Cách sống của cha tôi

Cách sống của cha tôi

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Người ta có thể CHỌN nhiều thứ cho cuộc đời mình, trừ hai thứ: Cha mẹ và nơi sinh. Cha mẹ nào cũng có điều đặ biệt riêng với con cái, nếu không thì làm gì có cha mẹ. Cha mẹ mà tuyệt vời như thế, huống chi Thiên Chúa. Chúa nhật thứ ba trong Tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ. Bạn còn cha? Bạn thật hạnh phúc. Bạn không còn cha? Thật bất hạnh: “Còn cha gót đỏ như son, Đến khi cha chết gót con lấm bùn” (Ca dao). Vậy đó, nhưng khi cha còn sống, con có nhiều cách nhìn về người cha của mình… Sự hối hận thường đồng nghĩa với sự muộn màng!

Tôi vẫn thắc mắc rằng không biết có ai phá kỷ lục viết thư của cha tôi hay không.

Khi còn là sinh viên, tôi rất nhớ nhà. Suốt ba năm ròng rã, cha tôi cứ cách một ngày lại viết cho tôi một lá thư. Viết là chuyện quá dễ đối với cha tôi, thế nhưng cứ cách ngày lại viết thư suốt ba năm thì quả là “tâm phục, khẩu phục”.

Thư của cha tôi luôn nâng đỡ tôi, khích lệ tôi, và an ủi tôi. Thư luôn mở đầu bằng câu: “Shuet, con gái yêu dấu nhất của cha”. Còn hạnh phúc nào hơn với một sinh viên xa nhà như tôi chứ? Cha tôi luôn viết trên loại giấy có in hoa hồng lớn như thể hiện tình thương của người dành cho tôi.

Cha tôi tên là Kwok-Chi Tam, một con người tự lập, giỏi lịch sử Trung quốc và văn chương Tây phương, nhưng cũng rất giỏi văn chương Trung quốc. Người thường làm anh Paul và tôi “quê độ” bằng cách trích ra những bài thơ mà chúng tôi quên tiệt. Đã đi dạy nhiều năm, cha tôi quen nhiều sinh viên. Các sinh viên đều nói cha tôi khả dĩ bật một mẩu phấn tào thành âm thanh thú vị.

Ban ngày cha tôi đi dạy, ban đêm viết kịch bản phim. Tôi biết cha tôi mệt mỏi nhưng không bao giờ than phiền. Căn hộ chật hẹp, cha mẹ ngủ trong buồng, còn anh em tôi ngủ trên sàn nhà. Vào những dịp sinh nhật, anh em tôi được ăn thịt gà, và thực sự cảm thấy hạnh phúc bên cha mẹ. Được học hết tú tài, ai học được nữa thì cha mẹ vẫn cho đi học, và luôn động viên học chứ không hề trách mắng. Chúng tôi hiểu giá trị của sự giáo dục và kiến thức, nhất là mang ý nghĩa từ những hy sinh của cha mẹ.

Khi cuộc sống tạm ổn, cha mẹ đỡ vất vả, anh em tôi đã có nghề nghiệp, lại là lúc cha tôi bị ung thư tuyến tụy bất khả trị. Năm 1981, gia đình có ba người sinh nhật vào tháng Năm, nhưng không tổ chức vì buồn khi thấy cha tôi bệnh nặng như thế. Và rồi định mệnh cũng cướp mất cha tôi vào năm sau.

Đám tang cha tôi được tổ chức rất lớn. Rất nhiều người đến phúng điếu, đường phố chật người đưa tiễn và đứng chào tỏ lòng thương tiếc khi linh cữu cha tôi đi qua. Tôi hãnh diện vì uy tín của cha tôi đối với mọi người ở mọi lứa tuổi.

Một năm sau, tôi sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Laura. Khi Laura bốn tuổi, tôi sinh con trai đặt tên là Paul. Khi chúng đủ hiểu biết, tôi luôn kể cho các con biết về ông ngoại của chúng, luôn yêu thương và quan tâm vợ con dù ông rất vất vả.

Đó là bài học cha tôi đã dạy tôi bằng chính cuộc sống mẫu mực của người: Tận tụy với gia đình, cần cù lao động, và kiến thức sâu rộng. Cha tôi nghiêm nghị mà không khắt khe, ít nói mà vẫn dễ gần gũi, thương yêu mà không nhu nhược, khắt khe với chính mình mà lại nhân hậu với người khác. Một ngày nào đó, khi các con khôn lớn, tôi sẽ cho chúng đọc những lá thư mà cha tôi đã viết cho tôi ngày xưa. Đó là gia bảo của người cha kính yêu đã để lại cho tôi. Quả là gia sản vô giá!

Tôi quyết tâm sống xứng đáng là con của cha tôi, và tôi sẽ giáo dục cac con cũng noi gương sống tốt của ông ngoại: Nói ít, làm nhiều.

MO-SHUET TAM

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

TRẦM THIÊN THU

Trích Ephata số 565

Ngày xưa người ta quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, quan niệm sống đầy tính luân thường đạo lý và nhân bản, nhưng ngày nay người ta “chỉnh sửa” quan niệm đó thành… “nam nữ cọ cọ sát thân”. Cách nghĩ quá “thoáng” như vậy trở thành phóng túng và tội lỗi !

Người ta còn cho rằng cứ sống thử trước, nếu hợp thì… sống tiếp, không hợp thì chia tay. Quá dễ dãi ! Và quan niệm mà người ta cho là tân kỳ và thoáng như vậy lại chỉ là quan niệm sai lầm mà thôi. Sự bất ổn gia đình tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ mặc dù giảm tỷ lệ ly hôn đối với các gia đình. Các nhà nghiên cứu nói rằng mức tăng về việc sống thử ( sống chung chạ như vợ chồng mà không kết hôn ) là một phần của vấn nạn gia đình.

Ngày nay, tỷ lệ ly hôn cao. Nhiều người muốn cứu vãn hôn nhân của mình đang trên bờ vực thẳm ly hôn, người ta đã phải đôn đáo tìm nhà tư vấn. Vì thế, các trung tâm tư vấn ( tình yêu, hôn nhân, gia đình, và các vấn đề khác ) lần lượt xuất hiện nhiều, ngay cả báo chí cũng thường có mục tư vấn, và các đài phát thanh hoặc truyền hình cũng có các chương trình tư vấn.

Giáo sư W. Bradford Wilcox, thuộc Đại Học Virginia và Trung Tâm Hôn Nhân và Gia Đình của Viện Giá Trị Hoa Kỳ ( Institute for American Values’ Center for Marriage and Families ) tại New York, nhận xét: “Tỷ lệ ly hôn đối với các cặp vợ chồng đã trở lại mức mà chúng tôi thấy trước cuộc cách mạng ly hôn hồi thập niên 1970. Tuy nhiên, tính bất ổn gia đình lại đang gia tăng đối với con cái người Mỹ. Điều này có vẻ chiếm một phần vì nhiều cặp vợ chồng có con cái sống thử, và điều này rất bất ổn”.

Ngày nay, hơn 40% thanh thiếu niên Hoa Kỳ đều sống thử. Họ muốn có kinh nghiệm chia tay của cha mẹ hơn so với những đứa con của các cặp vợ chồng kết hôn. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ chia tay cao hơn so với những đứa con của các cặp sống thử, lên tới 170%. Việt Nam cũng đang có nguy cơ tương tự, đạo đức luân lý suy thoái nên sự “dễ dãi” về tình dục cũng dần dần “thoáng” hơn !

Gíao sư Bradford Wilcox nói rằng con cái của các cha mẹ sống thử sẽ bị rắc rối nhiều hơn về các vấn đề xã hội và tình cảm ( lạm dụng ma túy, trầm cảm, bỏ học sớm, yêu đương nhăng nhít,… ) so với những đứa con có cha mẹ kết hôn hẳn hoi. Nghiên cứu này được thực hiện với 250 bài viết về hôn nhân & gia đình ở Hoa Kỳ và khắp thế giới. Nghiên cứu này cũng phân tích các dữ liệu của số liệu khảo sát Xã Hội Tổng Quát và Khảo Sát Thu Nhập và Tham Gia Chương Trình ( General Social Survey and the Survey of Income and Program Participation ).

Bản tường trình cho biết thêm: “Dù chúng ta thành công hay thất bại trong việc xây dựng văn hóa hôn nhân lành mạnh thì rõ ràng cũng là mối quan tâm chung hợp pháp và là vấn đề tối quan trọng nếu chúng ta muốn đảo ngược tình trạng cách ly khỏi nhịp phát triển xã hội của các thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta: giới lao động, dân nghèo, dân tộc thiểu số, và con cái”.

Con cái của các cặp sống thử có thể bị lạm dụng về thể lý, tình dục hoặc tình cảm gấp 3 lần so với con cái của các cặp vợ chồng vẫn nguyên vẹn hôn nhân. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện tính bất ổn gia đình cũng góp phần phan biệt giai cấp, phe cánh. Con cái của các cha mẹ có học thức thấy cuộc sống gia đình họ ổn định, còn con cái của các cha mẹ ít học lại thấy cuộc sống gia đình họ càng ngày càng bất ổn. Những người sống dư dả tận hưởng gia đình “vững mạnh và ổn định”, còn những người khác đối mặt với gia đình “càng bất ổn, càng bất hạnh và càng mất tác dụng”.

Ly hôn liên quan con cái trở lại mức trước khi luật hôn nhân thay đổi để dễ ly hôn hơn. Khoảng 23% con cái có cha mẹ kết hôn đầu thập niên 1960 đều biết cha mẹ ly hôn khi chúng được 10 tuổi. Cũng gần tương đương tỷ lệ đó đối với con cái có cha mẹ kết hôn năm 1997.

Các tác giả của bản tường trình kết luận rằng hôn nhân nguyên vẹn giữa cha mẹ vẫn là “tiêu chuẩn vàng” đối với đời sống gia đình tại Hoa Kỳ. Ngày 16.8.2011, Viện Giá Trị Hoa Kỳ cho biết: “Con cái có thể phát triển tốt hơn về kinh tế, xã hội và thể chất nếu chúng sống trong các gia đình theo chuẩn này”. Hôn nhân là “điều tốt quan yếu của cộng đồng” với nhiều lợi ích về kinh tế, sức khỏe, giáo dục và an toàn, giúp ích hơn cho xã hội và chính phủ phục vụ công ích.

Lợi ích của hôn nhân cũng lan rộng tới người nghèo, giới lao động và dân tộc thiểu số, mặc dù có việc suy yếu hôn nhân trong 4 thập niên qua. Viện Giá trị Hoa Kỳ kết luận: “Việc sống thử gia tăng là mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng và tính ổn định của đời sống con cái trong các gia đình ngày nay”.

Tóm lại, sống thử hoàn toàn bất lợi – cả về tâm lý lẫn sinh lý, kéo theo hệ lụy làm suy giảm sức khỏe, điều mà khoa học cũng đã chứng minh. Xưa nay, xã hội vẫn đề cao việc “nam nữ thọ thọ bất thân”, chỉ bắt đầu “chuyện ấy” trong đêm động phòng, dành cho nhau những giây phút thăng hoa cao thượng nhất, và nhiều tôn giáo cũng khuyến cáo chuyện sống thử hoặc “ăn cơm trước kẻng”.

TRẦM THIÊN THU

Tương lai gần của Giáo Hội Công giáo

Tương lai gần của Giáo Hội Công giáo

Đăng bởi lúc 2:34 Sáng 29/04/13

TRẦM THIÊN THU

VRNs (29.04.2013) – IntegratedCatholicLife – Một cuộc đối thoại về tương lai không xa…

Chris hỏi người cha khi ra khỏi khuôn viên nhà thờ:

– Ai mặc đồ đen ngồi phía sau cha Miguel trong Thánh lễ vậy hả ba?

Anh thấy vợ có vẻ lo lắng và gật đầu nhanh trước khi ông trả lời cho cậu con trai 13 tuổi:

– Chris nè, con có thể nghe mẹ và ba thảo luận vấn đề này. Bộ Tôn Giáo đã tuyên bố rằng các tôn giáo phải có một nhân viên tham dự khi có bất kỳ nghi thức thờ phượng của tôn giáo nào đó. Họ không được nói điều gì xúc phạm tới tôn giáo khác hoặc đối nghịch với luật hôn nhân, hạn chế việc thờ phượng và thảo luận về Thiên Chúa nơi công cộng. Cha mẹ bảo vệ con khỏi ảnh hưởng các tin tức xấu, nhưng… cha mẹ nghĩ rằng đã đến lúc con cần biết sự thật.

