TÔI TẠ ƠN CHÚA . . .

TÔI TẠ ƠN CHÚA . . .

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.(1)

Tình cờ tìm được bài “ Tôi tạ ơn Chúa” , tôi thấy nhiều điều hữu ích, đáng suy gẫm, có thể đem áp dụng trong đời sống hàng ngày để tìm thấy niềm vui, hạnh phúc đơn sơ mà chúng ta nhiều khi không cảm nhận được. Có những chuyện nho nhỏ làm cho chúng ta bực mình, mất vui, mất bình an vì cái nhìn từ phía chúng ta, từ trong tấm lòng của chúng ta.. Các bạn thử đọc lại bài này và áp dụng thử xem sao?

Tôi Tạ Ơn Chúa. . .

Tôi tạ ơn Chúa vì chồng tôi cứ phàn nàn khi bữa cơm chưa dọn kịp, bởi lẽ chàng đang ở ngay bên cạnh tôi, chứ không phải bên ai khác.

Tôi tạ ơn Chúa vì con tôi cứ càu nhàu khi phải phụ rửa chén đĩa cho tôi, bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.

Tôi tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà tôi phải trả quá cao, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một công việc tốt để làm.

Tôi tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi luôn được bạn bè quý mến đến chơi.

Tôi tạ ơn Chúa vì quần áo tôi bỗng trở lên hơi chật, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có đủ ăn,

Tôi tạ ơn Chúa vì cái bóng của tôi cứ nhìn tôi làm việc, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang sống tự do ngoài nắng.

Tôi tạ ơn Chúa vì sàn phòng cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một mái nhà để cư ngụ.

Tôi tạ ơn Chúa vì tất cả những lời than phiền về chính phủ, bởi lẽ như thế nghĩa là chúng ta đang được tự do ngôn luận.

Tôi tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền cho hệ thống sưởi thật cao,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang được ấm áp.

Tôi tạ ơn Chúa vì người phụ nữ ngồi phía sau tôi trong nhà thờ hát sai, bởi lẽ như thế nghĩa tai tôi còn nghe được rất tinh tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì đống đồ phải giặt ủi, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì các cơ bắp của mình thấy mỏi mệt vào cuối ngày,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có sức để làm việc nhiều.

Tôi tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm ban mai, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi còn đi lại, hít thở và cười nói,  bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang còn sống.

và cuối cùng…

Tôi tạ ơn Chúa vì nhận quá nhiều thư từ gửi về,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến tôi…

Tôi gửi bài này để các bạn hiểu rằng :

“Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương, cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào!”

Cố G.S.Trần Duy Nhiên dịch

(1)   Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu .(1 TX 5 câu 18)

Đây là thơ thứ nhứt của thánh Phao lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca một thành phố lớn và là thủ phủ của  miền  Ma-kê-đô-ni-a .

Phùng văn Phụng sưu tầm

Đi tìm Chúa

Đi tìm Chúa

Tác giả:  Phùng văn Phụng

Nhân Lễ Phục Sinh vào ngày 19 tháng 04 năm 2014 vừa qua, Giáo Xứ Đức KiTô Ngôi Lời Nhập Thể đã rửa tội cho 20 người lớn, 9 trẻ em đang học lớp Giáo Lý và Việt ngữ muốn rửa tội kỳ này và thêm sức cho 7 người lớn.

Vì lý do lập gia đình, nhiều người tìm đến nhà thờ học đạo, để sau này làm đám cưới theo nghi thức công giáo. Trong số người đến học đạo cũng có người đến học không phải để lập gia đình mà để tìm hiểu Chúa và ao ước được rửa tội để làm con cái Chúa, để được Thiên Chúa an ủi khi gặp hoàn cảnh khó khăn trong đời sống hàng ngày và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu của đời sau .

1) Trường hợp bà Nguyễn Kính (86 tuổi).

Bà Kính (thứ hai từ bên phải) trong buổi sinh hoạt của lớp Tân tòng

Sau mấy tháng khai giảng, bà Kính cùng vài người nữa xin vào tham dự Chương trình Khai Tâm Ki tô giáo dành cho người lớn. Bà Kính được con gái bà chở vào lớp, tất cả đều ngạc nhiên vì bà đã lớn tuổi nhất trong lớp Tân Tòng này.

Tôi hỏi bà Kính.

– Lý do nào bà đến đây để học đạo và để rửa tội?

Trước năm 1975 tôi có sinh hoạt xã hội làm việc với ông Cha Cảnh. Ông Cha Cảnh đã chết . … tôi có hứa và nói với Cha Cảnh là tôi sẽ rửa tội khi có điều kiện.

– Trong gia đình bà có ai phản đối việc bà theo đạo không?

– Tôi đã quyết định rồi dầu có phản đối tôi vẫn theo Chúa, dĩ nhiên cũng có đứa con phản đối, nhưng mà tôi cũng có cháu ngoại theo đạo và đi nhà thờ.

– Bà cảm nghĩ sao sau khi rửa tội?

– Dĩ nhiên tôi rất sung sướng vì tôi đã ao ước từ lâu, nay tôi mới được mãn nguyện. Tôi nguyện khi về Việt nam trong tháng 10 năm nay, tôi sẽ giúp đỡ cho người nghèo khổ. Ở đây, ở Houston, Texas tôi cũng sẵn sàng giúp đỡ khi có ai cần, như vào nhà thương lo cho bịnh nhân.

Tôi nói đùa với bà: “Bà chịu rửa tội là đã “làm việc truyền giáo” cho các con cháu trong gia đình, người thân,  bạn bè của bà rồi, họ sẽ suy nghĩ, tìm hiểu đạo Chúa và sẽ chọn con đường theo Chúa Ki Tô mà bà đang đi.”

2) Một gia đình có 5 người cùng đi học đạo .

Tr… thì học để rửa tội. Còn vợ Tr.. và ba đứa con học để thêm sức. Đứa cháu gái nhỏ nhất đang học lớp xưng tội rước lễ lần đầu. Hai vợ chồng lập gia đình trên hai mươi năm chưa làm lễ hôn phối . Tr.. vẫn còn chần chừ chưa muốn vào đạo. Những khó khăn trong đời thường không thể giải quyết được đã thúc đẩy cả gia đình đi tìm nguồn an ủi nơi Chúa Ki Tô

Hai vợ chồng cũng đã làm lễ hôn phối vào tháng 3 năm 2014 vừa qua.

3)   ” Trẻ em truyền giáo”

Chữ ” trẻ em truyền giáo” đóng trong ngoặc kép có ý nghĩa là các em được rửa tội mà cha mẹ các em hay ông bà của các em hoặc có mẹ hay có cha chưa gia nhập đạo Chúa. Làm sao khuyến khích con đi nhà thờ . Làm sao cho con biết yêu mến Chúa Ki Tô và biết sợ tội  giúp các cháu sống đời sống tốt hướng thiện, biết yêu mến tha nhân, biết yêu mến ông bà cha mẹ. Cho nên để hướng dẫn con cháu, cha mẹ thường phải sống tốt hơn bằng cách đi nhà thờ đều đặn để làm gương dạy dỗ con cái.

Kỳ này có 9 trẻ em được  rửa tội với tuổi 8, 9 tuổi trở lên. Có nhiều lý do những trẻ em này chưa được rửa tội từ nhỏ.

Các em đứng trước giếng rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh 19-04-2014

Có ai chống đối đạo Chúa bằng Thánh Phao Lô, thường đi lùng bắt các người theo đạo nhưng rồi Chúa đã cho Ngài ngả ngựa và được chữa  khỏi mù mắt. Sau đó Ngài là một tông đồ rất nhiệt thành giảng dạy cho dân ngoại .

Trường hợp bà xã tôi ban đầu chống đối tôi dữ dội vì tôi theo đạo Chúa nhưng rồi “Thiên Chúa đã vẽ đường thẳng bằng những nét cong”(1), đánh động bà xã tôi để bà xã tôi tham gia lớp tân tòng, học đạo hơn 9 tháng ở nhà thờ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể và cũng đã rửa tội làm con cái Chúa  nhân ngày Lễ Phục Sinh 2013 vừa qua.

Lớp xưng tội rước lễ lần đầu chụp hình chung với Đức Ông Chánh Xứ  ngày 17-05-2014

Tôi có hai cháu nội, cháu gái tên là Eileen, mới vừa được rửa tội ngày 19-04-2014 vừa qua và được xưng tội rước lễ lần đầu trong buổi lễ rất trang trọng tại nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể ngày thứ bảy 17 tháng 5 năm 2014. Còn cháu trai Jayden đã chịu phép rửa tội ngày 04 tháng 05 năm 2014 vừa qua.

Cháu nội Eileen chụp hình với bà nội trong nhà thờ, chờ thánh lễ .

Hình Jayden trong ngày rửa tội (chụp cùng với chị là Eileen) trong nhà thờ Ngôi Lời Nhập Thể.

Tạ ơn Chúa. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Phùng văn Phụng

(1) câu nói của Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận

Vài ghi nhận sau chuyến Hành Hương : Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Rôma

Vài ghi nhận sau chuyến Hành Hương : Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Rôma

Gioan Phùng Văn Phụng ghi nhận

Phái đoàn gồm có 89 người do Linh mục Nguyễn Ngọc Thụ, Giáo Xứ Chánh Toà Thánh Tâm, hướng dẫn, rời Houston ngày 22 tháng 9 và trở về Mỹ ngày 2 tháng 10 năm 2014.

Hai ngày đầu tiên chúng tôi ghé Tiệp Khắc tham quan lâu đài lớn nhất thế giới (570 m x 130 m) có từ thế kỷ thứ 9, kính viếng nhà thờ  chánh tòa Thánh Vitus

Kính viếng nhà thờ Đức Mẹ khải hoàn xây dựng năm 1611-1613 có tượng Chúa Hài Nhi (chữa lành) rất linh thiêng. Thăm công trường cổ kính nơi có chiếc đồng hồ thiên văn nổi tiếng tản bộ qua chiếc cầu lịch sử Charles xây năm 1357 bắt ngang qua sông Vltava.

Ngày 25 tháng 9, chúng tôi đi xe bus sang quốc gia Ba Lan (Poland) thăm thành phố Wadowice nơi chào đời và thời thơ ấu của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Tu viện Thánh Bênêdícto. Đến thăm ngôi nhà của gia đình ông bà cố, hiện nay là bảo tàng viện di tích gia đình Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Ngôi nhà rất đơn sơ. Phái đoàn xem chỗ nghĩ ngơi, chỗ làm việc, nhà bếp, phòng cầu nguyện của ông bà cố.

Phái đoàn tiếp tục đến Krakow (Kinh thành Rôma của Ba Lan) tham dự thánh lễ tại nhà thờ Thánh Florian (Quan Thầy của những người lính chữa lửa) nơi đây Đức Gioan Phaolô đã thi hành việc mục vụ trong thời kỳ Ngài làm tuyên úy cho sinh viên.

Phái đoàn tham quan quảng trường của Lâu Đài Hoàng gia có từ thế kỷ 16 và viếng thăm nhà thờ chánh tòaWawel là nơi an táng nhiều vị vua Ba Lan qua nhiều thế kỷ.

