Quyền Năng Chúa Cho Ta Bình An và Sự Sống Muôn Đời

Quyền Năng Chúa Cho Ta Bình An và Sự Sống Muôn Đời

                      (CN 12TN, Năm B)                               tác giả: Tuyết Mai

 Ai sống ở trên đời mà không biết tí ti gì về Thiên Chúa, thì quả thật là những người tội nghiệp nhất thế giới làm người.   Con người sống ở trên đời thiếu tình cha hoặc thiếu tình mẹ từ nhỏ cũng đã làm cho người đó trở thành bất bình thường.   Chỉ vì khi đứa trẻ lớn lên, thiếu cha hay thiếu mẹ.   Tôi thiết nghĩ đó không được gọi là một gia đình Thánh Gia gương mẫu, nhưng tôi không phủ nhận rằng dù thiếu cha hoặc thiếu mẹ, cũng có rất nhiều người con lớn lên nhờ người cha hay người mẹ đó, mà được thành công và thành nhân trên con thuyền đời.

 Sở dĩ tôi dẫn dụ như thế vì tôi đã dựa trên cuộc đời lớn lên của tôi, có những thời gian tôi sống xa Chúa.   Nhìn lại thì thấy quả cuộc đời của một con người mà thiếu vắng bóng Chúa thì thua thiệt rất là nhiều thưa anh chị em!.   Thua thiệt nhất là sự Bình An mà Chúa trao ban cho con cái nhân loại của Người rất nhưng không.   Như anh chị em hiểu đời thì cũng sẽ hiểu nếu một đứa trẻ lớn lên không có tình cha hoặc tình mẹ, thì đứa trẻ đó có cơ hội vấp ngã nhiều hơn là những đứa trẻ có đầy đủ tình yêu thương của cha lẫn mẹ.   Đó là thống kê rõ ràng nhất và cho thấy nhiều nhất là những đứa trẻ rất dễ phạm tội hoặc thường lao vào vòng lao lý, vì thiếu sự giáo dục của người cha (nhất là con trai).

 Thật khó cho tôi thay khi phải dẫn dụ làm sao để mọi người hiểu được tình yêu thương của Cha chúng ta ở trên trời, khi mà trên đời tôi thiếu thốn cả hai thứ tình cha lẫn mẹ.   Nhưng Chúa đã ban ơn và mạc khải cho tôi hiểu tỏ tường khi mà Người ban cho vợ chồng chúng tôi có được ba cháu nhỏ.   Tình thương chúng tôi đã đổ đầy tràn trên 3 cháu.   Và có thế tôi đã hiểu được rất rành rọt Tình Cha Vô Biên Người yêu thương con cái nhân loại chúng ta ra sao?.   Có phải chúng ta không ai mà không yêu thương con của chính mình từ khi chúng nằm trong dạ của người mẹ?.   Người cha thì nhận được tình yêu thiêng liêng gắn bó nào đó trong ông.   Còn người mẹ thì sự cưu mang trong dạ suốt gần 10 tháng trời.   Và tình cảm thương yêu dành cho con cái của chúng ta cũng gần nhưng không cho đến khi chúng trưởng thành.   Tình cảm ấy đậm đà và khắng khít lắm thưa có phải??.

 Sự cần thiết nhất mà chúng ta dậy cho con cái của chúng ta là phải biết Thiên Chúa và Tình Yêu Vô Biên của Người.   Ai trên trần gian này có cha hoặc có mẹ thì đã hiểu được tình yêu nhận lãnh từ các ngài ra sao, thì Thiên Chúa của chúng ta lại còn trao ban cho hết thảy chúng ta tất cả những gì Người có.   Ngoài cha mẹ trần gian của chúng ta ra thì xin chớ nên dựa dẫm vào quyền lực của bất cứ ai khác mà có ngày hệ lụy cho chính bản thân của mình và của cả gia đình của chúng ta nữa.

 Thật phải khi tôi nói ra điều ấy, vì có phải ngoài cha mẹ chúng ta ra thì ai có quyền năng và hỗ trợ cho chúng ta khỏi mọi sự dữ cho bằng chính Thiên Chúa là Cha rất nhân lành của chúng ta?.   Con người thì khi làm ơn cho ai, cũng đòi sự đáp trả, không bây giờ thì mãi sau này chúng ta vẫn phải mang cái nợ.   Không gì mạnh mẽ và cho chúng ta cái nhìn rất thực tế cho bằng trong bộ phim Bố Già.   Có phải Bố Già ấy cũng giữ đạo mạnh mẽ lắm không? Và có phải Bố Già ấy cũng gây bao nhiêu tội lỗi cho chính ông, gieo gương mù gương xấu cho gia đình, và cho xã hội?.   Ở cái thời xa xưa ấy, sao thiên hạ lại rất mê và xem ông như một Bố Già của thời đại, nổi tiếng, và đầy uy quyền, của một xã hội đen tối như thế!?.

 Một con người hạnh phúc nhất trần đời là vừa có cha mẹ trần gian, lại vừa có Cha Mẹ trên trời, luôn gìn giữ và yêu thương chúng ta.   Ai trên đời mà cho chúng ta sự tin tưởng vững mạnh cho bằng cha mẹ của chúng ta?.   Thế thì ai là người mà cha mẹ chúng ta lại hết lòng tin tưởng? Thưa đó là Thiên Chúa mà cha mẹ chúng ta cả một đời đặt niềm tin vào Đấng đó.   Một Đấng mà không bao giờ kết án hay kết tội chúng ta.   Một Đấng mà quyền năng của Người vượt xa mọi trí hiểu biết của mọi tạo vật.   Một Đấng mà có thể ban Nước Trời và hạnh phúc của Người cho chúng ta, hay Đấng ấy có thể liệng xa chúng ta vào Hỏa Ngục đời đời, nếu chúng ta khi dể và coi thường Người.  

