Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Ngày 8/12

Lm. Nguyễn Văn Trinh

Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.

Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.

Dù vậy chúng ta phải nắm vững :

1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.

2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.

Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.

Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.

Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Maria Thanh Mai gởi

Hướng về linh địa Fatima

Hướng về linh địa Fatima

 

Khi hiện ra tại Fatima (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ đã nhắn nhủ: “Hãy lần chuỗi Mân Côi
hằng ngày… Hãy cầu nguyện nhiều và dâng những hy sinh để cầu cho các tội nhân… Ta là Mẹ Mân Côi. Chỉ có Mẹ mới có thể giúp các con. …Cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ thắng”.

Tháng Mười lại về. Tháng Mười nhắc chúng ta nhớ lại lời khuyên của Đức Mẹ: Ăn
năn đền tội, tôn sùng Mẫu Tâm, siêng năng lần chuỗi Mân Côi.

Chữ Rosary (Chuỗi Mân Côi) nghĩa là “Triều thiên Hoa hồng” (Crown of Roses).
Đức Mẹ đã mặc khải cho một số người biết rằng mỗi lần đọc kinh Kính Mừng là dâng
cho Mẹ một đóa hồng tươi đẹp và lần xong một chuỗi Mân Côi là dâng cho Mẹ một
triều thiên hoa hồng.

Hoa hồng là hoa của các loài hoa, chuỗi Mân Côi là hoa hồng của mọi lòng sùng kính, do đó mà hoa hồng quan trọng nhất. Chuỗi Mân Côi được coi là lời cầu nguyện hoàn hảo vì trong đó có câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta. Qua chuỗi Mân Côi, chúng ta suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Đó là lời cầu nguyện khiêm nhường, khiêm nhường đến nỗi như Đức Mẹ. Đó là lời cầu nguyện chúng ta cùng đọc với Mẹ Thiên Chúa. Với kinh Kính Mừng, chúng ta mời Đức Mẹ cùng cầu nguyện cho chúng ta. Đức Mẹ luôn ban cho chúng ta những điều cần. Đức Mẹ nối kết lời cầu nguyện của Mẹ với lời cầu nguyện của chúng ta. Do đó lời cầu nguyện ấy hữu ích hơn bao giờ hết, vì điều Mẹ xin thì Mẹ đều nhận được, Chúa Giêsu không bao giờ từ chối Mẹ điều gì.

Trong mỗi lần hiện ra, Mẹ luôn mời gọi chúng ta lần chuỗi Mân Côi vì đó là vũ khí mạnh để chống lại ma quỷ, đem bình an thực sự đến cho chúng ta. Qua lời cầu nguyện cùng với Mẹ, chúng ta có thể nhận được tặng phẩm giá trị là biến đổi tâm hồn và hoán cải. Qua lời cầu nguyện hằng ngày, chúng ta xua đuổi nguy hiểm và ma quỷ xa chúng ta và quê hương chúng ta. Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện lặp đi lặp lại như hai người yêu nhau lặp lại nhiều lần với nhau: “Tôi yêu bạn”.

Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917 tại Fatima, Đức Mẹ dạy cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu các linh hồn cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn” (O my Jesus, forgive us our sins, save us from the fires of hell, and lead all souls to Heaven, especially those in most need of Your Mercy).

Phanxicô (Francisco) qua đời ngày 4-4-1919 và Giaxinta (Jacinta) qua đời ngày
20-2-1920. Trước khi giả từ cõi thế, Giaxinta cho biết một ít nhưng đó là những
câu quan trọng. Đây là những lời của Đức Mẹ:

Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì tội xác thịt hơn là vì các lý do khác. Những tội đó xúc phạm Chúa rất nặng. Nhiều cuộc hôn nhân không tốt, họ không làm vui lòng Chúa và không thuộc về Thiên Chúa. Các linh mục phải khiết tịnh, rất khiết tịnh. Họ không được bận rộn với bất cứ thứ gì khác ngoài việc quan tâm Giáo hội và các linh hồn. SỰ BẤT TUÂN CỦA CÁC LINH MỤC ĐỐI VỚI CÁC BỀ TRÊN VÀ ĐỨC  GIÁO HOÀNG LÀ RẤT LÀM MẤT LÒNG CHÚA. Đức Mẹ không thể ngăn cản bàn tay của Chúa Con khỏi trừng phạt thế giới vì nhiều tội trọng.

Hãy nói với mọi người rằng Thiên Chúa ban ân sủng qua Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ
Maria. Hãy bảo họ cầu xin ân sủng từ Mẹ, và Thánh Tâm Chúa Giêsu muốn được tôn
kính cùng với Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ Maria.

Luxia (Lucia) vào Dòng Tiểu muội Thánh Dorothy để học đọc và học viết, sau đó
vào Dòng Coimbra và ở đây cho đến cuối đời.

Ngày 10-12-1925, nữ tu Luxia được thấy Chúa Giêsu Hài Đồng và Đức Trinh Nữ
Maria trong phòng riêng ở tu viện. Đức Mẹ cho bà thấy Trái Tim Mẹ bị gai quấn
xung quanh, rồi Đức Mẹ nói với nữ tu Luxia:

Này con, hãy xem Trái Tim Mẹ bị gai nhọn quấn xung quanh, đó là những người vô
ơn đã đâm vào mỗi khi họ phỉ báng và vô ơn… Con hãy nói với mọi người thế
này:

1. Hãy xưng tội ngày thứ Bảy đầu tháng trong 5 tháng,

2. Rước lễ,

3. Lần chuỗi Mân Côi,

4. Và dành cho Mẹ 15 phút mà suy niệm về 15 Mầu nhiệm Mân Côi, với tâm tình đền
tội, Mẹ hứa giúp họ trong giờ lâm chung bằng những ơn cần thiết để được rỗi
linh hồn.

Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ nói: “Mẹ sẽ đến xin thánh hóa nước Nga”. Và Đức Mẹ đã làm điều đó vào ngày 13-6-1929, khi hiện ra với Luxia tại nhà nguyện Dòng Thánh Dorothy, thuộc thành phố Tuy. Luxia nói: “Con đã xin được phép của bề trên và linh mục giải tội cho làm Giờ Thánh từ 11 giờ trưa đến nửa đêm, vào các ngày thứ Năm và thứ
Sáu”.

Đức Mẹ nói với Luxia: “Thời giờ đã đến, điều mà Thiên Chúa yêu cầu Đức thánh
cha, cùng với các giám mục trên thế giới, là dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, hứa cứu nước Nga bằng cách này. Cũng có nhiều linh hồn mà công lý của Thiên Chúa kết án vì phạm tội xúc phạm đến Mẹ, và Mẹ đã đến yêu cầu đền tội: Hãy hy sinh vì ý này và hãy cầu nguyện”.

Ngày 13-10-1917, khi ba trẻ được bao quanh với khoảng 70.000 người dù trời mưa
như trút, Luxia hỏi Đức Mẹ: “Mẹ muốn gì ở con?”. Đức Mẹ trả lời: “Ta là Mẹ Mân
Côi. Mẹ muốn có một nhà nguyện tại đây để tôn kính Mẹ, và để mọi người cùng lần
chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chiến tranh sẽ chấm dứt. Chiến tranh hết thì các binh
sĩ sẽ trở về gia đình”. Luxia hỏi: “Con có thể xin Mẹ chữa lành và hoán cải,
được không Mẹ?”. Đức Mẹ nói: “Một số người thì được, một số người khác thì
không. Điều cần là họ phải xin lỗi vì tội của họ, họ đừng xúc phạm Thiên Chúa
nữa, vì họ đã xúc phạm quá nhiều”. Luxia hỏi: “Mẹ còn muốn gì khác ở con
không?”. Đức Mẹ nói: “Mẹ không muốn gì nữa”.

Những lời đối thoại thật giản dị và dễ thương, nhưng những lời đó như đang xoáy
vào tận đáy lòng chúng ta!

ĐGH Piô XI đã không dâng nước Nga như lời Đức Mẹ yêu cầu Luxia làm, nhưng ngài
đã dâng cả thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, cách riêng nhắc tới nước Nga.
ĐGH Piô XII đã làm điều tương tự vào năm 1942, và sau đó dâng hiến dân tộc Nga
vào năm 1952.

Ngày 13-5-1982, sau 1 năm bị ám sát tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 13-5-1981, cũng là dịp kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất tại Fatima, ĐGH Gioan Phaolô II đã tới linh địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ và gặp nữ tu Luxia (một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra). Ngài
tin mình sống sót nhờ sự can thiệp trực tiếp của  Đức Mẹ Vô nhiễm.

Ngày 16-10-2002, qua Tông thư Rosarium Virginis Mariae (nói về chuỗi Mân Côi),
ĐGH Gioan Phaolô II đã chính thức thêm 5 mầu nhiệm mới vào chuỗi Mân Côi: Mầu
nhiệm Sáng.

 

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ TheHolyRosary.org)

Tháng Mân Côi – 2012

Hình ảnh Đức Mẹ khóc ở khắp nơi trên thế giới

Hình ảnh Đức Mẹ khóc ở khắp nơi trên thế giới

Tác giả: Sưu tầm                         nguồn Thanhlinh.net

 

 

“Khiết Tâm Vô Nhiễm Nguyên Tội mà con đang chiêm ngưỡng này đã đổ ra rất nhiều nước mắt. Con hãy tôn vinh và an ủi Trái Tim Tân Khổ của Mẹ bằng việc suy phục Thánh Ý Cha và quảng đại chiến đấu chống lại cái tôi của con”. (trích Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu của Chúa Giêsu với Hồn Nhỏ).

