Xuân trong ca dao và tục ngữ

Xuân trong ca dao và tục ngữ


Trầm Thiên Thu

01/22/2014

Dân gian “đúc kết” kinh nghiệm cuộc đời thành hai điều đơn giản: “Sống Tết, chết giỗ”. Hai điều đó có vẻ đơn giản thôi, thế nhưng cũng nhiêu khê lắm.

Theo sách “Le Khmer”, trước kia dân Việt ăn Tết theo Trung Quốc, nhưng cũng có thời gian dân Việt ăn Tết theo Chiêm Thành. Tết này bắt đầu vào tháng Hai âm lịch, có đủ lễ lạc, vui chơi, hát xướng, rượu chè,… trong ba ngày liên tiếp, nhưng người ta cũng đi thăm viếng nhau, và cũng có nhiều điều kiêng cữ. Trong mấy ngày ấy, dù gặp kẻ thù thì người ta cũng chào và chúc mừng nhau. Theo tục lệ người Chiêm, ngày ấy là ngày “xóa bỏ hờn giận”. Ý nghĩa Tết như vậy rất nhân bản, tốt lành và cao thượng.

Trẻ em còn vô tư nên háo hức mong Tết mau đến. Người lớn có những người cũng mong Tết, nhưng sự mong chờ của họ mang “ý nghĩa” khác hẳn so với trẻ em, thậm chí có người thực dụng, họ mong Tết để có lợi về vật chất.

Tuy nhiên, có những người không hề mong Tết, họ nghèo khổ quá nên họ sợ Tết, nếu có thể thì họ chỉ mong “đừng có Tết”. Buồn lắm thôi! Nhưng thời gian cứ luân phiên, tứ thời bát tiết tuần tự theo quy luật tự nhiên của đất trời. Cứ đến cuối năm thì những người nghèo lại “giật mình” như điện giật, như chớp bể mưa nguồn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Cái lo ngày thường đã khiến họ rối trí rồi, cái lo ngày Tết làm họ càng nhức đầu hơn. Nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Nỗi khổ cứ chồng chất, làm sao vui được!

Cả năm đầu tắt mặt tối, bán lưng cho trời bán mặt cho đất, từ sớm tới khuya không ngơi tay, thế mà vẫn chẳng thấy chút niềm vui: “Đi cày ba vụ, không đủ ăn ba ngày Tết”. Nghe người ta chúc giàu sang phú quý mà thêm mủi lòng, cũng đành cười gượng để gọi là Xuân. Người nghèo đáng thương biết bao!

Ngày Tết là dịp vui Xuân, bù đắp những ngày tháng cực nhọc vất vả suốt năm, có lợi cho cả tinh thần và thể lý. Nhưng thương thay, có những người “gọi là” nghỉ ngơi ăn Tết mà lòng vẫn lo ngay ngáy:

Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không yên

Khổ quá! Bình thường thì chẳng ai biết ai thế nào, nhìn thấy họ vất vả nhưng chưa chắc khổ, hoặc nhìn thấy họ nhàn hạ nhưng chưa chắc sướng. Có “cháy nhà mới lòi mặt chuột”. Kinh nghiệm dân gian cũng cho biết: “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có Ba mươi Tết mới hay”. Hoặc như ca dao phân tích:

Có, không: đến mùa Đông mới biết
Giàu, nghèo: ba mươi Tết mới hay

Chuyện giàu – nghèo đã vậy, như một quy luật muôn thuở, như “phần cứng” đã được “cài đặt” mặc định rồi, chẳng ai dám nhận mình hiểu hết ngọn nguồn.

Chuyện tình cảm đôi lứa cũng rắc rối, phiền toái. Bảo là yêu nhau nhưng hành động lại không thể hiện tình yêu đó. Cô nàng trách anh chàng: “Chiều Ba mươi anh không đi Tết, rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ, hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công”. Và rồi anh chàng cố gắng phân bua, biện minh cho sự “lỡ hẹn” của mình, mong cô nàng cảm thông: “Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ, sáng mồng Một anh bận việc làng, ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!”. Nhiêu khê quá! Ai bày Tết nhất làm chi không biết!

Tết là thế đó. Tết vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Tết cũng có biết bao phong tục, nghi thức, lễ nghĩa,… mà người ta phải thực hiện – dù muốn hay không. Một trong các nghi thức chứng tỏ lễ nghĩa là nhớ ơn người khác: “Mồng một tết Cha, mồng hai tết Chú, mồng ba tết Thầy”. Đó là “công thức” chung. Riêng nam giới hoặc quý ông đã có vợ thì có “kiểu” lễ nghĩa khác một chút, nhưng cũng không ngoài chuyện nhớ ơn. Ca dao nói:

Mồng một thì ở nhà cha

Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy

Tết còn là dịp nhắc nhở người ta phải sống chân thật, không được lọc lừa, giả dối, ăn không nói có,…

Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết, Ba Giai đến nhà

Đó là câu ca thể lục bát đã có từ khi Ba Giai và Tú Xuất còn sinh thời. Ba Giai là một biệt danh của một danh sĩ Việt Nam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX. Ông được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm, với “đối tượng” chính là các quan lại tham nhũng, các trọc phú. Trong giai thoại dân gian, ông được biết đến là người trong cặp bài trùng với Tú Xuất. Tuy nhiên, theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Ba Giai còn có thể là tác giả của một thi phẩm chính luận “Hà Thành Chính Khí Ca”, gồm 140 câu thơ lục bát, được cho là sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25-4-1882.

Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, không rõ năm sinh và năm mất. Có thể ông sống vào khoảng thời gian triều đại các vua Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên người ta gọi là Ba Giai. Gia cảnh nghèo khó, cha mẹ mất sớm, ông đi làm thuê để có tiền ăn học. Ông học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không được đi thi. Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất thế nào và lúc nào, có thể hai ông thường gặp nhau vào thời gian giữa hai lần quân Pháp đánh chiếm Hà Nội (1872 và 1882). Có lẽ cùng từ quan hệ học hành thi cử mà hai ông kết thân với nhau.

Tục ngữ có câu: “Mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”. Có những thứ con người muốn mà không làm già được, thế nên người ta vẫn tin vào thần linh vô hình. Ngoài ra người ta còn có nhiều kiểu vui chơi trong mùa Xuân. Riêng vùng đất Nam Định có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:

Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình
Mông bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi
Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua

Ngày xưa, dân chúng chủ yếu là nông dân, công việc đồng áng theo mùa, có lúc vất vả nhưng có lúc lại nông nhàn. Vì thế, người ta ăn Tết không chỉ mấy ngày đầu Xuân mà người ta vui vẻ suốt tháng Giêng, rồi còn “lai rai” cả những tháng ngày kế tiếp:

Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè

Ca dao và tục ngữ là kho tàng văn chương quý giá, tuy bình dân nhưng vẫn sâu sắc và chứa nhiều bài học sống giá trị. Ngày Xuân có dịp đọc lại và ngẫm nghĩ về ca dao và tục ngữ thì thật là thú vị.

Đau khổ có giá trị cứu độ

Đau khổ có giá trị cứu độ

TRẦM THIÊN THU

Tại sao Thiên Chúa cho phép những điều đó xảy ra?

Đó là câu hỏi người ta vẫn đặt ra, hầu như là “vấn đề muôn thuở”. Đau khổ xảy ra mọi thời và mọi nơi: Giết người tập thể, giết người hàng loạt, đánh bom khủng bố, động đất, sóng thần,… Rồi những thảm họa cá nhân: Em bé chết đuối trong cơn giông bão, người trẻ chết trong vụ tai nạn, người già chết đơn độc, đám cưới bỗng trở thành đám ma,…

Hãy bắt đầu với sự thật là bất kỳ ai cũng không thể có câu trả lời rõ ràng về vấn đề đau khổ!

Trong Cựu ước, Thiên Chúa thẳng thắn “đặt vấn đề” với Thánh Gióp: “Ngươi ở đâu khi Ta đặt nền móng cho đất? Nếu ngươi thông hiểu thì cứ nói đi!” (G 38:4). Và cả chương 38 trong sách Gióp là một loạt câu hỏi, chúng ta không dễ trả lời.

Trong Tân ước, khi nói về người mù từ khi mới sinh (Ga 9:1-3) và những người bị chết khi tháp sụp đổ (Lc 13:2-5), Chúa Giêsu nói rằng các trường hợp bi đát đó là cách của Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của ai đó chứ không hẳn là tội lỗi của chính người đó.

Cũng vậy, có gợi ý để chúng ta nhận biết những vấn đề tương tự – tại sao Thiên Chúa để cho điều đó xảy ra? Có thể áp dụng cho cả điều tốt và điều xấu. Tại sao Thiên Chúa cho phép hôn nhân hạnh phúc? Được thăng cấp trong công việc? Thỏa mãn trong nghề nghiệp? Những điều vui này có thật như những điều bất hạnh, và vẫn có bàn tay của Thiên Chúa trong cả điều tốt lẫn điều xấu. Tại sao Ngài cho phép chúng xảy ra?

Về điều tốt, dĩ nhiên chúng ta dễ trả lời: Thiên Chúa cho phép chúng xảy ra vì Ngài muốn chúng ta hạnh phúc. Nhưng cách trả lời như vậy còn quá thiển cận. Thiên Chúa muốn con người chịu đau khổ để cảm nhận hạnh phúc. Vậy tại sao Ngài lại để họ chịu đau khổ?

Để hiểu rõ lý do Thiên Chúa cho phép mọi thứ xảy ra, cả tốt và xấu, chúng ta cần biết toàn bộ kế hoạch tiền định của Ngài. Nhưng đó là điều chúng ta không thể biết cho tới khi chúng ta đối diện Thiên Chúa trên Thiên Đàng. Điều đó sẽ rõ ràng về mọi thứ phù hợp với nhau trong sự viên mãn của Ý Chúa. Hiện nay, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán mà thôi.

Nhưng chúng ta có một số gợi ý để cố gắng xử lý. Trong tông thư Salvifici Doloris (11-2-1984, nói về “sự đau khổ mang tính cứu độ”), ĐGH Gioan Phaolô II đã noi gương Thánh Phaolô tìm kiếm “ý nghĩa sự đau khổ” theo Kitô giáo để thông phần đau khổ cứu độ của Đức Kitô. Đau khổ cho người ta cách trở nên người đồng công cứu độ với Đức Kitô, chia sẻ hoạt động cứu độ của Ngài, đền tội mình, và góp phần vào công cuộc cứu độ của Ngài mở ra cho mọi người.

