Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Làm sao nhận biết Ý Chúa?

Đăng bởi lúc 1:07 Sáng 16/08/13

chuacuuthe.com

VRNs (16.08.2013) – Sài Gòn – Cuộc sống đầy những chuyện chúng ta phải quyết định. Chúa có buồn khi tôi bê trễ công việc? Chúng ta có những khái niệm về sự thật, nhưng làm sao chúng ta biết chắc rằng các ý tưởng đó xuất phát từ Thiên Chúa? Đôi khi rất khó phân biệt ý Chúa hay ý mình.

Nếu sự thôi thúc của chúng ta thực sự do kẻ thù của linh hồn chứ không từ Thiên Chúa thì sao? Làm sao chúng ta “bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cr 10:5) khi chúng ta không chắc các ý tưởng đó xuất phát từ đâu? Thiên Chúa nói với mỗi người bằng nhiều cách. Ngài biết chúng ta sẽ đáp lại thế nào và Ngài sẽ dùng bất kỳ cách nào cần thiết để đạt tới chúng ta.

Có 3 cách Thiên Chúa thường giao tiếp với chúng ta: Qua lời cầu nguyện, qua Kinh thánh, và qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cũng vậy, Thiên Chúa có thể dùng một người khuyên nhủ (Cn 12:15). Nếu Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, không gì có thể ngăn cản Ngài. Ngài có thể dùng một cách, mọi cách, hoặc kết hợp các cách để chúng ta nhận biết Ngài, nhưng có một điều tương tự: Trách nhiệm của chúng ta là LẮNG NGHE và VÂNG LỜI.

CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, là cuộc nói chuyện hai chiều, chúng ta nói thì Chúa nghe và chúng ta im lặng khi Chúa nói – tức là lắng nghe Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta “phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1:6). Nếu không có lòng tin, chúng ta sẽ “không nhận được cái gì của Chúa” (Gc 1:7). Chúng ta phải kiên trì cầu nguyện (Mt 13:16-17).

Hãy nói chuyện với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và chăm chú lắng nghe cách trả lời của Ngài. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng đôi khi Ngài không trả lời theo ý chúng ta muốn. Ngài biết những gì chúng ta cần vào bất kỳ thời điểm nào, và Ngài sẽ cho chúng ta biết vào lúc tốt nhất.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA

Đọc Kinh thánh là cách tốt nhất để nhận biết Chúa và cách xử lý của Ngài qua lịch sử cuộc đời. Kinh thánh được Chúa Thánh Thần linh hứng: “Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2 Tm 3:16-17). Càng quen biết với cách hoạt động của Thiên Chúa, ý muốn của Ngài, và những điều Ngài đã nói trong quá khứ, chúng ta càng có thể nhận biết điều Ngài đang nói với chúng ta trong hiện tại. Khi chúng ta nói với Ngài qua việc cầu nguyện, Ngài sẽ thường xuyên nói với chúng ta qua Lời Chúa (Kinh thánh). Khi đọc Lời Chúa thì chúng ta phải lắng nghe.

LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN

Thánh Thần là Thiên Chúa – Thần linh có trí tuệ, cảm xúc và ý muốn. Ngài luôn ở bên chúng ta, không thể trốn khỏi Ngài (Tv 139:7-8). Mục đích của Ngài là can thiệp giúp chúng ta (Rm 8:26-27) và quyết định để làm lợi cho Giáo hội (1 Cr 12:7-11). Nếu chúng ta cầu xin thì Ngài sẽ ban cho Đấng Bảo Trợ (Ga 14:16).

Khi chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa hướng dẫn, chúng ta cần duy trì khôn ngoan (Cn 4:7), và phải “cân nhắc các thần khí” (1 Ga 4:1). Thế gian đầy sự ồn ào và sự xao lãng, và trí óc chúng ta cũng vậy. Sự sống trên trái đất là cuộc chiến đấu tâm linh. Kẻ thù luôn tìm cách làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, vì thế mà phải cảnh giác: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chúng ta phải cảnh giác để biết rõ điều chúng ta nghe chứ không là cảm xúc, tức là điều thực sự từ Thiên Chúa.

Hãy nhớ rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết con đường đúng đắn mà đi. Ngài không giấu ý Ngài đối với những ai tìm kiếm Ngài. Ngôn sứ Isaia nói: “Khi ngươi lưỡng lự không biết quẹo phải hay trái, tai ngươi sẽ được nghe một tiếng nói từ phía sau: “Đây là đường, cứ đi theo đó!” (Is 30:21).

Đây là vài điều cần thiết khi chúng ta muốn biết có phải Ý Chúa hay không: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1 Cr 14:33), và : “Hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16).

Ngoài việc cầu nguyện, tìm hiểu Lời Chúa và lắng nghe Chúa Thánh Thần, có thể bạn cần lời khuyên của một người bạn, của gia đình, của người cố vấn hoặc linh hướng: “Thiếu bàn bạc, chương trình đổ vỡ; nhiều cố vấn, ắt sẽ thành công” (Cn 15:22).

Thiên Chúa không muốn chúng ta thất bại. Chúng ta càng lắng nghe Chua, chúng ta càng có thể phân biệt tiếng Chúa với tiếng của thế gian. Chúa Giêsu đã nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh” (Ga 10:4). Ngài xác định: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10:8). Chúng ta càng nhận biết Chúa Chiên Lành, chúng ta càng ít chú ý tiếng nói sai trái.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ GotQuestions.org)

ĐỨC MẸ TIÊN BÁO THỜI CUỐI CÙNG

ĐỨC MẸ TIÊN BÁO THỜI CUỐI CÙNG

LOURDES POLICARPIO

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA 574

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung ? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó có còn thích hợp với ngày nay chăng ?

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita ( Nhật ) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ Tỳ Thánh Thể ( Institute of the Handmaids of the Eucharist ). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của Nữ Tu Agnes Sasagawa ( người Nhật ). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại Học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên tivi và phát thanh khắp nước Nhật ( Ảnh chụp tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita, Nhật Bản ).

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn Quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh Viện St. Paul ở Seoul và được các Giám Mục Hàn Quốc gởi về Rôma.

SỰ TRỪNG PHẠT GHÊ GỚM HƠN TRẬN HỒNG THỦY

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua Nữ Tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn trận Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của Cộng Sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam ( Hà Lan ), Đức Mẹ các Quốc Gia ( The Lady of all Nations ) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như trận Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua ? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn ?

TẠP HÔN

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nên tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn ?” Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có các nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công Giáo chiếm đa số !

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung Tâm Luật Sản Sinh ( Center for Reproductive Law and Policy ) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung Quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay !

Viện Alan Guttmacher ( AGI – Alan Guttmacher Institute ) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16.11.2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung Quốc.

PHÁ THAI Ở NƯỚC NGA

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì Chủ Nghĩa Cộng Sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ Cộng Sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều ( cao hơn ở Hoa Kỳ ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28.8.2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

MA QUỶ XÂM NHẬP GIÁO HỘI

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo Hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo Hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các Giáo Sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các Linh Mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” ( culture of secrecy ) mà các viên chức Giáo Hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau ( Báo Time, số ra ngày 1.4.2002 ). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý ( moral aberration ) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các Linh Mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 Linh Mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

TRƯỞNG THÀNH KITÔ GIÁO

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp và nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật tivi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy Đức Tin. U sầu và thất vọng ư ? KHÔNG ! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số Linh Mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số Linh Mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các Giáo Dân trong Giáo Hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các Linh Mục và Tu Sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng việc giết hàng loạt những người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9 năm 2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12 – 22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” ( creeping catastrophe ).

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có Đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính Thống Giáo, Hồi Giáo Nga, và Công Giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng ! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” ( The Passion of the Christ ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách Giáo Lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công Giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước !

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

LOURDES POLICARPIO

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com

ĐƯỜNG VỀ

ĐƯỜNG VỀ

TRẦM THIÊN THU

Trích EPHATA số 574

Mười lăm tháng tám mừng vui

Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang

Niềm hy vọng thật rõ ràng

Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời

Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về Trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “Mông Triệu” ( * ). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về Trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.

Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên Trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” ( Kh 11, 19a, 12, 1 – 6 ).

Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” ( Kh 12, 10 ). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.

Ngay cả Hồi Giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran ( Kinh Thánh của Hồi Giáo ). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ Vương Hòa Bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mai Khôi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,… và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt Nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ La Mã Bến Tre…

Tác giả Thánh Vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ôphia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” ( Tv 45, 10 – 12 ). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.

Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.

Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói:

“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” ( 1Cr 15, 19 ). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” ( 1Cr 15, 20 – 22 ).

Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” ( 1Cr 15, 23 – 24 ). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” ( 1Cr 15, 25 – 26 ).

Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét ( x. Ep 2:16 ) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.

Thánh sử Luca kể…

Hồi ấy, cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà ông anh Dacaria và chào hỏi bà chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” ( Lc 1, 42 – 45 ).

Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là Mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của vị Tiền Hô Gioan. Thấy cô em họ Maria đến, chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, cô Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen ( Magnificat, Lc 1, 46 – 55 ), y như một bài thơ vậy:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;

Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,

Danh Người thật chí thánh chí tôn !

Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,

Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,

Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,

Vì Người nhớ lại lòng thương xót

Dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.

Kinh Thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với bà chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm bà chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.

Trong Mầu Nhiệm Mai Khôi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên Trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.

Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên Trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

( * ) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ ( chúa ) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” ( triệu tập, hiệu triệu ). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” ( yêu mến ) nên được Chủ ( Chúa ) gọi ( về trời ), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Tác giả:Trầm Thiên Thu

LOURDES POLICARPIO

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó còn thích hợp với ngày nay?

Tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita (Nhật) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ tỳ Thánh Thể (Institute of the Handmaids of the Eucharist). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của nữ tu Agnes Sasagawa (người Nhật). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên ti-vi và phát thanh khắp nước Nhật.

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh viện St. Paul ở Seoul và được các giám mục Hàn quốc gởi về Rôma.

Sự trừng phạt ghê gớm hơn Đại Hồng Thủy

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua nữ tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của cộng sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam (Hà Lan), Đức Mẹ các Quốc gia (the Lady of all Nations) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như Đại Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn?

Tạp hôn

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nnê tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn?”. Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có những nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công giáo chiếm đa số!

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung tâm Luật sản sinh (Center for Reproductive Law and Policy) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay!

Viện Alan Guttmacher (AGI – Alan Guttmacher Institute) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16-11-2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung quốc.

Phá thai ở nước Nga

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì chủ nghĩa cộng sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ cộng sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều (cao hơn ở Hoa Kỳ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28-8-2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

Ma quỷ xâm nhập Giáo hội

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các giáo sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các linh mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” (culture of secrecy) mà các viên chức Giáo hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau (Báo Time, số ra ngày 1-4-2002). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý (moral aberration) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các linh mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 linh mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

Trưởng thành Kitô giáo

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp vài nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật ti-vi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy đức tin. U sầu và thất vọng ư? KHÔNG! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số linh mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số linh mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các giáo dân trong Giáo hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các linh mục và tu sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng sự giết hàng loạt nhữn người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9-2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12-22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến Tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” (creeping catastrophe). Với quân đội thì đó là phòng thủ yếu ớt!

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính thống giáo, Hồi giáo Nga, và Công giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” (The Passion of the Christ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách giáo lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước!

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

Tại sao Chúa Giêsu chưa tái lâm?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:15 Sáng 13/07/13

VRNs (13.07.2013) – Sài Gòn – Đã 2.000 năm qua kể từ khi Chúa Giêsu về trời mà Ngài vẫn chưa trở lại. Nhiều người thắc mắc tại sao Ngài “trễ hẹn” lâu như vậy. Trong cuốn “Why I Am Not a Christian” (Tại Sao Tôi Không Là Kitô hữu – New York: Touchstone, 1957), tác giả vô thần Bertrand Russell đã kết án Chúa Giêsu không giữ lời hứa “trở lại” (*). Có lẽ nào Russell nói đúng, và Chúa Giêsu không giữ lời hứa?

Tông đồ Phêrô tiên báo có những người nhạo báng như Russell về việc “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Trước tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. Họ nói: “Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành!” (2 Pr 3:4).

Có thể Russell và những người nhạo báng khác đáng lẽ phải xét kỹ lời của Thánh Phêrô, cũng như điều Chúa Giêsu đã nói về thời gian Ngài trở lại, và các sự kiện xảy ra trước. Chúa Giêsu nói rằng, dù không ai biết chính xác thời gian Ngài trở lại, nhưng có những “gợi ý” cho chúng ta biết thời cuối cùng đã gần, và phải luôn tỉnh thức (x. Mt 25:13).

Ngoài ra, các Tiên tri thời Cựu ước và các môn đệ của Chúa Giêsu cũng cho biết về cảnh tượng thế giới như thế nào trước giờ trở lại của Chúa Giêsu Kitô. Hãy nhìn vào vài “gợi ý” này trong trình thuật Mt 24:3-14 để biết thời gian Chúa Giêsu tái lâm:

– Động đất.

– Nạn đói.

– Chiến tranh.

– Dịch tễ.

– Bắt bớ các tín hữu.

– Phúc Âm được loan truyền khắp thế giới.

Động đất, nạn đói, dịch tễ, và chiến tranh đã và đang xảy ra xuyên suốt lịch sử nhân loại, nhưng Chúa Giêsu nói rằng sẽ có mức gia tăng đáng kể của các sự kiện này trước khi Ngài trở lại (x. Mt 24:3-51). Việc bách hại các tín hữu bắt đầu từ các Tông đồ và càng ngày càng gia tăng tới nay. Ngày nay các Kitô hữu đã và đang bị bách hại vì Đức Tin nhiều hơn trước đây. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng những cuộc bách hại như vậy sẽ tiếp diễn cho tới khi Ngài trở lại, khi Tin Mừng được loan truyền khắp thế giới.

Theo Chúa Giêsu, khi các sự kiện này xảy ra trên khắp thế giới, chúng ta hãy “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”, vì Ngài sẽ mau trở lại cứu độ chúng ta (x. Lc 21:28; Tt 2:13). Mặc dù các học giả Kinh Thánh không đồng ý về mọi chi tiết về việc Chúa Giêsu tái lâm, nhiều người vẫn tin rằng thời gian mà Chúa Giêsu nói tới đang đến rất gần. Chúng ta phải sẵn sàng mong chờ niềm hy vọng được chúc phúc và vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang của Đấng Cứu Độ Giêsu Kitô.

Tại sao Chúa Giêsu chậm trễ thực hiện lời hứa?

Thánh Phêrô giải thích lý do “trễ hẹn” của Chúa Giêsu: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm” (2 Pr 3:8-10). Quả thật, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24:14).