 Vâng, thưa Đấng ấy đã chứng tỏ rất rõ cho chúng ta hiểu qua sự điều khiển (control) cho sóng gió phải yên lặng, và chúng đã phải tuân theo.   Con người của chúng ta ai cũng rất yếu đuối và sợ hãi nhất là khi thiên tai xẩy đến.   Khi con người phải đối diện với thiên tai thì chúng ta thường chạy đến và cầu khẩn ai? Chẳng lẽ chúng ta bấy giờ tìm chạy đến với những con người rất tầm thường như chúng ta vậy sao?.    Ồ bấy giờ thì những con người ấy họ cũng bỏ của mà chạy lấy mình như chúng ta vậy, thưa có phải??.   Có thể lúc bấy giờ họ mất cả lương tri mà bảo chúng ta làm những điều rất ư là vô lương tâm, để giúp họ qua cơn khủng hoảng cũng nên, vì chúng ta luôn thiếu nợ họ cơ mà, thì đây là lúc mà chúng ta phải trả nợ cho họ như sự yêu cầu hay sự ra lệnh của họ?.

 Thiên tai sợ hãi lắm thưa có phải? Nhất là động đất sẽ dẫn tiếp đến nước biển tràn vào đầy bờ và giết chết bao nhiêu con người ta như vừa rồi tại Nhật Bản.   Rồi giông bão xẩy ra trên biển như trong bài Tin Mừng của tuần này.   Rồi giông tố xẩy ra ở khắp mọi nơi, đã bốc sạch tất cả những gì trên đường đi của những con lốc xoáy vừa mẹ vừa con.   Rồi cháy rừng, bùn trôi, đất trôi, gạch trên núi trôi, băng trôi, v.v….. Quá sợ hãi thay cho con người nhỏ bé phải chịu những cảnh tang thương, chết chóc, và mất mát này!.

 Gặp nạn thiên tai, Ai chúng ta phải chạy đến mà khẩn cầu mà van xin cho chúng ta cùng gia đình được thoát nạn và được bình yên vô sự?.   Câu trả lời chỉ có Thiên Chúa rất lòng lành của chúng ta mà thôi! Vì trong khoảnh khắc ấy chỉ có Người muốn cho chúng ta còn có được sự sống hay sự chết.   Mà cũng chỉ chính Người là cho chúng ta sự Sống Muôn Đời hay cái chết muôn đời trầm luân nơi Hỏa Ngục không có ngày ra.

 Giữa hai sự chọn lựa, tôi thiết nghĩ anh chị em sẽ khôn ngoan mà chọn lựa cho cuộc đời của mình cái Sống giả tạo hay cái sống Vĩnh Cửu muôn đời trên Quê Trời.   Nói chi cho xa xôi, mà không nghĩ ngay đến hiện tại và tương lai là cuộc sống của chúng ta hạnh phúc như thế nào, khi có Chúa luôn hiện diện trong và luôn bên cạnh chúng ta.   Có hạnh phúc lắm không khi chúng ta luôn được Người quan phòng?.   Có hạnh phúc lắm không khi chúng ta để cho Người luôn ban cho chúng ta mọi điều mà mọi cái Người có thể ban cho chúng ta?.   Có hạnh phúc lắm không khi để Người che chở và phù trì để chúng ta không phải lo lắng và phiền muộn, vì Người biết điều gì chúng ta cần và phải có?.   Có khôn ngoan lắm không khi chúng ta cứ luôn muốn thấy người sang bắt quàng làm họ?.

 Lậy Thiên Chúa Người là Tình Yêu và là Quyền Năng trên chúng con! Sao chúng con có thể mù quáng mà không chọn Người trong cuộc đời của chúng con.   Người là Omega, là Hằng Hữu, và đầy quyền năng.   Xin cho chúng con sự khôn ngoan là luôn Chọn Chúa, vì Chúa mới có Sự Sống Muôn Đời.   Vì Chúa mới có Lời ban sự sống.   Vì Chúa mới ban cho chúng con Sự Bình An rất cần thiết cho cuộc đời rất bon chen và ô trọc này!.   Mọi sự mời mọc quyến rũ khác chỉ là bánh vẽ.   Mọi sự bóng bẩy của trần gian này không khác những casino đầy màng nhện được giăng đủ loại đèn của những tội lỗi do ma quỷ chúng bày ra và làm cạm bẫy để lấy mất linh hồn của chúng con.

 Xin ban cho chúng con sự khôn ngoan tối thiểu, đủ hiểu đâu là Sự Sáng, Sự Sống, và là Sự Chết.   Để quyền năng và tình yêu của Người luôn thống trị, vinh hiển, và hằng hữu muôn đời trên mọi tạo vật mà Người rất thương yêu tác tạo, nhất là giống con người mà có mang hình ảnh giống Người.   Amen.

 ** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=oH2uKOVe7DY

     (Tôi Hớn Hở Mừng)

 Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(06-19-12)

“TRÁI TIM MẸ SẼ THẮNG !”

“TRÁI TIM MẸ SẼ THẮNG !”

                                                       Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

                                                                nguồn: conggiaovietnam.net 

 Những ngày còn bé tôi đã được nghe thông điệp này, “Trái Tim Mẹ sẽ thắng” luôn đi kèm thêm câu “nước Nga sẽ trở lại”. Với tâm hồn trẻ thơ tôi đón nhận thông điệp một cách tự nhiên không thắc mắc, những lời nguyện cầu đi vào tuổi thơ của tôi nhẹ nhàng với những buổi “đọc kinh liên gia” mỗi tối, nhất là trong tháng mười, tháng kinh Đức Mẹ. Cứ thế, hằng đêm tiếng cầu kinh của bọn trẻ chúng tôi theo sau người lớn vang lên hết từ nhà này qua nhà khác. Tôi hiểu dễ dàng về một nỗ lực cầu nguyện cho một nước Nga xa xôi nào đó “ăn năn trở lại”. Lại nữa, thỉnh thoảng Nhà Thờ phát động “bó hoa thiêng liêng”, bọn trẻ chúng tôi được dạy cầu nguyện và hãm mình hy sinh một điều gì đó để cầu nguyện cho “nước Nga trở lại”.

