CHÍNH TÔI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ CHIẾM ĐOẠT

CHÍNH TÔI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC CHÚA GIÊSU KITÔ CHIẾM ĐOẠT!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt



… Thứ bảy 29-6-2013 Tổng Giáo Phận Paris bên Pháp có thêm 6 tân Linh Mục. 5 Vị tuổi từ 28 đến 33. Một Vị 43 tuổi. 5 Vị sinh ra và lớn lên tại thủ đô Paris. 1 Vị ở vùng phụ cận Paris. Xin giới thiệu chứng từ của tân Linh Mục Augustin Bourgue 33 tuổi nhấn mạnh đến thừa tác vụ linh mục được chu toàn trong việc mở rộng cho thế giới và tình huynh đệ.

Cha Augustin Bourgue là con thứ hai trong một gia đình Công Giáo có 7 người con. Con cái được giáo dục và thức tỉnh Đức Tin nhờ các buổi đọc kinh chung trong gia đình và nhờ gương sáng lành thánh của bậc Cha Mẹ hiền đức, sống rất gần với linh đạo của Cộng Đoàn Emmanuel. Cuộc sống đạo đức còn được phong phú thêm nhờ việc tham dự thường xuyên vào các sinh hoạt của giáo xứ.

Thời niên thiếu vì tham gia các hoạt động thuộc lãnh vực Đức Tin nơi giáo xứ Sainte-Jeanne de Chantal mà cậu Augustin được cảm nghiệm niềm vui suy niệm Lời Chúa. Rồi cậu trở thành Chú Giúp Lễ và gia nhập phong trào Hướng Đạo. Augustin hồn nhiên lớn lên trong khung cảnh gia đình, giáo xứ và học đường lành mạnh nhưng không bao giờ chú ý đến Ơn Gọi Linh Mục. Mãi cho đến năm cuối bậc trung học đệ nhất cấp, vào một bữa ăn tối trong gia đình, Augustin nhận việc bảo trợ ơn gọi cho chủng sinh Frédéric bằng lời cầu nguyện. Từ đó nẩy sinh mối tình huynh đệ thiêng liêng mang lại thành quả phong phú. Xin nhường lời cho tân Linh Mục Augustin Bourgue kể lại con đường đưa đến thiên chức Linh Mục.

Qua anh Frédéric tôi khám phá Lý Trí có thể phục vụ Đức Tin. Một ngày, thể theo lời khuyên của một vị Linh Mục và được anh Frédéric tháp tùng, tôi đến sống một tuần tĩnh tâm nơi một đan viện ở Bretagne. Tại đây tôi khám phá sự hiện diện gần gũi thân tình của THIÊN CHÚA. Vô cùng ngỡ ngàng tôi liền quyết định sẽ sẵn sàng đáp lại bất cứ tiếng gọi nào đến từ THIÊN CHÚA.

Thời gian 7 năm trôi qua từ sinh viên đến kỹ sư, ơn gọi như mỗi lúc một sáng tỏ trong tôi. Tôi ngạc nhiên ý thức rằng tôi rất yêu thích nói về Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tôi cũng hiểu rằng chính Người cho tôi niềm vui hưởng nếm cuộc đời và với Người, tôi có thể chọn nếp sống độc thân. Chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ ban tặng tất cả!

Với tâm tình trên đây mà tôi hân hoan gia nhập Chủng Viện. Trước đó vì từng tham gia các sinh hoạt thể thao nên trong thời gian thụ huấn ở Bruxelles, thủ đô vương quốc Bỉ, tôi cũng gia nhập một Hội thể thao. Thể thao là phương tiện nối kết mối giây giao hảo với con người thời đại ngày nay. Đầu tháng 7 năm 2013 tôi chủ sự lễ hôn phối cho một thành viên Hội thể thao này. Tôi là linh mục bạn thân của chú rể.

Ngoài ra tôi cũng đặt nặng vấn đề đối thoại liên tôn và mở rộng với thế giới. Chính vì thế mà ngay trong năm thứ hai ở Chủng Viện tôi đã bắt đầu học tiếng Ả-Rập. Chúng ta được may mắn là thành phần của Giáo Hội Công Giáo. Giáo Hội Công Giáo thúc đẩy và khuyến khích chúng ta sống tình huynh đệ đại đồng. Ngày thụ phong linh mục tôi chọn câu Phúc Âm trích từ thánh Gioan chương 10 câu 10: ”Thầy đến để cho loài người được sống và sống dồi dào”.

Thời thụ huấn bên Bỉ tôi học một bài học quý giá từ một Cha Sở. Cha Sở đặc trách hai giáo dân trong giáo xứ nhiệm vụ cổ động và canh chừng làm sao để tất cả mọi con chiên bổn đạo trong giáo xứ đều quen biết lẫn nhau. Thật là ý tưởng tuyệt vời.

Sứ mệnh của Linh Mục là xây dựng nhiệm thể Đức Chúa GIÊSU KITÔ bằng cách hoạt động cho tình hiệp nhất và mối hiệp thông. Hiệp nhất và hiệp thông cũng là đích điểm chung kết của bí tích Thánh Thể.

… ”Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Chúa KITÔ, tôi cho là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức KITÔ GIÊSU, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Chúa KITÔ và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức KITÔ, tức là sự công chính do THIÊN CHÚA ban, dựa trên lòng tin. Vấn đề là được biết chính Đức KITÔ, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết. Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Chúa GIÊSU KITÔ chiếm đoạt” (Philipphê 3,7-12).

(”PARIS NOTRE-DAME, L’Église en mission à Paris”, Journal du Diocèse de Paris, Hebdomadaire, No 1483, 20 Juin 2013, trang 18)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

SÁNG NÀO THIÊN CHÚA CŨNG BAN ÂN HUỆ MỚI!

SÁNG NÀO THIÊN CHÚA CŨNG BAN ÂN HUỆ MỚI!

vietvatican.net

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Bà Anne-Dauphine Julliand là ký giả kiêm văn sĩ và là bà mẹ Công Giáo năm nay 40 tuổi. Bà sinh ra và sống tại Paris, thủ đô nước Pháp. Ngày 10-3-2011 bà phát hành tác phẩm: ”Deux Petits Pas Sur Le Sable Mouillé – Hai Bước Chân Nhỏ Trên Cát Ướt” vỏn vẹn hai năm sau khi bé gái Thaiis 3 tuổi rưỡi qua đời. Tác phẩm là một bản tình ca: yêu sống, yêu con và yêu THIÊN CHÚA. Hai năm sau, ngày 23-5-2013, bà lại viết cuốn ”Une journée particulière – Một ngày đặc biệt” nhắc lại những yêu thương dành cho con gái Thaiis. Một ngày đặc biệt là ngày 29-2 ngày sinh nhật của bé Thaiis – mà nếu còn sống năm nay sẽ tròn 8 tuổi – và người ta chỉ có thể cử hành ngày này cứ bốn năm một lần!

Ông bà Loic và Anne-Dauphine Julliand cho ra chào đời bốn đứa con, 2 trai 2 gái: Gaspard, Thaiis, Azylis và Arthur. Đứa con gái lớn tên Thaiis bị mắc chứng di truyền loạn-dưỡng-bạch-cầu (leucodystrophie) và được chẩn bệnh vào năm lên hai tuổi. Các bác sĩ cho biết bé chỉ sống sót trong vòng vài tháng. Khi nhận hung tin, bà Anne-Dauphine thì thầm vào tai con gái lời hứa:
– Con sẽ có một cuộc đời đẹp. Cuộc đời không giống các trẻ khác nhưng là một cuộc đời mà con có thể hãnh diện!

Và đúng như lời hứa. Bé Thaiis sống thêm gần hai năm và là hai năm tràn đầy yêu thương. Đúng là một câu chuyện tình yêu.

Nhưng thử thách vẫn chưa chấm dứt. Bé gái thứ hai cũng mắc cùng chứng bệnh y như chị Thaiis của bé. Xin nhường lời cho bà Anne-Dauphine Julliand, người mẹ Công Giáo trẻ thật can đảm, tràn đầy hy vọng và đặt trọn niềm tin nơi THIÊN CHÚA.

Nói rằng mình có một đứa con bị đau ốm thì dễ hơn là thú nhận mình có đứa con khuyết tật. Khuyết tật gây lo âu sợ hãi hơn là đau bệnh. Khuyết tật tạo nên một tình cảm khang-khác khiến người ta lúng túng không thoải mái. Đứa con khuyết tật thay đổi nhiều điều trong cuộc sống gia đình của tôi. Thành thật mà nói cuộc sống thường nhật trở nên rắc-rối nhiêu-khê hơn. Đôi khi thật nặng nề. Thế nhưng đứa con khuyết tật đã thay đổi tâm lòng của chúng tôi. Chúng tôi học cách cảm thức trở lại sự giòn mỏng của đứa con cũng như của chính chúng tôi.

Khi khám phá ra Azylis – đứa con gái thứ hai của chúng tôi – mang cùng chứng bệnh với Thaiis, đã là một trận động đất trong đời sống lứa đôi của chúng tôi. Thế rồi trong khoảng thời gian đầu của cơn thử thách, chúng tôi đã quên mất nếp sống phu thê để dồn mọi chú ý trên đứa con khuyết tật. Chúng tôi không gặp khó khăn trong việc chu toàn nghĩa vụ của bậc làm cha làm mẹ, nhưng chỉ thiếu sót trong tình nghĩa vợ chồng. Từ từ chúng tôi học trở lại cách thức vợ chồng nhìn nhau, chú ý và chăm sóc lẫn nhau. Chúng tôi cũng học cách an ủi lẫn nhau nữa.

