Hôm 16/12, Đại tá Lê Tấn Bửu, Giám đốc Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy (PCCC) TP.HCM xác nhận với VOA có 6 người trong một gia đình ở Sài Gòn đã bị thiệt mạng trong ngôi nhà phát hỏa vào lúc nửa đêm 15/12.
Theo thông tin từ Đại tá Lê Tấn Bửu, ngôi nhà bị cháy nằm trong một con hẻm trên đường Lê Văn Sỹ, Q.3, TP.HCM. Ngôi nhà có 2 tầng nhưng chỉ có một cửa ra vào, vừa được sử dụng để ở vừa kinh doanh buôn bán.
Đại tá Bửu nói với VOA:
“Khi xảy ra sự cố cháy nửa đêm, nhà thì diện tích nhỏ, số người thì đông, chật hẹp, không có lối thoát nạn nên dẫn đến chết 6 người và 2 người bị thương. Đây là vụ cháy mà chết chủ yếu do ngạt khói và không có lối thoát, không kịp thoát ra từ ban đầu”.
Nạn nhân là hai vợ chồng chủ nhà và 3 con gái từ 1 – 7 tuổi, cùng với một cô cháu của chủ nhà.
Tin cho hay sau khi phát hiện có khói bốc ra từ ngôi nhà, một số người dân đã tìm cách dập lửa và giải cứu những người bên trong. Nhưng do hỏa hoạn xảy ra vào lúc người trong nhà đang say ngủ, ngôi nhà lại bị khóa trái nên chỉ có vài người ở tầng trên thức giấc và đã nhảy từ lan can xuống đất để thoát thân.
Giám đốc Cảnh sát PCCC TP.HCM cho biết thêm rằng có khá nhiều xe gắn máy trong ngôi nhà bị cháy đêm 15/12. Ông nói:
“5, 6 xe gắn máy nhưng để cùng một nơi, cạnh cửa ra vào. Khi xảy ra cháy thì có lượng xăng dầu từ các xe này. Hiện nay về nguyên nhân thì cơ quan chức năng chúng tôi đang điều tra làm rõ, nhưng xuất phát cháy là từ chỗ khu vực này”.
Đại diện cơ quan PCCC cho biết nhiều ngôi nhà trong địa bàn TP.HCM đã tồn tại từ rất nhiều năm, không tuân thủ các quy định về an toàn cháy nổ. Thêm vào đó, vì nhu cầu cuộc sống, nhiều người dân đã tự cải tạo nhà ở để sử dụng vào mục đích kinh doanh. Điều này dẫn đến nguy cơ tiềm ẩn cháy nổ rất cao do các vật liệu, hàng hóa dễ cháy chứa trong nhà, cộng với việc sinh hoạt, bếp núc diễn ra trong một diện tích chật hẹp.
Đại tá Lê Tấn Bửu nói:
“Những ngôi nhà xây dựng sau này theo quy chuẩn, tiêu chuẩn, thì tốt. Nhưng những ngôi nhà tồn tại từ trước thì cái này cần phải có sự cảnh báo và có các giải pháp”.
Giải pháp đầu tiên, theo Đại tá Bửu, là mỗi ngôi nhà nên trang bị các thiết bị chữa cháy tại nhà, học các kỹ năng thoát hiểm và kiểm tra thường xuyên những khu vực có các vật liệu dễ cháy, nhất là khi ngôi nhà được dùng thêm vào mục đích kinh doanh.
Ngoài ra, ông Bửu đề nghị với mỗi hộ dân:
“Phải có lối thoát nạn, thoát hiểm khẩn cấp. Lối thoát nạn khẩn cấp nghĩa là gì? Là trong bất kỳ điều kiện nào khi xảy ra sự cố, có thể anh trổ lên mái nhà để thoát đi. Có thể anh nhảy qua ban công sang nhà người kế bên. Có thể anh có một cái thang, thang cuốn hay thang dây…, để có thể từ trên thoát xuống, nhanh chóng ra khỏi vùng nguy hiểm”.
Về phía cơ quan chức năng, Giám đốc Cảnh sát PCCC TP.HCM nói sẽ tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc phòng cháy chữa cháy ở các hộ dân, đặc biệt là trong dịp cuối năm có nhiều tiệc tùng, lễ hội. Ông Bửu hứa sẽ kiên quyết xử phạt nặng đối với các cơ sở kinh doanh vi phạm các tiêu chuẩn an toàn phòng cháy chữa cháy.
Ngoài ra, Đại tá Bửu khuyên người dân nên ghi nhớ số 114 và gọi vào số này càng sớm càng tốt khi phát hiện có hỏa hoạn.
Cũng tại TP.HCM ngày 16/12, một vụ cháy lớn đã xảy ra tại một cây xăng gần chợ Hạnh Thông Tây, Q. Gò Vấp, khiến các tiểu thương và người dân xung quanh bỏ chạy tán loạn.
Thống kê của Cục PCCC cho biết chỉ trong 6 tháng đầu năm 2016, tại Việt Nam đã xảy ra hơn 1500 vụ cháy khiến 31 người tử vong, 181 người bị thương và gây thiệt hại về tài sản hơn 8 tỷ đồng.
L.T.Đ: Tôi cùng vài đồng nghiệp (Phạm Trần, Ngô Nhân Dụng, Kami, Bùi Thanh Hiếu …) vừa bị Báo Nhân Dân – số ra ngày 2 tháng 12 năm 2016 –hài tội là “… xuyên tạc, vu cáo, vu khống, dựng chuyện… để gieo rắc thông tin bịa đặt, từng bước gây mơ hồ, hoang mang, làm xói mòn niềm tin vào Đảng, Nhà nước Việt Nam.”
Những lời cáo buộc nặng nề vừa nêu khiến tôi vô cùng lo sợ. Bị cơ quan ngôn luận chính thức của một quốc gia tầm cỡ (“kẻ thù nào cũng đánh thắng”) mang ra đấu tố mà không lo sao được? Phen này nếu không bị quần chúng nhân dân ném đá cho đến chết (e) cũng la lết, và hết đường về quê mẹ.
Đêm rồi sợ tới mất ngủ luôn. Nằm suy nghĩ miết tôi mới nhớ ra là mình có một bài viết cũ – trên trang talawas – lỡ ghi lại vài ba sự kiện về báo Nhân Dân, cùng với những lời bình hết sức vô tư và khách quan, chứ không hề “dựng chuyện” hay “vu cáo” gì (ai) ráo trọi. Xin phép được ghi lại trên diễn đàn này để rộng đường dư luận, cùng với hy vọng sẽ được công luận minh oan.
Trân Trọng
Tờ New York Times sống dở (chết dở) ở đâu không rõ, chớ ở xứ sở chúng em thì báo Nhân Dân vẫn in ấn đều đều, và vẫn sống hùng sống mạnh như thường lệ. Không tin cứ thử đọc qua “vài nét” về tờ Nhân Dân, qua http://www.nhandan.org.vn/vainet/ coi:
“Hiện nay, báo Nhân Dân có 5 ấn phẩm (sic) gồm: Nhân Dân hằng ngày, Nhân Dân cuối tuần, Nhân Dân hằng tháng, Nhân Dân điện tử tiếng Việt, Nhân Dân điện tử tiếng Anh.”
“Báo Nhân Dân hằng ngày có số phát hành khoảng 220.000 nghìn bản/ngày.”
“Báo Nhân Dân cuối tuần 16 trang ra hằng tuần khoảng 110.000 bản/kỳ. Báo Nhân Dân cuối tuần in tại Hà Nội, chuyển bằng máy bay, xe lửa, ô-tô đến các tỉnh, thành phố trong cả nước.”
“Báo Nhân Dân hằng tháng ra hằng tháng, mỗi số 48 trang, số lượng phát hành khoảng 130.000 bản/kỳ. Báo Nhân Dân hằng tháng in ở 2 nhà in: Nhà in báo Nhân Dân tại Hà Nội và Công ty in Tạp chí Cộng sản, được vận chuyển bằng máy bay, xe lửa, ô-tô đi các tỉnh, thành phố trong cả nước.”
“Trụ sở chính Bộ Biên tập báo Nhân Dân đóng tại: Nhà số 71, phố Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cơ quan thường trực tại TP Hồ Chí Minh, tại TP Đà Nẵng, tại TP Cần Thơ…”
“Ngày 21-8-1997, Thường vụ Bộ Chính trị T.Ư Đảng CS Việt Nam đã đồng ý cho phép báo Nhân Dân đặt cơ quan thường trú nước ngoài tại Paris (Pháp), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Bangkok (Thailand).”
“Báo Nhân Dân in tại 8 điểm in (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Định, Đác Lắc, Điện Biên), phát hành trên phạm vi toàn quốc và một số lượng nhất định được gửi ra nước ngoài.”
“Báo Nhân Dân phát hành theo cả hai kênh: Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam (VNPT) và hệ thống bán lẻ. Năm 1996 đạt 57,85 triệu tờ. Năm 2007 đạt 82,74 triệu tờ.”
Tờ báo bề thế và tầm vóc (tới) cỡ đó mà giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, thuở sinh thời, trong một cuộc phỏng vấn dành cho RFI, dám biểu là thiên hạ không ai thèm đọc báo Nhân Dân. Họ chỉ dùng nó vào những việc gia dụng khác: “I was reminded of the time when there was a severe shortage of paper across the country. People literally lined up daily to buy the inexpensive Nhan Dan for household uses.” (Robert Templer, Shadows And Wind. Penguin Group. New York:1988, 165). Dùng vô chuyện gì khác thì (dù có bị ra tấn) ổng cũng nhất định không chịu nói.
Người phương Tây thì khác. Họ không có thói quen nói năng úp/mở, hay “bóng và gió” như vậy. Tác giả cuốn sách dẫn thượng, Robert Templer – sau ba năm làm đặc phái viên cho A.F.P. tại Việt Nam, từ 1994 đến 1997 – đã thản nhiên tuyên bố :
“Dân Việt dùng báo Nhân Dân để đi cầu, chớ còn tin tức thì họ nghe từ chương trình phát thanh tiếng Việt của đài BBC, RFI và VOA.” (Vietnamese may have found Nhan Dan useful in the bathroom, but for information they turned to their radios and the Vietnamese language services of BBC, RFI and VOA).