Lớn lên, chiến tranh lan tỏa khốc liệt trên quê hương đất nước, bạn bè tôi từng đứa rời ghế nhà trường vào binh nghiệp, ngay trong xóm ngõ cũ, những thằng bạn nghịch ngợm, ngày xưa rủ nhau kinh sách mỗi tối cũng lần lượt ra đi. Rồi có những đứa trở về, về rồi lại đi ra khỏi xóm trong chiếc quan tài sắt lạnh giá, những bà mẹ khóc rũ bên xác con, bọn tôi nhìn nhau ngao ngán, những đứa còn sống chẳng nói lên lời, chẳng còn nước mắt mà khóc nhau.

Có những hình ảnh bỗng dưng theo mình suốt đời. Sáng sớm giật mình thức dậy, tiếng trống kèn xôn xao chen tiếng khóc, từ trên ban công nhìn xuống, mặt trên của chiếc quan tài khi di chuyển cứ xô dạt theo nhịp đi của những người lính chung sự ( đơn vị phụ trách chôn cất của quân đội Cộng Hòa ) trong đoàn đưa đám tang đang rời xóm.

“Bốp ba gác” chết rồi, quan tài anh phủ màu cờ ! Rồi đến Sơn, người sĩ quan Trung Tá dù, chiếc gối đỏ đặt đầu quan tài gắn lên đó huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Bên cạnh chiếc bông mai vàng cũ người ta gắn thêm một chiếc bông mai nữa, Sơn vẫn nằm lặng im bên trong chiếc quan tài lạnh giá. Rồi một chiều nghĩa trang lộng gió, chiếc quan tài “Tăng thẹo” được phủ cờ, tiếng kèn tiễn biệt nghe não lòng, hai hàng lính đứng nghiêm hai bên mộ huyệt, bồng súng chào từ giã trong tiếng súng nổ khô khốc… Nhưng còn những thằng bạn đi mà chẳng bao giờ về, “Hải vua thả diều” đi biền biệt, cho đến bây giờ gia đình vẫn chưa tìm được tông tích hắn đã nằm xuống nơi nào.

Thời thế như vậy nên việc “nước Nga sẽ trở lại” thật sự rất mơ hồ nhòa nhạt trong tâm tư của tôi, cầu thì cứ cầu nhưng tôi nghĩ khó lắm, hai cực thế giới lạnh băng căng thẳng, làm sao có chuyện đổi thay ? Biến cố năm 1975 ập đến, ý tưởng “nước Nga sẽ trở lại” càng xa vời trong tâm trí, dù lời kinh vẫn còn đó, lời cầu vẫn còn đó, ý tưởng vẫn còn đó nhưng nghe sao khó khăn và diệu vợi, càng thăm thẳm hơn khi ngày ấy không ai dám nhắc công khai ý tưởng này, mong gì hiện thực ?

Giữa những nỗi buồn có phần tuyệt vọng trên giải đất hình chữ S, vào những năm đầu thập niên 90, tin tức lọt về mang theo nhưng biến động bên vùng trời Đông Âu, ngày ấy việc thông tin còn khá khó khăn nhưng lượng thông tin phổ biến ở Việt Nam cũng đủ để thắp lại niềm hy vọng xa xưa tưởng đã tắt ngúm.

Sóng biến động khởi đi từ Ba Lan với Công Đoàn Đoàn Kết, chứa đựng bên trong chính là lòng tin sắt đá của người dân Ba Lan, gương mặt của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo 2 trở nên sáng ngời, kiên cường và mạnh mẽ, gương mặt ấy xuất hiện mang theo Tin Mừng, lòng yêu mến, lòng tin và lòng cậy trông. Gương mặt ấy xuất hiện cùng với chuỗi tràng hạt Mai Khôi không bao giờ thiếu trên tay, lời cầu xin cùng mẹ không bao giờ thiếu trong mọi lời kinh, lời phát biểu, lời bày tỏ cùng nhân loại. Nếu được ví Đức Gioan 23 như là vị ngôn sứ mà Thiên Chúa dành cho Giáo Hội để Chúa Thánh Thần thổi luồng gió mới, thì có thể nói Gioan Phaolo 2 chính là vị ngôn sứ Thiên Chúa dành cho nhân loại để Thần Khí đổi mới mặt địa cầu.

Biến cố 19.8.1991 kết thúc một giai đoạn đen tối của phần lớn nhân loại, biến cố ấy cũng chứng minh lời hứa của Đức Mẹ được hiện thực. Tôi cho rằng tất cả đã được hiện thực trước tiên là do Đức Mẹ mang đầy đủ phẩm tính của Thiên Chúa, Ngài là Đấng luôn trung tín, Ngài đã hứa thì Ngài sẽ thực hiện, Mẹ cũng thế. Chúa có cách của Chúa để thực hiện những gì đã hứa, Mẹ với những ân sủng đặc biệt Chúa ban cho, Mẹ cũng có cách của Mẹ để thực hiện những gì đã hứa. Đức Chân Phúc Gioan Phaolo 2 là con người đã biết đón nhận và mang những can thiệp của Mẹ vào nhân loại, làm cho lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện, và chính lòng tin kiên vững và lời nguyện cầu tha thiết chân thành của Hội Thánh đã làm cho những ân huệ của Mẹ “phát huy tác dụng”.

Có người đã nói với tôi rằng: “Cuộc thay đổi ở Đông Âu là nhờ vào đường lối đối thoại kiên trì của Hội Thánh” ?!? Tôi nghĩ nhận định như thế là sai, nếu hiểu đối thoại như một nỗ lực khôn ngoan của con người, thì xin lỗi, có khôn ngoan đến mấy cũng vẫn thất bại trước những kẻ lòng chai dạ đá, vô thần và bất nhân. Nhưng nhận định hoàn toàn đúng nếu hiểu đối thoại như là một cố gắng của con người trung thành với đường lối của Thiên Chúa và đặt tất cả niềm trông cậy vào Ngài.

Lịch sử nhân loại vẫn còn ở phía trước, vẫn còn nhiều cơ hôi để chứng minh từng chọn lựa và đường hướng của con người, vẫn còn nhiều cơ hội để mọi người nhận ra rằng… “Trái Tim Mẹ sẽ thắng”.

____

Ghi chú: Xin xem thêm http://vtc.vn/311-294864/quoc-te/tai-sao-lien-xo-sup-do-vao-ngay-198.htm. ( VTC News ) – Năm 1991, sự kiện Đảng Cộng Sản Liên Xô và Liên Bang Xô Viết sụp đổ đã gây chấn động toàn thế giới. Hơn 20 năm nay, các học giả trên khắp thế giới vẫn không ngừng đi tìm đáp án thỏa đáng cho câu hỏi: “Tại sao Liên Xô sụp đổ vào ngày 19.8.1991 ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Lễ Trái Tim Đức Mẹ 16.6.2012 (Ephata 514)

Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU!

LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU!

Ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục

 ***

Gốc tích việc tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu

(Theo sách Tháng Trái Tim Chúa Giêsu, NXB. Hiện Tại, 1969)

 Trái Tim Chúa Giêsu được người ta tôn thờ ngay từ lúc Người thở hơi cuối cùng trên Thánh giá.

 Thánh Giuse và Nicôđêmô tháo đanh và hạ xác Chúa Giêsu xuống, Ðức Mẹ giơ tay ẵm lấy.  Ðức Mẹ xiết vào lòng mình xác con đã lạnh giá, đầy những thương tích.  Nỗi lòng đau không xiết kể, nhất là khi Người nhìn thấy vết thương cạnh sườn mở quá rộng, để lộ một con tim nhợt máu vì đã bị ngọn giáo thâu qua…

 Đến thời Trung Cổ, đạo Chúa bị bách hại, các bè rối nổi lên phản nguỵ cùng Giáo Hội.  Tinh thần đạo sa sút, giáo dân bỏ đạo thật theo đạo rối.  Để chống lại cơn cuồng phong ấy, Thiên Chúa toàn năng đã dự định một phương thế thần diệu là Trái Tim Chúa Giêsu.  Thiên Chúa muốn cho người ta tôn thờ Trái Tim Chúa Giêsu, để nhờ đó ngọn lửa mến đã hầu tắt đi được bùng cháy lại mạnh mẽ.  

 Để truyền bá việc tôn thờ Trái Tim Chúa, Chúa đã dùng một nữ tu khiêm hạ ẩn kín trong tu viện là nữ tu Magarita Maria Alacoque, người Pháp.  Trong sách truyện về Thánh nữ, ngài sinh năm 1647, qua đời năm 1690. Thánh nữ kể về gốc tích tôn thờ Trái Tim Chúa như sau:

 Năm 1678, một hôm, lúc tôi đang chầu Mình Thánh Chúa trong tuần tĩnh tâm với các chị em Dòng tại Paray-le Monial (Pháp), Chúa Giêsu hiện ra cho tôi thấy Trái Tim Chúa bừng cháy ngọn lửa tình yêu nhân loại, rồi Người phán:

“Cha muốn tỏ ra cho loài người biết Cha yêu thương chúng chừng nào.  Trái Tim Cha là nguồn mạch mọi ơn cứu rỗi chúng đời đời.  Cha muốn chọn con để tuyên truyền lòng tôn thờ Trái Tim Cha cho loài người.  Con hèn yếu, nhưng Cha muốn chọn con để mọi người biết rằng việc này là của Cha chứ không phải của con.  Con chỉ là dụng cụ hèn mọn Cha dùng”.

 Nghe những lời ấy, tôi rùng mình kinh khiếp, liền sấp mình kêu van Chúa chọn người tài giỏi xứng đáng hơn, tôi vừa kém đức lại là phận đàn bà yếu đuối sao làm nổi việc ấy.  Nhưng Chúa Giêsu không nghe, Người phán rằng:

 “Cha chọn con, chỉ vì con thấy mình yếu đuối hèn hạ.  Tự sức riêng con, con không làm gì được.  Nhưng con hãy vững lòng, chớ sợ, Cha sẽ giúp sức cho con.  Cha sẽ ban ơn dư dật cho con. Con không biết Cha hay dùng sức yếu mà phá đổ cường quyền ư? Cha thường dùng người yếu hèn để làm những công việc cao cả, vì người khiêm hèn chỉ cốt làm vinh danh Cha”.

 Tôi thưa lại: Vậy lạy Chúa, xin ban cho con những ơn cần để con có thể làm việc Chúa truyền dạy.

 Chúa phán:  “Chỉ có một sự rất cần là con phải khiêm nhượng và tin thật, nếu không có Cha giúp, con chẳng làm gì được.  Con hãy tin tưởng mạnh mẽ, Cha sẽ giúp con thành công trong việc Cha truyền”.

 Rồi Người mở trái tim cho tôi xem, tôi thấy lửa ở trái tim bốc ra lan tràn.  Lúc ấy lòng tôi nóng ran như lửa, chịu chẳng được tôi phải kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con, con yếu hèn quá”.

 Chúa ngọt ngào an ủi tôi:  “Con đừng sợ, Cha sẽ thêm sức cho con, con chỉ nên ghi lòng những mệnh lệnh của Cha.  Đây là ơn trọng sau hết Cha ban cho các tội nhân.  Ai từ chối sẽ phải hư mất đời đời, vì Cha chẳng còn ban ơn nào hơn được nữa”.

 Từ đó, Chúa còn hiện ra nhiều lần dạy tôi những việc phải làm và những nhân đức phải giữ để tôn sùng Trái Tim Chúa.  Tôi vâng giữ các điều Chúa truyền dạy, hết sức khuyên giục chị em dòng và giáo dân tôn kính Trái Tim Chúa Giêsu trong suốt đời tôi. 
 
Những việc tỏ lòng tôn kính Trái Tim Chúa
 
1-  Đeo ảnh Trái Tim Chúa trong người.
2-  Thờ ảnh, tượng Trái Tim Chúa nơi gia đình, nhà thờ, nhà trường…
3-  Tôn nhận Chúa làm Vua gia đình qua nghi lễ Tôn vương.
4-  Dự lễ kính Trái Tim Chúa trong Tháng Sáu.
5-  Nếu có thể, dự lễ và rước lễ đền tạ các Thứ Sáu đầu tháng.

***

Lạy Chúa,

Trong tháng này con xin dâng các việc con làm,

những niềm vui, nỗi khổ cho Trái Tim Chúa Giêsu,

Xin Trái Tim Chúa  nhận lấy và ban ơn lành cho con.

Amen.

************************************************************************************* 

 •      Trong Huấn dụ về “Tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu” được Ðức Phaolô VI ban hành ngày 6. 2. 1965 để kỷ niệm 200 năm thành lập Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Ngài viết:

•      “Sự tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là việc rất cao quý và ÐẶC BIỆT CẦN THIẾT cho thời đại này.

•      Ta ước mong việc này được tổ chức với Nghi thức Phụng vụ để phát triển mỗi ngày mỗi rộng lớn hơn, hầu cho mọi Kitô hữu được say sưa lòng Tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và nhờ đó được đổi mới về mọi phương diện.

•      Việc tôn sùng này cốt yếu là kính thờ Chúa Giêsu một cách xứng đáng và đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu về tội lỗi của ta.

 Rôma , ngày 6.2.1965

nguồn: Từ Nguyễn Kim Bằng gởi

THÁNH THỂ VÀ LÒNG MẾN: CUNG KÍNH

THÁNH THỂ VÀ LÒNG MẾN:  CUNG KÍNH

                                                                          Lm Nguyễn Tầm Thường, S.J

Tôi cần nhìn lại lối sống tín nguỡng của mình nhiều lắm.  Có những cách sống đã quá quen thuộc, tôi tưởng chừng như mình đang sống đức tin, nhưng có lẽ tôi chỉ quằn quại với niềm tin mà thôi, vì tâm hồn không an vui, không hạnh phúc, và những người chung quanh tôi cũng không hạnh phúc, không an vui.

Khi niềm tin trở thành quằn quại thì nghi thức tôn giáo là gánh nặng.

– Chúa nói: “Ta đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ” (M. 20:28).  Như vậy, niềm tin là một giếng nước.  Mà để kéo gầu ấy, tại sao ta không thể có niềm vui?

– Chúa nói: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt. 11:29).  Như vậy đến với Chúa là một giải thoát.  Tại sao ta thiếu thiết tha khi cử hành phụng vụ?

– Thấy bệnh tật, Chúa chữa lành, thấy đói, Chúa cho ăn (Mt. 14:14-21).  Như vậy, niềm tin là cánh tay với vào vườn hoa trái.  Tại sao ta thấy nặng nề?

Có người nói: “Tôi bận quá, không thể đi tĩnh tâm được”.  “Tôi mỏi mệt lắm, không thể phục vụ Chúa được.”  Trong khi đó, vì bận rộn nên mới cần tĩnh tâm, để Chúa dắt đi, nghỉ ngơi.  Trong khi đó, vì ta mỏi mệt, và gánh đời quá nặng, Chúa mới đến để phục vụ.  Có một suy nghĩ nào đó dường như không ổn.  Nếu suy nghĩ không ổn thì rất có thể suy nghĩ ấy sẽ đưa đến một lối sống khắc khoải.

Thánh Inhaxiô, sau khi thụ phong linh mục, ngài không dâng lễ mở tay ngay.  Ngài đợi một năm sau. Và rồi cứ mỗi lần dâng lễ ngài lại khóc.  Còn Mẹ Têrêsa Calcutta thì treo trong phòng áo lễ của nhà dòng tấm bảng:

Xin linh mục của Chúa,
Cha dâng lễ này như thánh lễ mở tay,
như thánh lễ sau cùng,
như thánh lễ chỉ dâng duy nhất một lần trong đời mà thôi.

Nói về bí tích Thánh Thể, về những nghi thức cử hành.  Hôm nay người ta nghe thấy những lời “khen”, tiếng “chê”.  Đi lễ cha kia làm lẹ lắm.  Và dường như cũng có những linh mục, vô tư nhận mình làm lễ lẹ lắm, nhiều người thích.  Họ nói với người tham dự: “Chúa ở cùng anh chị em”.  Nhưng thật sự đấy chẳng phải là lời cầu chúc, vì tay đang mở sách, chưa thấy lời nguyện thánh lễ hôm nay ở trang nào.  Tâm trí đang vội vã đi tìm.  Có những thánh lễ mà giây phút cực trọng là truyền phép Thánh Thể, linh mục đọc quá vội vàng.  Chưa xong đã bái gối, chưa bái gối xong đã hối hả đứng dậy. Rất là liếng thoắng.  Tôi cũng thấy nhiều thừa tác viên thánh thể, sau khi cho chịu lễ, họ rước Máu Thánh còn lại trong chén thánh như uống một ngụm Coca.  Họ “bốc”, họ “đổ” Bánh Thánh như đổ một hũ đậu phụng.  Họ thiếu cung kính vì thiếu tấm lòng.  Họ đến từ một cộng đoàn mà chính cha quản nhiệm không đầy đủ bổn phận huấn luyện họ cung kính Thánh Thể Chúa.  Làm sao huấn luyện nếu chính cha quản nhiệm thiếu tấm lòng.  Đi giúp mục vụ nhiều nơi, tôi rất cảm kích khi có những linh mục đến nhà thờ rất sớm, không tiếp ai trước thánh lễ.  Họ dành giây phút đó để chuẩn bị thánh lễ.  Và cũng có những thừa tác viên Thánh Thể được huấn luyện rất cung kính khi thi hành nhiệm vụ thánh.

**********************************

Lạy Chúa,

Con cần hiểu bí tích Thánh Thể là kết quả của tình yêu Chúa chết cho con người được sống.  Làm sao con có thể cử hành cho chóng qua như một cuộc gặp gỡ mà con không muốn gặp.  Làm sao con cảm nghiệm được khi con chỉ gặp để cho qua.