Trên đây tôi nói khuyết tật gây sợ hãi hơn là cơn bệnh. Điều làm cho chúng tôi sợ chính là sự khác biệt. Đối diện với người khuyết tật chúng tôi lo sợ không biết phải nói năng truyền thông như thế nào, không biết phải xử sự ra sao. Chúng tôi cố gắng dồn mọi nỗ lực thực thi điều chúng tôi có khả năng làm và không nghĩ đến chuyện nhìn người kia. Tôi chỉ lo sợ không thể hiểu được đứa con gái khuyết tật của mình. Tôi bèn học với con cách thức nói năng thông truyền bằng một kiểu khác.

Đức Tin giúp ích nâng đỡ tôi rất nhiều. Đức Tin không ngăn chặn tôi khỏi khóc lóc và khỏi đau khổ, nhưng Đức Tin giúp tôi nhìn sự việc dưới một nhãn quan khác, theo một cách thức khác. Tôi nghĩ rằng ngày hôm nay Đức Tin của tôi được lớn mạnh. Điều thay đổi trong Đức Tin của tôi chính là chiều sâu và nét nhân bản thực tế. Ngày người ta loan báo cho chúng tôi biết căn bệnh của đứa con gái thứ hai của chúng tôi, tôi nhận ra rằng Trời Cao không đổ ập trên đầu chúng tôi, nhưng Trời Cao đi vào căn nhà của chúng tôi, để cùng khóc với tôi và để đề nghị với tôi sự hiện diện của Trời Cao. Chính sự hiện diện của THIÊN CHÚA trong cuộc đời tôi là điều vô cùng thân thương và thật quý báu đối với tôi. Kể từ ngày tôi cảm nhận được điều này cùng với trọn Tình Yêu vô điều kiện tháp tùng, tôi không còn sợ hãi cuộc sống nữa. Tôi không còn sợ đau khổ cũng không sợ ngã quỵ lẫn không sợ yếu ớt giòn mỏng.

… ”Xin nhớ đến nỗi khốn cùng của con, và cuộc đời con vất vưởng nuốt cay ngậm đắng. Nỗi niềm riêng canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi. Đây là điều con suy đi gẫm lại, nhờ thế mà con vững dạ cậy trông: Lượng từ bi THIÊN CHÚA đâu đã cạn, lòng thương xót của Ngài mãi không vơi. Sáng nào Ngài cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Ngài cao cả biết bao! Con tự nhủ: ”THIÊN CHÚA là phần sản nghiệp của con, vì thế nơi Ngài, con trông cậy”. THIÊN CHÚA xử tốt với ai tin cậy Ngài, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa. Biết thinh lặng đợi chờ, đợi chờ ơn cứu độ của THIÊN CHÚA, đó là một điều hay. Cũng là một điều hay cho người nào phải mang ách từ khi còn trẻ” (Sách Ai Ca 3,19-27).

(”OMBRES & lumière”, Revue Chrétienne Des Personnes Malades Et Handicapées, De Leurs Familles Et Amis, Mai-Juin 2013)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

ĐỪNG SỢ KẺ GIẾT THÂN XÁC MÀ KHÔNG GIẾT ĐƯỢC LINH HỒN!

ĐỪNG SỢ KẺ GIẾT THÂN XÁC MÀ KHÔNG GIẾT ĐƯỢC LINH HỒN!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

. Câu chuyện xảy ra trong khoảng từ năm 1950 đến 1967 khi đảng cộng sản vô thần nắm quyền tại Slovak.

Năm bước vào tuổi 16 cũng là năm tôi nếm mùi tù ngục. Tôi bị tống giam chỉ vì là tín hữu Công Giáo và là người tổ chức, điều động nhóm sinh viên học sinh, đối lập với cái gọi là ”Hội Công Giáo” do nhà nước cộng sản thành lập. Tôi còn bị bắt dưới nhãn hiệu ”thành viên cuồng tín của Vatican”. Như thế có nghĩa là ”một công dân nguy hiểm cho xã hội chủ nghĩa Tiệp-Khắc!”

Niềm đau lớn lao nhất của tôi lúc bấy giờ là bị bắt cùng lúc với thân phụ và bị đưa ra tòa với người. Bọn công an dùng một đòn tâm lý vô cùng ác độc. Để tra khảo tôi, để buộc tôi phải xưng thú hay chấp nhận điều gì, họ đánh đập Ba tôi trước mặt tôi. Không thể nào tả hết nỗi đớn đau tinh thần và thể xác khi tôi nhìn thấy Ba tôi bị đánh đập cách tàn bạo, máu trào ra từ những cơ phận chính!

Phản ứng tự nhiên của tôi là quay mặt đi nơi khác nhưng bọn công an tàn ác bắt buộc tôi phải chứng kiến cảnh tượng này.

Hình ảnh thân phụ bị đánh đập in đậm trong tâm trí tôi như hình ảnh của vị anh hùng tử đạo, không bao giờ có thể xóa mờ! Ngay khi đó, Ba tôi bị kết án tử hình nhưng rồi không hiểu sao họ đổi thành án tù chung thân. Sau 10 năm tù đày Ba tôi được trả tự do nhưng thật ra để về nhà và chết tại gia đình!

Các lính canh tỏ ra thương hại chúng tôi nhưng họ không làm hành động nào tốt để giúp chúng tôi, những thanh thiếu niên Công Giáo vô tội. Sau đó bọn tù chúng tôi bị giao cho các lính canh trẻ tuổi hơn, nhưng lại tàn ác hơn. Nếu chẳng may họ tìm thấy trên người hoặc nơi phòng giam chúng tôi những bảo vật tôn giáo như ảnh tượng thánh và tràng hạt Mân Côi chẳng hạn thì họ nổi điên. Họ mắng nhiếc và đuổi chúng tôi ra khỏi phòng, co ro trong các hành lang dài lạnh buốt.

Nhóm tù nhân thiếu niên chúng tôi gồm đủ mọi thành phần, trong số này có thiếu niên bị tù vì tìm đường vượt ra ngoại quốc. Các bạn trẻ này thường không chịu được cảnh tù tội như chúng tôi là thiếu niên Công Giáo. Do đó chúng tôi giúp họ bằng cách từ từ nói với họ về niềm tin tôn giáo. Dĩ nhiên có người chấp nhận, có người từ chối.

Trong thời gian bị giam cầm chúng tôi thường xuyên bị tuyên truyền đầu độc bởi học thuyết xã hội chủ nghĩa vô thần nhằm bài trừ tôn giáo. Ngoài ra nhóm canh tù cũng nhét vào đầu óc non trẻ của chúng tôi các tội phạm và gieo vào lòng chúng tôi tâm tình của người mắc tội và phải đền tội.

Chúng tôi khó cưỡng lại lời buộc tội vô căn cứ và một chiều này. Tôi nhớ rõ một ngày, một thiếu niên Công Giáo Slovak bị đưa vào giam chung với chúng tôi. Thiếu niên bị bắt và tống giam chỉ vì cậu đã kéo chuông vang dội báo hiệu cho giáo dân trong xứ biết là công an đến bắt Cha Sở mang đi.

Cậu bị buộc cái tội gọi là ”dám khơi dậy cuộc nổi loạn trong làng”. Thật tội nghiệp cho thiếu niên! Tâm tình ngây thơ vô tội khiến cậu không thể nào chịu được những vu khống trắng trợn của bọn công an. Kết quả là cậu bị mất trí. Nhiều đêm chúng tôi bị thức giấc vì tiếng la hét của cậu. Đôi khi cậu trở nên vô cùng hiền dịu, quỳ gối trước mặt ông canh tù và phân trần là cậu không bao giờ muốn giết chết một ai cả! Sau đó người ta mang thiếu niên này đi nơi khác.

Trong thời gian học tập cải tạo, chúng tôi phải hoàn toàn mù quáng chấp nhận tất cả bài học vô-lý vô-nghĩa do nhóm công an đưa ra. Khốn cho đứa nào dám cãi lại những lý luận một chiều của họ! Chính tôi từng kinh nghiệm điều này. Một ngày, chúng tôi được tin đội banh Liên-Xô thắng đội banh Canada. Người cai tù hãnh diện lớn tiếng giải thích:
– Chiến thắng này chứng tỏ chủ nghĩa xã hội của Liên-Xô vượt xa các chủ nghĩa khác!
Nghe vậy, tôi liền nói với người tù đang ngồi trước mặt:
– Lý luận thật hồ đồ, không giá trị, chẳng khác nào nói: ”Bởi vì con ngựa đua của nữ hoàng Anh Quốc thắng cuộc đua, nên chính thể Anh quốc là chính thể tốt đẹp nhất thế giới!”

Dĩ nhiên là sau lời phát biểu ý kiến tự do này, tôi bị tố cáo, bị trừng trị và bị biệt giam vì đã dám chỉ trích chủ nghĩa xã hội của Liên-Xô!

Những tháng ngày tù ngục trôi qua trong Đức Tin Công Giáo và niềm can đảm nhờ một lần tôi được trông thấy hình ảnh vị Giám Mục với chiếc áo đẫm máu, bị giam cùng một trại với chúng tôi.