– Ba ơi, con không hiểu. Làm sao người ta nghĩ đức tin Công giáo phá bỏ pháp luật chứ? Chúng ta là những người luôn bảo vệ sự sống, nâng đỡ tính thánh thiện của hôn nhân và phục vụ người nghèo. Đó không là những điều tốt sao?

Điều này khó lắm. Khó ngay cả khi nói ra. Nhưng trong mấy năm qua, có những đợt tấn công nhắm vào Giáo hội Công giáo từ phía chính phủ và các nhóm chống tôn giáo bắt đầu leo thang và càng ngày càng tệ hơn. Các tôn giáo khác cũng chịu đau khổ trong thời buổi rất khó khăn này.

Chris cũng cảm thấy bị “sốc” trong thời đại ngày nay, nhưng điều này không xảy ra thoáng qua. Vài năm trước, chính phủ đã đưa ra luật y tế mới ở Hoa Kỳ, kể cả cái mà người ta gọi là “ủy thác”. Điều này bắt những nhà tuyển dụng Công giáo, kể cả các bệnh viện Công giáo, các tổ chức Công giáo phi lợi nhuận và các doanh nghiệp do người Công giáo điều hành để đưa ra phương cách ngừa thai và phá thai cho nhân viên, ngược với các giáo huấn tôn giáo. Có cuộc đấu tranh quan trọng để ngăn chặn điều này xảy ra, nhưng Tòa án Tối cao đã đưa ra luật mới này.

Trong những năm sau đó, chính phủ bắt đầu theo dõi tôn giáo và bắt chối bỏ đức tin. Điều quan trọng kế tiếp chống lại các hội từ thiện của các tôn giáo nhằm đánh thuế và chính phủ trở thành nguồn hỗ trợ từ thiện ở trong nước. Họ thường ủng hộ các nhóm giúp đỡ chính trị. Các tôn giáo bị bách hại, thúc đẩy ngừa thai và phá thai, kể cả các vấn đề khác, nhưng Giáo hội vẫn kiên cường tái xác định giá trị hôn nhân.

– Đó là lý do để chúng ta có Bộ Tôn Giáo sao? Rồi điều gì sẽ xảy ra nữa?

– Không ai biết, nhưng Bộ Tôn Giáo càng ngày càng xóa bỏ dấu vết về tự do tôn giáo ở đất nước chúng ta. Có vẻ như điều xảy ra từ vài năm trước đang thành hiện thực: Chính phủ muốn thay thế Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Các giám mục và linh mục đang phản đối, nhiều người đã bị bắt. Đức giáo hoàng đã kêu gọi cầu nguyện và tích cực hành động từ những người Công giáo, nhưng e rằng chúng ta đã đi quá xa theo vết xe cũ.

Người mẹ cầm tay con trai Chris, nhìn vào mắt con trai và hỏi:

– Chris, cha mẹ yêu con và Chúa Giêsu yêu con. Con biết vậy chứ? Chúng ta sẽ gặp khó khăn đang chờ chúng ta ở phía trước, chúng ta phải kiên cường mà vững tin vào Đức Kitô và Giáo hội. Chính phủ sẽ vui nếu mọi người rời bỏ nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ phượng, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ làm vậy. Con hiểu không?

– Dạ, con hiểu. Con chỉ thắc mắc là tại sao chúng ta lại ở vào tình trạng này.

– Chris nè, cha mẹ thường nói chuyện về những điều tương tự như vậy. Chúng ta có thể nhìn lại mấy chục năm qua và thấy rõ ở đất nước này. Tuy chậm nhưng chắc chắn gia đình truyền thống sẽ không tan rã vì hôn nhân đã được tái xác định. Dễ dàng ngừa thai, phá thai và chủ nghĩa duy vật không được phục hồi đã ảnh hưởng nhiều tới thế hệ của chúng ta. Người ta càng ngày càng ích kỷ và tham lam vì chúng ta đã tạo nên những thần tượng giả tạo trên thế giới này chứ không chú trọng những điều tốt được hứa ban ở trên trời. Hậu quả là chúng ta càng ngày càng xa Chúa và kỳ thị tôn giáo. Sự lãnh đạm và vô cảm đã khiến chúng ta im lặng trước sự bành trướng của sự chuyên chế và bất công khi mà đáng lẽ chúng ta phải nói thẳng nói thật và hành động để ngăn chặn.

Câu trả lời không dễ dàng và chúng ta phải cầu xin ơn can đảm, sức mạnh và khiêm nhường. Chúng ta vẫn bám chặt vào Đức Kitô và Giáo hội dù gặp khó khăn và đau khổ. Chúng ta phải rạch ròi: Chọn Nước Trời hoặc Hỏa Ngục. Hỏa Ngục là đường dễ đi, chỉ cần quay lưng lại phía Đức Kitô. Tức là chúng ta để cho chính phủ làm những gì họ muốn, còn chúng ta không trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta có thể chọn Nước Trời. Chúng ta có thể yêu mến và phụng sự Thiên Chúa, ghi nhớ sự hy sinh cao cả mà Ngài đã thực hiện trên Thánh Giá vì chúng ta. Người ta có thể chọn điều tốt hoặc xấu, cuộc đời chúng ta cũng sẽ thay đổi, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ tìm được Nước Trời nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chris nhìn cha mẹ rồi hạ giọng:

– Chúng ta có thể cầu nguyện ngay bây giờ để xin ơn sức mạnh và can đảm không? Chúng ta cần hỗ trợ nếu chúng ta gặp khó khăn và giúp đỡ Giáo Hội sinh tồn. Con không biết làm gì khác ngoài việc cầu nguyện.

Cha của Chris mau mắn cho xe vô khu mua sắm, dừng lại và lấy tràng hạt ra. Vợ và con trai ông cũng lấy tràng hạt ra và họ cùng làm dấu Thánh Giá: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”.

RANDY HAIN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IntegratedCatholicLife.org)

Y đức và trách nhiệm

Y đức và trách nhiệm

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:02 Sáng 8/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (08.04.2013) – Reader’s Digest – Ngày 7 tháng 4 là ngày Sức Khỏe Thế Giới. Homer định nghĩa: “Sức khỏe là một tinh thần trong sạch trong một thân thể tráng kiện”. Người Việt nói: “Sức khỏe là vàng”. Còn với thầy thuốc thì phải có y đức. Vậy bác sĩ phải làm gì khi bị bắt buộc sát nhân? Một sự giằng co mãnh liệt, một cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Phải can đảm và dứt khoát mới có thể vượt qua được chính mình. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra với một bác sĩ trẻ, y như trong phim vậy. Hãy chung tay xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, vì ai cũng có quyền cơ bản nhất là QUYỀN SỐNG!

Ngày 24-12-1989, một bệnh viện ở miền Nam Trung quốc rất nhộn nhịp từ sáng sớm. BS Wong, 24 tuổi, gặp một tình huống rất khó xử. Đêm đó là ca trực của bác sĩ trẻ này, trách nhiệm mới và đầy hãi hùng. Anh rất mệt vì đã nhịn đói suốt 8 giờ qua. Đó là một ca sinh ba.

Đến 1 giờ sáng anh mới được ngả lưng, nhưng anh không tài nào chợp mắt được. Anh nghĩ đến 3 trẻ sơ sinh, và nghĩ đến cha mẹ mình. Anh đã chọn nghề bác sĩ, một nghề mà ở Trung quốc chỉ được trả lương bằng 1/3 số lương của người phu quét đường. Anh thường nói: “Công việc cao quý nhất là cứu sống người khác”.

BS Wong được nhiều người quý mến vì anh sống khiêm nhường, ăn mặc giản dị, đến cái túi xách đã hư khóa kéo mà anh vẫn xách theo đi làm hằng ngày. Anh quan niệm: “Dụng cụ không làm nên bác sĩ, chính kiến thức và lòng trắc ẩn mới làm nên bác sĩ”.

Khi cảm thấy buồn ngủ, BS Wong chợt nhớ hôm đó là lễ Giáng Sinh. Như hàng triệu người Trung quốc khác, song thân anh cũng là tín đồ Cơ Đốc Giáo. Gia đình anh đã từng mừng lễ Giáng Sinh, trang trí cây Nô-en, và hát bài “Silent Night” (Đêm Thánh Vô Cùng) của Nhạc sĩ Franz Xaver Gruber.

Tiếng gõ cửa làm anh thức giấc. Một nữ hộ sinh nói với anh: “Mau lên, chúng tôi cần anh làm việc này”. Anh bước nhanh theo cô hộ sinh 20 tuổi kia. Anh nghe thấy tiếng khóc chào đời của đứa trẻ. Khi anh tới phòng sinh, một phụ nữ nhễ nhại mồ hôi đang quằn quại trên giường, miệng la to: “Đừng, đừng mà!”.

Cô hộ sinh hút chất iodine vào ống tiêm. Cô cho BS Wong biết rằng phụ nữ này sợ phá thai. Chị đã có một con và đang mang thai con thứ hai được 8 tháng, nhưng luật pháp Trung quốc cấm sinh con thứ hai. Ủy ban kế hoạch hóa gia đình đã bắt chị vào bệnh viện để phá thai. Nhưng đứa bé vẫn sống sau khi trục thai ra. Cô hộ sinh nói: “Tôi yêu cầu người ta chôn sống đứa bé nhưng trời mưa quá, không đem nó đi chôn được”. Gần bệnh viện có một ngọn đồi nhỏ để chôn các thai nhi như vậy.

Là người trực, BS Wong có trách nhiệm không được để cho ai biết chuyện. Nghĩa là tiêm 20 ml iodine hoặc rượu vào đầu đứa bé, và nó sẽ chết ngay trong vòng vài phút. BS Wong cảm thấy “chết đứng” khi nhận ống tiêm từ tay cô hộ sinh. Anh không do dự về ca phá thai đầu tiên của 3 tháng trước khi bắt đầu hành nghề bác sĩ, nhưng lần này khác hẳn. Từ khi anh làm ở bệnh viện này, anh luôn để cho các bác sĩ khác làm nhiệm vụ thay mình. Lần này, người mẹ của đứa bé nhìn anh bằng ánh mắt van lơn. Chị biết mũi kim oan nghiệt kia mang ý nghĩa gì. Chị khóc: “Xin hãy thương hại cháu!”.

Trước vẻ phản đối của người mẹ, anh đi vào phòng tắm. Bên cạnh thùng rác là thùng nhựa màu đen có hàng chữ trên nắp: “Các trẻ em chết”. Tiếng cục cựa và tiếng khóc vang lên. Anh quỳ xuống xin cô hộ sinh mở nắp thùng ra. Anh tưởng tượng ra những đứa trẻ sơ sinh đang ở lằn ranh giữa sự sống và sự chết. Trong thùng có một bé trai nặng khoảng 2,5 kg đang nắm chặt hai tay và đạp chân. Môi nó tím bầm vì thiếu ô-xy. Anh bế nó lên, sờ vào thóp (soft spot) thấy vẫn ấm. Tim anh đập mạnh và nghĩ: “Đây là sự sống, là một con người”.

Tiếng người mẹ vẫn gào lên: “Bác sĩ ơi! Dừng tay lại!”. Cô hộ sinh dúi ống tiêm vào tay anh. Không dưng sao anh thấy nó trĩu nặng. Anh bị giằng co giữa cái thiện và cái ác. Ngay lúc đó, đứa bé đạp chân làm cho ống tiêm đâm vào người nó. Anh liền rút kim ra. Anh nghĩ: “Hôm nay là lễ Giáng Sinh, tôi không thể làm điều này!”. Anh đưa tay sờ lên môi đứa bé. Nó liền bú đầu ngón tay anh. Nó đói. Nó muốn sống. Anh như chết lặng và làm rơi ống tiêm xuống nền nhà và vỡ tan tành!