Phái đoàn cũng đến thăm Hang Mỏ Muối (thành phốWieliczka) đã sản xuất muối từ hơn 700 năm qua. Chiêm ngắm ngôi thánh đường trong Hang, có bàn thờ và những pho tượng rất mỹ thuật do các công nhân đạo đức người Công Giáo Ba Lan của hầm mỏ muối này thực hiện bằng tay rất công phu.

Tượng Thánh Gioan Phaolô II trong hang Mỏ Muối

Phái đoàn kính viếng Đại Vương Cung Thánh Đường Lòng Thương Xót Chúa mới xây dựng cùng với Thánh tích của Thánh nữ Maria Faustina Kowalska người đã được nhìn thấy Chúa với những luồng sáng tình thương chiếu từ Thánh Tâm Chúa.Thánh nữ Maria Faustina Kowalska sinh ngàỵ 25 tháng 8 năm 1905 và qua đời ngày 5 tháng 10 năm 1938 tại Krakow, hưởng dương 33 tuổi.  Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Giaon Phaolô 2 phong hiển thánh ngày 30 tháng 4 năm 2000. Chúng tôi tham dự thánh lễ tại một trong những nguyện đường của Đại Vương Cung Thánh Đường này sau đó từng người đi lên hôn kính thánh tích của Thánh Nữ Faustina. Nơi đây tôi đã xin khấn và cầu nguyện cho những nhu cầu của người bạn và đứa cháu đã nhờ tôi cầu nguyện trong cuộc hành hương này

Ngày 27 tháng 9, phái đoàn đến Trại Tập Trung Auschwitz  nổi tiếng của Đức Quốc Xã viếng thăm phòng giam của Thánh Maximilian Kolbe (1), người đã hy sinh chịu chết cho bạn tù. Trong chuyến tông du lần đầu tiên vào tháng 6 năm 1979, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm phòng giam này. Chúng tôi đi xem các phòng giam nay là di tích còn sót lại của các tù nhân như giày, kiếng đeo mắt, tóc chứa nguyên một phòng rộng chừng 4 mét x 8 mét, dụng cụ muổng nĩa, chén ăn cơm còn sót lại của tù nhân đa số là người Do Thái.

Chúng tôi cũng được đi vào phòng hơi ngạt, nơi đây có thể  giết chết 700 tù nhân cùng một lúc.

Cảm giác rùng rợn về cách giết người của Đức Quốc Xã, nơi đây đã không biết bao nhiêu người già có, trẻ con 6, 7 tuổi có, đã kêu gào, la hét thất thanh, khóc lóc thảm thiết  trước khi chết ở trong phòng hơi ngạt này.

Phái đoàn tiếp tục đến Czestochowa, thăm tu viện Jasna Gora nơi có Đền Thánh kính bức tranh nổi tiếng Đức Bà đen (Black Madonna)- Nữ Hoàng của Ba Lan ( bức tranh này được coi là di tích linh thiêng nhất của quốc gia Ba Lan và rất nhiều phép lạ từ bức tranh này)

Ngày 28 tháng 9 xe bus rời Krakow đi ngang qua biên giới nước Slovakia để đến thành phố nổi tiếng Budapest của quốc gia Hungary (Hung Gia Lợi). Du thuyền trên sông Danube về ban đêm ngắm nhìn các lâu đài với ánh sáng muôn màu, rực rở vào ban đêm dọc hai bên bờ sông Danube này cũng như đèn điện sáng choang màu sắc rất đẹp trên các cây cầu bắc qua sông Danube.( Đến đây tôi chợt nhớ tới Thái Thanh hát bản Dòng sông xanh (Danube Blue) mà tôi rất ưa thích)

Ngày 29 tháng 9 thăm lâu đài Buda, viếng ngôi thánh  đường cổ kính Gothic kính Thánh  Matthêu xây dựng từ thế kỷ 13-15.

Kính viếng và dự thánh lễ  tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Stephen có ngọn tháp cao nhất Budapest (96 mét) được xây dựng để vinh danh vua Stephen (975-1038) Vị Hoàng Đế đầu tiên của Hung Gia Lợi.

Ngày 30 tháng 9 phái đoàn đáp máy bay từ phi trường Budapest đến Rôma (Ý Đại Lợi)

Phái đoàn kính viếng và dâng thánh lễ trong Đại Thánh Đường Thánh Phaolô ngoại thành nơi có chân dung của 265 vị Giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo (từ Thánh Phêrô đến vị đương nhiệm)

Ngày 01 tháng 10, tham dự buổi triều kiến Đức Thánh Cha Phanxicô tại quảng trường Thánh Phêrô . Chúng tôi đến thật sớm để tìm chỗ ngồi. Theo chương trình Đức Thánh Cha sẽ làm lễ lúc 10 giờ. Nhưng Ngài đến sớm hơn vào khoảng 9 giờ sáng. Chúng tôi được nhìn thấy Đức Giáo Hoàng qua hai màn ảnh rất lớn ở hai bên. Có khoảng gần 100,000 giáo dân đến tham dự  buổi lễ ngày thứ tư này. Nơi đây tôi tiếp tục cầu nguyện cho ý chỉ của bạn bè nhờ tôi cầu nguyện, cũng như tôi câu nguyện cho gia đình, những người thân yêu và cho đất nước Việt Nam cũng như cho hoà bình thế giới.

Sau đó kính viếng Nhà Thờ Thánh Tâm tại Rôma nơi còn cất giữ nhiều dấu tích các linh hồn ở luyện tội đã hiện về xin cầu nguyện


Dấu tích từ các linh hồn ở Luyện tội hiện về.

Khi nhìn thấy những dấu tích này chúng ta càng cũng cố niềm tin vào Thiên Chúa, tin rằng con người có linh hồn sau khi mất.

Tôi không bao giờ dám nghĩ và ước mơ tới, trong đời tôi, được đến Rôma hai lần, trong vòng 4 năm, may mắn gặp được hai Đức Giáo Hoàng. Năm 2010 tôi đứng gần đường đi của Đức Giáo Hoàng Bênêdíctô, nên khi Ngài đi qua tôi chụp được hình Đức Giáo Hoàng  rất rõ. Lần này ( năm 2014) đứng sau lưng một người nên khi chụp hình chỉ chụp được tay người vẫy chào hoan hô Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà thôi.

Tạ ơn Chúa. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.

Gioan Phùng Văn Phụng ghi nhận

(1) Cha được Đức Thánh Cha Paul VI tôn phong Chân Phước ngày 17 tháng 10 năm 1971 và Đức Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức ghi tên cha vào sổ các thánh tử vì đạo của lòng nhân ái của Giáo Hội ngày 10 tháng 10 năm 1982.

Xin xem thêm :Tiểu sử Thánh Maximilian Kolbe

Xin xem thêm: Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô :

Thiên Chúa ban cho chúng ta các đặc sủng khác nhau để mưu ích cho tất cả mọi người.

Hình 1:Lâu đài bên bờ sông Danube về đêm

Hình 2: Quang cảnh Trại Tập Trung Auschwitz

Hình 3:Giày của người Do Thái còn lưu lại

Hình 4 : Bà xã tôi đứng dưới Hình của Đức Bà Đen

Hình 5, 6: Quang cảnh công trường Thánh Phêrô

 

 

 

 

 

 

 

 

Cứ tưởng là một giấc mơ

Cứ tưởng là một giấc mơ

Nhìn lại quảng đời đã qua, năm nay vừa tròn 72 tuổi, mới thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Những năm nằm trong các trại tù ở miền Bắc anh em đồn rằng các tù cải tạo sẽ vĩnh viễn định cư ở trong vùng rừng núi của tỉnhThanh Hoá mà người lo việc này là Tướng Nguyễn Hữu Có. Sau đó vợ con muốn sống chung thì đến Thanh Hoá mà sống.

Chuyện trở về nhà từ các trại tù là điều mỏng manh, khó tin, vì anh em biết rằng sẽ không chịu nổi đói khát bịnh tật mà chết trước khi được về với gia đình.Hơn nữa rất nhiều người tù, bị bắt sau ngày ký hiệp định Geneve 20-07-1954, sau khi ra tù rồi, bị chỉ định cư trú ở Lào Cai, ở Vĩnh Phú mà tôi đã gặp khi đi lao động ngoài trại, thời gian này khoảng năm 1979- 1982. Họ không có giấy tờ gì cả không được rời khỏi nơi cư trú.

Rồi chuyện định cư tại Mỹ cũng chỉ là một giấc mơ.Trước năm 1993, em dâu tôi thường  chế diễu tôi:” Không lo làm ăn tối ngày cứ ” lo chuyện mò kim đáy biển”, (chuyện mơ đi Mỹ), vì anh em tù cải tạo thường hay ra vườn hoa thống nhất, trước đinh Độc Lập cũ để nghe ngóng tin tức về chuyện ra đi.

Thế mà ngày hôm nay (13-07-2014) Thiên Chúa đã ban cho tôi ơn trọng đại là vẫn còn sống, có sức khỏe, ban ơn bình an, được đoàn tụ vui vẻ cùng các con cháu.

Có niềm vui nào hơn nữa được đâu?

Xin cảm tạ Chúa và cám ơn toàn thể gia đình và các bạn hữu xa gần.

Phùng Văn Phụng

07/2014

Tác giả cùng các cháu nội ngoại

Mười ngày hành hương đất Thánh

Mười ngày hành hương đất Thánh

bước theo dấu chân Chúa trên dương thế.

Phái đoàn khoảng 50 người  do Thầy Phó tế Nguyễn Kim Khánh hướng dẫn có hai Cha  là Đức Ông Lê Xuân Thượng và Linh mục Nguyễn Đức Vượng làm Tuyên úy của đoàn.

Người lớn nhất của đoàn 78 tuổi và nhỏ nhất của đoàn hành hương 39 tuổi. Trong 10 ngày hành hương chúng tôi đi rất nhiều nơi bước theo chân Chúa Kitô đã đi qua. Hiện nay chúng tôi đi bằng xe hơi trong khi trước đây hai ngàn năm Chúa chỉ đi bộ mà thôi.

Ngày đầu tiên chúng tôi viếng làng Nazareth nơi Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria sinh sống. Chúng tôi chỉ nhìn được ngôi nhà của Thánh cả Giuse từ bên ngoài hàng rào và nhìn từ bên trên nhìn xuống dưới hầm. Chúng tôi đến nơi có tiệc cưới Ca na nơi hóa nước thành rượu, nhìn thấy được bình rượu bằng đá nơi có dấu tích phép lạ Chúa đã làm.

Ngày thứ hai đến viếng núi Tabor nơi Chúa Giê su gặp gỡ tiên tri Elia và Môsé, nơi các môn đệ là Phêrô, Gioan và Giacobê xin Chúa dựng lều ở lại luôn trên đó vì thấy ánh sáng rực rỡ nơi Chúa và các tiên tri và hạnh phúc bình an tuyệt vời ở trên núi này. Chúng tôi được đi thuyền trên biển hồ Galilêa nơi mà các môn đệ đã từng làm nghề đánh cá để sinh sống. Chúng tôi được dự lễ tại Thánh đường trên đồi Tám Mối Phúc Thật nơi mà Chúa Giê Su đã công bố “Hiến Chương Nước Trời” nền tảng chính của Kitô giáo .