… ”Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh chị em cho các hội đồng và sẽ đánh đập anh chị em trong các hội đường của họ. Và anh chị em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết .. Anh chị em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh chị em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục .. Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt CHA Thầy, Đấng ngự trên Trời” (Matthêu 10,17-18/28/32).

(”HÉROS OU TRAITRES”, Cyril Slovák et Jozef Inovecký, Roma 1976, trang 52-59)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

HÃY TIN VÀO CHÚA THÌ NGƯỜI SẼ NÂNG ĐỠ CON!

HÃY TIN VÀO CHÚA THÌ NGƯỜI SẼ NÂNG ĐỠ CON!

… Sáng thứ bảy 12-1-2013 nhà thờ Saint-Cyprien ở thành phố Poitiers miền Trung nước Pháp đông chật tín hữu đến tham dự Thánh Lễ an táng bà Gisèle Calmès, Giám Đốc Bệnh Viện. Nhà thờ được trang hoàng nhiều hoa tươi lộng lẫy như dấu chứng nói lên lòng quý mến của những người đến tiễn đưa một nữ giám đốc qua đời ở lứa tuổi 52. Đặc biệt có sự hiện diện đông đảo của cộng đồng y khoa toàn nước Pháp đến vĩnh biệt và nói lời tri ân đối với một đồng nghiệp hoàn toàn xả thân vì lợi ích của người khác.

Trong tờ cáo phó của gia đình có hàng chữ viết: ”Gisèle, nữ giám đốc bệnh viện, hiệp sĩ huân chương, đã giã từ chúng ta để tiếp nối công trình phục vụ nơi khác và mãi mãi”.

Thật vậy,
người phụ nữ mang hai dòng máu Pháp-Việt có đôi bàn tay dịu dàng khéo léo, từng khởi đầu sự nghiệp với kết ước giản dị căn bản đã kiên trì tiếp tục một hành trình đưa đến những trọng trách sau đó, nhưng vẫn giữ nguyên phong độ của một phụ nữ luôn nghĩ đến người khác và dâng hiến cuộc đời cho người khác.

Bà Gisèle Calmès đã trải qua không biết bao nhiêu là thử thách cá nhân và gia đình trước khi nhận trách nhiệm nữ giám đốc bệnh viện. Bà làm việc cực nhọc không biết mệt mỏi như thân phụ từng dạy bà ngay thời thơ ấu. Đức tính can cường ấy đi kèm niềm hứng khởi đã khiến bà Gisèle luôn say mê công việc, yêu mến nghề nghiệp và không ngại gian khổ. Bà lắng nghe và gần gũi hết mọi người, từ các bệnh nhân, những kẻ bé nhỏ đến các y tá bác sĩ những người mà bà phải tiếp cận và có quan hệ trong lãnh vực y khoa.

Từ thân mẫu là người Việt Nam bà được nhắn nhủ: ”Con nên luôn luôn thực thi điều lành dẫu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Điều lành luôn dội lên trên trẻ em, trên những người nhận nó và đến phiên họ, họ cũng có thể thực thi điều lành. Bởi vì, sự thiện rất dễ lây và luôn luôn chiến thắng”. Chính giáo huấn từ mẫu này đã chiếu sáng soi dẫn trọn cuộc đời bà Gisèle. Thêm vào đó, bà còn được thấm nhuần nền văn hóa Á Châu luôn giữ nơi nhà các vị lão thành đau ốm để tận tay chăm sóc với tâm tình trìu mến và kính trọng.

Sức sinh động, sự hữu hiệu, niềm vui sống và nụ cười luôn tươi nở trên đôi môi khả ái đã để lại một kỷ niệm khó phai mờ nơi tất cả những ai từng hân hạnh quen biết bà Gisèle Calmès. Nơi bà lan tỏa lòng quảng đại, sự vi tha, luôn nghĩ đến người khác. Bà khéo léo tạo nên các mối giao hảo, các cuộc gặp gỡ, thoa dịu các tranh chấp, kết nối mọi người xuyên qua các khác biệt để trở thành bạn hữu. Bà là thanh nam châm thu hút mọi người. Bà có niềm tin tưởng nơi con người.

Cuối năm 2012, khi cơn bệnh đi vào giai đoạn trầm trọng, vô phương cứu chữa, thì chính bà lại trở thành người can đảm, kiên trì, rạng rỡ và giúp mọi người chung quanh vượt lên trên thử thách của cơn bệnh. Đau thương nhất là các thắc mắc của những người thân yêu: ”Tại sao thế? Sao lại phải ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ? THIÊN CHÚA, Ngài đang ở đâu?” Bao câu hỏi quay cuồng trong các đầu óc. Làm thế nào để tìm ra ý nghĩa của biến cố đau thương này?

Chưa hết. Khi hồi tưởng cuộc đời bà, người ta biết rằng bà đã mất người chồng trẻ thân yêu khi đang mang thai đứa con trai thứ hai. ”Tại sao thế? THIÊN CHÚA là Ai? Và người ta có thể nói gì về sự lành, sự dữ?”

Trước tất cả các nghi vấn xốn xang này, bà Gisèle Calmès đã trở thành một tấm gương can đảm và một Đức Tin vững chắc nơi THIÊN CHÚA là CHA. Chính tâm tình đơn sơ tốt lành tự nhiên đã hướng dẫn soi sáng cuộc đời bà. Và lòng quảng đại dâng hiến cuộc đời để phục vụ người khác là một chứng tá sống động hùng hồn nhất của bà Gisèle Calmès, giám đốc bệnh viện, hiệp sĩ huân chương qua đời ở lứa tuổi 52. Xin THIÊN CHÚA Nhân Lành đón rước linh hồn bà vào nơi an nghỉ muôn đời.

”Con ơi, nếu con muốn dấn thân phụng sự THIÊN CHÚA, thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách. Hãy giữ lòng ngay thẳng và cứ kiên trì, đừng bấn loạn khi con gặp khốn khổ. Hãy bám lấy Người chứ đừng lìa bỏ, để cuối đời, con được cất nhắc lên. Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử thách trong lò ô nhục. Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người. Hỡi ai kính sợ THIÊN CHÚA, hãy trông đợi lòng lân tuất của Người, đừng lìa xa Người kẻo ngã. Hỡi ai kính sợ THIÊN CHÚA, hãy tin vào Người, và các bạn sẽ không mất phần thưởng đâu. Hỡi ai kính sợ THIÊN CHÚA, hãy đợi trông ơn lành, niềm vui không cùng và lòng thương xót” (Huấn Ca 2,1-9).

(”Église en Poitou”, Revue religieuse du diocèse de Poitiers, 13 Mars 2013, No 199, trang 26-27)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

MỌI NẺO ĐƯỜNG CON NGƯỜI ĐI, THIÊN CHÚA ĐỀU THẤY RÕ!

MỌI NẺO ĐƯỜNG CON NGƯỜI ĐI, THIÊN CHÚA ĐỀU THẤY RÕ!

Đài Vatican



… Tối Thứ Bảy Tuần Thánh Đêm Vọng Phục Sinh 30-3-2013 tại nhà thờ Sainte Barbe Anzin thuộc Tổng Giáo Phận Cambrai ở miền Bắc nước Pháp, có 4 tân tòng lãnh bí tích Rửa Tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Xin trích chứng từ của 1 nam và 1 nữ trong số 4 tân tòng này.

Anh Christophe 28 tuổi.
Tôi chào đời trong môi trường sống đạo hẳn hoi nhưng lại không được rửa tội sau khi sinh ra, vì lý do gia đình. Ý tưởng Rửa Tội thường xuyên xuất hiện trong tâm trí tôi và mỗi lúc một rõ rệt hơn, đôi khi trở thành quyết liệt như vấn đề sinh tử. Để có thể tiến bước trên con đường của một tín hữu Công Giáo thì trước tiên tôi phải lãnh bí tích Rửa Tội và điều này trở thành một nhu cầu thực tiễn cấp thiết. Tôi cảm thấy ước nguyện sâu xa muốn đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ.

Hành trình tân tòng của tôi khởi đầu với Hervé Desprez. Tôi chuẩn bị lãnh phép rửa từ tháng 6 năm 2012. Sau đó tôi gia nhập nhóm có 2 tân tòng khác là Allison và Guillaume cùng với Thierry là người chuẩn bị lãnh phép Thêm Sức.

Lộ trình của nhóm tân tòng chúng tôi rất trang trọng. Người này có thể học hỏi từ người kia. Tôi sống lộ trình này với việc song song đi nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật. ”Tôi sống Thánh Lễ của tôi”. Mỗi khi có những bàn tay đặt trên chúng tôi vào những dịp cử hành khác nhau đều khiến cho tôi xúc động.

Tôi khởi đầu đọc Kinh Thánh. Tôi rất thích đọc Sách Châm Ngôn. Tôi vừa đọc xong Diễm Tình Ca. Không có đoạn nào hay hơn đoạn nào bởi lễ mỗi một sách thánh đều mang đến một sứ điệp riêng. Tôi tham dự các buổi cầu nguyện Taizé diễn ra vào mỗi tối thứ tư tuần thứ hai tại Saint Géry. Tôi rất thích các bài thánh ca có tích cách suy niệm.

Sự kiện tôi xin lãnh bí tích Rửa Tội cho phép tôi nhận ra đâu là ý nghĩa đích thật của cuộc sống. Vật chất không thật sự hữu ích.