Anh bảo cô hộ sinh đưa đứa bé tới phòng săn sóc đặc biệt. Anh xin được trực tiếp săn sóc đứa bé. Anh tin rằng một bác sĩ sản khoa ngoài 50 tuổi sẽ không nỡ làm hại một đứa bé vô tội. Anh nói với bà: “Có một bé trai còn sống sau khi đã bị chích thuốc. Xin bà cho nó vào phòng săn sóc đặc biệt”. Bà cương quyết: “Tuyệt đối không được! Đây là đứa con thứ hai rồi!”. Anh năn nỉ: “Nhưng nó vẫn khỏe mạnh. Bà nhìn nó mà xem”. Bà vẫn nhất định không chịu: “Tại sao anh yêu cầu tôi làm như thế? Anh biết chính sách mà!”. Giọng bà đanh lại khiến anh sợ, nói “xin lỗi” rồi bế đứa bé đi.

Tại buổi họp ban cán sự bệnh viện, bác sĩ trưởng thường nhắc nhở tầm quan trọng của chính sách hạn chế sinh sản, và cho biết đã có người phải vào tù vì để cho đứa bé sống. Đó là một đàn ông mập mạp, ít nói, hơn 50 tuổi, chuyên đi buôn bán trẻ em. Mỗi lần được trả 30 tệ. Trung bình mỗi ngày được 4 đứa. Như vậy số tiền ông ta kiếm được gấp đôi lương tháng của một bác sĩ. Anh hỏi một đồng nghiệp: “Sao nhiều vậy?”. Người bạn trả lời: “Vì không ai dám làm như ông kia”. Nghĩa là sau khi trục thai mà đứa trẻ còn sống thì ông ta sẽ chôn sống nó, dù sao thì cũng buộc phải tuân thủ chính sách hạn chế sinh sản của nhà nước.

Vài tuần sau, một cô hộ sinh đưa đến một thai nhi bị trục ra mà vẫn còn sống, rồi bỏ nó bên vệ đường. Nghe tiếng khóc, viên cảnh sát phát hiện và xin được can thiệp. Sau đó liền có lệnh: “Không được đưa thai nhi còn sống ra khỏi bệnh viện, phải tiêm thuốc cho chết”.

Trở lại phòng sinh, BS Wong gặp một đàn ông với khuôn mặt bị nhiều vết roi da. Đàn ông này vội nắm lấy tay anh và nói: “Bác sĩ ơi! Đây là đứa con trai mà chúng tôi mong đợi. Xin đừng giết nó!”. Anh tới phòng tắm. Đứa bé vẫn nằm trên sàn nhà. Anh hỏi cô hộ sinh: “Tại sao cô không làm theo hướng dẫn của tôi?”. Cô hỏi: “Nhưng ai sẽ đưa đứa bé này đi?”. Cô có ý nói đứa bé không có quyền sống. Cô ngạc nhiên khi thấy BS Wong đưa đứa bé đi và đặt nó vào chiếc nôi.

Dưới ánh đèn tia cực tím, với sự hỗ trợ của các ống dẫn dưỡng khí chụp vào mũi và miệng, chân tay đứa bé hồng hào dần. Anh còn cẩn thận quấn cho nó một lớp chăn mềm.

Cô hộ sinh chuẩn bị một ống tiêm khác – lần này là rượu – và đặt trên chiếc khay bên cạnh chiếc nôi. Người mẹ lại khóc lóc, van lơn. BS Wong đặt tay lên vai chị và trấn an: “Chị bình tĩnh. Tôi không muốn hại con của chị đâu. Tôi đang tìm cách cứu nó”. Sản phụ nhẹ giọng: “Tôi sẽ mang ơn bác sĩ suốt đời”.

Cô hộ sinh hỏi bản báo cáo, BS Wong nói: “Đừng viết gì hết!”. Cô hộ sinh thất vọng bỏ đi. Nhìn đứa bé có khuôn mặt kháu khỉnh, tóc đen, anh nghĩ: “Cuộc sống này là QUÀ TẶNG CỦA THƯỢNG ĐẾ, không ai có quyền lấy đi. Có phải đây là cách mà Thượng Đế nói với con người chăng?”.

Anh đến gặp bác sĩ trưởng: “Xin lỗi, tôi không thể làm khác hơn. Tôi cảm thấy đó là tội sát nhân, và tôi không muốn là kẻ sát nhân”. Bác sĩ trưởng hét lên: “Làm sao mà anh nhận mình là bác sĩ sản khoa được chứ? Đừng làm phiền tôi nữa. Cứ làm theo mệnh lệnh!”.

Trở lại phòng sinh, anh thấy đứa bé đang ngủ ngon. Anh chạm tay vào miệng nó thì nó lại bú tay anh. Anh bật khóc và nói: “Vẫn đói hả bé?”. Anh chợt thấy sợ. Anh nhớ tới cha mình. Người có thể giúp gì chăng? Anh gọi điện về nhà. Lương tâm nhắc nhở anh: “KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI!”. Cha anh nói với anh qua điện thoại: “Ba rất hãnh diện về con, con trai ạ!”. Mẹ anh cũng xúc động nói: “Mẹ cũng vậy. Nhưng con phải cẩn trọng đấy. Đừng viết gì hoặc để lại bất kỳ dấu vết nào, con trai nhé!”.

Anh hiểu. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Wong mới 8 tuổi. Cha anh đã bị bắt vì cứu một viên chức bị coi là chống đối chính quyền. Cha anh bị đi đày tới một vùng quê hẻo lánh, còn mẹ anh bị đưa đi tập trung lao động. Lúc đó, Wong và em trai 4 tuổi phải sống nhờ hàng xóm. Hoàn cảnh rất khó khăn!

Anh lưỡng lự, nhưng cha anh nói: “Con có một cuộc sống, đứa bé kia cũng vậy. Giết nó là giết đồng loại của mình”. Anh cúp máy và vội vàng tới phòng sinh. Cửa khóa chặt, cha của đứa bé đập cửa và kêu la: “Xin đừng giết con tôi!”.

Anh chạy vào phòng bằng cửa hông. Bác sĩ trưởng đã có mặt bên chiếc nôi của đứa bé và đưa tay sờ vào thóp nó. Khăn quấn và ống dưỡng khí đã bị lấy đi. Nó đang khóc dữ dội. Anh gào lên khi đưa tay giật lấy ống tiêm: “Xin đừng tiêm nó!”. Bác sĩ trưởng la lên: “Anh làm cái quái gì vậy?”. BS Wong không sợ, tâm hồn anh bình an. Anh nói: “Đứa bé này vô tội. Sao lại giết nó?”. Bác sĩ trưởng lườm anh, và gằn giọng: “Nếu anh tiếp tục cãi lệnh, anh không bao giờ được hành nghề thầy thuốc nữa”. Anh nói: “Tôi thà không làm bác sĩ chứ tôi không giết nó”. Bác sĩ trưởng lầm bầm: “Mày điên rồi!”. Bác sĩ trưởng bỏ đi, anh lại cho đứa bé thở dưỡng khí.

8 giờ sáng, BS Wong bị gọi lên văn phòng để chịu khiển trách và làm bản kiểm điểm: “Tại sao anh không làm tròn trách nhiệm của mình? Họ là bạn bè hay thân nhân của anh sao? Anh nhận tiền của họ à?”. Anh nổi nóng: “Tôi không hiểu ngôn ngữ của họ thì làm sao tôi biết họ muốn gì? Còn tiền ư? Cứ khám tôi sẽ rõ!”.

Các nhân viên trong Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình đến bắt buộc anh tiêm thuốc cho đứa bé chết, nhưng anh nhất định từ chối. Và anh bị bắt. Sau đó, họ giết chết đứa bé bằng một mũi thuốc. BS Wong đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không cứu được đứa bé.

Tuy nhiên, lương tâm anh vẫn thanh thản vì anh không giết người, lương tâm anh không bị cắn rứt, không bị dày vò. Anh rất nhân đạo. Anh là một bác sĩ còn trẻ tuổi đời và tuổi nghề, nhưng anh hành nghề y với cả y đức và trách nhiệm của người thầy thuốc: Cứu người chứ không giết người.

Anh bị đẩy lên cao nguyên, vùng sâu vùng xa, rồi sau đó anh trốn sang Hoa Kỳ. Anh đã thay tên đổi họ là Yin Wong để tránh hậu họa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

Tản mạn ngày Lễ Phục Sinh

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 1/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (01.04.2013) – Sài Gòn – Người Việt có câu “cửa miệng” rất bình dân: “Chó chết là hết chuyện”. Nói vậy là sao? Vì “chó” là loài động vật “phổ biến” đối với dân Bắc (mà miền Bắc là “gốc” của Việt quốc, miền Nam là do “giành dân chiếm đất” từ cuộc Nam Tiến xưa kia).

Câu nói đó giản dị mà thâm thúy, liên quan nhiều thứ, thậm chí liên quan cả đức tin Kitô giáo. Tại sao? Có nói ngoa không? Thưa là “không”. Tại sao là “không”? Thánh Phaolô xác định: “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không trỗi dậy” (1 Cr 15:13). Đức Kitô phục sinh là “ấn tín” chắc chắn rằng chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Bài “Công bố Tin Mừng Phục Sinh” (Exultet), trong đêm Vọng Phục Sinh, nói rõ: “Nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”.

Nếu Đức Kitô không phục sinh vinh thắng, tất nhiên chúng ta cũng không bao giờ sống lại, thế thì niềm tin của chúng ta là hão huyền, cuộc sống của chúng ta vô ích, chúng ta chẳng khác gì “chó chết”, sống rồi chết, người ta ăn tiết canh và “sống trên đời ăn miếng dồi chó”, thế là xong, và thế là “hết chuyện”. Thế thì chúng ta chẳng hơn gì loài động vật hoặc sinh vật. Động vật có giác hồn (sống và biết buồn, biết vui,…), sinh vật có sinh hồn (sống mà không biết vui, buồn,…), nhưng ct có linh hồn (sống và biết buồn, biết vui,… đặc biệt là có đời sống tâm linh).

Sống cũng có những cách sống khác nhau, sống cũng có “điều kiện”. Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Đó mới thực sự là niềm tin của chúng ta.

Tiếng A-lê-lu-ia quá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là trong Mùa Phục Sinh. Tôi không rành khoa ngôn ngữ (ngữ học), chỉ mày mò Việt ngữ cũng chưa “nên thân”, dĩ nhiên là không dám “múa rìu qua mắt thợ”, nhưng thấy người ta nói rằng âm Việt ngữ đọc là A-lê-lu-ia, theo tiếng Hy Lạp là Αλληλούϊα (Ha-lê-lu-ia), thấy các nhà ngữ học trích dẫn Kh 19:3 ghi: “Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp!” (Καὶ δεύτερον εἴρηκεν, Ἁλληλούϊα: καὶ ὁ καπνὸς αὐτῆς ἀναβαίνει εἰς τοὺς αἰῶνας τῶν αἰώνων).

Hallelujah, Halleluia, Allelluja, Alleluia, thậm chí có người còn viết là Alleluya. Viết thế nào? Thực ra đó chỉ là quy ước của nhân loại. Chẳng biết Tây hay Ta, mà chỉ là “ba rọi”, theo thiển ý của tôi, âm “ia” phát âm gần giống Việt âm là “da”, thế thì sao không Việt hóa luôn? Cứ đọc “toạc móng heo” ra là Ha-lê-lu-da hay A-lê-lu-da cho… “khỏe”. Nửa nạc nửa mỡ, chả ai biết thế nào, mà dân Việt mình đâu có vốn ngoại ngữ nhiều, không khéo lại hóa “ngại ngữ” đấy! (Vì cách phiên âm của Việt Nam không thống nhất. Vì dụ: Giê-su hay Giê-xu?).

Viết này viết nọ rồi “minh chứng” là “h aspiré” hoặc “haleine” để làm gì? Có thực sự cần không? Có chăng chỉ cần đối với các nhà nghiên cứu hoặc người biết loại ngôn ngữ đó. Giới bình dân có mấy ai hiểu? Còn hơn là “vịt nghe sấm”. Sao không nói dùng Việt ngữ là “câm” cho mọi người cùng hiểu? Tục ngữ Việt Nam có câu hay lắm: “Thà chết đống hơn sống một mình”. Chí lý thật!

