Những Ngày Thủ Đô Tưng Bừng Phố Xá

Những  Ngày  Thủ  Đô  Tưng  Bừng  Phố  Xá

Bút ký Đoàn Thanh Liêm

Như đã có nhiều dịp thưa với quý bạn đọc trước đây, mỗi năm cứ vào dịp mấy tháng 4, 5 và 6, tôi thường từ California đi qua khu vực miền Đông nước Mỹ để tiếp tục công việc nghiên cứu về luật pháp và xã hội tại Thư viện Quốc hội Mỹ. Đồng thời cũng tham gia hội thảo với mấy đại học tại các tiểu bang lân cận với thủ đô Washington.

Tôi thật có duyên với cái thành phố thủ đô này, và luôn giữ được nhiều kỷ niệm tươi vui đẹp đẽ với Washington kể từ ngày tôi được cử đi du học tu nghiệp tại đây trong năm 1960-61, dưới trào cuả Tổng thống Eisenhower và Kennedy. Hồi đó, Washington thật là thanh bình êm ả, chưa hề bị nạn khủng bố đe doạ như bây giờ.

A – Kỷ niệm êm đẹp tại khu “Đồi Capitol” (Capitol Hill)

Image result for images of capitol hill

Mổi buổi sáng, từ nhà trọ ở gần khu Toà Bạch ốc cuả Tổng thống, tôi lên xe bus đi lên trụ sở Quóc hội hết có 10 xu và trong 10 phút là tới nơi. Điện Capitol nằm trên một ngọn đồi không cao lắm, nhưng có cáí nóc vòm cao chót vót với hình dáng thật uy nghi thanh tú theo đường nét kiến trúc cuả Hy lạp thuở xưa, mà từ thật xa ai cũng có thể nhìn thấy được. Rõ ràng là trụ sở cuả các Đại biểu Quốc hội trông bề thế trội vượt hẳn, so với toà nhà cuả người lãnh đạo ngành Hành pháp cuả nước Mỹ.

Khu vực đồi Capitol là một trong những nơi thu hút rất đông khách du lịch, cũng như các phái đoàn từ khắp nơi đến gặp gỡ trao đổi với các Dân biểu, Nghị sĩ là các Đại diện cuả người dân.

Hằng ngày, bất kể vào muà nắng hay mưa, lúc nào cũng có từng đoàn, từng đòan người già trẻ, lớn bé lũ lượt có mặt trên khắp các con đường trong công viên bao quanh trụ sở chính, cũng như cuả hàng chục building làm văn phòng và trụ sở hội họp cho các nhân viên thuộc ngành Lập pháp. Ngoài ra cũng phải kể đến trụ sở cuả Tối cao Pháp viện, cũng như ba toà nhà thật lớn cuả Thư viện Quốc hội. Mỗi building như vậy gồm nhiều tầng lầu và vô vàn phòng ốc với đày đủ tiện nghi cho công việc chuyên môn, cũng như cho sinh hoạt cuả hàng bao nhiêu vạn con người làm việc ngày đêm không kể giờ giấc. Có toà nhà như Rayburn building thuộc Hạ Viện thì thật là đồ sộ lớn lao như cả một thành phố với đày đủ mọi cơ sở như nhà bưu điện, ngân hàng, nhà ăn, phòng vệ sinh, tầng hầm làm garage để xe…, với cả bốn mặt đều quay ra phía có công viên cây cối xanh tươi thật là mát mắt.

Bên phiá Thượng viện cũng như bên phía Hạ viện, mỗi bên đều có 3 building thật lớn, mà các vị dân cử muốn đi họp các phiên khoáng đại tại trụ sở chính ở điện Capitol, thì phải đi bằng đường hầm, trong đó có xe điện chuyên chở, thì mới kịp tham gia việc thảo luận và biểu quyết tại Quốc hội được. Vì mỗi Dân biểu hay Nghị sĩ đều phải làm rất nhiều công việc phức tạp, cho nên họ đều cần đến sự phụ tá cuả các nhân viên riêng cuả mình, như vậy họ mới theo dõi đày đủ và kịp thời được các diễn tiến trong các loại phiên họp cuả Quốc hội qua các màn ảnh truyền hình trực tiếp, rồi khi nào cần đích thân đến tham dự, thì họ mới di chuyển qua đường hầm, từ văn phòng làm việc để đến phòng họp khoáng đại cuả toàn thể Quốc hội lưỡng viện, cuả riêng từng Viện, hay cuả riêng Uỷ ban chuyên môn cuả mình.

Vào năm 1960, khi đi tập sự tại đây, tôi đã nhiều lần đi lại qua hệ thống xe điện ngầm trong đường hầm này, vừa sạch sẽ vưà được chiếu đèn sáng như ban ngày, mà trải dài khắp nơi dưới lòng đất thuộc khu vực đồi Capitol. Bây giờ chỉ khác là vì vấn đề an ninh kiểm soát rất nghiêm ngặt, nên sự đi lại di chuyển trong khu vực cũng khó khăn phức tạp, mà lại tốn thời giờ hơn trước rất nhiều.

Vì Thư viện chỉ mở cưả cho công chúng đến tham khảo từ lúc 8.30 sáng cho đến 7.00 chiều, nên mỗi ngày trước giờ ra Thư viện, tôi thường đi rảo bộ khắp phố phường từ lúc 6.00 sáng, để vưà tập luyện thân thể giữ gìn sức khỏe, vưà  “tìm thăm lại chốn xưa”, nơi tôi đã từng cư trú và đi học đã trên 50 năm trước.

Cụ thể, mấy bữa nay, tôi đã đi bộ suốt từ khu vực gần với Đại học George Washington University dọc theo đại lộ Pennsylvania để tới khu vực cuả toà nhà Madison là một trong 3 building thuộc Thư viện Quốc hội. Lộ trình dài đến trên 5 cây số, xuyên qua không biết bao nhiêu cơ sở thuộc chánh phủ liên bang, các cơ sở tư nhân nội điạ cũng như ngọai quốc, rồi đến đủ các thứ viện bảo tàng, các công viên các đài kỷ niệm, cũng như các khu thương xá… Mới có 7 giờ sáng, mà xe cộ cũng như khách bộ hành đã nườm nượp xuôi ngược  cùng khắp các nẻo đường. Nhất là  loại xe do các phái đoàn thuê bao để chuyên chở du khách phương xa, thì họ tranh thủ đi rất sớm cho kịp với chương trình thăm viếng lúc nào cũng dày đặc các mục thăm viếng nhiều hấp dẫn, nơi các di tích lịch sử cũng như vô vàn những cơ quan, trụ sở cả cuả chánh phủ, lẫn cuả các tổ chức tư nhân về văn hoá, xã hội hay tôn giáo v.v…Khác với ở New York, tuy rất đông du khách, nhưng coi bộ có vẻ xô bồ hỗn tạp; tại thủ đô tôi thấy khách viếng thăm thường có vẻ thanh lịch, chững chạc hơn, cả về lề lối ăn mặc cũng như về phong cách giao tế đi đứng, nhất là họ luôn di chuyển thành từng đoàn với nhiều nhân viên hướng dẫn giải thích cặn kẽ về lai lịch các cơ sở và di tích trong chương trình thăm viếng.

B – Đi thăm lại chốn xưa trường cũ.

Đáng chú ý nhất đối với tôi là tôi đã tìm đến khu vực nằm trên con đường mang tên chữ F, nơi giao điểm với con đường mang tên số 19 (F and 19th street) trong khu Northwest, gần với Toà Bạch Ốc. Đây là nơi tôi đã ở trọ hồi năm 1960 – 61. Nó toạ lạc sát với cơ sở downtown cuả Đại học “American University (AU), và cũng gần với Đại học “George Washington University” (GWU). Vì thế mà vào lúc đó, tôi đã có thể đi bộ có mấy trăm thước là đến được các lớp học buổi tối tại hai Đại học này. Nhưng mà tôi đã không thể nào thấy lại được “căn nhà xưa kia” nưã. Mà thay vào đó là một toà nhà building khá lớn, chiếm đến cả một nưả block khu phố, mà trước đây là nơi tọa lạc cuả cả chục căn nhà 2-3 tầng lầu cũ kỹ với giá thuê  vừa với túi tiền cuả các sinh viên du học như bọn tôi.

Tôi vẫn còn nhớ năm 1960 lúc đó, tôi cùng thuê phòng chung với anh Cao Hớn Cơ là một đồng nghiệp cùng làm việc với tôi tại Quốc hội Việt nam, thì mỗi tuần lễ hai chúng tôi chỉ phải trả chung nhau có 12 dollars mà thôi. Anh Cao Hớn Cơ sau này qua làm việc bên Bộ Ngoại giao, và anh đã qua đời tại Saigon sau năm 1975. Nhân tiện, tôi cũng xin ghi lại hồi đó còn có các anh Lê Văn Hội, Trịnh Văn Xuân, Bùi Văn Chuyết và  Bùi Duy Quang cũng cùng trọ tại khu nhà này với anh Cơ và tôi. Mà nay, theo tôi được biết, thì cả ba anh Hội, Xuân và Chuyết cũng đều đã xa lià cõi thế này mất rồi. Hiện chỉ còn lại anh Quang đang nghỉ hưu ở thành phố San Francisco, cũng gần với nhà của bác sĩ Bùi Duy Tâm là bào huynh cuả anh.

Về Đại học George Washington, thì bây giờ đã mở mang gấp bội, với không biết bao nhiêu là cơ sở rất gần với trụ sở cuả Bộ Ngoại giao Mỹ, với ga metro có cái tên đọc lên rất ngộ nghĩnh là “Foggy Bottom” (Hố Sương Mù). Tôi cũng không còn tìm thấy cơ sở cũ cuả Trường Luật mà xưa kia tôi đã từng theo học mấy lớp như “Cases on Legislation” và “Legislative Drafting” trong khuôn viên của GWU tại đây.

Mà tôi cũng không thể nào tìm được dấu vết cuả cơ sở downtown của Đại học American University là nơi tôi theo học hai lớp về môn chính trị và kinh tế học, cụ thể là : “Pressure Groups and Propaganda” và “Economic Development in East Asia”.

Quả thật đã có biết bao nhiêu đổi thay tại khu vực Northwest cuả thành phố Washington DC, cả về phương diện con người cũng như về cảnh trí, trong vòng nưả thế kỷ qua. Ôi cái lẽ vô thường trong cõi nhân sinh là như thế đó.

Bài viết đến đây kể đã  dài rồi, mà tôi còn ở lại thành phố này cho đến đầu tháng Sáu mới di chuyển đến nơi khác. Vậy tôi xin hẹn sẽ viết tiếp thêm về chuyện “Người và Việc” tại thủ đô Washington trong vài bài sau nưã nhé ./

Viết lần đầu tại Stafford Virginia 15 Tháng Năm 2010,

Bổ túc tại Costa Mesa California, Thang Chín 2015.

Đoàn Thanh Liêm

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

(Bài 3)

*     *     *

Trường Trung học Cộng đồng Quận 6 là một trường rất nhỏ, chỉ bắt đầu khai giảng lớp học đầu tiên vào cuối năm 1968 trong căn nhà tiền chế đơn sơ với vài ba phòng học. Rồi sau năm 1975 chẳng bao lâu, thì trường lại bị cho giải thể và học sinh được phân tán đi các trường khác. Vì thế mà ngày nay, ngọai trừ một số rất nhỏ cựu học sinh đã từng theo học tại trường, thì ít có ai còn biết đến sự hiện hữu của cơ sở giáo dục này nữa.

Là một người có tham gia trong việc vận động thành lập của trường, tôi xin ghi lại một số chuyện ngộ nghĩnh xung quanh cái ngôi trường nhỏ bé vừa “sinh sau đẻ muộn” – mà lại cũng “yểu mệnh vắn số” này. Xin lần lượt trình bày câu chuyện qua mấy mục như sau.

I – Lai lịch về cơ sở vật chất của ngôi trường.

Vào  năm 1966,  ông Mai Như Mạnh Quận trưởng Quận 6 có sáng kiến mời một số nhà doanh nghiệp tại địa phương cùng họp lại với nhau để thiết lập một cơ sở nhằm trưng bày và quảng cáo cho những sản phẩm công kỹ nghệ được sản xuất trong quận. Ông nói : “Trước đây, tôi có dịp đi tham quan tại Đài Loan và Nhật Bản, tôi thấy nơi nào họ cũng có những trung tâm trưng bày sản phẩm kỹ nghệ như thế…” Ý kiến này được nhiều người hoan nghênh và đưa đến việc cấp tốc xây dựng một ngôi nhà tiền chế trên khu đất trống nằm sát cạnh bến xe Chợ Lớn mới ở góc đường Phạm Đình Hổ và Trương Tấn Bửu.

Nhằm lôi cuốn giới tiêu thụ đến quan sát tại phòng trưng bày này, ban tổ chức dự định khai trương cơ sở vào dịp Tết Đinh Mùi đầu năm 1967 kèm theo với một số gian hàng bán hàng hóa thông dụng và đồ ăn, nước uống v.v…Tất cả các gian hàng này được dựng lên bên cạnh phòng trưng bày sản phẩm và được gọi với cái tên chung là Khu Chợ Tết. Và vì cái danh xưng “Chợ Tết” này, mà sóng gió nổi lên dữ dội từ một phiên họp của Hội Đồng Đô Thành ở trung tâm Sài gòn. Các nghị viên tới tấp phản đối chuyện tổ chức “Chợ Tết”, họ coi đây là một thứ “Hội Chợ” (Foire) nhằm kiếm tiền bỏ túi cho cá nhân. Đó là một thứ việc làm “bất hợp pháp” vì không có giấp phép đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền v.v…

Cuối cùng, thì Bác sĩ Văn Văn Của là Đô trưởng vẫn đến khu Chợ Tết để cắt băng khánh thành – như vậy là đã mặc nhiên coi là việc này không có chi là trái luật và để bà con cứ tiếp tục vui chơi nhân dịp đón xuân mới.

Tuy vậy, do có sự chỉ trích của các nghị viên thành phố như đã nói ở trên, mà sau đó giới chủ nhân các công ty xí nghiệp ở địa phương – mà phần đông là người gốc Hoa – đâm ra chán nản không còn thiết tha gì với chuyện tiến hành hòan tất trung tâm trưng bày sản phẩm công kỹ nghệ nữa. Vì thế mà trong suốt năm 1967, khu nhà tiền chế rộng tới 5 gian với sườn sắt, mái và vách đều được che bằng tôle vẫn còn để im lìm trống vắng không được sử dụng vào việc gì nữa cả.

Mãi đến khi chiến cuộc mở rộng hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì bà con các nơi có chiến trận mới đổ xô vào lánh nạn tại khu nhà tiến chế này. Và từ đó mà nơi đây đã biến thành một trại tạm cư cho các nạn nhân chiến cuộc phải bỏ nhà cửa ở các khu vực kế cận trong suốt hai đợt tấn công liên tục của bộ đội cộng sản xuất phát từ tỉnh Long An vào thành phố.

Sau khi chiến sự lắng đọng, bà con lại kéo nhau trở về nhà mình và trả lại khu nhà tiền chế lại cho chính quyền địa phương. Nhờ thế mà Chương trình Phát triển chúng tôi mới nghĩ đến chuyện sử dụng khu nhà đó để làm trường sở cho Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Thành ra, khu nhà này tuy không còn được sử dụng cho mục tiêu kinh tế thương mại như dự trù lúc ban đầu nữa, thì nay lại được biến thành một cơ sở giáo dục. Đó cũng là một cách phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng địa phương mà thôi.

2 – Chuyện vận động xin phép mở trường với Bộ Giáo Dục.

Dân số trong quận 6 vào năm 1967 có đến trên 250.000 người. Vì thế mà vào năm 1970, chính quyền phải thiết lập thêm một đơn vị mới nữa là quận 11 bằng cách chia bớt lãnh thổ của quận 6 sang cho quận mới này. Dân số quá đông như vậy, nên cần phải mở thêm trường học, đặc biệt là trường trung học cho các học sinh trong quận. Đó là mối quan tâm nóng bỏng của các phụ huynh mà chúng tôi không thể nào xem nhẹ được.

Với kinh nghiệm thu thập được từ chuyện vận động thành công để thành lập được trường trung học cộng đồng ở quận 8 từ mấy năm trước – nên lần này anh chị em trong chương trình phát triển chúng tôi cũng lại hướng dẫn đại diện phụ huynh học sinh mang thư thỉnh nguyện đến trình bày với các giới chức có thẩm quyền tại Bộ Giáo Dục để xin được phép mở trường ở quận 6. Chúng tôi còn phải nhờ đến các vị Nghị sĩ, Dân biểu và cả đến giới truyền thông báo chí để họ cùng lên tiếng kêu gọi tiếp tay với các phụ huynh tại quận 6 để xin cấp trên cho thiết lập trường trung học trong quận.

Mà nhờ đã có sẵn cơ sở vật chất là khu nhà tiền chế cộng với một số bàn ghế mới đóng sẵn, nên ban vận động (gồm đại diện các phụ huynh và đại diện chương trình phát triển) mới dễ thuyết phục được cấp lãnh đạo ở Bộ Giáo Dục thỏa thuận cấp giấy phép cho trường được thành lập. Chúng tôi phải cam kết với Bộ Giáo Dục rằng : Địa phương chúng tôi chịu trách nhiệm hòan tòan về việc xây dựng nhà cửa và trang bị bàn ghế cho tòan bộ các lớp của trường.  Đổi lại về phần mình, thì Bộ Giáo Dục chỉ phải cử các thầy cô giáo đến trường để lo việc giảng dậy mà thôi.

Và cuối cùng, nhờ sự thúc đảy đặc biệt nhiệt tình của Giáo sư Lê Thanh Minh Châu lúc đó giữ chức vụ Phụ Tá Bộ Trưởng Giáo Dục đặc trách về kế hoạch, mà trường trung học cộng đồng quận 6 được giấy phép thành lập và bắt đầu khai giảng mấy lớp học đầu tiên kể từ niên khóa 1968 – 69.

Giáo sư Nguyễn Đức Tuyên được bổ nhiệm là vị Hiệu trưởng tiên khởi của trường. Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, Hiệu trưởng Tuyên đã kiên trì cùng với tập thể các thầy cô giáo thiết lập được một nền nếp trật tự ngăn nắp cho ngôi trường mới mẻ và khiêm tốn này. Và với quy chế công lập, nên học sinh không phải đóng học phí như ở các trường tư thục. Mà phụ huynh chỉ phải góp một lệ phí là một số tiền rất nhỏ – để dùng vào việc bảo trì trường lớp, tân trang sửa chữa bàn ghế mà thôi.

Sau mấy năm, thì giáo sư Tuyên lại thuyên chuyển đi nơi khác và giáo sư Võ Văn Bé được bổ nhiệm vào chức vụ Hiệu trưởng thay thế giáo sư Tuyên. Và giáo sư Bé tiếp tục giữ nhiệm vụ này trong ít lâu sau năm 1975 trước khi xin nghỉ việc ra khỏi ngành giáo chức để tham gia vào ngành chế biến hóa chất.

Vì đây chỉ là một trung học đệ nhất cấp – tức là chỉ dậy có 4 lớp từ lớp 6 đến lớp 9 – nên học sinh học hết lớp 9 ở trường này, thì phải chuyển lên học tiếp lớp 10 ở một trung học đệ nhị cấp mà cụ thể ở quận 6 là trường Mạc Đĩnh Chi cũng là một trường công lập.

3 – Mối liên hệ của Trung Học Cộng Đồng với Chương Trình Phát Triển.

Mới gần đây, có một em cựu học sinh của trường Lương Văn Can tức Trung Học Cộng Đồng Quận 8 có hỏi tôi đại khái như thế này: “Em là dân ở quận 8, hồi trước năm 1975 em theo học ở trường Lương Văn Can, mà vì còn nhỏ tuổi em cũng không biết gì về mối liên hệ của trường đó với chương trình phát triển quận 8 ra sao. Xin thày vui lòng giải thích cho em với…”

Tôi đã giải thích cho em đại lược như thế này: “Chương trình Phát triển chúng tôi họat động trong cả 3 quận 6,7 và 8 trong 6 năm từ năm 1965 đến năm 1971. Bắt đầu ở quận 8 trước nhất từ năm 1965, sau đó kể từ năm 1966 thì nới rộng phạm vi họat động sang quận 6 và 7. Chúng tôi chủ trương phát triển về mọi mặt như chỉnh trang gia cư, cải thiện môi trường, chăm sóc y tế -ưu tiên cho bà con tại các khu xóm ngõ bình dân lao động. Và đặc biệt là mở mang giáo dục cả về phổ thông cũng như về huấn nghệ v.v…

Riêng về 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và quận 8, thì chương trình chúng tôi góp nhiều công sức để vận động xin Bộ Giáo Dục cho phép thành lập và chúng tôi yểm trợ trong việc xây cất trường sở cũng như trang bị bàn ghế lúc ban đầu. Nhưng khi cơ sở trường học đã hòan tất và các giáo sư do Bộ Giáo Dục cử về bắt đầu giảng dậy ở trường, thì chương trình chúng tôi đã hòan tất trách nhiệm trong việc vận động rồi. Và từ lúc đó trở đi, chúng tôi không thể can dự vào sự điều hành của nhà trường nữa.”