Ngày hôm nay Đức Tin giúp tôi tiến bước và chọn đúng hướng đi. Đức Tin tháp tùng tôi. Tôi muốn sống trọn vẹn trong Sự Thật.

Chị Allison, 34 tuổi.
Tôi luôn luôn ước muốn lãnh bí tích Rửa Tội. Tôi không được rửa tội ngay từ lúc chào đời mặc dầu tôi sinh ra trong một gia đình Công Giáo.

Yếu tố kích động khơi mào vào dịp chuẩn bị phép rửa cho đứa con trai thứ năm của tôi là Etan vào tháng 6 năm 2011. Thân phụ của 4 đứa con đầu là kẻ vô thần nên không cho phép tôi đặt vấn đề với anh về chuyện giáo dục con cái trong Đức Tin.

Và thế là tôi đặt vấn đề gia nhập nhóm dự tòng vào dịp chuẩn bị lễ rửa tội cho Etan. Chính khi đó tôi cảm nhận tiếng gọi tìm hiểu biết hơn về Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tôi khởi đầu công cuộc học hỏi giáo lý vào tháng 10 năm 2011. Cứ ba tuần một lần chúng tôi quy tụ để học hỏi.

Người chồng tương lai của tôi – anh Thierry – Ba của Etan và Mailyne, cũng chuẩn bị lãnh bí tích Thêm Sức với chúng tôi, diễn ra vào thứ bảy ngày 15-6 tại nhà thờ Préseau.

Hành trình tân tòng củng cố niềm ước ao của tôi muốn trở thành tín hữu Công Giáo. Lộ trình này thật tuyệt vời, xét vì sau cùng rồi thì tôi có thể nói về Đức Tin của tôi với người bạn đời mà tôi chọn làm chồng. Anh đọc cho tôi nghe các đoạn Kinh Thánh rồi giải thích cho tôi hiểu, bởi lẽ anh từng học giáo lý trong thời niên thiếu và đã xưng tội cùng rước lễ lần đầu.

Trước ngày được rửa tội, Đức Tin của tôi tăng trưởng. Tôi hiểu Đức Tin rõ hơn và thật cảm kích vì sắp được rửa tội!

Cha đỡ đầu cho tôi là người được Cha Mẹ tôi chọn ngay từ ngày tôi còn bé xíu, mặc dù lúc đó chưa phải là người đỡ đầu rửa tội của tôi. Trong khi mẹ đỡ đầu thì chính tôi chọn lấy. Đây là người bạn gái tốt nhất của tôi và Đức Tin của bạn hiền cũng hướng dẫn tôi nữa.

… Có lời rằng: ”Hãy mở đường khai lối, và san cho bằng phẳng, dẹp bỏ mọi chướng ngại trên đường nẻo dân Ta. Bởi vì Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng, Đấng mang danh chí thánh, Người phán như sau: Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát. Vì Ta chẳng trách cứ luôn luôn, không giận hờn mãi mãi, kẻo hơi thở mọi sinh linh chính Ta làm ra, trước mặt Ta, sẽ phải lụi tàn. Vì tội nó ham lợi mà Ta giận dữ, Ta đã đánh nó, đã ẩn mặt trong cơn giận dữ, nhưng nó vẫn ngỗ nghịch, theo con đường nó muốn. Những nẻo đường nó đi, Ta đều thấy cả, nhưng Ta sẽ chữa nó cho lành, sẽ dẫn nó đi và cho nó đầy tràn an ủi; còn những kẻ khóc thương nó, Ta sẽ làm cho môi miệng chúng hoan ca: ”Bình an! Bình an cho khắp xa gần! THIÊN CHÚA phán: Ta sẽ chữa lành cho nó” (Isaia 57,14-19).

(”Église de Cambrai”, quinzaine diocésaine, No 7, 11 Avril 2013, stjeananzin.cathocambrai.com)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

SỐNG ẨN KÍN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA

SỐNG ẨN KÍN THEO GƯƠNG CHÚA GIÊSU VÀ MẸ MARIA

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Thánh nữ Bernadette Soubirous (1844-1879) được diễm phúc trông thấy Đức Mẹ MARIA hiện ra 18 lần trong vòng 5 tháng tại Lộ Đức, từ
ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 tháng 7 năm 1858.

9 năm sau những ngày hồng phúc ấy, Chị Bernadette tuyên khấn lần đầu trong dòng
các Nữ Tu Bác Ái thành Nevers (Trung Pháp). Hôm đó là ngày 30-10-1867. Chị
Bernadette – tên dòng là Marie Bernarde – tròn 23 tuổi.

Theo tục lệ trong dòng, vào buổi chiều ngày tuyên khấn, các nữ tu khấn tạm tập
họp lại để nhận bài-sai từ Mẹ Bề Trên và Đức Giám Mục bản quyền. Chiều hôm ấy,
Chị Bernadette cũng có mặt cùng với 44 khấn sinh khác. Đến lượt mình, Chị đến
quỳ trước mặt Đức Cha Laurence Fourcade và đợi bài-sai.

Đức Giám Mục quay sang hỏi Mẹ Bề Trên:

– Bà chỉ định cho Chị này làm công việc gì?

Thoáng điểm nụ cười trên môi Mẹ Bề Trên Joséphine Imbert trả lời:

– Thưa Đức Cha, con trẻ này không biết làm một cái gì hết! Chị đi đến đâu sẽ
trở thành gánh nặng cho nơi đó!

Mọi người im lặng như tờ. Đức Cha chăm chú nhìn Chị nữ tu trẻ tuổi, đang khiêm
tốn quỳ dưới chân ngài. Rồi như được ơn trên soi sáng, Đức Giám Mục ứng khẩu
ban bài-sai:

– Cha chỉ định cho con nhiệm vụ cầu nguyện!

Cùng lúc đó, Đức Cha sực nhớ Chị Bernadette đang ở trong Dòng hoạt động chứ
không phải Dòng chiêm niệm. Vì thế Đức Giám Mục hỏi lại:

– Con quả thật không biết làm một cái gì hết sao?

Chị Bernadette khiêm tốn đáp:

– Thưa Đức Cha, Mẹ Bề Trên thật không sai lầm! Quả đúng như vậy!

Đức Giám Mục tiếp lời:

– Vậy thì, thật tội nghiệp cho con! Phải làm gì với con bây giờ? Mà tại sao con
lại vào Dòng?

Chị Bernadette đơn sơ thưa:

– Hồi còn ở Lộ Đức, con đã trình bày điều đó với Đức Cha và Đức Cha bảo không
sao hết!

Vị Giám Mục hơi lúng túng, không biết giải quyết ra sao. Sau cùng, Đức Cha hỏi:

– Nhưng ít ra là con cũng biết mang thức ăn, lặt rau chứ?

Chị Bernadette đáp:

– Con sẽ cố gắng!

Quay sang Mẹ Bề Trên, Đức Cha nói:

– Chúng ta sẽ giữ Chị này ở lại đây ít lâu. Sau đó, nếu thấy là Chị hữu dụng
trong một số công việc nhỏ nhặt nào đó, thì sẽ gửi Chị đi giúp xứ!

Hẳn Chị Bernadette phải thật khiêm tốn để chấp nhận lời nhận xét của Mẹ Bề Trên
và của Đức Giám Mục! Nhưng đó là chuyện không thành vấn đề đối với Chị! Người
ta đọc trong sổ tay tĩnh tâm của Chị hàng chữ:

– Ơn chính phải xin: sống thật ẩn kín theo gương Đức Chúa GIÊSU KITÔ và Đức Mẹ
MARIA.

Chị Bernadette đã xin và đã sống ơn ẩn kín này. Trong Thánh Lễ an táng Chị,
trước linh cữu Chị, Đức Cha Lelong lớn tiếng tung hô nhân đức khiêm nhường của
Chị Bernadette:

– Hỡi các nữ tu, các Chị là những người biết rõ rằng không phải người ta tìm
cách dấu kín Chị, nhưng chính Chị tự ẩn mình đi, và Chị càng ẩn mình bao nhiêu
thì càng tốt bấy nhiêu.. Chị không thích gợi lại quá khứ, nhưng tìm cách quên
đi, hay ít là, làm cho người khác quên đi!

Một nữ tu cùng dòng, 40 năm sau, đã nói về nhân đức khiêm nhường của Chị
Bernadette:

– Người ta dạy con khiêm nhường là quên mình đi. Vậy thì nơi Chị, khiêm nhường
quả là như thế đó. Chị không bao giờ nói về mình, lo lắng chăm sóc cho mình.
Khiêm nhường là nhân đức thật cao cả nơi Chị. Con nghĩ, chính Đức Mẹ MARIA đã
thông truyền nhân đức này cho Chị khi Đức Mẹ hiện ra với Chị.

Một ngày, một nữ tu hỏi Chị Bernadette xem Chị có cảm thấy bị hạ thấp trong
cuộc sống ẩn kín nơi tu viện, sau khi được mọi người biết đến vì những cuộc
hiện ra của Đức Mẹ MARIA tại Lộ Đức không, Chị trả lời:

– Sao Chị hỏi thế, Chị nghĩ gì về em? Chị không biết là em hiểu rõ rằng nếu Đức
Mẹ chọn em, chính vì em là người dốt nát nhất. Nếu Đức Mẹ tìm được người nào
khác dốt nát hơn, hẳn là Đức Mẹ sẽ chọn người ấy!