Sự thật mất lòng, nói thẳng như ruột ngựa chứ “vòng vo tam quốc” chi cho rắc rối. Mà bản chất ngôn ngữ là giản dị, nói sao người ta hiểu đúng ý là được, “màu mè” và “rườm rà” chỉ là dạng “chảnh”, muốn chứng tỏ “đẳng cấp” của mình. Khi dịch từ tiếng nước này sang tiếng nước nọ cũng vậy, ai cũng “mắc dịch”, vừa khôi hài vừa thâm ý! Thế nên người ta thường phải sử dụng “ngôn ngữ cơ thể” – Hán Việt gọi là “thể ngữ”.

Chị Maria Mađalêna đã từng bị người ta lôi ra ném đá và được Chúa Giêsu tha bổng (x. Ga 8:2-11), Chị cũng lại bị người ta chê trách khi Chị lấy dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa và lấy tóc mình mà lau (x. Ga 12:1-8), rồi Chị còn hoảng hốt khi thấy mộ trống, tưởng thi hài Thầy bị lấy mất (Ga 20:1-2). Thế nhưng Chị lại là người đầu tiên được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh (x. Ga 20:11-18). Sau khi được Chị báo tin, Giáo hoàng tiên khởi Phêrô còn ngớ người ra khi thấy mộ trống. Đặc biệt là trong Lễ Phục Sinh, Giáo Hội còn có phần Ca Tiếp Liên nói về việc này. Ai dám nói gì thêm không???

Chúa Giêsu phục sinh, đó là niềm hạnh phúc tột đỉnh của nhân loại, của mỗi tội nhân chúng ta. Phàm ngữ không thể đủ từ ngữ để diễn tả, điều duy nhất chúng ta có thể làm là chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ không ngừng, đồng thời phải loan truyền về Đức Kitô Phục Sinh hằng ngày, qua từng động thái!

TRẦM THIÊN THU

Chúa Nhật Phục Sinh – 2013

Sự dị biệt giữa Chúa Giêsu và Muhammad

Sự dị biệt giữa Chúa Giêsu và Muhammad

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:38 Sáng 24/03/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (24.03.2013) – Y-Jesus  – Điều gì khác nhau giữa Chúa Giêsu và Muhammad?

Mặc dù có một số điểm tương tự giữa Chúa Giêsu và Muhammad – như lãnh đạo tôn giáo vĩ đại và ảnh hưởng thế giới, nhưng có những điểm rất khác nhau. Đó là khác nhau về lời tuyên bố, tính cách, quyền phép, ủy thác, quyền năng và sứ điệp. Chúng ta hãy cùng điểm qua các điểm dị biệt này.

Tuyên bố khác nhau

Muhammad nói ông chỉ là một con người; Còn Đức Giêsu tuyên bố Ngài là Thiên Chúa. Thật vậy, Muhammad chưa hề tuyên bố ông là gì khác hơn một con người, một tiên tri của Đấng Allah. Lời cầu nguyện của ông chứng tỏ điều này: “Lạy Thánh Allah! Con chỉ là một con người” (Ahmed, Musnad, Vol. 6, tr. 103).

Mặc dù Đức Giêsu là một con người, cũng cảm thấy đau đớn, đói, khát, mệt mỏi, và cũng bị cám dỗ như chúng ta, nhưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, đồng đẳng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ngài được nói trước là sẽ làm người, Ngài và Chúa Cha luôn hiện hữu là MỘT Thiên Chúa, đồng sáng tạo vũ trụ.

Vài lý thuyết phổ thông, như The Da Vinci Code (Mật mã Da Vinci), cho rằng Giáo hội đã “phát minh” thần tính (divinity) của Chúa Giêsu, nhưng các chứng cớ lịch sử cho thấy các Kitô hữu đầu tiên đã tin rằng Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người.

Kitô giáo không như vậy nếu các môn đệ của Chúa Giêsu không hoàn toàn tin Ngài là Thiên Chúa. Thuật ngữ “Con Thiên Chúa” (Son of God) không có nghĩa là “con ruột” (biological offspring, về phương diện sinh học) hoặc Chúa Giêsu “kém thua” Chúa Cha, mà chỉ phản ánh mối quan hệ lẫn nhau về tính thần thánh (godhead). Các chứng cớ đều cho thấy rõ rằng các môn đệ đã hoàn toàn tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa.

Tính cách khác nhau

Là một con người, Muhammad cũng phạm tội và chết như chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu tuyệt đối không có tội: “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi?” (Ga 8:46). Ngay cả các kẻ thù của Ngài cũng không thể kết tội Ngài đã phá bỏ các Điều răn của Thiên Chúa. Còn Muhammad nhận mình cũng sai lầm, và xin Đấng Allah tha thứ 3 lần (Sura al-Ghafir 40:55; 47:19 al-Fath 48:2).

Quyền phép khác nhau

Muhammad chưa bao giờ làm một phép lạ nào (Qur’an 29:50), nhưng Chúa Giêsu đã chứng tỏ quyền phép đối với thiên nhiên và con người bằng cách làm rất nhiều phép lạ: Chữa người què, mù, câm, điếc, làm sóng yên biển lặng, làm cho người chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, đuổi thần ô uế,…

Ủy thác khác nhau

Chúa Giêsu được các ngôn sứ tiên báo, còn Muhammad thì không. Muhammad không đưa ra các ủy thác nào ngoài sự tiết lộ (revelation). Gần 300 lời tiên tri trong Cựu ước với 61 chi tiết đặc biệt đã được Chúa Giêsu hoàn tất. Chỉ Thiên Chúa mới có thể ứng nghiệm đầy đủ từng chi tiết. Do đó, Chúa Giêsu đã phù hợp từng chi tiết. Thiên nhiệm của Chúa Giêsu được tiên báo bằng Lời Tiên Tri của Thiên Chúa.

Quyền năng khác nhau

Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã chứng tỏ thiên năng của Ngài, còn Muhammad đã chết và xương cốt vẫn ở ngôi mộ tại Medina. Mặt khác, Chúa Giêsu đã sống lại sau 3 ngày bị đóng đinh và đã được các lý hình xác nhận là Ngài đã tắt hơi thở. Cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Ngài là các sự kiện lịch sử mà ngày nay người ta đã chứng minh cụ thể rõ ràng.

Sứ điệp khác nhau

Chúa Giêsu dạy yêu thương và dịu hiền, còn Muhammad dạy quy luật và phục tùng (submission). Muhammad dạy rằng chúng ta phải đạt được ơn cứu độ bằng cách trung thành với Ngũ Trụ Đức Tin Hồi Giáo (Islam’s Five Pillars of the Faith). Nói cách khác, ơn cứu độ của chúng ta tùy thuộc vào nỗ lực của chúng ta. Thậm chí người ta không bảo đảm được ơn tha thứ, và phải nhờ vào lòng thương xót của Đấng Allah để được tha thứ. Một số tín đồ Hồi giáo tin rằng kinh Koran (Qur’an) dạy phải tử đạo vì Đấng Allah thì sẽ được cứu độ và sẽ được thưởng công lên trời.

Chúa Giêsu nói rằng Thiên Chúa tạo dựng chúng ta để thiết lập mối quan hệ với Ngài. Kế hoạch của Ngài là nuôi dưỡng chúng ta trong một thiên gia (heavenly family) với tư cách là những đứa con yêu dấu của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta đã phản nghịch Ngài và phá bỏ luật luân lý của Ngài. Kinh thánh gọi đó là tội lỗi. Sự bất tuân chống lại Thiên Chúa như vậy cần phải xét xử. Các hành vi tốt của chúng ta, tiền bạc, hoặc lời cầu nguyện cũng không thể chuộc lại tội lỗi của mình.

Kinh thánh cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu và xót thương. Ngài đã “trả giá” cho chúng ta bằng chính giá máu của Đức Kitô qua cuộc khổ nạn đau thương và cái chết nhục nhã trên Thập giá. Thánh Phaolô nói: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2:1-5).

Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

Chúa Giêsu dạy rằng ơn cứu độ là tặng phẩm phải được ấp ủ bằng việc tin vào chính Ngài, chứ không là những việc làm của chúng ta. Sự chọn lựa của chúng ta là CHẤP NHẬN hoặc TỪ KHƯỚC ơn tha thứ của Thiên Chúa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Y-Jesus.com)

Nỗi trăn trở của Chúa

Nỗi trăn trở của Chúa

TRẦM THIÊN THU

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (15.03.2013) – Lâm Đồng – Thánh Faustina cầu nguyện: “Lạy Chúa, niềm hy vọng duy nhất của con, con xin đặt trọn niềm tín thác vào Ngài, và con biết con sẽ không thất vọng” (Nhật Ký, số 317).

Ngày 11 và 12-3-2013, Cộng đoàn LCTX Giáo hạt Gia Định đã tổ chức chuyến bác ái mùa Chay tại Trung tâm Tâm thần Trọng Đức (1), cũng gọi là Cơ sở Tình thương Trọng Đức, thuộc Gx Thanh Bình, Giáo hạt Đức Trọng, GP Đà-lạt, tọa lạc tại ấp Thánh Bình 1, xã Bình Thạnh, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Tôi chỉ là “khách mời” được cùng tham dự.

Khởi hành từ Nhà thờ Hàng Xanh lúc 6 giờ 30, chúng tôi đến Cơ sở Tình thương Trọng Đức lúc 12 giờ 30. Được biết, Trại tâm thần Trọng Đức được thành lập năm 2006, được chia thành 2 khu – khu nam và khu nữ. Số bệnh nhân 2 khu có tới gần 400 người, độ tuổi từ 14-70, đủ hoàn cảnh éo le, kể cả thất tình, và đủ dạng bệnh từ nhẹ tới nặng. Các bệnh nhân được “quy tụ” từ khắp miền trên Việt Nam, đa số là ngoại giáo, tỷ lệ bệnh nhân Công giáo chỉ chiếm 5% mà thôi. Trong số bệnh nhân tâm thần có 2 tu sĩ Công giáo và 1 ni cô. Hiện có 2 tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đang thực tập tại đây, các Dòng và các Tu hội thường xuyên thay phiên nhau cử các tu sĩ đến đây thực tập “sống” với người điên.

Trước đây, hai vợ chồng anh Phanxicô Bùi Văn Thu và chị Maria Trần Thị Tươi, cả hai vợ chồng mới ngoài 50 tuổi, đã băn khoăn “nỗi trăn trở của Chúa” nên tự nguyện làm “chuyện bao đồng”. Thấy người tâm thần lang thang không nơi nương tựa, dù gia cảnh nghèo khó, nhưng anh chị Thu-Tươi động lòng trắc ẩn nên đã bàn nhau đưa họ về nuôi. Mới đầu chỉ vài người, số bệnh nhân cứ tỷ lệ thuận tăng dần theo thời gian. Một số ít bệnh nhân nặng phải “biệt giam” vì “quậy” quá!

Khi chúng ta tới thăm, chỉ gặp được chị Tươi. Chị cho biết anh Thu bận đi Đaklak để nhận một số xe lăn của các nhà hảo tâm trao tặng. Thật tiếc vì không gặp được anh vào lúc này! Chị tâm sự rằng LM NS Gioan Nguyễn Văn Minh (Gx Hiển Linh, Giáo hạt Gia Định, TGP Saigon) là linh hướng của anh chị.

Tục ngữ Việt Nam nói: “Đồng vợ, đồng chồng, tát bể Đông cũng cạn”. Thật là đúng quá! Anh chị Thu-Tươi đã có trái tim của Chúa khi “chạnh lòng thương” những người điên sống vất vưởng, và họ đang cố gắng cùng nhau “tát cạn bể khổ” để có thể bơm vào đó đầy “nước yêu thương”. Đó là thực hiện một trong Tám Mối Phúc: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Chúa Trời xót thương” (Mt 5:7).

Đặc biệt là trong số những người phục vụ có cô ruột, chị ruột, vài người con và cháu của chị Tươi. Nhìn họ thì biết họ có vẻ lam lũ, chắc chắn không là đại gia, nhưng họ có trái tim của Chúa. Tôi cảm thấy họ là những vị thánh đang sống giữa cuộc đời trần gian này. Xin Chúa luôn chúc lành cho họ!