 

Những hình ảnh Đức Mẹ khóc ở các nơi trên thế giới. Đây là những bản tường trình mà có những hiện tượng được Giáo hội công nhận cũng như chưa được cộng nhận. Thanhlinh.net đăng tải để tham khảo và dành sự phán quyết của Giám mục địa phương.


Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1972

Đức Mẹ khóc tại Equador 1906

Đức Mẹ khóc tại Pittsburght, USA 1973

Đức Mẹ khóc tại Ba Lan 2012

Đức Mẹ khóc tại Úc 2001

Đức Mẹ khóc tại Roma 1994

Đức Mẹ khóc tại Columbia

Đức Mẹ khóc tại Nga 1998

Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 1991

Đức Mẹ khóc tại Ontario 2010

Đức Mẹ khóc tại Massachusettes, USA 2004

Đức Mẹ khóc tại Virgina USA 1992

Đức Mẹ khóc tại Medjugorje 2011

Đức Mẹ khóc tại Ecuador 2004

Đức Mẹ khóc tại Romania 2003

Đức Mẹ khóc tại 1953

Đức Mẹ khóc tại New Orlearns 1980

Đức Mẹ khóc tại Bangladesh 2003

Đức Mẹ khóc tại New York USA 1972

Đức Mẹ khóc tại Canada 1984

Đức Mẹ khóc tại Ý 1953

Đức Mẹ khóc tại Tây Ninh Việt Nam
 

Đức Mẹ khóc tại Akita, Japan 1973

Đức Mẹ khóc tại La Salette, Pháp 1846

Đức Mẹ khóc tại Á Căn Đình 2011

Đức Mẹ khóc tại Georgia 2012

Đức Mẹ khóc tại Venezuela, 2003

Đức Mẹ khóc tại Illinois, USA 1994

Đức Mẹ khóc tại Phi Luật Tân 1992

Đức Mẹ khóc tại El Salvador 2008

Đức Mẹ khóc tại New York, USA 1984

Đức Mẹ khóc tại Damacus, Syria 1977

Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2007

Đức Mẹ khóc tại Los Angeles, USA 2009

Đức Mẹ khóc tại Rockingham Úc 2002

Đức Mẹ khóc tại Venezuela 2010

Đức Mẹ khóc tại Naju, Đại Hàn 1995

Đức Mẹ khóc tại Paraguay

Đức Mẹ khóc tại Hy Lạp 2003

Đức Mẹ khóc tại Ý 1992

Đức Mẹ khóc tại Ý 1972

Đức Mẹ khóc tại Ohio USA 2011

Đức Mẹ khóc tại Ukraine 2009

Đức Mẹ khóc tại Chí Lợi 2012
 

Đức Mẹ chảy máu tại Baton Rouge, New Orlearns 2012
 

 

Tháng Mân Côi

Tháng Mân Côi

TRẦM THIÊN THU

 

Hằng năm, Giáo hội Công giáo dành Tháng Mười để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa Minh thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong
việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.

Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.

Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Chân phước GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng
tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.

Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do
đó, thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.

Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày
5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.

Lm. William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống Chúng ta” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.

Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên”
. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng.

Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con hôm nay và mãi mãi. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối
nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).

Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

SINH NHẬT ĐỨC BÀ

SINH NHẬT ĐỨC BÀ

 

“Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói:

‘Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng,

Đức Chúa ở cùng bà.'”

(Lu-ca 1:28)

 

Kính mừng Sinh Nhật Đức Bà

Cuộc đời Thánh Mẫu thật là đẹp thay

Diệu huyền không mấy ai hay

Gia đình nghèo khó, rủi may phận người

Hôm nay ngày rất cao vời

Cõi trần nhờ Mẹ sáng ngời niềm vui

Xóa tan tuyệt vọng, tối thui

Khổ đau thần chết đẩy lui hoàn toàn

Giê-su nhập thể huy hoàng

Đêm đông thiên sứ từng đoàn hát ca

Hồng ân kỷ niệm thiết tha

Ma-ri-a hỡi, bao la cửu trùng

Ngôi Hai Cứu-Chúa ở cùng

Phàm nhân hạnh phúc, khắp vùng hân hoan!

 

* Nguyễn Sông Núi

 

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX,

Sinh Nhật Trinh Nữ Maria, Sept. 9, 2012)

 

 

Đức Maria trong các tôn giáo khác

Đức Maria trong các tôn giáo khác

 

Tháng 12-2003, Đức Mẹ xuất hiện trên bìa 3 tạp chí lớn của Tin lành với hơn 500.000 bản.

Các bài viết ở cả 3 tạp chí kia đều đồng ý rằng các tín đồ Tin lành đã không chú ý Đức Mẹ quá lâu, và đó là đỉnh điểm để các tín đồ Tin lành tái nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong đạo Tin lành. Thật vậy, càng ngày càng có nhiều người ngoài Công giáo bắt đầu phát hiện vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của mình.

Nhiều sách về Đức Mẹ đã được các học giả Tin lành viết, nhiều cuốn cổ vũ người Tin lành nhìn sát hơn vào Đức Mẹ. Nhiều câu chuyện về các Phật tử và những người ngoài Công giáo đã đến viếng Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Mặt khác, các tín đồ Hồi giáo cũng rất tôn trọng Đức Mẹ. Thật vậy, Đức Mẹ được nói đến nhiều lần trong kinh Koran, sách thánh của Hồi giáo, nhiều hơn cả trong Kinh thánh!

Đức Mẹ là chủ đề trong nhiều cuộc thảo luận đại kết (ecumenical discussions) – những cuộc thảo luận giữa các thần học gia Công giáo, các học giả Tin lành, Hồi giáo, và các tôn giáo khác với mục đích tìm ra những “điểm chung” giữa các tôn giáo. Tháng 6-2001, sau khi trở về từ hội nghị liên tôn được tổ chức tại Lộ Đức, ĐHY Francis Arinze, lúc đó là chủ tịch Hội đồng Đối thoại Liên tôn, nói rằng Đức Mẹ là khởi điểm để giới thiệu sứ điệp Kitô giáo cho các tín đồ của các tôn giáo khác. Các tham dự viên hội nghị này là các đại biểu Công giáo, Chính thống giáo, Anh giáo, Tin lành Lutheran và các thần học gia. ĐHY Arinze giải thích: “Chúng ta phải tạ ơn Chúa về ý nghĩa tích cực về Mẹ Maria đối với các tôn giáo khác”.

Đức Mẹ có vị trí nào trong các tôn giáo khác, nhất là trong Hồi giáo và Tin lành? Đức Mẹ có vị trí nào trong tương lai? Có cơ hội nào, dù xa, cho các tôn giáo lớn cùng kết hợp dưới áo Đức Mẹ?

 

 

Đức Mẹ và Hồi giáo

Nhiều người Công giáo không biết rằng Đức Mẹ rấ được các tín đồ Hồi giáo yêu mến và tôn kính. Đức Mẹ là phụ nữ duy nhất được nhắc tên 34 lần trong kinh Koran – hơn cả số lần trong Kinh thánh! Có cả một chương “Mẹ Maria” (Mariam), và được các tín đồ Hồi giáo diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh Koran. Chương III trong kinh Koran la chương Imran, theo tên của Thân phụ Đức Mẹ.

Kinh Koran nói về việc Đức Mẹ dâng mình trong Đền thờ Giêrusalem, về lễ tẩy trần, về cuộc truyền tin, về sự trinh thai và về việc sinh Chúa Giêsu. Đức Mẹ được Hồi giáo nhận biết và tôn kính là người được thánh hóa và cao trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo tâm linh:“Các thiên thần nói: ‘Lạy Mẹ Maria! Thiên Chúa đã chọn Mẹ và thanh tẩy Mẹ – chọn Mẹ hơn hẳn các phụ nữ ở mọi quốc gia. Lạy mẹ Maria! Xin thờ lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu nguyện) với những người cùng quỳ gối” (Koran 3:42-43).

Thật vậy, điều ngạc nhiên đối với nhiều người Công giáo là Hồi giáo chấp nhận “sự đồng trinh trọn đời” của Đức Mẹ, gián tiếp có nghĩa là Vô nhiễm Nguyên tội – hai tín điều chính về Đức Mẹ. Trong kinh Koran, Đức Mẹ được nhận biết là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ trước khi làm người, được giữ khỏi mọi tội suốt cả đời. Chúng ta đọc lời cầu nguyện của Đức Mẹ trong kinh Koran: “Lạy Chúa, con dấn thân phục vụ Ngài từ trong lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài lắng nghe và thấu suốt mọi sự”. Và khi Đức Mẹ sinh Chúa Con, Đức Mẹ nói: “Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của Người. Xin bảo vệ con và con cháu khỏi Satan… và xin Con Chúa chấp nhận con” (Koran 3:35-37).

Ở phần khác, kinh Koran nói: “Thiên thần nói: ‘Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn các phụ nữ khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho Thiên Chúa” (Koran 3: 42-43). Kinh Koran nói về sự đồng trinh của Đức Mẹ: “Đối với các tín hữu, Thiên Chúa thiết lập một tấm gương… Maria… người đã giữ mình đồng trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh Thần; Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh thánh, đồng thời rất đạo hạnh” (Koran 66:11-12).