Thánh Phêrô đã viết cho các tín hữu chịu thử thách và bách hại. Họ muốn Chúa Giêsu đến sớm hơn. Tuy nhiên, Thánh Phêrô bảo họ rằng ưu tiên số một của Thiên Chúa là loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô đến tận cùng thế giới, đến với càng nhiều người càng tốt.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ GodResources.org)

CẢM ƠN TRỜI

Cảm ơn

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 8:32 Sáng 24/06/13

VRNs (24.06.2013)– Sài Gòn-

CẢM ƠN TRỜI

Cảm ơn Trời đã để tôi sống nghèo thê thảm

Nhờ đó tôi mới biết cảm thương người nghèo nàn

Cảm ơn Trời đã để tôi bị hàm oan

Nhờ đó tôi mới cảm thông người bị xét xử

Cảm ơn Trời đã để tôi bị người ta ghét bỏ

Nhờ đó tôi mới thấy cảm thương những người cô đơn

Cảm ơn Trời đã để tôi bình thường nhất trong những người bình thường

Nhờ đó tôi mới cảm nhận thế nào là mơ ước

Cảm ơn Trời đã để tôi bị thua thiệt

Nhờ đó tôi mới biết khao khát vươn lên

Cảm ơn Trời đã để tôi không hiểu thấu những điều cao siêu hơn

Nhờ đó tôi mới không sa vào hố kiêu ngạo

Cảm ơn Trời đã để tôi biết phân biệt thực, ảo

Nhờ đó tôi mới cảm nhận cuộc sống vô thường

Cảm ơn Trời đã để tôi tha phương

Nhờ đó tôi mới có thể hòa đồng với người xa, kẻ lạ

Cảm ơn Trời đã để tôi mồ côi cả Cha lẫn Mẹ

Nhờ đó tôi mới biết trân quý tình cảm gia đình

Cảm ơn Trời đã để tôi “lạc loài” giữa cuộc đời loanh quanh

Nhờ đó tôi mới cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức

Cảm ơn Trời đã để tôi không giống ai hết

Nhờ đó tôi mới hiểu đừng bắt chước, cứ là chính mình

Cảm ơn Trời đã để tôi không may mắn như bạn bè, thua chị, kém anh

Nhờ đó tôi mới cảm nhận cảm giác của người bị hại

Cảm ơn Trời đã để tôi có những lần thất bại

Nhờ đó tôi mới cảm nhận chút hạnh phúc khi thành công

Tất cả là bất đẳng thức, bất thường mà bình thường

Tôi cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-tôi bằng nét-cọ-số-phận

Trông lên thấy mình chẳng bằng ai, vô duyên và lận đận

Nhưng khi nhìn xuống, thấy còn bao người khổ đau

Họ không thấy niềm vui ở đâu

Không thể có – dù họ vẫn khao khát sống thanh thản!

TRẦM THIÊN THU

Thơ: Tâm sự đời con

Thơ: Tâm sự đời con

Đăng bởi lúc 6:01 Sáng 23/06/13

VRNs (23.06.2013) – Sài Gòn- TÂM SỰ ĐỜI CON

Tâm hồn con tan nát

Tìm đến Chúa tựa nương

Trái tim con luân lạc

Giữa cuộc đời đau thương

Bao trở trăn suy nghĩ

Ngày đêm chật âu lo

Những ước mơ dang dở

Vẫn không ngừng giằng co

Giữa dòng đời xuôi ngược

Con như kẻ mộng du

Khoảng trầm tư đơn độc

Lạc lõng và ngu ngơ

Tâm hồn con tơi tả

Cúi xin Chúa xót thương

Và đại lượng tha thứ

Những hoài bão ngổn ngang

Khuya 20-5-2013

PHÙ SA HỒNG ÂN

Sinh ra khóc để chào đời

Mọi người hạnh phúc cười tươi đón chào

Tình thương cha mẹ ngọt ngào

Vòng tay âu yếm sớm chiều chở che

Lớn lên suy nghĩ bộn bề

Vui, buồn, sướng, khổ – Sớm khuya không ngừng

Đường đời đầy những gai chông

Buồn nhiều, vui ít, ngổn ngang lòng người

Vẫn chưa mãn nguyện nụ cười

Tuổi già vội đến đứng ngoài cửa kia

Sông đời bồi đắp phù sa

Là Hồng Ân Chúa bao la tháng ngày

Dù cho gian khổ vơi đầy

Vẫn luôn cảm tạ Tình Ngài xót thương

TRẦM THIÊN THU

Cách sống của cha tôi

Cách sống của cha tôi

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

Người ta có thể CHỌN nhiều thứ cho cuộc đời mình, trừ hai thứ: Cha mẹ và nơi sinh. Cha mẹ nào cũng có điều đặ biệt riêng với con cái, nếu không thì làm gì có cha mẹ. Cha mẹ mà tuyệt vời như thế, huống chi Thiên Chúa. Chúa nhật thứ ba trong Tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ. Bạn còn cha? Bạn thật hạnh phúc. Bạn không còn cha? Thật bất hạnh: “Còn cha gót đỏ như son, Đến khi cha chết gót con lấm bùn” (Ca dao). Vậy đó, nhưng khi cha còn sống, con có nhiều cách nhìn về người cha của mình… Sự hối hận thường đồng nghĩa với sự muộn màng!

Tôi vẫn thắc mắc rằng không biết có ai phá kỷ lục viết thư của cha tôi hay không.

Khi còn là sinh viên, tôi rất nhớ nhà. Suốt ba năm ròng rã, cha tôi cứ cách một ngày lại viết cho tôi một lá thư. Viết là chuyện quá dễ đối với cha tôi, thế nhưng cứ cách ngày lại viết thư suốt ba năm thì quả là “tâm phục, khẩu phục”.

Thư của cha tôi luôn nâng đỡ tôi, khích lệ tôi, và an ủi tôi. Thư luôn mở đầu bằng câu: “Shuet, con gái yêu dấu nhất của cha”. Còn hạnh phúc nào hơn với một sinh viên xa nhà như tôi chứ? Cha tôi luôn viết trên loại giấy có in hoa hồng lớn như thể hiện tình thương của người dành cho tôi.

Cha tôi tên là Kwok-Chi Tam, một con người tự lập, giỏi lịch sử Trung quốc và văn chương Tây phương, nhưng cũng rất giỏi văn chương Trung quốc. Người thường làm anh Paul và tôi “quê độ” bằng cách trích ra những bài thơ mà chúng tôi quên tiệt. Đã đi dạy nhiều năm, cha tôi quen nhiều sinh viên. Các sinh viên đều nói cha tôi khả dĩ bật một mẩu phấn tào thành âm thanh thú vị.

Ban ngày cha tôi đi dạy, ban đêm viết kịch bản phim. Tôi biết cha tôi mệt mỏi nhưng không bao giờ than phiền. Căn hộ chật hẹp, cha mẹ ngủ trong buồng, còn anh em tôi ngủ trên sàn nhà. Vào những dịp sinh nhật, anh em tôi được ăn thịt gà, và thực sự cảm thấy hạnh phúc bên cha mẹ. Được học hết tú tài, ai học được nữa thì cha mẹ vẫn cho đi học, và luôn động viên học chứ không hề trách mắng. Chúng tôi hiểu giá trị của sự giáo dục và kiến thức, nhất là mang ý nghĩa từ những hy sinh của cha mẹ.

Khi cuộc sống tạm ổn, cha mẹ đỡ vất vả, anh em tôi đã có nghề nghiệp, lại là lúc cha tôi bị ung thư tuyến tụy bất khả trị. Năm 1981, gia đình có ba người sinh nhật vào tháng Năm, nhưng không tổ chức vì buồn khi thấy cha tôi bệnh nặng như thế. Và rồi định mệnh cũng cướp mất cha tôi vào năm sau.

Đám tang cha tôi được tổ chức rất lớn. Rất nhiều người đến phúng điếu, đường phố chật người đưa tiễn và đứng chào tỏ lòng thương tiếc khi linh cữu cha tôi đi qua. Tôi hãnh diện vì uy tín của cha tôi đối với mọi người ở mọi lứa tuổi.

Một năm sau, tôi sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Laura. Khi Laura bốn tuổi, tôi sinh con trai đặt tên là Paul. Khi chúng đủ hiểu biết, tôi luôn kể cho các con biết về ông ngoại của chúng, luôn yêu thương và quan tâm vợ con dù ông rất vất vả.

Đó là bài học cha tôi đã dạy tôi bằng chính cuộc sống mẫu mực của người: Tận tụy với gia đình, cần cù lao động, và kiến thức sâu rộng. Cha tôi nghiêm nghị mà không khắt khe, ít nói mà vẫn dễ gần gũi, thương yêu mà không nhu nhược, khắt khe với chính mình mà lại nhân hậu với người khác. Một ngày nào đó, khi các con khôn lớn, tôi sẽ cho chúng đọc những lá thư mà cha tôi đã viết cho tôi ngày xưa. Đó là gia bảo của người cha kính yêu đã để lại cho tôi. Quả là gia sản vô giá!

Tôi quyết tâm sống xứng đáng là con của cha tôi, và tôi sẽ giáo dục cac con cũng noi gương sống tốt của ông ngoại: Nói ít, làm nhiều.

MO-SHUET TAM

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

SỐNG THỬ VÀ BẤT ỔN

TRẦM THIÊN THU

Trích Ephata số 565

Ngày xưa người ta quan niệm “nam nữ thọ thọ bất thân”, quan niệm sống đầy tính luân thường đạo lý và nhân bản, nhưng ngày nay người ta “chỉnh sửa” quan niệm đó thành… “nam nữ cọ cọ sát thân”. Cách nghĩ quá “thoáng” như vậy trở thành phóng túng và tội lỗi !

Người ta còn cho rằng cứ sống thử trước, nếu hợp thì… sống tiếp, không hợp thì chia tay. Quá dễ dãi ! Và quan niệm mà người ta cho là tân kỳ và thoáng như vậy lại chỉ là quan niệm sai lầm mà thôi. Sự bất ổn gia đình tiếp tục tăng ở Hoa Kỳ mặc dù giảm tỷ lệ ly hôn đối với các gia đình. Các nhà nghiên cứu nói rằng mức tăng về việc sống thử ( sống chung chạ như vợ chồng mà không kết hôn ) là một phần của vấn nạn gia đình.

Ngày nay, tỷ lệ ly hôn cao. Nhiều người muốn cứu vãn hôn nhân của mình đang trên bờ vực thẳm ly hôn, người ta đã phải đôn đáo tìm nhà tư vấn. Vì thế, các trung tâm tư vấn ( tình yêu, hôn nhân, gia đình, và các vấn đề khác ) lần lượt xuất hiện nhiều, ngay cả báo chí cũng thường có mục tư vấn, và các đài phát thanh hoặc truyền hình cũng có các chương trình tư vấn.

Giáo sư W. Bradford Wilcox, thuộc Đại Học Virginia và Trung Tâm Hôn Nhân và Gia Đình của Viện Giá Trị Hoa Kỳ ( Institute for American Values’ Center for Marriage and Families ) tại New York, nhận xét: “Tỷ lệ ly hôn đối với các cặp vợ chồng đã trở lại mức mà chúng tôi thấy trước cuộc cách mạng ly hôn hồi thập niên 1970. Tuy nhiên, tính bất ổn gia đình lại đang gia tăng đối với con cái người Mỹ. Điều này có vẻ chiếm một phần vì nhiều cặp vợ chồng có con cái sống thử, và điều này rất bất ổn”.

Ngày nay, hơn 40% thanh thiếu niên Hoa Kỳ đều sống thử. Họ muốn có kinh nghiệm chia tay của cha mẹ hơn so với những đứa con của các cặp vợ chồng kết hôn. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ chia tay cao hơn so với những đứa con của các cặp sống thử, lên tới 170%. Việt Nam cũng đang có nguy cơ tương tự, đạo đức luân lý suy thoái nên sự “dễ dãi” về tình dục cũng dần dần “thoáng” hơn !

Gíao sư Bradford Wilcox nói rằng con cái của các cha mẹ sống thử sẽ bị rắc rối nhiều hơn về các vấn đề xã hội và tình cảm ( lạm dụng ma túy, trầm cảm, bỏ học sớm, yêu đương nhăng nhít,… ) so với những đứa con có cha mẹ kết hôn hẳn hoi. Nghiên cứu này được thực hiện với 250 bài viết về hôn nhân & gia đình ở Hoa Kỳ và khắp thế giới. Nghiên cứu này cũng phân tích các dữ liệu của số liệu khảo sát Xã Hội Tổng Quát và Khảo Sát Thu Nhập và Tham Gia Chương Trình ( General Social Survey and the Survey of Income and Program Participation ).

Bản tường trình cho biết thêm: “Dù chúng ta thành công hay thất bại trong việc xây dựng văn hóa hôn nhân lành mạnh thì rõ ràng cũng là mối quan tâm chung hợp pháp và là vấn đề tối quan trọng nếu chúng ta muốn đảo ngược tình trạng cách ly khỏi nhịp phát triển xã hội của các thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội của chúng ta: giới lao động, dân nghèo, dân tộc thiểu số, và con cái”.

Con cái của các cặp sống thử có thể bị lạm dụng về thể lý, tình dục hoặc tình cảm gấp 3 lần so với con cái của các cặp vợ chồng vẫn nguyên vẹn hôn nhân. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện tính bất ổn gia đình cũng góp phần phan biệt giai cấp, phe cánh. Con cái của các cha mẹ có học thức thấy cuộc sống gia đình họ ổn định, còn con cái của các cha mẹ ít học lại thấy cuộc sống gia đình họ càng ngày càng bất ổn. Những người sống dư dả tận hưởng gia đình “vững mạnh và ổn định”, còn những người khác đối mặt với gia đình “càng bất ổn, càng bất hạnh và càng mất tác dụng”.

Ly hôn liên quan con cái trở lại mức trước khi luật hôn nhân thay đổi để dễ ly hôn hơn. Khoảng 23% con cái có cha mẹ kết hôn đầu thập niên 1960 đều biết cha mẹ ly hôn khi chúng được 10 tuổi. Cũng gần tương đương tỷ lệ đó đối với con cái có cha mẹ kết hôn năm 1997.

Các tác giả của bản tường trình kết luận rằng hôn nhân nguyên vẹn giữa cha mẹ vẫn là “tiêu chuẩn vàng” đối với đời sống gia đình tại Hoa Kỳ. Ngày 16.8.2011, Viện Giá Trị Hoa Kỳ cho biết: “Con cái có thể phát triển tốt hơn về kinh tế, xã hội và thể chất nếu chúng sống trong các gia đình theo chuẩn này”. Hôn nhân là “điều tốt quan yếu của cộng đồng” với nhiều lợi ích về kinh tế, sức khỏe, giáo dục và an toàn, giúp ích hơn cho xã hội và chính phủ phục vụ công ích.

Lợi ích của hôn nhân cũng lan rộng tới người nghèo, giới lao động và dân tộc thiểu số, mặc dù có việc suy yếu hôn nhân trong 4 thập niên qua. Viện Giá trị Hoa Kỳ kết luận: “Việc sống thử gia tăng là mối đe dọa tiềm ẩn đối với chất lượng và tính ổn định của đời sống con cái trong các gia đình ngày nay”.

Tóm lại, sống thử hoàn toàn bất lợi – cả về tâm lý lẫn sinh lý, kéo theo hệ lụy làm suy giảm sức khỏe, điều mà khoa học cũng đã chứng minh. Xưa nay, xã hội vẫn đề cao việc “nam nữ thọ thọ bất thân”, chỉ bắt đầu “chuyện ấy” trong đêm động phòng, dành cho nhau những giây phút thăng hoa cao thượng nhất, và nhiều tôn giáo cũng khuyến cáo chuyện sống thử hoặc “ăn cơm trước kẻng”.

TRẦM THIÊN THU

Ngày Truyền thông thế giới

Ngày Truyền thông thế giới

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:05 Sáng 30/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (30.04.2013) – CatholicIreland.net – Hàng năm, trước lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội mừng thành tựu của ngành truyền thông và tập trung vào cách mà truyền thông có thể sử dụng tốt nhất truyền bá Tin Mừng.

Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 năm nay là Chúa Nhật lễ Thăng Thiên, 12-5-2013, với chủ đề đã được ĐGH Bênêđictô đưa ra là “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”.

Đó là gì?

Ngày Truyền thông Thế giới được Chân phước GH Phaolô VI thành lập năm 1967 nhằm khuyến khích chúng ta phản ánh các cơ hội và thách đố mà các phương tiện hiện đại về truyền thông xã hội (báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và internet) cho phép Giáo hội rao truyền sứ điệp Tin Mừng.

Việc kỷ niệm này có từ đầu Công đồng Vatican II, vì nhận thấy phải liên hệ với thế giới hiện đại. Thực tế này diễn tả trong lời mở đầu của Hiến chế Gaudium et Spes (1), có câu: “Niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của con người trong thời đại chúng ta, nhất là của những người nghèo hoặc đau khổ bằng cách nào đó, cũng chính là niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và đau khổ của những người theo Chúa Kitô”.

Tại sao cử hành Ngày Truyền Thông hằng năm?

Khi thành lập Ngày Truyền Thông vào thứ Bảy, 7-5-1967, chưa đầy 2 năm sau Công đồng Vatican II, Chân phước GH Phaolô VI biết rằng Giáo Hội thực sự liên quan mật thiết với nhân loại và lịch sử nhân loại, muốn chú ý tới các phương tiện truyền thông và và sức mạnh của nó đối với việc thay đổi văn hóa.

Các phương tiện truyền thông có những cơ hội phong phú hóa đời sống con người bằng các giá trị về sự thật, vẻ đẹp và sự thiện, nhưng cũng có thể có những hệ quả tiêu cực khi phát tán những điều kém giá trị và gây áp lực cho trí tuệ và lương tâm bằng vô số các điều mâu thuẫn.

Thế giới truyền thông: Tòa án Tối cao đầu tiên (first Areopagus) của thế giới hiện đại

Chân phước GH Gioan Phaolô II (1990) viết trong Tông thư Redemptoris Missio (2), số 37: “Thế giới truyền thông là Tòa án Tối cao đầu tiên của thời hiện đại, thống nhất nhân loại và hướng vào những gì được coi là ‘ngôi làng toàn cầu’. Các phương tiện truyền thông đòi hỏi tầm quan trọng như vậy để ủng hộ các phương tiện chính về thông tin và giáo dục, hướng dẫn và gợi hứng cho nhiều người trong cách cư xử của cá nhân, gia đình và xã hội. Đặc biệt là giới trẻ đang lớn lên trong một thế giới đầy thông tin trên các phương tiện truyền thông”.

Càng nhận biết thế giới là ngôi nhà chung và sức mạnh của truyền thông là thị trường tự do về các triết lý và các giá trị, Giáo hội đã tìm cách đưa vào đó các sứ điệp và dùng truyền thông để loan truyền các giá trị có lợi cho sự phát triển của con người và phúc lợi vĩnh hằng của con người.

Hai tài liệu quan trọng này của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội – Communio et Progressio (3) và Aetatis Novae (4) – đã phân tích về thế giới truyền thông và đưa ra lời khuyên để Giáo hội hành động. Tòa Thánh đã đặt tiêu đề cập nhật hóa cách sử dụng của hàng loạt phương tiện truyền thông. Trong dịp thăm Đài phát thanh Vatican, ĐGH Bênêđictô XVI đã giới thiệu chiếc iPod có âm nhạc của nhà soạn nhạc Mozart mà ngài rất quan tâm.

Năm 2002, Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội đã công bố hai tài liệu về Internet. Tài liệu thứ nhất phân tích các cơ hội và các thách đố mà Internet đưa ra để truyền bá Tin Mừng với tựa đề “Giáo Hội và Internet”. Tài liệu thứ nhì đặt ra quy luật đạo đức (ethical code) hướng dẫn cách sử dụng với tựa đề “Đạo đức trong Internet”.

Sứ điệp của ĐGH Bênêđictô XVI về Ngày Truyền Thông Thế giới năm 2012 đã tập trung vào trẻ em và các phương tiện truyền thông. Ngài thúc dục các bậc cha mẹ định hình cho con cái biết quan tâm việc dùng các phương tiện truyền thông, vì truyền thông luôn đề cao nhân phẩm. Ngài yêu cầu truyền thông đừng sản xuất những thứ kém luân lý, thúc đẩy bạo lực hoặc sự tầm thường của tình dục.

CatholicIreland.net

Từ năm 2002, j2.CatholicIreland.net đã cung cấp mạng lưới thu thập những hoạt động tốt nhất của Công giáo Ai-len với nối kết quốc tế. Mạng lưới này cung cấp nguồn trực tuyến về cầu nguyện, suy tư và hành động với các mục Tâm linh, Đức tin và Công lý, Giới trẻ, Văn hóa và Nghệ thuật. Mạng lưới này cũng cung cấp tin tức hằng ngày tại www.cinews.ie và xây dựng các website cho các giáo xứ, các giáo phận và các dòng tu tại địa chỉ www.GetOnline.ie.

Trách nhiệm mới

Các dạng truyền thông mới đã mở ra cho Giáo hội không chỉ có thể “thỏa mãn khát khao niềm tin”, mà còn giao tiếp trong Giáo hội bằng cách “xây dựng tính đồng nhất tôn giáo… qua sự tương tác của internet”. Trang CatholicIreland.net hy vọng tiếp tục vươn tới những người Công giáo truyền thống sử dụng các dịch vụ và tìm ra cách thức mới để vươn tới giới trẻ.

Theo giám đốc Tony Bolger, truyền hình trực tiếp đã hoàn tất với các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế tại Tu viện Clonard, Belfast, trên một trang khác là www.ChurchServices.tv.

Tháng Sáu có lễ phong thánh cho Chân phước Charles Mount Argus, đây là dịp đưa ra chương trình truyền hình thứ hai từ Tu viện Khổ Nạn (Passionist Monastery) ở Mount Argus tại Dublin. Truyền hình trực tiếp sẽ được truyền tới các nhà thờ nào muốn gia nhập mạng lưới này.

Inter Mirifica (Trong Số Những Điều Kỳ Diệu) là Sắc lệnh của Công đồng Vatican II về Truyền thông Xã hội, được bầu chọn của 1.960 to 164 giám mục đã nhóm họp, và được Chân phước GH Phaolô VI (1897-1978) công bố ngày 4-12-1963.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicIreland.net)

(1) Hiến chế “Vui mừng Và Hy vọng” là hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II. Đây là văn kiện dài nhất của Công đồng, chia làm hai phần chính: 1. Giáo huấn của Giáo hội về con người, thế giới họ sống và mối quan hệ với thế giới đó; 2. Các mặt đa dạng của cuộc sống ngày nay và xã hội con người, và đặc biệt các vấn đề luân lý khẩn thiết thời nay. Sự xử lý của vai trò Giáo hội trong thề giới ngày nay là hiện thực, công nhận rằng “thuyết vô thần phải được kể là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong thời đại này” (số 19). Cách xử lý cũng là thực tiễn, khi nhận định rằng cùng với mọi tiến bộ kỹ thuật của phương tiện truyền thông đang họat động hiện nay, “cuộc đối thoại huynh đệ giữa con người được hoàn hảo không phải ở trong những tiến bộ ấy, nhưng trong cộng đoàn nhân loại bằng cách sâu xa hơn” (số 23), trong đó cá nhân cùng chia sẻ trong tinh thần. Việc bàn về hôn nhân và gia đình Kitô hữu được mở rộng nhất trong lịch sử công đồng. Lập trường mạnh về chiến tranh và hòa bình phản ảnh ý nghĩ của Giáo hội trong thời đại hạt nhân (ngày 7-12-1965).

(2) Tông thư “Sứ vụ Đấng Cứu Thế” của ĐGH Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7-12-1990.

(3) Huấn thị Mục vụ “Hiệp thông và Tiến bộ”. Đây là Huấn thị của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, nhằm áp dụng Sắc Lệnh về các Phương tiện Truyền thông Xã hội (Inter Mirifica) của Công đồng Vatican II. Huấn thị này bàn thảo theo thứ tự: các nguyên tắc tín lý; đóng góp của truyền thông xã hội vào sự tiến bộ của con người; huấn luyện cho người tiếp thu và người truyền thông; cơ hội và nghĩa vụ của cả hai bên; hợp tác giữa công dân và chính quyền dân sự; hợp tác giữa mọi tín hữu và người thiện chí; sự dấn thân của người công giáo trong phương tiện truyền thông; công luận và truyền thông trong đời sống Giáo hội; họat động của người công giáo trong lĩnh vực viết văn, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình, kịch nghệ, thiết bị, nhân sự, và tổ chức; nhu cầu cấp bách bởi vì các lực lượng khác ngoài Công giáo hoặc Tin lành có nguy cơ thống trị phương tiện truyền thông. Văn kiện này là một phần của giáo huấn hậu Công đồng về phương tiện truyền thông. Văn kiện bổ túc Tự sắc “Với Nhiều Hoa Trái” (In Fructibus Multis) của ĐGH Phaolô VI ban hành ngày 25-5-1971.

(4) Huấn thị Mục vụ “Bình minh Tân kỷ nguyên” của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, ban hành ngày 22-1-1992.

Tương lai gần của Giáo Hội Công giáo

Tương lai gần của Giáo Hội Công giáo

Đăng bởi lúc 2:34 Sáng 29/04/13

TRẦM THIÊN THU

VRNs (29.04.2013) – IntegratedCatholicLife – Một cuộc đối thoại về tương lai không xa…

Chris hỏi người cha khi ra khỏi khuôn viên nhà thờ:

– Ai mặc đồ đen ngồi phía sau cha Miguel trong Thánh lễ vậy hả ba?

Anh thấy vợ có vẻ lo lắng và gật đầu nhanh trước khi ông trả lời cho cậu con trai 13 tuổi:

– Chris nè, con có thể nghe mẹ và ba thảo luận vấn đề này. Bộ Tôn Giáo đã tuyên bố rằng các tôn giáo phải có một nhân viên tham dự khi có bất kỳ nghi thức thờ phượng của tôn giáo nào đó. Họ không được nói điều gì xúc phạm tới tôn giáo khác hoặc đối nghịch với luật hôn nhân, hạn chế việc thờ phượng và thảo luận về Thiên Chúa nơi công cộng. Cha mẹ bảo vệ con khỏi ảnh hưởng các tin tức xấu, nhưng… cha mẹ nghĩ rằng đã đến lúc con cần biết sự thật.

– Ba ơi, con không hiểu. Làm sao người ta nghĩ đức tin Công giáo phá bỏ pháp luật chứ? Chúng ta là những người luôn bảo vệ sự sống, nâng đỡ tính thánh thiện của hôn nhân và phục vụ người nghèo. Đó không là những điều tốt sao?

Điều này khó lắm. Khó ngay cả khi nói ra. Nhưng trong mấy năm qua, có những đợt tấn công nhắm vào Giáo hội Công giáo từ phía chính phủ và các nhóm chống tôn giáo bắt đầu leo thang và càng ngày càng tệ hơn. Các tôn giáo khác cũng chịu đau khổ trong thời buổi rất khó khăn này.

Chris cũng cảm thấy bị “sốc” trong thời đại ngày nay, nhưng điều này không xảy ra thoáng qua. Vài năm trước, chính phủ đã đưa ra luật y tế mới ở Hoa Kỳ, kể cả cái mà người ta gọi là “ủy thác”. Điều này bắt những nhà tuyển dụng Công giáo, kể cả các bệnh viện Công giáo, các tổ chức Công giáo phi lợi nhuận và các doanh nghiệp do người Công giáo điều hành để đưa ra phương cách ngừa thai và phá thai cho nhân viên, ngược với các giáo huấn tôn giáo. Có cuộc đấu tranh quan trọng để ngăn chặn điều này xảy ra, nhưng Tòa án Tối cao đã đưa ra luật mới này.

Trong những năm sau đó, chính phủ bắt đầu theo dõi tôn giáo và bắt chối bỏ đức tin. Điều quan trọng kế tiếp chống lại các hội từ thiện của các tôn giáo nhằm đánh thuế và chính phủ trở thành nguồn hỗ trợ từ thiện ở trong nước. Họ thường ủng hộ các nhóm giúp đỡ chính trị. Các tôn giáo bị bách hại, thúc đẩy ngừa thai và phá thai, kể cả các vấn đề khác, nhưng Giáo hội vẫn kiên cường tái xác định giá trị hôn nhân.

– Đó là lý do để chúng ta có Bộ Tôn Giáo sao? Rồi điều gì sẽ xảy ra nữa?

– Không ai biết, nhưng Bộ Tôn Giáo càng ngày càng xóa bỏ dấu vết về tự do tôn giáo ở đất nước chúng ta. Có vẻ như điều xảy ra từ vài năm trước đang thành hiện thực: Chính phủ muốn thay thế Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Các giám mục và linh mục đang phản đối, nhiều người đã bị bắt. Đức giáo hoàng đã kêu gọi cầu nguyện và tích cực hành động từ những người Công giáo, nhưng e rằng chúng ta đã đi quá xa theo vết xe cũ.

Người mẹ cầm tay con trai Chris, nhìn vào mắt con trai và hỏi:

– Chris, cha mẹ yêu con và Chúa Giêsu yêu con. Con biết vậy chứ? Chúng ta sẽ gặp khó khăn đang chờ chúng ta ở phía trước, chúng ta phải kiên cường mà vững tin vào Đức Kitô và Giáo hội. Chính phủ sẽ vui nếu mọi người rời bỏ nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ phượng, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ làm vậy. Con hiểu không?

– Dạ, con hiểu. Con chỉ thắc mắc là tại sao chúng ta lại ở vào tình trạng này.

– Chris nè, cha mẹ thường nói chuyện về những điều tương tự như vậy. Chúng ta có thể nhìn lại mấy chục năm qua và thấy rõ ở đất nước này. Tuy chậm nhưng chắc chắn gia đình truyền thống sẽ không tan rã vì hôn nhân đã được tái xác định. Dễ dàng ngừa thai, phá thai và chủ nghĩa duy vật không được phục hồi đã ảnh hưởng nhiều tới thế hệ của chúng ta. Người ta càng ngày càng ích kỷ và tham lam vì chúng ta đã tạo nên những thần tượng giả tạo trên thế giới này chứ không chú trọng những điều tốt được hứa ban ở trên trời. Hậu quả là chúng ta càng ngày càng xa Chúa và kỳ thị tôn giáo. Sự lãnh đạm và vô cảm đã khiến chúng ta im lặng trước sự bành trướng của sự chuyên chế và bất công khi mà đáng lẽ chúng ta phải nói thẳng nói thật và hành động để ngăn chặn.

Câu trả lời không dễ dàng và chúng ta phải cầu xin ơn can đảm, sức mạnh và khiêm nhường. Chúng ta vẫn bám chặt vào Đức Kitô và Giáo hội dù gặp khó khăn và đau khổ. Chúng ta phải rạch ròi: Chọn Nước Trời hoặc Hỏa Ngục. Hỏa Ngục là đường dễ đi, chỉ cần quay lưng lại phía Đức Kitô. Tức là chúng ta để cho chính phủ làm những gì họ muốn, còn chúng ta không trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta có thể chọn Nước Trời. Chúng ta có thể yêu mến và phụng sự Thiên Chúa, ghi nhớ sự hy sinh cao cả mà Ngài đã thực hiện trên Thánh Giá vì chúng ta. Người ta có thể chọn điều tốt hoặc xấu, cuộc đời chúng ta cũng sẽ thay đổi, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ tìm được Nước Trời nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chris nhìn cha mẹ rồi hạ giọng:

– Chúng ta có thể cầu nguyện ngay bây giờ để xin ơn sức mạnh và can đảm không? Chúng ta cần hỗ trợ nếu chúng ta gặp khó khăn và giúp đỡ Giáo Hội sinh tồn. Con không biết làm gì khác ngoài việc cầu nguyện.

Cha của Chris mau mắn cho xe vô khu mua sắm, dừng lại và lấy tràng hạt ra. Vợ và con trai ông cũng lấy tràng hạt ra và họ cùng làm dấu Thánh Giá: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”.

RANDY HAIN

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IntegratedCatholicLife.org)

Y đức và trách nhiệm

Y đức và trách nhiệm

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:02 Sáng 8/04/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (08.04.2013) – Reader’s Digest – Ngày 7 tháng 4 là ngày Sức Khỏe Thế Giới. Homer định nghĩa: “Sức khỏe là một tinh thần trong sạch trong một thân thể tráng kiện”. Người Việt nói: “Sức khỏe là vàng”. Còn với thầy thuốc thì phải có y đức. Vậy bác sĩ phải làm gì khi bị bắt buộc sát nhân? Một sự giằng co mãnh liệt, một cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác. Phải can đảm và dứt khoát mới có thể vượt qua được chính mình. Đây là câu chuyện có thật đã xảy ra với một bác sĩ trẻ, y như trong phim vậy. Hãy chung tay xây dựng văn minh tình thương, văn hóa sự sống, vì ai cũng có quyền cơ bản nhất là QUYỀN SỐNG!

Ngày 24-12-1989, một bệnh viện ở miền Nam Trung quốc rất nhộn nhịp từ sáng sớm. BS Wong, 24 tuổi, gặp một tình huống rất khó xử. Đêm đó là ca trực của bác sĩ trẻ này, trách nhiệm mới và đầy hãi hùng. Anh rất mệt vì đã nhịn đói suốt 8 giờ qua. Đó là một ca sinh ba.

Đến 1 giờ sáng anh mới được ngả lưng, nhưng anh không tài nào chợp mắt được. Anh nghĩ đến 3 trẻ sơ sinh, và nghĩ đến cha mẹ mình. Anh đã chọn nghề bác sĩ, một nghề mà ở Trung quốc chỉ được trả lương bằng 1/3 số lương của người phu quét đường. Anh thường nói: “Công việc cao quý nhất là cứu sống người khác”.

BS Wong được nhiều người quý mến vì anh sống khiêm nhường, ăn mặc giản dị, đến cái túi xách đã hư khóa kéo mà anh vẫn xách theo đi làm hằng ngày. Anh quan niệm: “Dụng cụ không làm nên bác sĩ, chính kiến thức và lòng trắc ẩn mới làm nên bác sĩ”.

Khi cảm thấy buồn ngủ, BS Wong chợt nhớ hôm đó là lễ Giáng Sinh. Như hàng triệu người Trung quốc khác, song thân anh cũng là tín đồ Cơ Đốc Giáo. Gia đình anh đã từng mừng lễ Giáng Sinh, trang trí cây Nô-en, và hát bài “Silent Night” (Đêm Thánh Vô Cùng) của Nhạc sĩ Franz Xaver Gruber.

Tiếng gõ cửa làm anh thức giấc. Một nữ hộ sinh nói với anh: “Mau lên, chúng tôi cần anh làm việc này”. Anh bước nhanh theo cô hộ sinh 20 tuổi kia. Anh nghe thấy tiếng khóc chào đời của đứa trẻ. Khi anh tới phòng sinh, một phụ nữ nhễ nhại mồ hôi đang quằn quại trên giường, miệng la to: “Đừng, đừng mà!”.

Cô hộ sinh hút chất iodine vào ống tiêm. Cô cho BS Wong biết rằng phụ nữ này sợ phá thai. Chị đã có một con và đang mang thai con thứ hai được 8 tháng, nhưng luật pháp Trung quốc cấm sinh con thứ hai. Ủy ban kế hoạch hóa gia đình đã bắt chị vào bệnh viện để phá thai. Nhưng đứa bé vẫn sống sau khi trục thai ra. Cô hộ sinh nói: “Tôi yêu cầu người ta chôn sống đứa bé nhưng trời mưa quá, không đem nó đi chôn được”. Gần bệnh viện có một ngọn đồi nhỏ để chôn các thai nhi như vậy.

Là người trực, BS Wong có trách nhiệm không được để cho ai biết chuyện. Nghĩa là tiêm 20 ml iodine hoặc rượu vào đầu đứa bé, và nó sẽ chết ngay trong vòng vài phút. BS Wong cảm thấy “chết đứng” khi nhận ống tiêm từ tay cô hộ sinh. Anh không do dự về ca phá thai đầu tiên của 3 tháng trước khi bắt đầu hành nghề bác sĩ, nhưng lần này khác hẳn. Từ khi anh làm ở bệnh viện này, anh luôn để cho các bác sĩ khác làm nhiệm vụ thay mình. Lần này, người mẹ của đứa bé nhìn anh bằng ánh mắt van lơn. Chị biết mũi kim oan nghiệt kia mang ý nghĩa gì. Chị khóc: “Xin hãy thương hại cháu!”.

Trước vẻ phản đối của người mẹ, anh đi vào phòng tắm. Bên cạnh thùng rác là thùng nhựa màu đen có hàng chữ trên nắp: “Các trẻ em chết”. Tiếng cục cựa và tiếng khóc vang lên. Anh quỳ xuống xin cô hộ sinh mở nắp thùng ra. Anh tưởng tượng ra những đứa trẻ sơ sinh đang ở lằn ranh giữa sự sống và sự chết. Trong thùng có một bé trai nặng khoảng 2,5 kg đang nắm chặt hai tay và đạp chân. Môi nó tím bầm vì thiếu ô-xy. Anh bế nó lên, sờ vào thóp (soft spot) thấy vẫn ấm. Tim anh đập mạnh và nghĩ: “Đây là sự sống, là một con người”.

Tiếng người mẹ vẫn gào lên: “Bác sĩ ơi! Dừng tay lại!”. Cô hộ sinh dúi ống tiêm vào tay anh. Không dưng sao anh thấy nó trĩu nặng. Anh bị giằng co giữa cái thiện và cái ác. Ngay lúc đó, đứa bé đạp chân làm cho ống tiêm đâm vào người nó. Anh liền rút kim ra. Anh nghĩ: “Hôm nay là lễ Giáng Sinh, tôi không thể làm điều này!”. Anh đưa tay sờ lên môi đứa bé. Nó liền bú đầu ngón tay anh. Nó đói. Nó muốn sống. Anh như chết lặng và làm rơi ống tiêm xuống nền nhà và vỡ tan tành!

Anh bảo cô hộ sinh đưa đứa bé tới phòng săn sóc đặc biệt. Anh xin được trực tiếp săn sóc đứa bé. Anh tin rằng một bác sĩ sản khoa ngoài 50 tuổi sẽ không nỡ làm hại một đứa bé vô tội. Anh nói với bà: “Có một bé trai còn sống sau khi đã bị chích thuốc. Xin bà cho nó vào phòng săn sóc đặc biệt”. Bà cương quyết: “Tuyệt đối không được! Đây là đứa con thứ hai rồi!”. Anh năn nỉ: “Nhưng nó vẫn khỏe mạnh. Bà nhìn nó mà xem”. Bà vẫn nhất định không chịu: “Tại sao anh yêu cầu tôi làm như thế? Anh biết chính sách mà!”. Giọng bà đanh lại khiến anh sợ, nói “xin lỗi” rồi bế đứa bé đi.