Khu bệnh nhân nam có hơn 10 người phục vụ, khu bệnh nhân nữ cũng vậy. Gần 30 người phục vụ đều tự nguyện, không một đồng lương. Mà “phục vụ là tôn vinh Thiên Chúa, vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của Đức Kitô” (2 Cr 9:13). Trò chuyện với họ, tôi thấy “nổi gai ốc” và khâm phục họ, vì họ thực sự can đảm, có lẽ tôi không đủ can đảm như họ. Tôi thấy mình còn dở lắm!

Những người phục vụ cho biết rằng, mỗi sáng đều phải dọn và rửa phòng vì “xú uế” được “xả” ra tứ tung, ngày nào cũng phải giặt mùng, mền, chiếu, quần áo,… Mỗi tối họ phải tắm rửa và giặt giũ cho các bệnh nhân. Một ngày như mọi ngày, những người phục vụ phải làm đủ thứ việc, nhất là phải “chịu đựng” mùi tanh tưởi và hôi thối của những “chất thải từ trong ra”. Cứ tưởng tượng cũng đủ phải khâm phục sức chịu đựng dẻo dai của những người phục vụ ở đây. Không yêu Chúa thì không thể làm được như vậy. Yêu người bình thường đã khó, yêu người điên lại càng khó gấp bội. Không khó sao được vì người điên “nóng, lạnh” thất thường hơn mưa, nắng thì tất nhiên phải chịu đựng lắm mới có thể dịu dàng với những người lúc “hiền” lúc “dữ”. Không tức giận họ cũng là một nhân đức rồi. Bạn có chịu nổi không? Tình “mến Chúa, yêu người” của những người phục vụ tại trại tâm thần này hẳn là phải là vượt trội!

Hoàng hôn buông dần. Nắng vàng võ cuối trời. Đà-lạt dần phủ sương tím lam chứa đầy mộng mơ, nhưng là mơ ước thánh thiện, và mang sắc tím của mùa Chay Thánh. Hoa cà-phê nở rộ màu trắng tinh khiết và tỏa hương thơm ngào ngạt, đó là sự thanh khiết của tình yêu thương, nhưng bên cạnh đó lại có sắc Phượng tím trầm tư khiến lòng người trăn trở về cuộc đời, về số phận con người, nhất là về cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô, và sắc tím hoa Pensée cũng khiến người ta không thể không suy tư về một điều gì đó cao thượng, vượt lên khỏi tầm thấp của trần tục.

Xe bon nhẹ nhàng lăn bánh nhưng lại trĩu nặng nỗi niềm mùa Chay và cái lạnh của tâm hồn mới thấm hơn cái lạnh của khí hậu Đà-lạt.

Chúng tôi nghỉ đêm tại Gx Thiện Lâm (Giáo hạt Đà-lạt, GP Đà-lạt), tọa lạc trên đường Nguyên Tử Lực, P. 8, Đà-lat, Lâm Đồng (hướng từ Vườn Hoa Đà-lạt vào Thung Lũng Tình Yêu). Quản xứ là LM Giuse Trần Minh Tiến (khoảng gần 70 tuổi, nhưng vẫn khỏe mạnh), từ 31-5-1975 tới nay. LM Tiến đã chọn khẩu hiệu “Phục Vụ Trong Tin Yêu” làm kim chỉ nam theo tinh thần phục vụ của Chúa Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao. LM Tiến luôn nêu gương trong việc xả thân phục vụ hết mình theo tinh thần công đồng Vatican II. Trò chuyện với ngài, tôi thấy có nét chân chất, cởi mở và hòa đồng.

Hôm sau, 12-3-2013, sau khi tham dự Thánh lễ, chúng tôi tới thăm các em mồ côi tại Dòng Mến Thánh Giá Khiết Tâm (gần Nhà thờ Dân tộc Camly – 1A Nguyễn Khuyến, P. 5, Đà-lạt). Hiện có 55 em mồ côi, 75% các em bị cha mẹ bỏ rơi, không nhìn nhận, nhưng các em vẫn được các Nữ tu chăm sóc và nuôi dưỡng chu đáo. Buổi sáng, hầu hết các em đi học ở trường (cấp II và cấp III) của nhà nước nên chúng tôi không gặp được.

Nhà thờ Camly có kiến trúc nhà Rông, được xây dựng năm 1960, thời ĐGM Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền (*), với cấu trúc mái ngói đặc trưng. Đặc biệt trong nhà thờ có một tượng Đức Mẹ được đưa từ Pháp qua từ năm 1875.

Sau đó, chúng tôi về lại Trại tâm thần Trọng Đức để tham dự Thánh lễ lúc 10 giờ 30. Dâng lễ hôm nay là LM Phaolô Nguyễn Thanh Sơn (sinh 1974), phó xứ An Hòa (chính xứ là LM Giuse Nguyễn Văn Bảo). Cuối lễ có lãnh ơn toàn xá, vì Trại tâm thần Trọng Đức là nơi lãnh ơn toàn xá của GP Đà-lạt mỗi khi có Thánh lễ.

Dù đại đa số các bệnh nhân tâm thần không là Công giáo, nhưng họ vẫn tham dự Thánh lễ có thể nói là khá “nghiêm túc”, chỉ có vài bệnh nhân “đi ra, đi vô”. Cả nam và nữ, các bệnh nhân đều biết làm dấu, thuộc lòng nhiều kinh và nhiều bài thánh ca, đặc biệt là họ đọc Kinh Lạy cha rất “sành điệu”.

Chị Tươi cho biết giờ sinh hoạt của trại: Hằng ngày, các bệnh nhân đọc kinh 4 lần. Sáng dậy lúc 4 giờ 30, sau đó lần Chuỗi Mân Côi mùa Vui rồi ăn sáng, 10 giờ lần Chuỗi Mân Côi mùa Thương; buổi trưa ăn rồi đi ngủ; 14 giờ lần Chuỗi LCTX, 17 giờ lần Chuỗi Mân Côi mùa Mừng; sau đó tắm rửa và ăn, 20 giờ đi ngủ.

Năm nào cũng có những bệnh nhân xuất trại, nhiều người khỏi hẳn, chỉ một số ít phải trở lại để được “điều trị”. Thuốc men nào có là bao, chẳng đáng gì, chủ yếu là “thuốc thánh” mà thôi.

Phúc Âm của Thánh lễ ngày thứ Ba sau Chúa nhật IV mùa Chay là trình thuật Tin Mừng theo Thánh sử Gioan, nói về một người đau ốm đã 38 năm được Chúa Giêsu chữa lành.

Gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha. Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất toại nằm la liệt ở đó, chờ cho nước động, vì thỉnh thoảng có thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên. Khi nước khuấy lên, ai xuống trước, thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi. Có một người đau ốm đã 38 năm. Đức Giêsu thấy anh ta nằm đấy và biết anh sống trong tình trạng đó đã lâu, Ngài lại gần và hỏi: “Anh có muốn khỏi bệnh không?” (Mt 5:6). Nghe vậy, chắc hẳn anh sướng rơn nên đáp ngay, nhưng với giọng buồn buồn: “Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!” (Mt 5:7). Thật tội nghiệp! Đức Giêsu bảo: “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!” (Mt 5:8). Khỏe re, khỏi phải lết xuống hồ. Thế là anh ta liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi ngon lành.

Chắc chắn những bệnh nhân tâm thần kia cũng muốn được lành, nhưng họ điên nên chẳng phân biệt được điều gì. Chúa cũng hỏi chính mỗi chúng ta, và hẳn là chúng ta cũng muốn khỏi bệnh – tinh thần và thể lý. Nhưng vấn đề là chúng ta có thành tâm và cố gắng hay không, như nhà ngụ ngôn La Fontaine (La Phông-ten) nói: “Hãy tự giúp mình trước, rồi trời sẽ giúp sau”. Thiên Chúa muốn tạo cơ hội cho chúng ta lập công, chứ Ngài chữa thì được ngay, chỉ là “chuyện nhỏ”.

Chúng ta không điên khùng theo nghĩa bệnh thể lý, nhưng đôi khi chúng ta lại điên khùng về nghĩa bệnh tâm linh, bệnh linh hồn. Người Do-thái thấy Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sa-bát, họ tìm cách bắt bẻ và muốn hại Ngài. Nhưng Ngài đã lánh đi. Tình trạng ghen ghét vì thấy người khác hơn mình cũng thường xảy ra trong chúng ta, ngay trong các hội đoàn và giáo xứ. Hãy cẩn trọng!

Sau đó, Đức Giêsu gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (5:15). Đó cũng là lời cảnh báo với mỗi chúng ta, không trừ ai. Quả thật, trong mỗi chúng ta vẫn còn những “núi đồi” kiêu ngạo, những “thung lũng” tham lam, những “hố sâu” ghen ghét,… Đó là những thứ khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa và không thể đến với tha nhân.

Xin mở ngoặc: Khi ở bên khu nam, chúng tôi thấy có một số Phật tử cũ góp chung tiền của để cho các bệnh nhân mỗi người một tô lớn đầy bún chay. Các bệnh nhân vừa ăn vừa trò chuyện rất vui vẻ, có em còn ca cải lương rất “mùi”, xuống xề rất điệu nghệ, giọng ca khỏe và khá hay.

Cũng nên nói thêm, trong chuyến đi bác ái mùa Chay lần này có 2 nữ Phật tử cùng đồng hành với Cộng đoàn LCTX Giáo hạt Gia Định. Họ tâm sự: “Tôi không có đạo, nhưng tôi tin có Chúa ngự trên cao. Tôi làm việc bác ái vì những người nghèo và bệnh nhân là hiện thân của Chúa, giúp họ là giúp Chúa, mai mốt Chúa sẽ rước tôi về”. Những lời chia sẻ thật thâm thúy, chắc chắn Chúa rất hài lòng và chúc lành cho họ.

Luật Chúa rất đơn giản và ngắn gọn: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Chữ “nhịn nhục” của Công giáo hay thật. Khi “nhịn” thì “nhục” lắm, nhưng là “cái nhục thánh thiện”, chính Chúa Giêsu đã “nhịn” và bị “nhục” đến tột cùng. Luật yêu xem chừng đơn giản mà thực hành lại quá nhiêu khê và khó khăn lắm! Do đó mới cần phải không ngừng nỗ lực, và “xé lòng chứng đừng xé áo” (Ge 2:13). Yêu tha nhân là yêu Chúa, đến với tha nhân là đến với Chúa. Đó cũng là sống đức tin và sống mùa Chay vậy!

TRẦM THIÊN THU

(1) Quý vị hảo tâm có thể liên lạc qua email: [email protected]

(2) ĐGM Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền (1906-1973), giám mục tiên khởi của GP Đà-lạt, thụ phong linh mục tại Rôma ngày 21-12-1935, tấn phong giám mục ngày 30-11-1955, giám mục chính tòa Đà-lạt ngày 24-11-1960.

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Đức tin trong giới trẻ ngày nay

Tu sĩ Michael Paul Gallagher, SJ (Dòng Tên), giải thích rằng nền văn hóa mới mà chúng ta đang sống ngày nay không nhất thiết là chống lại niềm tin Kitô, nhưng nó kêu gọi giới trẻ ngày nay quyết định cuộc sống và tâm linh của mình.

Vài tháng trước tại Rôma, tôi có hẹn và đến sớm, tôi dùng thời gian ngắn ngủi đó để cầu nguyện. Bên trong nhà thờ đang có thánh lễ kỷ niệm ngày cưới. Đôi vợ chồng lớn tuổi ngồi ở ghế đặc biệt ngay trước bàn thờ và con cháu ngồi ở hàng ghế trước, ai cũng tươm tất và lộng lẫy.

Linh mục đang giảng, khoảng cầu nguyện riêng của tôi không đủ thinh lặng như tôi muốn. Tôi nghe lời giảng – nhưng với cảm giác buồn gia tăng. Linh mục khen đôi vợ chồng già đã sống chung thủy với nhau 50 năm qua, nhưng rồi tiếp tục chỉ trích “văn hóa hiện đại” thiếu nền tảng, xa rời các giá trị Kitô giáo, ích kỷ và vụn vỡ luân lý. Ngài có vẻ hơi khác với các thế hệ đang nghe ngài nói. Tôi an tâm vì phải rời nhà thờ để đi theo lịch hẹn.