Ngày thứ ba chúng tôi đến viếng thành Jêricô, xem cây Sung cháu mấy đời? nơi mà ông Giakêu trèo lên để nhìn thấy Chúa vì ông vốn lùn. Từ đó ông được Chúa đến nhà dùng bửa và chính ông là người thu thuế là loại người mà dân chúng không ưa. Ông đã sám hối ăn năn, ông hứa sẽ đền bù gấp đôi số tiền ông đã lấy từ dân chúng và dâng cúng đa phần số tiền ông đã lấy từ dân nhờ nghề thu thuế của ông. Và Chúa Giêsu đã nói: “Hôm nay gia đình này đã được cứu độ.” Chúng tôi viếng thăm sông Jordan nơi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Chúng tôi lên núi cám dỗ nơi Chúa Giêsu nhịn đói 40 ngày đêm bị quỉ dữ cám dỗ nhưng Chúa không rơi vào bẫy của chúng. Chúng tôi nghỉ đêm và xuống tắm ở biển chết, người sẽ tự động nổi lên không cần bơi vì nước biển quá mặn.

Ngày thứ tư đến viếng núi Masada, hang Qumran, làng Bethany và thăm mộ thánh Lazarô.

Ngày thứ năm thăm núi cây dầu, có cây sống đã hơn ba ngàn năm ở nơi đây, nơi Chúa cầu nguyện. Thăm nguyện đường Chúa lên Trời nơi đây Chúa đã lên Trời sau khi Chúa phục sinh và tiếp tục giảng dạy các tông đồ. Thăm Thánh đường Kinh lạy cha, nơi đây có bản văn Kinh Lạy Cha bằng tiếng việt.

 

 

Cây Olive trong vườn cây dầu

Chúng tôi được viếng thăm “Bức tường than khóc” kỹ niệm nơi mà dân Do Thái bị La mã đánh bại, tàn phá thành này vào năm 60 và dân Do Thái mất nước phải đi lang thang khắp nơi trên thế giới mãi đến năm 1948 mới lập quốc được. Nơi đây lúc nào cũng có người Do Thái tay cầm cuốn kinh?  đến đây gục đầu vào bức tường đọc kinh và than khóc.

Chúng tôi được đi lại 14 chặng đường thương khó mà Chúa đã đi qua nhưng bây giờ hai bên đường người ta buôn bán rất sầm uất. Con đường dốc mà Chúa đã vác thánh giá đi lên đồi Golgotha ngày xưa chắc là vừa dốc vừa gập ghềnh mà Chúa còn vác thánh giá nặng nề nữa. Chúng tôi đi thật sớm khoảng 5 giờ sáng nên dân chúng chưa có buôn bán vừa mát mẻ vừa rộng rãi để đoàn chúng tôi vừa đọc kinh vừa suy niệm con đường vác thánh giá chịu đau khổ của Chúa đã trải qua để chuộc tội và cứu rỗi chúng ta.

Chúng tôi viếng đồi Golgotha nơi Chúa bị đóng đinh xem vết tích lỗ cột trong đá còn lưu lại.

Chúng tôi được viếng mộ Chúa đi ngang qua một tảng đá lớn bằng phẳng dài khoảng hai thước ngang 4 tấc, Chúa đã được tắm rửa sạch sẽ ướp dầu thơm trước khi táng xác Chúa. Chúng tôi sắp hàng gần hai giờ mới vào được mộ Chúa, đi từng hai người một xuống nhà mồ, hôn lên mộ Chúa, nên mất rất nhiều thời giờ do đó phải chờ đợi rất lâu.

Chúng tôi cũng được qua thăm thành phố Istanbul của nước Thổ Nhĩ Kỳ, viếng nhà thờ

chánh toà Anthony of Padua và viện bảo tàng Hagia Sophia.

Lược ghi của Phùng Văn Phụng

Mời thưởng thức và suy niệm:

Nhạc Phẩm: Con Đường Chúa Đã Đi Qua – Lm. Nhạc Sĩ Văn Chi – Ca Sĩ Như Ý trình bày

httpv://www.youtube.com/watch?v=N23FhExVgqA

Linh Đạo của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận

Linh Đạo của  Đức C Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận

Tác giả: Phùng văn Phụng

Ngài viết các cuốn sách : “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”, “ Cầu Nguyện Hy Vọng”; “Đường Hy vọng dưới Ánh Sáng Lời Chúa và  Cộng  Đồng Vaticanô II”; “Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng”; “Chứng Nhân Hy Vọng “ Tất cả bài viết và bài giảng của Ngài đều mang ý nghĩa của niềm tin vào Chúa và Đức Mẹ, luôn luôn có niềm Hy vọng lớn lao.

1) Về  Hy Vọng:

 

Ngài viết: “

Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.

Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.

Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.

Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.”

Sách “Đường Hy Vọng và Dẫn giải” câu 978 trang 385.

Do đó “Đường Hy Vọng” là linh đạo của Ngài để hướng dẫn chúng ta trên con đường lữ thứ trần gian này lúc nào cũng sống tốt, sống trong Hy vọng .

2)      Về Cầu nguyện:

Ngài dạy chúng ta cầu nguyện bằng câu chuyện sau đây: “

Đức Mẹ còn  sử dụng cả người cộng sản để nhắc nhở tôi cầu nguyện.

Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn tôi. Trước ngày ông ta về, ông đã hứa với tôi: Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La vang 3km, tôi sẽ đi La vang cầu nguyện cho anh.

Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Đức Mẹ cho tôi! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật,! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau:
“ Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Đức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chúa nhật nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước Đài Đức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này: Thưa Đức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Đức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Đức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy.”

Đức HY viết: Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: Lạy Mẹ , Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây.

Sách” Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” trang 48

Đức Hồng Y đã cảm hóa anh Hải, người cộng sản này đi La Vang cầu nguyện Đức Mẹ cho Ngài.

3)Yêu kẻ thù:

 

Đức Hồng Y viết: “

Có một hôm mấy anh gác hỏi tôi:

–          Ông có thương chúng tôi không?

–          Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

–          Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả.?

–          Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

–          Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

–          Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

–          Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

–          Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.”

(Sách đd  trang 76)

Ngài đã dạy chúng ta yêu thương tột cùng, yêu thương như Chúa Kitô đã dạy chúng ta rằng: “ Còn Thầy Thầy bảo anh em, Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi anh em” (Mt 5,44)

Thật là tuyệt diệu biết bao nếu chúng ta đem áp dụng vào đời sống hàng ngày, thì chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui, niềm hy vọng khi sống trong hiện tại cũng như sau này khi chúng ta qua đời về với Chúa. Sống với tất cả tình yêu thương như Chúa dạy yêu cả kẻ thù của mình thì huống hồ gì trong gia đình chồng (vợ), cha(con), anh chị em với nhau trong gia đình hay bạn hữu sinh hoạt trong các đoàn thể của nhà thờ hay cộng đoàn làm sao mà thù ghét nhau được nếu nhớ lời dạy của Thầy Chí Thánh, Đức Chúa Kitô đã  dạy “yêu kẻ thù”.

Lạy Chúa,  giúp cho con biết khiêm nhường, nhận mình yếu đuối,  khó mà yêu thương những kẻ đã hành hạ mình. Xin cho con biết thứ tha, biết thật sự yêu thương kẻ đã gây biết bao đau khổ khó khăn cho con và gia đình con. Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết sống khoan dung hơn, biết nhẫn nhục, khiêm nhường hơn, biết sống yêu thương nhiều hơn từ trong gia đình cho tới ngoài xã hội. Con cầu xin Chúa. Amen

Gioan Phùng văn Phụng

 

Mời xem :

httpv://www.youtube.com/watch?v=omus-TOMSuk

httpv://www.youtube.com/watch?v=mXdKI89gnvU

Road_of_Hope

 