Một ngày, hai thanh nữ từ Lộ Đức đến nhập dòng. Hai cô đưa cho Chị Bernadette
xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức, với ước mơ thầm kín sẽ nghe Chị nói về các
cuộc hiện ra. Chăm chú nhìn tấm hình chụp hang đá Lộ Đức thân yêu, Chị buông
câu nói bâng quơ:

– Chà, mấy cây bạch-dương bữa nay cao ghê!

Một lần khác, một nữ tu cũng đưa cho Chị xem tấm hình chụp hang đá Lộ Đức với
dụng ý dò xem phản ứng của Chị. Đang chăm chú nhìn tấm hình, Chị Bernadette
bỗng ngước mắt hỏi Chị kia:

– Chổi dùng để làm gì?

– Để quét dọn!

– Rồi sau đó?

– Sau đó thì người ta dựng nó vào xó cửa!

Chị Bernadette điềm nhiên nói:

– Đó cũng là câu chuyện cuộc đời em. Đức Mẹ MARIA đã dùng em. Giờ đây xong công
việc, người ta đặt em lại chỗ cũ của em. Em thật sung sướng và cứ ở nguyên
trong tình trạng ẩn kín này!

… Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Chúa GIÊSU hớn hở vui mừng và nói: “Lạy CHA là Chúa Tể trời đất, Con ngợi khen CHA, vì CHA đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Nhưng lạy CHA, vì đó là điều đẹp ý CHA .. CHA Thầy đã giao phó mọi sự cho Thầy. Và không ai biết Người Con là Ai, trừ CHÚA CHA, cũng như không ai biết CHÚA CHA là Ai, trừ Người Con, và kẻ mà Người Con muốn mặc khải cho” (Luca 10,21-22).

(Mgr.Francis Trochu, ”SAINTE BERNADETTE, LA VOYANTE DE LOURDES”, Emmanuel Vitte, 1954, trang 420 + 471-477)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chúa Nhật 5-3-2000 trong khung cảnh Đại Năm Thánh
2000, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy Giảng Anrê Phú Yên lên hàng Á Thánh. Trong tập sách nhỏ về nghi thức tôn phong chân phước được phân phát dịp này có phần Việt ngữ sơ lược tiểu sử vị Tôi Tớ Chúa tử
vì đạo như sau.

THẦY GIẢNG ANRÊ,

VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM

Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh RanRan (Phú Yên), là con út của
một phụ nữ tên thánh là Gioanna. Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con
cái với tất cả lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng
tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện.
Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ, vị Linh Mục thừa sai dòng Tên nổi tiếng,
đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của ngài. Anrê chăm chỉ học chữ Nho và
chẳng bao lâu trổi vượt các bạn đồng môn.

Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà qua đời,
tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625 hay 1626, không rõ
ngày tháng, và lúc chịu chết năm 1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.

Một năm sau khi chịu phếp Rửa Tội, tức năm 1642, Anrê được cha Đắc Lộ nhận vào
nhóm cộng sự viên thân tín của ngài, và sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo
và văn hóa, Anrê được gia nhập Hội Thầy Giảng gọi là ”Nhà Đức Chúa Trời” mà Cha
Đắc Lộ đã khôn ngoan thành lập: các thành viên Nhà Đức Chúa Trời cam kết, bằng
lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo Hội trong việc giúp các
linh mục và truyền bá Tin Mừng.

Lòng hăng say của Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn
bị cho Thầy can đảm đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo
Thiên Chúa rộng ban cho Thầy.

Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy Giảng Anrê sinh
sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá Đạo Kitô trong
nước: vì thế quan quyết định hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.

Cha Đắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới thăm quan vì xã giao,
nhưng ngay sau đó cha được biết chúa Nguyễn rất giận dữ khi thấy vì cha mà có
đông người dân bản xứ theo Đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Đàng Trong để trở về
Macao và không được phép dạy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì
bị trừng phạt rất nặng nề.

Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Đắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù nơi giam giữ một Ông
Trùm, cũng tên Anrê, đã 73 tuổi, mới bị bắt hai ngày trước đó. Trong khi ấy,
quan ra lệnh cho lính tới nhà cha lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio.
Nhưng thầy Ignatio đã đi làm việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Giảng Anrê.
Để khỏi trở về dinh quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại,
rồi giải xuống thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm
1644, Thầy được dẫn tới trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ không tìm
thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được một ”thầy giảng khác giống như vậy, vì
suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về Đạo Kitô và khuyến khích họ theo Đạo”.

Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho Thầy Anrê ”từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ
lòng tin”.

”Nhưng thanh niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và
rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ Đạo mình tuyên xưng: vậy xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng vui lòng đón nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy”.

Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những lời đe dọa,
quan truyền đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng nơi giam giữ Ông Trùm Anrê.

Cha Đắc Lộ và một vài thương gia Bồ Đào Nha tới thăm hai thầy: Thầy Giảng Anrê
thanh thản và vui mừng vì được chịu khổ đau vì Chúa Kitô đến độ những người đến
thăm Thầy bịn rịn không rời Thầy được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ
đến họ trong lời cầu nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu
nguyện cho Thầy, để Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, ”dâng hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương vô biên của Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì loài người .. Những lời Thầy luôn lập lại cho
đến khi trút hơi thở cuối cùng là:
Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp lại
Tình Yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp lại mạng sống
.

Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê, Ông
Trùm Anrê 73 tuổi và Thầy Giảng Anrê, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố
đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ Chàm, đến dinh quan trấn
thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu tập một vài quan khác, lôi kéo họ
về phía mình và tuyên án tử cho Thầy Giảng Anrê, rồi ra lệnh dẫn Thầy về ngục
thất. Còn Ông Trùm Anrê thì được tha vì lý do tuổi tác, nhờ lời xin của cha Đắc
Lộ và các thương gia Bồ Đào Nha.

Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào nhà tù, nơi
vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi theo tới nơi hành
quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã tới, và sau khi chào mọi người
hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và
dẫn Thầy Anrê đi qua các đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành.
Cha Đắc Lộ, nhiều Kitô hữu Bồ Đào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người lương đã
đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.

Theo thói quen tại đây, cha Đắc Lộ xin và được phép trải một tấm chiếu dưới
người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy không muốn nhận điều ấy. Thầy
muốn máu mình rơi xuống đất, như trường hợp Máu Cực Trọng Chúa Kitô đã đổ ra.
Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững
trong Đức Tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho
Thầy được trung thành tới cùng.

Cuộc hành quyết Thầy Giảng Anrê được thi hành bằng mấy nhát lao đâm thấu cạnh
sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng đao chém đầu, Thầy lớn
tiếng kêu lên ”GIÊSU”.

Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Giảng Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung trong
việc chấp nhận dâng hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.

… Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc của chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi CHA Thầy, Thầy đã cho anh em biết
(Gioan 15,13-15).

(BEATIFICAZIONE, Piazza San Pietro, 5 Marzo 2000, Ufficio delle
Celebrazioni Liturgiche del Sommo Pontefice, trang 83-86)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

KHUÔN MẶT THÁNH .. KHĂN LIỆM THÀNH TORINO

KHUÔN MẶT THÁNH .. KHĂN LIỆM THÀNH TORINO

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Xin kể lại câu chuyện đẹp nhất, tuyệt diệu
nhất đã làm xáo trộn tâm lòng cùng biến đổi cuộc đời tôi.

Một buổi tối khi mở máy
truyền hình, tôi bỗng thấy hiện lên tấm hình Khuôn Mặt Thánh. Khuôn Mặt thật
lớn, chiếm trọn màn ảnh. Tức khắc tôi nhận ra ngay Khuôn Mặt Thánh của Chúa
Giêsu Kitô ..

Thật lạ lùng, bởi vì trước đó, tôi không hề nghe nói về “Chiếc Khăn Liệm thành Torino” (Bắc Ý). Tôi cũng không bao giờ đọc Phúc Âm hay Kinh Thánh. Vậy mà vừa trông thấy “Khuôn Mặt Thánh”, tôi biết đó chính là Khuôn Mặt của Chúa Giêsu .. Khuôn Mặt chỉ xuất hiện vỏn vẹn vài giây, vì chương trình truyền hình kết thúc, nhưng trong vài giây ngắn ngủi ấy, đủ để tôi nhận ra Khuôn Mặt Chí Thánh của Chúa Giêsu! Muôn vàn cảm tạ hồng ân Thiên Chúa!

Tôi thầm nghĩ: hẳn phải có sách viết về Khuôn Mặt Thánh này, bởi vì đài truyền hình đã dành trọn chương trình để trình bày! Từ đó, tôi lưu ý tìm kiếm cuốn sách viết về “Chiếc Khăn Liệm thành Torino”.

Quên giới thiệu tôi là một thanh niên lêu lỏng chơi bời, lười học, biếng làm và chuyên nghề ăn cắp vặt. Tôi ăn cắp đủ thứ: sách báo, đĩa hát, băng nhạc v.v.