Tại sao hồi tưởng giai đoạn này ở đây? Vì linh mục đó có phần đúng: văn hóa hiện đại có thể làm con người tản mác như đoàn chiên không người chăn mà Phúc âm nói tới. Tiếng nói của ngài có vẻ không đúng với tôi. Ngài không cố gắng bước vào thế giới của giới trẻ hoặc không nhận ra các nhu cầu khác của họ. Ngài có vẻ không thấy cái gì tốt trong cách sống mà họ phải sống.

Từ chủ đề xử lý đức tin theo dạng văn hóa này, hãy để tôi tưởng tượng ra một cách khác. Không chỉ trong một bài giảng. Có nhiều điều để suy nghĩ.

Khi còn sống, ĐGH Gioan-Phaolô II đã thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa (Pontifical Council for Culture) tạiVatican. Tôi làm việc ở đó 5 năm trong đầu thập niên 1990. Ý tưởng đầu tiên của ngài là vươn xa ra thế giới của văn hóa sáng tạo: các nhà tư tưởng, các nghệ sĩ, các văn sĩ, các nhà trí thức,… Đó là lĩnh vực mà ĐGH Gioan-Phaolô II đã quan tâm đặc biệt, tự hóa thân thành một triết gì, một thi sĩ và một kịch sĩ.

Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, ngài mở rộng phạm vi của Hội đồng bao gồm điều mà ngài gọi là “văn hóa sống” (living culture). Dần dần giáo hội nhận ra rằng văn hóa bình thường này là một cách thể hiện mạnh mẽ, định hình cách sống của mỗi người. Như không khí chúng ta hít thở, chúng ta đồng hóa cách nhìn của thế giới, một số giả định thường ẩn về quyền ưu tiên của cuộc sống. Loại văn hóa này là vấn đề của cách sống hơn là các tư tưởng minh nhiên. Nó giống như một tảng băng, lớn có thể nhìn thấy nhưng nhưng không ảnh hưởng gì. Nó như một ngôn ngữ mà chúng ta học và cứ cho là vậy. Nó cho chúng ta những gì chúng ta gọi là “ý nghĩa chung”.

Đại dương văn hóa bình thường này bao quanh chúng ta và đã thay đổi nhiều trong thế hệ vừa qua hoặc khoảng đó. Chúng ta có thể mô tả thế nào về các sự thay đổi này và tầm ảnh hưởng của chúng đối với đức tin? Trước hết, nó đơn giản và hợp nhất hơn trước. Ít nhất là tại Ai-len cho tới thập niên 1960. chúng ta sống trong một thế giới được che chở, theo nghĩa đen là văn hóa vùng đảo (island culture). Đức tin Kitô giáo là một phần di sản hầu như của mọi người. Đức tin đó được lưu truyền trong các gia đình, các giáo xứ và các trường học.

Nhưng ngày nay, tôi nghĩ đây là vấn đề lớin bị linh mục Rôma kia khinh suất, đức tin không thể là một di sản trơn tru như vậy. Nó phải là một quyết định và thường là quyết định lội ngược dòng. Thế nên vấn đề chính là: Giáo hội có thể làm gì để nuôi dưỡng quyết định đó? Có thể ngôn ngữ cũ hơn của đức tin, với sự nhấn mạnh về đức vâng lời và thực hành các bí tích, sẽ nuôi dưỡng người ta như trong quá khứ.

Đôi vợ chồng già kỷ niệm kim khánh hôn nhân kia đã trưởng thành trong thời kỳ đầu của sự chuyển giao đức tin. Có thể họ thấy ý nghĩa sâu xa về Thiên Chúa qua lòng chung thủy của họ đối với việc tham dự phụng vụ. Nhưng con cháu của họ có thể “bơi” trong vùng biển khác, lẫn lộn những dòng nước trái ngược, để nói như vậy. Con đường của họ đến với Chúa Kitô sẽ phải ít thụ động hơn, cá nhân hơn, tâm linh hơn, nhiều tận tụy minh nhiên hơn.

Điều này có phải “văn hóa hiện đại” là kẻ thù của đức tin? Không nhất thiếtnhưng nó phức tạp hơn và dễ lầm lẫn hơn. Trong thời đại mới và kỹ thuật mới, những cách diễn tã cũ về đức tin có thể không có vẻ không quá khả nghi và không thực tế như vậy. Cần có những lối vào mới, không quy trách cho văn hóa.

Vài tháng trước khi được bầu làm giáo hoàng, lúc đó Hồng y Ratzinger đã trả lời phỏng vấn của một tờ báo của Ý hơi chống giáo hội và trả lời câu hỏi về tình hình mới đối với đức tin bằng những từ thế này: “Cốt lõi của Kitô giáo là câu chuyện yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người. Nếu chúng ta có thể hiểu điều này bằng ngôn ngữ cảu ngày nay, mọi sự khác sẽ theo sau… Cách sống ngày nay rất khác và do đó mà cách tiếp cận thông minh là chưa đủ. Chúng ta phải cho người ta những khoảng sống của cộng đồng và của sự phát triển dần dần chung với nhau”.

Nhận biết thử thách mới này là bước đầu tiến về cách nói mới. Đó sẽ là tiếng nói của sự mời gọi chứ không là mệnh lệnh. Đó sẽ là cố gắng đánh thức những ước muốn còn ngủ quên trong tâm hồn mọi người. Điều đó sẽ cho họ khí cụ để hỏi về các phương diện nông cạn của văn hóa đang bao quanh.

Theo một ý nghĩa nào đó, đức tin sẽ luôn ở trong độ căng với đức tin, nhưng như vậy không có nghĩa là chỉ nên than vãn về điều đó. Theo cách nói của thần học gia người Đức Dorothy Soelle: “Điều gây thất kinh trong văn hóa của chúng ta là đa số người ta không có ngôn ngữ để nói về chiều kích tâm linh”.

Lời nhận xét nổi tiếng của Karl Rahner cũng tương tự: “Các tín hữu ngày mai sẽ là những người thần bí hoặc không còn đức tin nữa”. Ông không có ý nói mọi người sẽ trầm mặc hoặc có cảm nghiệm khác thường về Thiên Chúa. Ông nói về sự thần bí hàng ngày, về khả năng nhận ra tiếng gọi và hoa trái Thánh Thần trong những cách chọn lựa và cảm nghiệm bình thường.

Những điều này có nghĩa là đức tin trong tương lai sẽ cần chín muồi hơn để “sống sót” trong một nền văn hóa nhiêu khê hơn, như cây cối chỉ có thể sống trong giông bão nếu rễ của nó đâm sâu và mạnh. Hãy lặp lại lời thơ của thi sĩHopkins:

Niềm hy vọng với lời cầu

Làm đâm bén rễ vào sâu đất màu

(Our hope and our prayer becomes: send our roots rain).

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)

Anh chị Thụ& Mai gởi

 

Giọt nước mắt

Giọt nước mắt

Ai sinh ra cũng khóc. Đứa bé khóc được là thân nhân vui mừng, đứa bé không khóc thì thân nhân… lo. Vậy khóc là “tín hiệu tốt” chứ không phải là cười.

Rồi khôn lớn dần, trong cuộc sống, ai cũng đã từng hơn một lần rưng rưng nước mắt hoặc đầm đìa nước mắt. Mà nói đến nước mắt là nói đến trạng thái khóc. Thường thì khóc là thể hiện tâm trạng buồn. Nhưng cũng có thể khóc vì vui, như thi hào Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Buồn mà lại cười, đó là lúc người ta quá buồn, buồn muốn phát điên, buồn muốn khóc, và rồi khóc đến cạn nước mắt. Có thể đó là “cái bí ẩn” trong cách nói của người Việt Nam thường nói: “Buồn cười quá!”.

Cụ Nguyễn Công Trứ đã từng “khóc”, vì ông đã “ngồi buồn mà trách ông xanh” và mong ước:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức-Kitô-tử-nạn-và-phục-sinh, chúng ta có quyết tâm tích cực hoàn toàn khác:

Kiếp sau xin vẫn làm người

Và làm thánh giữa Nước Trời trường sinh

Chúng ta không chỉ “vẫn làm người”, vì thân xác chúng ta cũng được sống lại và lên trời, đặc biệt là còn làm “thánh nhân”. Nhưng trước khi “về Nhà Cha” hưởng phúc trường sinh vinh quang, chúng ta không thể không phải chịu đau khổ, nghĩa là có những lúc buồn nẫu ruột, buồn đến chết, buồn đến bật khóc,… đến nỗi những người kém lòng tin đã tự tử.

Khóc có nhiều kiểu. Khóc có nhiều nguyên nhân. Khóc có nhiều mức độ. Thế nên nước mắt cũng có nhiều loại, kể cả “nước mắt cá sấu”. Và tất nhiên, nước mắt không chỉ có vị mặn mà còn có những vị khác nữa!

Với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông có “giọt nước mắt ngà”: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa. Ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu… Thôi một giọt nước mắt này, cho cuộc tình đam mê, cho người tình trăm năm… Giọt lệ nào thương vay, tình đành tràn mi cay… Ôi giọt nước mắt ngà cho cuộc tình đầu tiên!”. Giọt-nước-mắt-ngà của NS họ Ngô là giọt-lệ-tình-sầu, một “kiểu” nước mắt của riêng ông.

Người đời có nhiều loại nước mắt, riêng người Công giáo có thêm loại nước-mắt-ăn-năn, nước-mắt-khóc-cho-tội-mình mang vị mặn chát, nhưng đó là loại nước-mắt-thánh-thiện rất cần thiết. Nước mắt làm cho sáng mắt, và nước mắt có thể làm “trôi đi” phần nào nỗi buồn.

Tác giả Thánh vịnh có kiểu khóc thế này: “Tôi lang thang như người khóc mẹ, tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi” (Tv 35:14). Nước mắt chảy nhiều đến nỗi tác giả “xin lấy vò mà đựng nước mắt” (Tv 56:9), và thường đem “nước mắt hoà nước uống” (Tv 102:10). Có những giọt nước mắt bình thường hoặc tầm thường, nhưng có những giọt nước mắt quý giá – gọi là châu lệ.

Thánh Phaolô cũng đã từng phải khóc: “Tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm” (2 Cr 12:21).

Thánh sử Luca tường thuật: “Có một phụ nữ tội lỗi cúi sát chân Chúa Giêsu mà khóc. Chị lấy nước mắt mình mà tưới ướt chân Ngài, lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Ngài và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7:38). Những giọt nước mắt như vậy thực sự là châu lệ, vì đầy tâm tình sám hối và tin yêu. Do đó, Chúa Giêsu đề cao tấm gương của phụ-nữ-tội-lỗi này: “Yêu nhiều nên được tha nhiều” (Lc 7:47).

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày Đại Tang của Giáo hội, đúng ra là Thế Giới Tang. Nhiều người chú trọng nhiều đến “bề ngoài”, lo “bày tỏ” bằng những cách để đánh vào thị hiếu của giới bình dân. Nếu thực sự ngoại tại có thể giúp nội tại thì cũng tốt, nhưng đừng thái quá. Điều cần là “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2:13). Khóc cho tội và chết cho tội là thành tâm sám hối và quyết tâm chừa tội, đó mới là cách Chúa muốn. Cứ lo “diễn” bề ngoài mà không chú ý nội tâm thì chắc chắn Chúa không muốn.

Chính Đức Giêsu cũng đã khóc vì thương tiếc thành Giêrusalem (x. Lc 19:41), nhưng khi người ta than khóc Ngài vì thấy Ngài vác Thập giá, dù Ngài đang rất mệt mỏi và đau đớn mà vẫn ráng quay lại nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28).

Đó cũng chính là lời cảnh báo Ngài nói thẳng với chúng ta. Và rồi khi “Ngài ngự đến giữa đám mây”, nghĩa là lúc Ngài đến thế gian lần thứ hai, “ai nấy sẽ thấy Ngài, cả những kẻ đã đâm Ngài. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy Ngài” (Kh 1:7).

Cuộc đời là chuỗi-đau-khổ-đầy-nước-mắt, nhưng chính đau khổ lại là diễm phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Khóc không bị chê trách mà được chúc phúc. Giọt-nước-mắt đó đầy vị-mặn-yêu-thương. Chỉ có một loại nước mắt tệ hại nhất và vô phúc nhất là giọt-nước-mắt-trong-hỏa-ngục, vì phải đời đời “khóc lóc và nghiến răng” (Mt 8:12; Mt 13:42; Mt 13:50; Mt 22:13; Mt 24:51; Mt 25:30; Lc 13:28).

Chúa Giêsu đã dùng chính sự thất bại để chiến thắng, dùng chính đau khổ để đạt vinh quang, và dùng chính cái chết để đạt sự phục sinh. Đấng Cứu Thế đã vậy thì chúng ta không thể không như Ngài – nghĩa là cũng phải khóc lóc và rơi lệ hằng ngày. Tuy nhiên, Ngài đã chết để chúng ta được sống, và rồi “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt chúng ta” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Lạy Chúa Cha hằng hữu đầy lòng thương xót, vì tội lỗi khốn nạn của chúng con mà Ngài bắt Đức Kitô, Con Yêu Dấu của Cha, phải chết đau thương. Chúng con thành tâm xin lỗi Đức Giêsu Kitô, xin cho nước mắt của chúng con được hòa với Máu và Nước của Ngài để nài xin lòng thương xót cho chính chúng con và toàn thế giới. Chúng con khẩn thiết Chúa Cha thương xót và tha thứ cho chúng con, xin giúp chúng con trung tín với Ơn Chúa để đừng làm khổ Đức Giêsu chút nào nữa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Anh chị Thụ & Mai gởi

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 23/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (23.02.2013) – NewTheologicalMovement  – Thánh Thể là Bí tích Yêu thương do chính Chúa Giêsu thiết lập để hằng ngày ở với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Hãy cùng nhau tìm hiểu về Thánh Thể để củng cố đức tin Công giáo về Bí tích này, và cũng là để “kiểm điểm” mức độ tin yêu mà chúng ta dành cho Thánh Thể vậy!

Mặc dù có truyền thống phổ biến liên kết việc thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti) với phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, có lẽ có chút liên quan về lịch sử đối với sự xác nhận như vậy. Từ điển Bách khoa Công giáo (Catholic Encyclopedia) nói rằng lễ này không liên quan phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, nhưng liên quan thị kiến của thánh Juliana Mont Cornillon, người đã sống tại Bỉ hồi đầu thế kỷ XIII.

Tuy nhiên, mặc dù có thể là thực sự có chút liên quan lịch sử giữa phép lạ Thánh Thể và sự thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa, lòng sùng kính phổ biến của các tín hữu (nhất là ở Ý) và mừng kính long trọng hàng năm ở 2 thành phố của Ý, gợi chúng ta nhớ tới phép lạ Thánh Thể khi chúng ta mừng kính lễ trọng này ngày nay.

Khi chúng ta cân nhắc sự thật về phép lạ Thánh Thể, chúng ta có thể có một câu hỏi khác: Nếu chúng ta tin sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tính Thánh Thể khi thuộc tính ngẫu nhiên vẫn còn (nghĩa là Chúa Kitô hiện diện khi Thánh Thể vẫn còn hình bánh và rượu), chúng ta sẽ làm Thánh Thể thành gì khi không còn hình bánh và rượu thay vì biến thành thịt và máu? Chúa Kitô có còn trong Thánh Thể sau một phép lạ Thánh Thể? Nếu Ngài vẫn còn đó, chúng ta sẽ kết luận phép lạ Thịt và Máu hữu hình vẫn là thịt và máu được thụ thai và hạ sinh bởi Đức Trinh nữ Maria? Nói cách khác, phép lạ Thánh Thể có giống như thánh tích của Chúa Giêsu?

Trong một câu hỏi phức tạp như vậy, chúng ta hãy trở lại với hướng dẫn của vị Tiến sĩ Thiên thần (Angelic Doctor, tức là thánh Thomas Aquinas, linh mục Dòng Đa Minh, tác giả bộ Tổng luận Thần học). Chúng ta nhớ rằng thánh Thomas Aquinas là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” – summus theologus simulque Christi eucharistici fervidus cantor (CP Gioan-Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 62).

Thánh Thể Chúa Kitô có là thật khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong Bí tích này? (Summa Theologica III, Q. 76, Art.

Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích này khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present), như đã nói ở trên (A. 6). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.

Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, có vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.

Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion), như đã nói ở trên (Q. 75, AA. 2, 3, 4). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.

Ngược lại, khi xảy ra các phép lạ như vậy, sự sùng kính tương tự dành cho Thánh Thể như trước đó, không được sùng kính nếu Chúa Kitô không thực sự ở đó, với Đấng mà chúng ta tôn thờ hết lòng (giáo hội dùng từ “latria”, nghĩa là sự tôn thờ tối thượng chỉ dành cho Thiên Chúa). Do đó, khi có phép lạ như vậy, Chúa Kitô ẩn trong bí tích.

Phép lạ như vậy xảy ra theo 2 cách, đôi khi thấy theo dạng thịt và máu, hoặc một em bé. Đôi khi phép lạ xảy ra tùy người mục kích (beholder), mắt họ ảnh hưởng như họ thấy thịt, máu, hoặc em bé, nhưng trong bí tích không hề thay đổi. Và điều này có vẻ xảy ra khi người này nhìn thấy ở dạng thịt và máu hoặc một em bé, còn người khác lại thấy ở dạng bánh; hoặc cũng người đó thấy ở dạng thịt hoặc em bé suốt cả tiếng đồng hồ, sau đó lại thấy ở dạng bánh. Không hề có mánh khóe lừa dối ở đó, như thấy trong ảo thuật, vì dạng như vậy được hình thành một cách siêu phàm trong mắt nhìn để miêu tả sự thật nào đó, nghĩa là, vì mục đích cho thấy thân thể Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể; y như Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ trên đường đi Emmaus mà không hề bị lừa dối hoặc ảo giác.

Thánh Augustinô nói (De Qq. Evang. ii): “Khi sự đòi hỏi của chúng ta được ám chỉ tầm quan trọng nào đó thì đó không là điều dối trá, mà là sự thật”. Và vì thế, theo cách này, không có sự thay đổi nào trong bí tích này, nghĩa là, khi có những phép lạ như vậy, Chúa Kitô không ngừng ở trong bí tích Thánh Thể.

Nhưng đôi khi một phép lạ như vậy xảy ra không chỉ bằng một sự thay đổi ở những người mục kích, mà bằng sự hiện hữu thực sự theo bề ngoài. Và điều này thực sự xảy ra khi được mọi người mục kích phép lạ như vậy, không chỉ kéo dài suốt một giờ mà kéo dài một thời gian đáng kể; trong trường hợp này là dạng đúng của thân thể Chúa Kitô. Đôi khi không là vấn đề dù toàn bộ thân thể Chúa Kitô có được thấy trọn vẹn ở đó hay không, nhưng phần nhục thể, hoặc không được thấy trong dạng trẻ trung, nhưng ở dạng giống như một em bé, vì nhục thể nằm trong một thân thể vinh quang được nhìn thấy qua con mắt không vinh quang – dù toàn bộ hay một phần, và dưới chính dạng giống nhau hoặc dạng lạ, như sẽ được nói sau đây (Suppl., Q. 85, AA. 2, 3).

Nhưng điều này có vẻ không khác. Trước tiên, vì thân thể Chúa Kitô ẩn trong dạng đúng có thể chỉ được thấy ở một nơi, được chứa đựng theo một khía cạnh nào đó. Do đó, vì được nhìn thấy theo dạng đúng, và được tôn thờ trên trời, không được thấy theo dạng đúng trong bí tích. Thứ hai, vì một thân thể vinh quang, hiện ra tùy ý (at will), biến mất tùy ý sau khi xuất hiện; như vậy điều này được Lc 24:31 kể lại rằng “mắt các môn đệ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất”. Nhưng điều đó xảy ra giống như thịt trong bí tích Thánh Thể, tiếp tục một thời gian dài. Thật vậy, theo nhiều giám mục, “phép lạ Thánh Thể” được giữ trong chén thánh (pyx).

Do đó, người ta vẫn nghĩ rằng, khi các chiều kích vẫn giống như trước, có sự thay đổi mầu nhiệm trong các ngẫu nhiên khác – như hình dạng, màu sắc, và phần còn lại, để nhìn thấy thịt, hoặc máu, hoặc một em bé. Và như đã nói, đây không là lừa dối, vì “để giới thiệu sự thật”, nghĩa là, phép lạ chứng tỏ rằng Mình và Máu Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, rõ ràng như các chiều kích vẫn còn, là nền tảng của những điều khác, như sẽ thấy sau đây (Q. 77, A. 2), thân thể Chúa Kitô vẫn hiện dian65 trong Bí tích Thánh Thể.

Khách thể hồi đáp 1: Khi phép lạ xảy ra, đôi khi dạng bí tích vẫn tiếp tục hoàn toàn; và đôi khi chỉ là phần chính, như đã nói ở trên.

Khách thể hồi đáp 2: Như đã nói ở trên, khi xảy ra phép lạ, dạng đúng của Chúa Kitô không được nhìn thấy, nhưng dạng mầu nhiệm được thấy theo mắt nhìn của người mục kích, hoặc theo chính chiều kích bí tích.

Khách thể hồi đáp 3: Chiếu kích của bánh rượu được thánh hiến vẫn tiếp tục, trong khi sự thay đổi mầu nhiệm xảy ra ngẫu nhiên, như đã nói ở trên.

Kết luận

Như vậy, thánh Tiến sĩ Thiên thần trả lời “có” và “không” – nghĩa là ngài trả lời tích cực theo câu hỏi thứ nhất, và trả lời tiêu cực theo câu hỏi thứ hai của chúng ta.

Chúa vẫn hiện diện thật sau phép lạ Thánh Thể? Đúng, có 2 vấn đề. Trước tiên, vì số lượng chiều kích tiếp tục tồn tại, “chất liệu” vẫn còn. Hơn nữa, sự thay đổi bề ngoài (bánh biến thành thịt và rượu biến thành máu) là biểu hiện “thực tế thật” (true reality) của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Do đó, trong phép lạ Thánh Thể, sự hiện diện thật của Chúa Kitô vẫn có trong Thánh Thể.

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Kitô vẫn hiện diện trong Thánh Thể như khi Ngài còn tại thế. Phép lạ Thánh Thể có như thánh tích của Chúa Giêsu? Không, lại có 2 vấn đề. Trước hết, vì vấn đề như vậy nghĩa là Thánh Thể không còn là bí tích. Điều này phân biệt sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể với sự hiện diện của Chúa Kitô trên trời, Ngài hiện diện ở dạng đúng trên trời trong khi Ngài hiện diện ở dạng bí tích trong Thánh Thể. Hơn nữa, nếu phép lạ Thánh Thể là Mình Máu Chúa Giêsu theo thể lý và ngẫu nhiên, như thế thì phép lạ Thánh Thể sẽ ngừng chứa đựng toàn bộ Chúa Kitô nhưng chỉ là “một phần” (a piece) của Đấng Cứu Độ – như vậy, chúng ta thấy không “ăn khớp” thế nào khi nghĩ về Thánh Thể (ngay cả sau phép lạ Thánh Thể) là thánh tích của Chúa Giêsu; vì thánh tích chỉ là một phần của một vị thánh, nhưng Chúa Kitô hiện diện hoàn toàn và trọn vẹn trong mỗi phần của Bí tích Thánh Thể.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NewTheologicalMovement.blogspot.com)

Ghi chú: Ecclesia de Eucharistia: Tông thư về Thánh Thể do CP Giáo hoàng Gioan-Phaolô II ban hành ngày 17-4-2003 (Tông thư thứ 14 của ngài trên cương vị Giáo hoàng). Summa Theologica: Bộ Tổng luận Thần học của Thánh Tiến sĩ Thiên Thần Thomas Aquinas, Linh mục Dòng Đa-minh.

Thiên Chúa mời gọi mùa Chay

Thiên Chúa mời gọi mùa Chay

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:17 Sáng 22/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (22.02.2013) – onlineministries – Mùa Chay là mùa Thiên Chúa mời gọi riêng từng người: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Chúng ta trả lời: “Chúng con sẽ trở về”, nhưng chúng ta lại chưa sẵn sàng, chúng ta chưa thực sự chuẩn bị tâm hồn, còn nuối tiếc! Chúng ta muốn lòng vòng, lẩn tránh, lần lữa, viện cớ… Tâm hồn chúng ta chưa hoàn hảo. Chúng ta chưa sẵn sàng để Thiên Chúa yêu thương chúng ta!