Lễ rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh

Lễ rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh
ngày 30 tháng 03 năm 2013,
tại Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời nhập thể Houston, Texas
22 tân tòng được làm con cái Chúa..
ORANGE, California (NV) – Đức Giám Mục Kevin Vann, giám mục Giáo Phận Orange, sẽ rửa tội cho 972 người Công Giáo tân tòng tại Nhà Thờ Chánh Toà, 566 South Glassell St., Orange, CA 92866, trong buổi tối lễ vọng Phục Sinh, 30 Tháng Ba, tới đây, thông cáo báo chí của giáo phận cho biết.
Đây là số người được rửa tội tại lễ Phục Sinh đông nhất trong 36 năm lịch sử giáo phận.
Đức Giám Mục Kevin Vann sẽ lãm lễ rửa tội cho gần
1,000 giáo dân Công Giáo tân tòng. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)
Đa số vì muốn lập gia đình với anh chị em có đạo công giáo nên đi học lớp giáo lý tân tòng để rửa tội và sẽ làm phép hôn phối ở nhà thờ.
Nhưng không ít trường hợp” đi tìm Chúa” trong các lớp tân tòng để tìm hiểu đạo công giáo tìm hiểu Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài giảng dạy. Hành trình đức tin không đơn giản chút nào. Từ lúc không biết gì về Chúa Giêsu, về Đức Mẹ Maria, làm sao trong 8, 9 tháng học hỏi, tìm hiểu Thánh Kinh mà tin và yêu mến Chúa Giêsu được, nếu người đó không có “ơn Chúa” đánh động trước, nghĩa là các tân tòng đã có ý niệm một phần nào tin có Thiên Chúa toàn năng, có đấng tối cao, đấng vô hình hướng dẫn cuộc đời mình. Người đó cũng muốn tìm chỗ dựa của đời sống tâm linh trước, dựa vào sức Chúa chứ không cậy vào sức mình,cậy vào tài năng riêng của mình.
Nhà thờ La vang ở Houston cũng ban bí tích thanh tẩy cho 12 tân tòng . Thông thường các nhà thờ khác cũng làm lễ rửa tội cho người lớn, các tân tòng nhân mùa lễ Phục sinh hằng năm.
* Nghi thức chào đón và tiếp nhận dự tòng:
Đức Ông hỏi: Anh chị muốn xin gì ở Hội Thánh?
Dự tòng trả lời: Thưa Cha chúng con xin đức tin.
Đức Ông tiếp tục hỏi: Đức tin làm gì cho anh chị?
Dự tòng: Đức tin đưa chúng con đến sự sống đời đời.
Đức Ông cũng như cộng đồng dân Chúa cầu nguyện cho các tân tòng:
“Hãy quyết phó thác đời sống hàng ngày của anh chị vào sự chăm sóc của Ngài để anh chị có được niềm tin nơi Ngài với tất cả tâm hồn của anh chị. Đây là đường lối Đức tin mà Chúa Kitô sẽ hướng dẫn anh chị trong tình yêu tới sự sống đời đời.”
Xin đức tin là xin Thiên Chúa ban ơn để chúng ta có đức tin, tin có Thiên Chúa toàn năng,
tin Chúa Kitô là con Thiên Chúa , tin có đời sống vĩnh cửu.
Trong đêm rửa tội các tân tòng được mặc áo trắng, trao nến trắng và nhận phép thêm sức luôn
Đức Ông xức dầu trên trán các tân tòng và nói: ‘Anh (chị) hãy nhận lảnh ấn tín ơn Chúa Thánh Thần’.
Hành trình đi tìm Chúa.
Từ cuối tháng 08 năm 2013 gần 30 người lớn tìm đến nhà thờ để tìm hiểu về đạo Chúa. Trong quá trình học đạo, các anh chị em tân tòng trong những tháng đầu theo học, khi học hỏi Thánh Kinh, thảo luận về Chúa, các anh chị thường không phát biểu. Có lẽ còn e dè, ngại ngùng cũng có thể chưa hiểu biết về Thánh Kinh hay chưa tin tưởng vào Thiên Chúa .?
Tuy nhiên, trải nghiệm suốt 5 tháng thảo luận, học hỏi cũng như sau khi tham dự khóa tĩnh tâm ở Palacios vào đầu tháng 02 năm nay, trong đêm thứ bảy có nghi thức rửa chân cho tân tòng, ngồi thinh lặng, nghiêm trang, chung quanh nến thánh giá, mỗi người đốt nhúm trầm hương, đốt ngọn nến của mình và cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Trong ba ngày tĩnh tâm ở Palacios, anh chị em tân tòng bắt đầu phát biểu nhiều hơn, có cảm nghiệm về Thiên Chúa và Đức Mẹ nhiều hơn.
Tân tòng diễn kịch trong ngày tĩnh tâm
Một hình ảnh sinh hoạt của Tân tòng.
Ngày Tết Quý Tỵ vừa qua, anh chị em tân tòng đi đến Nursing home để thăm các cụ già tàn tật, bịnh hoạn để thực thi đức bác ái .
Tân tòng đi thăm người già cả tàn tật ở Nursing home
Đêm thứ sáu ngày Chúa chịu nạn, anh chị em tân tòng diễn lại 14 chặng đường thương khó. Anh chị em mặc y phục của người Do thái xưa cách nay hai ngàn năm giống như thời Chúa Kitô. Cũng có quan Philatô, có lính La mã, có Đức Mẹ, có thánh Gioan, Simon đỡ thánh giá cho Chúa, Giuda ph ản bội Chúa, Madalena, Veronica, Pharisêu, Satan..
Chuẩn bị diễn 14 chặng đường thương khó
Các tân tòng đi gặp Đức Giám Mục
Giá trị của cầu nguyện.
Năm 1991 tôi rửa tội nhân ngày lễ Đức Mẹ hồn xác về trời 15 tháng 8 tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn với Cha Bạch văn Lộc. Năm 1992 hai con gái cũng rửa tội tại nhà thờ này để được gia nhập Hội Thánh Chúa.
Năm nay, 2013 tôi đã làm con cái Chúa được 22 năm.
Năm 2000 tôi có tham gia Khóa căn bản của Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình do Cha Chu Quang Minh giảng, và sau đó tôi sinh hoạt trong chương trình này. Tôi vẫn nhớ câu nhắc nhở của Cha Chu Quang Minh như sau: “Mọi sự đều phải cầu nguyện và cầu nguyện trong mọi sự”.
Sự cầu nguyện liên lỉ của tôi, cũng như các nhà dòng Đa Minh, Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Đồng Công ở Missouri cầu nguyện giúp, bạn bè cầu nguyện thay nay Thiên Chúa đã nhậm lời. Kỳ này bà xã tôi đã đồng ý học đạo để tìm hiểu Chúa , tìm hiểu giáo lý Giáo Hội Công giáo hơn 7 tháng qua và đã chịu phép thanh tẩy vào ngày 30 tháng 03, lễ vọng Phục sinh vừa qua. Người nhận đỡ đầu là Sơ Lucy Nguyễn Lương dòng Nữ Đa Minh Việt nam .Tôi vẫn luôn luôn tự nhắc nhủ :”Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”. (Mt 7, câu 7) cũng như tôi luôn luôn cố gắng ca ngợi Chúa trong mọi hoàn cảnh vì tôi biết “quyền năng của tâm hồn biết ca ngợi”(1) Chúa sẽ nhậm lời khi ta ca ngợi hơn là ta than vãn, trách móc, lo âu.
Tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh vì đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu
Kitô (1TX 5, 18).

Những sự kiện lịch sử trên, theo cá nhân tôi luôn luôn có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, Đấng tối cao đầy quyền năng là Thiên Chúa, đã tác động vào những biến chuyển lịch sử đó để thế giới không còn sự đối đầu giữa Mỹ và Liên sô, có thể đưa đến chiến tranh hạt nhân sẽ hủy diệt nhân loại.
Không có ơn Chúa thì con người không thể làm gì đuợc.
Hình ảnh lễ rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh tại Giáo Xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập thể. ngày 30 tháng 03 năm 2013.
(1)Sách ” Quyền Năng Của Tâm Hồn Biết Ca Ngợi” LM Nguyễn Đức Mầu dịch.
Tác giả: Phùng văn Phụng

Xưng tội, Rước Lễ lần đầu của cháu ngoại.

Xưng tội, Rước Lễ lần đầu của cháu ngoại

Tác giả: Phùng văn Phụng 

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

  

Colby xúng xính trong bộ đồng phục quần dài đen, áo sơ mi trắng, có thắt nơ đỏ ở cổ áo. Con gái mặc đầm, đội khăn lúp trên đầu. Các cháu vui vẻ, hân hoan, nói cười ríu rít, trong khi các cô giáo lăn xăn, sắp xếp chỗ ngồi cho các em. Các em thực tập đọc bài đọc 1 và 2 cũng như đọc lời cám ơn quý Cha, quý thầy cô và cha mẹ, ông bà. Năm nay khoảng một trăm bảy mươi em xưng tội, rước lễ lần đầu. 

Các cháu trai ngồi bên phải, các cháu gái ngồi bên trái. Nhìn các cháu tuởng chừng như những “thiên thần bé nhỏ”. Khi rước lễ, theo sự hướng dẫn của thầy cô, từ trong hàng ghế, thứ tự đi ra đứng hàng dọc, chầm chậm đi lên gần cung thánh để được rước lễ lần đầu.

 Colby năm nay vừa đã được 9 tuổi là tuổi xưng tội, rước lễ lần đầu. Mỗi tuần ông ngoại đều chở hai cháu ngoại đi nhà thờ vì hai ngày cuối tuần hai cháu ngoại ở với ông bà ngoại để đi học đàn Piano, học Giáo lý, Việt ngữ ở Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập thể

Trọn ngày thứ bảy, khi các em tĩnh tâm từ 8 giờ sáng cho đến ba giờ chiều thì phụ huynh cũng được hướng dẫn đến hội trường để tìm hiểu cách xưng tội để giúp con em mình.

Năm nay các cháu phải học thuộc Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và Kinh Sáng Danh, Kinh 10 điều răn và Kinh ăn năn tội. Colby đọc thuộc lòng bằng tiếng Việt  Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và Kinh 10 điều răn nhưng tới Kinh ăn năn tội thì Colby chỉ đọc thuộc lòng bằng tiếng Mỹ mà thôi.

Mỗi thứ bảy cháu về sống với ông bà ngoại. Ông ngoại tập dạy thêm cho Colby kinh 10 điều răn trước khi ngủ. Vậy mà hơn hai tháng cháu mới thuộc hết kinh 10 điều  răn. Còn Kinh ăn năn tội mặc dầu dạy cho Colby tiếng Việt nhưng Colby không thể đọc trọn câu kinh bằng tiếng Việt được. Colby được học cách:

 Xét mình

 Ăn năn tội  Dốc lòng chừa

 Xưng tội

 Đền tội.

Trong hội trường có nhiều phòng mỗi phòng có các Cha ngồi chờ các cháu vào xưng tội. Tất cả các em cùng lớp với Colby ngồi thứ tự theo hàng dọc, ngay ngắn trước phòng bên phải của hội trường chờ đợi xưng tội. Tôi đứng gần đó để chờ xem thái độ của Colby ra sao?

Sau khi xưng tội xong, Colby đi ra nắm tay ông ngoại kéo đến phòng Đền tội.

Phòng đền tội là một phòng tối ở bên phải của trường “Mẫu Tâm”. Cuối phòng có để bàn thờ Chúa chịu nạn, trên tường đèn thật sáng chiếu vào hình Chúa chịu nạn.

Colby quỳ xuống hai bàn tay chấp lại trước ngực, đọc kinh Lạy Cha. Ông ngoại cũng quỳ với cháu ngoại nghe cháu ngoại đọc kinh. Sau khi đọc kinh xong cháu đứng dậy cúi đầu và kéo ông ngoại ra khỏi phòng.

Xưng tội là làm hòa với Thiên Chúa thông qua Linh mục đại diện Chúa lắng nghe lời thú tội của hối nhân, để hướng dẫn, “advise” để con người trở lại thân thiết với Chúa, gần gủi Chúa hơn và cũng từ đó kết hợp với mọi người.

Cháu được rước lễ là được gặp gỡ Chúa trong mình Thánh Chúa để được thánh hóa, được ơn nghĩa Chúa trong đời này lẫn đời sau.

Cảm tưởng của ông bà, cha mẹ khi con cháu được rước lễ lần đầu thật vô cùng sung sướng và cảm động vì cháu đã lớn, đã biết phân biệt tội lỗi, được rước Mình Máu Thánh Chúa, được gần gũi Chúa, biết yêu mến Chúa và được Chúa yêu thương. Thiên Chúa sẽ hướng dẫn chăm lo cho đời sống hàng ngày của các cháu, cũng như các cháu biết tin tưởng  vào Thiên Chúa toàn năng. 

Bà nội(người thứ ba bên trái) kế là Michelle (chị của Colby) Colby (áo trắng, thắt nơ đỏ)

ở truớc nhà thờ Ngôi lời Nhập Thể

Xin cám ơn cô giáo Thảo, các thầy cô đã bỏ rất nhiều thì giờ công sức trong  nhiều năm qua để hướng dẫn dạy dỗ tiếng Việt và giáo lý cho các cháu để các cháu không quên cội nguồn là người Việt nam và biết kính Chúa, yêu người ngay từ thời còn nhỏ.

Phùng văn Phụng

 Ngày 05 tháng 06 năm 2010

Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn

 

     Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn (tên thánh là Phêrô)

                          (1930- 2009)

            Trong quyển “Đất nước tôi”, Hồi ký chính trị của Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, đuợc biết ông sinh tại Cần Thơ năm 1930. Năm 1951 động viên khóa 1 sinh viên Sĩ Quan Trừ bị Thủ Đức.1953 trúng tuyển khóa 1 Học viện Quốc Gia Hành Chánh. 1957 tốt nghiệp Thủ khoa khóa 1 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.

1958 Quận Trưởng Cái Bè, Định Tường.

1959 -1967 Phó Tỉnh Trưởng Định Tường, Phước Tuy và Long An.

1967-1971 Dân biểu Hạ Nghị Viện.

1971-1975 Chủ tịch Hạ Nghị Viên.

