Người ta kể rằng: có một cô gái ở nơi xa về thăm nhà, vừa mới xuống xe đã nhìn thấy mẹ đứng phía trước. Cô gái rất ngạc nhiên vì mẹ cô không hề biết cô sẽ trở về liền hỏi: ”Sao mẹ biết con về vậy?”. Thì ra cuối tuần nào người mẹ cũng ra chỗ này để “đón” cô.
Tâm tư người mẹ luôn như vậy, luôn lấy thường xuyên thành trùng hợp, biến có thành không khiến những đứa con không khỏi ngạc nhiên cũng không đoán trước được. Mẹ thường che dấu tình cảm của mình. Nước mắt của mẹ luôn chảy ngược vào tim khiến con cái không thể thấy nỗi khổ của mẹ mà chỉ thấy sự diu ngọt từ mẹ. Quả đúng như ai đó đã nói:
“Mẹ là dòng suối nước trong
Thơm, ngon, mát, ngọt như lòng mẹ yêu
Mẹ là gió nhẹ ban chiều
Khẽ ru con ngủ cưng chiều con thơ”
Tình mẹ thật mênh mông. Tình mẹ không có bến bờ chỉ có dạt dào tình yêu và tuôn chảy trên cuộc đời con cái. Vì:
“Mẹ là biển rộng xanh lơ
Tình thương bát ngát đôi bờ đại dương
Mẹ là mây phủ ngàn phương
Chở che con dại trên đường nắng rơi
Mẹ là tất cả mẹ ơi!”
Là những người con khi đã nhận ơn của mẹ thì luôn mong mỏi được sống bên mẹ. Không chỉ để được mẹ yêu mà còn để phụng dưỡng ơn mẹ. Không chỉ để được mẹ vỗ về mà cả thèm nghe sự la rầy đầy tình yêu nồng nàn của mẹ.
“Con mong bên mẹ từng giây
Con thèm nghe tiếng la rầy mắng yêu
Bên mẹ nắng sớm mưa chiều
Để con săn sóc mẹ yêu suốt đời”
Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ thật yêu thương chúng ta. Mẹ cũng đánh đổi cuộc đời mình vì yêu thương chúng ta. Mẹ hy sinh cuộc đời, gác bỏ việc riêng để gánh lấy nhân loại chúng ta. Tình mẹ cũng mênh mông, bát ngát luôn theo sát con mẹ, đó chính là Mẹ Maria.
Với lời xin vâng, Mẹ Maria đã gác bỏ những dự định riêng của đời mình để sẵn lòng thực thi chương trình của Chúa. Dưới cây thập giá, Mẹ một lần nữa đã nói lời xin vâng khi đón nhận nhân loại làm con của Mẹ. Lời Chúa Giê-su đã thưa cùng Mẹ. “Thưa bà, đây là con của bà”. Mẹ đã không khước từ. Dù rằng, dưới cây thập giá lòng Mẹ đang tan nát bởi cái chết người Con yêu. Mẹ tiếp tục xin vâng để lại làm Mẹ nhân loại theo thánh ý Thiên Chúa.
Và hôm nay, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người.”(Gioan 1, 10)
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, ngày nào con cũng nhận rất nhiều bài suy niệm về Mùa Vọng, đọc đến không kịp luôn. Con nghĩ rằng Giáng Sinh thường đem đến cho Chúa nhiều nỗi buồn hơn niềm vui, cũng như xưa kia tại Bêlem vậy. Sau bao nhiêu ngày đường vất vả, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse chẳng được ai cho trọ nhờ.
Ngày nay cũng thế, con rất buồn khi nghĩ đến Chúa còn tiếp tục bị những người không tin từ chối Chúa, còn đối với những người Kitô Hữu thì sao? Chúa cũng chẳng được người ta đáp trả tình yêu của Chúa gì cho lắm đâu.
Lễ Giáng Sinh đáng lẽ phải là ngày được dành trọn cho Chúa, vậy mà con người ta lại tục hóa ngày lễ trọng đại này. Tại nhà thờ có nơi cũng đông người đó, nhưng Chúa có được đón rước trong tâm hồn không hở Chúa?
Ngày 24 người ta thường tổ chức ăn reveillon, nhưng con thì không, vì tối đó Thánh Gia còn vất vả trên đường phố tìm chỗ trọ cho Hài Đồng Giesu, con thường thức khuya để cầu nguyện và kết hiệp với nỗi đau khổ của Chúa. Đêm đông thật lạnh giá, nhưng lòng người mỗi ngày càng giá lạnh hơn nhiều. Chúa vẫn lang thang đi tìm kiếm tình yêu, và khao khát được yêu lại.
Suy gẫm lời này từ một quyển sách nào đó, con cảm thấy thương Chúa đến không cầm được nước mắt: “Chúa đã dựng nên trời xanh, cây cối, và Chúa biết trước rằng con người sẽ dùng cây gỗ này để làm thập giá đóng đinh Chúa đây mà. Chúa cũng dựng nên những bông hoa, bụi gai, và con người cũng sẽ dùng những cây gai này mà làm mão gai nhấn vào đầu Chúa, và trong những sỏi đá có chất sắt, người ta lấy sắt để làm thành đinh đóng chân tay Chúa vào thập giá.”
Chúa ơi, Chúa biết trước tất cả nhưng Chúa vẫn dựng nên con người để rồi… Chúa phải nhận lấy toàn vong ân, và xúc phạm đến Chúa. Phải rồi, Chúa là “Tình yêu không được yêu lại.”
Lạy Chúa Giesu! Tình Yêu Vô Cùng của Chúa đã được con đáp trả ra sao?
· Con có nghe tiếng Chúa gọi và sẵn sàng vui lòng đáp lại lời mời gọi của Chúa chăng?
· Phải chăng con đã hâm hở chạy đến mở cửa khi Chúa gõ hay là con đã để Chúa chờ đợi?
· Con có sống trong tâm tình tri ân khi nhận lãnh dồi dào ân sũng Chúa chăng?
· Chúa ơi, trong ngày sống của con, bao nhiêu lần con hướng lòng và nghĩ về Chúa?
Lạy Chúa Giesu yêu quý, nếu bây giờ Chúa hỏi con: “Con có muốn an ủi Thầy không?” Con trả lời với Chúa rằng: “Dạ, con muốn lắm!”
Xin Mẹ Maria hãy giúp con giữ lời hứa này với Chúa, con sẽ cố gắng hết mình để ủi an Chúa và ở bên Chúa. Nhưng xin Chúa hãy cầm tay con và đừng để con xa rời Chúa bao giờ.
Thế gian không muốn nhận biết Chúa, nhưng chúng con nhận biết Chúa và hiểu rằng từ cái chết, chúng con được Chúa làm cho sống lại bằng cái chết nhục nhã của Chúa trên Thập Giá.
“ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28)
Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Giáo Hội chính thức công bố ngày 8/12/1854 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX, kế đến, chính môi miệng Mẹ Maria đã xác quyết khi hiện ra với thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức vào ngày
25/3/1858. Mẹ đã phán: “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai”.
Mẹ Maria là một trong muôn vàn thụ tạo do Thiên Chúa sinh dựng, nhưng Thiên Chúa đã ban tặng cho Mẹ nhiều đặc ân: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của chúng sinh…Riêng đặc ân Vô nhiễm Thai là đặc ân khởi đầu, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Thai mà cung lòng của Mẹ đã trở nên cao sang, thanh khiết, vẹn tuyền, cung lòng của Mẹ đã trở nên ngôi đền thờ Thiên Chúa ngự qua biến cố Truyền Tin và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Đặc ân Vô Nhiễm Thai mà Mẹ Maria lãnh nhận từ Thiên Chúa được nằm trong chương trình cứu độ mà Ngài đã hứa ban sau khi con người nhân loại đầu tiên là ông A-dong và bà E-va lỗi nghịch cùng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng, trình thuật sách Sáng Thế sau đây đã minh chứng điều ấy: “Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng giống ngươi và dòng giống người ấy, dòng giống người ấy sẽ đạp vào đầu ngươi, cònngươi sẽ tìm cách cắn gót chân người” (St.3,15). Dòng giống người phụ nữ mà sách Sáng Thế mô tả không ai khác, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Vâng! Khởi đi từ ý muốn và Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã được Thiên Chúa sủng ái và ban tặng nhiều đặc ân, lời chào của Sứ Thần trong ngày Truyền Tin đã minh chứng điều ấy: “ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28), như lời minh định của thánh Phaolô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện…” (Ep.1,3-4).
Có thể nói, cuộc đời của Mẹ Maria được ví như tấm phông tuyệt mỹ. Tấm phông có tên gọi Maria được dệt bằng những sợi tơ vàng, sợi tơ yêu thương dưới bàn tay điêu luyện của người thợ dệt là Thiên Chúa, để rồi từ tấm phông ấy, một lần nữa Thiên Chúa, Người họa sỹ đại tài đã dùng những gam màu sáng tối, đậm lợt, những đường cong và thẳng đan xen nhau, những nét vẽ điêu luyện tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, diễn tả hồng ân Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho con cái loài người một cách nhưng không. Vâng! Thiên Chúa, Ngài đã dệt, đã vẽ trên tấm phông có tên gọi là Maria để thực hiện lời hứa của Ngài với toàn thể con cái loài người như ngôn sứ Isaia đã trình thuật: “ Ta đã nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá…”(Is.49,8).
