, tuy nhiên bà cụ vẫn còn đủ sức
nói chuyện rất rõ ràng, dù rằng bà chỉ nói một cách chậm rãi mà thôi. Từ trên
80 năm qua, bà cụ luôn cầu xin Chúa cho bà trước khi chết được gặp một Linh mục
Công Giáo và hôm nay tôi là một Linh mục Công Giáo đang đứng trước mặt bà.

Tôi liếc nhìn tấm bảng ghi tên tuổi của bà cụ treo ở đầu giường, tôi biết được
bà cụ đã 98 tuổi. Tôi liền hỏi bà là tại sao bà lại muốn gặp vị Linh mục Công
Giáo. Sau một lúc lâu với những câu nói cắt quảng, bà cụ kể tiểu sử đời bà. Bà
từng là một nữ học sinh của một trường Công Giáo. Tại trường bà đã được một nữ
tu dạy trong suốt ba năm trời. Và khi bà 17 tuổi bà đã được chịu phép Rửa Tội
gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Bà nói: „Con đã được nhận lãnh nước thánh và
tiếp sau đó là bánh thánh của Chúa
.“ Nhưng sau đó, bà lập gia đình, và theo
truyền thống xưa kia ở Nhật thì việc lập gia đình là do gia đình dàn xếp, cha
mẹ đặt đâu con ngồi đó. Và chồng bà là một thầy Sãi coi giữ một ngôi chùa ở
trên miền núi cao hẻo lánh. Thế là bà phải sống trong ngôi chùa, hằng ngày lau
dọn trong chùa, chăm sóc các ngôi mộ và trong ngày cầu siêu cho các vong linh
bà phải chu tất công việc hương khói. Chồng bà biết bà là người Công Giáo nên
ông vẫn để bà được tự do đi nhà thờ, nhưng ở khắp miền đó không hề có ngôi nhà
thờ nào cả. Và sau đó bà sinh con, nhưng chẳng bao giờ bà có thể đi nhà thờ
được. Và cuộc đời bà cứ trôi qua như thế trong suốt 70 năm trời. Sau đó, lần
lượt chồng bà và tất cả các con bà đều qua đời, và một vị Sư khác đến trụ trì
ngôi chùa nên bà bó buộc phải rời bỏ ngôi chùa và đến ngụ tại viện dưỡng lão
này.

Tôi hỏi bà là trong bao nhiêu năm dài như thế có khi nào bà nghĩ đến Thiên Chúa
của các Kitô hữu không thì bà đăm đăm nhìn tôi một cách lạ thường và cố sức đưa
cánh tay phải khẳng khiu ra khỏi tấm mền đang đắp trên người bà, giơ lên cho
tôi xem Tràng chuỗi Mân Côi bà đang cầm trong tay. Bà nói: „Trong bao nhiêu
năm trời, chưa một ngày nào mà con không mang Chuỗi tràng hạt Đức Bà trên
người, hoặc con cầm trong tay hay bỏ trong túi, hằng ngày và nhiều lần trong
ngày con đã lần hạt Mân Côi. Con đã hằng ngày lần hạt Mân Côi cầu Chúa cho con
trước khi chết được gặp một vị Linh mục Công Giáo để ngài mang cho con bánh thánh
của Chúa
.“

Nói xong, bà cụ bắt đầu cầu nguyện. Bà đọc Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng
Maria. Trong khi bà cụ cầu nguyện như thế thì tôi liền ban Bí tích Xức Dầu cho
bà, vì xem chừng sự sống của bà không còn kéo dài bao lâu nữa, chỉ còn được
tính bằng phút bằng giây mà thôi. Quả thật, khi tôi chưa hoàn tất các nghi thức
Xức Dầu, thì bà cụ trong khi đang lâm râm cầu nguyện Tràng chuỗi Mân Côi đã nhẹ
nhàng trút hơi thở cuối cùng trong an bình. Chắc chắn linh hồn bà đã được Mẹ
Maria sai các Thiên Thần đón về Trời để thưởng công cho lòng trung thủy gắn bó
của bà với Mẹ qua Tràng chuỗi Mân Côi.

Câu chuyện bà cụ già người Nhật Bản trên đây đã hùng hồn khẳng định rằng „chưa
hề có ai cầu khẩn Mẹ Maria mà Mẹ không nhận lời và để ra về tay không“. Vâng,
Mẹ Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên sót bất cứ ai luôn gắn bó với Mẹ bằng Tràng
chuỗi Mân Côi. Mẹ sẽ cứu vớt họ khỏi bị hư mất đời đời. Lời hiệu triệu năm xưa
của Mẹ tại Fatima „Các con hãy siêng năng lần hạt Mân Côi“ vẫng còn vang
vọng mãi trong mọi tâm hồn.

„Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay
và trong giờ lâm tử. Amen“

( Trích trong: Die schönsten Mariengeschichten, Heft 16, Miram-Verlag
Jestetten
)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Vài Suy Niệm Bất Chợt Về Chúa Jesus Và Mẹ Maria

Vài Suy Niệm Bất Chợt Về Chúa Jesus Và Mẹ Maria

(01/08/2013)

Tác giả : Chu Tất Tiến

nguồn: Vietbao.com

Buổi sáng. Mưa nặng hạt. Những cành đào trụi lá yếu đuối, gầy guộc, như đang run lên, lạnh lẽo. Các đóa hồng hết mùa buồn bã chấp nhận những cánh mong manh rơi lả tả dưới chân. Những bông hoa xứ cũng bạc mầu đi, rũ rượi. Cả khu vườn chìm trong ảm đạm của cơn mưa dầm cuối năm làm cho không gian mang tính chết chóc, u ám đến rợn người.

Chết? Làm người, ai không chết? Cả cây cỏ, muông thú, cho đến núi đá cũng có
ngày bị sụp đổ. Sự sống, sự chết cứ thay nhau luân chuyển. Có những địa danh
nổi tiếng về du lịch trên thế giới đã từng là ngọn núi lửa hừng hực. Có những
vùng hồ nước xanh tươi lại từng là núi non sừng sững cách đây chỉ hơn trăm năm.
Mặt trái đất đảo lộn không ngừng. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn tiếp tục
đào xới dưới mặt đất để tìm ra những thành phố đã bị chôn vùi cả ngàn năm.
Người ta đang đi và sống trên biết bao nóc nhà, sinh mạng của các lớp người
trước mà không hề hay biết rằng mình đang dẫm chân lên biết bao hạnh phúc, khổ
đau, nụ cười, nước mắt, niềm vui của con người. Vũ trụ cứ xoay chuyển lặng lẽ
và vẫn bùng nở lên từng giờ, từng phút. Người ta cũng không để ý rằng ngày hôm
nay, khoảng cách của trái đất và các thiên hà mỗi ngày một xa nhau hơn, vì vũ
trụ vẫn nở lớn lên khủng khiếp. Nếu chỉ viết những con số về khoảng cách không
gian lên mặt giấy và đọc, chắc sẽ có nhiều người điên loạn vì sợ hãi.

Tất cả, từ vật chất đến tinh thần của con người, của vũ trụ đều thay đổi, hủy
hoại, thoái hóa, chỉ có một điều bền vững muôn đời: “Tình Yêu của Thiên Chúa!”
Đọc lại Thánh Kinh chân chính (không phải những sách Thánh mà đời sau, người ta
chế biến cho thích hợp với nhu cầu phổ biến của một số nhân vật), sẽ thấy rằng
Đấng Sáng Tạo vẫn luôn yêu thương con người qua mọi giai đoạn, vẫn cho con
người hạnh phúc, trên hết là “Hạnh Phúc Trí Tuệ” tức là được hiểu biết, thông
thái, được Tiến Hóa mãi trong Trí Tuệ. Càng ngày con người càng tìm ra những
điều mới lạ, và càng hiểu biết thì những người công chính lại càng kính sợ
Thiên Chúa hơn. Con người ngày nay biết thông cảm với những khổ đau của Thiên
Chúa, đại diện là Chúa Jesus, khi phải “xuống thế làm người và ở giữa chúng ta”
nhiều hơn khi trước. Chúa đã hy sinh xuống trần để cứu độ chúng ta thoát khỏi
vòng đau khổ. Những lời dậy của Chúa Jesus đã nâng con người lên một hàng cao
hơn cái tục lụy trần thế tầm thường và thoái hóa liên tục. Để đáp ơn Chúa, con
người đã viết rất nhiều về sự hy sinh của Chúa, nhất là về những nhục hình mà
Chúa phải chịu vì nhân loại, về sự đóng đinh đau đớn, căng da xẻ thịt, về những
mạo gai đâm sâu vào đầu nhức buốt kinh hoàng, về những đòn roi vút vào thân
thể, móc ra từng miếng thịt, hay về mũi đòng đâm suốt trái tim… Máu Chúa đã đổ
đầy trên mặt đất, thấm đen.