Một ngày, tôi vào tiệm hàng lớn ở Bruxelles, thủ đô vương quốc Bỉ. Tôi đi thẳng đến chỗ bán sách. Tình cờ tôi trông thấy cuốn sách mang tựa đề:

“Phải chăng đây là Khuôn Mặt của Chúa Kitô?”. Tác giả là Ian Wilson. Trang bìa
in hình Khuôn Mặt Thánh của Chúa Giêsu, Khuôn Mặt mà đã có lần tôi nhận ra trên
màn ảnh truyền hình.. Cùng chính lúc ấy, đôi mắt tôi chạm đúng Đôi Mắt của Chúa
Giêsu. Thật là “cú đứng tim”. Cú đứng tim thứ hai!.. Thế rồi tật xấu ăn cắp nổi
lên. Tôi hơi do dự vì tự nhủ: “Đây là cuốn sách đạo, nói về Chúa, mình không
nên ăn cắp”. Dầu lý luận như thế, tôi vẫn đưa tay “chộp nhanh” cuốn sách và dấu
vào cặp… Nhưng người canh tiệm đã trông thấy và tôi bị bắt quả tang! May mắn
thay mọi chuyện được giải quyết êm đẹp sau đó.

Ngày hôm nay khi hồi tưởng, tôi vẫn còn lấy làm lạ tại sao mình lại bị bắt quả tang như thế! Kể từ giây phút đó, tôi bỏ hẳn tính ăn cắp vặt. Tôi đem bán tất cả những vật tôi đã ăn cắp, lấy tiền giúp đỡ người nghèo. Quả thật, Khuôn Mặt Thánh của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn tâm lòng tôi!

Tôi để dành tiền và mua bức ảnh có Khuôn Mặt Thánh Chúa Giêsu in trên Tấm Khăn Liệm thành Torino. Tôi treo bức ảnh trên tường trong phòng riêng. Mỗi buổi tối, tôi quỳ trước bức ảnh và cầu nguyện thật lâu. Vừa cầu nguyện tôi vừa khóc như một đứa con nít. Tôi thật lòng ăn năn thống hối và xin Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi. Tôi đau đớn vì thấy mình trong bao năm qua đã xúc phạm đến Chúa Giêsu cách nặng nề.. Hạnh phúc thay, tôi cảm nhận Chúa Giêsu đã tha tội và tuôn đổ Tình Yêu của Người trên tôi, như một người đổ đầy nước vào bình chứa! Tôi thưa cùng Chúa:

“Con xin cám ơn Chúa, ôi Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ, là Đấng Chăn Chiên
Nhân Lành, là Vị Vua và là Chúa của chúng con. Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa,
vì Chúa đã cứu con. Chúa đã chịu chết vì con nên giờ đây con muốn hy sinh vì
Chúa. Chúng con muốn xưng tụng Chúa là Vua, là Chúa Tể Trời Đất, là Đấng Sáng
Tạo muôn loài và là Đấng ban phát sự sống. Chúng con muốn Chúa ngự trị trên chúng
con”.

Trước khi kết thúc chứng từ tôi mạn phép gửi tới các tín hữu Công Giáo vài
điều:

– Xin mọi người cầu nguyện không ngừng và đặc biệt cầu nguyện cho thế giới. Xin tất cả sốt sắng lần chuỗi Mân Côi hằng ngày.

– Xin những người không tin hãy hoán cải và thay đổi lối sống. Xin các tín hữu năng lãnh nhận các bí tích Giải Tội và Thánh Thể.

– Xin các tín hữu Công Giáo năng đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa với trọn lòng kính mến.

– Xin mọi người năng đến viếng và chầu Thánh Thể, hầu thờ lạy Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Chúa Giêsu ngự đó và đợi chờ, tiếp đón mọi người. Ngài mong mỏi mọi người đến dự tiệc bàn thánh với Ngài.

(Danile-Ange, “IVRE DE VIVRE”, Le Sarment/FAYARD, 1987, 169-185).

Maria Thanh Mai gởi

LÒNG ĐẠO ĐỨC CAO SANG CỦA MỘT CẬU BÉ MỒ CÔI

LÒNG ĐẠO ĐỨC CAO SANG CỦA MỘT CẬU BÉ MỒ CÔI

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Với cái quần hai ống ngắn cũn cỡn, một chiếc áo thô sơ mất nút hở ngực, đôi chân không mang tất, đó là hình dáng thảm thương của một cậu bé mồ côi sống vào đầu thế kỷ thứ XI tại thành phố Ravenna ở miền Bắc nước Ý. Không một ai thèm quan tâm săn sóc cậu. Cậu bé phải tự kiếm chút lương thực ít ỏi sống qua ngày bằng việc chăn heo.

Tuy nhiên, dầu ăn mặc nghèo nàn khốn khổ tột cùng như thế, cậu bé vẫn giữ nguyên nét tươi mát và vẻ đẹp hồn nhiên trong trắng tuyệt vời. Đầu cậu bé có mái tóc rậm và óng ả có thể dùng làm mẫu cho nhà họa sĩ muốn vẽ một thiên thần. Đôi mắt có màu trong xanh lóng lánh một trí thông minh xuất chúng đi kèm một lòng tốt vô bờ. Đơn sơ, dễ thương, hiền
dịu là những nét nổi bật toát ra từ con người cậu bé mồ côi. Chưa hết. Cậu bé còn có giọng nói thanh tao nghe như một nốt nhạc của chiếc đàn vĩ cầm! Với tất cả những ưu điểm vừa thể xác vừa tinh thần như thế, cậu bé thật sự lôi cuốn sự chú ý và lòng thương mến của mọi người. Ai ai cũng khen ngợi tính tình ngoan hiền của cậu bé.

Cậu bé là con út trong một gia đình đông con. Mồ côi cả cha lẫn mẹ ngay khi mở mắt chào đời, cậu bé lớn lên trong đói khổ. Giờ đây cậu bé sống nương nhờ nơi gia đình người anh cả. Anh cả đã lập gia đình lại có đông con cái và cũng nghèo mạt rệp nên sự hiện diện của đứa em mồ côi trong gia đình khiến anh cảm thấy khó chịu. Anh cho đây là một gánh nặng
phải vác, một cái miệng phải cho ăn. Anh sai em đi chăn đàn heo.

Một ngày, đang lúc lùa heo đi ăn, cậu bé bỗng trông thấy dưới đất một đồng tiền bằng bạc. Mân mê đồng tiền trong tay, cậu bé mồ côi bỗng nghĩ đến chuyện có thể mua vài vật dụng cần thiết nào đó cho hoàn cảnh thiếu thốn của mình. Còn đang đắn đo suy tính thì cậu bé trông thấy một Linh Mục tiến đến, vừa đi vừa đọc Kinh Thần Vụ. Hình ảnh vị Linh Mục
khiến cậu bé nhớ đến Cha Mẹ quá cố. Và như được ơn trên soi sáng, cậu bé liền tiến về phía vị Linh Mục. Cậu hôn tay Cha, trao cho Cha đồng tiền bằng bạc và xin Cha dâng Thánh Lễ cầu cho linh hồn Ba Má đã qua đời.

Vị Linh Mục trông thấy nơi cử chỉ tất cả tấm lòng quảng đại và nét cao cả của một con tim trong trắng của cậu bé nghèo. Cha hiền từ nói với cậu:

– Ngày mai Cha sẽ dâng Thánh Lễ cầu cho Ba Má quá cố của con!

Rồi Cha nói thêm vài lời ưu ái trước khi bước đi và đọc tiếp Kinh Thần Vụ.

Chỉ vài ngày sau biến cố trên đây, cậu bé mồ côi bị anh cả đuổi ra khỏi nhà. Trời đã tối lại vừa mưa vừa lạnh, cậu bé đáng thương lang thang không biết đi về đâu. Từ sáng đến giờ chưa có chút gì  bỏ bụng. Nước mắt đầm đìa, cậu tìm đến gõ cửa nơi nhà một người anh khác. Ngườianh này, khi trông thấy một đứa bé ăn mặc tồi tàn, run lẩy bẩy vì đói và vì
lạnh, đã nhận ra đứa em trai út của mình. Anh cảm thấy con tim đau nhói. Trong phút chốc, anh tự hứa với lòng mình là phải trở thành người cha săn sóc em và sẽ lo lắng mọi sự cho em, không để em còn thiếu thốn một thứ gì nữa.

Ít lâu sau đó người anh trao phó đứa em trai út cho một Linh Mục và xin ngài dạy em học. Cậu bé mồ côi tỏ ra thật thông minh và hấp thụ nhanh chóng mọi điều. Vị Linh Mục nhận ra nơi đứa trẻ các dấu hiệu tích cực của một ơn gọi. Cha nghĩ đến chuyện cho cậu bé gia nhập tiểu chủng viện.

Thời gian trôi qua, chương trình học kết thúc, cậu bé mồ côi đến tuổi thụ phong linh mục. Trở thành Linh Mục, rồi làm Giám Mục, rồi được vinh thăng Hồng Y. Vị Hồng Y đồng thời cũng là một thần học gia lỗi lạc. Ngài qua đời trong hương thơm thánh thiện nên chẳng bao lâu được tôn phong hiển thánh. Chưa hết. Vì các tác phẩm nổi tiếng, ngài lại được
Đức Thánh Cha Lêô XIII (1878-1903) ban tặng tước hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm
1828!

Vị hiển thánh xuất thân từ đứa bé mồ côi mà chúng ta giới thiệu và nói đến chính là thánh Pier Damiani (1007-1072) chào đời năm 1007 tại Ravenna và qua đời năm 1072 tại Faenza, miền Bắc nước Ý. Trên mộ ngài có khắc mấy câu do chính ngài viết:

– Tôi từng là người như bạn hôm nay; bạn sẽ là người như tôi hôm nay. Xin làm
ơn nhớ đến tôi. Xin thương cảm nhìn tro tàn của Pietro. Cầu nguyện, than khóc
và lập lại: Xin Chúa miễn cho con điều ấy!