Nghe tôi giải thích như thế, em hiểu ngay và nói với tôi như thế này: “Có thể ví như chương trình là một công ty xây dựng, sau khi xây xong ngôi nhà rồi, thì công ty trao căn nhà đó cho sở hữu chủ để họ tòan quyền sử dụng – mà nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì đó là phương thức “Chìa Khóa Trao Tay.

Nhân tiện, tôi cũng xin nhắc lại là vào hồi thập niên 1960, thì thủ tục xây dựng một trường học mới đòi hỏi Bộ Giáo Dục phải tham khảo trước với Bộ Tài Chánh để xem đã có ngân sách dành riêng cho ngôi trường đó chưa. Do đó mà Bộ Giáo Dục không thể dễ dàng tùy tiện để mở thêm trường mới được. Vì biết rõ tình trạng bế tắc bị động như vậy của Bộ Giáo Dục, nên chương trình chúng tôi dựa vào “cái thế chủ động của quần chúng nhân dân” mà phát động “Đi Bước Trước” – tức là địa phương quận 6 và 8 chúng tôi tự nguyện đứng ra xây cất trường sở và đóng bàn ghế sẵn trước.Và Bộ chỉ có mỗi một việc là cử giáo sư về dậy học mà thôi.

Và đó là nguyên do chính yếu của sự thành công trong việc thuyết phục được giới lãnh đạo của Bộ Giáo Dục chấp thuận cho thành lập Trung Học Cộng Đồng Quận 8 từ năm 1966 và Trung Học Công Đồng Quận 6 từ năm 1968.

4 – Để tạm kết thúc.

Vì chưa được thông tin đày đủ về sinh họat của các cựu học sinh Trung học Cộng đồng Quận 6, nên tôi hy vọng các bạn trẻ này sẽ bổ túc cho bài viết bằng những tư liệu và hình ảnh liên hệ đến “trường xưa, bạn cũ” – để giúp cho bà con độc giả hiểu biết thấu đáo hơn về một cơ sở giáo dục của địa phương quận 6 mà đã xuất hiện cách nay trên 47 năm rồi. Mong lắm thay.

San Jose California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Tôn giáo và các Lớp Dậy Nghề Tại các Quận 6, 7, 8 Sài Gòn

Tôn  giáo  và  các  Lớp  Dậy  Nghề Tại  các  Quận  6,  7,  8  Sài  Gòn

Bài 2:

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

*      *     *

Ngòai việc mở thêm 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và 8, chúng tôi còn tìm cách giúp mở thêm nhiều lớp dậy nghề trong cả 3 quận 6,7 và 8. Các lớp dậy nghề này hầu hết là được tổ chức tại các chùa hay nhà thờ và do các vị tu sĩ và tín đồ chịu trách nhiệm chính yếu. Xin lần lượt ghi ra các địa điểm có tổ chức các lớp dậy nghề đó như sau.

1 – Tại Chùa Huê Lâm ở Khu Bùng Binh Cây Gõ – Quận 6

Ngôi chùa Huê Lâm tọa lạc tại góc đường Lục Tỉnh và đường Minh Phụng là một cơ sở tôn giáo rất nổi tiếng tại vùng Chợ Lớn. Sư Bà Thích Như Thanh là người rất có uy tín, nên được nhiều Phật tử khắp nơi đến theo học với Bà, tôn vinh Bà là vị Thày hướng dẫn cho mình về các mặt tu đức và hành đạo.

Tại đây, còn có ngôi trường Tiểu học lấy tên là Kiều Đàm dành cho con em các gia đình bình dân lao động trong khu vực. Và đặc biệt có những lớp dậy thêu đan dành cho các thiếu nữ. Tất cả các lớp học này đều miễn phí, học viên không phải trả tiền cho nhà trường.

Có vài lần, theo yêu cầu của Sư Cô Như Châu là người trực tiếp phụ trách các cơ sở giáo dục và huấn nghệ này, thì Chương Trình chúng tôi đi gõ cửa nơi cơ quan CARE để xin họ giúp cho lớp học vài máy thêu đan và máy may. Ban Giám đốc cơ quan này gửi người đến tận nơi xem xét và cuối cùng họ đã vui vẻ cấp phát máy móc đúng theo lời yêu cầu của nhà chùa.

Sư Bà Như Thanh đã viên tịch từ lâu. Và hiện tại, theo chỗ tôi biết, thì Sư Cô Như Châu là người kế vị Sư Bà tại ngôi chùa danh tiếng này.

2 – Tại nhà thờ Bình Đông, phường Rạch Cát, Quận 7.

Nhà thờ này tọa lạc trong một khu đất rộng nằm sát cây cầu hình chữ U bác qua Kinh Ngang số 3 từ phường Bình Đông qua phường Rạch Cát. Giáo xứ này chỉ có chừng vài ba trăm gia đình công giáo và do Linh mục Nguyễn Huy Chương phụ trách cai quản.

Tuy sức khỏe yếu kém, nhưng linh mục Chương cũng cố gắng mời được các chuyên viên kỹ sư từ Sài gòn đến giúp dậy về kỹ thuật sửa chữa radio/tv cho các học viên ở địa phương. Và do sự giao tế khôn khéo, ông đã đi xin được nhiều dụng cụ và máy móc cũ để cho các học viên thực tập. Vì thế, mà Chương Trình Phát Triển chúng tôi cũng không phải bận tâm lo lắng gì cho các lớp dậy nghề tại đây.

Sau năm 1975, linh mục Chương bị bắt giam và vào năm 1983 – 84, ông đã chết tại nhà tù có số hiệu là A20 ở Xuân Phước Tuy Hòa. Nhà báo Vũ Ánh cũng bị giam giữ tại đây khá lâu và có tường thuật lại vụ các tù nhân chính trị bỏ xác tại trại giam được gọi là Thung Lũng Tử Thần này.

3 – Tại chùa Đông Phước, Phường Bình Đông, Quận 7.

Chùa Đông Phước tọa lạc ở phía giữa cù lao Bình Đông, là một ngôi chùa lâu đời nhất tại vùng Chợ lớn. Nhìn qua mấy ngôi mộ sát bên hông chùa, ta có thể suy đóan được ngôi chùa này được tạo dựng đã trên 100 năm dưới thời Vua Tự Đức. Vì tình hình lọan lạc, nên rất đông bà con đã tụ tập về nơi đây từ lâu và cất nhà la liệt ngay trong khuôn viên nhà chùa – đến nỗi mà không còn cả cái hàng rào để ngăn cách ngôi chùa với khu nhà của dân chúng lân cận nữa. Thật đúng là chuyện “Cửa chùa rộng mở vậy”.

Vị sư trụ trì hồi thập niên 1960 – 80 là Thượng Tọa Thích Tắc Thành. Thày là người vui vẻ xởi lởi, nên được nhiều Phật tử yêu mến kính trọng, họ thường gọi ông bằng cái tên thân mật là Thày Mười.

Bắt đầu từ năm 1969 – 70, Thày Mười cho mở thêm một phòng phát thuốc và mấy lớp dạy may cắt cho các thiếu nữ tại địa phương. Cả hai cơ sở này đều được Nhóm Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội cung cấp thuốc men và máy móc, cho nên nhà chùa chỉ phải tìm chuyên viên may cắt đến chỉ dẫn cho các học viên mà thôi.

Sau năm 1975, thì tất cả mọi lớp huấn nghệ của các tổ chức tôn giáo như ở đây đều phải ngưng họat động. Và nhà nước cho cán bộ đến chở hết các máy móc thiết bị đi nơi khác.

Vào các năm 1985 – 86 trở đi, tôi hay có dịp đến thăm Thày Mười và lần nào Thày cũng đích thân pha một bình trà ngon ra để đãi tôi. Có lần Thày lại giữ tôi lại dùng cơm chay chung với Thày nữa. Thày nói : “Gần đây tại khu vực Chơ lớn, nhà nước cho mở nhiều nhà máy chuyên may quần áo để xuất khẩu. Nhờ vậy mà các học viên xưa kia theo học may cắt ở đây, thì bây giờ đều kiếm được việc làm tươm tất trong các xí nghiệp may xuất khẩu gần nhà. Thật là điều đáng mừng cho bà con ở xung quanh đây vậy đó…”

4 – Tại nhà thờ Bình An, Quận 8.

Nhà thờ Bình An tọa lạc trên bến Phạm Thế Hiển dọc theo con sông Kinh Đôi, phía bên kia cầu Nhị Thiên Đường. Đây là một giáo xứ với cả ngàn gia đình giáo dân do vị linh mục nổi danh là Hòang Quỳnh đưa dân di cư từ miền Bắc vào hồi 1954.

Vào năm 1969, chúng tôi xin với một cơ quan xã hội quốc tế để cấp cho giáo dân tại đây một dãy nhà tiền chế khung sắt, mái lợp tôle dài đến 30 mét để dùng làm một Trung Tâm Xã Hội. Người phụ trách điều khiển cơ sở này là linh mục Đinh Công Hùynh hồi đó mới có chừng 30 tuổi. Ông là người phụ tá cho linh mục Chánh Xứ Hòang Quỳnh đã ở vào tuổi 70. Sau 1975, cha Quỳnh bị bắt giam và đã chết tại nhà tù Chí Hòa.

Trung tâm này còn có cả một ký nhi viện và rất nhiều lớp dậy nghề. Các lớp dậy nghề ở đây phần lớn là nhằm dậy về cắt may, dậy cắm hoa dành riêng cho các thiếu nữ. Nhưng cũng có vài lớp dậy về đánh máy chữ, dậy tập võ và đặc biệt còn có lớp hướng dẫn dành riêng cho các em “bụi đời” nữa. Nhưng sau 1975, thì Trung Tâm bị đóng cửa.

Vào cuối thập niên 1970, vì lý do gặp nhiều phiền phức với nhà cầm quyền cộng sản, nên linh mục Hùynh đã phải tìm cách xuống tàu vượt biên và hiện đang là cha xứ coi sóc một họ đạo có nhiều giáo dân người Việt tại thành phố Philadelphia.

5 – Các lớp nữ công gia chánh lưu động ở Quận 6 và 8.

Ngòai các lớp dậy nghề tại các chùa, các nhà thờ như đã ghi trên đây, thì chúng tôi còn mở các lớp gia chánh lưu động tại Quận 6 và Quận 8. Các lớp này lại cũng được các giảng viên do Nữ tu Nicole trong tu viện Regina Pacis giới thiệu đến giảng dậy. Vì lớp học được tổ chức vào ban tối tại các trường học ở địa phương, nên chương trình chúng tôi phải kiếm xe lam để đưa đón các cô giáo đến giảng dậy mỗi ngày trong tuần. Thành ra, dù lớp học do chúng tôi tổ chức, thì rút cục vẫn phải nhờ cậy đến vị nữ tu công giáo này mới có thể duy trì lâu dài trong nhiều khóa học được.

Nhân tiện, tôi cũng xin nói qua về vài lớp học chuyên hướng dẫn về kỹ thuật sửa mày thủy động cơ do chúng tôi tổ chức tại Quận 8 vào năm 1966. Các lớp này do kỹ sư người Nhật từ đại lý hãng Kubota gửi đến giúp đỡ chúng tôi – lý do là vì bà con ở địa phương hay dùng các lọai máy chạy tàu, chạy ghe, nhất là máy đuôi tôm, nên đã yêu cầu chương trình phát triển làm sao mở được các lớp đặc biệt như vậy.

6 – Để tóm tắt lại.

Trong mấy năm họat động tại địa phương các quận 6,7 và 8 Sài gòn, chương trình phát triển chúng tôi đã có dịp hợp tác với các tổ chức tôn giáo để góp phần xây dựng cộng đồng về nhiều phương diện. Và đặc biệt trong lãnh vực huấn nghệ để đào tạo những công nhân có tay nghề vững chắc, đủ khả năng đảm nhận một công việc chuyên môn trong các công ty xí nghiệp – thì tại các chùa, các nhà thờ, giới tu sĩ và tín đồ đều tham gia hết sức phấn khởi tận tình trong việc tổ chức và điều hành những lớp học nghề – như đã ghi chi tiết ở trên.

Sự kiện đó chứng tỏ rằng : “Tôn giáo ở nước ta vẫn còn có thể đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc phục vụ xã hội ngay tại các cơ sở hạ tầng (at the grassroots)”.

Rất tiếc rằng, từ khi nắm giữ được chính quyền trong tay, người cộng sản quá khích cuồng tín đã dẹp bỏ tòan thể những cơ sở y tế, xã hội, giáo dục và văn hóa do các tôn giáo tự nguyện hy sinh đảm trách. Quả thật, đó là một sự phí phạm quá lớn lao về tiềm năng chung của dân tộc và cũng là điều thiệt thòi không có gì bù đắp nổi cho các tầng lớp nhân dân sinh sống tại những khu vực nghèo túng nữa vậy./

Costa Mesa California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Chương trình Phát triển Quận 8 Sài gòn: Vài câu chuyện đáng nhớ từ những ngày đầu

Chương trình Phát triển Quận 8 Sài gòn:

Vài câu chuyện đáng nhớ từ những ngày đầu

*     *     *

(Bài đầu)

Ở vào tuổi 80, đúng theo với quy luật tự nhiên, thì trí óc của tôi cũng đã bắt đầu suy giảm phai mờ đi ít nhiều rồi. Vì thế mà tôi phải cố gắng rà sóat lại trí nhớ để có thể ghi lại một cách tương đối chính xác những sự việc bản thân mình đã trực tiếp tham dự cùng chung với các bạn – hoặc đã chứng kiến câu chuyện qua việc “tai nghe, mắt thấy”.

Để cho ngắn gọn, tôi xin tường thuật một số chuyện ngộ nghĩnh liên hệ đến Chương Trình Phát Triển Quận 8 vào lúc khởi đầu đại lược như sau.

1 – Những phiên họp vào ban tối tại nhà anh Võ Long Triều.

Vào khỏang tháng 5, tháng 6 năm 1965 sau khi tham gia họat động với các bạn trong Chương Trình Công Tác Hè, thì một số anh em chúng tôi thường hội họp với nhau tại nhà anh Võ Long Triều tại đường Mạc Đĩnh Chi vào các buổi chiều tối. Anh em lúc đó ở vào lứa tuổi 25 – 30.

Tôi còn nhớ có chừng trên dưới 10 người tham dự thường xuyên các phiên họp này, đại khái có các bạn Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận, Mai Như Mạnh, Võ Long Triều, Đòan Thanh Liêm, Nguyễn Văn Mừng, Võ Trọng Di, Nguyễn Hữu Dõan, Trần Viết Ngạc, Lê Phú Khôi. Và một vài lần, lại có anh Phạm Thanh Thời hồi trước 1963 đã là Quận Trưởng Quận 8. Và chính nhờ anh Thời góp thông tin về tình hình ở Quận 8, mà chúng tôi mới thỏa thuận với nhau để chọn Quận 8 làm thí điểm cho các họat động tập thể của mình.

Kết quả là vào đầu tháng 7, chúng tôi đã sọan thảo xong một bản tài liệu gọi là “Dự Án” gồm chừng 30 trang với nhan đề như sau :

“Phong Trào Xây Đời Mới

Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài Gòn”.

Anh em nhờ anh Võ Long Triều đem bản Dự Án này trực tiếp gửi đến Tướng Nguyễn Cao Kỳ là vị Thủ Tướng – với chức danh là “Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”.

Và sau đó không lâu, chúng tôi nhận được sự chấp thuận của Thủ Tướng về mặt nguyên tắc. Còn về các chi tiết thực hành, thì chúng tôi phải đến bàn thảo với hai cơ quan bảo trợ là Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính Sài Gòn.

2 – Chuyện thật khó nói trong phiên họp tại Tòa Đô Chính Sài Gòn.

Một trong những quyết định của nhóm anh em chúng tôi là: Đề nghị với chính quyền chấp thuận bổ nhiệm hai chức vụ này:

a/ Hồ Ngọc Nhuận làm Quận Trưởng

b/ Mai Như Mạnh làm Phụ Tá Quận Trưởng.

Anh Nhuận là người Nam lại có tài tháo vát năng nổ và ăn nói họat bát trước công chúng. Anh Mạnh là người Bắc, tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh. Vì dân chúng ở quận 8 đại đa số là người Nam, cho nên chúng tôi nghĩ để anh Nhuận làm Quận trưởng thì thuận lợi hơn.

Trong một phiên họp vào cuối tháng 7 tại Tòa Đô Chính có đông đủ giới lãnh đạo của Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính do Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng, Bộ trưởng và Bác sĩ Văn Văn Của, Đô trưởng đồng chủ tọa, chừng trên 10 anh em chúng tôi đã có dịp trình bày chi tiết hơn về những việc anh em dự định thực hiện ở địa phương quận 8. Và tiếp theo, thì có sự trao đổi đại lược về hai việc như sau:

c/ Bác sĩ Hồng nêu thắc mắc rằng: “Tôi thấy các anh sắp xếp hai chức vụ Quận trưởng cho anh Nhuận và Phụ Tá Quận trưởng cho anh Mạnh, thì không ổn chút nào. Anh Mạnh có kinh nghiệm về hành chánh, thì nên đảm nhiệm chức vụ Quận trưởng, thì thích hợp hơn…”

Thế nhưng, trước số đông người trong phiên họp công khai như vậy, chúng tôi không thể nêu cái li‎ do “Nam/Bắc” ra để trả lời cho Bác sĩ Hồng được. Mà cuối cùng, thì một anh em còn nói cụt ngủn rằng : ”Đây là một sự sắp xếp dứt khóat của tập thể anh em chúng tôi chủ trương, do đó mà không thể nào thay đổi được…” Nghe vậy Bác sĩ Hồng tỏ vẻ miễn cưỡng không vui. Và sau này, có người thuật lại rằng ông than phiền về thái độ quá cứng rắn đó của bọn thanh niên chúng tôi.

d/ Đến lượt Bác sĩ Văn Văn Của là Đô Trưởng, thì cũng tương tự như vậy. Ông nói :” Tôi không thấy ông Quận Trưởng đương nhiệm là Cao Minh Chung có một lỗi lầm nào để mà phải ngưng chức của ông đi. Thật khó nghĩ đấy …”

Trong bụng chúng tôi nghĩ: Đây là thứ chuyện “Cách Mạng”, do đó mà cũng không thể giải thích theo cái lối lí luận thông thường được. Và dĩ nhiên là không một ai trong chúng tôi lại trực tiếp trả lời Bác sĩ Của nữa. Lại thêm “một chuyện khó nói” nữa vậy.

Và sau đó ông Đô Trưởng lại cử ông Cao Minh Chung ở lại làm một “Cố vấn Thanh tra” bên cạnh Tòa Hành Chánh Quận 8 nữa. Sự kiện này cũng gây khó khăn trở ngại cho các anh Nhuận và Mạnh trong vài tháng trước khi ông Chung được đưa về Tòa Đô Chánh.

3 – Chuyện xuất quân đến Quận 8 vào giữa tháng 8 năm 1965.

Với khí thế hăng say của tuổi trẻ, bọn chúng tôi lục tục kéo nhau xuống quận 8 ngay sau Lễ Bàn giao chức vụ Quận trưởng cho anh Hồ Ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh. Hai anh lúc đó đều là sĩ quan được biệt phái và đến năm 1966 thì được giải ngũ.

Trong số những anh em nòng cốt mà vẫn hội họp với nhau vài tháng trước, thì có 5 anh em chúng tôi là Nhuận, Mạnh, Minh, Liêm và Mừng là xuống bắt tay vào công việc ở quận 8 với sự tiếp tay của chừng vài chục thiện nguyện viên khác nữa, kể cả nam và nữ. Số thiện nguyện viên này gồm chừng 7 – 8 em học sinh cỡ tuổi 17 – 18 từng họat động trong Phong Trào Học Đường Phục Vụ Xã Hội và một nhóm gồm chừng 10 người lớn tuổi hơn đã từng tham gia sinh họat trong các đòan thể khác. Người đứng đầu nhóm thứ hai này là anh Hòang Quốc Dũng là người do anh Nguyễn Thành Vinh giới thiệu đến với chúng tôi.