Con cần phải hiểu những gì con đang làm, con đang sống, tôn giáo con đang theo.  Con phải hiểu thông báo của người đàn ông kia là thông báo của thiên thần báo mộng trước cửa đền thờ linh hồn mỗi khi con bước vào:

– Đức tin không có đức ái, sẽ không biết lối nào đi.

Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là tình yêu vô cùng sâu thẳm.

– Xin cho con lòng yêu mến trưởng thành.

Con phải hiểu Thánh Thể Chúa là mầu nhiệm cực thánh.

– Xin cho con cử hành với tâm hồn hết sức kính cẩn, thiết tha.

 Lm Nguyễn Tầm Thường, S.J

 trích trong “Thánh Thể –  Đường Đi Một Mình”

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

Lm. VĨNH SANG, DCCT 

Năm 1866, bức Linh Ảnh Đức Mẹ mang tước hiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp được Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX trao cho DCCT với nhiệm vụ quảng bá lòng sùng kính Đức Mẹ, bức Linh ảnh ấy đươc tôn kính tại đền Thánh An Phong, đường Merulana, thành phố Roma, bên cạnh trụ sở trung ương của Hội Dòng. Từ ngày ấy, mỗi bước chân Thừa Sai DCCT đi đến đâu cũng đều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Hằng Cứu Giúp, cùng đi với các Thừa Sai, phiên bản bức Linh ảnh được phổ biến khắp nơi.

Năm 1925, ba nhà Thừa Sai đầu tiên DCCT đặt chân đến Huế ( Cha Larouche, cha Cusineau và thầy Barnabe ), trong hành trang của các ngài có phiên bản bức Linh ảnh hay làm phép lạ. Cùng với sự hiện diện của bức Linh ảnh, các Thừa Sai đã nhanh chóng phổ biến các kinh nguyện cầu khấn cùng Mẹ, những lời kinh ngọt ngào, quen thuộc và thân thương với mỗi người dân Việt Công Giáo chúng ta đã được cất lên từ ngày ấy: “Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó…”, ai trong chúng ta mà chẳng nhớ những lời kinh này.

Trong đời mục vụ, chúng tôi có dịp đi đó đây khắp miền đất nước, từ những Nhà Thờ Chính Toà to lớn đến những ngôi Nhà Nguyện bé nhỏ hun hút nơi vùng sâu, ở đâu chúng tôi cũng bắt gặp phiên bản của bức Linh Ảnh nổi tiếng này, nhìn những bức ảnh được tôn kính chúng tôi biết bước chân của cha anh chúng tôi đã từng đặt đến những nơi đây. Chúng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa cùng với sự khâm phục lòng nhiệt thành của cha anh mình.

Câu chuyện “Đức Mẹ lộ hình” tại La Mã Bến Tre là một điển hình. Ngày ấy, hơn 62 năm về trước ( trước năm 1950 ), giữa một vùng sông nước mênh mông, chiến tranh khốc liệt, bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp đã xuất hiện một cách lạ lùng ( 5.5.1950 ), kèm theo những phép lạ tỏ tường ( 7.10.1950 ) để cứu vớt che chở người dân quê nghèo khốn khổ ( tìm đọc chuyện Đức Mẹ La Mã Bến Tre ). Ngày nay ngôi Nhà Thờ đã được trùng tu, khuôn viên Nhà Thờ đã được tu bổ, một con đường nhỏ ngang 4 mét vừa được xây dựng để khách hành hương có thể đến với bức Linh Ảnh Đức Mẹ La Mã Bến Tre tương đối dễ dàng, từ Sàigòn nếu di chuyển bằng xe 4 bánh chỉ cần hai tiếng đồng hồ chúng ta đã có thể đến viếng thăm ngôi đền này ( www.ducmelamabentre.com ).

Trong bộ sưu tập về bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp còn một chứng tích tuyệt vời khác nữa. Việt Nam năm 1954, trong hành trình di cư của hàng triệu người từ miền Bắc vào Nam, có một phóng viên đã chụp được cảnh đoàn người di cư, một người phụ nữ lam lũ gồng gánh tất cả mớ gia sản nghèo nàn tả tơi của mình, vậy mà bà đã không quên mang theo bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bước chân bà sải đi vững chắc trong niềm tin và cậy trông phó thác trên hành trình hướng về tương lai, ắt hẳn vì Mẹ Hằng Cứu Giúp đang ở cùng bà, ở cùng gia đình bà.

 Bức Linh ảnh người phụ nữ xuôi Nam năm ấy mang theo bây giờ ở đâu ? Được tôn kính ở chốn nào chúng ta không có điều kiện để tìm biết.

Thế rồi bây giờ chúng tôi mới biết được thêm một câu chuyện khác, tình cờ nhưng rất thú vị, cũng là một câu chuyện về một người phụ nữ với bức Linh ảnh, cũng là một cuộc di cư vĩ đại khác của 21 năm sau cuộc di cư khổng lồ năm 1954. Nhẩm tính lại, ngày ấy, năm 1954, người phụ nữ trong câu chuyện chúng tôi sắp kể mới chỉ là một em bé 10 tuổi theo cha mẹ chạy vào Nam.

Chị về Việt Nam đã 4 lần nhưng lần này chị mới có dịp đến DCCT, quận 3, Sàigòn, chị liên lạc và giúp đỡ chúng tôi từ lâu nhưng chỉ biết nhau qua thư từ và hình ảnh trên mạng, chị vào thăm Nhà Dòng và trong những câu chuyện chia sẻ, chúng tôi ghi được một câu chuyện lạ lùng thú vị.

Năm 1975, chị có chồng là một sĩ quan không quân đóng tại phi trường Phù Cát, thành phố Quy Nhơn thuộc miền Trung, tháng Tư chiến tranh ác liệt, cả trại gia binh di chuyển vào Sàigòn để lánh nạn, nhưng chẳng bao lâu lại phải tiếp tục di chuyển ra Côn Đảo, anh vẫn tiếp tục trong đội hình chiến đấu của quân đội miền Nam. Không lâu trước ngày Sàigòn thất thủ 30 tháng 4, chị và các chị em khác hoàn toàn mất tin tức chồng, đau buồn và lo sợ.