… ”Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo. Đây là lời THIÊN CHÚA, Đấng sáng tạo và căng vòm trời, Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho toàn thể cư dân” (Isaia 42,1-5).

(”La Mia Messa”, 1 Ottobre 2012 – 31 Dicembre 2012, Anno VI, vol.IV, Casa Mariana Editrice, trang 221-223)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐỨC TIN CÔNG GIÁO MANG LẠI TÌNH YÊU, HÒA BÌNH VÀ VĂN MINH!

ĐỨC TIN CÔNG GIÁO MANG LẠI TÌNH YÊU, HÒA BÌNH VÀ VĂN MINH!


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

nguồn: Đài Vatican

Vào hậu bán thế kỷ XIX nơi đảo Sicilia ở miền Nam nước Ý có một người gây rất nhiều tiếng vang ồn ào và lôi kéo sự chú ý của mọi người. Ông tên Ercole Antonio Calascibetta và là thành viên cuồng tín của bè tam điểm. Ông còn là đảng viên nhóm ái quốc cực đoan. Nói
tắt một lời, ông trổi vượt mọi người về lòng oán thù. Một thứ oán thù đến từ âm phủ do quỷ dữ xúi giục chống lại tôn giáo, đặc biệt là đạo thánh Công Giáo.

Ông Calascibetta không bao giờ vắng mặt trong các buổi họp chính trị của đảng phái. Và cứ mỗi lần như thế ông đều lợi dụng lớn tiếng chửi rủa công kích các Linh Mục, các tu sĩ nam nữ và tất cả những ai dám công khai bày tỏ tâm tình của một tín hữu Công Giáo chân chính. Ông như bán trọn linh hồn và xác cho ma quỷ và ông làm chuyện này cách công khai chứ không e dè dấu diếm!

Nơi tấm thiệp thăm viếng, tên của ông Ercole Antonio Calascibetta được viết trên đôi cánh mở rộng của một tên quỷ với màu máu đỏ chói. Ông như muốn mọi người thấy và hiểu ông bay lượn trên lông cánh của Satan. Dĩ nhiên điều đáng lo sợ nhất là ông không có niềm tin gì ráo trọi.

Nhưng vượt ngoài các khốn khổ trên đây, ông Ercole Antonio Calascibetta lại được hồng phúc có một người vợ hiền đức. Tạm gọi tên bà là Maria Rita. Bà Maria Rita giống như một thiên thần của lòng nhân hậu mà THIÊN CHÚA Từ Bi đặt bên cạnh các tội nhân để đưa các tội nhân trở về cùng THIÊN CHÚA.

Bà Maria Rita vô cùng đau đớn, vừa khóc vừa nói với chồng:

– Anh viết tên anh trên đôi cánh của một thằng quỷ sứ. Phần em trái lại,
em ghi tên anh trên Trái Tim Vô Nhiễm của Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc. Chúng ta cùng chờ đợi xem ai sẽ là người chiến thắng!

Cứ mỗi lần có chút giờ rảnh rỗi bà Maria Rita chạy nhanh đến quỳ dưới chân bức
tượng Đức Mẹ MARIA, Nữ Trạng Sư bênh vực cho các kẻ có tội. Bà khóc lóc van xin
Đức Mẹ biến đổi tâm lòng chai cứng, đầu óc luôn chống đối tôn giáo của chồng.

Thế rồi một ngày ông Ercole Antonio Calascibetta lâm trọng bệnh. Bà Maria Rita túc trực ngày đêm và âu yếm chăm sóc chồng từng ly từng tý. Ông Calascibetta ngỡ ngàng xúc động trước tấm lòng bao la khoan hậu của hiền thê. Ông suy đi nghĩ lại. Ông âm thầm lý luận rằng lòng tận tụy với tình yêu dạt dào chỉ có thể nẩy sinh từ Kitô Giáo, một tôn giáo ông từng quyết liệt chống phá, nhưng lại mù tịt về giáo lý của đạo thánh! Ông nhất định dành thời giờ để nghiên cứu để học hỏi. Càng học hỏi ông càng khám phá ra nét cao cả, sự thánh thiện của một tôn giáo đến từ trời cao, từ THIÊN CHÚA chí tôn chí thánh! Kitô Giáo chiếm trọn tâm trí và con tim của ông. Ông thay đổi tận gốc rễ. Ông không còn như trước nữa.

Ông Ercole Antonio Calascibetta khiêm tốn trở về với Giáo Hội Công Giáo thánh
thiện duy nhất và tông truyền. Từ đó cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, ông sống
đúng nghĩa một tín hữu Công Giáo chân chính. Ông cũng không quên đền bù tội lỗi
quá khứ bằng cách lớn tiếng ca tụng vẻ đẹp và nét cao cả của Đức Tin Công Giáo.
Chỉ duy nhất Đức Tin Công Giáo là suối nguồn mang lại tình yêu, hòa bình và văn
minh!

… Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

Lạy Rất Thánh Đồng Trinh MARIA, Mẹ đã vui lòng nhận lấy tước hiệu là Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho được giục lòng chúng con trông cậy vững vàng, thì con nài xin Mẹ dủ lòng thương, cứu giúp con trong mọi nơi mọi lúc, khi phải các cơn cám dỗ, khi sa phạm tội, và khi gặp các sự khốn khó trong đời con, và nhất là trong giờ chết. Lạy Mẹ hay thương, xin cho con siêng năng chạy đến cùng Mẹ luôn luôn. Con tin rằng, con siêng năng chạy đến cùng Mẹ, thì làm cho Mẹ càng sẵn lòng nghe lời con. Xin Mẹ ban cho con ơn trọng này, là siêng năng cầu xin Mẹ, và được lòng trông cậy Mẹ như con thảo, ngỏ cho Mẹ nghe lời con hằng cầu xin, mà hằng cứu giúp con, và ban cho con được ơn bền đỗ đến cùng. Lạy Mẹ yêu dấu hay thương giúp, xin Mẹ ban phúc lành cho con, và cầu bàu cho con khi này và trong giờ lâm tử. AMEN.

Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức
Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước Việt Nam con, cho gia đình con, cho kẻ thânnnghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó. Sau hết cho các Linh Hồn đángnthương trong Lửa Luyện Ngục.

Thánh MARIA, lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin cầu bàu cho con.

Lạy Thánh Anphongxô là quan thầy bào chữa con, xin giúp đỡ con trong những khi khó ngặt thiếu thốn biết chạy đến cùng Đức Bà MARIA.

Lạy Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cầu cho chúng con.

Lạy Thánh Anphongxô, cầu cho chúng con.

(”La Mia Messa”, 1 Ottobre 2012 – 31 Dicembre 2012, Anno VI, vol.IV, Casa
Mariana Editrice, trang 304-305)

Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

MẸ CHỈ CẦN DUY NHẤT MỘT THÁNH LỄ

MẸ CHỈ CẦN DUY NHẤT MỘT THÁNH LỄ

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Ngày 3-2-1944, một cụ bà gần 80 tuổi qua đời.  Cụ bà đó không ai khác là thân mẫu tôi.

Tôi lặng lẽ chiêm ngắm gương mặt Mẹ dịu hiền nơi nhà nguyện nghĩa trang, trước khi hạ huyệt.
Trong tâm tình con thảo và nhất là, trong tư cách Linh Mục, tôi thì thầm với Mẹ: “Mẹ à, từ ngày có trí khôn đến giờ, con chưa bao giờ thấy Mẹ lỗi phạm nặng nề một luật nào của Chúa!

Và tôi hồi tưởng những chặng đường qua của cuộc đời Mẹ.

Mẹ tôi có một đời sống thật gương mẫu.  Sở dĩ tôi được làm Linh Mục phần lớn là nhờ công lao của Mẹ hiền.

Mỗi ngày, Mẹ tôi tham dự Thánh Lễ rước lễ, kể cả vào những năm cuối đời, tuổi đã cao.  Khi đi cũng như lúc về, Mẹ tôi đều cầm tràng hạt trong tay.  Mỗi khi rỗi rảnh, Mẹ thường lần hạt, đọc kinh Mân Côi.  Mẹ tôi rất có lòng bác ái, thương người đến độ mất một con mắt, chỉ vì liều mạng cứu sống một người đàn bà nghèo.  Chưa hết.  Mẹ tôi luôn chấp nhận thánh ý Thiên Chúa.  Ngày thân phụ tôi qua đời, Mẹ tôi hỏi: “Trong lúc này đây, Mẹ có thể than thở gì với Đức Chúa GIÊSU để làm đẹp lòng Ngài?”  Tôi trả lời: “Mẹ cứ lập đi lập lại câu: Lạy Chúa, xin cho thánh ý Chúa được thực hiện.

Trên giường bệnh, Mẹ tôi lãnh các Bí Tích sau cùng với Đức Tin sâu xa.

Mấy giờ trước khi tắt thở, Mẹ tôi đau đớn vô cùng.  Nhưng Mẹ không ngừng lập đi lập lại: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, con muốn xin Chúa giảm cơn đau cho con.  Tuy nhiên, con
không dám áp đặt ý con trên thánh ý Chúa.  Trái lại, xin cho thánh ý Chúa được thể hiện.