Những ý kiến vừa ghi, tất nhiên, chỉ là cái nhìn phiến diện và chủ quan của những cha nội thuộc loại phản động, hay bá vơ nào đó – kiểu như Nguyễn Ngọc Lan, Robert Templer… mà thôi. Báo Nhân Dân, chắc hẳn, phải có tác dụng và giá trị (đặc biệt) của nó mà “kẻ ngoại đạo” khó lòng nhìn ra được.
Cách đạy chưa lâu, qua BBC, tôi nghe nhà văn Đào Hiếu kể một chuyện vui và (chả hiểu sao) lại nghĩ ngay đến ông Tổng Biên tập của báo Nhân Dân:
“Có thằng nhà báo Pháp gặp tao nó hỏi: ‘Việt Nam hiện nay có mấy tờ báo và tạp chí?’ Tao đáp: ‘ Có chừng 700.’ ‘Ô thế thì báo chí Việt Nam thực là phong phú.’ Tao nói: ‘Coi vậy mà không phải vậy. Vì có 700 tờ báo nhưng chỉ có một ông tổng biên tập.’ Thằng Tây nó cười gần chết.”
Còn “mấy thằng làm báo Việt Nam” thì cũng gần chết (dù không cuời) khi phài làm việc với một ông TBT khổng lồ cỡ đó. Tuy có tên là ND nhưng (thiệt ra) đây là tờ báo của Đảng CSVN. Nó có nhiệm vụ chính là định hướng tư tưởng cho đảng viên và chỉ đạo nhận thức cho cả nước. Ngoài ra, nói một cách hoa mỹ, báo ND cũng là “kim chỉ nam” hay “ngọn hải đăng” cho cả ngàn tờ báo khác.”
Phải mở lại những chồng báo cũ – kể từ năm 1951 đến nay, trải qua những đời TBT Trường Chinh, Tố Hữu, Hoàng Tùng … – mới thấy được hết công dụng của báo Nhân Dân trong công việc xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội ở… nước ta! Khi thì báo Nhân Dân cổ động chính sách Cải cách Ruộng đất hay Cải tạo Công Thương Nghiệp, lúc thì hô phong hoán vũ (”thay trời làm mưa,” “nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài”) để đẩy mạnh phong trào Hợp tác xã Nông nghiệp …
Báo Nhân Dân còn đảm nhiệm một vai trò quan trọng khác nữa mà cỡ thường dân như ông Nguyễn Ngọc Lan, hay ngoại nhân như ông Robert Templer, còn lâu mới khám phá ra. Ông Bùi Tín, cựu phó Tổng Biên tập của tờ báo này cho biết: “Đây là một nền báo chí quan liêu, chuyên lên lớp, răn dạy, đe nẹt người đọc.” (Hoa Xuyên Tuyết, 2nd ed. Turpin Press. California: 1994, 42).
Nói tóm lại là răn/đe. Xin đơn củ một thí dụ về thứ ngôn ngữ đanh thép, đe doạ và qui chụp – theo tiêu chí “gắp lửa bỏ tay người” – của của báo Nhân Dân đối với những những đồng nghiệp (hay đồng chí) lỡ thò chân ra khỏi… lề bên phải:
“Năm 1956, Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi lập thành một nhóm. Tháng 9-1956, dựa vào tiền bạc của những phần tử tư sản phản động, bọn chúng xuất bản tờ báo Nhân Văn… Báo Nhân Văn là tờ báo chính trị phản động. Mục đích của tờ báo này là nhằm khích động quần chúng chống lại chế độ dân chủ nhân dân… Sau khi báo Nhân Văn bị đóng cửa, bọn Nguyễn Hữu Đang và Thụy An vẫn cấu kết chặt chẽ với nhau và tiếp tục hoạt động gián điệp phá hoại.”
(Nguồn: Nhân Dân, Hà Nội, 21/01/1960, tr. 1, 6. Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn).
Nửa thế kỷ sau, vào ngày 27 tháng 4 năm 2009, trên báo Nhân Dân xuất hiện bài viết “Chung quanh vấn đề khai thác bô – xít ở Tây Nguyên” (của một ông hay bà Xuân Quang nào đó) để cổ vũ cho chủ trương khai thác bauxite ở Tây Nguyên – cũng cùng với cái giọng điệu “ngậm máu phun người” cố hữu:
“Cần cảnh giác và có thái độ rõ ràng, kiên quyết với những mưu toan chính trị hóa vấn đề của các thế lực thù địch, thiếu thiện chí, muốn chia rẽ nội bộ chúng ta; xuyên tạc sự thật, lợi dụng những tình cảm thiêng liêng trong trái tim, khối óc mỗi người để kích động hòng thực hiện những mưu đồ xấu xa của họ.”
Lập trường của báo Nhân Dân rõ ràng (và hoàn toàn) không thay đổi nhưng thế thời thì đã đổi thay… tự lâu rồi. Cùng ngày 27 tháng 4 năm 2009, trên Blog Osin xuất hiện một bài viết ““Bauxite & Báo Nhân Dân” (của tác giả Huy Đức) để đáp lại cái thứ ngôn ngữ lu loa, ngoa ngoắt của Xuân Quang. Xin được trích dẫn đôi ba phản hồi ngăn ngắn, đọc được sau bài báo này:
– TRUNG NGÔN// 27/04/2009 3:03 am
Tôi rất bàng hoàng khi đọc ý kiến của tác giả Xuân Quang. Một tiếng nói lạc lõng cất lên giữa những tiếng lòng đang từng giờ lo lắng cho vận nước.
– cù nèo // 27/04/2009 // 3:10 am
Thằng Xuân Quang từ ngày hôm nay sẽ chính thức được gọi là thằng
bán nước cầu vinh.
– Hồ Quốc // 27/04// 4:37 am
Đừng tìm cách giữ đặc quyền đặc lợi cho mình và cho một nhóm người. Lòng dân đã không còn tin vào “Nhân dân” từ lâu rồi. Ít ai thích đọc, còn phát hành được chỉ vì không biết xấu hổ.
Cây gậy có tên gọi là báo Nhân Dân của Đảng CSVN, với thời gian, đã trở thành một… cây củi mục! Nó không còn có thể gây sợ hãi hay gây tai hại cho bất cứ ai nữa.
Chuyện “báo hại” tới đây kể như đã (hoàn toàn) chấm dứt nhưng chuyện “báo cô” hay còn gọi là cách sống ký sinh thì ngó bộ còn lâu. Coi:
“Trụ sở chính Bộ Biên tập báo Nhân Dân đóng tại: Nhà số 71, phố Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cơ quan thường trực tại TP Hồ Chí Minh, tại TP Đà Nẵng, tại TP Cần Thơ…”
“Ngày 21-8-1997, Thường vụ Bộ Chính trị T.Ư Đảng CS Việt Nam đã đồng ý cho phép báo Nhân Dân đặt cơ quan thường trú nước ngoài tại Paris (Pháp), Bắc Kinh (Trung Quốc) và Bangkok (Thailand).”
“Báo Nhân Dân in tại 8 điểm in (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An, Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Định, Đác Lắc, Điện Biên), phát hành trên phạm vi toàn quốc và một số lượng nhất định được gửi ra nước ngoài.”
Sản xuất giấy để… chùi thì chỉ cần nhà máy in là đủ. Chớ mắc mớ chi phải có trụ sở trung ương, cơ quan thường trực tại những thành phố lớn, và những cơ quan thường trú ở Paris, Bangkok, Bắc Kinh…? Đã thế, còn khoe rằng báo Nhân Dân có “một số lượng nhất định được gửi ra… nước ngoài” nữa cơ! Nghe mà ớn chè đậu. Nói sợ ông Đinh Thế Huynh (đương kim TBT báo Nhân Dân) buồn lòng chớ ngoài những nước bạn bè thân thiết như Cu Ba, Bắc Hàn ra, người dân ở bất cứ một quốc gia khác – kể cả dân Tầu – không ai có đủ can đảm (dám) đụng tay vào tờ báo (thổ tả) này đâu!
Nhiều khu vực của tỉnh Bình Định chìm trong nước lũ.
Courtesy of tintuc24h
Miền Trung hứng chịu nhiều trận lũ lụt lớn bất thường
00:00/00:00
Những cơn mưa lớn cộng thêm với nước xả lũ từ 14 đập thủy điện ơ thượng nguồn khiến nhiều nơi ở miền Trung bị ngập nặng, khiến nhiều người chết, giao thông tắc nghẽn, trường học công sở phải đóng cửa, lúa và hoa màu bị hư hại.
Nước ngập khắp nơi
Liên tiếp trong mấy ngày qua, các tỉnh miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Khánh Hòa, Phú Yên, Gia Lai bị ngập sâu nghiêm trọng trên diện rộng.
Và đến ngày 14/12 vừa qua, các hồ chứa của các đập thủy điện miền Trung đạt dung tích nước 80 đến 100%. Báo chí trong nước đưa tin 14 hồ thủy điện ở Quảng Trị , Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngải, Bình Định đang đồng loạt tháo nước khiến nhiều khu vực ở hạ lưu bị ngập nặng.
Mưa lớn kéo dài trong đêm 14/12 cũng làm quốc lộ 40B đoạn qua huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam bị sạt lở nghiêm trọng, đời sống cư dân bị đe dọa.
Ban chỉ huy Phòng chống Thiên tai và Tìm kiếm Cứu nạn khu vực miền Trung – Tây Nguyên cho biết mưa lũ từ ngày 11/12 đến nay đã khiến ít nhất 9 người chết.
Bước sang ngày 15/12, dự báo khí tượng và thủy văn khuyến cáo mưa lớn vẫn tiếp tục. Tại Bình Định, Ban Chỉ huy Phòng chống Thiên tai huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định đã có cuộc họp khẩn, yêu cầu các địa phương triển khai phương án chuyển dân ra khỏi vùng nguy hiểm.