Ngày ngày chị lang thang một mình ở bãi biển trông ngóng tin chồng, tình cờ một hôm chị nhặt được một tấm bìa báo xuân của một tạp chí Công Giáo nào đó, trên tấm bìa đó còn ghi hàng chữ “Cung chúc tân xuân” cùng với hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp chiếm trọn trang bìa. Tấm bìa trôi dạt ở bãi cát trắng bờ biển, ướt sũng, nhạt nhòa. Chị nhặt lên với tất cả sự tôn kính, mang về khu trại gia binh, hong cho khô và sớm khuya cầu nguyện với bức Linh Ảnh.

Bây giờ nhớ lại, chị kể chị đã hết lòng khẩn khoản nài van Mẹ xin cho được gặp lại chồng. Và chị đã được như ý, khi chị và các con được chuyển đến tạm cư ở đảo Guam, chị đã bất ngờ tìm lại được anh qua hội Hồng Thập Tự Quốc Tế khi mọi sự ngỡ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Ai nghe chuyện cũng đều bảo là phép lạ !

 Định cư tại Hoa Kỳ, anh chị đã không quên mang theo bức Linh Ảnh kỳ diệu. Chị tiếp tục cầu nguyện với Mẹ Hằng Cứu Giúp xin cho có thêm một cháu gái vì ba cháu đầu đều là trai, một lần nữa, chị lại được như ý. Theo chị kể, lời vật nài cùng Mẹ có nhiều chi tiết thú vị về bé gái chị xin. Vâng, chị đã xin, đã ngỏ lời với tâm tình rất đơn sơ thân mật y như của một người con gái thủ thỉ cùng bà mẹ dấu yêu của mình. Chị đón nhận tất cả những điều ấy như một hồng ân.

Bức Linh Ảnh đó bây giờ chị đóng khung treo trong phòng ngủ, ngay trên đầu giường của chị.

Chị chia sẻ với anh em chúng tôi: bức Linh Ảnh không đẹp vì chỉ là một bức ảnh in trên bìa một tờ báo cũ, lại được vớt lên từ bãi cát bờ biển Côn Đảo, không đẹp vì đã bị ướt rồi hong khô lại, không đẹp vì kỹ thuật in ấn của những năm thập niên 70 tại Việt Nam, nhưng lại đẹp và quý giá tuyệt trần vì bức Linh Ảnh ấy đã xuất hiện trong những ngày tháng chị lao đao hoang mang nhất, cô đơn gian khổ nhất, đẹp vì chị đã mang theo bên mình suốt 37 năm với những lời nguyện cầu to nhỏ, đẹp vì là sự an ủi và cậy trông của cả cuộc đời chị, đẹp vì bức ảnh đã giúp chị cầu nguyện và vững chắc trong Đức Tin, đẹp vì qua bức ảnh chị nhận được quá nhiều ân huệ của Thiên Chúa.

Chị vẫn hằng cầu nguyện với bức ảnh đó: “Xin cho con biết dùng những năm tháng kế tiếp của cuộc đời để phục vụ Chúa trong Hội Thánh tại Việt Nam”.

Xin cám ơn chị Thanh Lịch, Oklahoma, Hoa Kỳ, chị đã làm chứng về tình thương của Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Mẹ của tất cả chúng ta…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.6.2012 (Ephata 513)

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi…

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi… 

  Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo. Đã được rửa tội từ thuở nhỏ. Rước lễ lần đầu vào năm 7 tuổi. Chịu phép Thêm Sức vào năm 14. Rồi sau đó là Bao Đồng. Tất cả đều được chỉ dẫn và dìu dắt ở trong một môi trường Công giáo. Trường hợp của tôi thường được gọi là trường hợp của thành phần đạo gốc, nhưng không biết “gốc” gì đây? Tôi có được sự lựa chọn hay chăng?  Vì nếu không đi xem lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc thì sẽ bị la rầy. Nên đi cho có hình thức bề ngoài. Nhưng trong lòng thì chưa tin vào Chúa cho lắm. Niềm tin của tôi lúc ấy rất yếu.

 Đến năm 17 tuổi, cái tuổi có thể bẻ gẫy xừng trâu ấy, chẳng biết sợ gì, tôi đã ra đi để tìm tự do cho bản thân mình, với ba nguyện vọng đơn sơ: 1- Con nuôi cá; 2- Con nuôi ba má; 3- Ba má nuôi con. Nhưng tự do thật sự ở đâu?

 Được sự che chở của “Lòng Thương Xót Chúa“ nên tôi đã được bình an dừng chân tại trại tỵ nạn Pula Bidong, thế nhưng rồi đệ tam quốc gia nào sẽ nghênh đón tôi đây? Chính những tháng ngày cô đơn ấy, buồn tủi nhất trong đời nên ngày nào tôi cũng cầu xin cùng Chúa và Mẹ Maria trên đồi Công giáo, chứ không phải đồi Canvê là nơi Chúa chết khi xưa.

 Với lòng nhiệt thành và lòng tin tưởng, tôi đã được định cư ở một nơi bấy giờ được gọi là thiên đường hạ giới, một nơi mà có thể nói cả thế giới này, nhất là thành phần tỵ nạn Việt Nam nghèo khổ, ai ai cũng mong mỏi được đặt chân đến…

 Sau 18 giờ bay, đúng 6 giờ 30 phút ngày 12 tháng 5 năm 1989, chuyến bay định mệnh đã hạ cánh tại phi trường Washington DC, nay là phi trường George  W Bush.

 Trước khi ra đi tôi chỉ có 3 nguyện vọng, nay lại được định cư ở một đệ tam quốc gia. Đây có phải là hồng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa hay chăng? Chưa biết được…

 Khi giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya tôi mới phát hiện ra mình lại mắc thêm 3 chứng bệnh mà hầu như ai trong chúng ta khi mới qua Mỹ vào lúc bấy giờ không sao quên được, đó là:

1- Bị điếc vì không nghe được tiếng bản xứ;

2- Bị câm vì không nói gì được;

3- Bị què vì không có phương tiện để đi lại.