Như vậy có sự khuyến khích đối với việc chịu đau khổ chăng? Không hề có. Cách giải thích này không không có ý nói về lý do Thiên Chúa cho phép đau khổ xảy ra, cũng không có ý nói chịu đau khổ là niềm vui. Về việc chịu đau khổ, ĐGH Gioan Phaolô II nói: “Giá trị của sự khám phá cuối cùng là niềm vui tiếp theo”.

Giá trị cứu độ của cuộc đời Chúa Giêsu không chỉ nằm trong sự đau khổ. Hiện tại trong cuộc đời Ngài là một tổng thể. Từ viễn cảnh đó, đau khổ tạo ý nghĩa để nghĩ về những điều hạnh phúc trong cuộc đời chúng ta để tham dự vào những khoảnh khắc vui mừng trong cuộc đời cứu độ của Đức Kitô: Ảnh hưởng gia đình tại căn nhà ở Nadaret, sự lao động trong xưởng thợ của Đức Thánh Giuse, cùng họp mặt với các tông đồ khi mọi sự êm xuôi. Mọi thứ đều có giá trị cứu độ cùng với Thập giá. Cũng như mọi thứ xảy ra trong cuộc đời chúng ta, cả đau khổ và hạnh phúc, đều có thể có giá trị cứu độ.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

Lễ các Thiên thần Bản mệnh, 2-10-2013

Chấp nhận kế hoạch của Chúa

Chấp nhận kế hoạch của Chúa

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Bộ phim “Unstoppable” (Không Thể Ngăn Chặn) của đạo diễn Kirk Cameron tập trung vào kế hoạch của Thiên Chúa. Khi người ta gặp tình huống khó khăn hoặc không biết chính xác mình muốn gì, đa số đều đổ lỗi cho Chúa. Trong đa số trường hợp, người ta không nhận ra cách mà Thiên Chúa làm cho mọi người hằng ngày.

Bộ phim “Unstoppable” đào sâu đức tin và cách nó ảnh hưởng mọi người. Thiên Chúa đã hy sinh rất nhiều và chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận kế hoạch của Ngài – bằng mọi giá. Đây là vài bí quyết giúp bạn chấp nhậ kế hoạch của Thiên Chúa:

MẠNH MẼ

Nên nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ cho chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta khả dĩ xử lý. Chúng ta cố gắng thì chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn. Một lúc nào đó, chúng ta nhìn lại và chúng ta sẽ thấy Ngài đã đưa chúng ta đi xa theo kế hoạch của Ngài trong cuộc đời chúng ta. Trong những lúc khó khăn, chúng ta thấy có vẻ như thế giới này sắp tận cùng, nhưng hãy nhớ rằng vẫn còn chút ánh sáng ở cuối bất cứ đường hầm nào.

TÍCH CỰC

Sống tích cực và tìm kiếm điều tốt lành trong mọi thứ sẽ giúp bạn giữ được thái độ tốt và chấp nhận kế hoạch của Thiên Chúa. Chính thái độ tích cực sẽ tiến xa và làm cho thử thách giảm bớt mức độ khó khăn.

NHIỆM VỤ NHÂN BẢN

Thiên Chúa tìm kiếm mọi người, bạn cũng phải tìm kiếm những người khác ở xung quanh mình. Hãy biến điều đó thành nhiệm vụ nhân bản, nghĩa là đến với người khác và giúp đỡ những người thiếu thốn. Nếu chúng ta cùng nhau làm cho thế giới này tốt hơn, chúng ta sẽ làm cho Thiên Chúa vui mừng. Điều đó sẽ làm cho cuộc sống tròn đầy hơn.

ĐỪNG HOÀI NGHI

Đừng đặt ra những điều chúng ta muốn đề nghị với Thiên Chúa hằng ngày: Tại sao con lại thế này? Tại sao con phải làm việc này? Tại sao con không thể có điều đó?… Thay vì “chất vấn” Chúa, chúng ta hãy biết ơn Ngài về những gì bạn có trong cuộc sống và đừng coi mọi thứ là chuyện dĩ nhiên. Nếu bạn có thể chấp nhận những gì xảy ra, bạn sẽ làm cho kế hoạch hành động của Thiên Chúa xảy ra dễ dàng hơn.

CHẤP NHẬN

Hãy chấp nhận và để Thiên Chúa hướng dẫn bạn, đồng thời hãy biết rằng Ngài sẽ dẫn bạn đi đúng đường và không để bạn lạc hướng. Chấp nhận sẽ cho phép bạn loại bỏ lo lắng và sẽ giảm căng thẳng bằng cách hoàn toàn để cho Chúa kểm soát cuộc đời bạn.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ beliefnet.com)

Chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta

Chân dung Mẹ Têrêsa Calcutta

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 8/09/13

chuacuuthe.com

VRNs (08.09.2013) – Sài Gòn – Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.

Cha mẹ của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết, nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái, Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna (भारत रत्न, nghĩa là “Viên Ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3 năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.

Hình ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ” chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà đang cứu vớt chúng để “dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống. Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi bị coi thường không chỉ ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các nữ tu Dòng Loreto cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một”.