Thời gian di đời được chỉ thị phải kết thúc trước 7 giờ tối cùng ngày.
Trả lời Đài Á Châu Tự Do về tình hình tại chỗ, một nông dân ở Bình Sơn, Quảng Ngãi, nói rằng nơi nào cũng ngập nước:
“Các xã đều ngập hết, ngập nhiều, chết người cũng có, hoa màu ngập rất nhiều. Hiện giờ nước ở mức báo động 3, từ Nghĩa Hành, Mộ Đức chỗ nào cũng bị ảnh hưởng lụt.”
Một cư dân khác ở Quảng Trị so sánh mức độ ngập sâu, ngập nông như sau:
“Ở Quảng Trị đợt này mưa cũng khá nhiều, các tỉnh khác thì có xả lũ nhưng Quảng Trị đợt này không xả lũ thanh không bị ngập lụt, chỉ các tỉnh phía Trung Bộ mới bị tình trạng vừa mưa mà vừa xả lũ.
Tại Quảng Trị nước bây giờ là nước ứ chứ nó không hẳn là nước lũ, chỉ sâm sấp mặt ruộng thôi, ruộng đã khái thác đó. Tình trạng nặng như vào trong Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Định, Nha Trang. Ở Huế thì thành phố cũng bị ngập luôn, hai bên bờ sông Hương đều ngập cả. Nếu tình hình mưa cứ giữa mức cao như vậy thì có lẽ các đập sẽ tiếp tục xả lũ.”
Đồng loạt xả lũ
Việc 14 đập thủy điện miền Trung đồng loạt xả lũ càng khiến cho lũ lụt thêm nặng nề, người dân các vùng ngập lụt ở hạ du thêm khốn khổ. Theo người dân địa phương, mực nước đang tiếp tục dâng cao tại Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam, hậu quả là thời vụ trồng trọt cũng như chăn nuôi mùa Đông của bà còn bị mất trắng.
Nước từ các cập thủy điện ở thượng nguồn xả lũ, cuồn cuộn đổ về hạ lưu gây ngập nặng. Courtesy of NLD
Một viên chức ở Quảng Nam, không muốn nêu tên, cho Đài Á Châu Tự Do biết:
“Xả đập trên sông Vu Gia tới 9 thủy điện luôn, từ A Vương, Sông Tranh 1, Sông Tranh 2, Sông Bung 1, Sông Bung 2, Đak Min 1, Đak Min 2. Đủ các loại thủy điện hết nên dân bị nặng, mất trắng hết giống, khổ lắm.”
Đối phó cùng lúc với mưa lũ và lượng nước xả ra từ các đập thủy điện không phải là vấn đề của riêng Việt Nam mà của nhiều nước trên thế giới, là giải thích của Giáo sư Tiến sĩ khoa học Phạm Hồng Giang, nguyên thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chủ tịch Hội đập lớn Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đập lớn thế giới, giảng viên Đại Học Thủy Lợi Hà Nội:
“Trân website của Hội Đập Lớn tôi đã có trao đổi một số lần, chỉ nói thêm rằng đối với các hồ, nhất là các hồ lớn, đều đã có qui trình vận hành trong mùa mưa lũ. Khi vận hành phải đảm bảo làm sao giảm nhẹ mức lũ dưới hạ du khi một con nước về, đồng thời cũng phải đảm bảo được lượng nước sử dụng trong mùa khô, thì qui trình đó đã có.
Thế thì giữ nước rồi xả nước như thế nào thì theo qui trình, đồng thời có thông báo và có dự báo của khí tượng thủy văn, để biết trong thời gian sắp tới mưa lũ như thế nào.
Như vậy mình phải theo qui trình đó để vận hành cái đập. Thế còn việc kiểm tra trong thời gian vừa qua chặc chẻ đến đâu thì cũng phải chờ có thông tin hay số liệu đầu đủ đã.”
Đối với các đập thủy điện lớn có hồ chứa lớn, Giáo sư Tiến sĩ Phạm Hồng Giang nhấn mạnh, quan trọng nhất là phải có dự báo tốt, phải có sự tính toán xả lũ trong hồ trước để có dung tích trống cho đợt lũ tiếp theo:
“Theo đánh giá chủ quan của tôi lượng lũ lớn và dồn đập cũng là ảnh hưởng nhất định của sự thay đổi khí hậu. Nhưng dù sao sự an toàn của hồ cũng là quan trọng, có những biểu hiện không an toàn thì phải xả. Đập mà không an toàn sẽ là thảm họa lớn ở hạ du.”
Theo dự báo từ Trung tâm Khí tượng Thủy văn Trung ương, từ nay đến ngày mai 17/12, các tỉnh miền Trung từ Quảng Bình đến Ninh Thuận sẽ còn có mưa vừa và to, nhưng từ Đà Nẵng đến Phú Yên sẽ có mưa rất to khiến mực nước dâng cao trên các con sông những nơi này và gây ra lũ quét cũng như đất truồi.
Hiện mức nước trên các sông ở Thừa Thiên Huế và Phú Yên cũng đang lên nhanh.
Đúng ngày này 30 năm trước – 15/12/1986* – Đại hội Đảng VI chính thức khai mạc, mở ra vận hội đổi mới cho đất nước. Ngẫm lại thời đó, rào cản đổi mới chủ yếu nằm ở nhận thức giáo điều – giáo điều về “con đường đi lên CNXH”, về “làm chủ tập thể”, về “cải tạo công thương nghiệp” v.v. Vì vậy, đổi mới thời đó hay được quy giản thành “đổi mới tư duy”.
Ngày nay, cụm từ “đổi mới” vẫn thường xuyên được nhắc đi nhắc lại. Đến hẹn lại lên, cứ vào các năm chẵn chục, người dân lại nghe mỏi tai về thành tựu “mười năm đổi mới”, “hai mươi năm đổi mới”, “ba mươi năm đổi mới”. Song tinh thần đổi mới thực sự đã đi vào dĩ vãng. Cứ “đổi mới” theo kiểu phong trào và hô khẩu hiệu như hiện nay chỉ càng khiến “đổi mới” trở nên cũ kỹ, thậm chí phản tác dụng.
Cũng cần nói thêm rằng cải cách ở Việt Nam giờ đây rất khó vì nhất định sẽ phải trả giá – có cuộc đại phẫu nào mà lại không khó khăn, đau đớn. Nếu như trước đây khó khăn chủ yếu nằm ở thay đổi tư duy thì ngày nay, khó khăn còn nằm ở sự trỗi dậy càng ngày càng mạnh mẽ của các nhóm lợi ích bất chính hùng hậu, được hưởng đặc quyền và đua nhau tranh giành đặc lợi, với cái giá phải trả của đa số dân chúng và toàn nền kinh tế; và rồi không thể không kể đến những can thiệp và uy hiếp khôn lường của người láng giềng phương Bắc, kiên trì mục tiêu vì một nước Việt Nam nghèo hèn và nhược tiểu.
Cải cách chắc chắn sẽ rất gian truân, song cái giá phải trả cho sự trì hoãn cải cách còn lớn hơn gấp bội. Những tuyên bố cải cách đã có, không những thế còn khá đồ sộ. Vấn đề còn lại là hành động, là cải cách một cách thực chất, chỉ như vậy mới có thể khôi phục niềm tin của xã hội và củng cố tính chính đáng vốn đang bị xói mòn.
*Ghi chú: Đại hội đã họp trù bị từ ngày 5 đến 14/12/1986.
“Có 1 thời như thế” là chuyên mục của Thời Báo Đại Kỷ Nguyên phác họa lại một giai đoạn lịch sử đặc biệt của Việt Nam: thời bao cấp, với mong muốn thế hệ trẻ có cái nhìn sinh động và chân thực về quá khứ của nước nhà và cùng thế hệ trung niên, lão niên ôn lại thời dĩ vãng không thể quên của mình…
Thời bao cấp với niềm mơ ước sinh tồn “Ăn no mặc ấm” thay vì “Ăn ngon mặc đẹp”
Ở thời nay, ăn mặc “sành điệu”, ăn uống “sành điệu”, chọn nhà hàng nào, thời trang nào… là thứ mà mọi người phải đau đầu suy nghĩ, người đơn giản hơn một chút thì phải là “ăn ngon mặc đẹp”…
Nhưng cách đây 30, 40 năm, vào những năm 70, 80 của thế kỷ 20, các thế hệ người Việt chỉ ước ao đủ ăn đủ mặc. Cái đói trường kỳ gặm nhấm tâm can và dạ dày khiến mọi suy nghĩ của một ngày chỉ xoay quanh vấn đề miếng ăn.
Thế nào là thời bao cấp?
(Ảnh: internet)
Thời bao cấp, với cách gọi nôm na trong người dân là “thời đặt gạch xếp hàng”, diễn ra từ năm 1957 tại miền Bắc, tới sau 4/1975 thì triển khai trên toàn quốc, mãi tới 4/1989 mới thực sự kết thúc. Giai đoạn này nằm trong ký ức không thể quên của thế hệ đầu 8X, 7X, 6X… Đây là một giai đoạn mà hầu hết hoạt động kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa do nhà nước kiểm soát, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản, không chấp nhận kinh doanh tự do.
Câu thơ lảy Kiều thời đó là một mô tả sinh động về thời bao cấp:
Bắt ở trần phải ở trần
Cho may-ô mới được phần may-ô
Áo may ô thời bao cấp đây! Mỗi năm được 2 chiếc!
Đối với các bạn trẻ hiện nay, làm sao có thể tưởng tượng được áo may-ô, một loại áo lót dùng cho nam giới, cũng thuộc loại hàng hóa cung cấp cho “nhân dân”. Vì thế mới gọi là… bao cấp.
Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê giải thích về định nghĩa “bao cấp”: “Bao cấp là cấp phát phân phối, trả công bằng hiện vật và tiền mà không tính toán hoặc không đòi hỏi hiệu quả kinh tế tương ứng”.