Đức Mẹ và đạo Tin lành

“Đức Kitô có là người duy nhất được tôn thờ? Hoặc Mẹ Thiên Chúa không được tôn kính? Đây là phụ nữ đã đạp đầu con rắn. Hãy nghe chúng tôi. Vì Chúa Con không từ chối điều gì”.

Đó là câu nói của Martin Luther, nhà cải cách Tin lành hồi thế kỷ XVI, thành lập phong trào Tin lành và ly khai với Công giáo. Đó là câu nói trong bài giảng cuối cùng của Luther tại Wittenberg hồi tháng 1-1546, vài tháng trước khi ông qua đời. Điều đó cho thấy rằng ông Luther tôn sùng Đức Mẹ cả đời.

Càng ngày càng có nhiều học giả Tin lành xuất bản các phát hiện của họ về lòng sùng kính Đức Mẹ của những người thành lập đạo Tin lành – Martin Luther, John Calvin, và Ulrich Zwingli. Trong ba người này, Martin Luther là người sùng kính Đức Mẹ nhất và đức tin của họ vẫn phù hợp với giáo lý Công giáo – một tiếng kêu từ việc kết án gay gắt về những gì liên quan Đức Mẹ nơi nhiều người Tin lành chính thống (fundamentalist Protestants) và các Kitô hữu Tái sinh (Born Again Christians) ngày nay. Các tín đồ Tin lành đã bị bỏ lại phía sau về việc dạy rằng bất kỳ điều gì liên quan Đức Mẹ đều ngược với Tin lành, và bất cứ điều gì liên quan Đức Mẹ đều làm giảm việc tôn thờ Đức Kitô. Nhưng có bằng chứng đủ để nói rằng các nhà cải cách Tin lành không bao giờ có ý “chống Đức Mẹ” (anti-Marian).

Nhiều học giả Tin lành đồng ý rằng Martin Luther sùng kính Đức Mẹ cả đời, cũng như niềm tin của ông trong các giáo huấn chính yếu về Đức Mẹ. Thật vậy, Martin Luther tin mọi giáo lý về Đức Mẹ – Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, lên trời, và ngay cả việc vô nhiễm nguyên tội.

Chính Luther đã viết và tin Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội – 300 năm trước khi Giáo hội Công giáo chính thức tuyên bố tín điều này vào năm 1854! Đây là cách hiểu của Luther về Vô nhiễm Nguyên tội: “Nhưng quan niệm khác, nghĩa là sự truyền thụ của linh hồn, đó là điều được tin thích hợp và đạo đức, là không có tội, để khi linh hồn được truyền thụ, Đức Mẹ cũng được tẩy sạch khỏi tội nguyên tổ và được trang điểm bằng những Ơn Chúa để nhận linh hồn thánh thiện đã được truyền thụ. Và như vậy, trong chính lúc Đức Mẹ bắt đầu sống thì Đức Mẹ đã không nhiễm tội…”

Trong cuốn “Against the Roman Papacy: An Institution of the Devil” (Chống lại Giáo hoàng Rôma: Tổ chức của Ma quỷ), xuất bản năm 1545 (một năm trước khi qua đời), Luther đã nói tới“… Đức Maria đồng trinh, không nhiễm tội và không thể phạm tội mãi mãi”. Như vậy, ngay lúc bị coi là chống lại giáo hoàng, Luther vẫn không bào giờ lung lay niềm tin về vấn đề Vô nhiễm Nguyên tội của Đức Mẹ.

Một số học giả nổi bật của Tin lành cũng đồng ý rằng cả đời ông Luther vẫn tin Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội. Trong số các học giả đó là Arthur Carl Piepkorn, Eric Gritsch, Jaroslav Pelikan, kể cả 11 học giả theo Tin lành Lutheran thuộc Ủy ban Đối thoại Tin lành Lutheran và Công giáo (Lutheran-Catholic Dialogue Committee).

Về vấn đề Đức Mẹ lên trời cũng tương tự, tín điều được công bố trong thế kỷ XX, nhưng từ thế kỷ XVI, Luther đã tin là“tư tưởng đạo hạnh và vui lòng”. Về thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Luther viết: “Đức Mẹ được mời gọi không chỉ là Mẹ của nhân loại, mà còn là Mẹ Thiên Chúa… Chắc chắn Mẹ Maria là Mẹ của Thiên Chúa thật”.

Về niềm tin cả đời ông Luther đối với sự đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ, ông viết: “Vấn đề đức tin là Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và vẫn đồng trinh”.

Khác với Martin Luther, John Calvin không khen Đức Mẹ như Martin Luther, dù ông không phủ nhận tầm quan trọng và sự nổi trội của Đức Mẹ trong lĩnh vực đức tin. Cũng như Martin Luther, John Calvin tin Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh: “Bà Elidabét gọi Maria là mẹ Thiên Chúa, vì sự duy nhất của con người có hai bản tính của Đức Kitô, Đức Mẹ có thể nói rằng con người hay chết được tạo nên trong cung lòng Đức Mẹ cũng là Thiên Chúa vĩnh hằng”.

Đây là một số tài liệu mà Calvin nói về Đức Mẹ:

– “Không thể phủ nhận việc Thiên Chúa đã chọn và tiền định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Ngôi Con, và được ban cho sự kính trọng cao nhất”.

– “Tới ngày nay, chúng ta không thể hưởng phúc lành nơi Đức Kitô nếu không nghĩ đồng thời Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sự cao trọng, theo ý của Đức Mẹ chấp nhận là Mẹ của Con Một Thiên Chúa”.

Tài liệu của Ulrich Zwingli:

– “Tôi đánh giá cao Mẹ Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh và vô nhiễm nguyên tội”.

– “Thật thích hợp khi Chúa Con nên có một Người Mẹ Thánh”.

– “Loài người càng tôn thờ và yêu mến Chúa Kitô thì càng nên tôn kính và yêu mến Đức Mẹ”.

Do đó, sùng kính Đức Mẹ là phần cơ bản của Tin lành. Các Giáo hội Tin lành Lutheran vẫn giữ ảnh tượng Đức Mẹ, và thậm chí hạn chế sùng kính Đức Mẹ (như kinh Ave Maria và Magnificat), dù gần 100 năm sau khi Luther qua đời. Giáo hội Lutheran dạy đề cao Đức Mẹ đồng trinh là mẫu gương nhân đức của các Kitô hữu.

Việc sắp xếp các “yếu tố ẩn giấu” này về lòng sùng kính Đức Mẹ và tinh thần của những người sáng lập Tin lành có thể là lý do để mới đây có nhiều sách của Tin lành kêu gọi tái khám phá Đức Mẹ. Một học giả Tin lành còn “đi xa” hơn và nói rằng: “Đã đến lúc người Tin lành về nhà.

 

 

Đức Mẹ đối với các quốc gia

Có thể ngày đó không bao giờ đến khi nhiều tôn giáo sẽ phá bỏ các rào chắn giáo lý kết hợp. Các bất đồng cơ bản về các giáo huấn chủ yếu sẽ có thể không bao giờ được vượt qua. Chẳng hạn, người Công giáo sẽ không bao giờ thỏa hiệp việc tin có Thiên tính của Chúa Giêsu Kitô, còn Hồi giáo sẽ không bao giờ nâng cao thân phận của Chúa Giêsu khỏi vị trí chỉ là một “tiên tri vĩ đại” của Thiên Chúa.

Nhưng có thể có một mẫu số chung giữa các tôn giáo để có thể là nền tảng của cuộc đối thoại lâu dài vào một ngày nào đó, để tạo sự kết hợp giữa các tôn giáo mà chúng ta thấy ngày nay. Đức Mẹ là Lady of All Nations (Đức Mẹ của mọi quốc gia).

Hồi giáo duy trì việc đánh giá cao và tuyên bố Đức Mẹ là người cao trọng nhất. Tin lành bắt đầu nhận biết vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của họ. Thậm chí có người của các tôn giáo không độc thần như Phật giáo cũng đang coi Đức Mẹ là chứng cớ đã được các Phật tử tường trình tại Đền Đức Mẹ Lộ Đức. Tại các hội nghị đại kết liên tôn, Đức Mẹ càng ngày càng là khởi điểm của việc đối thoại.

Đức Mẹ đã vượt qua mọi rào cản giáo lý, là ánh sáng soi vào nơi thâm sâu nhất và tối tăm nhất của bóng tối. Đức Mẹ là dấu hiệu của sự kết hợp, không bao giờ chia rẽ chúng ta.

Thật vậy, dù tôn giáo nào hoặc giáo phái nào, mọi người đều thấy dễ chấp nhận là Người Mẹ tốt nhất trong lịch sử (Best Mother in all history) – đạo hạnh nhất, kính sợ Chúa nhất, mạnh mẽ nhất, và sùng kính nhất.

Điều này chính xác vì “cương vị làm mẹ” của Đức Maria mà Mẹ có thể được gọi là “Mẹ của các dân tộc”, Người Mẹ đã được Đức Kitô trao ban cho nhân loại, khi Ngài bị treo trên Thập giá: “Đây là mẹ của con”(Ga 19:27).

Có lần ông Luther nói: “Việc tôn kính Đức Maria được khắc ghi sâu đậm trong trái tim con người”. Ý nghĩa của các từ ngữ mà ông Luther đã dùng rõ ràng: Trong sâu thẳm của mọi tâm hồn, dù tôn giáo nào hoặc dù dân tộc nào, đều được ghi khắc sự khao khát tự nhiên và tình yêu tự nhiên đối với Người Mẹ của các quốc gia, một ngày nào đó, nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, sẽ quy tụ mọi con cái dưới bóng Mẹ.

TRẦM THIÊN THU 

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

Chân dung Mẹ Maria

Chân dung Mẹ Maria

                                                               Lm Jos Tạ duy Tuyền

                                                                                             Sáng 14/08/12

VRNs (14.08.2012) – Đồng Nai – Văn chương Việt Nam thường diễn tả hình ảnh về người mẹ thật mộc mạc chất phác, đơn sơ và giản dị. Người mẹ Việt Nam luôn gắn bó với ruộng rẫy nương dâu, nơi đồng chua nước mặn, ăn mặc giản dị nâu sồng, không phấn sáp xa hoa, mà tâm hồn hiền hòa, đôn hậu. Những bà mẹ sống cuộc đời bình lặng như mặt nước hồ thu, nhưng vẫn giữ tiết kiên trung, cao cả. Chính những bà mẹ ấy đã đem những giọt mồ hôi tưới mát ruộng đồng, làm đẹp cuộc đời và đẹp cả quê hương:

Mẹ Việt Nam không son, không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm, tay bùn,
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng”.
(Phạm Duy, Trường ca Mẹ Việt Nam)

Hình ảnh của người mẹ Việt Nam thật cao đẹp, công ơn của mẹ đối với con thật bao la. Công ơn ấy đã được khắc ghi sâu đậm vào tâm não của con, bộc phát thành những lời ca, tiếng nhạc hết sức dạt dào:

“Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi…
Như đóa hoa không mặt trời
Như tuổi thơ không nụ cười
Như đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm.
Mẹ là dòng suối dịu hiền.
Mẹ là bài hát thần tiên,
Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.
Mẹ là lọn mía ngọt ngào,
mẹ là nải chuối, buồng cau,
Là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu,
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời”.

Vâng, khi nói về người mẹ trần thế chúng ta thường nói đến công lao trời bể, những hy sinh trải rộng suốt dọc dài cuộc đời của mẹ, thế nhưng, còn người Mẹ thiên quốc thì sao? Xem ra ít ai nhìn thấy những đắng cay mà Mẹ phải chịu trong đời, sau lần thưa xin vâng ấy! Chúng ta quá đề cao ân sủng của Chúa nơi Mẹ mà quên rằng: Mẹ chỉ được ơn phước đó nhờ đời sống luôn nở hoa yêu thương, hoa hy sinh, hoa khiêm nhường, hoa bác ái trong đời sống thường ngày của Mẹ, đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ “hằng đẹp lòng Thiên Chúa”.

Thực vậy, Mẹ hằng đẹp lòng Chúa qua cung lòng thanh khiết không vấn vương tội lỗi, rất xứng đáng nên cung điện cho Con Chúa Trời ngự trị

 Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi Mẹ từ bỏ con đường riêng của mình để thưa xin vâng cho ý Chúa được thực hiện.

Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ vội vã băng đồi lội suối, thăm viếng và phục vụ bà chị họ, sinh con trong lúc tuổi già.

Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi tiếp tục xin vâng trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực nhất: sinh con trong nghèo khó, chốn chạy qua Ai Cập, trở về Nagiaret với đôi tay tần tảo may vá thêu thùa.

Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ đồng công thưa xin vâng với thánh ý Chúa Cha qua cái chết Cứu độ của Chúa Giê-su con Mẹ.

Vâng, Mẹ Maria với tư cách là người mẹ trần thế, mẹ cũng trải qua những gian truân, vất vả để nuôi con khôn lớn như bao bà mẹ khác. Mẹ Maria cũng trải qua những tháng ngày tần tảo một nắng hai sương để gồng gánh gia đình đi qua những thăng trầm của dòng đời. Mẹ Maria còn đau khổ hơn bao bà mẹ khác vì con của Mẹ luôn phải đối đấu với nghi nan và nhất là không ai khổ bằng Mẹ, một người mẹ đau khổ phải ôm thân xác tả tơi, bất động của con yêu quý vào lòng với nỗi niềm xót xa, mà cha ông ta diễn tả rằng: “Lá vàng còn ở trên cây lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?”.

Hôm nay chúng ta chiêm ngắm Mẹ được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Đây là phần thưởng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ sau một  đời nỗ lực sống theo thánh ý Chúa. Đây là vinh quang mà Mẹ nhận lãnh sau hành trình dương thế luôn lắng nghe và thực thi thánh ý Chúa.

Mừng Mẹ về trời cũng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ trên con đường tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Mừng Mẹ về trời để giúp chúng ta hiểu rằng những khốn khó, gian truân đời này chẳng là gì so với hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phúc vì Mẹ luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và sống cho thánh ý Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con cũng tìm được cõi phúc như Mẹ khi buông mình trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và mau mắn thi hành thánh ý Chúa với trọn niềm mến yêu. Amen

Lm Jos Tạ duy Tuyền

 

Đức Mẹ đã được vinh danh tại Thế Vận Hội Luân Đôn 2012

Đức Mẹ đã được vinh danh tại Thế Vận Hội Luân Đôn 2012

                                                                          Nguyễn Long Thao

                                                                                                         8/11/2012


 

London, England, 10/08/ 2012. –

 Những ai có dịp theo dõi chương trình truyền hình của hệ thống NBC tại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 8 năm 2012 đều thấy cảnh nữ lực sĩ người Ethiopia, Meseret Defar, đã biểu lộ đức tin của mình ngay sau giây phút vượt qua lằn ranh cuối để chiếm huy chương vàng trong cuộc thi chạy 5000m tại Thế Vận Hội Mùa Hè 2012 tại Luân Đôn.

Khi được biết mình thắng huy chương vàng trong cuộc tranh tài Thế Vận Hội, các lực sĩ thường biểu lộ xúc động của mình bằng cách ôm mặt khóc. 

Nhưng nữ lực sĩ Meseret Defar đã biểu lộ cách khác. Nàng lấy hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để sẵn trong áo chạy đua, úp lên mặt mình, hôn hình Đức Mẹ. Nàng khóc với Đức Mẹ và thành khẩn cảm ơn Mẹ. Nàng đã đưa hình Đức Mẹ cho các ống kính truyền hình ghi hình Đức Mẹ như một cử chỉ vinh danh Mẹ Hằng Cứu Giúp

Nữ lực sĩ Meseret Defar là người Kitô Giáo, nàng đã phó thác cuộc tranh tài của mình vào quyền năng của Chúa. Khi Uỷ Ban Thế Vận Hội giới thiệu về nàng, ống kính truyền hình cho thấy nàng đeo ảnh Thánh Giá và trước khi chạy đua, nàng đã làm dấu Thánh Giá và thầm thĩ cầu nguyện.

Trước khi cuộc đua, nhà bình luận thể thao của hệ thống truyền hình NBC cho biết 3 vận động viên người Kenya và 2 tay đua khác người Ethiopia, nhất là cô Tirunesh Dibaba là đối thủ sừng sỏ nhất có nhiều cơ hội thắng huy chương vàng.Tuy nhiên, Cô Defar đã đoạt huy chương vàng trong cuộc chay đua 5000m với thành tích 15 phút 04 giây 24 sao (15:04:24). Huy chương Bạc về tay cô Vivian Cheruiyot người Kenya và huy chương đồng về tay cô Dibaba, người Ethiopia.

Tưởng cũng nên nói thêm về thành tích chạy đua của cô Defar: Cô đã hai lần vô địch thế giới trong môn chay đua 3000m. Ở cự ly 5000m, tại Hy Lạp năm 2004 cô đoạt huy chương vàng và ở Bắc Kinh năm 2008 cô đoạt huy chương đồng.

Vào năm 2006, ở cự ly 5000m, cô đã phá kỷ lục thế giới với thời lượng 14 phút 24 giây 53 sao

Nguyễn Long Thao

LÒNG TIN

 

                                    LÒNG TIN

                                                                                               Đaminh Nguyễn Ngọc Hiên

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

       Thứ bảy, ngày 7 tháng 7 năm 2012, một ngày nắng đẹp như bao ngày thứ bảy khác…

       Tôi đang lúi húi trong phòng áo Nhà thờ, có ba người hớt hơ hớt hải đến gặp tôi, nhìn hai người phụ nữ với một cháu gái khoảng chừng 14 tuổi, tôi đoán chừng có việc chi hệ trọng đây. Chị trẻ tuổi hơn rụt rè lên tiếng :

-Thưa Cha, tụi con muốn gặp Cha để trình bày một việc…

Tôi vội vàng đính chính:

-Thưa chị, chị nhầm rồi, tôi chỉ là người giúp việc trông coi Nhà thờ ở đây thôi, các chị có điều gì xin trình bày, tôi sẽ nói thưa lại với Cha vì các Ngài không có ở đây.

       Nhìn nét mặt vừa lo lắng vừa xa lạ của ba người, tôi mời họ ngồi vào bàn nước cạnh mái hiên Nhà thờ và họ kể câu chuyện như sau:

-Thưa chú, tụi con là người không có đạo, chị đây là Phật tử, vừa rồi con của con bị một thanh niên tên là Hiếu 17 tuổi, chết nhập vào nó- chị nói và chỉ vào bé gái. Cháu đưa nó đi khắp nơi để chạy chữa nhưng không hiệu quả, có người mách bảo đưa đến đài Đức Mẹ, chúng con vội vàng đưa cháu đi và Đức Mẹ đã chữa lành cho cháu, hồn anh thanh niên kia đã xuất khỏi con của cháu, trước khi ra khỏi anh ta cho biết anh là người Công giáo, linh hồn còn mắc tội nên chưa được siêu thoát, anh ta nhờ mọi người cầu nguyện cho anh ta…con nhờ chú nói với Cha xin Chúa tha thứ cho anh ta…

       Nói xong chị này xin một phong bì và bỏ tiền vào xin lễ rồi đưa cho tôi, tôi hỏi anh ấy có nói tên Thánh là gì không? Chị ta trả lời con sợ quá nên không dám hỏi gì,với lại con không phải là người trong đạo nên không biết.

       Tôi quay sang hỏi cháu gái, cháu có biết việc này như thế nào kể cho bác nghe, cháu lắc đầu và nói:con không biết gì hết, con bị bất tỉnh không biết bao lâu, sau đó tỉnh lại thấy mình đang đứng ở đài Đức Mẹ…tôi hỏi thêm cháu tên gì? học lớp mấy, trường nào?cháu trả lời rất mạch lạc.

       Tôi nhận giúp chị chiếc phong bì để chiều nay chuyển cho Cha dâng Thánh lễ cầu cho một linh hồn không biết tên Thánh, chỉ biết tên là Hiếu.

      Câu chuyện còn dài nhưng tôi tạm dừng ở đây,chợt nhớ trong tuần qua rất nhiều bài Phúc Âm nói về “Lòng tin”,nhất là lòng tin của viên Đại đội trưởng,của người đàn bà bị băng huyết…cả sự trừ quỷ của Chúa Giêsu…được Linh mục chia sẻ thật thấm thía…

      Rồi tôi ngẫm lại, nhiều người tin Chúa tin Mẹ nhưng không biết chạy đến cùng Mẹ, trái lại nhiều người bên ngoại kể tôi nghe hằng ngày, họ được ban ơn của ĐứcMẹ, của Thánh cả Giuse vì họ biết chạy đến kêu cầu với lòng xác tín chân thành xuất phát từ trong lòng họ…và họ vẫn thường lui tới với một bó hoa tươi, một nén hương tạ ơn bằng cách của họ.

     Còn những người Công giáo thì sao? Có người hỏi tôi: “Đài Đức Mẹ, đài Ông Thánh nào linh nhất để họ đến cầu xin”.Tôi chỉ cho họ:” Đấy! tại Giáo họ Giuse có cả hai nơi linh thiêng sao chị không không đến?”chợt nghĩ câu tục ngữ:” Bụt nhà không thiêng”…thiêng hay không do lòng tin được tín thác, bởi lẽ chúng ta chỉ có một Chúa, một Mẹ mà thôi.

     Thánh lễ chiều thứ bảy hôm nay sao thật ấm lòng khi nghe Cha chủ tế dâng lời cầu nguyện cho một linh hồn chỉ có tên thật ngoài đời, do một người ngoại đạo xin, tôi tự xét lại lòng mình, có mấy lúc mình nhớ đến các linh hồn của người thân mình, trừ ngày giỗ để xin lễ cho họ.Tối nay tôi sẽ đọc kinh cầu cho các linh hồn…

                                                                                  Đaminh Nguyễn Ngọc Hiên

                                                            

“TRÁI TIM MẸ SẼ THẮNG !”

“TRÁI TIM MẸ SẼ THẮNG !”

                                                       Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

                                                                nguồn: conggiaovietnam.net 

 Những ngày còn bé tôi đã được nghe thông điệp này, “Trái Tim Mẹ sẽ thắng” luôn đi kèm thêm câu “nước Nga sẽ trở lại”. Với tâm hồn trẻ thơ tôi đón nhận thông điệp một cách tự nhiên không thắc mắc, những lời nguyện cầu đi vào tuổi thơ của tôi nhẹ nhàng với những buổi “đọc kinh liên gia” mỗi tối, nhất là trong tháng mười, tháng kinh Đức Mẹ. Cứ thế, hằng đêm tiếng cầu kinh của bọn trẻ chúng tôi theo sau người lớn vang lên hết từ nhà này qua nhà khác. Tôi hiểu dễ dàng về một nỗ lực cầu nguyện cho một nước Nga xa xôi nào đó “ăn năn trở lại”. Lại nữa, thỉnh thoảng Nhà Thờ phát động “bó hoa thiêng liêng”, bọn trẻ chúng tôi được dạy cầu nguyện và hãm mình hy sinh một điều gì đó để cầu nguyện cho “nước Nga trở lại”.

Lớn lên, chiến tranh lan tỏa khốc liệt trên quê hương đất nước, bạn bè tôi từng đứa rời ghế nhà trường vào binh nghiệp, ngay trong xóm ngõ cũ, những thằng bạn nghịch ngợm, ngày xưa rủ nhau kinh sách mỗi tối cũng lần lượt ra đi. Rồi có những đứa trở về, về rồi lại đi ra khỏi xóm trong chiếc quan tài sắt lạnh giá, những bà mẹ khóc rũ bên xác con, bọn tôi nhìn nhau ngao ngán, những đứa còn sống chẳng nói lên lời, chẳng còn nước mắt mà khóc nhau.

Có những hình ảnh bỗng dưng theo mình suốt đời. Sáng sớm giật mình thức dậy, tiếng trống kèn xôn xao chen tiếng khóc, từ trên ban công nhìn xuống, mặt trên của chiếc quan tài khi di chuyển cứ xô dạt theo nhịp đi của những người lính chung sự ( đơn vị phụ trách chôn cất của quân đội Cộng Hòa ) trong đoàn đưa đám tang đang rời xóm.

“Bốp ba gác” chết rồi, quan tài anh phủ màu cờ ! Rồi đến Sơn, người sĩ quan Trung Tá dù, chiếc gối đỏ đặt đầu quan tài gắn lên đó huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Bên cạnh chiếc bông mai vàng cũ người ta gắn thêm một chiếc bông mai nữa, Sơn vẫn nằm lặng im bên trong chiếc quan tài lạnh giá. Rồi một chiều nghĩa trang lộng gió, chiếc quan tài “Tăng thẹo” được phủ cờ, tiếng kèn tiễn biệt nghe não lòng, hai hàng lính đứng nghiêm hai bên mộ huyệt, bồng súng chào từ giã trong tiếng súng nổ khô khốc… Nhưng còn những thằng bạn đi mà chẳng bao giờ về, “Hải vua thả diều” đi biền biệt, cho đến bây giờ gia đình vẫn chưa tìm được tông tích hắn đã nằm xuống nơi nào.

Thời thế như vậy nên việc “nước Nga sẽ trở lại” thật sự rất mơ hồ nhòa nhạt trong tâm tư của tôi, cầu thì cứ cầu nhưng tôi nghĩ khó lắm, hai cực thế giới lạnh băng căng thẳng, làm sao có chuyện đổi thay ? Biến cố năm 1975 ập đến, ý tưởng “nước Nga sẽ trở lại” càng xa vời trong tâm trí, dù lời kinh vẫn còn đó, lời cầu vẫn còn đó, ý tưởng vẫn còn đó nhưng nghe sao khó khăn và diệu vợi, càng thăm thẳm hơn khi ngày ấy không ai dám nhắc công khai ý tưởng này, mong gì hiện thực ?

Giữa những nỗi buồn có phần tuyệt vọng trên giải đất hình chữ S, vào những năm đầu thập niên 90, tin tức lọt về mang theo nhưng biến động bên vùng trời Đông Âu, ngày ấy việc thông tin còn khá khó khăn nhưng lượng thông tin phổ biến ở Việt Nam cũng đủ để thắp lại niềm hy vọng xa xưa tưởng đã tắt ngúm.

Sóng biến động khởi đi từ Ba Lan với Công Đoàn Đoàn Kết, chứa đựng bên trong chính là lòng tin sắt đá của người dân Ba Lan, gương mặt của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 trở nên sáng ngời, kiên cường và mạnh mẽ, gương mặt ấy xuất hiện mang theo Tin Mừng, lòng yêu mến, lòng tin và lòng cậy trông. Gương mặt ấy xuất hiện cùng với chuỗi tràng hạt Mai Khôi không bao giờ thiếu trên tay, lời cầu xin cùng mẹ không bao giờ thiếu trong mọi lời kinh, lời phát biểu, lời bày tỏ cùng nhân loại. Nếu được ví Đức Gioan 23 như là vị ngôn sứ mà Thiên Chúa dành cho Giáo Hội để Chúa Thánh Thần thổi luồng gió mới, thì có thể nói Gioan Phaolo 2 chính là vị ngôn sứ Thiên Chúa dành cho nhân loại để Thần Khí đổi mới mặt địa cầu.

Biến cố 19.8.1991 kết thúc một giai đoạn đen tối của phần lớn nhân loại, biến cố ấy cũng chứng minh lời hứa của Đức Mẹ được hiện thực. Tôi cho rằng tất cả đã được hiện thực trước tiên là do Đức Mẹ mang đầy đủ phẩm tính của Thiên Chúa, Ngài là Đấng luôn trung tín, Ngài đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện, Mẹ cũng thế. Chúa có cách của Chúa để thực hiện những gì đã hứa, Mẹ với những ân sủng đặc biệt Chúa ban cho, Mẹ cũng có cách của Mẹ để thực hiện những gì đã hứa. Đức Chân Phúc Gioan Phaolo 2 là con người đã biết đón nhận và mang những can thiệp của Mẹ vào nhân loại, làm cho lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện, và chính lòng tin kiên vững và lời nguyện cầu tha thiết chân thành của Hội Thánh đã làm cho những ân huệ của Mẹ “phát huy tác dụng”.

Có người đã nói với tôi rằng: “Cuộc thay đổi ở Đông Âu là nhờ vào đường lối đối thoại kiên trì của Hội Thánh” ?!? Tôi nghĩ nhận định như thế là sai, nếu hiểu đối thoại như một nỗ lực khôn ngoan của con người, thì xin lỗi, có khôn ngoan đến mấy cũng vẫn thất bại trước những kẻ lòng chai dạ đá, vô thần và bất nhân. Nhưng nhận định hoàn toàn đúng nếu hiểu đối thoại như là một cố gắng của con người trung thành với đường lối của Thiên Chúa và đặt tất cả niềm trông cậy vào Ngài.

Lịch sử nhân loại vẫn còn ở phía trước, vẫn còn nhiều cơ hôi để chứng minh từng chọn lựa và đường hướng của con người, vẫn còn nhiều cơ hội để mọi người nhận ra rằng… “Trái Tim Mẹ sẽ thắng”.

____

Ghi chú: Xin xem thêm http://vtc.vn/311-294864/quoc-te/tai-sao-lien-xo-sup-do-vao-ngay-198.htm. ( VTC News ) – Năm 1991, sự kiện Đảng Cộng Sản Liên Xô và Liên Bang Xô Viết sụp đổ đã gây chấn động toàn thế giới. Hơn 20 năm nay, các học giả trên khắp thế giới vẫn không ngừng đi tìm đáp án thỏa đáng cho câu hỏi: “Tại sao Liên Xô sụp đổ vào ngày 19.8.1991 ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Lễ Trái Tim Đức Mẹ 16.6.2012 (Ephata 514)

Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

Lm. VĨNH SANG, DCCT 

Năm 1866, bức Linh Ảnh Đức Mẹ mang tước hiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp được Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX trao cho DCCT với nhiệm vụ quảng bá lòng sùng kính Đức Mẹ, bức Linh ảnh ấy đươc tôn kính tại đền Thánh An Phong, đường Merulana, thành phố Roma, bên cạnh trụ sở trung ương của Hội Dòng. Từ ngày ấy, mỗi bước chân Thừa Sai DCCT đi đến đâu cũng đều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Hằng Cứu Giúp, cùng đi với các Thừa Sai, phiên bản bức Linh ảnh được phổ biến khắp nơi.

Năm 1925, ba nhà Thừa Sai đầu tiên DCCT đặt chân đến Huế ( Cha Larouche, cha Cusineau và thầy Barnabe ), trong hành trang của các ngài có phiên bản bức Linh ảnh hay làm phép lạ. Cùng với sự hiện diện của bức Linh ảnh, các Thừa Sai đã nhanh chóng phổ biến các kinh nguyện cầu khấn cùng Mẹ, những lời kinh ngọt ngào, quen thuộc và thân thương với mỗi người dân Việt Công Giáo chúng ta đã được cất lên từ ngày ấy: “Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó…”, ai trong chúng ta mà chẳng nhớ những lời kinh này.

Trong đời mục vụ, chúng tôi có dịp đi đó đây khắp miền đất nước, từ những Nhà Thờ Chính Toà to lớn đến những ngôi Nhà Nguyện bé nhỏ hun hút nơi vùng sâu, ở đâu chúng tôi cũng bắt gặp phiên bản của bức Linh Ảnh nổi tiếng này, nhìn những bức ảnh được tôn kính chúng tôi biết bước chân của cha anh chúng tôi đã từng đặt đến những nơi đây. Chúng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa cùng với sự khâm phục lòng nhiệt thành của cha anh mình.

Câu chuyện “Đức Mẹ lộ hình” tại La Mã Bến Tre là một điển hình. Ngày ấy, hơn 62 năm về trước ( trước năm 1950 ), giữa một vùng sông nước mênh mông, chiến tranh khốc liệt, bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp đã xuất hiện một cách lạ lùng ( 5.5.1950 ), kèm theo những phép lạ tỏ tường ( 7.10.1950 ) để cứu vớt che chở người dân quê nghèo khốn khổ ( tìm đọc chuyện Đức Mẹ La Mã Bến Tre ). Ngày nay ngôi Nhà Thờ đã được trùng tu, khuôn viên Nhà Thờ đã được tu bổ, một con đường nhỏ ngang 4 mét vừa được xây dựng để khách hành hương có thể đến với bức Linh Ảnh Đức Mẹ La Mã Bến Tre tương đối dễ dàng, từ Sàigòn nếu di chuyển bằng xe 4 bánh chỉ cần hai tiếng đồng hồ chúng ta đã có thể đến viếng thăm ngôi đền này ( www.ducmelamabentre.com ).

Trong bộ sưu tập về bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp còn một chứng tích tuyệt vời khác nữa. Việt Nam năm 1954, trong hành trình di cư của hàng triệu người từ miền Bắc vào Nam, có một phóng viên đã chụp được cảnh đoàn người di cư, một người phụ nữ lam lũ gồng gánh tất cả mớ gia sản nghèo nàn tả tơi của mình, vậy mà bà đã không quên mang theo bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bước chân bà sải đi vững chắc trong niềm tin và cậy trông phó thác trên hành trình hướng về tương lai, ắt hẳn vì Mẹ Hằng Cứu Giúp đang ở cùng bà, ở cùng gia đình bà.

 Bức Linh ảnh người phụ nữ xuôi Nam năm ấy mang theo bây giờ ở đâu ? Được tôn kính ở chốn nào chúng ta không có điều kiện để tìm biết.

Thế rồi bây giờ chúng tôi mới biết được thêm một câu chuyện khác, tình cờ nhưng rất thú vị, cũng là một câu chuyện về một người phụ nữ với bức Linh ảnh, cũng là một cuộc di cư vĩ đại khác của 21 năm sau cuộc di cư khổng lồ năm 1954. Nhẩm tính lại, ngày ấy, năm 1954, người phụ nữ trong câu chuyện chúng tôi sắp kể mới chỉ là một em bé 10 tuổi theo cha mẹ chạy vào Nam.

Chị về Việt Nam đã 4 lần nhưng lần này chị mới có dịp đến DCCT, quận 3, Sàigòn, chị liên lạc và giúp đỡ chúng tôi từ lâu nhưng chỉ biết nhau qua thư từ và hình ảnh trên mạng, chị vào thăm Nhà Dòng và trong những câu chuyện chia sẻ, chúng tôi ghi được một câu chuyện lạ lùng thú vị.

Năm 1975, chị có chồng là một sĩ quan không quân đóng tại phi trường Phù Cát, thành phố Quy Nhơn thuộc miền Trung, tháng Tư chiến tranh ác liệt, cả trại gia binh di chuyển vào Sàigòn để lánh nạn, nhưng chẳng bao lâu lại phải tiếp tục di chuyển ra Côn Đảo, anh vẫn tiếp tục trong đội hình chiến đấu của quân đội miền Nam. Không lâu trước ngày Sàigòn thất thủ 30 tháng 4, chị và các chị em khác hoàn toàn mất tin tức chồng, đau buồn và lo sợ.

Ngày ngày chị lang thang một mình ở bãi biển trông ngóng tin chồng, tình cờ một hôm chị nhặt được một tấm bìa báo xuân của một tạp chí Công Giáo nào đó, trên tấm bìa đó còn ghi hàng chữ “Cung chúc tân xuân” cùng với hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp chiếm trọn trang bìa. Tấm bìa trôi dạt ở bãi cát trắng bờ biển, ướt sũng, nhạt nhòa. Chị nhặt lên với tất cả sự tôn kính, mang về khu trại gia binh, hong cho khô và sớm khuya cầu nguyện với bức Linh Ảnh.

Bây giờ nhớ lại, chị kể chị đã hết lòng khẩn khoản nài van Mẹ xin cho được gặp lại chồng. Và chị đã được như ý, khi chị và các con được chuyển đến tạm cư ở đảo Guam, chị đã bất ngờ tìm lại được anh qua hội Hồng Thập Tự Quốc Tế khi mọi sự ngỡ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Ai nghe chuyện cũng đều bảo là phép lạ !

 Định cư tại Hoa Kỳ, anh chị đã không quên mang theo bức Linh Ảnh kỳ diệu. Chị tiếp tục cầu nguyện với Mẹ Hằng Cứu Giúp xin cho có thêm một cháu gái vì ba cháu đầu đều là trai, một lần nữa, chị lại được như ý. Theo chị kể, lời vật nài cùng Mẹ có nhiều chi tiết thú vị về bé gái chị xin. Vâng, chị đã xin, đã ngỏ lời với tâm tình rất đơn sơ thân mật y như của một người con gái thủ thỉ cùng bà mẹ dấu yêu của mình. Chị đón nhận tất cả những điều ấy như một hồng ân.

Bức Linh Ảnh đó bây giờ chị đóng khung treo trong phòng ngủ, ngay trên đầu giường của chị.

Chị chia sẻ với anh em chúng tôi: bức Linh Ảnh không đẹp vì chỉ là một bức ảnh in trên bìa một tờ báo cũ, lại được vớt lên từ bãi cát bờ biển Côn Đảo, không đẹp vì đã bị ướt rồi hong khô lại, không đẹp vì kỹ thuật in ấn của những năm thập niên 70 tại Việt Nam, nhưng lại đẹp và quý giá tuyệt trần vì bức Linh Ảnh ấy đã xuất hiện trong những ngày tháng chị lao đao hoang mang nhất, cô đơn gian khổ nhất, đẹp vì chị đã mang theo bên mình suốt 37 năm với những lời nguyện cầu to nhỏ, đẹp vì là sự an ủi và cậy trông của cả cuộc đời chị, đẹp vì bức ảnh đã giúp chị cầu nguyện và vững chắc trong Đức Tin, đẹp vì qua bức ảnh chị nhận được quá nhiều ân huệ của Thiên Chúa.

Chị vẫn hằng cầu nguyện với bức ảnh đó: “Xin cho con biết dùng những năm tháng kế tiếp của cuộc đời để phục vụ Chúa trong Hội Thánh tại Việt Nam”.

Xin cám ơn chị Thanh Lịch, Oklahoma, Hoa Kỳ, chị đã làm chứng về tình thương của Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Mẹ của tất cả chúng ta…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.6.2012 (Ephata 513)

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi…

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi… 

  Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo. Đã được rửa tội từ thuở nhỏ. Rước lễ lần đầu vào năm 7 tuổi. Chịu phép Thêm Sức vào năm 14. Rồi sau đó là Bao Đồng. Tất cả đều được chỉ dẫn và dìu dắt ở trong một môi trường Công giáo. Trường hợp của tôi thường được gọi là trường hợp của thành phần đạo gốc, nhưng không biết “gốc” gì đây? Tôi có được sự lựa chọn hay chăng?  Vì nếu không đi xem lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc thì sẽ bị la rầy. Nên đi cho có hình thức bề ngoài. Nhưng trong lòng thì chưa tin vào Chúa cho lắm. Niềm tin của tôi lúc ấy rất yếu.

 Đến năm 17 tuổi, cái tuổi có thể bẻ gẫy xừng trâu ấy, chẳng biết sợ gì, tôi đã ra đi để tìm tự do cho bản thân mình, với ba nguyện vọng đơn sơ: 1- Con nuôi cá; 2- Con nuôi ba má; 3- Ba má nuôi con. Nhưng tự do thật sự ở đâu?

 Được sự che chở của “Lòng Thương Xót Chúa“ nên tôi đã được bình an dừng chân tại trại tỵ nạn Pula Bidong, thế nhưng rồi đệ tam quốc gia nào sẽ nghênh đón tôi đây? Chính những tháng ngày cô đơn ấy, buồn tủi nhất trong đời nên ngày nào tôi cũng cầu xin cùng Chúa và Mẹ Maria trên đồi Công giáo, chứ không phải đồi Canvê là nơi Chúa chết khi xưa.

 Với lòng nhiệt thành và lòng tin tưởng, tôi đã được định cư ở một nơi bấy giờ được gọi là thiên đường hạ giới, một nơi mà có thể nói cả thế giới này, nhất là thành phần tỵ nạn Việt Nam nghèo khổ, ai ai cũng mong mỏi được đặt chân đến…

 Sau 18 giờ bay, đúng 6 giờ 30 phút ngày 12 tháng 5 năm 1989, chuyến bay định mệnh đã hạ cánh tại phi trường Washington DC, nay là phi trường George  W Bush.

 Trước khi ra đi tôi chỉ có 3 nguyện vọng, nay lại được định cư ở một đệ tam quốc gia. Đây có phải là hồng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa hay chăng? Chưa biết được…

 Khi giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya tôi mới phát hiện ra mình lại mắc thêm 3 chứng bệnh mà hầu như ai trong chúng ta khi mới qua Mỹ vào lúc bấy giờ không sao quên được, đó là:

1- Bị điếc vì không nghe được tiếng bản xứ;

2- Bị câm vì không nói gì được;

3- Bị què vì không có phương tiện để đi lại.

 Một mình đơn phương nơi xứ lạ quê người. Cơm áo gạo tiền đã gắn liền với cuộc sống. Nhưng “believe in gold and take care yourself” đó là những câu nói dường cột của chúng bạn. Cho nên “gần mực thì đen….”. Công danh và sự nghiệp đã lôi cuốn tôi vào cơn lốc xoáy, cơn lốc của cuộc đời. Từ đó, tôi dần dần xa Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào tôi chẳng biết.

 Công danh và sự nghiệp là chi??? Đó là hai miếng mồi ngon và bổ nhất. Thử hỏi trong chúng ta ai mà chẳng vớ lấy cho bằng được. Thế là cuộc hành trình lại được bắt đầu từ đây.

 Để cố gắng khắc phục ba cái «bị» ở xứ lạ quê người khi mới sang Mỹ năm 1989 trên đây, tôi đã “cầy ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm“. Chính vì cơm áo, gạo tiền cộng thêm hơn thua và ganh tỵ mà tôi đã lãng quên đi Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào. Tiếng chuông nhà thờ vẫn vang vọng hằng đêm, nhưng tiếng lương tâm của lòng tôi đã chết lịm từ lúc nào rồi? Vì “lương tâm so ra không bằng lương tháng“.

 Để tạo cho mình một bước đi vững vàng, tôi đã lập gia đình. Người bạn đời của tôi không cùng tôn giáo với tôi, và đã được hai cháu. Vì lo công danh và sự nghiệp, nên tôi chẳng làm trọn bổn phận là một người cha Công giáo của chúng…. Tính ra đã hơn 20 năm tôi đã lầm đường lạc lối. Cuối cùng, Chúa đã thức tỉnh tôi với một cơn bệnh lạ đời, kéo dài trong vòng 3 năm trường không phải là ngắn.

 Đúng thế, nếu “Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm!” (Lk 2 :14) thì, đối với tôi, chính vì «tâm» không lành nên long thể bất an xẩy ra cho tôi vào mùa hè năm 2009. Chúa đã thức tỉnh tôi bằng một cơn bệnh ù-tai và chóng mặt. Lỗ tai lúc nào cũng có tiếng như ma kêu quỉ khóc. Còn chóng mặt thì chỉ còn nằm trên giường mà nhắm mắt, từ 16 đến 20 giờ đồng hồ mỗi ngày. Mở mắt ra thì trời đất quay cuồng, say xẩm. Chỉ có ói mửa cho tới mật xanh thôi. Nằm im đó để mà nhìn công danh cùng sự nghiệp tan tành như mây khói.        

                   Lúc thất thế con quì bên chân Chúa

                     Khi gặp thời con đạp đổ lư hương…

 Chính vì bệnh tật nên tôi phải xa rời tất cả chuyện làm ăn và vui chơi cùng bạn bè. Bởi không sao chịu được những tiếng ồn nơi công cộng. Trong ba năm, tôi đã trải qua 4 lần MRI và 3 lần chụp CT, các bác sĩ không tìm được bệnh gì. 

 Không biết cậy nhờ vào ai. Lúc này tôi lại gục đầu bên chân Chúa mà cầu nguyện, với bao đêm ngày cầu nguyện cùng Chúa. Suốt ba năm trường tại sao Chúa lại chẳng nhận lời ? Vì tất cả tôi chỉ muốn Chúa làm theo ý của riêng tôi, nên  tôi đã nhiều lần oán trách Chúa, mà Chúa vẫn chỉ im lìm theo dõi bước chân tôi.

 Thất vọng ê chề. Vì bệnh trạng của tôi vẫn không thể nào chữa được. Rồi từ đó tôi lại oán trách Chúa đủ điều… Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng với bao nỗi chán chường. Một hôm, giữa đêm khuya, khi cả gia đình đã ngủ say, tôi quì trước bàn thờ và khẽ nói: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, con xin dâng linh hồn và thể xác con trong vòng tay từ ái của Chúa. Xin Chúa hãy chỉ dạy cho con“.

 Cuối cùng Ngôi Ba Thánh Thần đã soi sáng cho tôi và  tôi đã bay về Việt Nam để cầu may…    

 Nhìn những người bạn cùng chuyến bay ung dung bước ra khỏi phi trường để đoàn tụ cùng gia đình, tôi cảm thấy tủi thân! Vì bấy giờ tôi phải có người hộ tống, bởi tôi đi đứng không được, phải ngồi trong xe lăn.  

 Gặp lại con trong hoàn cảnh thê thảm như thế, người cha đạo hạnh của tôi, thương hại nhìn con, sau đó nhìn lên trời một hồi lâu và nhìn thẳng vào mặt tôi với giọng ồn tồn của người cha nhân hậu khẽ nói. Con ơi “vì lời lãi của thế gian này mà đánh mất đi linh hồn thì chẳng được ích gì”, hãy nghỉ vài ngày cho khoẻ, gia đình mình sẽ chung sức cầu nguyện cùng Chúa và Mẹ Maria xin các Ngài giúp cho con.

 Đúng vậy, nơi miền quê nghèo nhỏ bé, Chúa đã chữa khỏi bệnh chóng mặt cho tôi , chỉ cần qua một người y tá quèn ở vùng quê hẻo lành. Còn ở Mỹ, nơi những bệnh viện nổi tiếng, các bác sĩ có bằng cấp cao lại chẳng chữa nổi cho tôi . Tại sao vậy???

 Thế rồi, vào một buổi sáng kia, tôi tập thể dục và chạy ngang qua Nhà thờ Thánh Tâm. Một sức mạnh nào đó như cứ thôi thúc trong tận đáy lòng của tôi, đến độ tôi  phải ghé vào để than thở cùng Mẹ Maria.