Nhưng có ai biết rằng có một nỗi khổ lớn lao hơn hết mà ít ai nhắc đến là nỗi
khổ của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra muôn vật và con người, lại phải hạ mình
“xuống” để sống chung với tạo vật của Ngài những 33 năm! Tưởng tượng một ông
chủ hãng chế tạo đồ chơi con nít, ngày nào đó phải biến thành chính món đồ chơi
đó, để giúp cho các đồ chơi biết chạy nhẩy tốt hơn…những 33 năm! Thống khổ hơn
cả là trong khi Chúa biết mình là “Chúa tể muôn vật” mà vẫn phải chấp nhận sống
bình thường như mọi vật, ngày qua ngày, ăn uống, sinh hoạt như những tạo vật
của mình, chờ đợi đúng 33 năm để viên mãn ý nguyện của Chúa là hy sinh cho nhân
loại, một nhân loại vô ơn và bội bạc. Những thế kỷ sau này, nhân loại càng xa
rời Chúa, chỉ biết đến quyền lợi, “sex”, tiền, và danh vọng nên tìm mọi cách
giết lẫn nhau hàng loạt, giết tập thể, giết cả một dân tộc, một giống nòi.
Người ta bây giờ nhạo báng Thiên Chúa bằng những khí cụ tinh vi hơn khi Chúa
còn ở thế gian rất nhiều. Đánh Chúa trên màn hình điện ảnh, chửi Chúa qua
Internet, làm nhục Chúa bằng các thứ đồ chơi điện tử, và giết con chiên của
Chúa bằng các vũ khí tinh vi… Nhưng độc ác hơn hết là biến một số tu sĩ yếu
đuối thành “yêu râu xanh” khiến cho các tín hữu khác dần dần mất niềm tin vào
Chúa. Thánh đường dần dần vắng bóng con chiên, cho dù Đức Mẹ, một Thiên Thần
trên Thiên Đàng đã hóa thân xuống thế, thành người nữ tên Maria để hạ sinh
Chúa, hiện nay vẫn còn khóc trên các bức tượng và vẫn làm phép lạ cứu người,
cũng không thấy số tín đồ đông hơn, mà chỉ thấy có nhiều vụ “scandals” trong
nhà thờ xấu xa hơn. Nói về Đức Mẹ, không khỏi không nghĩ đến sự đau khổ của Đức
Mẹ khi biết con trẻ mà mình sinh ra lại chính là Thiên Chúa mà mình thờ phụng,
nên phải hết sức tuân phục chính con của mình rồi phải chứng kiến người con của
mình bị làm ô nhục, bị đòn đánh rách da, phải vác cây thập giá nặng nề, ngã lên
ngã xuống rồi bị lột trần treo lên cây, máu và nước chẩy ra đầm đìa, rồi phải
vĩnh biệt con mình, Chúa của mình, đi vào cõi chết âm u…

Ôi! Những nỗi đau đứt ruột, xé da, tim thắt của Chúa Jesus và Mẹ Maria, có bút
nào diễn tả được, có phim ảnh nào nói lên đầy đủ được? Vậy mà ngày nay, thiên
hạ vẫn trâng tráo làm những nỗi đau ấy cứ dầy lên, tưởng ngập chín tầng trời
bằng những chém giết tàn bạo, bằng sự ghen ghét, đố kị, hận thù luôn muốn tiêu
diệt người khác. Có kẻ còn vác tượng Chúa đi đánh nhau, muốn đập tan lòng tin
tưởng vào tôn giáo khác, muốn máu của người khác tôn giáo đổ ra ngập đường thì
lòng mới thỏa thuê, vui sướng…

Còn biết bao người thật tâm yêu Chúa, thật tâm phụng sự Chúa trong cõi đời ô
trọc này? Hay chỉ yêu Chúa vì lời Chúa hứa: “Hãy xin thì sẽ được. Hãy gõ thì
cửa sẽ mở.” Xin được thì cười vui. Nếu xin không được, thì phẫn nộ, đổ hết tội
cho Chúa…

Ngoài trời, mưa vẫn rơi nặng hạt.

Chu Tất Tiến,

ngày cuối năm 2012.

 

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người (3)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người (3)

Đăng bởi lúc 2:39 Sáng 9/01/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (09.01.2013) – Sàigòn

Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người

Trong một chuyến xe lửa ở xứ xa lạ, nếu một người đồng hành  chỉ một đứa trẻ tầm thường đang đùa chơi với chúng bạn trên đường đầy cát bụi và bảo với ta: em bé ấy chính là Đấng Tạo Thành vũ trụ, Đấng muôn dân mong chờ, đấng sẽ giải phóng nhân loại, Đấng mọi người phỉa kính mến phụng thờ, Đấng sẽ xét xử trần gian,chắc chắn chúng ta sẽ nhún vai mỉm cười rồi thản nhiên tiếp tục đọc báo.

Thế nhưng cách đây gần hai ngàn năm, trên đất Do Thái, giữa một đêm giá lạnh, một hài nhi tên là Giêsu đã sinh ra trong hất hủi và nghèo túng, một hài nhi yếu đuối, mỏng manh, cần đến sự che chở của mẹ mình, phỉa bú mớm, ngủ nghỉ như các hài nhi khác. Đến khi khôn lớn Giêsu cungu cung cắp sách đi học, cũng đùa chơi với các trẻ cùng xóm. Lúc thành niên, vì cảnh túng thiếu của gia đình, Giêsu phải theo học nghề thợ mộc để nuôi mẹ nuôi thân. Sau 30 năm, sống một đời sống bình thường như bao nhiêu người khác, Giêsu đã đi rao giảng Nước Trời, triệu tập được một ít đồ đệ , nhưng sau cùng đã bị giới lãnh đạo Do thái nộp cho trấn thủ Roma và lên án tử hình trên
thập tự giá. Nói tóm, xem bên ngoài, Giêsu là một người Do thái trăm phần trăm
giữa những người Do thái khác.