Đúng vậy, nhưng chúng ta rất muốn quan hệ thân mật với Thiên Chúa, chúng ta nhiệt thành tự nhủ như vậy. Và chúng ta sẽ… Không bao lâu nữa. Chúng ta vẫn trì hoãn. Thiên Chúa lại mời gọi chúng ta: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Vâng, lạy Chúa, con sẽ trở về với Ngài. Con chỉ còn vài việc cần làm nữa thôi. Trước tiên cho con thêm thời gian để cầu nguyện. Rồi con sẽ hòa giải. Xin cho con lau chùi nhà bếp, dọn dẹp nhà cửa, bán bớt mấy thứ lặt vặt, chăm sóc miếng đất con mới mua,… Thiên Chúa nhắc lại: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Đó là lời mời gọi đặc biệt dành cho mỗi chúng ta, theo cách riêng của mỗi người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng biện hộ vì điều đó là khoảng cách giữa chúng ta và Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn là chúng ta nhận biết các tiêu chuẩn của mình, cách phê bình và cách yêu thương của chúng ta cũng rất khác cách của Thiên Chúa. Ngài cho chúng ta cả mùa Chay, cả cuộc sống, vì yêu thương chúng ta vô điều kiện, dù chúng ta làm gì hoặc nghĩ gì mà chúng ta giấu giếm Ngài.

Từ thứ Tư lễ Tro, ngày khởi đầu mùa Chay, các bài đọc đều nhắc lại lời Chúa: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Tv 51 cũng nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin tạo cho con trái tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ”. Đó là chính xác những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta, đó chính là niềm vui ơn cứu độ.

Ở Bắc Mỹ, mùa Chay rơi vào mùa Đông, những ngày này lạnh lẽo và tối tăm, hoàn toàn phải giấu mình trong nhà, hoàn toàn ẩn mình khỏi Thiên Chúa – chúng ta nghĩ vậy. Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên trì, yêu thương, nhân hậu. Thiên Chúa là Người Cha của Đứa Con Hoang Đàng, nhẫn nại chờ đợi, tha thiết muốn đứa con trở về, chờ suốt ngày thâu đêm. Không hề khép vòng tay, không hề có ánh mắt xét đoán, chỉ có đôi mắt mỏi mòn chờ đứa con trở về. Thiên Chúa khao khát được ôm choàng lấy chúng ta và vui mừng thấy chúng ta trở về.

Nhưng chúng ta vẫn quan ngại tìm cách nào để trở về và đắn đo lời nói, tìm cách để đối thoại. Đó chỉ là lúc chúng ta còn ở xa, lúng túng và lẫn lộn, nhưng chúng ta không cần phải nói chi cả, chúng ta chỉ cần cho Ngài nhìn thấy chúng ta.

Hãy nhìn con đường phía trước: Thiên Chúa yêu thương đang vui mừng khi nhìn thấy chúng ta trở về. Lời mời gọi của Ngài đã được chúng ta nghe thấy và đáp lại: “Chúng ta phải mau về nhà thôi!”.

Nhưng điều gì cản trở chúng ta về đoàn tụ với Cha? Điều gì khiến chúng ta không đáp lại lời mời gọi để trở về sống với Thiên Chúa? Đó là sự trì hoãn, lần lữa, so đo: “Từ từ… Chờ chút… Vì không biết Thiên Chúa có biết mình hay không…”.

Tất cả không thành vấn đề. Chỉ cần biết rằng chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Ngài đang mỏi mòn chờ đợi chúng ta trở về để được ôm hôn mỗi chúng ta. Vậy chúng ta phải mau trở về! Tiếng Chúa vẫn âm vang: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Chấp nhận lời mời gọi này là điều đơn giản nếu chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi. Những gì chúng ta cần làm là thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây. Con phải bắt đầu từ đâu? Vâng, con muốn được ở bên Ngài”. Lòng chúng ta đã mở ra và chúng ta đã bắt đầu bước về phía người cha đang đứng ở phía trước. Không cần giải thích chi hết, chỉ cần vui mừng trong yêu thương mà nhìn vào ánh mắt nhân từ của Thiên Chúa đang nhìn chúng ta.

Bước kế tiếp trên đường về nhà là gì? Chúng ta có thể dùng những giây phút đầu ngày, trước khi ra khỏi giường, để tạ ơn Chúa đã dành cho chúng ta lời mời gọi yêu thương như thế, và xin Ngài mở lòng chúng ta để chúng ta có thể đón nhận. Hãy bắt đầu từ hôm nay, đang là thời gian mùa Chay. Suốt ngày, chúng ta có thể nhớ lời mời gọi của Chúa khiến lòng chúng ta lay động: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Và chúng ta có thể cùng vui mừng với Thiên Chúa.

Đó là lời mời gọi mỗi ngày trong mùa Chay. Hôm nay là ngày chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ onlineministries.creighton.edu)

TẤM LÒNG

TẤM LÒNG

Trầm Thiên Thu
tro ve

Triết gia Pascal nói: “Con người là cây sậy có lý trí”.  Một cách diễn tả dung dị dễ hiểu.  Điều đó mặc nhiên rằng con người là sinh vật bất túc, bất trác và bất toàn, với một số phận mong manh không khác đóa phù dung.  Và vì thế, con người cứ miệt mài ngày đêm đi tìm Chân-Thiện-Mỹ theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48).  Nghĩa là phải chiến đấu và vươn lên không ngừng, với khát khao tìm về cái gọi là “nhân chi sơ tính bổn thiện” sau những ngày (có thể) sa chân lầm lạc hoặc lỡ để bàn tay nhúng chàm.

Con người yếu đuối nên dễ “nhiễm” cái xấu hơn cái tốt, nhưng hẳn là khôn hơn khi chưa vấp ngã. Phêrô, một ngư ông chất phác, được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ, và dù đã “thẳng thừng” chối Thầy mình, ông vẫn được Ngài cất nhắc lên làm Giáo hoàng tiên khởi, làm “hoa tiêu” đưa Con thuyền Giáo hội vượt qua ngàn trùng sóng gió, vì chính ông đã có kinh nghiệm bản thân.  Vấn đề không phải là tốt hay xấu, giỏi hay dốt, mà là biết thành tâm sám hối, biết sửa sai và phục thiện, để sống tốt hơn và lợi ích cho tha nhân.

Thật vậy, đời người là một chu-kỳ-ăn-năn không ngừng.  Hết lỗi lầm này đến sai lầm khác.  Rồi ăn năn. Rồi tái phạm.  Và rồi lại hối hận… Vậy đó, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu.  Càng nhiều tuổi càng “nói dối” nhiều: Ai càng sống lâu càng xưng tội nhiều lần mà vẫn chưa chừa được!  Chúng ta chỉ là những kẻ nói dối Chúa!  Ai cũng quyết lên án nhưng rồi không ai dám ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8:2-11), thế nên họ đều lần lượt bỏ đi, người lớn tuổi đi trước, kẻ nhỏ tuổi đi sau, vì không ai thấy mình sạch tội.  Vâng, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán!

Nói vậy không có nghĩa là không cần hoàn hảo vì không thể hoàn hảo.  Vẫn phải cố gắng tìm sự hoàn hảo: Hoàn hảo ngay trong cái chưa hoàn hảo.  Nếu tưởng mình hoàn hảo tức là chưa hoàn hảo.  Thật vậy, “ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, đó là lừa gạt chính mình” (Gl 6:2-3).  Những người theo chủ-nghĩa-hoàn-hảo, gọi là cầu toàn, luôn làm ra vẻ hoàn hảo để mong được tiếng khen, dễ nóng giận với chính mình và luôn chê trách hoặc ghen ghét người khác.  Thực ra đó chỉ là cách che giấu cái bất toàn của mình.

Quả thật, con người quá yếu đuối và luôn đầy tham vọng.  Nhưng không vì thế mà ỷ lại hoặc cố chấp, biện hộ cho những gì mình làm.  Ngược lại, phải tự biết chấp nhận mức độ hữu hạn của mình để luôn biết làm việc tận tụy bằng tất cả tâm lực mà không đòi hỏi gì thái quá nơi người khác.  Đức Giêsu đã nói: “Ai trung thành trong việc nhỏ sẽ trung thành trong việc lớn” (Lc 19:12-27).  Hãy tự giành cho mình những việc khó và dành cho người khác những việc dễ, nhưng không hề miễn cưỡng hoặc tỏ vẻ khó chịu.

Mùa Chay là thời gian cần thiết để suy gẫm, tĩnh tâm, vì đời người như một cỗ máy, thỉnh thoảng vẫn cần được tu sửa – dù tiểu tu, trung tu hoặc đại tu.  Mùa Chay cũng là dịp “nhìn lại” số km mình đã đi qua để biết phải cố gắng thêm ít hay nhiều, như máy móc phải châm thêm hoặc thay dầu nhớt, chứ không thể tự mãn.  Ăn chay phải gắn liền với cầu nguyện, vì “bao lâu ta chưa thôi cầu nguyện là dấu chắc chắn Chúa đang thương” (Thánh Augustinô).  Cầu nguyện là mãnh lực khả dĩ chiến thắng tất cả!

Ăn chay song song với tịnh tâm.  Không nhất thiết phải làm điều gì vĩ đại mà chỉ cần “chấn chỉnh” hoặc “cởi bỏ” một thói xấu hoặc một động thái nào đó…  Thiết tưởng đó mới là cách “trở về” hữu ích và đẹp lòng Chúa.  Có thể là hy sinh không đi chơi, bớt hoặc bỏ hút thuốc, giảm uống cà-phê, bớt uống rượu, thôi cờ bạc, ít tán gẫu, không xét đoán, chăm học hơn, quan tâm nhau hơn, sống hòa đồng hơn, nghiêm túc hơn,… Đó chính là những Vị Ngọt làm cho ly-cà-phê-không-đường đời mình thêm đậm đà hương vị, để không chỉ cho riêng mình “thưởng thức” mà còn cho cả những người xung quanh cùng “nếm thử”. Và còn mãi dư vị làm sảng khoái…

Trở về là hành-trình-vui nếu biết trở về với cả tấm lòng sau những năm tháng hoang đàng.  Thiên Chúa luôn nhân hậu và đại lượng vẫn từng giây mong chờ tội nhân trở về nương náu Tình Yêu Thiên Chúa. Dù tội lỗi đến đâu, dù thất vọng nhưng đừng tuyệt vọng, Thiên Chúa vẫn nhân hậu vô cùng, chỉ cần chúng ta biết thành tâm sám hối, vì chính Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Josefa Menendez (1890–1923, Dòng Thánh Tâm): “Sự khốn nạn của con lôi cuốn Cha”.  Thật là may mắn và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta có một Vị Thiên Chúa từ bi ngoài sức tưởng tượng của loài người!

Tình Yêu Chúa là thế, yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu đến giọt máu và giọt nước cuối cùng, vì vậy mức độ yêu Chúa của chúng ta phải theo cách thức của Thánh Bernard: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”.  Con người với nhau rất cần một tấm lòng thì với Thiên Chúa, Ngài cũng chỉ cần chúng ta dành trọn cho Ngài một Tấm Lòng mà thôi!

*************************

Lạy Chúa, chúng con thật yếu đuối, “điều con muốn thì con không làm, điều con không muốn thì con lại làm” (x. Rm 7:19).  Thật trớ trêu thay! Nhưng Ngài vẫn không chấp, vẫn sẵn sàng tha thứ tất cả, tha thứ vô điều kiện chỉ vì Tình Yêu Ngài dành cho con luôn trọn vẹn, trước sau như một.  Có nhiều lúc con cô đơn và thất vọng ê chề, xin Ngài thương độ trì, vì con xác tín “Ngài là Đấng đã gọi con, Ngài đang ở với con, Ngài không để con cô đơn một mình” (Ga 8:29) và “xin thêm đức tin cho con” (Lc 17:5).  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen!

Trầm Thiên Thu

From: langthangchieutim

và Anh chị Thụ & Mai gởi