1975 Thủ tướng VNCH.

            Ký giả Hạnh Dương viết: “Trong cuộc phỏng vấn cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã cho hay rằng dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lúc ông làm Quận trưởng Cái Bè, Phó Tỉnh Trưởng Định Tường và Phó Tỉnh trưởng Phước Tuy, ông đã nhiều lần được đảng Cần lao yêu cầu ông trở lại đạo Công giáo, ông đã quyết liệt từ chối. Nhưng khi đến định cư tại Hoa Kỳ, sau khi con gái của ông tử thương vì tai nạn, ông đã buồn, khóc rất nhiều và mắt của ông gần như bị mù. Nghe nói Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes) tại Pháp là nơi linh thiêng và nhiều người khấn xin, đuợc Đức Mẹ chửa lành, nên phu nhân của ông đã đưa ông qua Pháp để đến cầu nguyện tại nơi Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette từ ngày 11-2-1858 đến ngày 16-7-1858 trong 18 lần khác nhau. …

            Cho đến nay sau ba lần khai mở hầm mộ của nữ tu này để khám nghiệm, làm thủ tục phong Thánh thì điều rất ngạc nhiên xác của nữ tu Marie Bernard này vẫn nguyên vẹn và mềm mại như người đang ngủ. Hiện nay thi thể của nữ tu được bỏ trong quan tài bằng kính trong suốt và để trong nhà nguyện cho mọi người đến kính viếng cầu nguyện.

            Cựu Thủ Tướng nói rằng ông chỉ đi theo đề nghị của vợ ông mà thôi chứ chẳng có tin tưởng gì. Nhưng sau khi thấy những điều kỳ diệu như thế nên ông đã cầu nguyện và không ngờ là sáng hôm sau, sau khi thức dậy, hai mắt ông bừng sáng như chưa hề bịnh tật gì. Và từ đó ông đã xin theo đạo Công giáo và được  thanh tẩy tại Lộ Đức ở Pháp và trở lại Hoa Kỳ đi nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, rất sùng đạo, sống bình dị cho đến giờ phút ông vĩnh biệt gia đình và cộng đồng người Việt tự do tại Hoa Kỳ và Hải ngoại.

            Ông mất ngày thứ tư 20-5-2009.

            Thánh lễ cầu hồn cho linh hồn Phêrô tại nhà thờ Maria Goretti lúc 10 giờ ngày thứ tư 27 tháng 5 -2009,  và hạ huyệt tại nghĩa trang Oak Hill, San José.

nguồn: http://ngothelinh.tripod.com/Nguyen_Ba_Can.html

tác giả : Phùng văn Phụng

trong bài “Đức Tin Là Một Hồng Ân”

 sách: “Tâm Tình Gởi lại” cùng tác giả

 

Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương.

Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương.  

Nguyên là Giáo sư viện Đại Học Đà Lạt năm 1965-1976. Sinh ngày 24-9-1925 tại Vinh, nguyên quán Thịnh Xá, Hương Sơn, Hà Tỉnh.

Là bào đệ của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện một đảng viên nồng cốt của đảng Cộng sản Việt nam, thân phụ là Nguyễn khắc Niêm, nguyên Án Sát tỉnh Nghệ an vào năm 1930, về hưu  năm 1943 với phẩm hàm Hiệp Biện Thượng Thư. 

Năm 1938 đậu tiểu học, theo học chương trình Pháp tại trường Thiên Hựu, trường tư thục có giá trị nhất thời đó. Tác giả viết: “Cái quyết định của mẹ tôi là do sự xếp đặt của Thiên Chúa, có vậy mới biết đến Chúa Giêsu, mới là tín hữu của Ngài”. 

Sau tú tài II tác giả từ giả Huế về quê với tâm niệm mình là một Phật tử với ý nguyện sẽ xuất gia khi gặp dịp thuận tiện. Trên đuờng về quê tác giả ghé thăm anh Vương đình Lương, lúc ấy làm Hiệu trưởng trường tư thục Đậu Quang Lĩnh. Anh Lương mời cộng tác. “Thế là tôi lại trở về với môi trường tư thục Công giáo. Được trở về sống trong cái khí quyển mà tôi hấp thụ sáu năm tại trường Thiên Hựu Huế. Tôi như một cây héo rũ bỗng được hồi sinh. Ngoài các sinh hoạt chức nghiệp, tôi thường liên lạc với các linh mục, các đại chủng sinh giúp nhà xứ Nghĩa Yên. Dần dần tôi mới khám phá ra rằng chỉ có môi trường Công giáo mới hợp với con người tôi”. 

Vào năm 1948 tác giả quyết định gia nhập đại gia đình Công giáo. “Trong tâm tư thì như vậy, nhưng đi đến thực hiện quả là còn cách núi ngăn sông. Trước hết là những khó khăn trong tâm tư của chính mình nhất là cảm tưởng phải xa lìa tất cả, xa lìa gia đình, bạn bè, hàng xóm rồi cả mấy mươi năm truyền thống văn hóa.” Trở ngại khách quan khác lớn lao hơn nhiều:  “Đối với nhà nho cỡ lớn ở đất Nghệ Tỉnh có đứa con theo đạo là sự sĩ nhục… thằng con trai  đã bỏ truyền thống của cha ông để đi theo “Tây Dương Tả Đạo” nhất là tôi là con là cháu được khen là hiếu thuận.”   

Vào dịp Lễ Giáng Sinh năm 1948, tôi đến Đức Thọ  thăm gia đình anh Vương Đình Lương. Ngày hôm sau được Linh mục Vương Đình Ái mời dự bửa cơm mừng lễ với các giáo viên dạy trường Đậu Quang Lĩnh. Sau bữa cơm tôi thưa với Cha Ái về ý muốn lảnh nhận bí tích rửa tội.  

Và ngày Rửa tội là ngày 9 tháng 1 năm 1949, Linh mục rửa tội là Linh mục Nguyễn ngọc Bang  cha xứ Nghĩa Yên. Cha đỡ đầu là Linh Mục Vương đình Ái. 

Nguyễn Khắc Dương vào dòng Phanxicô sống đời dự tu đầu tiên khóa 1949-1950. Tháng 04 năm 1954 rời khỏi nhà dòng vì bị động viên vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trong thời gian này thân phụ bị đấu tố, kết án 20 năm tù và đi cải tạo vài hôm thì từ trần.  

Sau hơn hai năm quân vụ, tháng 10 năm 1956 được tu viện Phanxicô cho sang Pháp học thần học tại Paris (1956-1957). Ra khỏi dòng, học Sarbonne 1957-1960, tốt nghiệp Cử nhân Triết học. Thử tu tại dòng Biển Đức ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ (1961-1963) nhưng không thành vì lý do sức khỏe. Từ năm 1963 đến 1965 dạy học ở nhiều trường trung học Công giáo ở Paris. 

 Cuối năm 1965 Nguyễn Khắc Dương trở về Miền Nam Việt nam. Năm 1966 Linh Mục Nguyễn văn Lập Viện trưởng Viện Đại Học Đà Lạt mời ông lên dạy triết tại đó. 

Khi cộng sản tiếp thu Viện Đại học Đà lạt ông cũng bị đi học tập cải tạo 16 tháng. 

Năm 1975 đến 1986 đổi cư trú trên 10 lần, không nhà, không cửa, không tài sản, không vị trí gì cả trong Giáo hội cũng như trong gia đình và ngoài xã hội.  

Phùng văn Phụng

trích sách “Tâm Tình gởi lại”

nguồn: conggiaovietnam.net

Giáo sư Nguyễn Khắc Dương

của Đỗ Tân Hưng

 

Vài chuyện đáng suy gẫm?

                        Vài chuyện đáng suy gẫm?

                 (Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.) 

                                                                                                                             (1 Ga 4,8)

                                                                                                 tác giả: Phùng văn Phụng

  Câu chuyện 1:

 Tuần rồi tôi có nhận được E.mail của người bạn nội dung như sau:

Tin khẩn: Cha qua đời con ở đâu?

Hải quân Trung tá Nguyễn thiện Nhựt (Noel) khóa 3 sĩ quan hải quân (Đệ Nhị Bắc Giải) từ trần tại bịnh viện Corner Stone (Houston) hơn hai tuần lễ nhưng không có thân nhân đến nhận xác. Được biết Niên Trưởng Nguyễn thiện Nhật có hai người con ở Cali nhưng không ai biết địa chỉ..

Xin Quý vị, Quý Niên trưởng và Chiến Hữu vui lòng giúp đỡ tìm kiếm…

 Trước năm 1975 Trung tá Nhựt đã phục vụ trong binh chủng hải quân của quân lực Việt nam cộng hòa. Tôi không biết Trung tá Nhựt có đi “cải tạo” không hay là ông đã di tản qua Mỹ trong những ngày cuối tháng tư năm 1975.Tại sao có những người cao niên sống ở nước Mỹ gặp nhiều chuyện buồn đến như vậy?. Con cái không thường xuyên thăm hỏi cha mình, cha bịnh, cha mất mà không hay biết.? Đạo làm người bình thường thăm hỏi cha mẹ khi ốm đau cũng không có. Nếu là người công giáo, chắc là người con đã quên điều răn thứ tư trong 10 điều răn của đạo Chúa là “Thảo kính cha mẹ” cũng như quên lời thánh Phao lô đã dạy: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ … để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. (Ep 6:1-3)

 Câu chuyện 2:

 Tự tử tập thể ngay tại truờng.

 *Ba em nữ sinh Nguyễn thị Mỹ Hạnh, Lê thị Bích Loan, Nguyễn thị Cẩm Nhung học cùng lớp 7A trường trung học cơ sở (THCS) Phan Chu Trinh, xã Đắk Sắk, huyện Đắc Mil, tỉnh Đắc Nông. Cả ba là bạn thân nhau cùng học khá, giỏi. Ba em này rủ nhau tự tử vào sáng ngày 17 tháng 3 năm 2012 vừa qua ngay tại trường.

 *Trong năm nay, cuối tháng 2 vừa qua, một nữ sinh lớp 12 Trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong (Nam Định) bất ngờ thắt cổ tự tử tại khu ký túc xá của trường. Cũng cùng thời gian ấy một học sinh có học lực khá của trường THPT bán công Đông Hưng (nay là trung học phổ thông Đông Quan, Thái Bình) đã nhảy từ lầu 2 xuống sân trường tự tử chỉ vì lý do rất bình thường là bị cô giáo môn toán mắng.

 *Ngày 9-2 em H. học sinh lớp 9 trường THCS xã Cẩm Đền huyện Cẩm Giang 2 Hải Dương chỉ vì lén lấy trộm chiếc quần jean của cửa hàng bán quần áo. Khi bị bắt quả tang, cửa hàng gọi gia đình đòi  300,000 đồng. Thế là em H. nhảy sông tự tử.

 *Khoa cấp cứu bịnh viện Nhi đồng 2 ở Sài gòn ngày 29 tháng 2 đã cứu sống một nữ sinh lớp 8 trong tình trạng nguy kịch vì uống  hai vĩ thuốc panadol 500mg (20 viên) để tự tử. Lý do em buồn vì  cô giáo đối xử với em không công bằng, gia đình không cho em xài điện thoai di động.

 *Em L.T.D. học sinh lớp 11 trường Dân tộc nội trú, huyện Điện Biên Đông, ăn lá ngón chết chỉ vì hờn mát trước câu nói của bố “Con dùng điện thoại phải giữ cẩn thận nếu làm hỏng bố không có tiền sửa cho con đâu!”… (Trong bài Hội chứng chán sống và hội chúng khỏa thân của Văn Quang, Thời báo số 281 ngày 30-03-2012)

 *Theo nhà báo Bùi Tín trong bài “Người khổng lồ bệnh hoạn đăng trong đài VOA ngày 02-4-2012,  thì mỗi năm Trung Quốc có 287.000 người tự tử (thống kê năm 2000). Mỗi ngày Trung Quốc có 3.500 vụ phá thai.

 Hiện tượng tự tử của các em, các cháu còn nhỏ tuổi đã làm cho ông bà, cha mẹ phải suy nghĩ, do tình trạng tâm lý ích kỷ, chỉ nghĩ đến cá nhân, chỉ nghĩ về mình, do gia đình và xã hội đã dạy dỗ như thế nào đối với các em?. Chắc chắn là các em thiếu một đời sống tinh thần, thiếu một đời sống tâm linh, thiếu mục đích sống, không biết sống để làm gì? Các em không được dạy cần biết sống yêu thương, bác ái, sống vì người khác mà người gần gủi nhất là cha mẹ và bà con chòm xóm vv.. Nếu các em được dạy dỗ biết sống bác ái, biết sống cho tha nhân, có lẽ các em chắc đã không có hành động nông nổi như vậy.

Còn con số tự tử đáng báo động ở Trung Quốc đủ cho chúng ta thấy khủng hoảng niềm tin nơi con người thời nay. Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng, vào đời sau vĩnh cửu con người mất phương hướng, không biết sống để làm gì, do đó tình trạng bơ vơ, chán sống thúc đẩy con người tự tử chăng?

 Truyện thánh Gióp trong Cựu Ước

 Truyện thánh Gióp kể rằng ông là người kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác. Ông có 7 người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn gia súc gồm 7 ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò….

Vậy mà một ngày kia … trong lúc bò của ông cày ruộng, lừa cái ăn cỏ bên cạnh. Dân Sơva đã xông vào cướp lấy chúng, dùng gươm giết chết hết các đầy tớ…

Người Can đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà chúng dùng gươm cũng giết hết các đầy tớ của ông. 

Rồi có một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà, nhà sập xuống đè trên đám trẻ, các con của ông, họ đang ăn uống chết hết…

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:

“ Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho,

ĐỨC CHÚA lại lấy đi: Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!” . Satan hành hạ ông Gióp khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho đến đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro lấy mảnh sành mà gãi. Khi bà vợ ông trách móc ông và nói với ông : “Ông hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi.:” Nhưng ông Gióp đáp lại: …”Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” Ông Gióp không buông một lời nào trách móc phạm đến Thiên Chúa.

Nếu tin vào Thiên Chúa như thánh Gióp thì con người sẽ có thể chịu đựng được những khó khăn vui vẻ chấp nhận những thử thách trong đời sống hàng ngày.

 Câu chuyện 3:

 Chưa đầy 16 tuổi đã quay phim sex với người tình.

 Cô giáo của trường THPT Ngô Gia Tự (Vĩnh Phúc) nghi ngờ khi thấy các học sinh lớp 10 của trường chuyền tay nhau chiếc điện thoại trong giờ học, cô giáo đã thu giữ chiếc điện thoại này.

Kiểm soát chiếc điện thoại trong giờ học cô giáo mới tá hoả khi nhìn thấy trong điện thoại cảnh “nóng” dài 30 phút của một nữ sinh chưa đủ 16 tuổi với bạn trai. Nhân vật nữ trong clip là em N.T.A. (sinh năm 1996) học sinh lớp 10 của trường Ngô Gia Tự này.

Người tình, nhân vật nam trong clip sex này là P.V.C. sinh năm 1991 ở tại xã Xuân Lộc, huyện Lâp Thạch.

.. Điều đáng nói clip quay cảnh nóng trên đã nhanh chóng được chia sẻ qua con đường điện thoại với tốc độ kinh hoàng. Rất nhiều học sinh của trường đã lưu lại trong điện thoại để chụm đầu xem, bàn tán…thú vị!!!

Một chuyện khác khó tin và khôi hài hơn là em Chu Thị D…học lớp 12, trường THPT Diễn Châu 2 (Nghệ An) đang ngồi học trong lớp bất ngờ kêu đau bụng và được mọi người đưa đi bịnh viện: 15 phút sau nữ sinh dưới sự giúp đỡ của các bác sĩ  đã sinh hạ một bé gái. Sự việc xảy ra sáng ngày 11 tháng 3 vừa qua.(trong bài báo Hội chứng chán sống…đã dẫn)

 Trách nhiệm cho những việc làm đáng tiếc trên thuộc về ai? Gia đình (ông bà cha mẹ) hay xã hội (bà con chòm xóm, thầy cô giáo dạy học các em) hay nhà cầm quyền (có quan tâm lo lắng, làm gương mẫu trong đời sống hằng ngày) để các em bắt chước noi theo.

  Các em không biết Thiên Chúa là ai, không còn biết kính sợ Thiên Chúa nữa thì điều gì các em cũng có thể làm được cả. Còn cha mẹ chỉ lo làm ăn kiếm tiền, không quan tâm đến đời sống tâm linh cho chính mình và cho con cái vì “không ai vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Khi cha mẹ chỉ biết lo kiếm tiền, bỏ bê con cái, không lo dạy dỗ chúng sống có lý tưởng, biết yêu thương cha mẹ, anh chị em, biết yêu mến tha nhân, người đồng loại thì những vấn nạn trên càng xảy ra nhiều hơn nữa..

 Tôn giáo, tình yêu thương lẫn nhau… đã vắng bóng trong các gia đình này chăng?

 Những vấn nạn này làm cho những ai quan tâm đến giáo dục giới trẻ, đạo đức xã hội, tương lai dân tộc đáng suy gẫm?

 Phùng văn Phụng

Những tâm tình của các tân tòng sau đêm “Rửa tội”

Những tâm tình của các tân tòng sau đêm “Rửa tội”

nhân ngày lễ Phục sinh vừa qua.(28-04-2012)

                                                             Phùng văn Phụng ghi

 Ngày lễ Phục sinh vừa qua các nhà thờ Việt nam tại Houston đã làm lễ “Rửa tội” và Thêm sức cho khoảng gần 100 người lớn. Sau một thời gian trao đổi, học hỏi về Thiên Chúa, về Đức Mẹ, về Giáo hội Công giáo các anh chị em tân tòng đã thực sự làm con cái Chúa sau khi nhận Bí Tích Thanh tẩy này.

Chúa nhật vừa qua, các anh chị em thuộc giáo Xứ Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập Thể chia sẻ những cảm nghiệm sau khi “Rửa tội” làm con cái Chúa.

Tất cả các anh chị ngồi thành vòng tròn đa số đều nói rất hồi hộp, lo lắng nhưng sau khi rửa tội rồi rất vui mừng, có người cảm giác giống như đi trên mây, vui hơn ngày đám cưới nữa. “Happy” này không thể giải thích được. Chị Hương nói rằng:”Con cái đi theo chạy tung tăng. Mãi đến 3 giờ sáng mới đi ngủ được, phải chở con đi đến tiệm MacDonald mua đồ ăn vì quá đói.”

Có chị rất mong muốn được rửa tội, nhưng trục trặc giấy tờ của người chồng, nên phải chờ đợi khoảng 9 năm mới xong giấy tờ, kỳ này mới được rửa tội. Chị nói rằng chị rất vui vì chờ đợi quá lâu và chị nói “Ráng sống làm sao cho được lòng Chúa. Chị cũng mong muốn trở lại lớp kỳ tới để học hỏi thêm vì đức tin còn yếu”. Chị cũng mong muốn phó thác mọi sự, công ăn việc làm, chuyện gia đình, những khó khăn hàng ngày cho Chúa.

Một chị nhà ở South 45 đã hết sức cố gắng vừa đi học vừa đi làm mà mỗi sáng chúa nhật đều cố gắng đến nhà thờ để học đạo. Chị vừa vui mừng, vừa lo lắng bây giờ thì rất hảnh diện làm con cái Chúa.

Sau khi rửa tội có anh đã để đèn cầy và áo rửa tội ở gần giường ngủ để nhắc nhở mình làm thể nào giữ được sự trong trắng, ít lỗi lầm, ít phạm tội cầu mong Thiên Chúa tha thứ. Bây giờ ai nấy đều thấy vui hơn trước.

Thầy Bạch nói: “Chỉ mơ được rước Mình Máu thánh Chúa vì Mình Máu thánh Chúa nuôi dưỡng chúng ta để chúng ta có sức làm việc.”

Phùng văn Phụng ghi

28 April 2012

Cựu hoàng Bảo Đại

            Cựu hoàng Bảo Đại: (1913-1997). 

                                                                                            tác giả: Phùng văn Phụng

 Trong bài “Bất trắc và bất ngờ trong lịch sử ” đăng trên báo Dấn Thân, bộ 5 số 12 tác giả Linh Mục (1) Nguyễn Thái Hợp có viết: “Sau khi bị truất phế qua cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955 ông sống lưu vong tại Pháp.

Vào giai đoạn cuối đời ông sống đạm bạc ở Paris trong một căn hộ thuộc chung cư ở đường Fresnel, quận 16. Chung cư này nằm cạnh khu đồi của công viên Trocadero. Những ngày đẹp trời ông thường đi dạo chung quanh khu công viên Trocadero. Thỉnh thoảng cũng ghé vào nhà thờ Saint Pierre de Chaillot nằm gần đấy để thăm Linh Mục Argomathe, chánh xứ Chaillot, một chuyên gia về lịch sử, khởi đi từ những câu chuyện văn hóa và thời sự vô thưởng vô phạt. Cùng với thời gian, cuộc đàm đạo càng ngày càng đi sâu vào lảnh vực tư tưởng và tâm linh, đặc biệt về Kitô giáo. Cựu hoàng tìm gặp nơi niềm tin Kitô giáo ý nghĩa, niềm vui và lẽ sống ở đời. Chính vì vậy bất chấp ý kiến không đồng thuận của một số người, ông nhất quyết xin gia nhập Đạo Chúa. Ngày 17 tháng 4 năm 1988 ông chịu phép thanh tẩy tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot với tên Thánh là Jean Robert. Liền theo đó, ông chịu phép thêm sức và cử hành lễ hôn phối với bà Monique Baudot.

Năm 1995, chính Cựu hoàng Bảo Đại với tư cách là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn và đồng thời là người Công giáo đã xin yết kiến Đức Giáo hoàng Gioan Phao lô II đã chính thức thay mặt nhà Nguyễn nói lên lời xin lỗi Chúa và Giáo hội.Trong lá thư đề ngày 31 tháng 03 năm 1995 gởi cho Giáo hoàng Gioan Phaolô II để xin yết kiến, Cựu hoàng đã viết: “Đây là dịp hạnh phúc cho chúng tôi được quỳ bên cạnh Đấng kế vị thánh Phêrô để cầu nguyện cho Việt nam và Giáo hội đang chịu đau khổ ở đó. Và qua sự kiện chúng tôi đã chịu phép thanh tẩy đem lại cho đồng bào chúng tôi niềm xác tín vào tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Đức GiêSu Kitô, Đấng an ủi những người đau khổ. Ngày 24-6-1995 ông và phu nhân được Đức Gioan Phaolô II tiếp kiến riêng tại Vatican…

Linh mục chánh xứ Chaillot cho biết sau khi gia nhập đạo Cựu hoàng Bảo Đại rất ngoan đạo. Ông thường đến nhà thờ cầu nguyện và đặc biệt sùng kính Đức Mẹ Maria.

Cuối tháng 6 năm 1997 cựu hoàng Bảo Đại được đưa vào Quân Y Viện Val De Grace ở Paris. Ông từ trần lúc 5 giờ sáng ngày 31- 7- 1997 hưởng thọ 84 tuổi.

Thánh lễ an táng được cử hành tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot ngày 5 -8-1997 với sự chủ sự của Linh Mục Guyard, đại diện Hồng Y Giám Mục Paris. Bài “Magnificat” mà ông thích nhất một lần nữa đã trang trọng ngân vang trong thánh đường theo đúng ý nguyện của người quá cố.

(1) Hiện nay là Giám Mục,  Chủ Tịch Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình của Hội đồng Giám Mục Việt Nam.

Đọc Hồi ký của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc:Nhìn từ khía cạnh đời sống tâm linh.

     Đọc Hồi ký của Giáo Sư Vũ Quốc Thúc: Nhìn từ khía cạnh đời sống tâm linh.

                                                                                                    tác giả: Phùng văn Phụng

           Đọc xong cuốn “Thời Đại Của Tôi” “Đời Tôi trải qua các thời biến” do Người Việt xuất bản năm 2010, tôi đã nhìn thấy sự cố gắng phi thường, làm việc không mệt mỏi của Giáo Sư cùng với tấm lòng yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Nhưng thời thế đã dẫn đưa con người tài năng hiếm có và có lòng với đất nước ấy phải rời bỏ nước Việt Nam yêu quí ra đi và sống định cư ở Pháp.

 Tôi đã học với Giáo Sư Vũ Quốc Thúc ở Đại Học Luật Khoa Sài Gòn niên khóa 1963-1964.

 Giáo Sư sinh năm 1920 tại Nam Định, Bắc Việt. Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Đại Học Kinh tế ở Pháp. Giám Đốc trường Luật Hà nội (1951-1954). Khoa Trưởng Đại học Luật Khoa Sài gòn (1957-1963). Giáo sư các Viện Đại học Đà Lạt, Sài gòn và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1954-1975). Giáo Sư Viện Đại Học Paris XII (1978-1988)

 Từ năm 1946 đến 1975 từng giữ các chức vụ: Ủy Viên Hành Chánh Kháng Chiến cấp tỉnh, Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, Thống Đốc Ngân hàng Quốc Gia , Cố Vấn Phủ Tổng Thống, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, Quốc Vụ Khanh đặc trách Tái Thiết và Phát Triển…

  Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Giáo sư cũng như hầu hết trí thức miền Nam đều rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giống nhau. Thất nghiệp, bị theo dõi, bị làm khó dễ, nơm nớp lo sợ không biết lúc nào bị bắt đi cải tạo (đi tù) nếu còn ở ngoài đời. Đa số người trí thức miền Nam lúc bấy giờ đều sống trong lo âu, hồi hộp vì họ không ít thì nhiều đều có dính líu với chế độ cũ, mà cộng sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”. Giáo sư Vũ Quốc Thúc không thể thoát khỏi tình trạng đó.

 Trong sách trên, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc viết: “ Tôi không theo Thiên Chúa Giáo, nhưng cũng không phải là một Phật tử. Tôi theo đúng truyền thống Khổng giáo của gia đình không quy y Phật giáo, mặc dầu chấp nhận Phật giáo; không theo Thiên Chúa Giáo nhưng vẫn tôn trọng Thiên Chúa Giáo… Sau khi bị bắt vì mưu toan vượt biên tôi thấy tương lai của mình u ám vô cùng….

  Hằng ngày mặc dầu tôi không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo tôi đã đến nhà thờ Đức Bà.. Tôi cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn. ..Hôm chủ nhật đó nếu tôi không lầm là ngày lễ Pentecôte, tôi đã đạp xe lên nhà thờ Bình Triệu. (1)

 Tôi ngồi trước tượng Đức Mẹ và tôi lẩm nhẩm cầu nguyện…Khi tôi vừa dứt lời cầu nguyện bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên. Tôi cần phải nói rằng hôm đó trời ở ngoài cũng âm u vì vào mùa mưa…Khi tôi cầu nguyện xong bỗng thấy tượng Đức Mẹ sáng rực lên từ trên xuống dưới có lẽ khoảng vài giây đồng hồ thôi. Đặc biệt trên gò má tay mặt của bức tượng có một giọt nước mắt long lanh. Sau đó tôi nhìn kỹ thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như  vậy, giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ  là  một ảo ảnh. Từ  lúc đó  trở  đi, suốt buổi  chiều tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ  đợi một chuyện gì sắp xảy ra. (2)

Sau đó Giáo Sư mở đài BBC nghe lén, đã nghe thấy ông Raymond Barre một người cùng thi Thạc sĩ năm 1950 được Tổng Thống Pháp là Valéry Giscard d’Estaing cử làm Thủ Tướng và Giáo sư đã  thảo bức thơ gởi Thủ Tướng Pháp kể lại hoàn cảnh của mình đang lâm vào sự khốn khó, nhờ đó ông Raymond Barre mới biết và đã can thiệp với Thủ tướng Việt Nam lúc bấy giờ là ông Phạm văn Đồng để giúp đỡ gia đình của Giáo sư sang Pháp.

 Giáo sư Vũ quốc Thúc viết tiếp: “ Sự linh ứng của Đức Mẹ Bình Triệu khiến cho tôi tìm được lối thoát tình trạng bế tắc. Bổn phận của tôi rồi đây là phải thi hành đúng lời nguyện của mình trước Đấng Thiêng Liêng”.(3)

  GS Vũ Quốc Thúc đã gia nhập Giáo Hội Công Giáo (4)

 Hôm 8.4.2012, Lễ Phục Sinh, Giáo xứ Việt Nam Paris đã đón nhận 25 tân tòng nhập đạo, trong đó có Giáo sư Vũ quốc Thúc.

Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

Nhân dịp này trong niềm vui chung của cộng đoàn Giáo Xứ đại gia đình Thụ Nhân trên khắp thế giới và riêng tại Paris, các cựu Giáo sư, sinh viên và gia đình thuộc Viện Đại học Đà lạt đã tổ chức một bửa tiệc chúc mừng lễ rửa tội gia nhập Giáo Hội Công Giáo của Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc, vừa để chúc mừng sinh nhật thứ 92 của Giáo sư. Trong bửa tiệc tiếp tân chúc mừng, Giáo sư  đã nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin. Đặc biệt ông đã thấy ơn của Đức Mẹ.

           Phùng văn Phụng

             17-04-2012

 (1)   trang 540 Sách “Thời Đại Của Tôi” cuốn II

(2)   trang 542 Sđd

(3)   trang 543 Sđd (người viết in đậm và in nghiêng).

(4)   Trong bài Gs Vũ Quốc Thúc đã cùng 24 tân tòng khác gia nhập Giáo Hội Công Giáo của tác giả Trần văn Cảnh đăng trong Việt Catholic ngày 12 -04-2012     xem thêm

Những Cái Vỗ Tay Vô Thanh & Đức Tin Là Một Hồng Ân

 
NHỮNG CÁI VỖ TAY VÔ THANH     tác giả Đỗ Tân Hưng

 
Một tin tức gây sửng sốt cho các Kitô hữu tại Việt-Nam cũng như ở hải ngoại qua bài “BA MƯƠI NĂM CHO MỘT GIẤC MƠ” đăng trên Ephata số 110. Bài đó viết về giấc mơ của một Phật tử – bác sĩ Nguyễn Viết Chung – người mà trước đây rất cảm mến cuộc đời hy sinh của Đức Cha Jean Cassaigne, vi giám mục người Pháp đã gởi nắm xương tàn ở trại cùi Di Linh. Bác sĩ đã ôm ấp một giấc mơ từ ba mươi năm nay là được phục vụ các người xấu số như Đức Cha Jean Cassaigne.

Sau khi tốt nghiệp y khoa vào năm 1980, bác sĩ Nguyên Viết Chung đã tình nguyện phục vụ ở các trại phong cùi và tại đây bác sĩ Chung đã chứng kiến sự tận tụy hy sinh của các nữ tu nghĩa tử dòng Thánh Vinh-Sơn nên đã quyết định theo đạo Công giáo vào tháng 5 năm 1994 với tên thánh Augustinô. Vào tháng 8 năm đó, bác sĩ Chung xin vào tu dòng Thánh Vinh-Sơn và đã nhận lãnh thánh chức linh mục ngày 25 tháng 3 năm nay để có thể tận hiến đời mình một cách trọn vẹn hầu phục vụ các bệnh nhân phong cùi và liệt kháng.

Vì xúc động bởi mẩu tin đó, tôi đã nhờ người bạn thân ở Saigon liên lạc để kiếm giùm cuốn video Thánh lễ phong chức của cha Augustinô Nguyễn Viết Chung. Gần đây tôi đã được toại nguyện khi một linh mục trẻ về thăm Việt-Nam và vừa trở lại Canada đã mang sang cuốn video đó cho tôi. Được xem lại Thánh lể trang nghiêm và sốt mến mà trong đó một bác sĩ – trước kia là Phật tử – nay trong phẩm phục phó tế, đang hiên ngang tiến vào thánh đường họ đạo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Saigon và đã nằm phủ phục trước bàn thờ để nhân lãnh thánh chức linh mục.

Càng cảm động hơn nữa khi tôi được xem cuốn video thứ hai trình bày những hoạt động phục vụ của cha Chung ở tại các trại phong cùi và bệnh liệt kháng. Một quang cảnh đã gây ấn tượng mạnh nơi tôi là khi thấy cha Chung sau khi thăm viếng khám bệnh các bệnh nhân phong cùi xong thì đã đứng vòng quanh với các bệnh nhân đó mà có người đứng, người ngồi hay nằm trên giường hoặc giữa sàn nhà, vừa hát vừa vỗ tay… Thật đau xót khi thấy vài bệnh nhân mà đôi bàn tay không còn một ngón hay chỉ còn một vài nửa ngón mà cũng ráng vỗ tay theo nhịp điệu bài hát!

Trong những sách thiền có đề cập đến công án về “tiếng vỗ của một bàn tay” khiến người Tây phương khi nghiên cứu phải điên đầu về ý nghĩa của công án đó. Thông thường tiếng vỗ chỉ phát ra khi hai bàn tay chạm nhanh và chạm mạnh vào nhau, Cứ suy lý đó thi với một bàn tay không thể nào gây nên tiếng vỗ tay được.