Thiên Chúa, Ngài đã phác họa những gì trên tấm phông mang tên Maria? Xin thưa! Thiên Chúa vẽ một Trái Tim thanh khiết, tinh tuyền, không tỳ ố ngay khi tấm phông có tên gọi Maria được hình thành nơi cung lòng của bà An-na; trong ngày Sứ thần Truyền tin, Ngài phác họa những từ Tín Thác, Khiêm Nhường và Xin Vâng; Ngài vẽ hai chữ Hạnh phúc và Bình An nơi máng cỏ Belem khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần; Ngài tô đậm hai chữ Yêu Thương và Phục Vụ nơi nhà bà Êlisabet, nơi tiệc cưới Cana; trên đỉnh đồi Can-vê Ngài vẽ những đường cong và thẳng đan xen nhau kết nên hai chữ Thinh Lặng vàChịu Đựng; qua biến cố Phục Sinh, Ngài vẽ những nét đậm với hai chữ Vui Mừng và Hy Vọng . Cuối cùng, Ngài vẽ hình lưỡi lửa trong ngày lễ ngũ tuần, ngày khai sinh ra Giáo Hội trần thế. Thiên Chúa rất hài lòng sau khi thực hiện nét vẽ cuối cùng trên tấm phông có tên gọi Maria, không những thế, Ngài còn ban tặng bức tranh ấy cho toàn thể nhân loại như một bảo chứng của tình yêu.
Vâng! Dưới bàn tay điêu luyện của Thiên Chúa, tấm phông có tên gọi Maria giờ trở thành một bức tranh tuyệt tác. Bức tranh ấy được treo một cách trang trọng nơi tòa nhà của Thiên Chúa, trở thành điểm nhấn, trở thành vườn hoa muôn màu, muôn sắc nơi vườn thượng uyển; trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa một cách rõ nét, là tấm gương soi cho tất cả những ai tin nhận Thiên Chúa, và nhất là trở thành ánh sao dẫn đường cho những ai đang lần mò đi trong đêm tối của niềm tin, những tâm hồn khát khao đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa nơi cuộc sống dương gian.
Hướng về Mẹ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một người Mẹ thanh khiết, vẹn toàn, một tấm gương phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa, ta cảm tạ Thiên Chúa đã giúp ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống ngang qua Mẹ Maria, ta xin Chúa tháp nhập con người và cuộc đời ta lên tấm phông có tên gọi Maria. Với tấm lòng con thảo, ta xin Mẹ giúp ta trở thành tấm phông để qua tấm phông là chính con người và cuộc đời của ta, Thiên Chúa sẽ vẽ những nét đẫm lợt, sáng tối theo Thánh Ý của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi cuộc đời của Mẹ Maria.
Trên bước đường lữ thứ trần gian, còn đó những cám dỗ, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sự dữ; còn đó những thách đố, khổ đau do bệnh tật, đói nghèo, do bất hòa chia rẽ; còn đó những vô cảm đối với Chúa và với nhau, tất cả những điều đó dễ làm trái tim và con người của ta trở nên hoen ố, trở thành những làn roi, thành những gai nhọn và đinh sắt đóng vào thân mình của Đức Kitô, trở thành những vết nhơ trên bức tranh mà Thiên Chúa đã vẽ nơi tấm phông có tên gọi Maria. Với thân phận yếu đuối và mỏng dòn, ta xin Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, để nhờ Mẹ và trong Mẹ ta đón nhận sức mạnh và phúc lành từ nơi Thiên Chúa, nhờ sức mạnh và phúc lành của Thiên Chúa ta mới có thể chống trả chước cám dỗ, ta mới có được sự bình an đích thực và nhất là sự sống bất diệt được khởi đi từ Thiên Chúa.
Giữa mối tương quan gia đình trần thế, ta xin Mẹ Maria giúp ta trở thành những tấm phông, những họa sỹ như lòng Chúa ước mong. Nhờ ơn Chúa tác động và qua sự dẫn dắt của Mẹ Maria, ta cùng vẽ, cùng phác họa cho nhau những nét chữ yêu thương, tha thứ, đồng cảm và sẻ chia, nhờ những gam màu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, những gam màu hiến thân và phục vụ mà tấm phông là chính cuộc đời của ta và của nhau sẽ trở thành những bức tranh sinh động, bức tranh diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, của Mẹ Maria. Qua bức tranh của ta và của nhau mà nhiều người nhận ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Cha, Đấng luôn yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người chưa biết và chưa tin nhận Thiên Chúa. Đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin, ta được mời gọi tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình giữa lòng thế giới.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin thương và giúp con biết noi gương Mẹ tận hiến cuộc đời cho Chúa, để nhờ ơn Chúa giúp, con dần trở thành tấm phông mà Thiên Chúa sẽ vẽ, sẽ tạo nên bức tranh như lòng Ngài ước mong. Amen.
Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.
Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.
Dù vậy chúng ta phải nắm vững :
1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.
2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.
Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.
Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.
Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.
Đức Mẹ Fatima là một trong số nhiều tước hiệu mà giáo hội dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Tước hiệu này phát xuất từ việc Đức Mẹ hiện ra 6 lần với 3 em bé chăn cừu làng Fatima (Bồ Đào nha) là Lucia dos Santos, Francisco Marto và Jacinta Marto từ ngày 13.5 tới ngày 13.10.1917.
Tước hiệu Đức Bà Mân Côi cũng được dùng để chỉ Đức Trinh Vương Maria đã hiện ra này. Ba em bé kể rằng, bà đẹp đã đích thân xưng mình là “Đức Mẹ Mân Côi“. Từ hai tước hiệu trên gộp lại thành: “Đức Mẹ Mân Côi Fatima”
Bối cảnh lịch sử
Năm 1917, Fatima là 1 giáo xứ nông thôn gồm khoảng 2.500 người cư ngụ rải rác trong khoảng 40 thôn xóm. Mọi người đều lao động trên các đồng ruộng. Các trẻ em cũng phải giúp đỡ cha mẹ những việc nhẹ như chăn dắt bò, dê, cừu vv…Phần lớn dân cư đều mù chữ, chỉ có khoảng 10% phụ nữ biết đọc, biết viết.
Các gia đình Dos Santos và Marto cư ngụ trong thôn Aljustrel. Gia đình Dos Santos có 1 bé gái là Lucia, sinh ngày 22.3.1907. Gia đình người em họ Marto có 1 con trai là Francisco Marto, sinh ngày 11.6.1908 và 1 con gái là Jacinta Marto, sinh 11.3.1910. Ba em bé này thường chăn dắt đàn cừu tại bãi cỏ ở triền đồi gọi là «Cova de iria», cách thôn chừng 2 km.
Trong năm 1915, Lúcia, Francisco và Jacinta đã gặp thiên thần hiện ra với chúng ở bãi này. Khi về nhà thuật lại với cha mẹ, chúng bị cha mẹ mắng, cho là đặt chuyện nói láo. Mùa xuân và mùa hè năm 1916, thiên thần lại hiện ra với các em và dạy các em cầu nguyện như sau :
« Lạy Chúa !
Con tin, con thờ lạy
Con trông cậy và con yêu mến Chúa.
Con xin Chúa tha thứ cho những ai không tin, không thờ lạy,không trông cậy,và không yêu mến Chúa. »
Đức Mẹ hiện ra lần đầu
Ngày 13.5.1917, vào lúc trưa, 1 bà mặc áo trắng toát hiện ra với 3 em bé chăn cừu, nói với các em là hãy lần chuỗi, đọc kinh Mân Côi hàng ngày để cầu nguyện cho thế giới chấm dứt chiến tranh, được hòa bình. Trước khi biến đi, Bà bảo 3 em hãy trở lại nơi đây đúng giờ trưa ngày 13 tháng sau.
Jacinta còn qúa nhỏ mới có hơn 6 tuổi nên quên giữ kín , về nhà thuật lại sự việc cho cha mẹ nghe. Tin này loan truyền nhanh khắp làng. Mọi người tỏ ra không tin. Vị linh mục chính xứ hỏi Lúcia, nhưng cũng không tin. Trong báo cáo gửi lên giám mục cai quản giáo phận Leiria, vị linh mục quản xứ viết : «cần phải xa lánh chuyện này».
Đức Mẹ hiện ra lần thứ hai
Ngày 13 tháng 6, đúng giờ trưa, 3 em lại tới nơi hẹn, theo sau có khoảng vài chục người tò mò đến xem sự thể ra sao. Mọi người lần chuỗi đọc kinh mân côi thì Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, và nhắc lại với Lúcia về tầm quan trọng của việc đọc kinh Mân Côi. Hãy câu nguyện dâng kính «trái tim vô nhiễm Maria», đồng thời Đức Mẹ cũng báo trước cái chết của
2 anh em Francisco và Jacinta : «Mẹ sẽ sớm đưa Francisco và Jacinta về trời, còn con, con sẽ ở lại thế gian một thời gian nữa. Chúa Giêsu muốn dùng con để loan truyền cho mọi người biết ta và yêu mến ta». Đức Mẹ cũng yêu cầu Lucia đi học chữ để dễ loan báo lời Đức Mẹ cho các người khác.
Các người đi theo không nhìn và nghe thấy gì. Họ chỉ nhìn thấy cành cây nhỏ (mà
Đức Mẹ đứng) trĩu xuống dưới 1 sức nặng, rồi đột nhiên bật lên (khi Đức Mẹ biến
đi)
Đức Mẹ hiện ra lần thứ ba
Ngày thứ Sáu 13.7.1917, «bà mặc áo trắng» lại hiện ra với 3 em – có khoảng 4.000 người theo sau. Đức Mẹ vẫn nhắc Lucia việc đọc kinh Mân Côi mọi ngày, để chiến tranh chóng chấm dứt. Lần này Đức Mẹ tiết lộ cho 3 em “bí mật” gọi là “bí mật Fatima”. (Năm 1942, 2 bí mật đầu đã được công bố, còn bí mật thứ 3 thì mãi tới năm 2000, Giáo Hội mới công bố).
Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư
Ngày 10.8.1917, viên chánh tổng – 1 người chống đối hàng giáo sĩ – đòi 3 em Lucia, Francisco và Jacinta tới để tra hỏi, nhưng không có kết quả, nên ông rất bực bội.
Ngày 13.8, có khoảng 18.000 người tới nơi Đức Mẹ hiện ra chờ xem sự lạ. Ông ta
nhốt 3 em vì làm rối loạn trật tự công cộng và tiếp tục tra hỏi, nhưng vẫn hoài công. Rốt cuộc cho đến ngày 15.8, ông ta phải thả 3 em ra.
Chúa nhật 19.8, khi 3 em dẫn đàn cừu tới thả ở bãi Cova de iria, Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em, yêu cầu các em nói với mọi người cầu nguyện cho các người tội lỗi mau thống hối và hứa sẽ làm 1 phép lạ cho mọi người tin.
Đức Mẹ hiện ra lần thứ năm
Ngày 13.9, có khoảng 30.000 người tụ họp tại bãi Cova de iria, cầu nguyện cùng với 3 em. Đức Mẹ lại hiện ra với 3 em và cho biết tháng sau, sẽ có Chúa, Đức Mẹ núi Carmêlô, thánh Giuse và Chúa Hài đồng Giêsu sẽ cùng tới.
Đức Mẹ hiện ra lần thứ sáu
Ngày 13.10.1917, mưa như trút nước trên bãi cỏ Cova da Iria. Một đám đông khoảng 70.000 người – kể cả nhiều phóng viên chụp hình và các ký giả tụ tập tại đây lần chuỗi, đọc kinh cầu nguyện. Lúc giữa trưa, Đức Mẹ hiện ra với 3 em và yêu cầu cho xây 1 nguyện đường tại đây để vinh danh Đức Trinh Vương Maria. Đức Mẹ cũng loan báo thế chiến thứ nhất sẽ sớm chấm dứt và yêu cầu những kẻ có tội hãy mau sám hối.
Khi Đức Mẹ biến về trời thì mưa ngưng rơi, mặt trời xuất hiện trên bầu trời xanh biếc. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào mặt trời và thấy mặt trời nhảy múa, tung ra các chùm tia
sáng nhiều màu. Mặt trời từ trên cao lao xuống thấp gần trái đất, khiến đám đông sợ hãi la lên và qùy xuống cầu nguyện. Việc lạ xẩy ra trong khoảng 10 phút, sau đó mọi sự trở lại bình thường. Những người lúc trước quần áo dầm mưa ướt đẫm sau khi mặt trời sa xuống đều khô ráo cả. Hiện tượng này được hầu hết đám đông chứng kiến, và một số người ở
cách đó mấy dặm cũng nhìn thấy.
(Trong thời gian này, các nhà khoa học trên thế giới không hề ghi nhận 1 hiện tượng khác thường nào của mặt trời).
Trong khi đó, riêng 3 em nhìn thấy Thánh Gia, rồi Đức Mẹ Sầu Bị, Chúa Hài Đồng
Giêsu và sau chót là Đức Mẹ núi Carmêlô lần lượt xuất hiện như đã hứa trước với
3 em.
Số phận 3 em chăn cừu
Francisco và Jacinta qua đời sớm trong đợt dịch cúm Tây Ban Nha Francisco mất năm 1919, một năm sau Jacinta mất năm 1920. Cả 2 em đã được ĐGH. Gioan Phaolô II nâng lên hàng đáng tôn kính (venerable) ngày 13.5.1989 và được phong chân phước ngày 13.5.2000. Mộ của 2 em hiện nằm trong lòng Vương cung thánh đường Fatima.
Còn Lucia ngày 24.10.1925 vào tu viện dòng Dorothea ở Pontevedra (Galicia, ở Tây Ban Nha). Năm 1928 khấn lần đầu ở Tuy (Tây ban nha).
Năm 1925 và 1929, Lucia lại được Đức Mẹ hiện ra với mình. Tháng 10.1934, Lucia vĩnh khấn và lấy tên thánh Đức Mẹ Maria Sầu Bi.
Sau nhiều năm điều tra, Đức Giám Mục da Silva, giáo phận Leiria, trong thư mục vụ ngày 13.10.1930 đã công nhận sự kiện Đức Mẹ hiện ra với 3 em nói trên ở Fatima và chính thức cho phép việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima.
Lucia được lệnh đã viết các hồi ký về sự kiện trên gồm 4 bản (versions) :
1 bản năm 1935, 1 năm 1937, 1 năm 1941 và 1 đầu năm 1942.
Năm 1946, nhân kỷ niệm 300 năm ngày dâng nước Bồ Đào Nha cho Đức Trinh Nữ Maria, sứ thần tòa thánh là Đức Hồng Y Masella đã đội (vương miện) triều thiên lên tượng Đức Mẹ Fatima, với sự tham dự chứng kiến của khoảng 600.000 tín hữu hành hương. Vương miện này do các phụ nữ Bồ Đào Nha cung hiến để cảm tạ Đức Mẹ đã gìn giữ Bồ Đào Nha trong cuộc thế chiến thứ nhất.
Từ năm 1948, Lúcia vào tu trong đan viện dòng kín Carmêlô ở Coimbra (Bồ Đào
Nha), dưới tên nữ tu Lucia Trái Tim Vô nhiễm nguyên tội.
Lucia từ trần ngày 14.2.2005 ở tuổi 97.
Đúng như lời Đức Mẹ nói với Lucia là:
con còn phải ở lại và nói với mọi người là hãy:
“Hãy Ăn Năn Đền Tội”
“Hãy Tôn Sùng Mẫu Tâm Mẹ”
“Hãy Năng Lần Hạt Mân Côi”
Rồi đây nước Nga sẽ được thoát ách cộng sản vô thần, và chính Chị và chúng
ta đã được chứng kiến những điều này như lời Đức Mẹ hứa.
Thanh Sơn
13.10.2012
Kỷ niệm 95 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima tìm hiều và tóm lược.
Khi hiện ra tại Fatima (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ đã nhắn nhủ: “Hãy lần chuỗi Mân Côi
hằng ngày… Hãy cầu nguyện nhiều và dâng những hy sinh để cầu cho các tội nhân… Ta là Mẹ Mân Côi. Chỉ có Mẹ mới có thể giúp các con. …Cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ thắng”.
Tháng Mười lại về. Tháng Mười nhắc chúng ta nhớ lại lời khuyên của Đức Mẹ: Ăn
năn đền tội, tôn sùng Mẫu Tâm, siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
Chữ Rosary (Chuỗi Mân Côi) nghĩa là “Triều thiên Hoa hồng” (Crown of Roses).
Đức Mẹ đã mặc khải cho một số người biết rằng mỗi lần đọc kinh Kính Mừng là dâng
cho Mẹ một đóa hồng tươi đẹp và lần xong một chuỗi Mân Côi là dâng cho Mẹ một
triều thiên hoa hồng.
Hoa hồng là hoa của các loài hoa, chuỗi Mân Côi là hoa hồng của mọi lòng sùng kính, do đó mà hoa hồng quan trọng nhất. Chuỗi Mân Côi được coi là lời cầu nguyện hoàn hảo vì trong đó có câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Qua chuỗi Mân Côi, chúng ta suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Đó là lời cầu nguyện khiêm nhường, khiêm nhường đến nỗi như Đức Mẹ. Đó là lời cầu nguyện chúng ta cùng đọc với Mẹ Thiên Chúa. Với kinh Kính Mừng, chúng ta mời Đức Mẹ cùng cầu nguyện cho chúng ta. Đức Mẹ luôn ban cho chúng ta những điều cần. Đức Mẹ nối kết lời cầu nguyện của Mẹ với lời cầu nguyện của chúng ta. Do đó lời cầu nguyện ấy hữu ích hơn bao giờ hết, vì điều Mẹ xin thì Mẹ đều nhận được, Chúa Giêsu không bao giờ từ chối Mẹ điều gì.
Trong mỗi lần hiện ra, Mẹ luôn mời gọi chúng ta lần chuỗi Mân Côi vì đó là vũ khí mạnh để chống lại ma quỷ, đem bình an thực sự đến cho chúng ta. Qua lời cầu nguyện cùng với Mẹ, chúng ta có thể nhận được tặng phẩm giá trị là biến đổi tâm hồn và hoán cải. Qua lời cầu nguyện hằng ngày, chúng ta xua đuổi nguy hiểm và ma quỷ xa chúng ta và quê hương chúng ta. Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện lặp đi lặp lại như hai người yêu nhau lặp lại nhiều lần với nhau: “Tôi yêu bạn”.
Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917 tại Fatima, Đức Mẹ dạy cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu các linh hồn cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn” (O my Jesus, forgive us our sins, save us from the fires of hell, and lead all souls to Heaven, especially those in most need of Your Mercy).