Như vậy trong thành phần chừng trên 20 người đầu tiên đến làm việc ở quận 8, thì chỉ có 2 người là anh Nhuận và Mạnh là viên chức giữ nhiệm vụ hành chánh. Còn lại, tất cả đều nằm ngòai guồng máy công quyền và việc tổ chức phân công trong nội bộ riêng của Chương Trình Phát Triển chúng tôi, thì nhà nước không hề can thiệp vào. Có thể nói đây là một Chương Trình Phát Triển Cộng Đồng do sáng kiến của anh chị em chúng tôi chủ động cùng hợp lại chung với nhau – nhằm cộng tác với nhà nước để thực hiện những công tác xây dựng cụ thể thiết thực tại địa phương quận 8. Dĩ nhiên là mọi hoạt động của chúng tôi đều được đặt dưới sự kiểm sóat và bảo trợ của Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính Sài gòn. Đó là tính chất căn bản của cái “dự án thí điểm” (pilot project) này vậy.

Trong mấy tháng đầu, chúng tôi đều hy sinh dấn thân làm việc miệt mài và hầu hết đều sinh sống ngay tại địa phương – theo phương thức “Tam Cùng” – tức là Cùng Ở, Cùng Ăn, Cùng Làm Việc với đồng bào địa phương. Đòan công tác do anh Dũng điều động, thì phải trú ngụ tại Đình An Phú thuộc Phường Hưng Phú. Nhờ vậy mà dễ gây được mối thiện cảm của giới thân hào nhân sĩ tại chỗ và được họ góp ‎sáng kiến chỉ dẫn cho phải thực hiện lọai công tác nào mà đem lại ích lợi thiết thực nhất cho cộng đồng địa phương.

Cụ thể là chỉ trong vòng 3 tuần lễ sau khi đến quận 8, chúng tôi đã hòan thành ngay được một ngôi trường 5 lớp học tại Phường Hưng Phú – để giúp giải tỏa các “lớp học ban trưa” vì lúc đó các trường tiểu học công lập đều không có đủ phòng ốc dành cho số học sinh quá đông đảo. Công tác đầu tay này đã làm cho các phụ huynh và thầy cô giáo rất hài lòng và từ đó mà họ bắt đầu đặt niềm tin nơi chương trình phát triển.

Và tiếp theo là 2 công trường chỉnh trang khá quy mô tại Liên Khóm 14&15 trong Khu Xóm Đầm thuộc Phường Hưng Phú và Khóm 5A thuộc Phường Chánh Hưng sát với Khu Sở Rác. Hai công trình này phải nhờ đến cả một con tàu hút bùn cát từ lòng sông Kinh Đôi và Rạch Ụ Cây làm việc liên tục ngày đêm trong mấy tháng, thì mới có thể lấp được các hố trũng trong khu vực. Nhờ vậy, mới có đất để làm đường cũng như làm nền nhà cho dân.

Cả hai công trình này đã được Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ giới thiệu với Phó Tổng Thống Mỹ là Hubert Humphrey nhân chuyến viếng thăm vào tháng 2 năm 1966 – sự kiện này đã gây tiếng vang thật sôi nổi trên báo chí Việt nam cũng như quốc tế hồi đó.

4 – Sư tiếp trợ của bạn bè thân hữu vào lúc khởi sự của Chương Trình.

Phải nói chuyện giới trẻ ở Sài gòn mà lặn lộn xuống tận quận 8 thật xa lạ vào thời đó, thì có thể coi như là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Vì thế, mà chúng tôi được nhiều bậc đàn anh cũng như thân hữu thông cảm, hiểu rõ tinh thần hăng say thiện chí của nhóm anh em chúng tôi và rồi tìm cách khuyến khích nâng đỡ về tinh thần cũng như về vật chất cho chương trình. Xin trưng dẫn một vài nhân vật tiêu biểu sau đây.

a/ Anh chị Nguyễn Văn Tánh & Bạch Nhật.

Anh Tánh làm việc ở Tổng Liên Đòan Lao Công, Dược sĩ Bạch Nhật bà xã của anh là một thanh tra của Bộ Y Tế. Cả hai anh chị đều khuyến khích yểm trợ tinh thần hết mình cho chúng tôi. Chị còn giới thiệu với một vài dược phòng để chúng tôi tới xin thuốc để cấp phát cho bệnh nhân. Anh Trần Hữu Hải lúc đó cũng ở chung với anh chị Tánh, thì giới thiệu chúng tôi với một vài nhà máy để xin vật liệu xây dựng như gỗ, ván dăm bào v.v…

b/ Luật sư Trần Văn Tuyên và Linh mục Bernard Pineau.

Luật sư Tuyên rất chú trọng theo dõi công việc chúng tôi làm ở quận 8. Vào đầu năm 1966, có lần Linh mục Pineau nói với tôi rằng : “Luật sư Tuyên và tôi vừa mới chuyện trò trao đổi với nhau về chuyện các em làm ở quận 8. Cả hai chúng tôi đều coi đó là những “micro-réalisation” (nguyên văn tiếng Pháp) rất đáng khuyến khích. Các em cứ cố gắng làm việc như thế nhé…”

c/ Dược sĩ La Thành Nghệ lúc đó là một Nghị viên Đô Thành Sài gòn.

Ông có thiện cảm với chúng tôi và cũng thường cấp thuốc men cho Đòan Y Tế do anh Bác sĩ Minh phụ trách khám bệnh cho bà con ở địa phương. Ngòai ra, ông cũng còn bênh đỡ chúng tôi trước sự phê bình chỉ trích của một vài nghị viên khác tại Hội Đồng Đô Thành.

d/ Đỗ Ngọc Yến và Chương Trình Công Tác Hè 1965.

Trong thời gian mới xuống Quận 8, chúng tôi thiếu thốn mọi thứ vì mãi mấy tháng sau mới nhận được ngân khỏan của chính phủ cấp phát tài trợ. Cụ thể là trong việc xây dựng ngôi trường đầu tiên vào cuối tháng 8 năm 1965, thì các em trong Phong Trào Học Đường Phục Vụ Xã Hội cung cấp nhân công, nhưng phải nhờ anh Đỗ Ngọc Yến trích quỹ của Chương Trình Hè để mua cho một số gỗ làm cột nhà, đòn tay, cửa v.v… Còn phần thực phẩm, thì chúng tôi cũng phải đi xin từ nhiều nhà hảo tâm khác nữa.

đ/ Giới lãnh đạo của Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chính.

Cả hai Bác sĩ Hồng Bộ Trưởng Thanh Niên và Bác sĩ Của Đô Trưởng Sài gòn đều tận tình khích lệ và yểm trợ anh chị em thiện nguyện trong chương trình của chúng tôi. Đặc biệt là các Phụ tá của Bác sĩ Của như Lê Công Truyền, Bùi Thế Cảnh đều có thiện cảm và lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ cụ thể về mặt khai thông những bế tắc trong thủ tục hành chánh mỗi khi chúng tôi gặp trở ngại gì.

* * Để tóm kết lại.

Đã 50 năm qua, sau bao nhiêu tang thương biến đổi trên đất nước ta, trong số  anh chị em thiện nguyện chúng tôi ở Quận 8 hồi đó, thì nay nhiều người đã ra đi từ giã cõi đời này. Số còn lại thì cũng đều đã ở vào lứa tuổi 70 – 80 với trí óc lẩm cẩm lẫn lộn nhiều rồi.

Những dòng ghi trên đây chỉ nhằm gợi lại một chút kỷ niệm vui buồn của chúng tôi gặp phải trong những ngày đầu lúc mới khởi sự của chương trình phát triển ở khu vực ven đô Sài gòn hồi năm 1965 – giữa lúc cuộc chiến đang bắt đầu leo thang sôi động ác liệt khiến cho nhiều người phải rời bỏ vùng quê mất an ninh để chạy về trú ngụ nơi các thành phố.

Tôi hy vọng sau này, trong lớp con cháu của chính các gia đình cư ngụ tại địa phương quận 8 xưa nay, sẽ có người đi thu thập tài liệu, thống kê v.v… liên hệ đến chương trình phát triển tại cả 3 quận 6,7 và 8 này – để rồi trình bày trong một công trình nghiên cứu lịch sử xã hội của địa phương. Tài liệu nghiên cứu chi tiết như thế sẽ có giá trị khách quan, có sức thuyết phục hơn là do người trong cuộc chủ quan viết ra. Và rồi qua đó mà rút ra được một bài học kinh nghiệm có giá trị đối với thế hệ tương lai của đất nước vậy./

Costa Mesa California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

KINH – TẾ – HỌC PHẬT – GIÁO

KINH – TẾ – HỌC   PHẬT – GIÁO

Đoàn Thanh Liêm

‘Chánh Nghiệp’ là một trong tám ‘con đường tu’ rất căn bản và quan trọng của ‘Bát Chánh Đạo’ nhằm giúp người tu dứt được những nguyên nhân xa gần của mọi khổ đau trong đời sống thường ngày. Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này ngay sau khi Ngài thành đạo, rồi tiếp tục suốt 45 năm hoằng pháp, kể cả những ngày cuối đời                                                    

“Chánh nghiệp”  là những nghề nghiệp, việc làm chân chính, ngay thẳng, dựa vào chính sức lực của tim óc và bắp thịt của mình để mưu cầu cuộc sống. Vì thế, ta có thể nói rằng đạo Phật đã có một hướng đi đúng đắn làm nền tảng cho bộ môn Kinh-Tế-Học Phật-Giáo.

Tại những quốc gia mà đa số dân chúng tin theo đạo Phật thường bảo rằng họ muốn gìn giữ đức tin theo chánh pháp của Phật giáo. Ở Miến Điện, người dân thường nói rằng “Chúng tôi không thấy có sự đối nghịch nào giữa giá trị tôn giáo và sự tiến bộ của kinh tế cả. Sự an lạc của ‘thân’ và sự thanh tịnh của ‘tâm’ vẫn thường trợ duyên cho nhau mà không hề có tương phản nào” hoặc là “Chúng tôi có thể kết hợp những giá trị tôn giáo và truyền thống tâm linh với những lợi ích có được từ  kỹ thuật tân kỳ rất thành công.” hay là “Người dân Miến Điện chúng tôi có bổn phận phải biết dung hợp một cách hài hòa giữa ‘mộng’ và ‘thực’ trong đức tin của mình, và suy nghĩ đó vẫn luôn luôn mang lại kết quả viên mãn.

Cũng thế, có những  quốc gia khác lại cho rằng họ có thể theo mẫu mực thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế hiện đại, và rồi sẽ mời gọi các kinh tế gia từ những quốc gia tân tiến đến hướng dẫn họ phác họa chương trình có tầm cỡ để phát triển kinh tế theo những loại như ‘Kế Hoạch Ngũ Niên’ chẳng  hạn. Và không ai có thể ngờ rằng phương cách sống theo đạo Phật, mà ta có thể gọi là kinh tế học Phật giáo, giống như nếp sống duy vật chất hiện đại, lại có thể mang đến sự thăng tiến như thế.

Ngay cả những kinh tế gia, cũng như hầu hết mọi chuyên gia khác, vẫn thường loay hoay trong cái mù quáng có tính siêu hình của mình mà cứ  cho đó là khoa học của sự thật tuyệt đối cố định, và không được định hình từ trước. Có một số vị lại cho rằng những  luật kinh tế đều không mang ‘tính siêu hình’ hay ‘tính giá trị’ như định luật của trọng lực. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên bận tâm đến những cuộc tranh cãi về phương pháp luận mà chỉ nên suy gẫm về một số điều căn bản nhất rồi thử nhìn sự việc bằng cặp mắt của một kinh tế gia hiện đại và một kinh tế gia phật giáo để xem sự thể như thế nào.

Gần như ai cũng đồng ý rằng sức lao động của con người chính là cội nguồn căn bản của mọi sự giàu có trên đời. Trong khi đó thì những  kinh tế gia lại cho rằng ‘sức lao động’ hay việc làm lao công chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu rất bình thường của con người. Còn đối với một chủ nhân ông của thời kỳ hiện-đại-hóa thì phải giảm đến mức tối thiểu sức lao động này, và nếu cần thì làm triệt tiêu luôn, để làm giảm giá thành sản phẩm. Nhưng với cách nhìn của người công nhân thì đó là sự bất công, vì khi lao động , con người đã hy sinh thời gian rảnh rỗi và sự thoải mái của đời mình để đổi lấy đồng lương, coi như là một đền bù cho sự hy sinh, mất mát đó.

2

Vì thế nên người chủ chỉ muốn có sản phẩm ra khỏi nhà máy mà chỉ phải sử dụng thật ít sức lao động của thợ thuyền, còn giới công nhân thì mong được làm việc để lãnh lương và không phải lo bị thất nghiệp.

Trong thực tế, không dễ gì áp dụng một trong hai phương cách trên và phải loại bỏ phương cách kia, mà nên dung hòa bằng cách biết sử dụng  máy móc ở một mức độ thích hợp nhằm giảm bớt công việc nặng nhọc cho người lao động, như thế năng suất lao động sẽ tăng lên và sản phẩm sẽ xuất xưởng nhiều hơn. Đồng thời cũng nên áp dụng chế độ khen thưởng để khích lệ tinh thần làm việc. Phương pháp chia việc ra từng phần nhỏ để tăng thêm việc, và tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người có ít tay nghề. Sự thật thì cách vận hành này cũng đã được áp dụng từ thời xa xưa.

Khi sắp xếp lao động , người phật tử thường nhìn đến ba phương diện : trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng cộng tác với  các đồng nghiệp để tự xóa dần tính vị kỷ,(chấp ngã), và sau cùng là mang đến nhiều phúc lợi để cuộc sống được an lạc trong tự tại. Và như thế, phương cách này nên được áp dụng liên tục và mãi mãi.

Nếu sự tổ chức công việc mà luộm thuộm, không hợp lý, không gây được hứng khởi, mà chỉ tạo căng thẳng tinh thần, dễ gây ra bất đồng, mất đoàn kết và đưa đến bạo động, nghĩa là chỉ tạo điều kiện cho tội lỗi phát sinh. Nếu người chủ thiếu lòng từ bi, chỉ quan tâm đến sản  lượng mà không để ý gì đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người thợ là đã cố ý hay vô tình làm thui chột ý thức muốn hướng về chân, thiện, mỹ của họ. Mọi cố gắng  đem sự thoải mái vào việc làm sẽ giúp cho người thợ thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn. Đó là những yếu tố rất cần thiết cho thực tế cuộc sống có đạo lý.

Cũng từ nhận thức đó, người phật tử đã thấy rõ sự khác biệt giữa việc sử dụng máy móc như công cụ phục vụ con người, làm thăng hoa cuộc sống,  và việc dùng con người làm nô lệ cho máy móc. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, Ananda Coomaraswamy , một người rất am tường về nét đặc thù của nét hiện đại phương Tây và nét cổ truyền phương Đông đã phân tích : “Một người thợ thủ công giỏi bao giờ cũng thấy được sự khác biệt giữa một chiếc máy và một dụng cụ cầm tay. Cái khung cửi dệt thảm được chuẩn bị một cách cẩn thận, giúp cho người thợ khéo tay, sử dụng thật tài tình các ngón tay của mình đê luồn lách đưa từng sợi chỉ màu khác nhau  với con thoi tay để có thể dệt một tấm thảm đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật, diễn tả hết nét đẹp tuyệt vời của văn hóa dân tộc anh, mà chiếc máy dệt tân kỳ thì không làm sao diễn đạt được nét tuyệt mỹ ấy.” Từ cách suy nghĩ này ta có thể phân biệt được kinh tế học Phật giáo và kinh tế học hiện đại. Người phật tử thấy được cái tinh túy của  văn minh nhân loại trong sản phẩm hơn là chấp chặt vào sản lượng trong văn minh cơ khí hóa. Tính cách nhân bản này, thực sự đã hình thành từ khi con người đã biết sản xuất. xác định được nhân cách và nhận thức chuộng sự tự do muốn chọn cho mình một phương cách sản xuất. Một triết gia, cũng là một nhà kinh tế người Ấn Độ Ông J.C.Kumarappa đã đúc kết rằng :

3

“Nếu mọi người biết quí trọng đúng mức đặc tính của việc làm, thì sẽ thấy  ra giá trị cao hơn trong tương quan nhân quả của việc và sản phẩm, giống như sự liên hệ giữa sức khỏe của cơ thể con người và thực phẩm được hấp thụ. Nhận thức đó sẽ nuôi dưỡng và tạo duyên cho con người sáng suốt hơn, thăng tiến khả năng sản xuất của mình, hun đúc thêm tinh thần cầu tiến và cũng biết tự chế lòng ham muốn thấp hèn để luôn luôn có chỗ đứng xứng đáng trong mọi giai tầng của công việc. Đồng thời, khả năng thi thố cũng được nâng cao để thể hiện tư cách, phẩm giá của mình.”

Nếu một người bị mất việc, thì anh ta sẽ rất lo lắng và thất vọng, vì không những chỉ mất đồng lương, mà còn thiếu cả nguồn sống từ vật chất đến tinh thần là những giá trị khó có gì thay thế được. Một kinh tế gia thời nay có thể tính toán hết sức chuẩn xác làm sao để mọi người đều có việc làm cố định và được hưởng lương, hoặc một cách kinh tế hơn, là  bảo đảm được đồng lương trong khi việc làm có thể thay đổi, biến động theo tình thế, v.v.. Tiêu chuẩn căn bản của sự thành công trong kinh doanh hiện nay vẫn là tổng sản lượng hàng hóa phải xuất xưởng trong một thời gian qui định.

“Nếu mức độ tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút nghiêm trọng, thì sẽ khó tránh được tình trạng phải sa thải công nhân ở những mức độ khác nhau, hoặc vừa phải hoặc ào ạt” như giáo sư Gaibraith đã viết trong tạp chí The Affluent Society, và hơn thế nữa: “Nếu vì sự ổn định của lợi nhuận mà phải chấp nhận sa thải công nhân thì phải cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho những người bị mất việc, để họ có thể giữ được mức sống bình thường, như một biện pháp cần thiết không thối thoát được”.

Theo cách nhìn của người phật tử thì họ cũng thấy được trong thực tế thì còn nhiều người vẫn coi trọng sản phẩm hơn giá trị con người, và số lượng hàng hóa được tiêu thụ vẫn quan trọng hơn phẩm chất của sản phẩm mang tính sáng tạo. Nghĩa là đã xem nhẹ cái tài hoa khéo léo của người thợ, hay nói một cách khác, là hạ thấp giá trị nghệ thuật của người thợ đi, để tôn vinh cái gì ô uế, xấu xa theo thị hiếu thường tình. Điều quan trọng hơn hết trong quan niệm kinh tế của phật giáo là làm sao cho mọi người đều có công ăn việc làm ổn định để kiếm sống. Đó không phải là một cường điệu trong sự tạo việc làm, hoặc sự gia tăng tối đa sản lượng. Khi những  người phụ nữ của gia đình phải đi tìm việc ở các văn phòng hay những nhà máy thì đó là chỉ dấu thất bại nghiêm trọng của kinh tế. Cụ thể như là phải nhìn thấy các bà mẹ đang làm việc trong xưởng máy và bỏ các đứa con của mình  chạy chơi rong ngoài đường phố là không hợp lý một chút nào trong ánh mắt của nhà kinh tế phật giáo. Còn đối với các kinh tế gia thời hiện đại thì bất kỳ ai là người thợ giỏi thì đó là người chiến sĩ can trường của mặt trận sản xuất.

4  Trong khi những người ham sống xa hoa, mong muốn có nhiều  hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, thì người phật tử chân chính chỉ nghĩ đến sự giải thoát khỏi những vướng mắc vật chất thường tình. Dựa vào con đường “Trung Đạo” của Phật giáo, người phật tử sẽ không thấy có gì là khúc mắc trong sự an lạc của tự thân . Sự giàu có không có chỗ đứng trong sự giải thoát, mà đó chỉ là vướng víu trở ngại mà thôi. Họ không cho hưởng thụ vật chất là thú vui, mà đó chỉ là những thèm muốn của dục vọng thấp hèn. Nét căn bản của kinh tế  phật giáo là tính giản dị và tinh thần bất bạo động. Từ cách nhìn của một  người làm kinh tế  phật giáo thì tính mầu nhiệm trong cách sống đạo hạnh có thể làm toát ra sự hợp lý của từng mẫu mực – có khi với những phương tiện bé nhỏ đến bất ngờ lại có thể mang đến các kết quả mỹ mãn thật tuyệt vời.

Đối với một kinh tế gia hiện đại thì điều này thật là khó hiểu. Ông ta thường đo lường mức sống thường ngày bằng số lượng hàng hóa tiêu thụ hằng năm của một người, và cho rằng bao giờ một người biết tiêu thụ nhiều thì đời sống của anh ta phải tốt hơn so với một người ít biết tiêu thụ.

Một kinh tế gia phật giáo thì nghĩ khác, và cho rằng sự tiêu dùng phung phí là không hợp lý, vì như thế là trái với sự quân bình của con người. Mục tiêu mà người phật tử phải đạt được chính là sự an lạc tối thượng của thân tâm, và đó phải là kết quả của sự hưởng thụ có chừng mực. Vì thế, nếu ta chỉ cần quần áo để mặc đủ ấm đối với thời tiết và đủ đẹp khi được nhìn thì hà tất phải chạy theo thời trang để phải vứt bỏ đi một cách uổng phí những quần áo không còn hợp thời nữa. Như thế, ta sẽ có đủ thời gian, sức khỏe và phương tiện để chăm sóc làm đẹp cuộc sống tinh thần, nghệ thuật và tâm linh. Thật là không kinh tế chút nào khi chúng ta phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để nuôi dưỡng những kỹ nghệ may mặc tây phương trong khi còn quá nhiều người nghèo trên khắp địa cầu không có đủ mảnh vải để che thân và cần sự giúp đỡ, chia xẻ của chúng ta.  Kinh tế học phật giáo đã nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm chấm dứt mọi nhu cầu xa xỉ bằng ý thức “tri túc “ và “thiểu dục”.

Một mặt khác thì kinh tế học hiện đại lại quan niệm rằng sự tiêu thụ là cứu cánh tối thượng và cũng là mục tiêu chính của mọi sinh hoạt xã hội, nên phải sử dụng nhiều đất đai,cũng như sức lao động và vốn liếng để làm phương tiện phát triển sản xuất.

Nói tóm lại, tùy vào cách nhìn của hai nền kinh tế phật giáo và hiện đại, ta thấy được sự dị biệt tùy thuộc ở giá trị tinh thần và vật chất của hai quan niệm này về sự tiêu thụ hàng hóa. Từ đó, ta cũng biết được áp lực đè nặng trên vai của người dân tại hai nước Miến Điện và Hoa Kỳ khác biệt như thế nào. Một nơi thì mọi người được sống thanh thản, còn nơi kia thì sự  căng thẳng cứ triền miên, mặc dù ở Miến Điện tỉ lệ sử dụng máy móc thay cho sức người lao động so với Hoa Kỳ thì thật là khiêm tốn.

Ai cũng biết rằng tính bất bạo động có liên hệ rất mật thiết với cách sống giản dị, nên khi nhu cầu tiêu dùng ở mức độ vừa phải thì ta sẽ thấy tinh thần được thảnh thơi, bớt được nhiều nỗi lo toan, chạy vạy cho có đủ phương tiện tiền bạc nhằm thỏa mãn ý thích.  Như thế là đáp ứng được ý lời Phật dạy: “luôn tránh điều xấu ác, làm nhiều điều thiện lành,

và giữ tâm thanh tịnh “

5

Củng vì tài nguyên thiên nhiên ở khắp mọi nơi đang cạn dần, và nếu mọi người đều tự bớt nhu cầu tiêu dùng thì sẽ giúp làm giảm thiểu được những tranh giành, cướp giật đầy tính bạo hành mà ta thường thấy xảy ra ở những quốc gia, dân chúng đang sống dựa vào nền kinh tế  toàn cầu.

Mọi nền sản xuất khởi đi từ tài nguyên của địa phương nhằm thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cùng sống trong vùng, thì đó là phương cách rất thích hợp với quan điểm kinh tế Phật giáo. Nếu phải tùy thuộc vào nguồn hàng hóa nhập từ một nơi xa xôi, và được sản xuất bởi những người xa lạ thì đó là những trường hợp ngoại lệ và chỉ được áp dụng  rất giới hạn trong  cộng đồng phật giáo.

Chính vì kinh tế gia hiện đại chấp nhận một sự tốn kém khi để một người phải di chuyển thật xa từ nhà đến nơi làm việc, và cũng không hợp với tiêu chuẩn của nếp sống cao, nên kinh tế gia phật giáo đã thấy ra đó là một sự thất bại khi phải dùng nhân sự đến từ một nơi xa xôi để thỏa mãn theo ước muốn của họ, thay vì sử dụng những người sống trong vùng lân cận.

Thống kê kinh tế hiện đại thường dựa vào sự tăng trưởng của các con số ‘tấn hàng hóa’ hoặc ‘dặm đường vận chuyển’ tính trên đầu người của dân số mỗi quốc gia. Phương pháp này được xem như là tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế, thì những số liệu thống kê này lại trở thành chỉ dấu của sự tàn hại các mẫu mực nhận thức về nhu trong cuộc sống của người có đức tin Phật giáo .

Một nhận định rất nổi cộm về sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này đối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Bertrand de Jouvenel, một triết gia về chính trị rất nổi tiếng người Pháp đã định hình “Con người Tây phương” theo lời mô tả rõ ràng của một kinh tế gia hiện đại là:

Ông ta có khuynh hướng không kể bất kỳ thứ gì là phí tổn,  mà chỉ chú tâm vào sự nỗ lực của con người, ông ta có vẻ như không màng đến tài nguyên mà mình đã phí phạm, và tệ hại hơn nữa, là có bao nhiêu sinh linh mà ông ta đã hủy diệt. Ông ta tỏ vẻ như không cần biết rằng nếp sống của con người  là một phần lệ thuộc vào một hệ thống kinh tế gồm nhiều hình thái của đời sống. Vì thế giới này như bị chi phối bởi những thành phố mà ở đó người ta bị tách ra từ hình thái nào đó của đời sống không phải là tính người, và cảm giác về những gì là sở hữu của hệ thống kinh tế coi như là đã mất hẳn. Điều này đưa đến những hệ quả rất tệ hại không lường trước được trong cách hành xử đối với những thứ mà con người phải rất cần đến, giống như đối với nước uống và cây rừng vậy .

6

Hơn nữa, đức Phật cũng truyền dạy  mọi người nên đối xử từ bi  không những chỉ đối các sinh vật như loài người và động vật mà  cả với cây cỏ nữa. Mỗi phật tử nên phát tâm thường xuyên trồng thêm cây và chăm bón  cho  đến khi cây có đủ sức tự lớn mạnh. Nhìn vào sự kiện này, người phật tử có thể xác định tính độc lập của nền kinh tế, nghĩa là không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài mà vẫn có thể tự phát triển. Có nhiều  quốc gia ở vùng đông nam Á châu (và cả một số các vùng khác trên thế giới) vẫn bị chậm tiến một cách tủi hổ vì coi thường việc trồng cây gây rừng.

Còn kinh tế học hiện đại thì không để ý vào sự dị biệt giữa những vật liệu tái sinh được và không tái sinh được, mà chỉ lo tính cho quân bình và đủ số lượng của những vật liệu ấy bằng cách dùng trị giá của đồng tiền để chi trả. Vì thế, khi phải sử dụng những loại nhiên loại có thể thay thế cho  nhau như than đá, dầu hỏa, cây rừng, hoặc sức nước, thì các kinh tế gia hiện đại chỉ nói đến trị giá tương đương của từng loại để phân biệt. Và dĩ nhiên loại nào rẻ nhất sẽ được ưu tiên dùng đến, vì nếu không là như thế thì chẳng hợp lý và kinh tế chút nào! Theo quan điểm của kinh tế gia phật giáo thì dĩ nhiên không phải là như thế, vì  sự khác biệt giữa hai loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá và tái sinh được như cây rừng hay sức nước thì không thể được xem xét quá giản dị như thế. Đối với loại nhiên liệu không tái sinh được thì chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết, và phải hết sức cẩn trọng vì lý do cần được bảo tồn. Sử dụng bừa bãi và lãng phí loại nhiên liệu này là một hành động mang tính bạo động. và để chu toàn việc gìn giữ tính bất bạo động trên trái đất này là điều khó  đạt được. Bổn phận của mỗi con người là phải hướng đến mục đích lý tưởng là làm bất cứ việc gì cũng không được bạo động.

Chính như một kinh tế gia hiện đại ở Âu châu có thể không nghĩ rằng nếu tất cả tài sản nghệ thuật đã bán sang Mỹ với giá hấp dẫn thì không phải là một động thái thành công về kinh tế. Còn kinh tế gia phật giáo thì nhấn mạnh rằng nếu dân chúng chỉ sống dựa vào những loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá thì cũng như là sống bám vào tư bản thay vì dựa vào thu nhập của chính mình. Nếp sống ấy sẽ không bao giờ được thường xuyên ổn định mà phải được điều chỉnh sao cho được thích hợp một cách tạm thời. Vì nếu những nguồn nhiên liệu như than đá, dầu hỏa và khí đốt được khai thác quá đáng và phân bố không đều đặn trên toàn cầu, thì ắt hẳn đó là một hành động có tính  bạo  lực đối với thiên nhiên và sẽ không tránh đưa tới sự bạo động giữa con người.

Riêng sự kiện này thôi cũng là chất liệu cho những quốc gia phật giáo phải suy nghĩ. Cho dù họ không quan tâm gì đến những giá trị tôn giáo và tâm linh trong truyền thống của  mình, họ vẫn rất mong được ôm cả chủ nghĩa duy vật của kinh tế học hiện đại càng nhanh càng tốt. Trước khi cởi bỏ được quan niệm kinh tế học phật giáo, vì đó chỉ là một giấc mơ muốn ‘trở về cố hương’ không hơn không kém, thì họ cũng rất muốn sẽ đi được trên  con đường phát triển của nền kinh tế hiện đại, và rồi sẽ dẫn họ đến một nơi mà họ muốn tới.

Dẫn chứng ở phần cuối của tác phẩm đáng khích lệ của mình là quyển ‘The Challenge of Man’s Future ‘giáo sư Harrison Brown ở viện kỹ thuật California đã đánh giá rằng:

7

Như chúng ta thấy một cách căn bản rằng xã hội công nghiệp thì không còn ổn định nữa, mà phải bị biến dạng thành một hình thái mang tính nông nghiệp, và trong  đó,  những điều kiện cho tự do cá nhân cũng không còn chỗ đứng với khả năng tránh được những tình trạng bị áp bức bởi một hình thái tổ chức chặt chẽ với sự kiểm soát độc đoán. Thật vậy, khi  chúng ta quan sát tất cả những khó khăn có thể hăm dọa sự sống còn của nền văn minh công nghiệp, mà ta đã biết từ trước, thì thật là không dễ gì tìm ra phương cách để vẫn giữ được sự ổn định của nó cho đến cuối và bảo toàn được sự tự do cá nhân như một dung hợp hài hòa.

Cho dù hiện tượng này đã không còn nữa trong cách nhìn dài hạn, nhưng ta vẫn phải đối diện với vấn đề tức thời là liệu “sự hiện đại hóa”- vẫn đang tồn tại bất chấp những giá trị tôn giáo và tâm linh- có còn thực sự sản sinh được những hệ quả chấp nhận được hay không. Những khối lượng được thấy được thì thật là kếch xù, nhưng hậu quả thì cũng thật là khủng khiếp – nền kinh tế nông thôn thì đã sụp đổ, tình trạng thất nghiêp thì lan tràn khắp mọi thành phố và quốc gia, còn sự tăng trưởng tính vô sản thành phố thì không có khả năng nuôi dưỡng được con người cả phần thể chất lẫn cả tâm hồn nữa.

Dù cho ai còn tin tưởng rằng sự tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn những giá trị tôn giáo và tâm linh, thì dưới ánh sáng của cả kinh nghiệm thực tiễn trong hiện tại và viễn ảnh tương lai dài hạn, việc nghiên cứu kinh tế học phật giáo vẫn rất cần được quan tâm. Vì đó không phải là việc chọn lựa giữa “sự lớn mạnh hiện đại” và “sự trì trệ cổ điển”, mà là vấn đề tìm ra một con đường đúng cho sự phát triển. Đó chính là con đường “Trung Đạo” giữa sự thờ ơ của các “sứ giả duy vật” và sự bất động của các “nhà tồn cổ”. Hay nói một cách ngắn gọn là tìm cho ra con đường của“Chánh Nghiệp”.

Bài 2 – Giới thiệu sách “Small is Beautiful”

Bài 2  –  Giới  thiệu  sách  “Small  is  Beautiful”

Tác  giả  : E F Schumacher

( xuất bản lần đầu : Năm 1973)

Đòan Thanh Liêm.

Như đã có dịp trình bày nơi bài 1 trước đây, cuốn sách “Small is Beautiful” đã được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai ( the most influential books). Và sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, thì đã lưu hành được tới trên một triệu cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm trong ngành quản lý về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lãnh vực thống kê, nên ông đã đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa cho lý luận của mình. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đã lần lượt trình bày suy nghĩ và tìm kiếm của mình trong suốt 40 năm vừa học tập, làm việc, trao đổi và nghiên cứu của mình về những vấn đề căn bản của nhân sinh trên phạm vi tòan cầu. Người đọc có thể thấy tác giả đã gửi gấm vào tác phẩm tất cả tài năng trí tuệ và tấm lòng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm vì coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại. Có thể coi cuốn sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân lọai ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc tìm kiếm một lối thóat khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn (underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào lọai “ đang phát triển” ( developing countries)

Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rõ ý nghĩa nữa : “ Economics as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quý”. Và riêng trong ấn bản năm 1999, thì lại còn kèm theo nhiều bình luận của các thức giả đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.

Sách được trình bày thành 4 phần trong 19 chương như sau  :

Phần 1  :  Thế giới hịên đại      (Chương 1-5)

Phần 2  :  Tài nguyên               (Chương 6-10)

Phần 3  :  Thế giới thứ ba         (Chương 11-14)

Phần 4  :  Tổ chức và Sở hữu   (Chương  15-19).

Nói chung thì sau trên 30 năm, các luận đề do Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn còn giữ được tính cách thực tiễn khách quan và được coi như những gợi ý rất sâu sắc cho sự thảo luận và tìm kiếm của giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con người trong bối cảnh văn hóa xã hội của thế kỷ XXI hiện nay.     Nhằm trình bày sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây :

1/  Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba  :  Làm sao mà phát triển?

Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba mà gồm các quốc gia đang phát triển, với bình quân mỗi làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, thì có đến 2000 triệu người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này. Tình trạng sinh sống của người dân tại các vùng quê như ở Ấn độ đã được Schumacher rất lưu tâm quan sát, tìm hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lý, hợp tình nhất để gây ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ tầng cơ sở các địa phương đó.

Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có đã đề ra các chương trình viện trợ khi thì đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc, khi thì song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thóat được cảnh bần hàn khốn khổ. Nhưng Schumacher đã chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đã không nắm bắt được tâm lý và hòan cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại không thích hợp với hòan cảnh văn hóa xã hội và tâm linh truyền thống tại miền nông thôn địa phương. Vì thế mà Schumacher đã mạnh dạn đưa ra những đường hướng quyết liệt là : “ Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid), viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng vật chất. “ Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và không còn bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp mãi của thứ “con bò sữa” như vẫn thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có lòng tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân mình. Đây mới đích thực là cách thức hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản thân họ” ( Helping the people to help themselves).

Muốn đảy mạnh phong trào như vậy, thì phải lôi cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lãnh (donor/recipient countries); chứ không thể hòan tòan do hai bên chánh phủ độc quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì là : “Phải vận động Xã hội Dân sự từ cả hai nước cùng dấn thân nhập cuộc vào tiến trình phát triển và xây dựng tòan diện và điều hòa này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của mình (Mass fermentation and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics) nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương (self-sustaining community development).

Xin trích nguyên văn một đọan cuối của “ Chương 13 : Two million villages ” như sau :  “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng rãi dấn thân vào công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của tất cả mọi người trong công đồng…Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá trình phát triển bao gồm cả trình độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật của tòan thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, thì chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi “ ( trang 171).

2/   Đi tìm lọai kỹ thuật thích hợp nhất (Appropriate Technology AT)

Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương cần phải phát triển lọai “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với hòan cảnh kinh tế xã hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này với nhan đề như sau :   “ Social and Economic Problems Calling For The Development Of Intermediate Technology ” (Những Vấn Đề Xã Hội và Kinh Tế Đòi Hỏi Phải Phát Triển Lọai Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn hai lý do chính yếu sau đây  :  Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến thì lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng rãi khắp nơi được. Thứ hai là trình độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển đề xuất ra. Do đó mà cần phải tìm kiếm cho ra được lọai “kỹ thuật thích hợp” mà thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là thứ kỹ thuật đứng giữa lọai kỹ thuật lạc hậu cổ truyền  (mà rất rẻ tiền) với kỹ thuật hiện đại (mà rất là đắt tiền).

Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để nghiên cứu và thử nghiệm lọai kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là “The Intermediate Technology Development Group” ( ITDG). Cụ thể như : Nếu dùng kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), thì phải tốn phí hết 70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy thì các nước nghèo khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử dụng lọai kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động, thì với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và rõ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ ba vậy. Cho đến nay ITDG đã phát triển và phổ biến khá rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.

Cũng vì nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó Schumacher đã khẳng định rằng “ Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho những người cần được giúp đỡ nhất, thì “ Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một quốc gia phải có riêng một chương trình phát triển cơ hữu của mình.” Cụ thể như tại nướcThụy sĩ chỉ có chưa đày 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với điều kiện đặc thù của mình (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát triển điều hòa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi mình sinh sống (Participatory Democracy).

3/  Vấn đề Cạn kiệt Tài nguyên Thiên nhiên ( Depletion of Natural Resources)

Là người làm việc lâu năm trong ngành than đá, nên Schumacher rất chú trọng đến tình trạng sự dụng bừa bãi phí phạm về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong các nước văn minh tiền tiến Âu Mỹ. Cụ thể là về dầu khí, than đá và nhất là rừng cây. Bằng những con số thống kê chính xác, tác giả đã nêu lên các sự thao túng, lạm dụng và ích kỷ của các nước giàu có trong việc xài hoang phí các tài nguyên thiên nhiên. Schumacher phân biệt rất rõ rệt hai lọai tài nguyên : lọai tái tạo được và lọai không tái tạo được (renewable/non-renewable resources). Ông còn chỉ rõ ra là :  Thiên nhiên luôn luôn hào phóng trong việc cung cấp cho con người những tài nguyên dồi dào phong phú, để mà khai thác đáp ứng nhu cầu sinh họat của nhân lọai. Nhưng thật  đáng buồn là con người trong mấy thế kỷ gần đây đã dùng khoa học kỹ thuật để mà khai phá quá mức đến độ tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, tạo ra cảnh cạn kiệt mau chóng các tài nguyên thiên nhiên (rapid depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất quân bình giữa con người với thiên nhiên, cũng như giữa hiện tại với tương lai, và cả giữa con người với con người nữa. Ông còn nói rõ là : Phải coi thiên nhiên như một “ nguồn vốn” (Capital) và nhờ biết khai thác khôn khéo, chừng mực đối với thiên nhiên mà con người kiếm ra được các “ lợi tức” (Income). Và như vậy, thì chỉ được quyền sử dụng lợi tức trong việc thanh thỏa các nhu cầu chính đáng của mình; chứ không được tiêu xài vào cái nguồn vốn chỉ có giới hạn nhất định nào đó mà thôi. Schumacher đã rất nghiêm khắc phê phán cái sự kiêu căng, tham lam quá độ và nhất là cái thái độ bạo hành của con người đối với thiên nhiên, cũng như giữa con người đối với nhau nữa. Ông đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại “ (Non-violence, Ahimsa) của thánh Gandhi cũng như của Đức Phật, mà ông có dịp khảo sát tại Ấn Độ và Miến Điện. Những suy ngẫm này ông đã ghi rõ ràng trong Chương 4 nhan đề là  : “Buddhist Economics” ( Kinh tế học Phật giáo) mà chúng tôi sẽ dịch nguyên văn ra Việt ngữ được trình bày với đày đủ chi tiết trong một bài sau.

Cũng trong dòng chảy suy nghĩ đó mà Schumacher đã dành hẳn một Chương 9 với nhan đề : “ Nuclear Energy – Salvation or Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhân – Sự Cứu Rỗi hay là Án Phạt?) để bàn về cái lợi hay cái hại của năng lượng hạt nhân. Tác giả kiên quyết chống lại việc sử dụng lọai máy phát điện nguyên tử vì lý do chất thải của lọai máy này chứa nhiều chất phóng xạ rất nguy hiểm lâu dài cho nhiều thế hệ sau này. Và may thay, do các biến cố “rò rỉ tại nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô, mà việc xây dựng bừa bãi các nhà máy hạt nhân này mới bị kìm hãm lại. Rõ rệt là Schumacher là một vị tiền phong đóng góp rất lớn cho phong trào bảo vệ môi sinh trên khắp thế giới từ mấy chục năm gần đây.

4/   Phải Định Hướng lại cho Khoa Học và Kỹ Thuật ( The Re – Orientation of Science and Technology).