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam, chính Gx Thanh Đa (giáo hạt Gia Định, Saigon) đã được vinh dự đón tiếp Mẹ.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

Lạy Chân phước Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Kinh cầu Chân phước Mẹ Teresa Calcutta

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con truyền bá hương thơm của Ngài tới mọi nơi con đến. Xin đổ vào linh hồn con tràn ngập tinh thần và tình yêu của Ngài. Xin làm thấm nhuần và sở hữu con hoàn tòn để cả cuộc đời con là ánh sáng của Ngài. Xin chiếu sáng con và ở trong con để mỗi linh hồn con giao tiếp đều có thể cảm nhận sự hiện hữu của Ngài trong linh hồn con. Xin để các linh hồn nhìn lên và không còn thấy con nữa mà chỉ thấy Chúa Giêsu. Xin ở lại với con và con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Ngài tỏa sáng, tỏa sáng để thành ánh sáng cho người khác. Amen.

+ Kinh cầu này dùng làm Tuần Cửu Nhật kính nhớ CP Mẹ teresa Calcutta từ 27-8 tới 5-9.

(http://catholicism.about.com/od/dailyprayers/qt/Daily-Prayer-Of-Mother-Teresa.htm)

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ

Thánh Monica và Thánh Augustinô

Thánh Monica và Thánh Augustinô

26/08/2013

Tác giả: Trầm Thiên Thu

Thánh Monica (331-387) là bổn mạng của những cha mẹ chịu đựng đau khổ vì gánh nặng gia đình. Bà được mệnh danh là “Người Bạn của Thánh Giá”. Giáo hội kính nhớ bà vào ngày 27-8 hằng năm, 28-8 là lễ Thánh Augustinô.

Thánh Monica sinh năm 332 tại Tagaste, Bắc Phi (nay là Souk Ahras, thuộc Algeria). Bà sống các nhân đức Kitô giáo nổi bật, nhất là chịu đựng sự ngoại tình của người chồng, bà khóc hằng đêm vì “cậu ấm” Augustinô hoán cải, chuyên cần cầu nguyện cho con hoán cải, điều mà chính Thánh Augustinô đã viết trong cuốn Tự Thuật (Confession).

Dù bà là một Kitô hữu, cha mẹ vẫn bắt bà sớm kết hôn với người ngoại giáo tên là Patrixiô, dân thành phố Tagaste, một người chồng có tính nóng như lửa, nghiện rượu, luôn khó chịu vì vợ hay làm việc từ thiện và cầu nguyện.

Thánh Monica có 3 người con: Augustinô là con trai trưởng, Navigius là con trai thứ hai, và Perpetua là con gái út. Thánh Augustinô bướng bỉnh, lười biếng, và được gởi vào học tại trường Madaurus. Thánh Monica bị coi là một người vợ hay bị cằn nhằn, là con dâu đau khổ và là người mẹ thất vọng, nhưng bà không đầu hàng trước mọi nghịch cảnh. Thánh Monica phải chịu đựng bà mẹ chồng cực kỳ khó tính. Nhưng lời cầu nguyện và gương lành của Thánh Monica đã khiến chồng và mẹ chồng trở lại Công giáo. Patrixiô mất năm 371, sau khi được rửa tội 1 năm, lúc này Augustinô 17 tuổi. Thánh Monica ở vậy nuôi dạy các con. Thánh Augustinô tiếp tục theo học tại trường Carthage, và tại đây chàng Augustinô bắt đầu ăn chơi trác táng.

Tại Carthage, sinh viên Augustinô theo tà thuyết nhị nguyên Manichean (Manichaeism), thuyết của Mani (216–276), Thánh Monica đã đuổi Augustinô đi chỗ khác, không được ăn uống và không được ngủ trong nhà. Đêm đó, Thánh Monica đã có thị kiến lạ là “đứa con trời đánh” sẽ trở lại, thế nên bà giải hòa với con. Từ đó, bà luôn theo sát con mọi nơi mọi lúc, cầu guyện và ăn chay vì con.

Rồi bà đã gặp một giám mục thánh thiện, giám mục này khuyên bà và nói tiên tri: “Đứa con của nước mắt sẽ không hư mất”. Thánh Monica bí mật theo con đi khắp nơi để tìm cách cứu con ra khỏi vũng lầy tội lỗi. Tại Manila (Ý), Thánh monica đã gặp Thánh Ambrôsiô và được chứng kiến con trai Augustinô trở lại sau nhiều năm ròng rã.

Lúc 29 tuổi, Augustinô quyết định đi Rôma để dạy khoa hùng biện. Thánh Monica quyết định đi theo. Một đêm nọ, Augustinô nói với mẹ là sắp đi tạm biệt một người bạn. Nhưng không, Augustinô lại lên tàu đi Rôma. Thánh Monica rất đau khổ khi biết con lừa dối mình, nhưng bà vẫn đi theo. Bà vừa đến Rôma thì biết tin con trai “trời đánh” Augustinô đã đi Milan. Dù việc đi lại khó khăn, Thánh Monica vẫn theo con tới Milan và bất cứ nơi nào.