Đối với người dân, định nghĩa này đơn giản là:
Bao cấp là tất cả đều do nhà nước đứng ra bao hết, từ cây kim, sợi chỉ, que diêm cho đến lương thực hằng ngày… Lương hàng tháng của công chức nhà nước chỉ nhận được một phần tiền rất nhỏ, còn lại quy vào hiện vật thông qua chế độ cấp phát tem phiếu và sổ gạo.
Tất cả mọi hình thức kinh doanh đều được quản lý theo ‘mô hình xã hội chủ nghĩa’, hoàn toàn do nhà nước nắm giữ.
Nhà nước phân phối vài chục mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống như gạo, thực phẩm, chất đốt, vải vóc, pin, cho đến các tiêu chuẩn phân phối được mua bổ sung như xà phòng giặt, giấy dầu, xi măng, khung, săm, lốp xe đạp…
Cái đói đến “mờ mắt” thời bao cấp
Vì sao được nhà nước lo cho toàn bộ mà lại đói?
Toàn bộ nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống là thông qua chế độ tiêu chuẩn tem phiếu có định mức cho từng đối tượng. Điểm đặc biệt là định mức này chỉ đáp ứng một phần cực nhỏ nhu cầu sinh tồn của 1 con người, cho nên mới tạo thành cái đói dai dẳng và trường kỳ tháng này qua năm khác.
Điển hình là một người dân tự do được tiêu chuẩn 1,5 lạng (150gr) thịt/tháng, tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành.
Các cấp bậc cán bộ nhà nước được tiêu chuẩn cao hơn, từ 3-5 lạng/tháng (300gr-500gr), tùy cấp bậc.
Thông thường nếu chọn thịt thì thôi mỡ, vì chỉ được chọn 1 trong 2. Thời đó không có dầu ăn, phải dùng mỡ để xào, nấu nên mỡ rất quý. Các gia đình vì vậy thường hay chọn “mỡ” thay vì “thịt”, như vậy sẽ có tích cóp được 1 hũ mỡ dùng để chiên xào nấu một thời gian dài hơn là 3 lạng thịt tiêu chuẩn trong tháng.
Tuy nhiên, cán bộ cao cấp lại có tiêu chuẩn gấp 40 lần “nhân dân”: 6kg thịt/tháng. Nhiều người cũng thắc mắc vì sự chênh lệch quá lớn này.
Rau có tiêu chuẩn 3-5kg/người/tháng, trong khi nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể cần từ 300gr-500gr/ngày.
Em bé dưới 1 tuổi cũng đói, vì tiêu chuẩn của em tất cả là 4 lon sữa đặc có đường “Ông Thọ” trong 1 tháng. Nên mới có cảnh các em bú “nước đường”, một điều mà thời nay dường như không thể tin nổi. Nếu mẹ của các em có giấy tờ chứng minh mất sữa hoàn toàn, thì em bé có khả năng sẽ nhận được 8 lon.
4 lon 1 tháng thôi các bé nhé! Mẹ muốn pha sữa cho em sao thì pha…
Thậm chí có tiền vẫn phải chịu đói… vì không ai dám bán để mà mua!
Hàng hóa thời đó không được mua bán tự do trên thị trường như bây giờ, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác.
Trao đổi bằng tiền mặt bị hạn chế, nên có người thậm chí có tiền vẫn đói, vì không ai được phép “kinh doanh”. Không có những cái tên mỹ miều như bây giờ là “doanh nhân”, “hộ kinh doanh”, mà chỉ là “phe phẩy” hay “tư thương”, “chợ đen” … những từ mang hàm nghĩa rất tiêu cực và khinh miệt, nếu bị phát hiện sẽ bị công an bắt và tịch thu toàn bộ hàng hóa. “Siêu thị” hay “chợ” là những khái niệm gần như không tồn tại.
Câu nói “Có tiền mua tiên cũng được” ít nhất cũng không thể đúng ở thời bao cấp. Thời này, sổ gạo mới là thứ quan trọng nhất.
Từ sau 30/4/1975 – khi nền kinh tế đặc thù này áp dụng trên toàn quốc, những ai sống ở khu vực phía nam vốn quen với nền kinh tế tự do, chưa quen với cái “đói” trường kỳ của nền kinh tế bao cấp như ngoài bắc, bỗng đột ngột chịu “đói” đến hoảng hốt!
Sự thiếu thốn đi kèm chất lượng “thê thảm”
Sự thiếu thốn cũng đi kèm chất lượng “thê thảm”: gạo mốc xanh đen, gạo hẩm, bột mỳ mốc, rau vàng héo, thịt “bèo nhèo” (phần thịt “ngon” đã được chia chác cho mậu dịch viên và những “mối quan hệ” quen thân của mậu dịch viên).
Gạo thiếu, gạo mốc đen nên cơm thường xuyên là những bữa cơm độn mỳ sợi mốc, bột mì tồn kho (viện trợ từ Liên Xô), sắn khô xắt lát, ngô (bắp), bo bo (hạt lúa mì) hay gạo vỡ (gạo tấm)
Thịt quá ít, có cũng như không, nên thường đổi thành mỡ, để có cái xào nấu rau ăn dần. (Thời đó không có dầu ăn như bây giờ, thi thoảng cũng chỉ có chút dầu lạc (dầu đậu phộng) hôi khét).
Những câu vè thời đó nói lên giá trị của những mặt hàng trong thời bao cấp:
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có “đếch”
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu…
Thảm họa “mất sổ gạo”
Tuy “phàn nàn” thiếu thốn như vậy, nhưng thời đó nếu để mất tem phiếu sẽ là thảm họa, so thảm họa này với cảnh thiếu thốn thường nhật thì thiếu thốn vẫn còn là “thiên đường”. Các thế hệ thời đó sẽ đứng trước nguy cơ nhịn đói cả tháng, đi xin, đi vay mượn lương thực, hoặc mua chui lại của “phe tem phiếu” (người tích trữ đầu cơ trái phép tem phiếu).
Vì vậy thành ngữ “Mặt như mất sổ gạo” trở nên vô cùng nổi tiếng thời bấy giờ, dùng để mô tả một khuôn mặt ủ ê não nề không thể đau khổ hơn. Bởi vì thời đó, mất sổ gạo là cầm chắc nhịn đói! Nhịn đói không phải là một ngày hay một tháng mà có khi đến vài ba tháng. Bởi hành trình, thủ tục xin cấp lại cuốn “bảo bối quý giá” này khổ sở vô cùng. Suốt những ngày còn lại sẽ chạy vạy, vay mượn khắp nơi để sống sót qua ngày đoạn tháng.
Nạn ăn cắp diễn ra phổ biến và rất tinh vi, cũng khiến việc mất tem phiếu, mất sổ gạo diễn ra lại càng thường xuyên hơn.
Cảnh xếp hàng như chơi trò rồng rắn lên mây….
Muốn mua được lương thực thực phẩm, các thế hệ thời đó cần đi xếp hàng 3, 4 giờ sáng để giữ chỗ, phòng khi cửa hàng bán nửa chừng hết lương thực, thực phẩm. Người ta dùng những cục gạch, chiếc dép, mảnh gỗ để ‘xí chỗ’ khi cửa hàng chưa mở cửa và người thật sẽ đứng vào hàng khi mở cửa.
Thậm chí nếu xếp hàng đầu, nhưng cũng không bảo đảm là sẽ được mua trước, bởi vì nếu có những sổ thuộc dạng ‘ưu tiên’ hoặc ‘chen ngang’ do có móc ngoặc với nhân viên thương nghiệp, hoặc đơn giản là xếp hàng tới nơi mới biết đã bị ăn cắp tem phiếu hay sổ rồi.
Rất nhiều khi, mỏi mệt rã rời vì xếp hàng cả đêm, nhưng tới gần lượt, thì cánh cửa hàng mậu dịch sẽ sập xuống phũ phàng trước mặt cùng với câu nói lạnh băng của cô mậu dịch viên “HẾT HÀNG”… Vậy là lê bước về nhà để hôm sau đi xếp hàng tiếp…
Sáng kiến vĩ đại thời bao cấp: nuôi lợn trong nhà tắm hoặc 1 góc bếp căn hộ tập thể 20m2. Mậu dịch viên thời bao cấp- nghề đáng mơ ước nhất thời bấy giờ, vì đảm bảo có đủ miếng ngon cho nhu cầu sinh tồn của gia đình, và có thể mang “quyền lực” phân phát này để làm mưa làm gió….
Bụng đói cật rét: Không những đói mà còn rét, bụng càng đói thì lại càng rét
Không những đói, các thế hệ thời đó còn chịu rét, vì một năm tiêu chuẩn của một người được 5-7m vải để may quần áo, tương đương với định mức 2-3 bộ quần áo/năm. Nên cảnh mặc quần áo vá chằng vá đụp là điều hết sức thông thường.
Hạnh phúc chờ đợi để được phân phát vải…
Đây được coi như một giai đoạn thất bại, yếu kém và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20
Chiếc xe đạp Favorit – niềm tự hào thời bao cấp. Bà mẹ và em bé thời bao cấp.Bám thành tàu điện thời bao cấp, khỏi mất tiền mua vé.
“Cái nghèo” sinh ra “cái hèn”: Cái đói gặm nhấm mất lương tri và những điểm sáng sót lại của tình người thời nghèo đói..
Thế hệ trẻ thời nay sẽ không thể tưởng tượng nổi cảnh thìa nhôm ở cửa hàng mậu dịch ngày xưa của ông cha mình phải bị đục lỗ, và đĩa nhôm ở cửa hàng cũng phải bắt vít chết xuống bàn chứ không thể để tự do. Vì sao vậy?
Ở thời đó, người ta đã phải chấp nhận một nghịch cảnh của xã hội là: Cái đói dai dẳng, thật tàn nhẫn, đã gặm nhấm mất lương tri của nhiều người. Nạn ăn cắp vặt trở nên phổ biến toàn dân, nên các cửa hàng mậu dịch chỉ còn cách đó để tránh bị mất mát đồ đạc.