Phanxicô (Francisco) qua đời ngày 4-4-1919 và Giaxinta (Jacinta) qua đời ngày
20-2-1920. Trước khi giả từ cõi thế, Giaxinta cho biết một ít nhưng đó là những
câu quan trọng. Đây là những lời của Đức Mẹ:
Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì tội xác thịt hơn là vì các lý do khác. Những tội đó xúc phạm Chúa rất nặng. Nhiều cuộc hôn nhân không tốt, họ không làm vui lòng Chúa và không thuộc về Thiên Chúa. Các linh mục phải khiết tịnh, rất khiết tịnh. Họ không được bận rộn với bất cứ thứ gì khác ngoài việc quan tâm Giáo hội và các linh hồn. SỰ BẤT TUÂN CỦA CÁC LINH MỤC ĐỐI VỚI CÁC BỀ TRÊN VÀ ĐỨC GIÁO HOÀNG LÀ RẤT LÀM MẤT LÒNG CHÚA. Đức Mẹ không thể ngăn cản bàn tay của Chúa Con khỏi trừng phạt thế giới vì nhiều tội trọng.
Hãy nói với mọi người rằng Thiên Chúa ban ân sủng qua Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ
Maria. Hãy bảo họ cầu xin ân sủng từ Mẹ, và Thánh Tâm Chúa Giêsu muốn được tôn
kính cùng với Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria.
Luxia (Lucia) vào Dòng Tiểu muội Thánh Dorothy để học đọc và học viết, sau đó
vào Dòng Coimbra và ở đây cho đến cuối đời.
Ngày 10-12-1925, nữ tu Luxia được thấy Chúa Giêsu Hài Đồng và Đức Trinh Nữ
Maria trong phòng riêng ở tu viện. Đức Mẹ cho bà thấy Trái Tim Mẹ bị gai quấn
xung quanh, rồi Đức Mẹ nói với nữ tu Luxia:
Này con, hãy xem Trái Tim Mẹ bị gai nhọn quấn xung quanh, đó là những người vô
ơn đã đâm vào mỗi khi họ phỉ báng và vô ơn… Con hãy nói với mọi người thế
này:
1. Hãy xưng tội ngày thứ Bảy đầu tháng trong 5 tháng,
2. Rước lễ,
3. Lần chuỗi Mân Côi,
4. Và dành cho Mẹ 15 phút mà suy niệm về 15 Mầu nhiệm Mân Côi, với tâm tình đền
tội, Mẹ hứa giúp họ trong giờ lâm chung bằng những ơn cần thiết để được rỗi
linh hồn.
Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ nói: “Mẹ sẽ đến xin thánh hóa nước Nga”. Và Đức Mẹ đã làm điều đó vào ngày 13-6-1929, khi hiện ra với Luxia tại nhà nguyện Dòng Thánh Dorothy, thuộc thành phố Tuy. Luxia nói: “Con đã xin được phép của bề trên và linh mục giải tội cho làm Giờ Thánh từ 11 giờ trưa đến nửa đêm, vào các ngày thứ Năm và thứ
Sáu”.
Đức Mẹ nói với Luxia: “Thời giờ đã đến, điều mà Thiên Chúa yêu cầu Đức thánh
cha, cùng với các giám mục trên thế giới, là dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, hứa cứu nước Nga bằng cách này. Cũng có nhiều linh hồn mà công lý của Thiên Chúa kết án vì phạm tội xúc phạm đến Mẹ, và Mẹ đã đến yêu cầu đền tội: Hãy hy sinh vì ý này và hãy cầu nguyện”.
Ngày 13-10-1917, khi ba trẻ được bao quanh với khoảng 70.000 người dù trời mưa
như trút, Luxia hỏi Đức Mẹ: “Mẹ muốn gì ở con?”. Đức Mẹ trả lời: “Ta là Mẹ Mân
Côi. Mẹ muốn có một nhà nguyện tại đây để tôn kính Mẹ, và để mọi người cùng lần
chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chiến tranh sẽ chấm dứt. Chiến tranh hết thì các binh
sĩ sẽ trở về gia đình”. Luxia hỏi: “Con có thể xin Mẹ chữa lành và hoán cải,
được không Mẹ?”. Đức Mẹ nói: “Một số người thì được, một số người khác thì
không. Điều cần là họ phải xin lỗi vì tội của họ, họ đừng xúc phạm Thiên Chúa
nữa, vì họ đã xúc phạm quá nhiều”. Luxia hỏi: “Mẹ còn muốn gì khác ở con
không?”. Đức Mẹ nói: “Mẹ không muốn gì nữa”.
Những lời đối thoại thật giản dị và dễ thương, nhưng những lời đó như đang xoáy
vào tận đáy lòng chúng ta!
ĐGH Piô XI đã không dâng nước Nga như lời Đức Mẹ yêu cầu Luxia làm, nhưng ngài
đã dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, cách riêng nhắc tới nước Nga.
ĐGH Piô XII đã làm điều tương tự vào năm 1942, và sau đó dâng hiến dân tộc Nga
vào năm 1952.
Ngày 13-5-1982, sau 1 năm bị ám sát tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981, cũng là dịp kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất tại Fatima, ĐGH Gioan Phaolô II đã tới linh địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ và gặp nữ tu Luxia (một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra). Ngài
tin mình sống sót nhờ sự can thiệp trực tiếp của Đức Mẹ Vô nhiễm.
Ngày 16-10-2002, qua Tông thư Rosarium Virginis Mariae (nói về chuỗi Mân Côi),
ĐGH Gioan Phaolô II đã chính thức thêm 5 mầu nhiệm mới vào chuỗi Mân Côi: Mầu
nhiệm Sáng.
“Khiết Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội mà con đang chiêm ngưỡng này đã đổ ra rất nhiều nước mắt. Con hãy tôn vinh và an ủi Trái Tim Tân Khổ của Mẹ bằng việc suy phục Thánh Ý Cha và quảng đại chiến đấu chống lại cái tôi của con”.(trích Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu với Hồn Nhỏ).
Những hình ảnh Đức Mẹ khóc ở các nơi trên thế giới. Đây là những bản tường trình mà có những hiện tượng được Giáo hội công nhận cũng như chưa được cộng nhận. Thanhlinh.net đăng tải để tham khảo và dành sự phán quyết của Giám mục địa phương.
Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1972
Đức Mẹ khóc tại Equador 1906
Đức Mẹ khóc tại Pittsburght, USA 1973
Đức Mẹ khóc tại Ba Lan 2012
Đức Mẹ khóc tại Úc 2001
Đức Mẹ khóc tại Roma 1994
Đức Mẹ khóc tại Columbia
Đức Mẹ khóc tại Nga 1998
Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 1991
Đức Mẹ khóc tại Ontario 2010
Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 2004
Đức Mẹ khóc tại Virgina USA 1992
Đức Mẹ khóc tại Medjugorje 2011
Đức Mẹ khóc tại Ecuador 2004
Đức Mẹ khóc tại Romania 2003
Đức Mẹ khóc tại 1953
Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1980
Đức Mẹ khóc tại Bangladesh 2003
Đức Mẹ khóc tại New York USA 1972
Đức Mẹ khóc tại Canada 1984
Đức Mẹ khóc tại Ý 1953
Đức Mẹ khóc tại Tây Ninh Việt Nam
Đức Mẹ khóc tại Akita, Japan 1973
Đức Mẹ khóc tại La Salette, Pháp 1846
Đức Mẹ khóc tại Á Căn Đình 2011
Đức Mẹ khóc tại Georgia 2012
Đức Mẹ khóc tại Venezuela, 2003
Đức Mẹ khóc tại Illinois, USA 1994
Đức Mẹ khóc tại Phi Luật Tân 1992
Đức Mẹ khóc tại El Salvador 2008
Đức Mẹ khóc tại New York, USA 1984
Đức Mẹ khóc tại Damacus, Syria 1977
Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2007
Đức Mẹ khóc tại Los Angeles, USA 2009
Đức Mẹ khóc tại Rockingham Úc 2002
Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2010
Đức Mẹ khóc tại Naju, Đại Hàn 1995
Đức Mẹ khóc tại Paraguay
Đức Mẹ khóc tại Hy Lạp 2003
Đức Mẹ khóc tại Ý 1992
Đức Mẹ khóc tại Ý 1972
Đức Mẹ khóc tại Ohio USA 2011
Đức Mẹ khóc tại Ukraine 2009
Đức Mẹ khóc tại Chí Lợi 2012
Đức Mẹ chảy máu tại Baton Rouge, New Orlearns 2012
Hằng năm, Giáo hội Công giáo dành Tháng Mười để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa Minh thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong
việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.
Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.
Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Chân phước GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng
tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.
Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do
đó, thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.
Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày
5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.
Lm. William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống Chúng ta” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.
Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên”. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng.
Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con hôm nay và mãi mãi. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối
nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).
Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.
LA VANG (Quảng Trị, 15-8-2012) – Linh địa La Vang (1) là Trung tâm Thánh Mẫu Quốc gia Việt Nam. Dù chưa một lần đến nhưng chắc hẳn người Việt Công giáo nào cũng đã từng nghe nói và quen với hình ảnh Đức Mẹ La Vang, với trang phục truyền thống Việt Nam là áo dài và khăn đóng, tay bồng Con Trẻ Giêsu. Đặc biệt là linh đài có hình những chiếc nấm. La Vang là nơi không chỉ phải chịu cái nóng như lửa đốt mà còn chịu tang tóc vì lửa đạn một thời chiến cuộc.
Phải nói ngay và phải “thẳng thắn thành thật tự thú” rằng nếu không “dính líu” tới cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót của TGP Saigon thì có thể chẳng bao giờ tôi được đặt chân tới linh địa La Vang (Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị). Rất có thể đó là sự quan phòng của Thiên Chúa – tôi nghĩ vậy.