Tại Milan, Augustinô chịu ảnh hưởng một vị giám mục là Thánh Ambrôsiô, đồng thời là linh hướng của Thánh Monica. Bà nghe lời khuyên của Thánh Ambrôsiô và khiêm nhường từ bỏ mọi sự. Thánh Monica trở thành trưởng nhóm của các phụ nữ đạo đức ở Milan cũng như khi bà ở Tagaste.

Bà tiếp tục cầu nguyện cho Augustinô. Lễ Phục sinh năm 387, Thánh Ambrôsiô đã rửa tội cho Augustinô và vài người bạn của Augustinô. Ngay sau đó, nhóm của Augustinô đi Phi châu. Biết mình không còn sống bao lâu nữa, Thánh Monica nói với Augustinô: “Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”. Sau đó bà lâm bệnh, và sau 9 ngày bệnh nặng thì bà qua đời. Hầu như những gì chúng ta biết về thánh Monica là nhờ các tác phẩm của thánh Augustinô, đặc biệt là cuốn Tự Thuật (Confessions).

Thánh gia nhập Công giáo lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, và làm giám mục lúc 41 tuổi. Ngài là một tội nhân trở thành thánh nhân. Đó là nhờ nước mắt của người mẹ là thánh Monica, sự hướng dẫn của Thánh giám mục Ambrôsiô, và nhất là chính Thiên Chúa đã nói với Thánh Augustinô qua Kinh thánh để soi dẫn Augustinô từ tình-yêu-cuộc-sống đến cuộc-sống-tình-yêu.

Trong những năm đầu đời, ngài đắm chìm trong kiêu ngạo và tội lỗi, nhưng ngài đã trở lại và sống thánh thiện, chống lại mọi thủ đoạn của ma quỷ thời ngài – suy đồi về chính trị, xã hội và luân lý. Chính kinh nghiệm đời ngài mà ngài đã để lại cho chúng ta những câu nói bất hủ.

Cũng như tiên tri Giêrêmia và các tiên tri khác, Thánh Augustinô không thể im lặng: “Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người, cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’. Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20:9).

Không lâu sau khi con trai Augustinô trở lại, Thánh Monica qua đời ở tuổi 55.

Lạy Thánh Monica và Thánh Augustinô, xin cầu thay nguyện giúp. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 16/08/13

chuacuuthe.com

VRNs (16.08.2013) – Sài Gòn – Cuộc sống đầy những chuyện chúng ta phải quyết định. Chúa có buồn khi tôi bê trễ công việc? Chúng ta có những khái niệm về sự thật, nhưng làm sao chúng ta biết chắc rằng các ý tưởng đó xuất phát từ Thiên Chúa? Đôi khi rất khó phân biệt ý Chúa hay ý mình.

Nếu sự thôi thúc của chúng ta thực sự do kẻ thù của linh hồn chứ không từ Thiên Chúa thì sao? Làm sao chúng ta “bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cr 10:5) khi chúng ta không chắc các ý tưởng đó xuất phát từ đâu? Thiên Chúa nói với mỗi người bằng nhiều cách. Ngài biết chúng ta sẽ đáp lại thế nào và Ngài sẽ dùng bất kỳ cách nào cần thiết để đạt tới chúng ta.

Có 3 cách Thiên Chúa thường giao tiếp với chúng ta: Qua lời cầu nguyện, qua Kinh thánh, và qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, Thiên Chúa có thể dùng một người khuyên nhủ (Cn 12:15). Nếu Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, không gì có thể ngăn cản Ngài. Ngài có thể dùng một cách, mọi cách, hoặc kết hợp các cách để chúng ta nhận biết Ngài, nhưng có một điều tương tự: Trách nhiệm của chúng ta là LẮNG NGHE và VÂNG LỜI.

CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, là cuộc nói chuyện hai chiều, chúng ta nói thì Chúa nghe và chúng ta im lặng khi Chúa nói – tức là lắng nghe Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta “phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1:6). Nếu không có lòng tin, chúng ta sẽ “không nhận được cái gì của Chúa” (Gc 1:7). Chúng ta phải kiên trì cầu nguyện (Mt 13:16-17).

Hãy nói chuyện với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và chăm chú lắng nghe cách trả lời của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng đôi khi Ngài không trả lời theo ý chúng ta muốn. Ngài biết những gì chúng ta cần vào bất kỳ thời điểm nào, và Ngài sẽ cho chúng ta biết vào lúc tốt nhất.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

Đọc Kinh thánh là cách tốt nhất để nhận biết Chúa và cách xử lý của Ngài qua lịch sử cuộc đời. Kinh thánh được Chúa Thánh Thần linh hứng: “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3:16-17). Càng quen biết với cách hoạt động của Thiên Chúa, ý muốn của Ngài, và những điều Ngài đã nói trong quá khứ, chúng ta càng có thể nhận biết điều Ngài đang nói với chúng ta trong hiện tại. Khi chúng ta nói với Ngài qua việc cầu nguyện, Ngài sẽ thường xuyên nói với chúng ta qua Lời Chúa (Kinh thánh). Khi đọc Lời Chúa thì chúng ta phải lắng nghe.

LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN

Thánh Thần là Thiên Chúa – Thần linh có trí tuệ, cảm xúc và ý muốn. Ngài luôn ở bên chúng ta, không thể trốn khỏi Ngài (Tv 139:7-8). Mục đích của Ngài là can thiệp giúp chúng ta (Rm 8:26-27) và quyết định để làm lợi cho Giáo hội (1 Cr 12:7-11). Nếu chúng ta cầu xin thì Ngài sẽ ban cho Đấng Bảo Trợ (Ga 14:16).

Khi chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa hướng dẫn, chúng ta cần duy trì khôn ngoan (Cn 4:7), và phải “cân nhắc các thần khí” (1 Ga 4:1). Thế gian đầy sự ồn ào và sự xao lãng, và trí óc chúng ta cũng vậy. Sự sống trên trái đất là cuộc chiến đấu tâm linh. Kẻ thù luôn tìm cách làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, vì thế mà phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chúng ta phải cảnh giác để biết rõ điều chúng ta nghe chứ không là cảm xúc, tức là điều thực sự từ Thiên Chúa.

Hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết con đường đúng đắn mà đi. Ngài không giấu ý Ngài đối với những ai tìm kiếm Ngài. Ngôn sứ Isaia nói: “Khi ngươi lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai ngươi sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: “Đây là đường, cứ đi theo đó!” (Is 30:21).

Đây là vài điều cần thiết khi chúng ta muốn biết có phải Ý Chúa hay không: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1 Cr 14:33), và : “Hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16).

Ngoài việc cầu nguyện, tìm hiểu Lời Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần, có thể bạn cần lời khuyên của một người bạn, của gia đình, của người cố vấn hoặc linh hướng: “Thiếu bàn bạc, chương trình đổ vỡ; nhiều cố vấn, ắt sẽ thành công” (Cn 15:22).

Thiên Chúa không muốn chúng ta thất bại. Chúng ta càng lắng nghe Chua, chúng ta càng có thể phân biệt tiếng Chúa với tiếng của thế gian. Chúa Giêsu đã nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh” (Ga 10:4). Ngài xác định: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10:8). Chúng ta càng nhận biết Chúa Chiên Lành, chúng ta càng ít chú ý tiếng nói sai trái.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ GotQuestions.org)

ĐỨC MẸ TIÊN BÁO THỜI CUỐI CÙNG

ĐỨC MẸ TIÊN BÁO THỜI CUỐI CÙNG

LOURDES POLICARPIO

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA 574

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung ? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó có còn thích hợp với ngày nay chăng ?

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita ( Nhật ) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ Tỳ Thánh Thể ( Institute of the Handmaids of the Eucharist ). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của Nữ Tu Agnes Sasagawa ( người Nhật ). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại Học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên tivi và phát thanh khắp nước Nhật ( Ảnh chụp tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita, Nhật Bản ).

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn Quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh Viện St. Paul ở Seoul và được các Giám Mục Hàn Quốc gởi về Rôma.

SỰ TRỪNG PHẠT GHÊ GỚM HƠN TRẬN HỒNG THỦY

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua Nữ Tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn trận Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của Cộng Sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam ( Hà Lan ), Đức Mẹ các Quốc Gia ( The Lady of all Nations ) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như trận Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua ? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn ?

TẠP HÔN

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nên tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn ?” Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có các nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công Giáo chiếm đa số !

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung Tâm Luật Sản Sinh ( Center for Reproductive Law and Policy ) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung Quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay !

Viện Alan Guttmacher ( AGI – Alan Guttmacher Institute ) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16.11.2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung Quốc.

PHÁ THAI Ở NƯỚC NGA

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì Chủ Nghĩa Cộng Sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ Cộng Sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều ( cao hơn ở Hoa Kỳ ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28.8.2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

MA QUỶ XÂM NHẬP GIÁO HỘI

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo Hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các Giáo Sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các Linh Mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” ( culture of secrecy ) mà các viên chức Giáo Hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau ( Báo Time, số ra ngày 1.4.2002 ). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý ( moral aberration ) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các Linh Mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 Linh Mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

TRƯỞNG THÀNH KITÔ GIÁO

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp và nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật tivi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy Đức Tin. U sầu và thất vọng ư ? KHÔNG ! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số Linh Mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số Linh Mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các Giáo Dân trong Giáo Hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các Linh Mục và Tu Sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng việc giết hàng loạt những người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9 năm 2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12 – 22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” ( creeping catastrophe ).

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có Đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính Thống Giáo, Hồi Giáo Nga, và Công Giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng ! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” ( The Passion of the Christ ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách Giáo Lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công Giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước !

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

LOURDES POLICARPIO

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com

ĐƯỜNG VỀ

ĐƯỜNG VỀ

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA số 574

Mười lăm tháng tám mừng vui

Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang

Niềm hy vọng thật rõ ràng

Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời

Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về Trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “Mông Triệu” ( * ). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về Trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.

Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên Trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” ( Kh 11, 19a, 12, 1 – 6 ).

Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” ( Kh 12, 10 ). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.

Ngay cả Hồi Giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran ( Kinh Thánh của Hồi Giáo ). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ Vương Hòa Bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mai Khôi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt Nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ La Mã Bến Tre…

Tác giả Thánh Vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ôphia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” ( Tv 45, 10 – 12 ). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.

Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.

Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói:

“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” ( 1Cr 15, 19 ). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” ( 1Cr 15, 20 – 22 ).

Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” ( 1Cr 15, 23 – 24 ). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” ( 1Cr 15, 25 – 26 ).

Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét ( x. Ep 2:16 ) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.

Thánh sử Luca kể…

Hồi ấy, cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà ông anh Dacaria và chào hỏi bà chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” ( Lc 1, 42 – 45 ).

Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là Mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của vị Tiền Hô Gioan. Thấy cô em họ Maria đến, chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, cô Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen ( Magnificat, Lc 1, 46 – 55 ), y như một bài thơ vậy:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;

Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,

Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,

Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

Vì Người nhớ lại lòng thương xót

Dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Kinh Thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với bà chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm bà chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.

Trong Mầu Nhiệm Mai Khôi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên Trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.

Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên Trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

( * ) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ ( chúa ) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” ( triệu tập, hiệu triệu ). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” ( yêu mến ) nên được Chủ ( Chúa ) gọi ( về trời ), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Tác giả:Trầm Thiên Thu

LOURDES POLICARPIO

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó còn thích hợp với ngày nay?

Tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita (Nhật) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ tỳ Thánh Thể (Institute of the Handmaids of the Eucharist). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của nữ tu Agnes Sasagawa (người Nhật). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên ti-vi và phát thanh khắp nước Nhật.

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh viện St. Paul ở Seoul và được các giám mục Hàn quốc gởi về Rôma.

Sự trừng phạt ghê gớm hơn Đại Hồng Thủy

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua nữ tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của cộng sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam (Hà Lan), Đức Mẹ các Quốc gia (the Lady of all Nations) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như Đại Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn?

Tạp hôn

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nnê tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn?”. Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có những nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công giáo chiếm đa số!

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung tâm Luật sản sinh (Center for Reproductive Law and Policy) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay!

Viện Alan Guttmacher (AGI – Alan Guttmacher Institute) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16-11-2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung quốc.

Phá thai ở nước Nga

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì chủ nghĩa cộng sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ cộng sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều (cao hơn ở Hoa Kỳ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28-8-2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

Ma quỷ xâm nhập Giáo hội

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các giáo sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các linh mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” (culture of secrecy) mà các viên chức Giáo hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau (Báo Time, số ra ngày 1-4-2002). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý (moral aberration) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các linh mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 linh mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

Trưởng thành Kitô giáo

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp vài nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật ti-vi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy đức tin. U sầu và thất vọng ư? KHÔNG! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số linh mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số linh mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các giáo dân trong Giáo hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các linh mục và tu sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng sự giết hàng loạt nhữn người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9-2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12-22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến Tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” (creeping catastrophe). Với quân đội thì đó là phòng thủ yếu ớt!

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính thống giáo, Hồi giáo Nga, và Công giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” (The Passion of the Christ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách giáo lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước!

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 13/07/13

VRNs (13.07.2013) – Sài Gòn – Đã 2.000 năm qua kể từ khi Chúa Giêsu về trời mà Ngài vẫn chưa trở lại. Nhiều người thắc mắc tại sao Ngài “trễ hẹn” lâu như vậy. Trong cuốn “Why I Am Not a Christian” (Tại Sao Tôi Không Là Kitô hữu – New York: Touchstone, 1957), tác giả vô thần Bertrand Russell đã kết án Chúa Giêsu không giữ lời hứa “trở lại” (*). Có lẽ nào Russell nói đúng, và Chúa Giêsu không giữ lời hứa?

Tông đồ Phêrô tiên báo có những người nhạo báng như Russell về việc “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: “Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành!” (2 Pr 3:4).

Có thể Russell và những người nhạo báng khác đáng lẽ phải xét kỹ lời của Thánh Phêrô, cũng như điều Chúa Giêsu đã nói về thời gian Ngài trở lại, và các sự kiện xảy ra trước. Chúa Giêsu nói rằng, dù không ai biết chính xác thời gian Ngài trở lại, nhưng có những “gợi ý” cho chúng ta biết thời cuối cùng đã gần, và phải luôn tỉnh thức (x. Mt 25:13).

Ngoài ra, các Tiên tri thời Cựu ước và các môn đệ của Chúa Giêsu cũng cho biết về cảnh tượng thế giới như thế nào trước giờ trở lại của Chúa Giêsu Kitô. Hãy nhìn vào vài “gợi ý” này trong trình thuật Mt 24:3-14 để biết thời gian Chúa Giêsu tái lâm:

– Động đất.

– Nạn đói.

– Chiến tranh.

– Dịch tễ.

– Bắt bớ các tín hữu.

– Phúc Âm được loan truyền khắp thế giới.

Động đất, nạn đói, dịch tễ, và chiến tranh đã và đang xảy ra xuyên suốt lịch sử nhân loại, nhưng Chúa Giêsu nói rằng sẽ có mức gia tăng đáng kể của các sự kiện này trước khi Ngài trở lại (x. Mt 24:3-51). Việc bách hại các tín hữu bắt đầu từ các Tông đồ và càng ngày càng gia tăng tới nay. Ngày nay các Kitô hữu đã và đang bị bách hại vì Đức Tin nhiều hơn trước đây. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những cuộc bách hại như vậy sẽ tiếp diễn cho tới khi Ngài trở lại, khi Tin Mừng được loan truyền khắp thế giới.