Với lời sau cùng này, Mẹ tôi – người phụ nữ đã cưu mang, sinh hạ và dưỡng dục tôi nên người – trút hơi thở cuối cùng.  Sau khi Mẹ tôi qua đời, ai ai cũng nức lời khen ngợi Mẹ,
người đàn bà đức hạnh.  Tuy nhiên, tôi không để ý đến lời ca tụng của người đời cho bằng nghĩ đến sự phán xét công minh của Thiên Chúa.  Do đó, tôi làm nhiều việc lành, sốt sắng dâng Thánh Lễ và không ngừng cầu nguyện cho Linh Hồn Mẹ sớm tận hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa.

Ngoài ra, mỗi khi có dịp giảng, tôi đều nhắn nhủ các tín hữu Công Giáo hãy năng nhớ giúp đỡ các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục.  Giúp đỡ bằng nhiều cách: tham dự Thánh Lễ, rước lễ và làm việc lành phước đức, bố thí giúp đỡ người nghèo.

Thiên Chúa Nhân Lành cho phép Mẹ hiện về với tôi.

Đúng hai năm rưỡi sau khi qua đời, Mẹ tôi bỗng xuất hiện trong phòng, dưới hình dạng con người.  Mẹ trông thật buồn bã.  Mẹ tôi nói: “Các con đã bỏ quên Mẹ trong Luyện Ngục!

Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Ủa, cho tới bây giờ mà Mẹ còn ở trong Luyện Ngục hay sao?

Mẹ tôi đáp:Đúng thế! Mẹ vẫn còn ở trong Luyện Ngục.  Bóng tối vây phủ Linh Hồn Mẹ, khiến Mẹ không thể trông thấy Ánh Sáng là Thiên Chúa… Mẹ đang ở ngưỡng cửa Thiên
Đàng, gần nơi an vui vĩnh cửu và Mẹ nồng nhiệt ước muốn được vào, nhưng Mẹ không thể nào vào được! Không biết bao nhiêu lần Mẹ tự nhủ: Nếu các con biết mình đang bị dằn vặt khốn khổ khôn lường, hẳn là chúng đã cấp tốc ra tay cứu giúp mình!

Tôi hỏi tiếp: “Sao trước đây Mẹ không hiện về báo cho chúng con biết?

Mẹ tôi buồn bã trả lời: “Mẹ đâu có được phép!

Tôi lại hỏi: “Mẹ vẫn chưa được trông thấy Thiên Chúa sao?

Mẹ tôi giải thích: “Khi vừa tắt thở, Mẹ đã được trông thấy Chúa nhưng chưa được trông thấy trọn Ánh Sáng Vinh Quang của Chúa.

Tôi hỏi tiếp: “Chúng con có thể làm được gì để giúp Mẹ ra ngay khỏi Luyện Ngục?

Mẹ tôi nói: Mẹ chỉ cần duy nhất một Thánh Lễ.  Chúa cho phép Mẹ hiện về để xin con điều
đó.

Tôi không quên dặn dò Mẹ: “Khi nào được vào Thiên Đàng, Mẹ nhớ hiện về ngay báo tin cho con biết.

Mẹ tôi trả lời: “Nếu Chúa cho phép Mẹ hiện về…  Ôi Ánh Sáng thật tuyệt đẹp!

Vừa nói Mẹ tôi vừa biến mất.

Chúng tôi dâng 2 Thánh Lễ cầu cho Linh Hồn Mẹ.

Một ngày sau, Mẹ tôi hiện về nói: “Mẹ đã được vào Thiên Đàng rồi!

Chứng từ của Cha Giuseppe Tomaselli, người Ý, Dòng Don Bosco.

.. “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con.  Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.  Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.  Mong đợi Chúa, con hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người.  Hồn con trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông.  Hơn lính canh mong đợi hừng đông, trông cậy Chúa đi, Israel hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. Chính Người sẽ cứu chuộc Israel cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn” (Thánh Vịnh 130).

(”L’Aldilà .. Stupenda realtà”, Editrice Comunità, 1992, trang 265-266)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(Đài Vatican02/11/2009)

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

và Từ Langthangchieutim

NGƯỜI ĐÃ ĐẾN GẦN, Ở NGAY NGOÀI CỬA RỒI!

NGƯỜI ĐÃ ĐẾN GẦN, Ở NGAY NGOÀI CỬA RỒI!

(CHÚA NHẬT XXXIII/B)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

nguồn: Đài Vatican

LỜI CHÚA: Máccô 13,24-32


Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán cùng dân chúng rằng: ”Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng,
các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang, ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.. Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Con Người cũng không, chỉ có CHÚA CHA biết mà thôi”.

SUY NIỆM

”Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang, ngự trong
đám mây mà đến .. Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”.

Nơi chương 19 và 20, sách Khải Huyền nói đến hai “cuộc chiến cánh chung”: cuộc
chiến cánh chung thứ nhất và cuộc chiến cánh chung thứ hai.

Nơi thị kiến cuộc chiến cánh chung thứ nhất, thánh Gioan tông đồ, tác giả sách Khải Huyền, mô tả Đức Chúa GIÊSU KITÔ xuất hiện để hoàn thành ”Ngày của THIÊN CHÚA” tiêu diệt mọi thù địch của Hội Thánh. Tác giả mô tả chân dung Đức Chúa GIÊSU KITÔ theo 4 cách: hoặc như ”Con Người” trong thị kiến mở đầu (1,9-16); hoặc như ”Chiên Con” khi mở ấn (6,2); hoặc như ”Người Con” của người Phụ Nữ (12,5); hoặc như “Con Người” gặt mùa cánh chung (14,6-20).. Nơi chương thứ nhất, Con Người được mô tả: ”Đầu Người tóc trắng như len trắng, như tuyết; mắt Người như ngọn lửa hồng; chân Người giống như đồng đỏ được tôi luyện trong lò; và tiếng Người như tiếng nước lũ. Tay hữu Người cầm bảy ngôi sao và từ miệng Người phóng ra một thanh gươm hai lưỡi sắc bén. Mặt Người tỏa sáng như mặt trời chói lọi” (14-16).. Danh hiệu Đức KITÔ
chứng thực Người là THIÊN CHÚA, Ngôi Lời của THIÊN CHÚA. Chỉ có Người là Chúa Tể
mà mọi thọ sinh phải tôn thờ, Vua các vua, Chúa các chúa. Hai Con Thú giao chiến
chống lại Đức Chúa KITÔ. Chúng thất bại, vì đã đến giờ Người cai trị muôn dân.

Cuộc chiến cánh chung thứ nhất kết thúc với việc Đức Chúa GIÊSU KITÔ tập trung
tất cả quyền hành trên vũ trụ và cai trị muôn dân, bởi vì Người là Vua các vua,
Chúa các chúa.

Trong khi đó, sách Khải Huyền mô tả cuộc chiến cánh chung thứ hai: ”Bấy giờ tôi thấy một ngai lớn màu trắng và thấy Đấng ngự trên đó. Đất và trời biến mất
trước mặt Người, không để lại dấu vết. Rồi tôi thấy những người chết, lớn cũng
như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác cũng mở ra: đó
là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tùy theo việc họ đã làm, chiếu
theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách”
(20,11-12).

Như thế, cuộc chiến cánh chung thứ hai kết thúc với việc Đức Chúa GIÊSU KITÔ
xét xử muôn dân. Đây là ngày thế mạt, ngày tận thế. Trong trình thuật Tin Mừng
theo thánh Máccô vừa nghe đọc, có lẽ, Đức Chúa GIÊSU KITÔ cũng muốn nói đến
ngày thế mạt, như được mô tả trong sách Khải Huyền. Tuy nhiên, về ngày giờ của
thời thế mạt, không ai có thể biết được như chính Chúa GIÊSU quả quyết: ”Còn
về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Con
Người cũng không, chỉ có THIÊN CHÚA CHA biết mà thôi”.

Đúng thế. Không ai có thể biết được, ngoại trừ duy nhất THIÊN CHÚA CHA biết mà
thôi. Điều quan trọng đối với các tín hữu, không phải là việc tò mò tìm kiếm hoặc
tiên đoán ngày thế mạt, nhưng là sống tinh thần đơn sơ phó thác và trong tư thế
luôn luôn sẵn sàng. Không ai biết được giờ sau cùng của cuộc đời mình, và càng
không biết được ngày sau cùng của thế giới. Nhưng điều mà mọi người có thể làm
được, đó là sống mối giây liên hệ thân tình với THIÊN CHÚA là CHA. Nếu chưa có
mối giây liên hệ này thì hãy sớm ăn năn thống hối và trở về nhận biết THIÊN
CHÚA là CHA. Như thế, khi Đức Chúa GIÊSU KITÔ xuất hiện, chúng ta sẽ được hồng
phúc cao trọng là thuộc về số ”những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương
về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”..
Ước gì được như vậy!

Chúa Nhật 18-11-2012 cũng là ngày toàn thể Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam long trọng mừng kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Các vị là những người được
sách Khải Huyền mô tả: ”Một đoàn người mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành
lá thiên tuế.. Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn
lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong Máu Chiên Con. Họ sẽ không còn
phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành
hạ nữa. Vì Chiên Con đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn
nước trường sinh. Và THIÊN CHÚA sẽ lau sạch nước mắt họ”
(7,9-17).

Là con cháu của các vị anh hùng tử vì đạo, tín hữu Công Giáo Việt Nam quyết chí
noi gương các ngài, sống anh dũng, sống trung thành với Đức Tin trong cuộc sống
thường ngày, để sẽ cùng với các ngài, chung hưởng vinh phúc muôn đời trên thiên
quốc. Ước gì được như vậy!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt