Đơn Sơ Chân Thật – Nhạc Bất Quần

Br. Huynhquảng
Thưa quí bạn, chúng ta đã lần lượt suy ngẫm về ba đề tài: Tha Thứ, Hiệp Nhất,
và Sống Hiện Tại. Thực ra, sống giây phút hiện tại không gì khác hơn chính là
sống thật với con người mình. Sống hiện tại luôn luôn níu kéo chúng ta trở lại
với hiện tại, với bản chất con người thật của mình. Vì lý do đó, mục Sống Đẹp
hân hạnh giới thiệu đến quí bạn đề tài mới: Đơn Sơ – Chân Thật, chỉ với hy vọng
phần nào góp thêm chất liệu màu sắc để bạn và tôi cùng nhau hoàn thiện bức
tranh của chính mình. Kỳ này mục Sống Đẹp xin mượn nhân vật Nhạc Bất Quần trong
tiểu thuyết võ hiệp lừng danh của Kim Dung để giúp ta hiểu thêm hậu quả của sự
gian trá, không chân thật. Nhưng quan trọng hơn, nhân vật này có thể giúp ta
dừng lại để lắng nghe tiếng nói trong con tim: Động cơ gì đã dẫn quân tử kiếm
Nhạc Bất Quần dùng mọi thủ đoạn âm mưu để lừa gạt, để hại người, hại gia đình,
và hại chính mình.
Nhạc Bất Quần
Kim Dung thoạt đầu miêu tả Nhạc Bất Quần như một bậc chính nhân quân tử thuộc chính phái. Ông là chưởng môn phái Hoa Sơn, luyện thành công môn Tử Hà Công; ông ăn nói nhỏ nhẹ, thái độ khoan thai cộng với võ nghệ cao cường nên ông được nhiều người trong chốn giang hồ kính nể, đặc biệt Lệnh Hồ Xung, chàng một lòng kính phục sư phụ mình.
Dầu vậy, do tham vọng hợp nhất năm môn phái thành một, và sau đó sẽ làm minh
chủ Ngũ Nhạc Phái, Nhạc Bất Quần đã lừa gạt mọi người và dùng Lệnh Hô Xung để
che đậy tội lỗi của ông. Ông đã ăn cắp Tịch Tà Kiếm Phổ của nhà họ Lâm; ông
đoạt ngôi minh chủ trên tay Tả Lãnh Thiền, người cũng có tham vọng làm minh chủ
Ngũ Nhạc Kiếm Phái, và tệ hại hơn, ông đã đánh lừa chính vợ con ông và bản thân
ông khi ông tự thiến để luyện Tịch Tà Kiếm Phổ. Cuối cùng, Nhạc Bất Quần đã
thành công và đã đạt được mục đích; ông trở thành minh chủ Ngũ Nhạc Phái; ông
đã luyện thành công Tịch Tà Kiếm Phổ; ông đã có tất cả những gì ông khao khát,
nhưng cuối cùng ông đã đánh mất đi chính bản thân ông. Khi ông được tất cả cũng
chính là lúc ông mất tất cả.
Kim Dung tài tình lột dần mặt nạ của Nhạc Bất Quần, để dù Nhạc Bất Quần đã có
trong tay tất cả những gì ông muốn, nhưng khi mặt nạ đã bị lột bỏ, thì dù là
minh chủ của Ngũ Nhạc Phái, bên ông không còn ai là bạn hữu, không còn ai là đệ
tử, và cuối cùng phải chết dưới tay Ni-Cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn. Bộ mặt thật
“ngụy quân tử” của Nhạc Bất Quần lộ ra khi ông có trong tay mọi thứ ông tham vọng và khao khát. Cảnh cuối đời của Nhạc Bất Quần diễn tả đúng với tên gọi của ông, nghĩa là “không chơi với ai.” Vì thực ra dù trước khi bị lột mặt nạ, ông có rất nhiều bạn hữu và được nhiều người kính nể, nhưng thực ra ông đâu có thực lòng giao tình bằng hữu với ai đâu! Với ông, tất cả các mối quan hệ đều ngấm ngầm tính toán hơn thua; ông dùng mọi người kể cả đại đệ tử, vợ ông, và con ông làm bàn đạp cho ông thực hiện âm mưu bá chủ võ lâm. Mối quan hệ của ông từ trong gia đình ra ngoài xã hội đều dựa trên sự gian dối, lừa gạt,
âm mưu… chứ không dựa trên sự thật, đơn sơ, chân chính của người võ sư.
* * *
Thưa bạn, cũng như Nhạc Bất Quần, điều nguy hiểm nhất cho cuộc đời chúng ta là đôi khi chúng ta đã gạt bỏ những gì chúng ta đang có để cố chụp giựt cho được điều mà chúng ta thích, vui. Động cơ này dễ dàng thúc dục chúng ta tìm mọi phương cách để đạt được mục đích kể cả khi phải dùng những kỹ xảo thấp hèn. Gạt bỏ những gì sẵn gần bên ta, trong gia đình ta, trong tâm hồn ta để rong ruổi tham vọng những sự xa ta, ngoài gia đình ta, và ngoài tâm hồn ta… đó là thất bại lớn nhất của một đời người. Chạy theo dục vọng để chiếm hữu, để được làm chủ một điều gì ngoài ta là một cuộc rong ruổi nguy hiểm và dễ dàng đánh mất chính ta; vì thực ra khi ta chỉ lo kiếm tìm những sự “bên ngoài” thìchắc một điều, sự “bên trong” không được quan tâm và chăm sóc cho chu đáo. Được điều gì khi ta thắng trận mà ta không biết ta trở về đâu. Hóa ra, cái sự thật căn bản vẫn là chính ta, trong ta chứ không phải bên ngoài được tô điểm bằng danh thơm hão huyền hư ảo. Từ đó ta học được rằng, dù xã hội có thể ban tặng cho ta tước hiệu hoa mỹ đến đâu đi chăng nữa, nhưng ta không thật với lòng ta, thì ta cũng mất tất cả – và điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời chính là mất đi chính ta. Mong rằng chúng ta cùng giúp nhau mỗi ngày khám phá ra sự thật
về chính mình; cùng giúp nhau cẩn tĩnh về hiểm họa của những tiếng mời gọi ta
đi ra khỏi lòng ta. Thực tế cho thấy, “Đôi khi thế giới [con người] cứ lôi kéo bạn theo một hướng, mà theo con tim, bạn không mong muốn đi theo.”
Thưa bạn, nếu Nhạc Bất Quần biết nhận ra tài năng và thật tâm của Lệnh Hồ Xung,
nhận ra một gia đình hạnh phúc trong giá trị hiện tại của đời ông, chắc một điều ông sẽ đạt được cả “bên trong” lẫn “bên ngoài.” Nhưng đáng buồn thay ông đã không làm như vậy. Còn bạn thì sao?

Tiền bạc – mối đe dọa truyền kiếp

 

 

Tiền bạc – mối đe dọa truyền kiếp

 

Br. Huynh Quang                               nguồn: Brother Huynh Quảng

 

Aristotle cho rằng, tiền bạc chỉ là phương tiện hữu ích, nó chỉ có giá trị khi ta dùng nó để giúp ta đạt được những điều khác.

Khi quá tích trử và gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu

Thời xưa, các ẩn sỉ ra chợ bán hàng và dùng tiền để mua bánh mì. Nếu tiền còn dư, họ sẽ cho người nghèo hết, vì họ sợ rằng, mang tiền về sẽ làm cho họ hằng ngày bận tâm tới việc cất giữ chúng; và nguy hiểm hơn chính là họ dần dần đặt sự an toàn của mình vào số tiền trong kho đó thay vì là Chúa.

.

“Đam mê tiền của là cội rể của mọi sự dữ” (I Tim 6:10). Giàu có không phải là tội, nhưng để tiền của làm chủ đích mọi suy nghĩ và hành động của mình là điều dễ dẫn ta tới tội. Mối nguy hiểm chính là khi ta có nhiều tiền bạc, ta dễ bị đánh lừa và nhận thức sai lầm rằng: Tiền bạc có thể ban cho ta có mọi thứ ta muốn mà không cần Chúa.[1] Nhưng thực ra, tài khoản trong nhà băng, dù nhiều đến bao nhiêu cũng không thể mua được bình an, công bằng, và tự tại. Như thế, tham lam cũng được cho là gốc của các loại tội vì nó rất gần với kêu ngạo – muốn làm chủ đời mình mà không cần Thiên Chúa. Mình muốn dùng những phương tiện vật chất để đảm bảo lấy trách nhiệm cuộc sống của mình và gạt Chúa ra khỏi đời mình – không lệ thuộc vào Đấng Tạo Hóa nữa, đó là một khuôn mặt mới của tội kêu ngạo.

Nhưng thực ra, theo Beothius, “Chúng ta càng sở hữu tiền của bao nhiêu, thì chúng ta cũng mất nhiều thời gian, sức lực, và tiền của bấy nhiêu để bảo vệ chúng.”[2] Như thế, sự giàu sang không làm cho ta nên giàu có, mà làm cho ta thêm héo khô, lo lắng, và bất an. Một ẩn sĩ đã tâm sự rằng, “Một tu sĩ với nhiều tiền của sẽ như một con thuyền nặng nề dễ dàng bị chìm trong cơn bão tố.”[3]

* * *

Chàng thanh niên trong Tin Mừng đã chạy đến Chúa Giêsu để hỏi xem làm thế nào để được hưởng sự sống đời đời (x. Mt 19:17). Ngoài vấn đề giữ lề luật ra, Đức Giêsu đánh thẳng vào tâm điểm của ơn gọi làm môn đệ khi Ngài mời gọi anh ta bán tất cả của cải mình có, bố thí cho người nghèo, và theo Ngài (x. Mt 19:22). Cốt lõi của vấn đề chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và liều thân theo Chúa với phận nghèo.

Tin Mừng thuật lại người thanh niên đã giữ nhiều lề  luật trong Mười Điều Răn, (chớ giết người, chớ ngoại tình, chở trộm cắp, chớ làm chứng dối, thảo kính cha mẹ, yêu người thân cận; ở đây, anh ta không nói đến lề luật “chớ tham tham”). Rõ ràng, “Khi đối diện với luật hoàn hảo của Thiên Chúa, anh ta buộc phải đối diện với điều luật ‘chớ tham lam’ (Ex 20:17).”[4] Tham lam, tôn sùng của cải là cản trở lớn nhất để người thanh niên theo Chúa. Anh ta không muốn từ bỏ của cải mình để theo Chúa, là vì của cải đã trở thành điểm tựa cho đời anh; của cải trở thành “chúa” của đời anh. Buồn thay, chân lý đã có được trong tầm tay, tự do và bình an đã được ban tặng, nhưng chỉ vì quá bận tâm đến của cải trần thế, người thanh niên đã khước từ những giá trị vĩnh cửu mà chọn những giá trị tạm bợ chóng qua. Đọc tiếp Mt 19: 23-30, Phêrô cũng đặt một câu hỏi tương tự như thế, “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?” Câu trả lời là các con “Sẽ được gấp trăm ở đời này và đời sau.” Ai theo Chúa với tất cả niềm tín thác đều xác tín và cảm nghiệm lời Chúa đúng tuyệt đối.

* * *

Trong thư I Timothê 6:6-10, thánh Phaolô đã khuyên nhủ rằng, “Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa vào cám dỗ với cạm bẫy, và lắm đam mê ngông cuồng tai hại, mà trầm luân diệt vong, hư khốn. Vì tham tiền là cội rễ mọi sự dữ. Cầu thỏa lòng tham, thì có kẻ đã lạc xa đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé.”

Với tiền bạc sẵn có trong tay, tính tham lam sẽ có cơ hội trỗi dậy. Vì tham lam không những là mong muốn chiếm đoạt điều mình không có, nhưng còn muốn sở hữu và chiếm đoạt những thứ mà mình hoàn toàn không cần đến.

Thói quen “shopping” dường như trở thành một thói quen của nhiều người, đặc biệt tại Hoa Kỳ. Thói quen đi shopping hằng tuần ở những nơi “on sales” thực ra đó là những lần mua những hàng hóa ngoài nhu cầu cần thiết. Shopping nhiều lần như thế sẽ trở thành thói quen xấu. Vì thực ra của cải vật chất phải là phương tiện để phục vụ con người, chứ chúng không thể trở nên trung tâm đời sống chúng ta và làm cho chúng ta quá bận tâm tới việc sở hữu
chúng. Quá bận tâm sỡ hữu một sự vật nào đó biểu lộ cho thấy tâm hồn ta đang ở
trong tình trạng bất an, đang muốn tìm một điều gì để khỏa lấp nỗi bất an, trống vắng ấy. Và như thế, suy nghĩ về điều gì, muốn sỡ hữu điều gì, muốn trao tặng điều gì đều là những biểu hiện khác nhau của một quả tim ẩn chứa sự khao khát muốn lấp đầy và kiếm tìm để được no thỏa.

Rất nhiều gia đình đã tan vỡ cũng chỉ vì liên quan đến tiền bạc, mua sắm vật chất.

Anh A làm lụng vất vả hằng ngày; chị B lo chăm sóc con cái và đưa chúng đi học. Rảnh rỗi đôi chút, chị đọc báo thấy “on sales” ở siêu thị này, siêu thị nọ liền lên kế hoạch, trước là chỉ để xem cho biết vì rẻ, dần dần chị mua một hai món hàng thật sự rẻ – và đúng nó rất rẻ theo giá cả thị trường. Từ từ chị B có thói quen đi shopping và mua những món hàng chỉ vì thấy
chúng rẻ và lý luận, “Nếu không mua thì uổng.”

Anh A tỏ ra khó chịu, cứ mỗi tuần đi làm về thấy nhiều món hàng mới lạ trong nhà mà vợ cho rằng mua chúng vì rẻ. Nào lá cái máy xay sinh tố, nào là cái thớt cắt thịt, nào là cái máy xay đậu, v.v,… “Chúng ta đã sắm đầy đủ rồi mà,” anh A lên tiếng. “Rẻ mà anh, on sales không mua thì uổng.” Cứ như thế, anh A dần nghĩ rằng vợ mình không biết quí công sức và đồng lương mình kiếm được; chị B lại cho rằng chồng mình tỏ ra keo kiệt không thương mình như xưa nữa, chỉ có mấy đồng bạc mà cũng đắn đo, cằn nhằn.

Mối bất hòa dần dần xuất hiện khi để cho tiền và vật chất chiếm chỗ trung tâm trong lối suy nghĩ của hai người; chủ đề của nhưng lần gặp gỡ chỉ là xoay quanh những món hàng và tiền bạc. Và để bảo vệ mình và lập trường của mình, anh A tìm những biện minh, lý lẽ để chứng mình rằng việc mình nói là đúng. Đồng thời, chị B cũng tìm mọi lý lẽ biện hộ để bảo vệ cái tôi của mình. Những cuộc nói chuyện của họ dần dần đi ra xa những chủ đề về con cái,
gia đình, bà con, bạn hữu, nhưng thay bằng là tiền, là hàng hóa vật chất. Mối rạn nứt bắn đầu khi chị B nghĩ rằng anh A không thương mình nữa; còn anh A thì cho rằng chị B không còn biết lo cho gia đình, cho mình và cho con. Cải vã, lời qua tiếng lại, bằng mặt mà không bằng lòng,… từ từ hiện diện giữa hai người,… hạnh phúc bay xa tầm hai người.

Đối với bất cứ ai, tiền bạc vật chất có thể sẽ là một đầy tớ tốt trung tín, nhưng chúng cũng có thể là ông chủ rất tồi. Anh A không hiểu được chị B đi mua sắm chẳng qua là biểu hiện một sự thiếu hụt nào đó trong con tim, trong gia đình, chứ từ ban đầu chị B đâu có ý tiêu xài phung phí. Chị B đâu có hiểu rằng việc anh A “tính toán” đôi chút đó là một sự biểu hiện sự lo lắng cho tương lai của mình, vợ và con của mình – Nơi anh A có một chút lo âu cho gia tương lai gia đình. Nếu những cuộc trò chuyện của họ nhằm vào hai điểm này, thì chắc chắn bầu khí hạnh phúc trong gia đình sẽ phát triển tốt đẹp hơn, nhưng vì trung tâm của nhưng lần trò chuyện là tiền và vật chất, nên không lạ gì chuyện bất hòa là có thật. Như thế đó, bản chất của vấn đề là tình cảm, tình yêu chứ đâu phải vật chất tiền bạc. Nhưng nếu không hiểu nội vụ đằng sau của sự kiện, mà lại quá chú trọng đến tiền bạc trên bề mặt, người ta sẽ bị dẫn đến thảm cảnh chia lìa, đau xót ngay trong gia đình và tâm hồn mình mà chính đương sự không hay biết.

Các tác giả Tin Mừng kết luận rằng, Giuđa nộp Thầy là vì lòng tham tiền bạc. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng, “Chớ lo lắng về ngày mai…” (Mt 6:25). Quả thật, khi quá chú tâm đến của đời sống dương thế, con người sẽ đành mất hướng đi vào Nước Trời. Khi quá tích trử và gom góp cho đời sống con người, chúng ta sẽ lãng quên khả năng tích trử công đức cho đời sống vĩnh cửu. Đó chính là mối nguy hiểm lớn nhất của lòng tham.

* * *

Cốt lõi  của vấn đề chính là từ bỏ chính mình, đặt cuộc đời mình trong tay Chúa, và liều  thân theo Chúa với phận nghèo.

Nhìn vào chính con người của mình chúng ta thừa nhận rằng, dường như chúng ta dễ đánh giá người khác theo tiêu chuẩn “having” (có) mà không là “being” (là), đó là dấu hiệu của sự đảo lộn trật tự trong tâm thức của con người chúng ta. Chúng ta thích làm bạn với những người có tiền của, nể vị những người chức quyền và học vị cao, trong khi chúng ta ít để ý hay quan tâm đến những người bình thường khác trong cộng đoàn và xã hội. Nhưng theo đức
tin chúng ta tuyên xưng, mọi người đều là con cái Thiên Chúa và họ là anh em với nhau. Chạy theo tiêu chuẩn trần thế, ta không những coi thường phẩm giá của người khác, mà còn đánh mất căn tính Kitô của mình. Theo chân phước John Paul II, con người chạy theo cái gọi là “tiêu chuẩn cuộc sống” được hiểu là hữu dụng, có chức năng và phong phú về mặt kinh tế.[5] Với tiêu chuẩn này, con người chỉ có giá trị khi họ còn sức lao động, làm ra của cải vật chất, nếu không, họ không còn có giá trị nữa. Xét theo “tiêu chuẩn” này,các em bé và những người già yếu trở nên những “người thừa” của xã hội. Vì họ không “hữu dựng và có chức năng về mặt kinh tế.” Đến đây ta nhận định rằng, đây là sự sai lạc nghiêm trọng trong lối suy nghĩ đề cao tiền của vật chất trong đời sống và mối quan hệ. Nếu quan niệm tiền bạc lên trên giá trị con người và để cho tiền bạc điều khiển cuộc sống của mình, một ngày nào đó, không sớm thì muộn, đương sự ấy sẽ không tìm thấy “giá trị” của mình nữa; vì có lúc đời mình cũng trắng tay như một em bé mới chào đời. Chẳng lẽ khi con người trắng tay thì mình không còn giá trị?!

Tóm lại, thánh Augustino đã trải qua kinh nghiệm rong ruỗi những giá trị vật chất tạm bợ, cuối cùng cũng nhận định rằng: “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể thỏa mãn nổi khao khát về hoàn mỹ sâu thẳm trong con người của mình bằng những giá trị tạm bợ bất toàn.”[6]

(Còn tiếp)

 

[1] Cf. Aquinas, 1368-72.

[2] Loc. 1383-88.

[3] Loc. 1383-88.

[4] Warren W. Wiersbe, Wiersbe’s Expository Outlines on
the New Testament
, 71-72 (Wheaton, Ill.: Victor Books, 1997).

[5] Cf. Loc. 1358-63.

[6] Loc. 1388-93.

 

ĐAU KHỔ – GIAN TRUÂN PHẢI CHĂNG LÀ BẤT HẠNH???

ĐAU KHỔ – GIAN TRUÂN PHẢI CHĂNG LÀ BẤT HẠNH???                                     

  NHÂN CHỨNG CỦA MỘT NỮ TÂN TÒNG

                                                                                                          Maria Túc Lynh

   Là con người, khi ta gặp những biến cố, những sự kiện mà trái ngược với mong ước, nhiều khi còn làm cho con người phải chịu thiệt thòi rất nhiều. Và ai cũng nghĩ đó là những bất hạnh, mà ai rơi vào thì đều nghĩ cái bất hạnh của mình là nặng nề nhất.

  Tuy nhiên câu chuyện mà hôm nay tôi xin phép được kể ra để hầu cùng quý vị câu chuyện về một người phụ nữ. Đối với người khác có lẽ sẽ cất tiếng than và oán trách Ông Trời khi đã dồn cuộc đời mình đến đường cùng.

  Nhà chị ở tương đối gần với nhà tôi, gia đình chị có 4 người. Hai vợ chồng chị và hai đứa con trai.  Một đứa khoảng 20 tuổi bị bại não từ khi mới sinh, một đứa cũng khoảng mười lăm tuổi thì bị down. Chồng chị là thợ hồ, khi nào có người gọi thì mới có việc để làm. Gia đình chồng và gia đình chị có lẽ cũng không khá giả nên tôi cũng không nghe chị nói là họ giúp đỡ gì.

  Có nhiều lần tôi gặp chị ở tiệm làm tóc gần nhà, tôi có trò chuyện với chị. Thấy chị cứ tất tả hối nhanh khi thợ đang làm cho chị. Tôi có hỏi chị, chị bảo là chị phải về nhanh để chăm sóc đứa con. Chị bảo là cuộc sống hiện tại của chị tuy rất khó khăn, nhưng chị luôn bảo là đây là Cây Thánh Giá Chúa đã trao thì chị phải nhận và không một lời than thở với tôi. Điều đặt biệt ở chị mà tôi thấy rỏ nhất, là hình như không bao giờ chị buồn và thất vọng khi đối diện với hoàn cảnh hiện tại. Chị bảo chị biết là Chúa và Đức Mẹ thương chị nhiều lắm, nên chị không thấy lo lắng.

  Một thời gian ngắn tôi không còn dịp để trò chuyện cùng chị, sau đó thì biết rằng, Chúa cho chị một công việc mà cả tôi và chị đều nghĩ là Chúa làm, chứ chị thì không thể nào làm được vì chị vốn là một người hiền lành và thật thà. Đó là nghề môi giới mua bán nhà, nghề này thường chỉ dành cho những người nhanh nhẹn và phải dữ dữ một chút (theo tôi là vậy). Trong khi chị thì… chị giới thiệu cho người ta mua bán với nhau rồi họ muốn cho chị bao nhiêu thì cho. Chị không dám hỏi, có người tốt bụng thì cho đúng với phần trăm hay hơn một chút, cũng có người qua mặt luôn để khỏi mất tiền. Gặp những cảnh đó thì chị chỉ biết cười chứ không dám hỏi người ta vì sợ người ta mắng. Cũng nhiều lần chị bị những người môi giới khác ăn hiếp và chửi rủa chị. Chị cũng sợ và né tránh chứ không dám trả lời. Nói chung là nếu với người đời thì chị là người vừa chậm chạp vừa khờ khạo.

  Nhưng chị cho biết là có Chúa luôn bên cạnh chị, nên chị vẫn thấy vui vẻ, vô tư. Không lo lắng gì, có thì ăn, không thì nhịn. Nhưng một thời gian ngắn sau thì Chúa đã ban cho gia đình chị một cuộc sống dễ chịu hơn. Chồng chị thì có nhiều người gọi đi làm, chị thì vừa chăm sóc hai đứa con dại khờ, vừa có nhiều người tìm đến để nhờ chị mua bán nhà. Gia đình chị đang dần dần dễ thở (như lời chị). Cuộc sống tương đối ổn chưa được bao lâu thì chị bỗng phát bệnh ung thư và đã di căn lên não. Tôi nghĩ là nếu gặp tôi chắc là tôi buồn sợ lắm và có thể tôi cũng sẽ thở than với Chúa. Nhưng với chị thì tôi rất bất ngờ, là chị không hề than trách hay kêu đau. Nằm trên giường bệnh khi mắt đã gần như không thấy gì, nhưng miệng chị vẫn cười tươi mỗi lúc có người đến thăm chị.

  Tôi đã đến thăm chị vào một buổi tối sau chuyến đi Đức Mẹ Măng Đen về. Tôi đến thăm chị và gởi tặng chị ảnh Mẹ Măng Đen mà bố đỡ đầu tôi (là linh mục) đã làm phép tặng tôi. Tôi nghĩ rằng Mẹ sẽ nhận lời chúng tôi mà chữa lành cho chị, linh hồn hay thể xác đều tốt. Khi nhận ảnh Đức Mẹ từ tay tôi, chị đã rất vui và nói với tôi là chị rất muốn người khác tặng chị ảnh Đức Mẹ. Nhất định chị sẽ đặt nơi trang trọng nhất trong nhà.

  Gặp chúng tôi, chị không ngồi được, mắt thì không mở ra và không thấy gì. Chị chỉ nhận dạng tôi qua giọng nói. Tôi hỏi chị có đau không, chị nói là đau lắm. Tuy đau như thế nhưng chị vẫn cười và luôn miệng cám ơn Mẹ đã thương chị. Chị còn khoe với tôi một điều mà tôi thấy rất hay và có ý nghĩa trong cuộc đời sống đạo của tôi. Đó là cho dù biết mình sắp chết nhưng chị vẫn rất vui vẻ, vô tư và vẫn giữ thói quen tốt lành là đọc kinh mỗi tối trước khi đi ngủ. Mỗi tối chị đọc ba Kinh rồi mới ngủ, gồm kinh Lạy Cha, Kinh Mính Mừng, Kinh Sáng Danh để tạ ơn Chúa. Tôi nghe chính miệng chị nói như vậy làm cho tôi rất ngưỡng mộ.

  Tôi thấy Chúa sao mà ngộ thế, Chúa đã từng cho thấy những người Công Giáo không đẹp để tôi thấy khó chịu khi nghĩ về đạo Công Giáo. Chúa lại cho tôi thấy một người con gái Chúa sao mà dễ thương và đáng yêu đến thế. Tôi đã quen biết chị khi tôi chưa biết Chúa, và trong mắt tôi, chị thật là một mẫu người mà tôi phải cố gắng noi theo. Giờ đây khi tôi đã theo Chúa, thì chị chính là một tấm gương sáng mà tôi suốt đời này phải cố gắng học theo. Trong nghèo khó thì hy vọng và tạ ơn. Trong bệnh tật nan y thì cũng chỉ một lời tạ ơn và xin vâng theo Thánh ý Chúa.

  Khi tôi viết những dòng này về chị thì chị đã được Chúa rước về được khoảng 5 tháng rồi. Tôi nghĩ chị đã sống đẹp lòng Chúa khi cho những người chung quanh thấy cách ăn và nết ở của chị. Tôi đã thấy trong chị hình ảnh của một Chúa Giêsu hiền lành, khiêm nhu, thật thà, phó thác và xin vâng.

  Chị tên là Maria Nguyễn Thị Muôn.

  Điều đặc biệt của chị làm cho tôi thấy rất tuyệt vời rằng, chị cũng là một tân tòng mà tâm tình chị trọn vẹn như vậy. Tôi thiết nghĩ là gia đình chồng chị và chồng chị phải là những người Kitô hữu rất đẹp lòng Chúa thì chị mới có thể noi theo mà sống đẹp lòng Chúa như vậy. Trong tôi cũng có một chút hãnh diện, vì tôi cũng là tân tòng. Tôi nghĩ chúng tôi đều là tân tòng mà dễ thương và xinh đẹp vì Chúa đã chọn và ban cho.

  Thật lòng mà nói thì chúng tôi, những tân tòng còn nhỏ dại, còn ngây thơ trong việc sống đạo và cần rất nhiều lời cầu nguyện của quý vị. Được sống như chị Maria Muôn thì quá tốt và công phúc của những lời cầu nguyện của quý cha, quý thầy và mọi người chắc chắn sẽ được Chúa đền bù xứng đáng.

  Tôi nghĩ tân tòng như cây non, cần được chăm sóc và vun bón và nâng đỡ rất nhiều của những người đạo Công Giáo gốc. Tôi cũng biết là chúng tôi cũng cần phải nỗ lực gấp nhiều lần để sống trọn vẹn hơn.

  Cuối cùng,với tâm tình của một tân tòng, tôi xin thật lòng cám ơn quý vị đã đồng cảm đọc bài tâm tình này của tôi. Tôi cũng xin quý vị góp một lời cầu nguyện cho những tân tòng chúng tôi, và đặc biệt hơn. là cầu nguyện cho linh hồn chị Maria Nguyễn Thị Muôn.

  Với tấm lòng của một tân tòng nhỏ bé, con xin Chúa ban cho quý vị ân nhân của chúng con được nhiều phúc lộc. Con cũng xin Chúa trả công bội hậu cho những ai đã cầu nguyện cho chúng con.

  Xin Chúa chúc lành cho quý vị, và chúc quý vị được tràn đầy ơn Thánh Thần và hồng ân của Đức Chúa Giêsu Phục Sinh đầy quyền năng qua lời cầu bầu của Đức Maria!

  Saigon, ngày 7 tháng 4 năm 2012

  Maria Túc Lynh