Ăn cắp thời đó đã trở nên rất tinh vi, tới nỗi hình thành nên một khái niệm là “nghệ thuật móc túi siêu đẳng”… Rất nhiều kẻ cắp lão luyện thường xuyên trà trộn vào các dãy xếp hàng rồng rắn lên mây, vờ như xô đẩy người khác hay bị xô đẩy, để rồi lợi dụng lúc xô đẩy đó mà áp sát đối tượng để “móc túi” một cách “nghệ thuật”. Có quá nhiều người thời đó xếp hàng, mặc dù rất cẩn thận giữ chặt phiếu rồi, mà tới khi đến lượt mua hàng thì phiếu đã không cánh mà bay… Khuôn mặt đầy nước mắt của họ vào thời khắc đó khốn khổ đáng thương hơn bất cứ điều gì… nhịn đói rồi…
Căn bệnh ganh tỵ và kèn cựa cũng trở nên trầm kha hơn ở các cơ quan đoàn thể vì sống theo chế độ tập thể khiến ai cũng coi sự công bằng tuyệt đối là một chân lý, họ bị méo mó tính cách vì tin vào điều đó.
Nhưng một điểm sáng của thời đó so với thời nay mà người ta vẫn nhận thấy đó là tình người, tuy có ganh tỵ và kèn cựa nhau vì miếng cơm manh áo, nhưng người với người cũng vẫn thường hay đối xử tốt bụng, nâng đỡ nhau, sẵn lòng giúp đỡ nhau và “coi việc của bạn như việc của mình…” Nhờ giữ chỗ xếp hàng, nhờ đặt gạch, nhờ bơm xe vá xe đạp, nhờ trông hộ nhà, nhờ trông con nhỏ …vv, nhiều cái nhờ vả thời bao cấp mà không còn tồn tại ở thời nay trong cuộc sống hiện đại mà ai cũng quay cuồng với các vấn đề riêng của cá nhân….
Cặp lồng cơm- vật bất ly thân phổ biến của các công chức khi đi làm.
Những câu chuyện không thể tin nhưng có thật thời bao cấp về cái đói: Xin lỗi lợn!
Các câu chuyện bi hài có thực 100% về cái đói thời bao cấp do bác Trần Thị Thúy Nga ở Hà Nội kể lại cho phóng viên Đại Kỷ Nguyên:
Ở một đơn vị quân đội, giống như mọi đơn vị khác, có tình trạng nuôi lợn để tăng gia thời bao cấp. Thời đó chưa có cám công nghiệp, toàn bộ thức ăn cho lợn phải dựa vào nguồn cơm thừa canh cặn của bếp ăn tập thể. Thông lệ là phần “cơm cháy” ở đáy nồi cơm của bếp ăn tập thể là để dành cho lợn. (Thời đó không có nồi cơm điện chống dính, nên nồi cơm luôn có cháy)
Nhiều lần nhà bếp bỗng thấy cháy nồi cơm cứ bị “biến mất”, nên đã quyết định “điều tra”, “rình” để bắt kẻ tội phạm.
Cuối cùng kẻ tội phạm là một anh lính trẻ đã bị bắt. Vì quá đói trường kỳ, nên anh đã làm liều, đi ăn vụng cháy dành cho lợn hết lần này đến lần khác.
Hình thức kỷ luật áp dụng cho anh là: Tới chuồng lợn và xin lỗi lợn nhiều lần..
1 con vịt cỏ 7 lạng cho 200 người ăn và phương châm “Sống cùng sống, chết cùng chết” thời bao cấp
Đó là câu chuyện thời sinh viên của bác Nga. Bếp ăn tập thể sinh viên thời đó lâu lâu có bữa gọi là “cải thiện”, tức là có “thịt” chứ không chỉ rau và muối như thường lệ. Các sinh viên năng động phải tham gia vào công tác hậu trường nhà bếp. Lần ấy bài toán nhà trường đưa ra quá khó khăn cho bác. Món cải thiện cho bếp ăn của trường là một chú vịt cỏ bảy lạng gồm cả xương sau khi bỏ lông. Bài toán là số thịt này nhất định phải được chia đều cho các suất ăn của 200 sinh viên. Làm thế nào đây để đạt được sự công bằng? Các phương án luộc, xào, nấu… đều không thể khả thi.
Vắt óc mãi không thể tìm ra phương án phân chia công bằng, cuối cùng 1 tia sáng cũng phải lóe lên: băm (bằm) toàn bộ con vịt cỏ nhỏ bé đó, bằm cả xương, tới mức li ti như vụn bột, sau đó cho vào nấu canh toàn bộ. Cuối cùng các sinh viên không thể nào nhận ra một dấu tích gì của món “Thịt vịt cải thiện” của nhà trường trong suất ăn tập thể, vì đã bị bằm quá li ti và tan biến mất trong một nồi canh quá lớn cho 200 người ăn… Các sinh viên không phải tranh giành hay kèn cựa, kiện cáo nhau nữa…
Mời độc giả cùng Đại Kỷ Nguyên ôn lại những kỷ niệm khó quên thời bao cấp, bằng cách chia sẻ với chúng tôi những câu chuyện bi hài của mình qua hòm thư: contact@daikynguyenvn.com
Loạt ảnh về cửa hàng và tem phiếu thời bao cấp
Xếp hàng gửi xe trước khi vào mua hàng.Cảnh mua bán tại một quầy hàng mậu dịch Nhà nước.Các mậu dịch viên chuẩn bị hàng hóa, giá cả trước khi phục vụ người dân.Mua đồ gia dụng.Quầy bán vải.Khu vực bán dép, guốc nhựa.
Tiền mặt hạn chế sử dụng ở thời kỳ này, thay vào đó là hình thức tem phiếu.Đài phát thanh là một thứ hàng xa xỉ ngày đó.Phiếu mua thịt.Phiếu mua vải. Mức mua giới hạn nhiều nhất là 1 mét, và tối thiểu là 10 cm.Tem lương thực có thể đổi lấy các loại lương thực như: gạo, sắn, ngô, khoai tây, hạt lúa mỳ… với trọng lượng tương đương ghi trên tem.
Có thể mua các phụ tùng xe đạp bằng tấm phiếu này.Tem lương thực trị giá mua cho 25 gram lương thực.
Phiếu mua chất đốt và tem đường. Với phiếu mua chất đốt thì có thể sử dụng để mua: dầu hỏa, củi, than… Mỗi lần sử dụng, mậu dịch viên sẽ cắt bỏ một ô trên tờ phiếu tương ứng với số lượng mua.Sổ mua lương thực hay còn gọi là sổ gạo, thời kỳ này viên chức Nhà nước chỉ được mua 13,5kg/1 tháng. Thuật ngữ ‘buồn như mất sổ gạo’ xuất hiện từ đây: Mất sổ gạo còn quan trọng hơn cả việc mất tiền vì có tiền cũng không mua được gạo, dù là gạo đỏ, đầy thóc và sạn!
Quy định của Nhà nước trong việc dùng tem phiếu.Một bài báo về chỉ dẫn mua hàng tết bằng tem phiếu.
“Hiện cũng đã có ít nhất gần 30 xã ở Bình Định bị lũ cô lập. Do phải chống chọi với bốn đợt lũ lớn liên tiếp nên người dân các vùng này đang hết sức khó khăn, cần sự cứu trợ khẩn cấp về lương thực, thực phẩm”.
Ngày 16/12, theo thông tin từ Chi cục phòng chống thiên tai khu vực miền Trung – Tây Nguyên, mưa lớn cộng với việc các thủy điện tăng cường xả lũ đã khiến cho nhiều địa bàn trong tỉnh Quảng Nam ngập sâu.
(Baoquangngai.vn)- Hồ chứa nước Nước Trong (Sơn Hà) và thủy điện ĐăkĐrinh (Sơn Tây) đồng loạt xả lũ điều tiết nước, thế nên đến khoảng 14h chiều nay, nước tràn qua cầu sông Rin khiến huyện miền núi Sơn Tây hoàn toàn bị cô lập.
Sốt xuất huyết bùng phát mạnh tại Sài Gòn. (Hình: báo VNExpress)
SÀI GÒN (NV) – Bên cạnh dịch bệnh Zika đang lan rộng, nhiều bệnh truyền nhiễm phức tạp khác đang cùng lúc phát tán gia tăng mạnh ở thành phố Sài Gòn.
Chiều 15 tháng 12, truyền thông Việt Nam dẫn lời bà Lê Hồng Nga, trưởng Khoa Kiểm Soát Bệnh Truyền Nhiễm, Trung Tâm Y Tế Dự Phòng Sài Gòn cho biết, các loại bệnh truyền nhiễm như: Tay chân miệng (TCM) sốt xuất huyết (SXH) và Zika có dấu hiệu diễn biến phức tạp.
Theo bà Hồng Nga, từ đầu năm 2016 đến nay đã có tới 5,334 ca mắc TCM. Mặc dù không có người chết, nhưng bệnh có diễn tiến phức tạp và tăng mạnh. Tuy nhiên, lo nhất là SXH đang vào mùa. Chỉ riêng 14 ngày đầu tháng 12 này đã có 1,418 ca mắc SXH mới phải nhập viện và đến nay đã vào đỉnh dịch hàng năm, với 19,021 ca mắc bệnh phải nhập viện điều trị.
Riêng bệnh Zika, tính đến chiều 15 tháng 12, Sài Gòn có 133 người tại 23/24 quận, huyện, được xác định mắc bệnh, trong đó có 17 thai phụ đang được theo dõi.
Bà Hồng Nga cho biết thêm, vào cuối tháng 11, năm 2016 vừa qua, thành phố cũng đã phát hiện ổ dịch bệnh quai bị tại trường Tiểu Học Tân Xuân, huyện Hóc Môn với 30 ca trong 10 lớp.
Nói với báo điện tử VNExpress, bà Nga than phiền, trước tình hình dịch bệnh như trên, nhưng nhiều nơi người dân thiếu ý thức diệt lăng quăng, phòng chống dịch bệnh. Do vậy khả năng bùng phát các dịch bệnh nói trên rất dễ xảy ra và khó lường hậu quả. (Tr.N)
Quốc hội Mỹ ngày 8/12 thông qua một dự luật nhân quyền ‘bước ngoặt’ nhắm vào những cá nhân vi phạm nhân quyền và những giới chức tham nhũng trên toàn cầu.