Theo Chúa Giêsu, khi các sự kiện này xảy ra trên khắp thế giới, chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì Ngài sẽ mau trở lại cứu độ chúng ta (x. Lc 21:28; Tt 2:13). Mặc dù các học giả Kinh Thánh không đồng ý về mọi chi tiết về việc Chúa Giêsu tái lâm, nhiều người vẫn tin rằng thời gian mà Chúa Giêsu nói tới đang đến rất gần. Chúng ta phải sẵn sàng mong chờ niềm hy vọng được chúc phúc và vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang của Đấng Cứu Độ Giêsu Kitô.

Tại sao Chúa Giêsu chậm trễ thực hiện lời hứa?

Thánh Phêrô giải thích lý do “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm” (2 Pr 3:8-10). Quả thật, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24:14).

Thánh Phêrô đã viết cho các tín hữu chịu thử thách và bách hại. Họ muốn Chúa Giêsu đến sớm hơn. Tuy nhiên, Thánh Phêrô bảo họ rằng ưu tiên số một của Thiên Chúa là loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô đến tận cùng thế giới, đến với càng nhiều người càng tốt.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ GodResources.org)

CẢM ƠN TRỜI

Cảm ơn

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 8:32 Sáng 24/06/13

VRNs (24.06.2013)– Sài Gòn-

CẢM ƠN TRỜI

Cảm ơn Trời đã để tôi sống nghèo thê thảm

Nhờ đó tôi mới biết cảm thương người nghèo nàn

Cảm ơn Trời đã để tôi bị hàm oan

Nhờ đó tôi mới cảm thông người bị xét xử

Cảm ơn Trời đã để tôi bị người ta ghét bỏ

Nhờ đó tôi mới thấy cảm thương những người cô đơn

Cảm ơn Trời đã để tôi bình thường nhất trong những người bình thường

Nhờ đó tôi mới cảm nhận thế nào là mơ ước

Cảm ơn Trời đã để tôi bị thua thiệt

Nhờ đó tôi mới biết khao khát vươn lên

Cảm ơn Trời đã để tôi không hiểu thấu những điều cao siêu hơn

Nhờ đó tôi mới không sa vào hố kiêu ngạo

Cảm ơn Trời đã để tôi biết phân biệt thực, ảo

Nhờ đó tôi mới cảm nhận cuộc sống vô thường

Cảm ơn Trời đã để tôi tha phương

Nhờ đó tôi mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ

Cảm ơn Trời đã để tôi mồ côi cả Cha lẫn Mẹ

Nhờ đó tôi mới biết trân quý tình cảm gia đình

Cảm ơn Trời đã để tôi “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh

Nhờ đó tôi mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức

Cảm ơn Trời đã để tôi không giống ai hết

Nhờ đó tôi mới hiểu đừng bắt chước, cứ là chính mình

Cảm ơn Trời đã để tôi không may mắn như bạn bè, thua chị, kém anh

Nhờ đó tôi mới cảm nhận cảm giác của người bị hại

Cảm ơn Trời đã để tôi có những lần thất bại

Nhờ đó tôi mới cảm nhận chút hạnh phúc khi thành công

Tất cả là bất đẳng thức, bất thường mà bình thường

Tôi cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-tôi bằng nét-cọ-số-phận

Trông lên thấy mình chẳng bằng ai, vô duyên và lận đận

Nhưng khi nhìn xuống, thấy còn bao người khổ đau

Họ không thấy niềm vui ở đâu

Không thể có – dù họ vẫn khao khát sống thanh thản!

TRẦM THIÊN THU

Thơ: Tâm sự đời con

Thơ: Tâm sự đời con

Đăng bởi lúc 6:01 Sáng 23/06/13

VRNs (23.06.2013) – Sài Gòn- TÂM SỰ ĐỜI CON

Tâm hồn con tan nát

Tìm đến Chúa tựa nương

Trái tim con luân lạc

Giữa cuộc đời đau thương

Bao trở trăn suy nghĩ

Ngày đêm chật âu lo

Những ước mơ dang dở

Vẫn không ngừng giằng co

Giữa dòng đời xuôi ngược

Con như kẻ mộng du

Khoảng trầm tư đơn độc

Lạc lõng và ngu ngơ

Tâm hồn con tơi tả

Cúi xin Chúa xót thương

Và đại lượng tha thứ

Những hoài bão ngổn ngang

Khuya 20-5-2013

PHÙ SA HỒNG ÂN

Sinh ra khóc để chào đời

Mọi người hạnh phúc cười tươi đón chào

Tình thương cha mẹ ngọt ngào

Vòng tay âu yếm sớm chiều chở che

Lớn lên suy nghĩ bộn bề

Vui, buồn, sướng, khổ – Sớm khuya không ngừng

Đường đời đầy những gai chông

Buồn nhiều, vui ít, ngổn ngang lòng người

Vẫn chưa mãn nguyện nụ cười

Tuổi già vội đến đứng ngoài cửa kia

Sông đời bồi đắp phù sa

Là Hồng Ân Chúa bao la tháng ngày

Dù cho gian khổ vơi đầy

Vẫn luôn cảm tạ Tình Ngài xót thương

TRẦM THIÊN THU