Theo thường tình, phải có môi trường (tức không khí…) thì mới có âm thanh, và chỉ có những rung động hay đột xuất làm thay đổi áp suất của môi trường mới cho chúng ta âm thanh. Vậy một tay đập mạnh trong không khí sẽ cho chúng ta tiếng cọ xát (tức gió), nhưng nếu nhanh hơn vận tốc âm thanh sẽ cho chúng ta tiếng nổ siêu thanh Từ tiếng kêu của vô thanh tới tiếng nổ của siêu thanh đều có thể thực hiện được.
Như vậy không có tiếng vỗ của một bàn tay. Thế nhưng, mục đích của công án đó là để giúp chúng ta tìm sự thinh lặng của vũ trụ, đồng thời cho chúng ta thấy những giới hạn của con người trong những vòng lẩn quẩn của lý luận và của trí thức. Chúng ta phải cảm nghiệm được sự im lặng tuyệt đối hiện hữu trước chúng ta và sau khi chúng ta thôi hiện hữu.

Và như vậy, dưới nhãn quan của thiền gia, người nào nhận ra được chân lý đó sẽ có cơ hội gạt bỏ hết các tạp niệm để hoà mình với vũ trụ, làm một với vũ trụ, trở nên một phần tử cùng hiện hữu với vũ tru. Chỉ có thế chúng ta mới thấy mình và tha nhân là một. Do đó khi mình vượt lên trên mọi đối đãi, thị phi thì mình sẽ tìm về với tuyệt đối, chân như.

Vậy tiếng vỗ “vô thanh” của hai bàn tay mà năm ngón đã rơi rụng hết đã tạo thành những tiếng nỗ siêu thanh xuyên phá quả tim con người! Tiếng nỗ siêu thanh đó đã xuyên thấu con tim của một bác sĩ trẻ tuổi, khôi ngô tuấn tú khiến bác sĩ tỉnh ngộ mà tận hiến đời mình cho những con người xấu số đang mang lấy trong thân xác khổ đau của họ những thiếu sót trong thân thể khổ nạn của Đức Kitô.

Trước đây Phi-la-tô đã trình diện cho dân Do-Thái một Đức Kitô với thương tích đầy mình cùng chiếc mũ gai trên đầu rồi nói: “Nầy là người!” (Ecce homo). Qua cuôn video đó những vết thương đau của Đức Kitô đang hiển hiện qua các thân thể đớn đau của những người phong cùi và liệt kháng cũng được trình diện cho những người dự khán. Ngày xưa khi nói về Đức Kitô khổ nạn trên thập giá, tác giả Thánh vịnh đã viết: “Hởi người bộ hành, hãy đứng lại nhìn xem, có đau khổ nào lớn hơn nỗi đau đớn mà tôi đang chịu đây chăng!” Nỗi đau đớn của Đức Kitô còn đang tiếp nối trong những thân thể bị tàn phá bởi chứng phong cùi hay bệnh liệt kháng. Những tiếng vỗ của một bàn tay vì bàn tay kia đã cùn cụt hay tiếng vỗ của đôi bàn tay mà năm ngón đã rơi rụng hết có cảm động tâm can chúng ta như đã cảm động cậu Nguyễn Viết Chung ba mươi năm về trước không?

Cùng với Lm. Nguyễn Công Đoan, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta được thực hiện trong đời sống mình những tâm tưởng sau đây để hàn gắn phần nào những thương đau của những con người xấu số, những phần thân thể còn đang bị thương tổn của Đức Kitô:

Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa
Làm chân tay cho những người què cụt,
Làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
Làm lỗ tai cho những người bị điếc,
Làm miệng lưỡi cho những người không nói được,
Làm tiếng kêu cho người chịu bất công…

(Trích bài thơ “Như Một Sự Tình Cờ”)

Tác giả: Đỗ Tân Hưng

 
ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN 
nói về Lm. Nguyễn Viết Chung
 
Một ngày vào năm 1973, các báo ở Sài gòn đồng loạt đưa tin về cái chết của Jean Cassaigne, một người Pháp, nguyên là Giám Mục Sài gòn nhưng lại qua đời tại một trại phong ở Di Linh, một nơi đèo heo hút gió trên đường từ Sài gòn đi Đà Lạt. Nguyễn Viết Chung đọc tiểu sử của vị cố Giám Mục trên báo và không hiểu do đâu anh lại mong muốn được nên giống ngài ở chỗ phục vụ người cùng khổ cho đến hơi thở cuối cùng. Anh chẳng biết gì về Đạo Công giáo, thế mà Đức Cha Cassaigne lại là thần tượng của anh.

Năm 1974. Chung học Y Khoa Đại Học Sài gòn. Tại đây anh gặp người công giáo đầu tiên trong đời anh, giáo sư bác sĩ Lichtenberger người Bỉ, dạy môn Mô phôi học. Chung ngưởng mộ sự uyên bác khoa học vô song của ông. Các bài giảng vô cùng sinh động và phong phú của nhà khoa học uyên thâm một cách lạ lùng làm cho Chung mê mẫn. Chung kinh ngạc khám phá vị giáo sư khả kính này là một Linh Mục dòng tên. Anh thường cùng các bạn trường Y đến nhà thờ để xem Giáo sư Lichtenberger dâng lễ.
Những năm học Y khoa không phải là dễ dàng đối với Nguyễn Viết Chung anh phải làm thêm nhiều việc nặng nhọc kể cả đạp xích lô để kiếm tiền ăn học và phụ giúp gia đình.

Năm 1984, bác sĩ Chung khi đó 29 tuổi, xin được bổ nhiệm lên trại phong Di Linh  để thực hiện giấc mơ lớn nhất của đời anh. Nhưng theo đúng thủ tục hành chánh thì anh phải trình diện và chịu sự điều động của Sở Y tế Lâm Đồng. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:

– Anh có điên không hay là anh bị cùi?

– Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi.Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.

Từ ngày 01-7-1986 anh về làm việc tại phòng chống sốt rét của tỉnh Đồng Nai cho tới năm 1989. Từ năm 1990-1992 đổi về làm tại phòng xét nghiệm của bịnh viện da liễu Sài gòn. Ở đây anh xin học thêm chuyên khoa da liễu, vì anh không bao giờ anh quên mộng ước của mình.
Năm 1993 Bác sĩ Chung tình nguyện lên công tác tại trại Phong Bến Sắn, Bình Dương. Tại đây, anh làm việc hăng say như để đạt được tâm nguyện của mình giống như Đức Giám Mục Cassaigne trong việc phục vụ bịnh phong cùi. Anh hết sức tận tụy không nề hà. Nhưng dù như thế anh vẫn thấy mình thua xa các nữ tu nữ tử Bác ái trong việc yêu thương phục vụ người bịnh. Các nữ tu luôn nhẫn nại lắng nghe phục vụ người bịnh hết lòng, không bao giờ làm họ buồn tủi. Tinh thần hy sinh, quảng đại đó khiến cho anh cảm phục. Anh cho rằng muốn có được tinh thần yêu thương người nghèo khổ như thế, anh phải trở thành một người giống như các nữ tu. Anh chưa phải là người công giáo, nên anh không thể hiểu được tinh thần làm việc của các Sơ. Anh cũng muốn được phục vụ với tinh thần giống như các Sơ.

Ngày 28-8-1993 bác sĩ Chung đến gặp Cha Hoàng văn Đoàn, dòng tên, tại Bình Dương xin học giáo lý tân tòng. Ngày 15 tháng 5 năm 1994 bác sĩ Chung được cha chính xứ Bến Sắn, Linh mục Trần Thế Thuận làm lễ rửa tội cho anh tại nhà nguyện trại phong Bến Sắn. Nhưng bác sĩ Chung không hài lòng khi chưa được trở nên giống các Sơ để có thể yêu thương phục vụ người nghèo. Ở tuổi tứ tuần theo đuổi ơn gọi tu sĩ là một điều quá khó khăn.

Ngày 15.9.1994 bác sĩ Chung trở thành tập sinh lớn tuổi nhất của dòng Vinh Sơn nam số 40 đườngTrần Phú, Đà Lạt. Ngày lễ truyền tin 25.3.2003 Giáo hội trao tác vụ Linh mục cho thầy Augustinô Nguyễn Viết Chung qua lễ đặt tay của Giám mục Giuse Vũ Duy Thống tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài gòn.

Ngày  3.4.2003, Linh Mục Nguyễn Viết Chung quay về trại phong Bến sắn dâng Thánh lễ tạ ơn trong sự hân hoan của các bịnh nhân phong với sự hiện diện của cha sở Bến sắn, người mà 9 năm trước đây đã làm lễ rửa tội cho cha. Vẫn thái độ khiêm nhường, yêu thương và cung kính với các người bịnh vẫn xưng mình là “con” khi nói chuyện với các bịnh nhân lớn tuổi.
Tháng 3 năm 2009 tôi có về Sài gòn có dẫn người cháu đến thăm Linh mục Nguyễn Viết Chung, cha dong dõng cao, hơi ốm, nói năng nhỏ nhẹ: “ “con” cũng chỉ là cái máng để hứng lấy tình yêu thương của mọi người để mang đến cho những người kém may mắn”. 

Nhà văn Hương Vĩnh có viết: “Ba vị đã tác động mạnh mẻ trên ơn gọi của cha Chung là Giám mục Jean Cassaigne, Linh mục Lichetenberger và Dì hai Loan ( phục vụ trại phong Bến Sắn 17 năm, chết vì bịnh ung thư ở tại trại này). Cả ba cùng có mẫu số chung – như lời cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói.
Trong bài “Nguyễn Viết Chung và tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ” cố Giáo sư Trần Duy Nhiên đã viết trong đoạn kết của bài này như sau:

“Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian. Nguyễn Viết Chung biết chắc lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan.. đấy là chưa kể đến nhiều người khác trong đó có thân mẫu của mình một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi Cha Lichtenberger vì tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa. Và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bịnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, bác sĩ Nguyễn Viêt Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bịnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chiụ đóng đinh trong những con người bất hạnh. Và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành Linh Mục của Chúa vào tuổi 48.”
 
KẾT LUẬN
 
Theo Vietcatholic news: Ngày 18.10.2009 Giáo phận Xuân Lộc đón nhận 1114 tân tòng và hơn 2000 người là thân nhân, họ hàng, bạn bè của các tân tòng. Chủ sự Thánh lễ, Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận Xuân Lộc cùng đồng tế có Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám mục giáo phận Kontum và hơn 50 cha trong giáo phận.
Ở mỗi giáo xứ hay mỗi nhà thờ hàng năm đều có làm lễ “Rửa tội” cho người lớn, thông thường con số cũng vài chục người. Trong số những người nhận Bí tích thanh tẩy, con số không nhỏ là những người trí thức.
Con đường đến với Thiên Chúa tình yêu, đến với Hội Thánh Chúa bằng nhiều cách khác nhau. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương mời gọi tìm về suối nguồn tình yêu là Thiên Chúa toàn năng, để được an ủi, để được hạnh phúc đời này lẫn hạnh phúc vĩnh cữu đời sau, sau khi mất.
 
Phùng văn Phụng

 

__._,_.___