Luật Magnitsky quy trách nhiệm nhân quyền toàn cầu do Thượng nghị sĩ John McCain và Ben Cardin giới thiệu tại Thượng viện được thông qua chưa tới một tuần sau khi dự luật tương tự do dân biểu Chris Smith và Jim McGovern ra mắt tại Hạ viện được chuẩn thuận với tỷ lệ áp đảo.
Giới hoạt động nhân quyền xem đây là một thành công lớn, một trợ lực quan trọng cho công cuộc cổ súy dân chủ-nhân quyền tại các nước lâu nay bị chỉ trích vi phạm nhân quyền như Việt Nam.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, một trong những nhà hoạt động trong 6 năm qua đã tích cực vận động cho dự luật này được thông qua Quốc hội Mỹ, chia sẻ với VOA Việt ngữ về nội dung và ảnh hưởng của dự luật trừng trị các cá nhân vi phạm nhân quyền trên thế giới đang chờ được Tổng thống ký ban hành, dự kiến trước cuối năm nay.
TS Nguyễn Đình Thắng: Luật này được thông qua ở Hạ lẫn Thượng viện với tỷ số quá bán 2/3, cho nên nếu bị Tổng thống phủ quyết, Quốc hội có thể phủ nhận phủ quyết đó rồi bỏ phiếu lại, cuối cùng cũng phải thông qua. Thứ hai, luật này kèm trong luật chi ngân sách quốc phòng trên 600 tỷ Mỹ. Cho nên, nếu phủ quyết luật này thì các chương trình quốc phòng sẽ bị đình trệ.
Thượng nghị sĩ John McCain.
VOA: Tầm quan trọng của luật này ra sao?
TS Nguyễn Đình Thắng: Rất quan trọng vì nó hoàn toàn là phương thức mới trong việc chế tài. Trước đây, việc chế tài gắn vào cả quốc gia, nên các nước, kể cả Hoa Kỳ, rất ngần ngại. Chế tài cả quốc gia khó khăn, ảnh hưởng nhiều chính sách khác như hợp tác quốc phòng hay mậu dịch..v..v.v. Ngoài ra, còn có quan ngại rằng chính người dân bị đàn áp ở quốc gia bị chế tài lại chịu ảnh hưởng nhiều hơn trong khi kẻ vi phạm lại phây phây. Bây giờ, luật chế tài này nhắm trực tiếp từng cá nhân các giới chức chính quyền vi phạm nhân quyền trầm trọng.
VOA: Những biện pháp chế tài thấy rõ nhất trong luật này?
TS Nguyễn Đình Thắng: Gồm hai điểm chính. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được bãi miễn lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự bãi miễn đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che dấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên. Vì sao? Vì trong rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, dấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, luật áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền trầm trọng. Chúng ta biết rằng tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam rất phổ biến. Thứ ba, những giới chức tham nhũng mà đi trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền trầm trọng.
VOA: Những kẻ vi phạm đó làm thế nào lọt vào danh sách chế tài?
TS Nguyễn Đình Thắng: Con đường thứ nhất, một số Ủy ban của Hạ và Thượng viện Hoa Kỳ có quyền đề cử danh sách lên Tổng thống. Tổng thống có 120 ngày để ra quyết định chế tài hay không. Nếu Tổng thống từ chối không chế tài thì phải giải thích cho Quốc hội biết lý do. Vai trò của xã hội dân sự trong vấn đề này rất quan trọng vì các tổ chức theo dõi nhân quyền trên thế giới cũng có quyền đóng góp ý kiến cho Quốc hội và cho hành pháp Mỹ. Con đường thứ hai, khâu phụ trách Lao động-Nhân quyền-Dân chủ trong Bộ Ngoại giao Mỹ cũng có quyền nộp danh sách lên Tòa Bạch Ốc đề nghị chế tài.
VOA: Mối quan hệ Việt-Mỹ lâu nay dựa trên nền tảng nhân quyền làm điều kiện tiên quyết. Luật này ra đời, quan hệ Việt-Mỹ có thể bị tác động thế nào?
TS Nguyễn Đình Thắng: Chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Ngay cả khi hành pháp Mỹ muốn che chắn bớt cho chính phủ Việt Nam vì những lợi ích khác ngoài nhân quyền thì cũng sẽ khó hơn. Khi Quốc hội Mỹ có hồ sơ rõ ràng rằng những giới chức này đã vi phạm nhân quyền trầm trọng theo đúng định nghĩa của luật thì rất khó để bên hành pháp có thể lờ đi.
VOA: Liệu luật này sẽ làm mối quan hệ Việt-Mỹ chùn lại hay là chất xúc tác để thăng tiến hơn?
TS Nguyễn Đình Thắng: Trên nguyên tắc, nó không ảnh hưởng mọi vấn đề đối tác về quốc phòng, mậu dịch, viện trợ…v…v..Thế nhưng, khi các giới chức lãnh đạo Việt Nam nằm trong danh sách chế tài này không qua được Mỹ để công vụ thì sẽ là một sự lúng túng ngoại giao. Luật này đang lan ra rất nhiều nước. Cùng ngày Quốc hội Mỹ thông qua, Quốc hội Estonia cũng thông qua và Tổng thống đã ban hành luật. Hiện cũng có đề nghị luật này ở Canada, Anh quốc, và sắp sửa được đưa ra ở Quốc hội Na-uy.
VOA: Với tình hình nhân quyền Việt Nam, luật này đóng vai trò thế nào?
TS Nguyễn Đình Thắng: Sẽ rất quan trọng nếu chúng ta làm đúng việc, đúng cách. Chẳng hạn trong thời gian qua, chúng tôi có cách thức ‘kết nghĩa’. Cứ mỗi cộng đồng trong nước bị đàn áp như Hòa Hảo, Cao Đài, Tin lành, hay Công giáo…v.v.., chúng tôi lại kèm một nhóm ‘kết nghĩa’ để kết nối, cập nhật thông tin với nhau, liên tục theo dõi. Nếu có một dấu hiệu nào bị đàn áp thì họ lập tức thu thập thông tin và chuyển cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ lập báo cáo nộp cho Liên hiệp quốc hay Bộ Ngoại giao Mỹ. Đó là trước đây. Bây giờ, với luật mới, chúng ta có thể dùng những thông tin đó để đề nghị chế tài những giới chức can dự hay chỉ thị đàn áp người dân. Thành ra, đây là biện pháp để bảo vệ trực tiếp cho người dân bằng sự răn đe rằng người vi phạm sẽ bị chế tài.
VOA: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi này.
Xe container nghi chở tiền dừng ở cổng sau Ngân hàng Nhà nước ở Sài Gòn
CTV Danlambao – Ít nhất 9 chiếc xe container nghi chở tiền mới in đã được vận chuyển vào Sài Gòn giữa lúc người dân cả nước vẫn còn chưa hết hoang mang về tin đồn đổi tiền.
Nguồn tin gửi đến Danlambao từ Sài Gòn cho biết, bắt đầu từ rạng sáng ngày 14/12/2016, người ta nhận thấy các hoạt động khá bất thường quanh khu vực trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chi nhánh Tp. HCM (số 17 Võ Văn Kiệt, P. Nguyễn Thái Bình, Q.1)
Từ sáng đến tối, ít nhất 9 chiếc xe container được thấy đã di chuyển vào cổng sau và bên hông Ngân hàng Nhà nước nằm trên đường Nguyễn Công Trứ và Pasteur.
Một nhân chứng có mặt tại hiện trường cho biết, toàn bộ khu vực đã bị phong toả bằng hàng rào nghiêm ngặt, xe cộ bị cấm lưu thông, trong khi bên trong công việc bốc dỡ diễn ra nhộn nhịp.
Những container này đều được bốc xuống đất bằng xe cẩu P&H, sau đó, nhân viên vận chuyển dùng tay để khiêng những bao tải được niêm phong kỹ lưỡng và mang vào bên trong ngân hàng.
Theo ghi nhận, việc bốc dỡ diễn ra suốt trong đêm 14/12 và kéo dài sang đến tận sáng ngày 15/12 vẫn chưa hoàn tất. Hiện không rõ đây là tiền mệnh giá cũ hay là tiền mệnh giá mới theo như tin đồn đổi tiền đang gây xôn xao dư luận gần đây.
Ít nhất 9 chiếc xe container chở tiền đã được trông thấy trong ngày 14/12/2016
Theo một thương gia hoạt động lâu năm trong lãnh vực vận tải, nhiều khả năng đây là đợt nhập kho tiền mới in của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên xảy ra đợt vận chuyển tiền với số lượng lớn và quy mô như vậy.
Điều này có thể lý giải về hiện tượng xuất hiện số lượng lớn tiền mới in trong thời gian gần đây, hầu hết người dân khi rút tiền từ ATM, hoặc lãnh lương từ ngân hàng đều nhận được những tờ tiền mệnh giá lớn vừa được in mới cáu, cùng số seri.
Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước vẫn thường hay phát hành tiền mới vào mỗi cuối năm, nhưng chưa bao giờ người ta thấy số lượng tiền mới lại nhiều như năm nay. Cho đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng Nhà nước chưa công bố số liệu về lượng tiền vừa mới được in thêm.
Có ý kiến cho rằng, nếu để xảy ra hiện tượng in tiền một cách vô tội vạ như trên thì chắc chắn sẽ khó tránh khỏi tình trạng siêu lạm phát vào năm 2017.
Một chiếc tàu của người Việt được cứu trên vùng biển Đông ngày 5 tháng 1 năm 2005. Ảnh minh họa.
AFP photo
Những cuộc trốn chạy trong thời bình
00:22/07:46
Hàng loạt các quan chức cấp cao của Việt Nam lợi dụng hình thức đi nước ngoài khám bệnh hoặc đi du học để rời khỏi Việt Nam ngay sau khi có quyết định truy tố trước pháp luật do những sai phạm trong quá trình làm việc. Sự việc này cùng với những phiên toà vừa diễn ra cũng ở Việt Nam để xét xử nhóm người vượt biên sang Úc và New Zealand nhưng bị chính phủ bắt giữ và trả về nói lên điều gì trong xã hội Việt Nam hiện tại?
Cuộc di dân thứ ba?
Lịch sử Việt Nam ghi dấu hai cuộc di tản được cho là vĩ đại nhất chưa từng có trong lịch sử thế giới: Cuộc tản cư 1954 kéo dài gần 3 tháng sau ngày ký Hiệp định Geneva chia cắt hai miền Nam, Bắc; và cuộc di tản diễn ra từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 kéo dài cho đến hơn mười năm sau đó.
Theo tôi, đó chỉ là điểm khởi đầu cho cuộc di dân thứ ba. Cuộc di dân này đang còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay và chưa có dấu hiệu chấm dứt.
– Vũ Cao Đàm
Bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm trên trang Bauxite Việt Nam vào ngày 22 tháng 4 năm 2015 cho rằng “cuộc di tản sau 1975 thường được nói đến sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ.” Và cũng chính tác giả này đã đưa ra nhận định: “Theo tôi, đó chỉ là điểm khởi đầu cho cuộc di dân thứ ba. Cuộc di dân này đang còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay và chưa có dấu hiệu chấm dứt.”
Những diễn biến trong nước trong năm nay có thể xem như là minh chứng cho nhận định trên của tác giả Vũ Cao Đàm.
Cuộc trốn chạy mưu cầu hạnh phúc
Toà án La Gi, tỉnh Bình Thuận vào tháng 5 năm 2016 đã xét xử vụ án 46 người, trong đó có cả trẻ em mà cháu nhỏ nhất là 4 tuổi, vào đầu tháng 7 năm 2015 đã dùng thuyền để vượt biên đến Australia nhằm tìm qui chế tỵ nạn. Thế nhưng tàu của họ bị hải quân Australia chặn bắt ngoài biển và sau đó bị đưa về Việt Nam. Cho dù thủ phủ Canberra có được cam kết từ Hà Nội sẽ không trả thù những người ra đi, thế nhưng cuối cùng toà án tỉnh Bình Thuận vẫn tuyên án tù bốn người trong số họ.
Bốn người bị kết tội tổ chức vượt biên tại phiên sơ thẩm, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu hôm 13/12/2016 Photo courtesy of plo.vn
Một phiên toà khác diễn ra vào ngày 13 tháng 12 vừa qua ở toà án tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tuyên án nhóm người dùng thuyền đưa người vượt biên đến New Zealand nhưng bị lực lượng chức năng Australia bắt và trả về Việt Nam vào tháng 6 năm 2016. Hai trong số bốn bị cáo với tội danh “vượt biên” này bị kết án tù giam và hai người còn lại hưởng án treo.
Luật sư Võ An Đôn, người nhận bào chữa miễn phí cho bị cáo của cả hai phiên toà cho biết lý do những người này phải chọn con đường mà cách đây hơn 40 năm, hàng ngàn người Việt Nam đã phải chọn, đó là họ mong muốn có việc làm và cuộc sống tốt hơn.
“Với tư cách là luật sư bào chữa cho những người vượt biên thì tôi cũng rất thông cảm cho hoàn cảnh của họ. Bởi vì người ta chỉ mong muốn điều tốt cho gia đình và bản thân của người ta. Mong muốn có việc làm, có thu nhập, con cái được học hành tốt hơn cho cuộc sống tốt hơn. nhưng hiện tại thì ở xã hội Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu đó nên người ta tìm cách vượt biên sang các nước khác có điều kiện tốt hơn. Đó là một nhu cầu của con người thôi.”
Cái nhu cầu được mưu cầu hạnh phúc tưởng chừng như rất cơ bản này, hơn 40 năm trước, hàng ngàn người Việt Nam phải đi tìm bằng cách ít nhất 1 lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, “khấn nguyện mười phương tám hướng” (Nguyễn Đình Toàn), xin được đổi lấy bằng chính mạng sống của họ.
Bà Trần Thị Thanh Loan, bị cáo trong phiên toà tỉnh Bình Thuận tháng 5 vừa qua bày tỏ nguyên nhân mà bà cùng chồng và 4 người con trong đó đứa nhỏ nhất mới 4 tuổi, phải tìm cách vượt biển là vì khó khăn trong cuộc sống:
Lúc đó tụi em hoàn cảnh khó khăn, nhà cửa không có. Trước đó làm lên cái nhà thì bị bên cưỡng chế người ta đập phá hết rồi, rồi làm ăn cũng khó khăn nữa.
– Bà Trần Thị Thanh Loan
“Lúc đó tụi em hoàn cảnh khó khăn, nhà cửa không có. Trước đó làm lên cái nhà thì bị bên cưỡng chế người ta đập phá hết rồi, rồi làm ăn cũng khó khăn nữa. Em thấy vậy thì em đi lúc đó cũng không suy nghĩ gì nữa.”
Bà Trần Thị Lụa, cũng là bị cáo trong phiên toà đó cho biết:
“Ở đây khổ quá thì mới đi. Làm ở đây khổ quá không đủ để nuôi con, sống không có đủ cho nên muốn qua làm có đồng tiền, đời sống con cái khác hẳn ở Việt Nam.”
Những cuộc vượt biên với mục đích nhằm tìm đến cái nhu cầu cơ bản của con người ấy đều thất bại. Tất cả những người vì đời sống tốt đẹp hơn cho thế hệ con cháu đời sau đều trở thành bị cáo của những phiên toà diễn ra nơi chính mảnh đất họ dứt áo ra đi vì không còn hy vọng tìm thấy hạnh phúc.
Ở cuộc di dân thứ 3 họ phải chịu những bản án tù giam.
Cuộc tháo chạy sau khi bị cáo buộc tội
Hoà vào dòng người vượt biên chạy trốn khỏi chế độ là một cuộc tháo chạy khác từ những quan chức từng cai trị và gián tiếp xua đuổi họ khỏi đất nước Việt Nam.
Đó là cuộc tháo chạy của Trịnh Xuân Thanh, nguyên phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang, nguyên Chủ tịch hội đồng quảng trị Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam; củaVũ Đình Duy, nguyên Tổng giám đốc công ty Cổ phần Hoá dầu và Xơ sợi dầu khí; của Lê Chung Dũng, nguyên Phó Tổng Giám đốc công ty điện lực dầu khí Việt Nam. Đây là những quan chức cấp cao từng nắm giữ quyền và trách nhiệm đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tập đoàn dầu khí Việt Nam, nơi đã có hai cán bộ bỏ trốn khi bị cáo buộc tội tham nhũng. Photo courtesy of pvn.vn
Tại phiên chất vấn quốc hội ngày 16 tháng 11 vừa qua, đại biểu Ngô Văn Minh đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Nội vụ về vấn đề của Trịnh Xuân Thanh, bị cáo buộc làm trái các nguyên tắc gây hậu quả nặng nề, “Đề nghị cho biết có bao nhiêu cán bộ luân chuyển theo đường ‘tiểu ngạch’ như Trịnh Xuân Thanh?”
Sự việc của Trịnh Xuân Thanh là diễn biến được Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, người từng ngồi tù ở Việt Nam hơn 20 năm, từ Washington D.C cho là “mở đường” cho những cuộc chạy trốn bằng hình thức ra nước ngoài chữa bệnh hoặc du học hoặc…mất tích.
Ông cho chúng tôi biết, việc bỏ chạy của cả quan chức lẫn người dân trong thời đại này là báo động một chế độ không thể tồn tại lâu dài được. Nói về những cuộc “di dân” trong thế kỷ 20 này, ông nhận xét có một điểm chung:
Cái đất nước đã đến cái giai đoạn mà cả những người cầm quyền lẫn người dân đã không còn có thể yên ổn ở trong nước được.
– Giáo sư Đoàn Viết Hoạt
“Nó nói lên thực trạng của đất nước sau hơn nửa thế kỷ nằm dưới sự cai trị của chế độ cộng sản. Đó là đất nước đã vào tình trạng mà người dân không tìm thấy tự do và hạnh phúc ngay trên đất nước của mình, họ chỉ có thể tìm thấy tự do và hạnh phúc ở ngoài đất nước Việt Nam. Đó là tình trạng bi thảm và tình trạng đó không thể nào tiếp tục tồn tại được.”
Không chỉ riêng người dân ở mọi thành phần, mà cả những diễn biến đang xảy ra trong bộ máy nhà nước Việt Nam cho thấy ngay cả những người quan chức trong ban lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản vẫn không cảm thấy yên.
“Vấn đề là cơ chế đó đã tạo ra sự rạn nứt và sự rạn nứt đó, để được an toàn và tự do thì họ không còn có thể ở trong nước được nữa. điều đó không xảy ra cách đây 30 năm hay 20 năm đối với cán bộ và Đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản.
Cái đất nước đã đến cái giai đoạn mà cả những người cầm quyền lẫn người dân đã không còn có thể yên ổn ở trong nước được. Vì thế tôi nghĩ là nó có tính chất tương đối giống nhau là vậy.”
Sự khác biệt
Cùng mang hình thức giống nhau là trốn chạy khỏi đất nước, thế nhưng tính chất của hai hình thức này hoàn toàn khác nhau.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận định:
“Có khác nhau. Một bên là do tham nhũng hối lộ, một bên là do vì thiếu sự tự do hạnh phúc.”
Quan chức tháo chạy khỏi đất nước vì lý do bị cáo buộc tội tham nhũng hối lộ. Người dân trốn chạy khỏi đất nước vì không tìm thấy tự do hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp.
Người Việt ra đi, bị bắt, bị giam hãm trở lại từ nơi phát xuất. Riêng nhóm người đang được chính quyền Việt Nam cho là tội phạm bỏ chạy khỏi nước rồi phải trả lời ra sao khi có người hỏi họ về lý do khiến phải rời bỏ quê cha đất tổ?
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và bốn Phó: Uông Chu Lưu, Đỗ Bá Tỵ, Tòng Thị Phóng, Phùng Quốc Hiển trong buổi lễ khai mạc kỳ họp mới của Quốc hội tại Hà Nội vào ngày 20/10/2016.
AFP photo
Khủng hoảng chính trị tới ngưỡng báo động?
00:20/06:46
Trong khi việc kỷ luật nguyên Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng còn lúng túng trong Đảng, cũng như Quốc hội vẫn chưa tìm ra được hướng giải quyết hợp lý, lại xảy ra chuyện bỏ trốn của các cán bộ cao cấp có biểu hiện tham nhũng.
Cùng lúc, Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ lại bổ nhiệm chức Phó vụ trưởng Vụ kinh tế cho một thanh niên 26 tuổi không một ngày nào làm việc trong guồng máy hành chính, việc này cho thấy sự lỏng lẻo mà dư luận gọi là tha hóa ngay tại trung ương.
Đây có phải là dấu hiệu của khủng hoảng chính trị đã vượt ngưỡng báo động? Mặc Lâm phỏng vấn ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương để tìm hiểu thêm sự vận hành trong hệ thống về vấn đề nhân sự.
Hàng loạt sai phạm
Mặc Lâm: Thưa ông Đảng Cộng sản Việt Nam đang phải đối phó với hàng loạt chuyện bê bối trong hàng ngũ cán bộ cao cấp, đặc biệt là các cá nhân vi phạm đã bỏ trốn ra nước ngoài, rồi mới đây lại xảy ra chuyện bổ nhiệm sai nguyên tắc cho vị trí Vụ phó kinh tế trong Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ. Là người sinh hoạt lâu năm trong Đảng ông có nhận xét gì vể vụ bê bối này?
Ông Nguyễn Khắc Mai: Tất cả những việc vừa xảy ra như các vụ bổ nhiệm từ Trịnh Xuân Thanh cho tới Phùng Quang Hải rồi bây giờ là anh Vũ Minh Hoàng vào Ban công tác Tây Nam bộ. . . . nó phản ảnh một trạng thái tất nhiên của chế độ vì ngay việc bổ nhiêm lãnh đạo đất nước của Trung ương Đảng, rồi Tổng bí thư, hay Bộ chính trị nó cũng không có quy trình gì tử tế đâu.
Làm gì có những biện pháp khoa học, văn minh, dân chủ để tuyển chọn người thủ lĩnh đâu? Tuyển tướng cốt chọn người thao lược, chớ kể con ông cháu cha. Trước hết phải chọn người tài, người thao lược thì hiện nay trong đội ngũ lãnh đạo quốc gia chả thấy ông nào có tính cách thao lược cả, từ ông Trọng trở đi không thấy sự thao lược, thế thì chóp bu đã vậy thì bên dưới nhí nhố là chuyện bình thường thôi.
Trong đảng, tổ chức đại hội không có phương sách chọn một người thao lược. Họ chọn lựa theo lối ăn cánh, nhìn xem người ấy có ăn cánh với mình hay không thì mới cơ cấu.
– Ông Nguyễn Khắc Mai
Thí dụ như trong đảng, tổ chức đại hội không có phương sách chọn một người thao lược. Họ chọn lựa theo lối ăn cánh, nhìn xem người ấy có ăn cánh với mình hay không thì mới cơ cấu. Tư cách như thế từ bao nhiêu đại hội tới nay nó dẫn đến tình trạng người ta lợi dụng cái kiểu ấy để người ta bố trí những người phe cánh, con ông cháu cha rồi thông tự của mình, đấy là chuyện tất yếu của một hệ thống đã mang tính chất siêu phong kiến, nó tiếp nhận phong kiến và nó làm băng hoại thêm cho phong kiến, đấy là chuyện tất yếu mà nó phải xảy ra.
Mặc Lâm: Nhưng hình như Đảng cũng thấy sự nguy hiểm gần kề nên đã mạnh dạn kỷ luật nhiều đảng viên cao cấp liên quan. Theo ông thì đây có phải là giải pháp mạnh mẽ và đưa ra kịp vào lúc này hay không?
Ông Nguyễn Khắc Mai: Đấy là cái hạ sách. Xử lý một vài anh cán bộ tổ chức, Bí thư Tỉnh ủy một vài anh trách nhiệm vụ việc ấy thì đấy là giải pháp bệnh nặng mà bôi dầu xoa bóp thì làm thế nào cải tạo được? Hết keo này đến keo khác hết vụ này đến vụ khác nó sẽ tiếp tục diễn ra như vậy và họ ngang nhiên khẳng định rằng họ làm như vậy là vì cán bộ vì dân vì nước! Họ ngang nhiên nói như vậy.
Triết lý chuyên chính vô sản
Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng (phải) và Chủ tịch nước Trần Đại Quang (trái) tại Hà Nội vào ngày 20 tháng 10 năm 2016. AFP photo
Mặc Lâm: Trong các lần chúng tôi có dịp tiếp xúc, nhiều Đảng viên kỳ cựu cho rằng hiện nay Đảng cộng sản Việt Nam vẫn âm thầm tiếp tục tư duy và hành động theo mô hình của Xô viết cũ là chuyên chính vô sản, ông có cho điều này là đúng không?
Ông Nguyễn Khắc Mai: Hiện nay tuy người ta không dám nói “chuyên chính vô sản” công khai nhưng trong lòng họ vẫn cho rằng cái chính quyền này, thể chế chính trị này là “chuyên chính vô sản”. Chuyên chính vô sản nghĩa là gì? Nghĩa là một triết lý như Lê Nin khẳng định: Nó bất chấp luật pháp. Nó không cần luật pháp. Nó vượt qua luật pháp. Đấy là triết lý chuyên chính vô sản của Lê Nin.
Vậy mà anh còn giữ lại cái này thì vô phương! Không cấp này nó vượt qua luật pháp thì cấp khác. Ngay cái tư cách của những người lãnh đạo mà họ nói rằng họ là đại diện cho quốc gia, đại diện cho nhà nước, chức trách của họ là thế thì luật pháp nào quy định cái này? Chả có luật pháp nào quy định cả. Họ làm việc theo lối bất chấp luật pháp vậy thì cấp dưới nó ngu hơn nó đần hơn, tham hơn, lộng quyền hơn, nó sẵn sàng chà đạp những quy định của luật pháp.
Nó bất chấp luật pháp. Nó không cần luật pháp. Nó vượt qua luật pháp. Đấy là triết lý chuyên chính vô sản của Lê Nin.
– Ông Nguyễn Khắc Mai
Muốn giải quyết tận gốc phải xem xét lại một cách hệ thống toàn bộ các vấn đề của thể chế chính trị. Rõ ràng phải xây dựng một chế độ pháp quyền thật sự của dân, vì dân và do dân. Hiện nay họ nói của dân, vì dân và do dân nhưng bắt đầu công việc thì gạt dân ra. Từ bầu cử cho đến luật pháp cũng như chính sách. . . cho nên những câu nói đầu miệng như thế chả giải quyết được gì cả.
Mặc Lâm: Sau Hội nghị Trung ương 4 khóa 12 lần này ông Tổng Bí thư nói nhiều đến việc tự diễn biến trong nội bộ đảng, ông có nghĩ là từ nhận thức và báo động này Đảng sẽ có thay đổi hay không?
Ông Nguyễn Khắc Mai: Hội nghị Trung Ương 4 khóa 11 thất bại, bây giờ là Trung ương 4 khóa 12 thì tôi thấy với tình hình này cũng không thể thành công được. Mà đây không phải là ý kiến của một mình tôi mà là ý kiến, ý nghĩ của một số khá đông kể cả những anh em trong Trung ương Đảng khi họ nói chuyện riêng với chúng tôi thì họ cũng bày tỏ thái độ như thế.
Đây là một vấn đề phải dũng cảm lắm. Gạt bỏ phe nhóm gạt bỏ ý thức hệ. Cũng phải gạt bỏ mô hình Xô viết đi. Hiện nay lãnh đạo của chúng ta không có đủ năng lực, vừa phải có một cái quyền, vừa phải có cái năng lực để lựa chọn giải pháp văn minh nhất, văn hóa nhất, tiến bộ nhất, dân chủ nhất để áp dụng. Đấy là cái bi kịch của dân tộc hiện nay.
Thực phẩm dơ bẩn, chứa nhiều chất độc là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung thư ở Việt Nam. (Hình: báo VietNamNet)
HÀ NỘI (NV) – Số người chết và mắc mới căn bệnh ung thư là do nhiều nguyên nhân, trong đó thực phẩm chưa an toàn dẫn đầu cho việc gây ra bệnh ung thư tại Việt Nam.
Báo điện tử VietNamNet dẫn nhận xét từ ông Nguyễn Bá Ðức, nguyên giám đốc bệnh viện K trung ương cho biết như trên tại hội thảo “Tình hình ung thư Việt Nam, phòng và phát hiện sớm một số bệnh ung thư thường gặp,” tổ chức chiều 13 tháng 12 tại Hà Nội.
Theo ông Ðức, Việt Nam có 80,000 người chết và 150,000 người mới mắc ung thư mỗi năm là do bốn nguyên nhân chính: 35% do thực phẩm chưa an toàn, 30% do hút thuốc lá, 5%-10% do di truyền và còn lại do một số nguyên nhân khác. Dự báo đến năm 2020 bệnh ung thư sẽ tăng lên 200,000 ca. Số tiền bảo hiểm y tế Việt Nam phải chi trả cho điều trị căn bệnh này cũng lên tới hàng trăm triệu Mỹ kim mỗi năm.
Tại hội thảo, bà Lê Thị Hương, viện trưởng Viện Ðào Tạo Y Học Dự Phòng và Y Tế Công Cộng cho biết, bình thường hệ thống thải độc cơ thể mới chỉ hoạt động khoảng 40% công suất, trong khi độc tố trong các loại thực phẩm hàng ngày mà người dân Việt Nam tiếp xúc thì ngày càng nhiều, đó là chưa kể đến các nguồn nguồn nước và môi trường. (Tr.N)