Tại buổi họp ban cán sự bệnh viện, bác sĩ trưởng thường nhắc nhở tầm quan trọng của chính sách hạn chế sinh sản, và cho biết đã có người phải vào tù vì để cho đứa bé sống. Đó là một đàn ông mập mạp, ít nói, hơn 50 tuổi, chuyên đi buôn bán trẻ em. Mỗi lần được trả 30 tệ. Trung bình mỗi ngày được 4 đứa. Như vậy số tiền ông ta kiếm được gấp đôi lương tháng của một bác sĩ. Anh hỏi một đồng nghiệp: “Sao nhiều vậy?”. Người bạn trả lời: “Vì không ai dám làm như ông kia”. Nghĩa là sau khi trục thai mà đứa trẻ còn sống thì ông ta sẽ chôn sống nó, dù sao thì cũng buộc phải tuân thủ chính sách hạn chế sinh sản của nhà nước.

Vài tuần sau, một cô hộ sinh đưa đến một thai nhi bị trục ra mà vẫn còn sống, rồi bỏ nó bên vệ đường. Nghe tiếng khóc, viên cảnh sát phát hiện và xin được can thiệp. Sau đó liền có lệnh: “Không được đưa thai nhi còn sống ra khỏi bệnh viện, phải tiêm thuốc cho chết”.

Trở lại phòng sinh, BS Wong gặp một đàn ông với khuôn mặt bị nhiều vết roi da. Đàn ông này vội nắm lấy tay anh và nói: “Bác sĩ ơi! Đây là đứa con trai mà chúng tôi mong đợi. Xin đừng giết nó!”. Anh tới phòng tắm. Đứa bé vẫn nằm trên sàn nhà. Anh hỏi cô hộ sinh: “Tại sao cô không làm theo hướng dẫn của tôi?”. Cô hỏi: “Nhưng ai sẽ đưa đứa bé này đi?”. Cô có ý nói đứa bé không có quyền sống. Cô ngạc nhiên khi thấy BS Wong đưa đứa bé đi và đặt nó vào chiếc nôi.

Dưới ánh đèn tia cực tím, với sự hỗ trợ của các ống dẫn dưỡng khí chụp vào mũi và miệng, chân tay đứa bé hồng hào dần. Anh còn cẩn thận quấn cho nó một lớp chăn mềm.

Cô hộ sinh chuẩn bị một ống tiêm khác – lần này là rượu – và đặt trên chiếc khay bên cạnh chiếc nôi. Người mẹ lại khóc lóc, van lơn. BS Wong đặt tay lên vai chị và trấn an: “Chị bình tĩnh. Tôi không muốn hại con của chị đâu. Tôi đang tìm cách cứu nó”. Sản phụ nhẹ giọng: “Tôi sẽ mang ơn bác sĩ suốt đời”.

Cô hộ sinh hỏi bản báo cáo, BS Wong nói: “Đừng viết gì hết!”. Cô hộ sinh thất vọng bỏ đi. Nhìn đứa bé có khuôn mặt kháu khỉnh, tóc đen, anh nghĩ: “Cuộc sống này là QUÀ TẶNG CỦA THƯỢNG ĐẾ, không ai có quyền lấy đi. Có phải đây là cách mà Thượng Đế nói với con người chăng?”.

Anh đến gặp bác sĩ trưởng: “Xin lỗi, tôi không thể làm khác hơn. Tôi cảm thấy đó là tội sát nhân, và tôi không muốn là kẻ sát nhân”. Bác sĩ trưởng hét lên: “Làm sao mà anh nhận mình là bác sĩ sản khoa được chứ? Đừng làm phiền tôi nữa. Cứ làm theo mệnh lệnh!”.

Trở lại phòng sinh, anh thấy đứa bé đang ngủ ngon. Anh chạm tay vào miệng nó thì nó lại bú tay anh. Anh bật khóc và nói: “Vẫn đói hả bé?”. Anh chợt thấy sợ. Anh nhớ tới cha mình. Người có thể giúp gì chăng? Anh gọi điện về nhà. Lương tâm nhắc nhở anh: “KHÔNG ĐƯỢC GIẾT NGƯỜI!”. Cha anh nói với anh qua điện thoại: “Ba rất hãnh diện về con, con trai ạ!”. Mẹ anh cũng xúc động nói: “Mẹ cũng vậy. Nhưng con phải cẩn trọng đấy. Đừng viết gì hoặc để lại bất kỳ dấu vết nào, con trai nhé!”.

Anh hiểu. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Wong mới 8 tuổi. Cha anh đã bị bắt vì cứu một viên chức bị coi là chống đối chính quyền. Cha anh bị đi đày tới một vùng quê hẻo lánh, còn mẹ anh bị đưa đi tập trung lao động. Lúc đó, Wong và em trai 4 tuổi phải sống nhờ hàng xóm. Hoàn cảnh rất khó khăn!

Anh lưỡng lự, nhưng cha anh nói: “Con có một cuộc sống, đứa bé kia cũng vậy. Giết nó là giết đồng loại của mình”. Anh cúp máy và vội vàng tới phòng sinh. Cửa khóa chặt, cha của đứa bé đập cửa và kêu la: “Xin đừng giết con tôi!”.

Anh chạy vào phòng bằng cửa hông. Bác sĩ trưởng đã có mặt bên chiếc nôi của đứa bé và đưa tay sờ vào thóp nó. Khăn quấn và ống dưỡng khí đã bị lấy đi. Nó đang khóc dữ dội. Anh gào lên khi đưa tay giật lấy ống tiêm: “Xin đừng tiêm nó!”. Bác sĩ trưởng la lên: “Anh làm cái quái gì vậy?”. BS Wong không sợ, tâm hồn anh bình an. Anh nói: “Đứa bé này vô tội. Sao lại giết nó?”. Bác sĩ trưởng lườm anh, và gằn giọng: “Nếu anh tiếp tục cãi lệnh, anh không bao giờ được hành nghề thầy thuốc nữa”. Anh nói: “Tôi thà không làm bác sĩ chứ tôi không giết nó”. Bác sĩ trưởng lầm bầm: “Mày điên rồi!”. Bác sĩ trưởng bỏ đi, anh lại cho đứa bé thở dưỡng khí.

8 giờ sáng, BS Wong bị gọi lên văn phòng để chịu khiển trách và làm bản kiểm điểm: “Tại sao anh không làm tròn trách nhiệm của mình? Họ là bạn bè hay thân nhân của anh sao? Anh nhận tiền của họ à?”. Anh nổi nóng: “Tôi không hiểu ngôn ngữ của họ thì làm sao tôi biết họ muốn gì? Còn tiền ư? Cứ khám tôi sẽ rõ!”.

Các nhân viên trong Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình đến bắt buộc anh tiêm thuốc cho đứa bé chết, nhưng anh nhất định từ chối. Và anh bị bắt. Sau đó, họ giết chết đứa bé bằng một mũi thuốc. BS Wong đã cố gắng hết sức nhưng vẫn không cứu được đứa bé.

Tuy nhiên, lương tâm anh vẫn thanh thản vì anh không giết người, lương tâm anh không bị cắn rứt, không bị dày vò. Anh rất nhân đạo. Anh là một bác sĩ còn trẻ tuổi đời và tuổi nghề, nhưng anh hành nghề y với cả y đức và trách nhiệm của người thầy thuốc: Cứu người chứ không giết người.

Anh bị đẩy lên cao nguyên, vùng sâu vùng xa, rồi sau đó anh trốn sang Hoa Kỳ. Anh đã thay tên đổi họ là Yin Wong để tránh hậu họa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Reader’s Digest)