Nhưng Thánh Kinh cho chúng ta hay con người Do Thái ấy chính là Ngôi Lời Thiên Chúa hằng sống: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga,1,1) Người là Đấng tạo thành vạn vật: “Mọi vật do Người mà có, và nếu không nhờ Người, sẽ không có vật nào” (Ga,1,3). Chính Người là sự sống, là ánh sáng trần gian: “Ngôi Lời là sự sáng thật soi chiếu mọi người” (Ga,1,9). Người là Đấng muôn dân mong chờ, là Đấng giải phóng nhân loại, là Đấng xét xử chúng ta, là Đấng chúng ta phải phụng thờ, vì đó là chính “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga,1,14) – Thánh Gioan đã cảm động nói lên sự lạ ấy: “Điều đã có từ đầu, điều chúng tôi đã từng nghe, điều chúng tôi đã từng thấy tận mắt, điều chúng
tôi đã ngắm nhìn và tay chúng tôi đã sờ đến đó là LỜI HẰNG SỐNG. Quả thật SỰ
SỐNG đã tỏ hiện, chúng tôi đã từng thấy, chúng tôi chứng thật và chúng tôi loan
truyền cho anh em SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI hằng có với CHÚA CHA và đã tỏ ra cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã từng thấy và từng nghe, chúng tôi loan truyền cho cả anh
em nữa, ngõ hầu anh em được hiệp thông với chúng tôi, nhưng sự hiệp thông của
chúng ta là thông điệp với CHÚA CHA và với, ĐỨC GIÊSU KITÔ con của Người. Những điều này, chúng tôi viết ra, ngõ hầu sự vui mừng của chúng tôi được nên trọn”
(1 Ga 1,4).

Thiên Chúa là người, đã ở giữa chúng ta, nhưng loài người không nhìn nhận: “Người ở trong trần gian, trần gian đã được Người tạo dựng nhưng trần gian lại không biết Người. Người đến giữa dân Người, nhưng dân Người không đón nhận” (Ga,1,10). Vì sao dâ Người không đón nhận? Là vì lời hứa của Thiên Chúa không thực hiện như ý họ: họ mong một đế quốc giàu mạnh, đuổi được quân xâm lăng, nhưng Chúa lại đến trong yếu hèn và nghèo khó. Thiên Chúa hiện diện trong nhân loại, nhưng đối với một số đông, hình như Người không có mặt, vì họ không biết nhận chân tướng của Người. sự vinh hiển của Thiên Chúa thì khác sự vinh hiển do trí óc ta nghĩ ra. Ta không thể nhìn nhận những giá trị của Thiên Chúa, nếu ta cứ bo bo với những tư tưởng hẹp hòi của con người. ta cần phải đưa mắt cao hơn chân trời của ta, để nhìn
lên một chân trời mới, phải bỏ nơi đồng bằng để hưởng cảnh huy hoàng của núi
non hùng vĩ. Ta không thể đi tới Chúa, nếu ta chỉ đi con đường của con người.
ta phải bỏ mình, bỏ đường lối của mình, bỏ ý định của mình. Phải đi sâu vào
trong nơi sâu của cõi lòng, phải từ bỏ những gì kéo mình lại, phải bỏ tất cả
những gì cản trở mình đến với Chúa. Chúng ta chỉ đến với Chúa lúc chúng ta biết
bỏ chỗ chúng ta muốn ở mãi mãi. Quá bám vào con người của mình, vào những cái
mình có, ta sẽ quên sự hiện diện của Chúa, ta sẽ chống đối Chúa, xua đuổi Chúa
và muốn ghiết Chúa. Con Thiên Chúa làm người, đã bị dân mình xua đuổi, đã chết
trên thập giá.

Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta gần 2000 năm nay. Nhưng cũng như dân Do Thái, loài người không đón Chúa, xua đuổi Chúa. Trong giây phút thiêng liêng của đêm Giáng Sinh năm nay, chúng hãy mở rộng lòng để đón Người và tin chắc rằng: “NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI Ở GIỮA CHÚNG TA”.

Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 151 – 12/1961

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

Tận dụng thời gian Chúa dành cho bạn

TRẦM THIÊN THU

Năm cũ qua, năm mới tới. Chúng ta không biết năm mới sẽ ra sao, và nhiều người không biết dùng 365 ngày như thế nào.

Khi còn trẻ, Lm Marcos Gonzalez, quản xứ Thánh Gioan Chrysostom ở Inglewood (California, Hoa Kỳ) đã thấy chiếc đồng hồ lớn có khắc chữ “Tempus Fugit” ở phía trên.

Lm Marcos Gonzalez cho biết: “Khi tôi hỏi mẹ tôi điều đó là chữ gì, mẹ tôi nói là THỜI GIỜ TRÔI QUA. Tôi ngạc nhiên và hỏi nghĩa là gì. Bà nói: ‘Cuộc đời ngắn ngủi, hãy dùng mỗi ngày cho tốt’. Từ đó, tôi luôn ghi nhớ”.

Lời khuyên đó là lời nhắc nhớ chúng ta mỗi khi năm mới khởi đầu. Tận dụng thời gian Chúa dành cho chúng ta phải là ưu tiên số một.

Lm James Kubicki, Dòng Tên, người phụ trách trang web ApostleshipOfPrayer.org, nói: “Điều quan trọng nhất đối với chúng ta là nhận biết rằng thời gian là điều quý giá nhất mà chúng ta có, chúng ta sống trong thời gian, thế nên khi chúng ta sử dụng thời gian là chúng ta dùng điều quý giá nhất”. Chúng ta nên tự vấn: “Tôi có đang dùng thời gian đúng như Chúa muốn không?”

Lm Jay Finelli, quản xứ Thánh Linh ở Tiverton, R.I., quản lý trang iPadre.net, nói: “Khi chúng ta trẻ, chúng ta nghĩ mình còn nhiều thời gian. Nhưng thời gian như cát, nó rơi qua các kẽ ngón tay của chúng ta”.

Mặc dù kỹ thuật có thể dùng làm công cụ để học tập, truyền bá Phúc âm và giao tiếp, chúng ta cũng có thể lãng phí thời gian vào các thiết bị hiện đại. Sự thật là nếu chúng ta không nghỉ ngơi và sống cầu nguyện và cân nhắc xem điều gì Chúa muốn, chúng ta chỉ để cho ngày tháng trôi qua mà không dùng thời gian đúng Ý Chúa.

Tác giả Thánh vịnh đã cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (90:12). Chúng ta cần nhìn vào cuộc đời mình trước, nhất là đời sống tâm linh. Chúng ta đang làm gì cho cuộc đời mình để sống với Thiên Chúa và Đức Kitô? Dành thời gian cho Chúa phải là ưu tiên. Nhưng chúng ta lại thường đặ Ngài ở cuối cùng. Chúng ta thực sự nên dành thời gian cho Chúa vì chúng ta muốn dùng thời gian cho Ngài vì sự sống đời đời.

Dành thời gian cho Chúa là thế nào? Pia de Solenni viết nhận xét trên trang PiadeSolenni.com thế này: “Đó là làm cho Thánh lễ là trung tâm của đời sống. Chúng ta nên coi Thánh lễ là trung tâm điểm và là kiểu mẫu cho cuộc đời mình. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta nên coi đó như diễn biến trong Thánh lễ. Nếu chúng ta có một ngày tồi tệ hoặc một ngày hạnh phúc, chúng ta có thể coi đó là
đau buồn hoặc vinh quang trong Thánh lễ. Cuộc sống và Thánh lễ không là hai thế
giới riêng biệt”.

Lm Finelli đề nghị thêm những cách dành thời gian sống với Chúa Giêsu, chẳng hạn như đọc Kinh thánh, lần Chuỗi Mân Côi, lần Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót, đọc sách hạnh các thánh, đọc sách đạo đức,… Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là tấm gương sáng về việc dùng thời gian một cách khôn ngoan, “Con Đường Nhỏ” của Chị là một triết lý sống.

Đó là cách làm mọi thứ, dù là việc nhỏ nhất, nhưng vẫn làm vì yêu mến Thiên Chúa. Theo đó, chúng ta cũng sử dụng thời gian như vậy. Mọi khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta nên sống vì yêu mến Thiên Chúa. Việc gì cũng trở nên có giá trị nếu làm vì yêu mến Chúa, vì Nước Trời, vì sống đức tin: Cầu nguyện, làm việc nhà, mưu sinh, học
tập, vui chơi, giải trì, nghỉ ngơi, ngủ,…

Chúng ta có thể sống trong sự thánh thiện, và chúng ta sẽ càng ngày càng nhận biết qua mỗi khoảnh khắc quý giá mà chúng ta có để dâng lên Thiên Chúa.

Lm Gonzalez cho biết: “Lúc cuối đời, nhiều người đã hối tiếc vì không cầu nguyện đủ, không dành đủ thời gian cho Chúa, không dành thời gian cho con cái, cha mẹ hoặc người thân. Đó là những điều hối tiếc vì chúng ta không dùng đúng thời gian mà Chúa dành cho mình.

Ngày hôm nay, ngay lúc này, hãy nhìn lại chính mình và cố gắng khắc phục trước khi quá muộn: Thời gian thắm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất chẳng chờ đợi ai. Thiên Chúa vẫn đang kiên trì chờ đợi chúng ta, hãy dành thời gian cho Ngài.

Bậc đáng kính Giám mục Fulton Sheen (tác giả viết nhiều sách hay) khuyên: “Không bao giờ chúng ta không có thời gian để suy niệm; người ta càng ít nghĩ về Thiên Chúa thì càng có ít thời gian cho mình. Thời gian để làm điều gì đó tùy vào cách chúng ta đánh giá. Suy nghĩ là cách xác định việc dùng thời gian; thời gian không khống chế
chúng ta suy nghĩ! Vấn đề tâm linh không bao giờ là vấn đề thời gian, mà là vấn
đề suy nghĩ. Không đòi buộc nhiều thời gian để chúng ta nên thánh, mà chỉ cần yêu mến nhiều”.

JOSEPH PRONECHEN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NCRegister.com)

Đầu năm Dương lịch – 2013

Maria Thanh Mai gởi

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

LỄ HIỂN LINH

Tác giả: Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

nguồn:conggiaovietnam.net

Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay hỏi nửa đùa, nửa thật: “Các bạn yêu nhau lắm, đúng không? Yêu đến mức nếu ngày nào không gặp nhau, ta nhớ thương, nhớ tiếc, nhớ da, nhớ diết, nhớ như có ai xé lòng mình, đúng không?”. Tất cả các bạn đều mỉm cười bẻn lẻn. Tôi nói tiếp: “Các bạn yêu nhau  lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?”. Tất cả trả lời: “thưa không!”.

Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là  tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.

Con người sống với nhau đã là huyền nhiệm dành cho nhau đến vậy, thì chúng ta càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm đối với con người. Lễ  Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh.

Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng. Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người. Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung, và cuộc đời của chính mình nói riêng.

Đúng hơn, Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Người là huyền nhiệm, nên để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành. Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc đời ta, dẫu phải trải qua từng biến cố sướng vui hay hạnh phúc.

Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Người và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Người.

Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện luôn mãi, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Người.

Lm VŨ XUÂN HẠNH

Mẹ vẫn chờ con

Mẹ vẫn chờ con
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: có một cô gái ở nơi xa về thăm nhà, vừa mới xuống xe đã nhìn thấy mẹ đứng phía trước. Cô gái rất ngạc nhiên vì mẹ cô không hề biết cô sẽ trở về liền hỏi: ”Sao mẹ biết con về vậy?”. Thì ra cuối tuần nào người mẹ cũng ra chỗ này để “đón” cô.

Tâm tư người mẹ luôn như vậy, luôn lấy thường xuyên thành trùng hợp, biến có thành không khiến những đứa con không khỏi ngạc nhiên cũng không đoán trước được. Mẹ thường che dấu tình cảm của mình. Nước mắt của mẹ luôn chảy ngược vào tim khiến con cái không thể thấy nỗi khổ của mẹ mà chỉ thấy sự diu ngọt từ mẹ. Quả đúng như ai đó đã nói:

“Mẹ là dòng suối nước trong

Thơm, ngon, mát, ngọt như lòng mẹ yêu

Mẹ là gió nhẹ ban chiều

Khẽ ru con ngủ cưng chiều con thơ”

Tình mẹ thật mênh mông. Tình mẹ không có bến bờ chỉ có dạt dào tình yêu và tuôn chảy trên cuộc đời con cái. Vì:

Mẹ là biển rộng xanh lơ

Tình thương bát ngát đôi bờ đại dương

Mẹ là mây phủ ngàn phương

Chở che con dại trên đường nắng rơi

Mẹ là tất cả mẹ ơi!”

Là những người con khi đã nhận ơn của mẹ thì luôn mong mỏi được sống bên mẹ. Không chỉ để được mẹ yêu mà còn để phụng dưỡng ơn mẹ. Không chỉ để được mẹ vỗ về mà cả thèm nghe sự la rầy đầy tình yêu nồng nàn của mẹ.

“Con mong bên mẹ từng giây

Con thèm nghe tiếng la rầy mắng yêu

Bên mẹ nắng sớm mưa chiều

Để con săn sóc mẹ yêu suốt đời”

Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ thật yêu thương chúng ta. Mẹ cũng đánh đổi cuộc đời mình vì yêu thương chúng ta. Mẹ hy sinh cuộc đời, gác bỏ việc riêng để gánh lấy nhân loại chúng ta. Tình mẹ cũng mênh mông, bát ngát luôn theo sát con mẹ, đó chính là Mẹ Maria.

Với lời xin vâng, Mẹ Maria đã gác bỏ những dự định riêng của đời mình để sẵn lòng thực thi chương trình của Chúa. Dưới cây thập giá, Mẹ một lần nữa đã nói lời xin vâng khi đón nhận nhân loại làm con của Mẹ. Lời Chúa Giê-su đã thưa cùng Mẹ. “Thưa bà, đây là con của bà”. Mẹ đã không khước từ. Dù rằng, dưới cây thập giá lòng Mẹ đang tan nát bởi cái chết người Con yêu. Mẹ tiếp tục xin vâng để lại làm Mẹ nhân loại theo thánh ý Thiên Chúa.

Và hôm nay, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và  hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Maria Thanh Mai gởi

TÂM SỰ VỚI CHÚA 2

TÂM SỰ VỚI CHÚA 2

“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người.”(Gioan 1, 10)

Chúng ta bước vào Mùa Vọng, ngày nào con cũng nhận rất nhiều bài suy niệm về Mùa Vọng, đọc đến không kịp luôn. Con nghĩ rằng Giáng Sinh thường đem đến cho Chúa nhiều nỗi buồn hơn niềm vui, cũng như xưa kia tại Bêlem vậy.  Sau bao nhiêu ngày đường vất vả, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse chẳng được ai cho trọ nhờ.

Ngày nay cũng thế, con rất buồn khi nghĩ đến Chúa còn tiếp tục  bị những người không tin từ chối Chúa, còn đối với những người Kitô Hữu thì sao? Chúa cũng chẳng được người ta đáp trả tình yêu của Chúa gì cho lắm đâu.

Lễ Giáng Sinh đáng lẽ phải là ngày được dành trọn cho Chúa, vậy  mà con người ta lại tục hóa ngày lễ trọng đại này.  Tại nhà thờ có nơi cũng đông người đó, nhưng Chúa có được đón rước trong tâm hồn không hở Chúa?

Ngày 24 người ta thường tổ chức ăn reveillon, nhưng con thì  không, vì tối đó Thánh Gia còn vất vả trên đường phố tìm chỗ trọ cho Hài Đồng Giesu, con thường thức khuya để cầu nguyện và kết hiệp với nỗi đau khổ của Chúa. Đêm đông thật lạnh giá, nhưng lòng người mỗi ngày càng giá lạnh hơn nhiều. Chúa vẫn lang thang đi tìm kiếm tình yêu, và khao khát được yêu lại.

Suy gẫm lời này từ một quyển sách nào đó, con cảm thấy thương  Chúa đến không cầm được nước mắt: “Chúa đã dựng nên trời xanh, cây cối, và Chúa biết trước rằng con người sẽ dùng cây gỗ này để làm thập giá đóng đinh  Chúa đây mà. Chúa cũng dựng nên những bông hoa, bụi gai, và con người cũng sẽ dùng những cây gai này mà làm mão gai nhấn vào đầu Chúa, và trong những sỏi đá có chất sắt, người ta lấy sắt để làm thành đinh đóng chân tay Chúa vào thập giá.”

Chúa ơi, Chúa biết trước tất cả nhưng Chúa vẫn dựng nên con người để rồi… Chúa phải nhận lấy toàn vong ân, và xúc phạm đến Chúa.  Phải rồi, Chúa là “Tình yêu không được yêu lại.”

Lạy Chúa Giesu! Tình Yêu Vô Cùng của Chúa đã được con đáp trả ra sao?

·      Con có nghe tiếng Chúa gọi và sẵn sàng vui lòng đáp lại lời mời gọi của Chúa chăng?

·      Phải chăng con đã hâm hở chạy đến mở cửa khi Chúa gõ hay là con đã để Chúa chờ đợi?

·      Con có sống trong tâm tình tri ân khi nhận lãnh dồi dào ân sũng Chúa chăng?

·      Chúa ơi, trong ngày sống của con, bao nhiêu lần con hướng lòng và nghĩ về Chúa?

Lạy Chúa Giesu yêu quý, nếu bây giờ Chúa hỏi con: “Con có muốn  an ủi Thầy không?” Con trả lời với Chúa rằng: “Dạ, con muốn lắm!”

Xin Mẹ Maria hãy giúp con  giữ lời hứa này với Chúa, con sẽ cố gắng hết mình để ủi an Chúa và ở bên Chúa.  Nhưng xin Chúa hãy cầm tay con và đừng để con xa rời Chúa bao giờ.

Thế gian không muốn nhận biết Chúa, nhưng chúng con nhận biết Chúa và hiểu rằng từ cái chết, chúng con được Chúa làm cho sống lại bằng cái chết nhục nhã của Chúa trên Thập Giá.

Lay Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa vô cùng. Con yêu mến Chúa.

MenYeuGiesu (TSVCNNB 4)

Maria Thanh Mai gởi

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 8/12

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

 

“ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28)

Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Giáo Hội chính thức công bố ngày 8/12/1854 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX, kế đến, chính môi miệng Mẹ Maria đã xác quyết khi hiện ra với thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức vào ngày
25/3/1858. Mẹ đã phán: “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai”.

Mẹ Maria là một trong muôn vàn thụ tạo do Thiên Chúa sinh dựng, nhưng Thiên Chúa đã ban tặng cho Mẹ nhiều đặc ân: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của chúng sinh…Riêng đặc ân Vô nhiễm Thai là đặc ân khởi đầu, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Thai mà cung lòng của Mẹ đã trở nên cao sang, thanh khiết, vẹn tuyền, cung lòng của Mẹ đã trở nên ngôi đền thờ Thiên Chúa ngự qua biến cố Truyền Tin và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Đặc ân Vô Nhiễm Thai mà Mẹ Maria lãnh nhận từ Thiên Chúa được nằm trong chương trình cứu độ mà Ngài đã hứa ban sau khi con người nhân loại đầu tiên là ông A-dong và bà E-va lỗi nghịch cùng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng, trình thuật sách Sáng Thế sau đây đã minh chứng điều ấy: “Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng giống  ngươi và dòng giống người ấy, dòng giống người ấy sẽ đạp vào đầu ngươi, cònngươi sẽ tìm cách cắn gót chân  người” (St.3,15). Dòng giống người phụ nữ mà sách Sáng Thế mô tả không ai khác, đó chính là  Đức Trinh Nữ Maria.

Vâng! Khởi đi từ ý muốn và Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã được Thiên Chúa sủng ái và ban tặng nhiều đặc ân, lời chào của Sứ Thần trong ngày Truyền Tin đã minh chứng điều ấy: “ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28), như lời minh định của thánh Phaolô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện…” (Ep.1,3-4).

Có thể nói, cuộc đời của Mẹ Maria được ví như tấm phông tuyệt mỹ. Tấm phông có tên gọi Maria được dệt bằng những sợi tơ vàng, sợi tơ yêu thương dưới bàn tay điêu luyện của người thợ dệt là Thiên Chúa, để rồi từ tấm phông ấy, một lần nữa Thiên Chúa, Người họa sỹ đại tài đã dùng những gam màu sáng tối, đậm lợt, những đường cong và thẳng đan xen nhau, những nét vẽ điêu luyện tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, diễn tả hồng ân Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho con cái loài người một cách nhưng không. Vâng! Thiên Chúa, Ngài đã dệt, đã vẽ trên tấm phông có tên gọi là Maria để thực hiện lời hứa của Ngài với toàn thể con cái loài người như ngôn sứ Isaia đã trình thuật: “ Ta đã nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá…”(Is.49,8).

Thiên Chúa, Ngài đã phác họa những gì trên tấm phông mang tên Maria? Xin thưa! Thiên Chúa vẽ một Trái Tim thanh khiết, tinh tuyền, không tỳ ố ngay khi tấm phông có tên gọi Maria được hình thành nơi cung lòng của bà An-na; trong ngày Sứ thần Truyền tin, Ngài phác họa những từ Tín Thác, Khiêm Nhường Xin Vâng; Ngài vẽ hai chữ Hạnh phúc Bình An nơi máng cỏ Belem khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần; Ngài tô đậm hai chữ Yêu Thương và Phục Vụ nơi nhà bà Êlisabet, nơi tiệc cưới Cana; trên đỉnh đồi Can-vê Ngài vẽ những đường cong và thẳng đan xen nhau kết nên hai chữ Thinh LặngChịu Đựng; qua biến cố Phục Sinh, Ngài vẽ những nét đậm với hai chữ Vui Mừng và Hy Vọng . Cuối cùng, Ngài vẽ hình lưỡi lửa trong ngày lễ ngũ tuần, ngày khai sinh ra Giáo Hội trần thế. Thiên Chúa rất hài lòng sau khi thực hiện nét vẽ cuối cùng trên tấm phông có tên gọi Maria, không những thế, Ngài còn ban tặng bức tranh ấy cho toàn thể nhân loại như một bảo chứng của tình yêu.

Vâng! Dưới bàn tay điêu luyện của Thiên Chúa, tấm phông  có tên gọi Maria giờ trở thành một bức tranh tuyệt tác. Bức tranh ấy được treo một cách trang trọng nơi tòa nhà của Thiên Chúa, trở thành điểm nhấn, trở thành  vườn hoa muôn màu, muôn sắc nơi vườn thượng uyển; trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa một cách rõ nét, là tấm gương soi cho tất cả những ai tin nhận Thiên Chúa, và nhất là trở thành ánh sao dẫn đường cho những ai đang lần mò đi trong đêm tối của niềm tin, những tâm hồn khát khao đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa nơi cuộc sống dương gian.

Hướng về Mẹ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một người Mẹ thanh khiết, vẹn toàn, một tấm gương phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa, ta cảm tạ Thiên Chúa đã giúp ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống ngang qua Mẹ Maria, ta xin Chúa tháp nhập con người và cuộc đời ta lên tấm phông có tên gọi Maria. Với tấm lòng con thảo, ta xin Mẹ giúp ta trở thành tấm phông để qua tấm phông là chính con người và cuộc đời của ta, Thiên Chúa sẽ vẽ những nét đẫm lợt, sáng tối theo Thánh Ý của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi cuộc đời của Mẹ Maria.

Trên bước đường lữ thứ trần gian, còn đó những cám dỗ, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sự dữ; còn đó những thách đố, khổ đau do bệnh tật, đói nghèo, do bất hòa chia rẽ; còn đó những vô cảm đối với Chúa và với nhau, tất cả những điều đó dễ làm trái tim và con người của ta trở nên hoen ố, trở thành những làn roi, thành những gai nhọn và đinh sắt đóng vào thân mình của Đức Kitô, trở thành những vết nhơ trên bức tranh mà Thiên Chúa đã vẽ nơi tấm phông có tên gọi Maria. Với thân phận yếu đuối và mỏng dòn, ta xin Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, để nhờ Mẹ và trong Mẹ ta đón nhận sức mạnh và phúc lành từ nơi Thiên Chúa, nhờ sức mạnh và phúc lành của Thiên Chúa ta mới có thể chống trả chước cám dỗ, ta mới có được sự bình an đích thực và nhất là sự sống bất diệt được khởi đi từ Thiên Chúa.

Giữa mối tương quan gia đình trần thế, ta xin Mẹ Maria giúp ta trở thành những tấm phông, những họa sỹ như lòng Chúa ước mong. Nhờ ơn Chúa tác động và qua sự dẫn dắt của Mẹ Maria, ta cùng vẽ, cùng phác họa cho nhau những nét chữ yêu thương, tha thứ, đồng cảm và sẻ chia, nhờ những gam màu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, những gam màu hiến thân và phục vụ mà tấm phông là chính cuộc đời của ta và của nhau sẽ trở thành những bức tranh sinh động, bức tranh diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, của Mẹ Maria. Qua bức tranh của ta và của nhau mà nhiều người nhận ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Cha, Đấng luôn yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người chưa biết và chưa tin nhận Thiên Chúa. Đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin, ta được mời gọi tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình giữa lòng thế giới.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin thương và giúp con biết noi gương Mẹ tận hiến cuộc đời cho Chúa, để nhờ ơn Chúa giúp, con dần trở thành tấm phông mà Thiên Chúa sẽ vẽ, sẽ tạo nên bức tranh như lòng Ngài ước mong. Amen.

Sài Gòn, ngày 07/12/2012

Antôn Lương Văn Liêm

Maria Thanh Mai gởi

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Ngày 8/12

Lm. Nguyễn Văn Trinh

Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.

Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.

Dù vậy chúng ta phải nắm vững :

1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.

2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.

Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.

Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.

Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Maria Thanh Mai gởi