Không chỉ vậy, tôi còn được biết một số địa danh lịch sử nổi tiếng khác. Trước tiên là nhà thờ Mằng Lăng, nơi có hang tử đạo của Thánh Anrê Phú Yên (vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam), với câu nói để đời của vị thánh trẻ này: “Hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến hết đời”. Một chủng sinh trẻ 19 tuổi mà có tư tưởng thật lạ và tuyệt vời biết bao! Một câu nói nhẹ nhàng nhưng đủ sức xoáy vào lòng mỗi người Công giáo, phải suy nghĩ nhiều và phải xem lại chính đức tin tôn giáo của mình.
Rồi tôi còn được biết đến nhưng nơi lịch sử và danh lam thắng cảnh khác như Đức Mẹ Sao Biển, thuộc một dòng nữ ở Nha Trang; Cổ thành Quảng Trị âm thầm; dòng sông Thạch Hãn lịch sử; cầu Tràng Tiền danh tiếng; con đường “Mưa Hồng” của cố NS Trịnh Công Sơn; Đại nội (cổ thành Huế) trầm lặng bên dòng Hương giang trôi lững lờ với khu Văn Lâu; Đan viện Thiên An (Dòng Biển Đức) với những con người ẩn tu trong những vách đá để chiêm niệm Thiên Chúa, sống giản dị, chuyên cần cầu nguyện và miệt mài lao động âm thầm trong sự tĩnh lặng của rừng cây thường xanh trên đồi cao; Cáp treo Bà Nà giữa núi rừng tịch mịch; Nhà thờ Trà Kiệu, nơi Đức Mẹ hiện ra ngày 10 và 11-9-1885 với lời động viên: “Này, Mẹ của các con đây! Đừng sợ!”, và Đền Đức Mẹ Trà Kiệu (đồi Bửu Châu); Nhà thờ chính tòa Nha Trang (Nhà thờ Núi) làm bằng đá, nơi an nghỉ của ĐGM Marcel Piquet (1888-1966), tên Việt Nam là Lợi, với khẩu hiệu: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến), giám mục tiên khởi của GP Nha Trang và sáng lập Hội dòng Khiết Tâm Đức Mẹ; Tháp Thiên Y Thánh Mẫu với nét kiến trúc độc đáo của người Chàm,… Đúng là một chuyến “đạo đời giao duyên”.
Đoàn chúng tôi tới linh địa La Vang ngày 14-8-2012. Vừa bước xuống xe, cái nắng như đổ lửa hắt vào mặt rát nóng. Núi rừng âm u. Đất sỏi đá khô cằn. Do đó mà con người miền đất này cũng phải vất vả lầm than lắm. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với họ, tôi thấy họ rất thật thà, chân chất, hiền hòa và nói cười xởi lởi. Những đứa trẻ nhìn người qua lại với ánh mắt ngây thơ mà rất lạ, vẫn ẩn chứa điều gì đó sâu thẳm…
Một rừng người trong khu vực linh địa La Vang. Nắng cứ nắng. Mồ hôi cứ chảy. Tay cứ vuốt mồ hôi, nhưng chân vẫn bước và ai cũng nói cười vui vẻ. Càng lúc càng đông khách hành hương đổ dồn về. Dưới chân linh đài lúc nào cũng có nhiều người đứng cầu nguyện.
17 giờ ngày 14-8-2012, Đức TGM Leopoldo Girelli (2), Đặc sứ Tòa thánh, chủ tế thánh lễ khai mạc. Trong bài giảng, ngài nhấn mạnh đến sức mạnh, ý nghĩa và tầm quan trọng của đức tin Kitô giáo trong việc định hướng cuộc đời, biến đổi cuộc sống và việc đóng góp xây dựng một xã hội nhân bản hơn.
Ngài giải thích: “Để được như thế, Giáo hội cần có sự tự do tôn giáo căn bản để rao giảng và sống đức tin của mình cách công khai. Sống đức tin cách riêng tư hay công khai là thể hiện sự duy nhất của một người vừa là tín hữu vừa là công dân. Một người Công giáo tốt sẽ là một người công dân tốt. Ở đâu có Chúa Kitô hiện diện thì ở đó con người trở nên nhân đạo hơn”. Ngài còn nhắc đến sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long, là những dòng sông “đại diện” các miền Nam, Trung, Bắc, với ý nói về ý chí kiên cường của người Việt Nam nói chung và người Công giáo nói riêng.
Đêm xuống dần. Bước chân người vẫn không ngừng đổ về từ tứ phía. Có những người thức trắng. Tiếng kinh không ngừng vang lên bên linh đài Đức Mẹ La Vang. 20 giờ là phần diễn nguyện ca tụng Đức Mẹ và vọng mừng Đức Mẹ lên trời ngay chân linh đài. Chỗ nào cũng thấy người, chen chân qua rừng-người-hành-hương cũng khó.
6 giờ sáng ngày 15-8-2012, Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (chủ tịch HĐGMVN) chủ tế thánh lễ mừng Đức Mẹ lên trời, cũng là lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Vương Cung Thánh Đường La Vang với tước hiệu Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu. Đồng tế có Đức TGM Girelli, gần 20 giám mục trong 26 giáo phận, Đan viện phụ Thiên An (Huế), và khoảng 300 linh mục. Khách hành hương tham dự thánh lễ ước tính khoảng hơn 200.000 người, trong đó có khá nhiều người dân tộc thiểu số trong trang phục đặc trưng.
Trong bài giảng, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, GP Thanh Hóa, nói:“Chưa một ai đã được tạc tượng tạo ảnh nhiều như Đức Maria. Ở Âu châu, không một ngôi làng nhỏ bé nào không có hình tượng Mẹ; trên thế giới, không một thành phố nào không có nhà nguyện hay linh đài tôn vinh Mẹ. Lời kinh được đọc nhiều nhất trên hành tinh, lời kinh chưa bao giờ ngừng nghỉ trong lịch sử Giáo hội, lời kinh của hàng tỉ người Công giáo, chính là lời chào chị thánh Isave dành cho Mẹ: ‘Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ’. Bài ca được hát nhiều nhất không phải là một bản tình ca lừng danh thế giới, nhưng đáng ngạc nhiên lại là bài ca Magnificat: ‘Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng’, mà tác giả chính là Đức Maria”.
ĐGM Giuse nói tiếp: “Đối với rất nhiều Kitô hữu Việt Nam, một ngày không có Kinh Kính Mừng không phải là một ngày đúng nghĩa, một ngày không có Kinh Lạy Nữ Vương là một ngày trơ vơ chênh vênh, một ngày không có Kinh Mân Côi là một ngày rời rạc không nhựa sống… Tắt một lời, một ngày không có Đức Maria đồng hành thì không phải là ngày”.
Với tâm tình đó, từ ngày Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn vào cuối thế kỷ 18 (có thể khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1789), hàng hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về La Vang càng ngày càng đông. Họ đã kêu cầu Đức Mẹ và đã được Đức Mẹ nhậm lời. ĐGM Giuse đặt vấn đề: “Những tấm bia tạ ơn dày đặc đàng kia phải chăng là bằng chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng?”.
Năm 1958, La Vang đã được chọn làm địa điểm tổ chức Ðại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của ÐHY Agagianian, Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo, đặc sứ của ĐGH Gioan XXIII (nay là chân phước). Và ngày 22-8-1961, ĐGH Gioan XXIII đã chính thức nâng nhà thờ La Vang lên bậc “Vương Cung Thánh Ðường”.
Cuối bài giảng, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh cầu nguyện: “Lạy Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ hãy viếng thăm để cứu chúng con khỏi hận thù thương đau. Ước gì hôm nay, tại linh địa này, viên đá đầu tiên chúng con đặt xuống cũng là viên đá yêu thương, khởi đầu một tương lai yên ấm thuận hòa cho quê hương đất nước thân yêu chúng con. Amen”.
Khi ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh đang giảng, bỗng dưng giáo dân hướng mắt nhìn lên trời và vỗ tay, khiến ngài phải ngưng bài giảng để ổn định cộng đoàn. Đó là một hiện tượng lạ: Mặt trời xoay với đám mây hồng. Điều này có thể nhắc chúng ta nhớ tới “trời mới, đất mới” mà Thánh Gioan Tông đồ nói trong sách Khải huyền (Kh 21:1). Tuy nhiên, nên lưu ý rằng Giáo hội luôn cẩn trọng về các “sự kiện lạ”. Người ta thường cho rằng ai “thấy” thì người đó tốt lành, còn người “không thấy” thì là người “có vấn đề”. Thật ra người ta rất dễ “ảo tưởng” theo kiểu “đạo đức bình dân”. Nên nhớ rằng việc thấy hiện tượng lạ mà chúng ta nói là phép lạ luôn có điểm đặc biệt: Người thấy “sự kiện lạ” hoặc “phép lạ” đều cương quyết thay đổi cách sống, nghĩa là sống thánh thiện hơn. Nếu không thì chỉ là ảo giác, là ngộ nhận, hoặc là cuồng tín (mà cuồng tín là phi tôn giáo), vì bất kỳ phép lạ nào xảy ra cũng đều có mục đích rõ ràng chứ không “xảy ra cho… vui”. Đừng bao giờ quên điều này: “Đức tin quan trọng hơn phép lạ”.
Nếu được hỏi “yêu thương là gì” thì chắc rằng ai cũng khả dĩ trả lời một cách tương đối. Nhưng đó chỉ là “định nghĩa”. Yêu thương theo Chúa Giêsu dạy là “yêu người NHƯ chính mình” (chứ Chúa không bắt “thương người HƠN mình), là “thương xót nhau”. Muốn “thương xót nhau” thì phải “từ bỏ chính mình” và “vác thập giá theo Chúa” (x. Mt 10:37-39; Lc 9:23; Lc 14:26-27). Nếu chưa biết sống “mình vì mọi người” (từ bỏ mình) thì chưa “vác thập giá”, mà chưa “vác thập giá” thì chưa yêu thương, nghĩa là chưa thực thi “luật yêu” của Chúa Giêsu.
Hệ lụy này dẫn tới hệ lụy khác. Mừng lễ Đức Mẹ lên trời là chúng ta hy vọng được lên trời: “Xin cho con được thưởng cùng Mẹ trên Nước Thiên Đàng” (thứ 5, mùa Mừng). Làm sao được thưởng khi chưa yêu thương đúng ý Đức Kitô? Thế thì không thể lên trời. Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất lô-gích. Yêu thương không chỉ là “định nghĩa” hoặc “nói suông”. Chữ “thương xót” rất hay: “Thương” thì phải “thương” làm sao mà thấy “xót” thì mới là “thương” thật, chỉ cảm thấy “thương” mà chưa thấy “xót” thì chưa phải là “thương”.
Tưởng cũng cần nói thêm: Đứng trước tôi là một phụ nữ trung niên, phụ nữ này vừa tham dự thánh lễ vừa lần hạt. Lần chuỗi Mân Côi là việc cần thiết và tốt lành, nhưng lần chuỗi trong thánh lễ thì lại “không đúng nơi, không đúng lúc”. Nhiều người vẫn thường có “thói quen” này, thiết nghĩ phụ nữ này “nhắc nhở” chúng ta nên “xem lại” cách sùng kính của mình. Không chỉ vừa dự lễ vừa lần chuỗi, phụ nữ kia còn ngước nhìn trời mà miệng vẫn “máy môi”, đặc biệt hơn là còn sử dụng điện thoại liên tục. Chắc chắn cách cầu nguyện và cách làm việc đạo đức như vậy là không hợp lý!
Thánh lễ kéo dài khoảng 90 phút. Sau đó là nghi thức làm phép diện tích đất xây dựng Vương cung Thánh đường Đức Mẹ La Vang. Thật ấn tượng với nghi thức thả bay 27 bức phướn biểu hiện cho 26 giáo phận của Giáo hội Việt Nam và cộng đồng người Việt hải ngoại. Mỗi Giáo tỉnh được biểu hiện một màu khác nhau: màu hồng cho TGP Hà Nội, màu đỏ cho TGP Huế và màu vàng cho TGP Saigon, đặc biệt là một chuỗi Mân Côi lớn được kết từ những chiếc bong bóng và được thả bay lên bầu trời La Vang.
Sau khi chết, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa và Con Yêu Dấu của Đức Mẹ, đã phục sinh khải hoàn và về ngự bên hữu Chúa Cha, đó là cách Thiên Chúa muốn củng cố đức tin để chúng ta can đảm sống “vượt qua chính mình” và vượt qua mọi nghịch cảnh. Việc Đức Mẹ mông triệu, nói bình dân là Đức Mẹ lên trời, là tái xác tín rằng chúng ta chắc chắn cũng sẽ lên trời – nhưng với điều kiện là phải sống theo lời khuyên Phúc Âm. Đó là điều chắc chắn, không thể tự biện hộ theo bất kỳ lý do nào khác!
Được đặt chân tới linh địa La Vang là “điều may mắn”, là hồng ân, nhưng cũng là một trách nhiệm. Đó là bổn phận cầu nguyện cho những người khác, những người không “may mắn” được đến La Vang, những người không có điều kiện để hành hương về La Vang. Biết nhiều thì khổ nhiều vì trách nhiệm nhiều, biết nhiều là nợ nhiều. Nợ Thiên Chúa và nợ tha nhân. Đó là “nợ tình” và “nợ máu”. Nợ tình với Thiên Chúa và với tha nhân, nợ máu với Đại sư phụ Giêsu!
Ai được đặt chân tới đất La Vang còn mắc một món nợ nữa là nợ Đức Mẹ. Tại sao? Đức Mẹ luôn yêu thương những người kém may mắn thì chúng ta cũng phải noi gương yêu thương của Đức Mẹ. Yêu thương là thương xót. Yêu thương phải được qua ánh mắt, thái độ, cử chỉ, hành động, lời nói và lời cầu nguyện. Dọc đường đi về La Vang có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, nhiều cao tầng, nhiều khu dân cư sầm uất, nhưng vẫn còn nhiều khu dân cư nghèo lắm… Nhưng nhìn tổng thể thì thấy dân Việt Nam còn nghèo khó quá, mà NGHÈO thì luôn kèm theo KHỔ. Chúng ta đang mắc nợ người nghèo: “Không cho kẻ nghèo được chia sẻ của cải thuộc về họ là ăn cắp, là cướp lấy mạng sống của họ. Của cải chúng ta đang nắm giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của họ” (Thánh Gioan Kim khẩu). Đó là công bằng, là công lý! Mà khi nào có công lý thì mới có hòa bình đích thực.
Không ai lại không mắc món nợ yêu thương. Đó là món nợ lớn nhất mà chúng ta phải trả cả đời. Quả thật, ai trả xong món nợ này mới “được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng” vậy!
Lạy Chúa, xin thương xót và tha thứ những động thái mà chúng con đã thể hiện không đúng Ý Ngài, đồng thời xin giúp chúng con can đảm sống trọn Luật Yêu của Ngài. Lạy Mẹ Maria, xin thương xót và chúc lành cho những người không đủ điều kiện đến linh địa La Vang để tâm sự và bày tỏ nỗi lòng với Mẹ, vì họ nghèo lắm. Mẹ ơi! Xin giúp chúng con biết mau mắn “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh và kiên tâm theo bước Anh Hai Giêsu, Con Mẹ, để xứng đáng cùng lên trời và đồng hưởng thiên phúc với Mẹ muôn đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU
(1) Theo truyền thuyết, dưới thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn có chính sách chống đạo Công giáo. Để tránh sự trừng phạt của nhà Tây Sơn, nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất này. Đây là khu vực đồi núi hẻo lánh nên để liên lạc với nhau được thì họ phải “la” lớn, mà “la” lớn thì “vang”. Thế là có tên La Vang.
Một truyền thuyết tương tự về chữ La Vang có từ đặc tính của âm thanh chuyển thành địa danh, người ta nói rằng nơi chốn rừng rú này xưa kia có nhiều cọp beo hại người. Do đó, những người đi rừng nếu ở lại đêm thường phải chia phiên nhau thức canh, thấy động thì “la vang” lên để mọi người đến tiếp cứu.
Cách giải thích khác là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc đó Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn họ đi tìm một loại lá gọi là “lá vằng” – uống vào sẽ khỏi bệnh. Viết “lá vằng” không dấu thành La Vang.
Truyền thuyết khác cho là địa danh “phường Lá Vắng” đã có từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát, về sau là tỉnh Quảng Trị, cách 4 cây số, và cách Phú Xuân (Kinh đô Huế) 58 km về phía Bắc.
Đền thờ La Vang được xây dựng năm 1925, hoàn tất dịp Đại hội La Vang IX (1928).
Ngài bước vào ngành ngoại giao Tòa Thánh từ ngày 13-7-1987 và làm việc trong các cơ quan ngoại giao của Tòa Thánh tại Cameroon và New Zealand, Phòng Nội vụ Quốc vụ Khanh, và Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, rồi được phong hàm tham tán viên tại đây.
Ngày 13-4–2006, ĐGH Bênêđictô XVI bổ nhiệm ngài làm Sứ thần Tòa Thánh tại Indonesia, hiệu tòa Capreae, được tấn phong giám mục ngày 17-6-2006 do Hồng y Angelo Sodano chủ phong, được kiêm nhiệm Sứ thần Tòa Thánh tại Đông Timor ngày 10-10-2006.
Đến ngày 13-1–2011, TGM Girelli rời nhiệm tại Indonesia và Đông Timor vì được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei, kiêm đại diện không thường trú tại Việt Nam. TGM Girelli là vị đại diện đầu tiên của Tòa Thánh được bổ nhiệm phụ trách Việt Nam từ sau năm 1975.
Ngày 18-6-2011, ngài tiếp tục được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sau đó không lâu, ngài được nâng từ chức vị Khâm sứ lên chức Sứ thần tại Malaysia khi Tòa Thánh và quốc gia này thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ từ ngày 27-7-2011.
Ngày còn bé, tôi nhớ trò chơi con nít mà chúng tôi vẫn thường chơi khi có thể. Trò chơi ấy có 2 người đứng nắm tay và giơ cao làm như cái cổng và một đám con nít dắt díu nhau chui qua cái cổng, vừa đi vừa hát :
Thiên đàng địa ngục hai bên,
Ai khôn thì lại, ai dại thì qua.
Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha,
Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn.
Linh hồn phải giữ linh hồn,
Đến khi mình chết được lên thiên đàng.
Từ bé, tâm thức thiên đàng được gợi lên. Có lẽ ông bà cha mẹ ước ao được lên thiên đàng nên đã gửi gắm tâm tình lên thiên đàng ngay tron trò chơi con nít. Muốn lên thiên đàng thì phải nhớ Chúa nhớ Cha, đọc kinh cầu nguyện và giữ linh hồn.
Thiên đàng là gì ?
Theo giáo lý Công giáo, thiên đàng là nơi ngự trị của Thiên Chúa, Đức Mẹ, các thiên sứ, và các thánh.Theo giáo lý Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, Mẹ Đồng trinh “sau khi hoàn tất công việc của Mẹ trên đất, hồn và xác được đem vào thiên đàng vinh hiển”, điều này ngụ ý thiên đàng là nơi ở cho cả phần hồn lẫn phần xác.
Giáo huấn Công giáo về thiên đàng được trình bày trong Giáo lý của Giáo hội Công giáo: “Những ai chết trong ân điển và tình bằng hữu của Thiên Chúa được thanh tẩy hoàn toàn và sống đời đời… Sự sống trọn vẹn này với Thiên Chúa… được gọi là thiên đàng. Đó là mục tiêu tối hậu và là sự ứng nghiệm đầy trọn những khao khát sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng phước hạnh tuyệt đối và vĩnh hằng.”
Thiên đàng là nơi chốn dành cho những ai đã được thanh tẩy, người chết trong tội lỗi không được phép vào. “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ “nhìn thấy Ngài” mặt đối mặt.” (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1023) “Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa.” (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1054).
Chưa ai lên Thiên Đàng rồi trở về thế giới này kể chuyện cho mọi người nghe về cuộc sống mới của họ cả. Có người thao thức, suy tư và đưa ra một vài cảm nhận và suy đoán cuả mình về Thiên Đàng. Họ nói ở Thiên Đàng mọi người đều hạnh phúc vì được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa Tình Yêu. Ngày đêm họ ngợi ca, chúc tụng, và chiêm ngưỡng thánh nhan của Người.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Mẹ về Trời. Mẹ về Trời cả hồn lẫn xác như đặc ân mà Thiên Chúa trao ban và chúng ta cùng xác tín.
Sách Khải Huyền cho ta thấy hình ảnh người nữ : Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ. Và có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét, động đất và mưa đá lớn. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.
Người nữ trong Khải Huyền mà chúng ta vừa thấy đó chính là hình ảnh của Mẹ Maria, Mẹ đã được Thiên Chúa cho được hưởng ngai của Ngài. Chúng ta thấy đó, trước khi được hưởng Ngai của Thiên Chúa, người phụ nữ hay nói đúng hơn là Đức Trinh Nữ Maria đã phải chiến đấu với sự dữ và sự ác. Dẫu đối diện với sự dữ và sự ác, Mẹ Maria vẫn tin tưởng, vẫn phó thác cuộc đời của mình trong bàn tay Thiên Chúa với niềm hân hoan.
Mẹ vừa xác tín niềm hân hoan của Mẹ khi Mẹ gặp người chị họ :
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”
Lời kinh Manificat mà chúng ta đã nghe đi nghe lại quá nhiều lần chỉ muốn nói với chúng ta một tâm tình khiêm hạ và hết sức khiêm hạ của Mẹ Maria. Không chỉ hôm nay Mẹ mới nói nhưng ngày nhận lời truyền của sứ thần, Mẹ đã nói lên cả cuộc đời khiêm hạ của Mẹ bằng hai tiếng xin vâng. Hai tiếng xin vâng này Mẹ không chỉ thưa ở ngày truyền tin nhưng Mẹ xin vâng cho đến cùng dưới chân thập tự.
Quá tuyệt vời với lời xin vâng và ca tụng Thiên Chúa của Mẹ Maria.
Để có được lời xin vâng và ca tụng này phải nói rằng Mẹ Maria đã sống cuộc đời mình chìm đắm trong chiêm niệm và cầu nguyện. Nhờ đời sống chiêm niệm và cầu nguyện mà Mẹ đã nhận ra tất cả những gì mà Mẹ có đều là do ơn Chúa và ơn Chúa là đủ cho Mẹ. Tất cả của cải, vật chất và địa vị trần gian này chẳng là gì cả. Mẹ sống siêu thoát từng giây từng phút trong cuộc đời của Mẹ để rồi Mẹ được hưởng đặc ân ở trên Trời với Chúa.
Như cánh diều, càng nhẹ, càng mỏng thì mới có thể bay cao và bay bổng được. Nếu như con diều nặng thì khó có thể bay và cứ tà tà dưới thấp thôi.
Cuộc đời của chúng ta cũng thế thôi, mau qua chóng tàn và mong manh mỏng dòn. Điều đáng cười là chúng ta cứ ráng vun vén và ky cóp những gì mà chúng ta sẽ mất và không mang theo được những thứ mà chúng ta đã mất công vun vén.
Phải sống làm sao cho nhẹ nhàng thanh thản như Mẹ Maria và phải nhìn ra tất cả những gì mà chúng ta có đều là ơn Chúa để chúng ta khiêm nhường sâu thẳm thì ta mới được hưởng nhan Chúa như Mẹ. Mẹ đã sống một cuộc đời luôn luôn nhớ Chúa nhớ Cha, nhớ cầu nguyện như lời trong trò chơi dân gian mà hồi bé tôi đã chơi.
Bí quyết để lên thiên đàng phải chăng là luôn luôn nhớ Chúa nhớ Cha và cầu nguyện ?
Chỉ trong đời sống cầu nguyện và kết hiệp với Chúa để lòng nhẹ lòng với của cải thế gian. Có như thế chúng ta mới có thể được lên thiên đàng sau khi hoàn tất cõi tạm này.
Tháng 12-2003, Đức Mẹ xuất hiện trên bìa 3 tạp chí lớn của Tin lành với hơn 500.000 bản.
Các bài viết ở cả 3 tạp chí kia đều đồng ý rằng các tín đồ Tin lành đã không chú ý Đức Mẹ quá lâu, và đó là đỉnh điểm để các tín đồ Tin lành tái nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong đạo Tin lành. Thật vậy, càng ngày càng có nhiều người ngoài Công giáo bắt đầu phát hiện vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của mình.
Nhiều sách về Đức Mẹ đã được các học giả Tin lành viết, nhiều cuốn cổ vũ người Tin lành nhìn sát hơn vào Đức Mẹ. Nhiều câu chuyện về các Phật tử và những người ngoài Công giáo đã đến viếng Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Mặt khác, các tín đồ Hồi giáo cũng rất tôn trọng Đức Mẹ. Thật vậy, Đức Mẹ được nói đến nhiều lần trong kinh Koran, sách thánh của Hồi giáo, nhiều hơn cả trong Kinh thánh!
Đức Mẹ là chủ đề trong nhiều cuộc thảo luận đại kết (ecumenical discussions) – những cuộc thảo luận giữa các thần học gia Công giáo, các học giả Tin lành, Hồi giáo, và các tôn giáo khác với mục đích tìm ra những “điểm chung” giữa các tôn giáo. Tháng 6-2001, sau khi trở về từ hội nghị liên tôn được tổ chức tại Lộ Đức, ĐHY Francis Arinze, lúc đó là chủ tịch Hội đồng Đối thoại Liên tôn, nói rằng Đức Mẹ là khởi điểm để giới thiệu sứ điệp Kitô giáo cho các tín đồ của các tôn giáo khác. Các tham dự viên hội nghị này là các đại biểu Công giáo, Chính thống giáo, Anh giáo, Tin lành Lutheran và các thần học gia. ĐHY Arinze giải thích: “Chúng ta phải tạ ơn Chúa về ý nghĩa tích cực về Mẹ Maria đối với các tôn giáo khác”.
Đức Mẹ có vị trí nào trong các tôn giáo khác, nhất là trong Hồi giáo và Tin lành? Đức Mẹ có vị trí nào trong tương lai? Có cơ hội nào, dù xa, cho các tôn giáo lớn cùng kết hợp dưới áo Đức Mẹ?
Đức Mẹ và Hồi giáo
Nhiều người Công giáo không biết rằng Đức Mẹ rấ được các tín đồ Hồi giáo yêu mến và tôn kính. Đức Mẹ là phụ nữ duy nhất được nhắc tên 34 lần trong kinh Koran – hơn cả số lần trong Kinh thánh! Có cả một chương “Mẹ Maria” (Mariam), và được các tín đồ Hồi giáo diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh Koran. Chương III trong kinh Koran la chương Imran, theo tên của Thân phụ Đức Mẹ.
Kinh Koran nói về việc Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ Giêrusalem, về lễ tẩy trần, về cuộc truyền tin, về sự trinh thai và về việc sinh Chúa Giêsu. Đức Mẹ được Hồi giáo nhận biết và tôn kính là người được thánh hóa và cao trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo tâm linh:“Các thiên thần nói: ‘Lạy Mẹ Maria! Thiên Chúa đã chọn Mẹ và thanh tẩy Mẹ – chọn Mẹ hơn hẳn các phụ nữ ở mọi quốc gia. Lạy mẹ Maria! Xin thờ lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu nguyện) với những người cùng quỳ gối” (Koran 3:42-43).
Thật vậy, điều ngạc nhiên đối với nhiều người Công giáo là Hồi giáo chấp nhận “sự đồng trinh trọn đời” của Đức Mẹ, gián tiếp có nghĩa là Vô nhiễm Nguyên tội – hai tín điều chính về Đức Mẹ. Trong kinh Koran, Đức Mẹ được nhận biết là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ trước khi làm người, được giữ khỏi mọi tội suốt cả đời. Chúng ta đọc lời cầu nguyện của Đức Mẹ trong kinh Koran: “Lạy Chúa, con dấn thân phục vụ Ngài từ trong lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài lắng nghe và thấu suốt mọi sự”. Và khi Đức Mẹ sinh Chúa Con, Đức Mẹ nói: “Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của Người. Xin bảo vệ con và con cháu khỏi Satan… và xin Con Chúa chấp nhận con” (Koran 3:35-37).
Ở phần khác, kinh Koran nói: “Thiên thần nói: ‘Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn các phụ nữ khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho Thiên Chúa” (Koran 3: 42-43). Kinh Koran nói về sự đồng trinh của Đức Mẹ: “Đối với các tín hữu, Thiên Chúa thiết lập một tấm gương… Maria… người đã giữ mình đồng trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh Thần; Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh thánh, đồng thời rất đạo hạnh” (Koran 66:11-12).
Đức Mẹ và đạo Tin lành
“Đức Kitô có là người duy nhất được tôn thờ? Hoặc Mẹ Thiên Chúa không được tôn kính? Đây là phụ nữ đã đạp đầu con rắn. Hãy nghe chúng tôi. Vì Chúa Con không từ chối điều gì”.
Đó là câu nói của Martin Luther, nhà cải cách Tin lành hồi thế kỷ XVI, thành lập phong trào Tin lành và ly khai với Công giáo. Đó là câu nói trong bài giảng cuối cùng của Luther tại Wittenberg hồi tháng 1-1546, vài tháng trước khi ông qua đời. Điều đó cho thấy rằng ông Luther tôn sùng Đức Mẹ cả đời.
Càng ngày càng có nhiều học giả Tin lành xuất bản các phát hiện của họ về lòng sùng kính Đức Mẹ của những người thành lập đạo Tin lành – Martin Luther, John Calvin, và Ulrich Zwingli. Trong ba người này, Martin Luther là người sùng kính Đức Mẹ nhất và đức tin của họ vẫn phù hợp với giáo lý Công giáo – một tiếng kêu từ việc kết án gay gắt về những gì liên quan Đức Mẹ nơi nhiều người Tin lành chính thống (fundamentalist Protestants) và các Kitô hữu Tái sinh (Born Again Christians) ngày nay. Các tín đồ Tin lành đã bị bỏ lại phía sau về việc dạy rằng bất kỳ điều gì liên quan Đức Mẹ đều ngược với Tin lành, và bất cứ điều gì liên quan Đức Mẹ đều làm giảm việc tôn thờ Đức Kitô. Nhưng có bằng chứng đủ để nói rằng các nhà cải cách Tin lành không bao giờ có ý “chống Đức Mẹ” (anti-Marian).
Nhiều học giả Tin lành đồng ý rằng Martin Luther sùng kính Đức Mẹ cả đời, cũng như niềm tin của ông trong các giáo huấn chính yếu về Đức Mẹ. Thật vậy, Martin Luther tin mọi giáo lý về Đức Mẹ – Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, lên trời, và ngay cả việc vô nhiễm nguyên tội.
Chính Luther đã viết và tin Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội – 300 năm trước khi Giáo hội Công giáo chính thức tuyên bố tín điều này vào năm 1854! Đây là cách hiểu của Luther về Vô nhiễm Nguyên tội: “Nhưng quan niệm khác, nghĩa là sự truyền thụ của linh hồn, đó là điều được tin thích hợp và đạo đức, là không có tội, để khi linh hồn được truyền thụ, Đức Mẹ cũng được tẩy sạch khỏi tội nguyên tổ và được trang điểm bằng những Ơn Chúa để nhận linh hồn thánh thiện đã được truyền thụ. Và như vậy, trong chính lúc Đức Mẹ bắt đầu sống thì Đức Mẹ đã không nhiễm tội…”
Trong cuốn “Against the Roman Papacy: An Institution of the Devil” (Chống lại Giáo hoàng Rôma: Tổ chức của Ma quỷ), xuất bản năm 1545 (một năm trước khi qua đời), Luther đã nói tới“… Đức Maria đồng trinh, không nhiễm tội và không thể phạm tội mãi mãi”. Như vậy, ngay lúc bị coi là chống lại giáo hoàng, Luther vẫn không bào giờ lung lay niềm tin về vấn đề Vô nhiễm Nguyên tội của Đức Mẹ.
Một số học giả nổi bật của Tin lành cũng đồng ý rằng cả đời ông Luther vẫn tin Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội. Trong số các học giả đó là Arthur Carl Piepkorn, Eric Gritsch, Jaroslav Pelikan, kể cả 11 học giả theo Tin lành Lutheran thuộc Ủy ban Đối thoại Tin lành Lutheran và Công giáo (Lutheran-Catholic Dialogue Committee).
Về vấn đề Đức Mẹ lên trời cũng tương tự, tín điều được công bố trong thế kỷ XX, nhưng từ thế kỷ XVI, Luther đã tin là“tư tưởng đạo hạnh và vui lòng”. Về thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Luther viết: “Đức Mẹ được mời gọi không chỉ là Mẹ của nhân loại, mà còn là Mẹ Thiên Chúa… Chắc chắn Mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa thật”.
Về niềm tin cả đời ông Luther đối với sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ, ông viết: “Vấn đề đức tin là Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và vẫn đồng trinh”.
Khác với Martin Luther, John Calvin không khen Đức Mẹ như Martin Luther, dù ông không phủ nhận tầm quan trọng và sự nổi trội của Đức Mẹ trong lĩnh vực đức tin. Cũng như Martin Luther, John Calvin tin Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh: “Bà Elidabét gọi Maria là mẹ Thiên Chúa, vì sự duy nhất của con người có hai bản tính của Đức Kitô, Đức Mẹ có thể nói rằng con người hay chết được tạo nên trong cung lòng Đức Mẹ cũng là Thiên Chúa vĩnh hằng”.
Đây là một số tài liệu mà Calvin nói về Đức Mẹ:
– “Không thể phủ nhận việc Thiên Chúa đã chọn và tiền định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Ngôi Con, và được ban cho sự kính trọng cao nhất”.
– “Tới ngày nay, chúng ta không thể hưởng phúc lành nơi Đức Kitô nếu không nghĩ đồng thời Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sự cao trọng, theo ý của Đức Mẹ chấp nhận là Mẹ của Con Một Thiên Chúa”.
Tài liệu của Ulrich Zwingli:
– “Tôi đánh giá cao Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh và vô nhiễm nguyên tội”.
– “Thật thích hợp khi Chúa Con nên có một Người Mẹ Thánh”.
– “Loài người càng tôn thờ và yêu mến Chúa Kitô thì càng nên tôn kính và yêu mến Đức Mẹ”.
Do đó, sùng kính Đức Mẹ là phần cơ bản của Tin lành. Các Giáo hội Tin lành Lutheran vẫn giữ ảnh tượng Đức Mẹ, và thậm chí hạn chế sùng kính Đức Mẹ (như kinh Ave Maria và Magnificat), dù gần 100 năm sau khi Luther qua đời. Giáo hội Lutheran dạy đề cao Đức Mẹ đồng trinh là mẫu gương nhân đức của các Kitô hữu.
Việc sắp xếp các “yếu tố ẩn giấu” này về lòng sùng kính Đức Mẹ và tinh thần của những người sáng lập Tin lành có thể là lý do để mới đây có nhiều sách của Tin lành kêu gọi tái khám phá Đức Mẹ. Một học giả Tin lành còn “đi xa” hơn và nói rằng: “Đã đến lúc người Tin lành về nhà”.
Đức Mẹ đối với các quốc gia
Có thể ngày đó không bao giờ đến khi nhiều tôn giáo sẽ phá bỏ các rào chắn giáo lý kết hợp. Các bất đồng cơ bản về các giáo huấn chủ yếu sẽ có thể không bao giờ được vượt qua. Chẳng hạn, người Công giáo sẽ không bao giờ thỏa hiệp việc tin có Thiên tính của Chúa Giêsu Kitô, còn Hồi giáo sẽ không bao giờ nâng cao thân phận của Chúa Giêsu khỏi vị trí chỉ là một “tiên tri vĩ đại” của Thiên Chúa.
Nhưng có thể có một mẫu số chung giữa các tôn giáo để có thể là nền tảng của cuộc đối thoại lâu dài vào một ngày nào đó, để tạo sự kết hợp giữa các tôn giáo mà chúng ta thấy ngày nay. Đức Mẹ là Lady of All Nations (Đức Mẹ của mọi quốc gia).
Hồi giáo duy trì việc đánh giá cao và tuyên bố Đức Mẹ là người cao trọng nhất. Tin lành bắt đầu nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của họ. Thậm chí có người của các tôn giáo không độc thần như Phật giáo cũng đang coi Đức Mẹ là chứng cớ đã được các Phật tử tường trình tại Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Tại các hội nghị đại kết liên tôn, Đức Mẹ càng ngày càng là khởi điểm của việc đối thoại.
Đức Mẹ đã vượt qua mọi rào cản giáo lý, là ánh sáng soi vào nơi thâm sâu nhất và tối tăm nhất của bóng tối. Đức Mẹ là dấu hiệu của sự kết hợp, không bao giờ chia rẽ chúng ta.
Thật vậy, dù tôn giáo nào hoặc giáo phái nào, mọi người đều thấy dễ chấp nhận là Người Mẹ tốt nhất trong lịch sử (Best Mother in all history) – đạo hạnh nhất, kính sợ Chúa nhất, mạnh mẽ nhất, và sùng kính nhất.
Điều này chính xác vì “cương vị làm mẹ” của Đức Maria mà Mẹ có thể được gọi là “Mẹ của các dân tộc”, Người Mẹ đã được Đức Kitô trao ban cho nhân loại, khi Ngài bị treo trên Thập giá: “Đây là mẹ của con”(Ga 19:27).
Có lần ông Luther nói: “Việc tôn kính Đức Maria được khắc ghi sâu đậm trong trái tim con người”. Ý nghĩa của các từ ngữ mà ông Luther đã dùng rõ ràng: Trong sâu thẳm của mọi tâm hồn, dù tôn giáo nào hoặc dù dân tộc nào, đều được ghi khắc sự khao khát tự nhiên và tình yêu tự nhiên đối với Người Mẹ của các quốc gia, một ngày nào đó, nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, sẽ quy tụ mọi con cái dưới bóng Mẹ.