Hơn ai hết, Schumacher là người luôn luôn cảnh giác về tính kiêu căng ngạo mạn và ngoan cố của giới khoa học ngày nay, nhất là trong ngành kinh tế học là lãnh vực họat động chuyên môn suốt cả cuộc đời của ông. Bàng bạc trong cuốn sách này, ta thấy tác giả luôn đề cao sự khiêm tốn, tinh thần nhân ái và nhân bản trong việc đề ra đường lối họat động cụ thể mà thiết thực, nhằm vào việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta có thể thấy lời cảnh giác này đã có từ mấy trăm năm trước qua nhà hiền triết Rabelais ở Pháp mà dịch ra tiếng Anh là : “ Science without conscience is the ruin of the soul” (Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự suy đồi của tâm hồn).

Tác giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, hòa ái của thánh Gandhi và nhất là của Phật Tổ, mà ông rất say mê nghiên cứu học hỏi trong thời gian làm việc ở Ấn Độ và Miến Điện. Nếu ta chú ý đến môi trường tôn giáo mà ông vẫn sinh họat tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất là khi về già ông đã gia nhập đạo công giáo nữa, thì ta lại càng khâm phục cái thái độ thành tâm cầu thị, khiêm nhu và quý trọng của ông đối với Phật giáo và Thánh Gandhi ở Á châu. Ông đặc biệt đem thêm khía cạnh phẩm chất (qualitative aspects) và đạo đức (ethics) vào trong môn Kinh tế học là môn học mà các chuyên viên kinh tế thường chỉ chú trọng đến khía cạnh định lượng mà thôi (quantification). Tác giả luôn nhắc nhủ các nhà khoa học là phải tìm kiếm sự minh triết (wisdom) vốn đã ăn rễ sâu trong truyền thống đạo đức văn hóa trong các xã hội phương đông, mà thường bị người phương tây vì quá say mê và kiêu hãnh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vất chất nên đã xem thường. Vì thế ông mới gọi đó là môn “Siêu kinh tế học” (Meta-Economics).

Nói vắn tắt lại, các luận đề Schumacher đưa ra trong cuốn sách “Small is Beautiful” này hiện vẫn còn được thảo luận, khai thác rộng rãi trên tòan thế giới. Lọat bài viết ngắn ngủi này chỉ nhằm giới thiệu sơ lược về tư tưởng độc đáo, can đảm, mà lại rất táo bạo dứt khóat của Fritz Schumacher. Cuốn sách này là đúc kết kinh nghiệm họat động và suy nghĩ tìm kiếm trong suốt cuộc đời của tác giả, với tấm lòng tha thiết phục vụ cho nhân quần xã hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chúng kém may mắn nhất trên thế giới ngày nay. Bạn đọc có thể tham khảo thêm trên internet, để có số liệu cập nhật hóa rất đày đủ và phong phú về các đề tài mà Schumacher đã gợi ra trong cuốn sách thời danh này.

Người viết mong ước giới trẻ Việt nam, ở trong cũng như ở ngòai đất nước, để tâm theo dõi sự phát triển của lọai tư tưởng đày tính nhân bản và nhân ái tương tự như thế này, mà hiện đang có sức rất thuyết phục, quyến rũ cho cao trào tranh đấu bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền và cả bảo vệ môi sinh đang dâng cao khắp thế giới ngày nay trong thế kỷ XXI. Và cũng mong được sự tiếp tay trong việc đào sâu và phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ này từ nơi các bậc thức giả trong những tổ chức chuyên về văn hóa khoa học, cụ thể như : Viện Việt Học, Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyên Gia Việt nam, Các Viện Nghiên Cứu thuộc các Tôn Giáo Việt nam v.v…

California, Mùa Phật Đản Kỷ Sửu 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 3  :  Kinh Tế Học Phật Giáo – Buddhist Economics)

(bản dịch tòan bộ Chương 4)

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

( Small is beautiful )

Đòan Thanh Liêm

is beautiful”, đó là nhan đề của một cuốn sách xuất bản năm 1973. Tác giả là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm tại Cơ quan quản lý về ngành than đá của nước Anh (National Coal Board NCB), tên là E F Schumacher. Ngay khi ra mắt công chúng, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn khắp thế giới, và cho đến nay sau trên 30 năm thì đã lưu hành được đến trên một triệu đơn vị, đó là chưa kể các ấn bản được dich ra nhiều thứ tiếng khác nữa.

Vào năm 1973 đó, tôi chỉ mới được đọc có một bài giới thiệu về cuốn sách này, trong đó có câu nguyên văn như sau khiến tôi nhớ mãi : “Small is beautiful, Simple is beautiful, Non-violent is beautiful too”. Mãi đến năm 1979-80, thì cụ Nguyễn Hiến Lê mới được ngưới cháu làm ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva về thăm và mang cho bản dịch tiếng Pháp mà vẫn để nguyên nhan đề bằng tiếng Anh theo như nguyên tác, chứ lại không dịch ra tiếng Pháp : “Small is beautiful”. Cụ Nguyễn xem xong và cho tôi mượn đọc cuốn sách thật là hiếm mà có được ở Việt nam vào thời gian đó. Không những tôi đã say mê đọc, mà còn chuyển cho một vài người bạn thân thiết khác cùng đọc nữa. Rồi tôi lại có dịp đến trao đổi với cụ Nguyễn về nội dung cuốn sách này; nhờ vậy mà tôi vỡ lẽ ra được nhiều điều mới lạ mà tác giả đã gợi ra cho người đọc nào có sự chú tâm và đồng cảm với quan điểm của mình.

Đáng chú ý nhất là trong cuốn sách có một chương dài chừng 10 trang nhan đề là “Buddhist Economics” (Kinh tế học Phật giáo). Tác giả Schumacher viết rất gọn gàng khúc chiết, diễn giải một cái nhìn rất khác lạ đối với công chúng ở các nước Âu Mỹ.

Từ mấy tháng nay trước sự hỏang lọan cực kỳ rối ren đen tối phát sinh từ cuộc khủng hỏang kinh tế tài chánh của nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, tôi đã tìm đọc lại cuốn sách này nơi ấn bản năm 1999 kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản đầu tiên năm 1973 như đã ghi ở trên. Và với thêm nhiều tài liệu được cập nhật hóa liên quan đến tác giả và tác phẩm, tôi bèn nảy ra ý nghĩ là phải trình bày với chi tiết thật sáng sủa, mà gọn gàng về tư tưởng của tác giả Schumacher với các bạn đọc người Việt nam chúng ta.

Để cho vấn đề trình bày được thêm mạch lạc sáng tỏ, người viết xin chia ra thành 3 phần được diễn trình trong 3 bài như sau :

Bài 1/  Thân thế và sự nghiệp tác giả E F Schumacher

Bài 2/  Giới thiệu cuốn sách “Small is beautiful”

Bài 3/   Kinh tế học Phật giáo (dịch nguyên văn từ chương “Buddhist Economics”)

Nhân tiện người viết cũng xin ghi lời tưởng nhớ với niềm ngưỡng mộ chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đối với cụ Nguyễn Hiến Lê, là một học giả đã góp phần rất lớn lao trong công trình xây dựng văn hóa nước nhà, dưới chế độ tự do ở miền Nam Việt nam hồi trước năm 1975. Cụ sinh năm 1912 (suýt soát với tuổi của E F Schumacher) ở Hanoi, và đã từ trần vào năm 1984 ở Saigon. Và năm 2009 này là kỷ niệm 25 năm kể từ ngày Cụ từ giã chúng ta.

Bài 1  —   Ernst  Friedrich  Schumacher  (1911 – 1977)

Thân thế và Sự nghiệp

1/  Sơ Lược Tiểu sử

E F Schumacher sinh tại thành phố Bonn, nước Đức năm 1911 (cùng năm xảy ra cuộc Cách Mạng năm Tân Hợi ở Trung quốc, lật đổ vương triều nhà Mãn Thanh). Thân phụ là Giáo sư Hermann Schumacher chuyên dậy về môn Kinh tế học tại nhiều trường Đại học ở Đức, kể cả tại thủ đô Berlin vào hồi đầu thế kỷ XX. Thân mẫu là Bà Edith Zitelmann, một tài năng về tóan học. Trong chỗ thân mật E F thường được gọi là Fritz. Với cha mẹ như vậy, nên người ta không ai ngạc nhiên về sự thông minh xuất chúng của Fritz là một học sinh luôn luôn đứng vào hàng đầu trong các lớp học. Lại nữa, Fritz còn được thụ giáo với các bậc đại sư nổi danh khắp thế giới như Joseph Schumpeter gốc Áo quốc, như John Maynard Keynes bên Anh quốc v.v…

Là một sinh viên xuất sắc, nên Fritz đã được học bổng Rhodes Scholar để theo học tại Đại học Oxford hồi đầu thập niên 1930, và lại được tiếp tục theo học tại Mỹ trong ngành kinh tế tài chánh. Sau thời gian ngắn làm việc tại Đức, Fritz không thể chấp nhận đường lối độc tài phát xít của Hitler, nên đã sang làm việc bên Anh quốc ít lâu trước khi thế chiến thứ hai xảy ra năm 1939. Lúc đầu khi mới nổ ra cuộc chiến, vì là công dân Đức nên Fritz cũng bị đối xử rất ngặt nghèo như là kẻ thù địch và bị xếp vào lọai người bị cô lập  trong một trại tập trung rất khắc nghiệt. Nhưng sau ít lâu, thì cũng được các bạn hữu giải thóat ra khỏi tình trạng quản chế này và được trao phó cho công viêc thích hợp với khả năng chuyên môn của một kinh tế gia.

Chiến tranh chấm dứt, Fritz nhờ đã có quốc tịch Anh, nên được phái sang Đức với nhiệm vụ làm cố vấn kinh tế cho phái bộ Anh đặc trách về vấn đề bình định và tái thiết trong khu vực thuộc quyền quản lý của quân đội nước Anh tại Đức. Vì được chứng kiến tận mắt những tàn phá mất mát của bà con ruột thịt với mình, nên Fritz đã ngày đêm miệt mài tìm cách xây dựng lại hệ thống quản lý và phân phối ngành năng lượng, chủ yếu là than đá vốn là huyết mạch của sự phục hồi kỹ nghệ tại nước Đức, cũng như tại tòan bộ các nước thuộc miền Tây Âu châu. Sau đó ông trở về lại nước Anh và nhận chức vụ cố vấn kinh tế cho cơ quan National Coal Board (NCB), đây là công việc ông làm trong nhiều năm nhất (gần 20 năm) cho đến khi về hưu vào năm 1970.

Về đời sống gia đình, Fritz  đầu tiên cưới bà vợ người Đức là Anna Maria Petersen vào năm 1936. Anna Maria thường được gọi là Muschi trong chỗ thân mật gia đình và bạn hữu. Hai vợ chồng rất gắn bó với nhau và đã trải qua những năm khốn khó giữa thời chiến tranh bên nước Anh. Họ có với nhau 5 người con. Nhưng không may, Muschi bị bệnh ung thư và mất sớm vào năm 1960, lúc chưa đày 50 tuổi. Sau đó, thì Fritz tục huyền với bà Vreni Rosenberger, người Thụy sĩ. Cuộc hôn nhân thứ hai này đem lại cho Fritz thêm 3 người con nữa. Bà Vreni là người chăm sóc tận tình cho Fritz vào thời cuối đời, đặc biệt là cho lũ con riêng của Fritz mà còn rất nhỏ tuổi, khi người mẹ của chúng là bà Muschi qua đời. Và rốt cuộc, chính Fritz Schumacher cũng đã kiệt sức vì làm việc quá nhiều, và đã qua đời trên chuyến đi diễn thuyết tại Thụy sĩ vào năm 1977 lúc mới có 66 tuổi.

Chi tiết về cuộc đời và họat động của Fritz Schumacher đã được người con gái lớn là Barbara Schumacher Wood ghi lại khá đày đủ trong cuốn tiểu sử xuất bản năm 1984, với nhan đề là  :   “ E F Schumacher , His Life and Thought “. Nhờ tham khảo cuốn sách này, mà người viết có thể cống hiến cho bạn đọc những chi tiết lý thú.

2/  Hành trình tư tưởng của Fritz Schumacher.

Có thể nói Fritz là một nhân vật xuất chúng cả trong hành động cụ thể, cũng như trong công cuộc tìm kiếm giải pháp tốt đẹp có tầm vóc tòan cầu trước những khó khăn bế tắc của thế giới hiện đại. Như đã trình bày ở phần trên, thông qua việc học hỏi và làm việc tại các quốc gia tiền tiến như Đức, Anh và Mỹ trong hơn 60 năm, ông đã được tiếp cận với các luồng tư tưởng, với các nhân vật ngoại hạng, cũng như tham gia vào các hoạt động ở tầm mức cao nhất trên thế giới. Và cùng với một trí tuệ thông minh vượt trội và sức làm việc cần mẫn, say sưa miêt mài trong nhiều năm, ông đã đạt tới tình trạng “ngộ ra được’ một đường lối phải noi theo để góp phần xây dựng tốt đẹp nhất cho thời đại ngày nay. Ông đã đi khắp năm châu, bốn biển, nhất là Phi châu, châu Mỹ la tinh , Ấn độ, Miến điện để nhận diện được sự phức tạp của hòan cảnh sinh họat văn hóa xã hội và cả mặt tâm linh của nhiều sắc dân với truyền thống lịch sử rất khác biệt với nhau.

Lúc còn trẻ, vì hăng say làm việc và nghiên cứu với tinh thần lạc quan khoa học, ông như người vô thần, không chú tâm gì đến khía cạnh tâm linh của con người. Nhưng sau này, nhờ quan sát tại chỗ ở nhiều quốc gia trên thế giới, ông đã chú trọng đến ảnh hưởng của tôn giáo trong các nền văn hóa. Đặc biệt ông rất khâm phục chủ trương “Bất bạo động” của Thánh Gandhi bên Ấn độ và lối sống thanh thóat của người Phật tử tại Miến điện. Và đến cuối đời, thì ông gia nhập đạo công giáo.

Bởi vậy mà suy nghĩ của Schumacher càng thêm chín mùi hơn với khía cạnh nhân bản và nhân ái, vượt thóat được thái độ kênh kiệu, tự cao tự đại và tự mãn thường thấy nơi những người quá say mê với thành tựu khoa học kỹ thuật, cũng như về kinh tế của các nước Âu Mỹ. Càng tìm hiểu nơi các nền văn hóa cổ truyền bên ngoài thế giới Tây phương, ông càng có thái độ khiêm tốn, phục thiện và mở rộng tâm hồn để đón nhận những luồng tư tưởng khác lạ mà lại rất phong phú của nhân lọai. Có thể nói Schumacher luôn luôn nhất quán trong việc đề cao khía cạnh đạo đức nhân bản trong lề lối tổ chức sinh họat kinh tế xã hội cho con người trong thế giới ngày nay. Ông luôn nhắc nhủ, cảnh giác cái thái độ tự phụ của các nhà lãnh đạo các cường quốc chỉ biết đến khoa học, đến năng suất kinh tế thương mại, mà sao lãng vấn đề lương tâm và trách nhiệm liên đới của các quốc gia là thành viên trong cộng đồng nhân lọai.

Cụ thể Schumacher phê phán nhà bác học Einstein rằng : Vì ông ta quá mức đề cao thuyết tương đối (Relativity), thì đâm ra chối bỏ cái tiêu chuẩn đạo đức vốn có giá trị tuyệt đối. Cũng vậy, lý thuyết của Freud coi rằng con người hành động là do sự ẩn ức của sinh lý bị dồn ép, thì không còn phải chịu trách nhiệm gì về việc làm xằng bậy của mình nữa. Như vây là sự vô trách nhiệm. Schumacher cũng phê phán Karl Marx về lý thuyết định mệnh lịch sử, thì con người cũng không còn chịu trách nhiệm cá nhân của riêng bản thân nữa. Ông cũng cực lực lên án chủ trương gieo rắc hận thù của người macxít, vì đó là nguyên nhân của các vụ tàn sát kinh hòang trong thế giới cộng sản. Ta sẽ có dịp xem xét chi tiết hơn về tư tưởng của Schumacher khi đọc tác phẩm chính yếu “Small is beautiful” là đề tài sẽ được trình bày trong bài sau.

3/  Ảnh hưởng của tư tưởng Schumacher

Báo New York Times đã xếp cuốn “Small is beautiful” là một trong 100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất trên thế giới (the most influential books) kể từ sau thế chiến 2. Tác giả đã được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và được nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham khảo ý kiến, trong đó có cả Tổng Thống Jimmy Carter của nước Mỹ. Tại nhiều nước, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, các thân hữu ái mộ ông đã lần hồi thành lập “Hiệp hội E F Schumacher” (E F Schumacher Society) nhằm nghiên cứu, khai triển và phổ biến tư tưởng của ông. Và còn rất nhiều các tổ chức và các nhóm khác đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng của ông, mà điển hình như “ Institute for Community Economics”, “Council on Economic Priorities”, “Friends of the Earth”, “Greenpeace”, “Worldwatch Institute”, “Soil Remineralization Network”, “Global Warming Network” v.v…

Ta có thể lược kê ra các đề tài được Schumacher nêu ra ngay từ thập niên 1960 và hiện nay vào thế kỷ XXI vẫn còn tính cách thời sự cấp bách, mà được quần chúng cũng như giới trí thức hàn lâm rất quan tâm.  Điển hình một số các đề tài đó như sau  :

  • Phê phán các hệ thống tổ chức quá mức (overorganised systems) làm phá họai tinh thần con người, cũng như cả hành tinh trái đất.
  • Đề cao sự quan trọng của “mức thang nhân sinh” (human scale) trong việc tổ chức sinh họat kinh tế xã hội.
  • Ý niệm về “kỹ thuật với bộ mặt nhân bản” (technology with human face), về “kỹ thuật thích hợp” (appropriate technology) cho từng quốc gia, có tính cách đơn giản, bất bạo động và có thể kiểm sóat được (controllable).
  • Ưu tư về sự mau cạn kiệt (rapid depletion) các tài nguyên thiên nhiên, khiến đưa tới sự phá hủy môi sinh.Cần cảnh giác về việc sử dụng quá mức các lọai tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable resources) như than đá, dầu khí, gas…
  • Sự quan trọng của việc phục hồi lại cái hệ thống giá trị về một lối sống tốt đẹp, một xã hội an hòa (good life, good society) thay vì cứ để bị mê hoặc bởi các lọai lợi ích ngắn hạn nhất thời.
  • Sự cần thiết phải trở về với “Bốn Nhân Đức Nền Tảng” (Four Cardinal Virtues), đó là : Sự Khôn ngoan, Công lý, Dũng cảm và Tiết chế ( tiếng latin : Prudentia, Justitia, Fortitudo, Temperantia)  …

Đại khái các đề tài này đã luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hôi thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các lọai ý kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.

Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lý luận và phân tích tình hình xã hội của ông được thể hiện rõ ràng qua sự kiểm chứng đối chiếu với thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện với kích thước quá lớn đã lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải thì mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không còn được xây dựng ào ạt sau các vụ rì rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đã qua đời năm 1977.

Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng có nhiều nét tương đồng với quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper gốc từ Áo quốc (1905-1994), là một vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” ( “Xây dụng xã hội từng mảnh một “, như đã được trình bày khá chi tiết trong tác phẩm nổi danh của ông với nhan đề là : “The Open Society and Its enemies “), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Institute OSI” do ông sáng lập, có trụ sở chính tại New York, và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đọan hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn về cặp đại sư Karl Popper và môn sinh George Soros này trong một dịp khác, cũng như đã viết về vị đại sư cũng rất nổi danh khác của nước Pháp là Raymond Aron (1905-1983) vào đầu năm 2008 vừa qua./

California, Tháng Tư 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 2   : Giới thiệu tác phẩm “Small is beautiful”). (tiêp theo)

Suy nghĩ nhân kỷ niệm 50 năm Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài gòn (1965 – 2015)

Suy nghĩ nhân kỷ niệm 50 năm Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài gòn (1965 – 2015)

Bài ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

Mấy năm gần đây, tôi đã có dịp viết nhiều bài về các mặt sinh họat của chương trình phát triển cộng đồng này tại một quận ven đô Sài gòn hồi giữa thập niên 1960. Nay nhân kỷ niệm 50 năm ngày khởi sự Chương Trình Phát Triển Quận 8 vào trung tuần tháng Tám năm 1965, tôi xin ghi ra một số suy nghĩ đúc kết được gói ghém trong mấy mục ngắn gọn như sau đây:

1 – Vào năm 1965, quận 8 là một địa phương có nhiều khu nhà ổ chuột, có nơi nhà ở xen kẽ với những ngôi mộ vô thừa nhận. Dân Sài gòn thường biết đến các địa danh như Lò Heo, Trại Tế Bần, Sở Rác mà đều có chung một tên là Chánh Hưng. Vì tình hình mất an ninh ở nông thôn, nên bà con kéo về tá túc rất đông ở vùng ven biên đô thị tiếp giáp với các huyện Cần Đước, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An. Có thể nói quận 8 lúc đó là một khu vực kém phát triển nhất của thành phố Sài gòn (the most depressed area). Đó là lý do tại sao anh chị em chúng tôi đã quyết định đến nơi đây và khởi sự một chương trình cải tiến xã hội từ năm 1965.

Và qua năm 1966, thì chương trình lại nới rộng địa bàn họat động qua hai quận 6 và 7 lân cận – với tổng số dân trong 3 quận là khỏang 500,000 người.

2 – Tính chất căn bản của Chương trình này là sự hợp tác giữa chánh quyền nhà nước và giới thanh niên tự nguyện đến phục vụ bà con tại địa phương.  Hồi đó, lớp bạn trẻ chúng tôi đều ở vào lứa tuổi từ 20 tới 30 – có người còn là học sinh trung học, có người là sinh viên đại học và một số huynh trưởng đã tốt nghiệp đại học.

Thọat đầu, anh chị em đầu đàn họp lại chung với nhau để cùng sọan thảo ra được một bản Dự án lấy tên là “Chương Trình Phát Triển Quận 8 Sài gòn” (CTPT.Q8). Dự án này được đệ trình lên văn phòng cấp trên và được vị Thủ Tướng Chánh Phủ lúc đó là Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chấp thuận và giao cho Bộ Thanh Niên và Tòa Đô Chánh Sài gòn là hai cơ quan đứng ra bảo trợ và giám sát mọi họat động của Chương Trình.

Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đây là một dự án của Xã hội Dân sự mà được chánh quyền nhà nước chấp thuận và theo dõi yểm trợ.

3 – Sau gần 6 năm họat động, chương trình đã đạt được nhiều thành quả tốt đẹp về nhiều mặt qua hàng trăm những dự án công tác lớn, nhỏ nhằm cải thiện môi trường sống nơi các xóm hẻm tối tăm lầy lội, chỉnh trang tái thiết gia cư – đặc biệt sau vụ tấn công hồi Tết Mậu Thân 1968 – mở mang giáo dục phổ thông, tổ chức những lớp dậy nghề, chăm sóc y tế v.v…

Mấu chốt của sự thành công này là do nơi các anh chị em cán bộ tự nguyện của chương trình đã gây được sự tin tưởng tín nhiệm và phấn khởi của số đông quần chúng nhân dân tại địa phương – để họ cùng hăng say tham gia “kẻ góp của, người góp công” vào vô vàn vô số những dự án cụ thể và thiết thực nhằm xây dựng cuộc sống mới tiện nghi thỏai mái cho tập thể cộng đồng sở tại.

Với phương thức hòa đồng vào trong môi trường quần chúng địa phương – qua lối sống “Tam Cùng” tức là Cùng Ăn, Cùng Ở, Cùng Làm với bà con tại chỗ – mà anh chị em cán bộ đã gây được mối thiện cảm của người dân – để rồi từ đó mà tiếp tục nhận lãnh thêm được những sáng kiến tích cực trong việc cải tiến dân sinh sao cho thật phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương xóm ngõ.

4 – Về mặt nhân sự tham gia chương trình, thì vì tính chất hòan tòan tự nguyện, nên các thành viên tham gia công tác tùy theo hòan cảnh thuận tiện cho cá nhân từng người một. Do đó, mà có người chỉ nhập cuộc với chương trình trong thời gian ngắn một vài tháng, có người thì tham gia lâu dài hơn và có người thì sinh họat bền bỉ với chương trình trong suốt 6 năm ròng rã. Đó là thành phần cán bộ tự nguyện cơ hữu của chương trình.

Còn thành phần các thân hữu do các đòan thể, tổ chức bạn gửi đến tham gia trong từng công tác ngắn hạn một vài ngày, thì rất đông đảo – có thể lên đến con số cả ngàn người trong 6 năm họat động của chương trình.

Nhưng thành phần chủ chốt vẫn là đại bộ phận đông đảo hàng ngàn, hàng vạn đồng bào địa phương – vì chính khối quần chúng này mới là chủ thể của mọi dự án công tác được gọi là “Phát Triển Cộng Đồng”. Đó là hàng nhiều trăm những dự án công tác mà do sáng kiến và nỗ lực của tòan thể dân chúng nơi cộng đồng sở tại góp phần vào việc cải thiện cuộc sống của mỗi thành viên trong chính cộng đồng đó vậy.

5 – Về mặt yểm trợ vật chất cũng như tinh thần, thì có thể liệt kê như sau:

A – Từ phía chánh quyền nhà nước.

Ngòai việc biệt phái một số nhỏ nhân viên công chức cho chương trình, thì chánh quyền còn cấp phát hai đợt ngân khỏan, tổng cộng là 30 triệu đồng. Cấp lãnh đạo là vị Bộ Trưởng Thanh Niên và nhất là vị Đô Trưởng Sài gòn đã luôn luôn khích lệ và yểm trợ tinh thần cho các anh chị em cán bộ tự nguyện chúng tôi.

B – Từ phía cơ quan Viện Trợ Mỹ USAID.

Qua sự giới thiệu của chánh quyền, cơ quan USAID đã cung cấp khá dồi dào cho chương trình phát triển chúng tôi các vật liệu xây dựng cơ bản như ciment, sắt và tôle. Nhờ vậy, mà chương trình mới có thể thực hiện được nhiều công trình xây dựng và tái thiết lên đến nhiều ngàn đơn vị gia cư, hai trường trung học và hàng trăm dự án chỉnh trang xóm ngõ v.v… trong cả ba quận 6,7 và 8 Sài gòn. Ngòai ra USAID còn trích ngân khỏan 10 triệu đồng vào giai đọan chót của chương trình trong các năm 1970 -71.

C – Từ phía các cơ quan từ thiện nhân đạo quốc tế.

Chương trình còn nhận được sự yểm trợ lin tinh về dụng cụ thiết bị đặc biệt cho các lớp dậy nghề như máy may, máy thêu đan, máy đánh chữ, dụng cụ sửa radio, TV v.v… từ nhiều cơ quan tư nhân quốc tế – điển hình như CARE, Catholic Relief Service, Vietnam Christian Service, Asian Christian Service, Adenauer Foundation, OXFAM, IVS v.v…

6 – Để tóm kết lại.

Kể từ ngày khởi sự CTPT Q8 vào năm 1965 đến nay là năm 2015, thì đã có biết bao nhiêu anh chị em trong số hàng trăm thiện nguyện viên – cũng như biết bao nhiêu thân hào nhân sĩ, các vị tôn trưởng cùng rất đông đồng bào địa phương trong cả 3 quận 6,7 và 8 đã rũ áo ra đi về miền miên viễn. Số người quá vãng quá nhiều, tôi không thể nào liệt kê ra đây cho hết được.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm này (1965 – 2015), tôi xin ghi lời thương tiếc chân thành đến tất cả quý vị cùng quý anh chị. Và xin cầu chúc quý vị cùng anh chị luôn được thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng.

Và tôi cũng xin gửi lời tri ân nồng thắm đến tất cả các ân nhân và cơ quan nhân đạo đã tận tình hỗ trợ cho chương trình phát triển chúng tôi trong thời gian chiến tranh vẫn còn tàn phá khốc liệt vào những năm xa xưa đó.

Và cuối cùng, tôi cũng cầu mong cho thế hệ hậu duệ của quý vị tôn trưởng, thân hào nhân sĩ ở địa phương cũng như của các anh chị em thiện nguyện viên sẽ giữ mãi được cái ngọn lửa thiêng liêng của lòng nhân ái nơi cha bác của mình – để mà tiếp tục công cuộc phục vụ nhân quần xã hội trong hòan cảnh hiện tại trên quê hương đất nước thân yêu ngàn đời của mình vậy.

Westminster California, Ngày 15 Tháng 8 Năm 2015

Đoàn Thanh Liêm

 

Chương trình Phát triển Quận 6, 7, 8 Saigon đã chấm dứt như thế nào?

Chương trình Phát triển Quận 6, 7, 8 Saigon đã chấm dứt như thế nào?

Bài viết nhân kỷ niệm năm thứ 46 kể từ ngày thành lập

(1965 – 2011)

Đòan Thanh Liêm

Trong mấy năm gần đây, tôi đã viết nhiều bài về họat động của các bạn thanh niên sinh viên trong khuôn khổ sinh họat của chương trình phát triển cộng đồng tại các quận 6,7 và 8 Saigon vào hồi cuối thập niên 1960. Bài mới nhất viết hồi tháng Tám năm 2010 có nhan đề là : “Làm Men trong Bột”. Và kỹ sư Võ Long Triều, trong cuốn 1 Bộ Hồi ký của ông phổ biến trong năm 2010, cũng đã viết nhiều về chương trình này rồi.

Nhưng vì có một số bạn đọc thắc mắc muốn biết thêm chi tiết về giai đọan kết thúc của chương trình này, nên tôi thấy cần phải trình bày thêm về giai đọan cuối của chương trình, mà chưa được đề cập với chi tiết khả dĩ trong các tài liệu đã được phổ biến trước đây. Để giúp những bạn đọc chưa có dịp đọc các bài viết đó, tôi xin ghi vắn tắt lại những nét chính yếu của chương trình này, trước khi viết về giai đọan kết thúc của nó vào năm 1971.

I – Đại cương về sinh họat của chương trình phát triển cộng đồng tại các quận 6,7,8 Saigon khởi sự từ tháng 8 năm 1965.

Vào hồi tháng 6/1965, một số bạn trẻ chúng tôi cỡ tuổi 25 -30 họp bàn với nhau để thành lập một chương trình họat động tại quân 8 Saigon. Anh em sọan thảo một tài liệu về dự án phát triển tại địa phương quận này, và đem đệ trình nơi văn phòng của vị Thủ tướng Chánh phủ lúc đó do Tướng Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu với danh xưng là “Chủ tịch Ủy Ban Hành phápTrung ương”.

Tướng Kỳ chấp thuận dự án này, và quyết định như sau :

A – Bổ nhiệm hai sĩ quan biệt phái là các Anh Hồ ngọc Nhuận và Mai Như Mạnh làm Quận trưởng và Phụ tá Quận trưởng Quận 8 Saigon.

B –  Đặt Chương trình Phát triển Quận 8 dưới sự bảo trợ của Bộ Thanh niên và Tòa Đô chánh Saigon. Lúc đó Bác sĩ Nguyễn Tấn Hồng là Ủy viên Thanh niên điều khiển Bộ Thanh niên, và Bác sĩ Văn Văn Của là Đô trưởng Saigon

C –  Cấp ngân khỏan 10,000,000 VN$ (10 triệu) trích từ Ngân sách quốc gia để làm quỹ hoạt động của chương trình.

Như vậy là chỉ có hai người trong Nhóm chúng tôi giữ nhiệm vụ về hành chánh của Nhà nước, còn tất cả đều là các thiện nguyện viên. Nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì đây là một sự hợp tác của Xã hội Dân sự với chánh quyền Nhà nước ở tại địa phương Quận 8 Saigon. Vì thế Ban Quản lý Chương trình có được sự độc lập tự trị, mà không bị ràng buộc chi phối theo quy chế của một cơ sở hành chánh thông thường. Bác sĩ Hồ Văn Minh và tôi Đòan Thanh Liêm giữ nhiệm vụ làm Quản lý và Phụ tá Quản lý của chương trình này.

Thế là vào trung tuần tháng 8, anh chị em chúng tôi khởi sự “ra quân” tại 5 Phường thuộc Quận 8 nằm bên kia cầu chữ Y, cầu Chà Và, cầu Nhị Thiên Đường, dọc theo mấy con kinh Tàu Hủ, Ụ Cây, kinh Đôi phiá nam của Chợ Lớn.

Công tác chính yếu của Chương trình là vận động quần chúng các khóm hẻm tham gia vào các dự án cải tiến dân sinh, cụ thể như khai thông ngập lụt, sửa đường trong các ngõ hẻm, tu sửa nhà vệ sinh công cộng, đặc biệt là chỉnh trang nhà cửa ở các khu ổ chuột, mở thêm các lớp học, các lớp dậy nghề, chăm sóc y tế v.v…Vai trò của các thiện nguyện viên là làm chất men, chất xúc tác nhằm khơi động quần chúng ý thức rõ ràng về các nhu cầu thiết thực của cộng đồng lối xóm (felt needs) và rồi cùng nhau góp công sức và vật liệu vào các công trình cải thiện môi trường tại địa phương, cũng như phát triển về giáo dục, về y tế, về sinh họat tương thân tương trợ lẫn nhau trong các thành viên của cộng đồng địa phương.

Qua năm 1966, chương trình lại mở rộng địa bàn họat động thêm nữa sang các quận 6 và 7, nâng tổng số dân mà chương trình nhằm phục vụ trong cả 3 quận lên đến gần 500,000 người. Chương trình lại được cấp thêm ngân khỏan 20 triệu đồng cũng trích từ Ngân sách quốc gia. Về vật liệu xây dựng như sắt, ciment và tôle, thì chúng tôi được cơ quan USAID cung ứng cho khá đày đủ theo nhu cầu của các dự án tái thiết và phát triển cộng đồng.

Còn các dụng cụ trang bị cho lớp dậy nghề như máy may, máy đan, máy đánh chữ, máy động cơ v.v…, thì chúng tôi đi xin nơi các cơ quan xã hội quốc tế có trụ sở ở Saigon.

Tính ra trong 6 năm họat động (1965 – 1971), chương trình đã cùng với đồng bào địa phương thực hiện được rất nhiều công tác cải tiến dân sinh, điển hình như sửa sang cả trăm ngõ hẻm lầy lội, tái thiết đến 8,000 đơn vị gia cư trong 20 khu vực bị tàn phá trong các cuộc tấn công năm Mậu Thân 1968… Đặc biệt là thành lập được 2 trường Trung học Cộng đồng tại quận 6 và 8, mà vào niên khóa 1974 -75, tổng số học sinh trong 2 trường này đã lên đến 3,000 em.

II – Chương trình được lệnh phải đóng cửa vào tháng 4 năm 1971.

Như đã trình bày ở trên, đây là một chương trình họat động xã hội, chủ yếu là để phục vụ tầng lớp đồng bào thiếu may mắn tại khu vực ven đô, mà phần đông là dân tỵ nạn từ các vùng mất an ninh ở miền quê phải đổ xô về thành phố. Chương trình không hề chịu ảnh hưởng của một nhóm chính trị hay tôn giáo nào, mà chỉ do các bạn trẻ cỡ tuổi 20-30 cùng hợp lại với nhau trong những công tác cụ thể, thiết thực sát cánh với bà con ở địa phương. Đặc biệt là kể từ cuối năm 1968 trở đi, thì anh chị em rất bận rộn với công việc chỉnh trang tái thiết tại 20 khu vực bị tàn phá nặng nề nhất trong cả 3 quận, với tổng số nhà phải xây cất lại lên đến 8,000 đơn vị.

Thế nhưng, do có sự mâu thuẫn căng thẳng giữa hai vị lãnh đạo quốc gia là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, mà chương trình chúng tôi nhận được lệnh của phía Tướng Thiệu là phải chấm dứt họat động kể từ tháng 4 năm 1971.

Nguyên do dẫn đến việc này là vào tháng 9 năm 1971 đó, sẽ có cuộc bầu cử Tổng thống và Phó Tổng thống, mà cả hai Tướng Thiệu và Kỳ đều tranh đua với nhau để mỗi bên đứng ra lập một liên danh riêng biệt. Và cả hai phía đều ráo riết tổ chức việc vận động để dành phần thắng cử về cho mình, nên đã sử dụng mọi đòn phép chính trị mua chuộc sự ủng hộ khắp nơi, chỗ này chỗ nọ.

Vì như đã ghi ở trên, chương trình phát triển này lúc khởi sự vào năm 1965 là do Tướng Kỳ với thẩm quyền là Thủ tướng đã chấp thuận cho chúng tôi họat động và còn cấp ngân khỏan điều hành nữa. Nên phía Tướng Thiệu lúc đó lại có thành kiến cứ coi chương trình này là của riêng Tướng Kỳ, hay cũng ngả về phe phái của Tướng Kỳ, và từ đó mà đưa đến việc ra lệnh cho chương trình phải chấm dứt họat động. Thời đó, Tổng thống Thiệu đã nắm hết quyền hành trong tay mình, và Phó Tổng thống Kỳ chỉ còn giữ tính cách tượng trưng về nghi lễ, không có thực quyền như lúc giữ vai trò của một vị Thủ tướng như thời kỳ 1965 – 67 nữa.

Trước chỉ thị của chánh quyền như vậy, Ban Điều hành của chương trình phát triển chúng tôi đâu có thể làm gì khác, ngòai việc phải tuân theo mà thôi. Cơ quan chính quyền trước đây cho phép họat động, bây giờ rút lại cái giấy phép đó, thì đó là thuộc phạm vi quyền hạn của nhà nước, mình chỉ là một nhóm thiện nguyện viên tư nhân thì làm sao mà cưỡng lại được?

III –  Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa Lễ Bế mạc Chương trình Phát triển.

Và, theo đúng chỉ thị của cấp trên, anh chị em chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ khá long trọng vào thượng tuần tháng 4 năm 1971, với số tham dự gồm đông đủ các thân hào nhân sĩ địa phương cả 3 quận và rất nhiều giới chức quan khách – để tuyên bố kết thúc sự họat động của chương trình phát triển mà đã khởi sự từ năm 1965. Chúng tôi mời Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đến chủ tỏa Lễ Bế mạc này, vì dầu sao lúc đó Ông cũng là nhân vật lãnh đạo đứng hàng thứ hai của quốc gia, chỉ đứng sau vị Tổng thống mà thôi. Lại nữa vào năm 1965, chính Tướng Kỳ với cương vị là Thủ tướng chánh phủ đã cho phép chương trình họat động, nay đến lúc kết thúc, thì cũng nên mời Phó Tổng thống đến tham dự và chủ tọa buổi lễ, đó là điều cũng hợp lý, phải đạo và sòng phẳng vậy thôi. Lúc đó thì có một người bạn phê một câu bằng tiếng Pháp rằng : “Commencé par Kỳ, terminé aussi par Kỳ “ (Khởi sự bởi Kỳ, thì cũng kết thúc bởi Kỳ).

Sau buổi lễ này, chương trình trao lại các cơ sở, xe cộ, vật dụng và hồ sơ giấy tờ cho Tòa Đô chính Saigon Và chúng tôi chia tay nhau một cách êm thắm nhẹ nhàng, người nào cũng còn giữ lại được những kỷ niệm đẹp đẽ trong suốt nhiều năm tháng sát cánh bên nhau trong bao nhiêu công tác phát triển cộng đồng cùng hợp chung với bà con trong các khu xóm trong cả 3 quận. Ai nấy, mỗi người trở về lại với nghề nghiệp và cương vị riêng của mình.

Có điều đáng ghi nhớ là cho đến nay, sau 40 năm chia tay nhau, anh chị em chúng tôi vẫn tiếp tục còn gắn bó mật thiết với nhau trong tinh thần anh chị em ruột thịt một nhà, vì tất cả đều cùng theo đuổi một lý tưởng nhân ái là phục vụ đồng bào, nhất là các nạn nhân chiến cuộc hồi đó.

Hai trường Trung học ở quận 6 và 8 thì vẫn tiếp tục họat động bình thường, không hề bị ảnh hưởng của việc đóng cửa chương trình này. Lại nữa, trong hàng ngũ chúng tôi, thì có 2 người được bầu làm Dân biểu Hạ Nghị Viện, đó là các anh Hồ Văn Minh và Hồ Ngọc Nhuận. Và 3 người được bầu làm Nghị viên Hội đồng Đô thành Saigon, đó là các anh Mai Như Mạnh, Dương Văn Long và Lê Xuân Tảng. Hai người được bầu vào làm Ủy viên Hội đồng Văn hóa Giáo dục, đó là các Hiệu trưởng Võ Văn Bé và Uông Đại Bằng.

Và quan trọng nhất là hàng ngàn các cựu học sinh xuất thân từ 2 trường Trung học quận 6 và quận 8, nay đã vào lớp tuổi 50 – 57, thì các em vẫn nối tiếp cái tinh thần hy sinh phục vụ xã hội tại địa phương trong tầm tay với của mình. Đó là niềm hy vọng và an ủi cho tất cả anh chị em chúng tôi vậy.

Nhân dịp này, tôi cũng xin được bày tỏ lòng thương tiếc đến với các bạn đã ra đi, điển hình như các anh Trần Kim Hoa, Nguyễn Trọng Khánh, Lương Bá Cậy, Nguyễn Văn Bọt, Nguyễn Ngọc Phan, Đặng Kỳ Trân, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu An… Các bạn này đã cùng sát cánh với anh chị em chúng tôi trong suốt thời gian công tác tại các địa phương quận 6,7 và 8 Saigon giữa thời kỳ chiến tranh khói lửa kinh hòang thuở ấy.  Xin cầu chúc các bạn luôn thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng. R.I.P./

California, Trung tuần tháng Tám năm 2011

Đòan Thanh Liêm

Làm Men trong Bột

Làm  Men  trong  Bột

(Bài viết nhân kỷ niệm năm thứ 45 Ngày Thành Lập Chương Trình Phát Triển Quận 8 Saigon 1965-2010)

Đòan Thanh Liêm

Tháng 8 năm 1965, giữa lúc chiến tranh bắt đầu leo thang dữ dội tại nhiều nơi trên khắp lãnh thổ miền Nam Việt nam, thì một nhóm anh chị em trẻ cỡ tuổi 18 đến 30 chúng tôi hợp chung lại với nhau, để khởi xướng một chương trình xây dựng cụ thể tại một địa phương còn kém phát triển ở Saigon. Đó là một chuơng trình phát triển cộng đồng có danh hiệu là : “Chuơng Trình Phát Triển Quận 8 Saigon”.

Đây là một chương trình họat động có tính cách tự nguyện của giới thanh niên, sinh viên và học sinh, mà được sự chấp thuận và yểm trợ của cơ quan nhà nuớc, cụ thể là Tòa Đô chánh Saigon và Bộ Thanh niên.  Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì đó là sự hợp tác của một thành phần thuộc lãnh vực Xã hội Dân sự với cơ quan Nhà nước, để cùng theo đuổi việc cải tiến dân sinh tại một khu vực ven biên thành phố thủ đô, nơi có nhiều đồng bào phải rời bỏ miền quê mất an ninh , để về tá túc tại những khu nhà ổ chuột, thiếu thốn mọi tiện nghi vật chất như đường xá, điện, nước và mọi dịch vụ công cộng thông dụng nhất của một đô thị bình thường.

Vì là một chương trình thí điểm của giới trẻ, vốn chỉ có lòng hăng say nhiệt thành muốn đóng góp công sức vào việc cải tiến xã hội một cách thiết thực cụ thể, nhưng tất cả lại chưa hề có kinh nghiệm họat động trong một môi trường với đông đảo quần chúng xa lạ, như ở một địa phương tương đối hẻo lành này. Vì thế, phải mất một thời gian dò giẫm, thử nghiệm, rồi các bạn mới tìm ra được phương cách thích hợp trong công tác vận động bà con ở địa phương cùng tham gia vào công cuộc xây dựng tại hạ tầng cơ sở, nơi mà người dân đang phải sinh sống trong các điều kiện hết sức khó khăn chật vật.

Công tác đầu tiên mà các bạn trẻ này làm để “ra mắt trình diện với đồng bào ở địa phương”, đó là việc hòan thành được một ngôi trường với 5 phòng học tương đối rộng rãi khang trang, tại phường Hưng Phú gần với khu Lò Heo Chánh Hưng. Ngôi trường này được xây cất gấp rút trong vòng 2 tuần lễ với vật liệu nhẹ, cột bằng gỗ, tường bằng ván dăm bào aerolith và mái lợp tôn, nhằm đáp ứng với việc “giải tỏa các lớp học ban trưa nóng bức”, bởi lẽ hồi đó trường ốc rất thiếu thốn, nên  nhiều nơi đã phải mở thêm các suất học từ 11 giờ sáng đến 2 giờ trưa, nhằm dậy thêm được một số học sinh. Công tác đầu tay này đã gây được sự phấn khởi của giáo chức, và nhất là của đông đảo phụ huynh học sinh tại địa phương, với hậu quả là các thân hào nhân sĩ, giới lãnh đạo tôn giáo đã bắt đầu tìm hiểu và có sự tin tưởng, thông cảm với nhóm thanh niên thiện nguyện từ các nơi xa mà đến góp phần vào công việc xây dựng tại khu vực, vốn xưa kia là lãnh địa của quân đội Bình Xuyên vào hồi đầu thập niên 1950.

Và rồi nhờ sự thông cảm và hợp tác của các bậc tôn trưởng tại địa phương như vậy, mà Chương trình Phát triển đã lần hồi lôi cuốn được đông đảo bà con cùng quy tụ lại với nhau, để thực hiện những công việc xây dựng tích cực, cụ thể như khai thông tình trạng ngập lụt, sửa sang các đường hẻm, cải thiện các nhà vệ sinh công cộng v.v… Qua những dự án hợp tác đại loại như thế, mà bà con lối xóm có dịp quen biết lẫn nhau và gắn bó thân thương với nhau, mỗi ngày một bền chặt, khắng khít hơn. Và các thiện nguyện viên từ nơi xa đến cũng gây dựng được sự tin tưởng, và thiện cảm của quần chúng nhân dân trong cộng đồng địa phương. Đó chính là mấu chốt của sự thành công trong việc “Gây được sự hưởng ứng tự nguyện của chính đồng bào là đối tượng phục vụ của Chương trình Phát triển ở Quận 8” vậy.

Sau trên một năm hoạt động, Chương trình Phát triển này lại được chánh quyền chấp thuận cho khuếch trương  thêm, kể từ năm 1966, sang các quận 6 và 7 lân cận, để phục vụ cho khối dân số tổng cộng trong cả 3 quận lên đến 500,000 người. Từ những công tác cải thiện môi trường với quy mô đơn sơ nhỏ bé, trong các khu xóm lầy lội, chật hẹp, tối tăm, Chương trình đã tiến tới việc thực hiện được những công trình chỉnh trang gia cư khá rộng lớn, điển hình như khu chỉnh trang xóm nghĩa địa thuộc liên khóm 14 &15 thuộc khu Xóm Đầm ở phường Hưng Phú Quận 8, với trên 130 căn nhà được phân phối trong 7 lô gồm các căn nhà sát vách với nhau. Rồi đến khu định cư Nam Hải dành riêng cho đồng bào tỵ nạn từ Phước Long chạy về, với  con số trên 300 căn nhà xây cất trên  khu bãi đổ rác Chánh Hưng của thành phố v.v…

Và nhất là công trình chỉnh trang tái thiết đến gần 20 khu vực nhà cửa bị tàn phá trong mấy đợt tấn công của quân đội công sản trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968, tổng cộng lên tới gần 8,000 đơn vị gia cư trong cả ba quận 6, 7 và 8 Saigon. Điển hình như tại khu tái thiết ở phường Cầu Tre-Bình Thới thuộc Quận 6, thì có đến 1,200 đơn vị gia cư được xây cất lại.

Tất cả các khu chỉnh trang này đều được thực hiện theo phương thức “Phát triển Cộng đồng”, tức là người dân địa phương đóng vai trò chủ động chính yếu vừa góp công, vừa góp của, để thực hiện việc xây dựng lại nhà cửa cho chính mình. Cán bộ của Chương trình Phát triển chỉ đóng vai trò tổ chức cho bà con hội họp bàn thảo và quyết định với nhau trong việc phân phối căn nhà cho từng gia chủ. Và rồi hướng dẫn kỹ thuật cho việc xây cất theo họa đồ thiết kế đã được các chuyên viên kỹ sư phác họa sẵn.

Chứ đó không phải là những công trình xây cất thuần túy do Nhà nước thực hiện từ đầu đến cuối, như tại các khu cư xá của Tổng Nha Kiến Thiết, hay của  Khu Gia cư Liêm giá cuộc của Tòa Đô chánh Saigon.

Có hai công trình với quy mô và ảnh hưởng lâu bền nhất, đó là việc thành lập được Trường Trung học Cộng Đồng ở quận 8, rồi cả ở quận 6, với tổng số học sinh lên tới 3000 em vào niên khóa 1974-75. Chương trình Phát triển đã kêu gọi được sự hợp tác rất hăng say của giới phụ huynh và các thân hào nhân sĩ địa phương, để thực hiện được công cuộc phát triển giáo dục mà cho đến ngày nay, sau trên 40 năm  thì vẫn tiếp tục được duy trì để phục vụ cho các thế hệ trẻ mỗi ngày một thêm đông đảo. Các em học sinh lớp đầu tiên nhập học vào năm 1966 lúc đó ở tuổi 13-14, thì năm 2010 này đã ở vào lứa tuổi 57 – 58, với nhiều em đã lên tới chức ông nội, bà ngoại cả rồi.. Và đặc biệt các cựu học sinh này vẫn còn gắn bó thân thương với nhau trong tổ chức Hội Ái Hữu Cựu Học sinh với Ngày Họp Truyền Thống của trường xưa vào tháng 12 mỗi năm..

Ngoài ra, Chương trình còn yểm trợ rất nhiều lớp Dậy nghề do các Chùa và Nhà thờ ở địa phương tổ chức và điều hành, cụ thể như tại Chùa Huê Lâm ở quận 6, Chùa Bình Đông , Nhà thờ Rạch Cát ở quận 7, Nhà thờ Bình An ở quận 8 v.v…Về y tế, Chương trình còn tổ chức cả một xe Y tế lưu động để lo khám bệnh và cấp phát thuốc cho bệnh nhân tại một số khóm hẻm ở quá xa với trạm y tế.

Về thành phần nhân sự, thì tất cả đều tham gia họat động trong khuôn khổ chương trình với tinh thần tự nguyện. Có em là học sinh dưới 20 tuổi, còn đang theo học tại các trường trung học. Có em là sinh viên cấp đại học. Và cũng có những bạn lớn tuổi hơn, nhưng phần đông đều vào lứa tuổi trên dưới 30. Những người làm việc thường xuyên, thì được hưởng một số trợ cấp sinh họat tối thiểu, chứ không phải là một thứ lương bổng nào theo quy chế của cơ quan nhà nước. Các bạn trẻ này vốn đã từng được đào tạo trong các tổ chức thanh thiếu niên, như tại Phong trào Hướng Đạo, Sinh viên Phật tử, Sinh viên Công giáo, Thanh niên Thiện chí, Phong trào Học đường Phục vụ Xã hội v.v… Đó là những nhân sự cơ hữu công tác thường xuyên, mà tỗng số chỉ có vào khỏang từ 30 đến 40 người. Còn số thiện nguyện viên lâu lâu đến hợp tác trong một dự án ngắn hạn, mà cần thêm nhiều lao động vào một vài ngày nghỉ cuối tuần, thì có thể kể đến con số hàng ngàn người, số này do các đòan thể hiệp hội bạn hướng dẫn đến để tăng cường cho nhân số cơ hữu vốn luôn ít ỏi của chương trình phát triển.

Về phương tiện tài chánh và vật liệu, thì chương trình được chánh quyền cấp cho một số ngân khỏan trong 2 đợt đầu từ năm 1965 đến 1969, tổng cộng là 30 triệu đồng, trích từ ngân sách quốc gia, và trong đợt cuối vào năm 1970 thêm được 10 triệu nữa, trích từ ngân sách ngọai viện. Còn các vật liệu xây dựng chính yếu là sắt, tôle và ciment, thì do Cơ quan Viện trợ Mỹ USAID cung ứng cho khá đày đủ. Ngòai ra, chương trình cũng còn được sự trợ giúp về dụng cụ huấn nghệ như máy may, máy đan, máy đánh chữ, dụng cụ sửa radio, sửa máy nổ , về thuốc men và một số vật dụng linh tinh khác…từ các tổ chức từ thiện quốc tế như CARE, Catholic Relief Service, Asian Christian Service, Vietnam Christian Service, Adenauer Foundation, OXFAM…Các dụng cụ này được sử dụng vào việc trang bị cho các trung tâm dậy nghề, do các tổ chức tôn giáo ở địa phương trực tiếp điều hành.

*            *           *

Đẻ tóm lược lại, ta có thể ghi nhận vài nét chính yếu như sau đây :

1 / Trong suốt quá trình hoạt động sôi nổi từ những năm 1965 trở đi, các anh chị em thiện nguyện viên này luôn ý thức được vai trò chủ yếu của mình là : “Vận động quần chúng tự nguyện tham gia vào các công trình cải tiến dân sinh” tại chính địa phương của họ. Đây đích thực là vai trò “làm chất men, chất súc tác” được vùi vào trong môi trường của quần chúng nhân dân, nhằm gây được một “tác dụng dây chuyền”, theo lối “vết dầu loang”, để mỗi ngày một phát triển rộng thêm mãi ra. Thành ra lớp người cán bộ tự nguyện như vậy chính là một thứ tác nhân có khả năng góp phần khơi động được thành cả một “Phong trào quần chúng tham gia vào công cuộc phát triển xã hội ngay tại hạ tầng cơ sở, nơi địa phương của chính họ” (Mass Fermentation/Mobilisation at the grassroots). Một anh bạn đã phát biểu tóm gọn vai trò của anh chị em thiện nguyên viên một cách thật chính xác là : “Những người vận động cho công cuộc phát triển toàn diện và điều hòa” (animateurs de de’veloppement total et harmonise’) tại địa phương các quận 6,7 và 8 Saigon thời đó vậy.

2 / Nếu cần phải đánh giá chung về Chương trình Phát triển này đã hoạt động liên tục trong 6 năm, từ 1965 đến 1971, thì ta có thể nói rằng : “Đây mới chỉ là một lọai hình họat động tiêu biểu trong số đông những Mảnh Nhỏ Cố Gắng của cả một Phong trào Thanh Thiếu niên lúc đó, nhằm góp phần vào công cuộc Xây dựng Xã hội tại miền Nam Việt nam thời kỳ trước năm 1975”. Và theo như lối mô tả của Giáo sư Karl Popper thuộc Trường Kinh tế Luân Đôn (LSE = London School of Economics) trong cuốn sách thời danh xuất bản từ năm 1945 của ông, với nhan đề là : “The Open Society & its enemies”, thì đây chính là một cách thể hiện cái phương thức : “Piecemeal Social Engineering”, tức là  “Xây dựng Xã hội từng Mảnh một” vậy.

3 / Và cuối cùng, nhân dịp kỷ niệm năm thứ 45 ngày thành lập Chương trình Phát triển Cộng đồng này, người viết xin được bày tỏ lòng thương tiếc và quý mến sâu sắc đối với một số bạn và thân hữu đã lìa trần trong mấy năm gần đây, cụ thể điển hình như các bạn Đặng Kỳ Trân, Trần Kim Hoa, Luơng Bá Cậy, Nguyễn Trọng Khánh, Lương Văn Tròn, Nguyễn Ngọc Phan, Nguyễn Văn Bọt, Nguyễn Ngọc Thạch… Và các thân hữu như Nguyễn Hữu An, Trần Hữu Hải,Trần Đại Lộc, Đỗ Ngọc Yến…

Tuy các bạn đã đi xa, nhưng cái kỷ niệm thân thương gắn bó keo sơn ấy của tất cả tập thể anh chị em chúng ta, trong bao nhiêu ngày tháng miệt mài say mê với công tác xã hội sát cánh cùng với đồng bào tại các quận 6,7, 8 Saigon những năm xưa, giữa cuộc chiến tranh khói lửa mịt mù tàn bạo lúc đó, thì không bao giờ lại có thể phai mờ quên lãng đi được./

California, Tiết Trung Thu Canh Dần 2010

Đoàn Thanh Liêm

Các bạn ơi! Hãy Yêu thương trọn vẹn

Các  bạn  ơi! Hãy  Yêu  thương  trọn  vẹn

(Let’s love totally)

Đoàn Thanh Liêm

*     *     * Gần đây, tôi nhận thấy trên các ly đựng café Starbucks người ta có in một số câu nói thật ngắn gọn của Oprah Winfrey là một người rất nổi danh với chương trình hội thọai trên truyền hình tại Mỹ từ vài ba chục năm gần đây. Điển hình như câu phát biểu sau đây của người nghệ sĩ tài ba này : “Cuộc sống của bạn thật to lớn. Hãy tiếp tục vươn tới” – Nguyên văn tiếng Anh : “Your life is big. Keep reaching”.

Câu nói này khiến tôi liên tưởng đến cái khẩu hiệu rất thông dụng trong giới trẻ trên thế giới từ ba bốn chục năm nay. Câu đó chỉ gồm có 4 chữ thế này : “Think Globally, Act Locally”. Xin tạm dịch dài dòng cho rõ nghĩa hơn : “Hãy suy nghĩ toàn cục, Hãy hành động tại điạ phương”. Nhân tiện, tôi cũng xin trình bày một vài suy nghĩ liên hệ đến chủ đề này như sau.

I –  Thích nghi với hòan cảnh mới của xã hội tiến bộ.

Ngày nay với sự tiến bộ thần kỳ của khoa học kỹ thuật cũng như sự thịnh vượng về mặt kinh tế tại khắp nơi trên thế giới – và đặc biệt là sự bùng nổ thông tin và giao lưu giữa các dân tộc – thì hiện tượng tòan cầu hóa càng ngày càng mở rộng trên khắp các lãnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như chính trị. Trong một thế giới văn minh phát triển như thế, thì mỗi cá nhân riêng lẻ –  cũng như mỗi tập thể dân tộc của một quốc gia – đều phải cố gắng học tập, suy nghĩ, tìm hiểu để mà theo kịp được với những sự chuyển biến lớn lao của xã hội. Như dân gian ta thường nói : “ Mỗi khi nước nổi lên, thì con thuyền cũng phải dâng cao theo”. Đó là một quy luật trong cuộc tranh đấu sống còn của thiên nhiên cũng như của cộng đồng nhân lọai vậy.

Còn về mặt hành động, thì cũng phải thích nghi với hòan cảnh thực tế tại mỗi địa phương với những đặc thù về văn hóa xã hội cũng như về kinh tế chính trị riêng biệt tại mỗi nơi, mỗi lúc. Cụ thể như tại nhiều nơi trên thế giới kể từ thập niên 1950, người ta thường phát động những chương trình họat động gọi là “Phát triển Cộng đồng” (Community Development Program) nhằm cải thiện môi trường sinh họat của từng địa phương. Đó là những công tác cải tiến xã hội thực tiễn mà được thực hiện với sự tham gia tự nguyện và hăng say phấn khởi của chính người dân địa phương, ngay tại “hạ tầng cơ sở” nơi đó (at the grassroot).

Cũng tại các điạ phương, thì thường xảy ra những bất công áp bức do người có quyền thế gây ra làm khổ cực cho người dân “thấp cổ bé miệng, thân cô thế cô”. Vì thế mà cần phải có những người trượng phu quân tử dám ra tay nghĩa hiệp để bênh đỡ cho những nạn nhân của bất công xã hội đó. Như cha ông ta xưa kia đã từng nhắc nhở trong câu “Anh hùng thấy sự bất bình chẳng tha”. Và chính vì khía cạnh “Hành động nhằm bênh vực sự Công bằng Xã hội” này, mà tôi muốn khai triển chi tiết hơn trong mục sau đây.

II – Vai trò làm “Đối trọng” của Xã hội Dân sự hiện nay.

Như ta đã biết Xã hội Dân sự đóng hai vai trò chính yếu, đó là vừa làm “Đối tác” và vừa làm “Đối trọng” đối với chính quyền nhà nước (Counterpart/Counterbalance). Làm đối tác là cùng sát cánh với nhà nước trong lọai công việc từ thiện nhân đạo, giáo dục thanh thiếu niên v.v…, như các Hội Hồng Thập Tự, Hướng Đạo, Cứu trợ Nạn nhân Thiên tai Bão lụt. Còn làm đối trọng là tranh đấu bênh vực những nạn nhân của bất công áp bức do cán bộ nhà nước gây ra, điển hình như bênh vực Dân oan bị mất nhà mất đất, bảo vệ các nạn nhân bị công an cảnh sát đối xử tàn bạo, chà đạp nhân phẩm v.v…

Từ trên 60 năm nay, kể từ ngày Liên Hiệp Quốc công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền vào năm 1948, thì lần lượt tại khắp nơi trên thế giới đã phát sinh ra một Phong trào Tranh đấu cho Phẩm giá và Quyền Con Người. Cuộc tranh đấu này đã và đang diễn ra hết sức kiên cường sôi nổi nhằm bắt buộc giới cầm quyền cũng như giới tài phiệt tại từng quốc gia phải chấm dứt mọi hành động bất công áp bức đối với người dân sở tại. Và đặc biệt trong vòng 30 năm nay, nhờ sự phổ biến của Internet mà người dân tại nhiều quốc gia đã có thể trao đổi tin tức vừa mau lẹ vừa chính xác cho nhau – để rồi từ đó mà đưa ra những hành động hợp thời, hiệu quả nhằm bênh vực quyền lợi chính đáng của bà con đồng bào ruột thịt của mình.

Riêng ở nước Việt nam chúng ta hiện nay, thì đang xuất hiện công khai các nhóm, các tổ chức tự phát mà có đủ cả ba tính chất “phi chính phủ”, “bất vụ lợi” và “tự nguyện” của Xã hội Dân sự nhằm đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản phải thực tâm tôn trọng những quyền tự do căn bản của mỗi người công dân – như đã được ghi rõ trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và  các văn bản liên hệ khác cũng do Liên Hiệp Quốc ban hành. Như vậy là cuộc tranh đấu của bà con chúng ta ở trong nước đã đi đúng hướng với phong trào tòan cầu để đòi hỏi mọi chính phủ phải thực thi những cam kết về Bảo vệ Nhân quyền từ lúc họ k‎ý‎‎ kết phê chuẩn các Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, cũng như về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa.

Cụ thể là gần đây, nhiều nhà tranh đấu nhân quyền từ Việt nam đã có mặt tham gia tại các buổi điều trần công khai về nhân quyền do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Geneva Thụy sĩ hay do tổ chức Cộng Đồng Âu Châu (EU = European Union) hoặc do chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ mở ra cho công chúng tham dự. Rõ rệt là các vị đó đang cất lên tiếng nói thay cho những nạn nhân của bất công áp bức ở Việt nam – những người luôn bị chính quyền cộng sản bịt miệng không cho phát biểu – điển hình là Linh mục Nguyễn Văn L‎ý đã bị công an công khai bịt miệng trước phiên tòa.‎‎ (Voice for the Voiceless in Vietnam).

Như vậy là cuộc tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Nhân quyền tại địa phương Việt Nam chúng ta hiện đang có được sự thông cảm, liên đới và sự tiếp tay yểm trợ của nhiều dân tộc trên thế giới vậy đó (Local Action with Global Solidarity and Support).

III – Chúng ta tranh đấu vì “Yêu thương trọn vẹn” đối với đồng bào ruột thịt thân yêu của mình.

Vào năm 1995, lúc còn bị giam giữ tại trại Z30D ở Hàm Tân Phan Thiết, tôi có làm một bài thơ song ngữ tiếng Việt và tiếng Anh nhan đề “Nói với Bạn Trẻ” – trong đó có mấy câu cuối như sau :

…”Hãy sống thật sung mãn

Bằng Yêu thương trọn vẹn

Và biết tận hưởng

Sự An bình Ngây ngất

Trong sâu thẳm nội tâm chúng ta./”

Tôi muốn đưa cụm từ ngữ “Hãy yêu thương trọn vẹn” trong bài thơ này để góp thêm vào với cái khẩu hiệu “Hãy suy nghĩ toàn cục, Hãy hành động tại địa phương” đã ghi ở trên thành một khẩu hiệu có ba vế mà được viết ra tiếng Anh như sau :

“ Think Globally – Act Locally – Love Totally”.

Và tôi cũng muốn nói rõ hơn với các bạn trẻ rằng : Ở vào đầu thế kỷ XXI này, hiện phần đông trong chúng ta đang được hưởng thụ những thành quả tốt đẹp của sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, của nền kinh tế thịnh vượng và của sự thông cảm và liên đới quốc tế. Đó là những phúc lộc do cha ông chúng ta trước đây và cũng do nhân lọai tiến bộ ngày nay đã góp phần tạo dựng ra để cho tất cả chúng ta được sống trong bàu không khí nhân ái an hòa, được chia sẻ sự thịnh vượng và tiến bộ của cộng đồng thế giới hiện nay.

Vì từ gần 70 năm qua, người cộng sản đã gieo rắc hận thù ân óan của chủ thuyết “đấu tranh giai cấp” với “chuyên chính vô sản” vào trong lòng dân tộc ta – khiến cho cái nọc độc bạo lực căm thù đó đã tàn phá đến tận cội rễ trong tâm hồn con người Việt Nam chúng ta, làm băng họai tiêu diệt hết cái truyền thống nhân ái bao dung trong xã hội – mà phải biết bao nhiêu thế hệ vất vả cực nhọc cha ông ta mới gầy dựng nuôi dưỡng lên được. Do đó, mà tôi muốn kêu gọi các bạn trẻ hãy nghiêm túc nghe theo lời kêu gọi khuyên nhủ của cha ông chúng ta từ xa xưa – mà được gói ghém trong hai câu văn thật ngắn gọn như sau :

“Đem Đại nghĩa thắng Hung tàn.

Lấy Chí nhân thay Cường bạo”.

Trong cuộc sống của con người thời nào và ở đâu cũng vậy – điều qu‎ý báu nhất là do nơi tấm lòng nhân ái yêu thương đùm bọc lẫn nhau, giúp đỡ nhau mỗi khi có ai gặp họan nạn, bị bóc lột chèn ép… Các bạn trẻ ngày nay được học hỏi tiếp cận nhiều với thế giới văn minh tiến bộ, thì các bạn càng có nhiều khả năng, nhiều sáng kiến để mà đem ra giúp dân giúp nước đang bị cả hai thứ “thù trong, giặc ngòai” quấy phá.

Và chỉ khi nào mà – thông qua những hành động cụ thể tích cực – các bạn biết đem hết cái Tình Yêu Thương Trọn Vẹn đó ra để san sẻ rộng rãi với đông đảo các bà con đang là những nạn nhân khốn khổ bất hạnh của cường quyền bạo lực ở nơi quê nhà, thì cuộc sống của các bạn mới thật sự sung mãn và có ý ‎nghĩa cao đẹp tuyệt vời vậy./

San Clemente California, ngày 8 tháng Bảy 2014

Đoàn Thanh Liêm

*          *          *

Ghi chú  :

1 – Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm về các câu nói của Oprah Winfrey hay về khẩu hiệu “Think Globally, Act Locally”, thì có thể tìm kiếm trên Internet bằng cách bấm Google và đánh các chữ liên hệ như “Oprah Winfrey quotes”, “Think Globally, Act Locally”.

2 – Ba văn kiện căn bản hợp thành Bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền (do Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1976) gồm :

A – Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (công bố năm 1948)

B – Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (LHQ biểu quyết năm 1966 và các quốc gia lần lượt phê chuẩn)

C – Công ước Quốc tế về Quyền kinh tế, Xã hội và Văn hóa (LHQ biểu quyết năm 1966 và các quốc gia lần lượt phê chuẩn).

Tiếng Anh :The International Bill of Human Rights (IBHR) consists primarily of  three fundamental texts :

I- The Universal Declaration of Human Rights (UDHR);

II- The International Covenant on Civil and Political Rights  (ICCPR);

III – The International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights  (ICESCR).

3 – Về bản tiếng Anh của bài thơ “A Message to Youth” tôi làm hồi còn ở trại Z30D Hàm Tân Phan Thiết năm 1995, thì cũng có trên Google với mục “Poems from Prison Doan Thanh Liem”.

4 – Bản tiếng Việt của bài thơ “Nói Với Bạn Trẻ’ nguyên văn như sau :

I – Bạn trẻ của tôi ơi!

*Hãy suy nghĩ chính xác

Để khám phá được

Những điều kỳ diệu

Trong thiên nhiên

Và Xã hội loài người.

*Hãy có lòng nhân hậu

Để yêu thương tất cả mọi người

Kể cả thù địch.

II – Bạn trẻ của tôi ơi!

*Hãy nâng tâm trí lên cao

Để tạo cho cuộc sống thêm ý nghĩa.

*Hãy chịu trả đắt giá

Để có được sự cao cả nơi tâm hồn.

III – Bạn trẻ của tôi ơi!

*Hãy chia sẻ những phúc lộc

Cùng với tất cả anh chị em mình.

*Hãy đích thực là mình

Với phong cách tốt đẹp xưa nay

Giữa lòng cái thế giới hỗn độn này.

IV – Bạn trẻ của tôi ơi!

*Hãy có hành động thích đáng

Trong giờ phút đày thử thách

Của Lịch sử vinh quang chúng ta.

*Hãy sống thật sung mãn

Bằng Yêu thương trọn vẹn

Và biết tận hưởng

Sự An bình Ngây ngất

Trong sâu thẳm nội tâm chúng ta./

Làm tại Hàm Tân, Mùa Xuân 1995

Sao lục lại tại California, năm 2010

Những chuyện vui nho nhỏ dọc đường.

Những  chuyện  vui  nho  nhỏ  dọc  đường.

Bài ghi ngắn của Đoàn Thanh Liêm

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong vòng 15 năm nay, tôi đã đi đến mấy chục vòng xung quanh nước Mỹ và 3 lần đến Canada nữa. Thường thường  tôi đi bằng máy bay từ California ở phía bờ biển miền Tây (West Coast) qua phía bờ biền miền Đông (East Coast), rồi thì dùng xe lửa hay xe bus hoặc nhờ bà con chở bằng xe riêng để di chuyển đến các thành phố lân cận trong vùng.

Mùa Xuân năm 2015 này, cũng như mọi năm tôi lại từ West Coast đi qua East Coast và kể từ giữa tháng Ba đến nay là giữa tháng Tư, tôi đã lần lượt đi qua 4 thành phố, đó là Philadelphia, New York, Boston ở Mỹ và hiện nay đang ở thành phố Toronto thuộc Canada. Trong bài viết này, tôi xin kể lại hầu quí bạn đọc một số chuyện vui vui nho nhỏ gặp bất ngờ ở dọc đường, lần lượt theo thứ tự thời gian như sau đây.

1 – Trên máy bay từ Denver đến Philadelphia vào ngày 18 tháng Ba 2015.

Bữa đó, máy bay tôi đi từ Santa Ana thì đỗ lại ở phi trường Denver để cho một số hành khách xuống và lại rước thêm số hành khách mới để đi tiếp tới Philadelphia. Trên đọan đường Denver đi Philadelphia này, người ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ Mỹ vào độ trên 30 tuổi. Sau khi chuyện trò xã giao ít lâu, tôi đã tự giới thiệu tên, tuổi của mình cho cô và được cô cho biết tên của cô là Catherine (Katie). Cô làm việc ở Portland Oregon và đang trên đường về thăm gia đình với mẹ cô hiện sinh sống tại một thành phố ở tiểu bang New Jersey gần kề với Philadelphia.

Tôi cho Katie biết là tôi là một luật sư ở Việt nam, tôi đã sống sót qua cuộc chiến tranh dài đằng đẵng mấy chục năm trời, rồi lại đến 6 năm trời trong nhà tù cộng sản nữa. Và cuối cùng, tôi cùng gia đình đã đến định cư tại California từ gần 20 năm nay. Tôi mở laptop cho Katie xem vài bài bằng tiếng Anh tôi mới viết gần đây, cô đọc xong rồi tò mò hỏi : “Bác thật may mắn là đã sống sót trải qua bao nhiêu gian truân nguy hiểm của chiến tranh, của chế độ độc tài và của bao nhiêu năm bị giam giữ tù đày khốn khổ như thế. Cháu xin có lời chức mừng bác, thật vậy đó. Bác viết là có được một nền giáo dục rất tốt, xin bác cho biết rõ hơn làm sao mà bác lại có được điều đó, trong khi chiến tranh kéo dài hàng mấy chục năm ở Việt nam? ”

Trả lời cho Katie, tôi nói : “Có đến mấy năm, tôi không thể đến trường học vì phải tản cư chạy lọan. Nhưng khi được đi học lại, thì tôi phải miệt mài ngày đêm với chuyện bài vở học tập để mà bù lại những năm tháng phải bỏ học như thế. Cô biết không, trong thời gian chạy lọan lúc 14 – 16 tuổi, tôi còn được học cả tiếng La tinh nữa đó. Điều may mắn này giúp tôi sau này khi lên Đại học, thì tôi phải học nhiều về môn Triết học và các môn Luật nữa v.v…” Nghe vậy, Katie cười và nói : “Mẹ cháu xưa kia cũng là một cô giáo dậy tiếng La tinh cho các học sinh bậc trung học đấy. Nếu mà bác gặp mẹ cháu, thì chắc hai người sẽ chuyện trò tâm đắc lắm đấy nhỉ?” Tôi cười xòa và nói : “Đã trên 60 năm, vì ít có dịp đọc sách viết bằng tiếng La tinh, nên tôi cũng quên đi mất nhiều lắm rồi …”

Đại khái chuyện trò trao đổi thật là hồn nhiên cởi mở giữa Katie với tôi kéo dài trong suốt chuyến bay từ Denver đến Philadelphia dễ mất đến gần 3 giờ đồng hồ. Thật cũng là một kỉ niệm vui vui ngộ nghĩnh vậy đó.

2 – Trên chuyến xe bus từ New York đến Boston vào ngày 1 tháng Tư 2015.

Xe bus Greyhound từ New York đến Boston kéo dài đến 4 tiếng đồng hồ. Dọc đường, tôi thấy tuyết còn đọng trắng xóa và khá dày trên các vạt rừng cây, nơi ven các sông hồ. Số hành khách khá đông, chiếm hầu hết 50 chỗ ngồi trên xe. Người ngồi bên cạnh tôi là một phụ nữ ở tuổi ngòai 50. Sau hồi chuyện trò ít lâu, tôi trao cho chị danh thiếp trong đó có ghi số điện thọai, email và tổ chức mà tôi tham gia sinh họat. Đó là Vietnam Human Rights Network (Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam). Chị cũng trao danh thiếp cho tôi, với tên gọi là Susan Stanley và số điện thọai, địa chỉ email v.v…

Vì đường dài, nên chúng tôi có bao nhiêu chuyện để cùng trao đổi về đủ mọi thứ đề tài với nhau. Từ chuyện riêng tư trong gia đình đến chuyện họat động ngòai xã hội. Tôi còn mở laptop để Susan đọc một số bài viết gần đây của tôi. Chị hỏi rất kỹ về hòan cảnh tù đày của tôi ở Việt nam vào những năm 1990. Qua đó mà câu chuyện giữa chúng tôi mỗi lúc lại càng thêm thân mật đặm đà hơn. Nhất là khi tôi nói đến chuyện văn chương thi phú, thì Susan càng chú ‎tâm nghe và hăng hái góp phần trao đổi nhận xét của riêng mình.

Điển hình như khi tôi nhắc đến câu thơ của Walt Whitman ở thế kỷ XIX : “ Behold, I don’t give lectures or a little charity, When I give, I give myself”. Hay cả một đọan thơ của Robert Frost hồi đầu thế kỷ XX : “ The woods are lovely, dark and deep, But I have promises to keep, And miles to go before I sleep, And miles to go before I sleep” – thì Susan phải thốt lên : “Sao mà anh lại thuộc kỹ thơ văn của các tác giả Mỹ đến thế nhỉ!”

Nhân tiện, tôi cũng cho Susan biết là hồi ở trong tù, tôi có làm được nhiều bài thơ, mà vì không có giấy bút để ghi lại, nên đã quên đi khá nhiều. Tuy vậy, sau khi qua Mỹ, tôi đã cố gắng nhớ lại và ghi ra được vài chục bài thơ ngắn. Cụ thể như bài thơ chỉ gồm 4 câu cảm đề từ thơ của Robert Frost ghi ở trên – mà hai câu cuối được dịch ra tiếng Anh thế này : “The long march is indeed exhausting, But still I am adamant and firmly committed to this earthly life” (Nguyên văn tiếng Việt như sau : “Đường xa vạn lý mỏi mòn, Vẫn nòi quân tử sắt son với đời”.

Đại khái như thế, chuyện trò giữa Susan và tôi cứ miên man dàn trải suốt cuộc hành trình, không lúc nào mà cạn đề tài cả. Cuối cùng, trước khi chia tay ở bến xe South Station của Boston, Susan mới mở túi lấy ra cuốn sách và nói với tôi : “Tôi đem cuốn sách này để mà đọc cho khuây khỏa dọc đường. Ấy thế mà gặp anh bữa nay chuyện trò vui quá, nên cũng chẳng cần phải mở sách này ra đọc nữa. Xin cảm ơn anh nhiều. Và hẹn sẽ tiếp tục trao đổi qua email hay phone nha…” Tôi nói : ” Susan Stanley = SS bây giờ là “Soul Sister” của tôi đấy (Tâm hồn đồng điệu). Susan cười thật dòn đáp lại : “Anh nói đúng quá, tôi thật tâm đắc với hai chữ Soul Sister này….”

3 – Trên chuyến xe bus từ Buffalo đến Toronto Canada vào chiều ngày 7 tháng Tư 2015.

Buffalo là thành phố thuộc tiểu bang New York nằm kề sát với thác Niagara nơi biên giới giữa Mỹ và Canada. Hành khách đi xe bus từ phía Mỹ, khi đến trạm kiểm sóat của Canada, thì tất cả đều phải xuống xe mang theo hành lí và xuất trình passport cho cảnh sát. Bữa đó, việc kiểm sóat giấy tờ cho 50 hành khách chỉ hết chừng 30 phút; tôi không thấy có người nào bị giữ lại và mấy nhân viên cảnh sát cửa khẩu đều tỏ ra lịch sự, vui vẻ thân thiện đối với mọi người.

Người ngồi bên tôi trong chuyến xe này là một cô gái cỡ tuổi 25. Cô cho biết mình là người Canada sinh trưởng ở Montréal, tên là Mélanie. Thế là tôi có dịp chuyện trò với cô bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Dĩ nhiên là Mélanie nói thông thạo cả 2 thứ tiếng này, mà thường được gọi là lọai người bi-lingual. Cô cho biết từ vài năm nay thì qua dậy tiếng Anh cho các học sinh trung học tại Nam Hàn. Cô được cung cấp nơi ăn chốn ở tươm tất tại thành phố Quanjou ở phía cực nam của bán đảo Triều Tiên với dân số khỏang 1 triệu người. Ban trưa thì ăn ở nhà trường, các thầy cô giáo đều cùng ăn theo thực đơn như các học sinh. Cô rất thích các món ăn này mà cô gọi đó là thứ healthy food (thức ăn lành mạnh, tốt cho sức khỏe). Nói chung là cô có thiện cảm với người dân Đại Hàn vì trình độ văn hóa tương đối cao và lối sống đày tình người tại xứ sở này. Mélanie cũng học được tiếng Đại Hàn, đọc báo chí sách vở và nói chuyện được với người địa phương bản xứ. Nhưng cô lại sử dụng tiếng Anh nhiều hơn vì tại nhà trường các học sinh cũng như giáo chức thì đều nói thông thạo tiếng Anh.

Được hỏi về tình trạng liên hệ với Trung quốc, thì cô cho biết người Đại Hàn rất bực bội khó chịu vì phải chịu đựng nạn ô nhiễm bàu khí quyển do phía bên Trung quốc thổi qua eo biển từ phía Tây qua, nhiều khi ngột ngạt rất khó chịu. Mà tình trạng này đã kéo dài từ lâu, mà phía Trung quốc rõ ràng là bất lực không làm sao mà cải thiện tình hình tồi tệ của nạn ô nhiễm nặng nề như thế được.

Đến lượt Mélanie tò mò hỏi về chuyện của tôi ở Việt nam như thế nào mà bây giờ lại phải đến tỵ nạn trên đất Mỹ.Tôi cho cô biết là năm nay tôi đã bước vào tuổi 80, ngang tuổi với ông bà của cô đấy, phải không. Mélanie gật đầu “ Quả đúng vậy, ông ngọai của cháu năm nay 81 tuổi.” Tôi nói tiếp : “Chuyện tù đày của tôi nguyên do là vào năm 1990, lúc cộng sản ở Đông Âu sụp đổ, thì người cộng sản ở Việt nam rất hốt hỏang (panicked), họ mở chiến dịch bắt giữ những người có chính kiến bất đồng như tôi (dissident).

Tôi liền mở laptop cho cô đọc bài tôi viết “How I became a political prisoner in Vietnam”. Xem xong, Mélanie nói ngay : “Cháu thật không thể ngờ được là người cộng sản họ lại có thể độc tài tàn bạo như vậy được!” Tiếp theo tôi cho Mélanie coi Chứng chỉ của Amnesty International tuyên dương tôi là một Human Rights Hero trong Đại Hội mới đây ở New York. Tôi giải thích thêm : “Vì Amnesty đã góp phần cứu thóat tôi ra khỏi nhà tù ở Việt nam năm 1996, nên từ nhiều năm nay tôi tích cực tham gia họat động với Amnesty – do đó mà bây giờ họ mới tuyên dương tôi như vậy.” Mélanie gật gù và nói : “Thật là sự may mắn cho cháu được gặp một nhà Anh hùng về Nhân quyền như bác đấy.” Cả hai chúng tôi đều cười thật là vui vẻ, hồn nhiên, sảng khóai.

Đại khái câu chuyện dọc đường của tôi trao đổi với các bạn đồng hành trên máy bay, trên xe lửa hay xe bus từ nhiều năm nay, thì thật có nhiều chi tiết ngô nghĩnh lý thú tương tự như mấy trường hơp mới đây nhất được ghi vắn tắt lại trên đây. Tôi nghĩ mình có thể viết thành cả một cuốn sách về bao nhiêu chuyên đại lọai mà tôi đã gặp trong hơn 10 năm rong ruổi khắp nơi trên đất Mỹ, Canada, Âu châu, Úc châu.

Nhưng bài viết đến đây, kể đã dài rồi, tôi xin được tạm ngưng ở đây. Và xin hẹn sẽ viết tiếp thêm chi tiết nữa trong những dịp khác vậy.

Thành phố Toronto Canada, ngày 14 tháng Tư năm 2015

Đoàn Thanh Liêm