 Một lần không chịu ghé. Lần hai cũng không ghé. Thôi thì nhất quá tam nhì ba bận nên cuối cùng tôi đành ghé lại. Đây là lần thứ nhất Mẹ Maria nhìn tôi. Mẹ nhìn tôi với đôi mắt buồn rầu, sầu thảm không sao tả được! Vài ngày sau, khi tôi đứng ngoài hàng rào nhà thờ cầu nguyện, Mẹ quay lại nhìn tôi cũng với ánh mắt như lần trước… Hơn một tuần, sau thánh lễ Chúa Nhật, giáo dân hợp nhau đọc kinh ở núi Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse, sự lạ lại xẩy ra một lần nữa: Mẹ Maria lại âu yếm nhìn tôi ! tôi quay sang hỏi Cha Xứ cùng bà con xung quanh xem có ai thấy gì hay chăng? Tất cả đều lắc đầu không hiểu  tôi đang nói gì… “Mẹ ơi, thật sự Mẹ muốn gì ở nơi con? Xin Mẹ hãy chỉ dạy và soi sáng cho con!”

 Ba ngày sau đó, theo sự soi sáng của Ngôi Ba Thánh Thần, tôi cùng với gia đình và anh em đi hành hương viếng thăm Đức Mẹ ở các nơi khác nhau, như ở Trung Tâm Fatima Bình Triệu Sài Gòn, ở Tapao, và có ghé ngang qua một bức tượng Đức Mẹ trên đường đi Đà Lạt về, không nhớ rõ địa danh, chỉ biết rằng đài Đức Mẹ nằm ngay trên quốc lộ.

 Mỗi lần nói chuyện cùng Mẹ thì tôi lại nhận được sự bình an không sao tả được: “Mẹ ơi, con là đứa con tội lỗi, không đáng để được Mẹ tha thứ. Nhưng người bạn đời của con và hai đứa con thơ dại của con thì không biết gì về Mẹ và Chúa Giêsu hết. Xin Mẹ hãy soi sáng và chỉ dẫn cho vợ con và hai đức con thơ dại biết nhận ra Mẹ là ai và Chúa Giêsu xuống thế gian này để làm gì nghe Mẹ“.

 Về đến Mỹ, giấc ngủ của tôi bị trái giờ, hơn nữa, tôi lại nhớ ba má cùng anh em bà con ở Việt Nam, nên tôi không ngủ được bình thường như trước. Tuy nhiên, nhờ dịp này, theo sự sắp đặt của Mẹ Maria, con đã biết đến, qua lời giới thiệu của đứa em rể tên Minh Phong thuộc giáo xứ Trà-Long giáo phận Cần Thơ, qua trang web tinvui.info do Cha Giuse Trần Đình Long Dòng Thánh Thể phụ trách thuộc Giáo Xứ Chí Hòa, (chứ không phải là khám Chí Hòa đâu nhé). 

 Qua trang web này, tôi thật sự cảm nghiệm được « Lòng Thương Xót Chúa ». Nhờ ơn Chúa, cha đã có được những lời giảng khôi hài, mộc mạc, đơn sơ, thực tế nhưng có sức quyến rũ và mời gọi một cách lạ thường.

 Sau vai tuần nghe những bài giảng của cha ở trang web tinvui.info, tôi đã viết email để xin cha và cộng đoàn «Lòng Thương Xót Chúa » cầu nguyện giúp tôi . Bà xã của tôi, thấy tôi hầu như đêm nào cũng nghe giảng qua trang web này. Tuy nhiên, có lần tôi đột nhiên không nghe nữa thì nàng lại hỏi tôi tại sao? và đồng thời tỏ ý muốn nghe. Vài ngày sau, nàng đã khăn gói lên đường trở về nhà Cha, vì: “Ai xin sẽ được, ai gõ cửa sẽ được mở ra cho” (Mt 7:7).

 Nhờ nghe lời Chúa mà nàng và hai đứa con đã trở thành những người dự tòng Kitô hữu, và vào dịp Lễ Vọng Phục Sinh đêm ngày 7 tháng 4 năm 2012 chính thức trở thành con cái Chúa. Ôi, còn nỗi vui mừng nào hơn là được làm con cái Chúa : “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người” –

 Mặc dù tôi đã được ơn trở lại sau hơn 20 năm rời xa Chúa và Mẹ Maria, bao nỗi ưu tư và phiền muộn vẫn còn vương vấn trong tâm hồn tôi. Biết bao điều thắc mắc vẫn còn đó, không biết tìm ai để được giải tỏa những thắc mắc của riêng mình.

 “Hãy đến với Cha, hơi tất cả những ai mệt mỏi và nặng gánh, Cha sẽ bổ sức cho các con” (Mt 11:28). Đó là chủ đề cho cuộc Tĩnh Tâm của Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài thuộc Tổng Giáo Phận Philadelphia. Người phụ trách chia sẻ các bài nói theo chủ đề này đó là một người giáo dân từ miền Nam California tới: Hiệp Sĩ Trái Tim Mẹ – Tông Đồ Chúa Tình Thương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh.

 Cuộc tĩnh tâm 3 ngày (24-26/2/2012) mở màn cho Mùa Chay này hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 9 bài nói, tất cả đều được trình bày và chia sẻ bởi người tín hữu giáo dân ấy, một nhân vật tôi chưa hề quen biết và nghe tiếng. Những bài nói của vị hướng dẫn tĩnh tâm này (Tối Thứ Sáu 1 bài, Ngày Thứ Bảy 5 bài, và Chúa Nhật 3 bài), thứ tự sau đây:  

                1.      Thời Điểm Cánh Chung của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về tình trạng Nửa Đêm Nghênh Đón);

                2.      Tội Lỗi – Vực Thẳm của Lòng Thương Xót Chúa;

                3.      Tội Nhân – Mồi Ngon của Lòng Thương Xót Chúa;

               4.      Thánh Giá – Chân Dung của Lòng Thương Xót Chúa;

               5.      Cơn Khát Núi Sọ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về hai câu Chúa nói: “Cha khát” – “Xin cho Cha uống”);

               6.      Điểm Hẹn Thần Linh của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Trái Tim Mẹ: Nơi Nương Náu – Đường Đến Chúa, tức Đến Chúa Qua Mẹ );

              7.      Bối Cảnh Lịch Sử của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Bí Mật Fatima);

               8.      Sứ Điệp Cứu Độ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về những gì Chúa muốn như Ảnh Thương Xót, Lễ Thương Xót, Kinh Thương Xót…);

             9.      Hồn Nhỏ Hy Tế của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về gương sống Lòng Thương Xót của 3 Thiếu Nhi Fatima và Chị Thánh Faustina).

Sau ba ngày tĩnh tâm đặc biệt trên đây, tất cả mọi thắc mắc cũng như ưu phiền của tôi đã được giải đáp qua lời giảng thuyết hùng hồn của người tín hữu giáo dân này.

 Tháng 2 hằng năm, vùng Đông Bắc Hoa Kỳ vẫn còn đang ở trong mùa đông. Ngoài trời thì lạnh, nhưng trong cõi lòng của mỗi một người Kitô hữu hiện diện ở đấy đã được sưởi ấm và nung nóng với bàn tiệc lời Chúa. Biết bao nhiêu anh em Kitô hữu đã bỏ cả công ăn việc làm, không ngại đường xá xa xôi đến để tham dự.

 Tôi nhớ rất rõ là vào ngày Thứ Bảy 25/2/2012, trong lúc ngoài trời gió rất mạnh, cộng thêm tuyết rơi, thế nhưng trong hội trường, anh chị em Kitô hữu cùng nhau lắng nghe lời Chúa. Mặc dù lời của Chúa thật xa xưa nhưng chính giây phút này đã trở thành những gì hiện thực nơi lời chia sẻ của vị giảng thuyết cũng như nơi cảm nghiệm thấm thía của thành phần tham dự viên. Lúc ấy, hơn bấy giờ hết, tôi cảm nghiệm thấy được sự hiện diện thần linh của Chúa ở giữa chúng tôi: “Vì ở đâu có hai hay ba người hợp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ” (Mt 18:20).

 Âm vang của những giây phút tĩnh tâm về Lòng Thương Xót Chúa ấy vẫn còn âm ỉ nơi tôi, qua tâm tình và kinh nguyện của tôi với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 Những chuỗi Mân Côi hằng ngày sẽ làm dịu đi nỗi đau của Trái Tim Mẹ. Hãy đến với Mẹ mỗi ngày để than thở và khóc lóc. Dâng lên Mẹ những nhọc nhắn khó khăn trong cuộc sống. Qua lời chuyển cầu của Mẹ thì tất cả mọi ước nguyện của chúng ta sẽ được nhận lời. Mẹ biết và hiểu được những gì ta đang cần.

 Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp con biết mở lòng con ra mà đón nhận Chúa. Xin hãy ngự trị trong tâm hồn con và giúp con biết yêu mến Chúa từng giây, từng phút, để con luôn được bình an trong vòng tay của Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài” với tất cả tâm hồn và thể xác của con đây.

 Xin Mẹ Maria luôn gìn giữ, bao bọc, che chở gia đình con và Giáo Hội trên toàn thế giới trong vòng tay quyền năng từ ái của Mẹ. Amen.

 Mùa Chay 2012

Inhaxio/Phêrô Randy Khâm Nguyễn

Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài, Tổng Giáo Phận Philadelphia.