 Một mình đơn phương nơi xứ lạ quê người. Cơm áo gạo tiền đã gắn liền với cuộc sống. Nhưng “believe in gold and take care yourself” đó là những câu nói dường cột của chúng bạn. Cho nên “gần mực thì đen….”. Công danh và sự nghiệp đã lôi cuốn tôi vào cơn lốc xoáy, cơn lốc của cuộc đời. Từ đó, tôi dần dần xa Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào tôi chẳng biết.

 Công danh và sự nghiệp là chi??? Đó là hai miếng mồi ngon và bổ nhất. Thử hỏi trong chúng ta ai mà chẳng vớ lấy cho bằng được. Thế là cuộc hành trình lại được bắt đầu từ đây.

 Để cố gắng khắc phục ba cái «bị» ở xứ lạ quê người khi mới sang Mỹ năm 1989 trên đây, tôi đã “cầy ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm“. Chính vì cơm áo, gạo tiền cộng thêm hơn thua và ganh tỵ mà tôi đã lãng quên đi Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào. Tiếng chuông nhà thờ vẫn vang vọng hằng đêm, nhưng tiếng lương tâm của lòng tôi đã chết lịm từ lúc nào rồi? Vì “lương tâm so ra không bằng lương tháng“.

 Để tạo cho mình một bước đi vững vàng, tôi đã lập gia đình. Người bạn đời của tôi không cùng tôn giáo với tôi, và đã được hai cháu. Vì lo công danh và sự nghiệp, nên tôi chẳng làm trọn bổn phận là một người cha Công giáo của chúng…. Tính ra đã hơn 20 năm tôi đã lầm đường lạc lối. Cuối cùng, Chúa đã thức tỉnh tôi với một cơn bệnh lạ đời, kéo dài trong vòng 3 năm trường không phải là ngắn.

 Đúng thế, nếu “Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm!” (Lk 2 :14) thì, đối với tôi, chính vì «tâm» không lành nên long thể bất an xẩy ra cho tôi vào mùa hè năm 2009. Chúa đã thức tỉnh tôi bằng một cơn bệnh ù-tai và chóng mặt. Lỗ tai lúc nào cũng có tiếng như ma kêu quỉ khóc. Còn chóng mặt thì chỉ còn nằm trên giường mà nhắm mắt, từ 16 đến 20 giờ đồng hồ mỗi ngày. Mở mắt ra thì trời đất quay cuồng, say xẩm. Chỉ có ói mửa cho tới mật xanh thôi. Nằm im đó để mà nhìn công danh cùng sự nghiệp tan tành như mây khói.        

                   Lúc thất thế con quì bên chân Chúa

                     Khi gặp thời con đạp đổ lư hương…

 Chính vì bệnh tật nên tôi phải xa rời tất cả chuyện làm ăn và vui chơi cùng bạn bè. Bởi không sao chịu được những tiếng ồn nơi công cộng. Trong ba năm, tôi đã trải qua 4 lần MRI và 3 lần chụp CT, các bác sĩ không tìm được bệnh gì. 

 Không biết cậy nhờ vào ai. Lúc này tôi lại gục đầu bên chân Chúa mà cầu nguyện, với bao đêm ngày cầu nguyện cùng Chúa. Suốt ba năm trường tại sao Chúa lại chẳng nhận lời ? Vì tất cả tôi chỉ muốn Chúa làm theo ý của riêng tôi, nên  tôi đã nhiều lần oán trách Chúa, mà Chúa vẫn chỉ im lìm theo dõi bước chân tôi.

 Thất vọng ê chề. Vì bệnh trạng của tôi vẫn không thể nào chữa được. Rồi từ đó tôi lại oán trách Chúa đủ điều… Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng với bao nỗi chán chường. Một hôm, giữa đêm khuya, khi cả gia đình đã ngủ say, tôi quì trước bàn thờ và khẽ nói: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, con xin dâng linh hồn và thể xác con trong vòng tay từ ái của Chúa. Xin Chúa hãy chỉ dạy cho con“.

 Cuối cùng Ngôi Ba Thánh Thần đã soi sáng cho tôi và  tôi đã bay về Việt Nam để cầu may…    

 Nhìn những người bạn cùng chuyến bay ung dung bước ra khỏi phi trường để đoàn tụ cùng gia đình, tôi cảm thấy tủi thân! Vì bấy giờ tôi phải có người hộ tống, bởi tôi đi đứng không được, phải ngồi trong xe lăn.  

 Gặp lại con trong hoàn cảnh thê thảm như thế, người cha đạo hạnh của tôi, thương hại nhìn con, sau đó nhìn lên trời một hồi lâu và nhìn thẳng vào mặt tôi với giọng ồn tồn của người cha nhân hậu khẽ nói. Con ơi “vì lời lãi của thế gian này mà đánh mất đi linh hồn thì chẳng được ích gì”, hãy nghỉ vài ngày cho khoẻ, gia đình mình sẽ chung sức cầu nguyện cùng Chúa và Mẹ Maria xin các Ngài giúp cho con.

 Đúng vậy, nơi miền quê nghèo nhỏ bé, Chúa đã chữa khỏi bệnh chóng mặt cho tôi , chỉ cần qua một người y tá quèn ở vùng quê hẻo lành. Còn ở Mỹ, nơi những bệnh viện nổi tiếng, các bác sĩ có bằng cấp cao lại chẳng chữa nổi cho tôi . Tại sao vậy???

 Thế rồi, vào một buổi sáng kia, tôi tập thể dục và chạy ngang qua Nhà thờ Thánh Tâm. Một sức mạnh nào đó như cứ thôi thúc trong tận đáy lòng của tôi, đến độ tôi  phải ghé vào để than thở cùng Mẹ Maria.

 Một lần không chịu ghé. Lần hai cũng không ghé. Thôi thì nhất quá tam nhì ba bận nên cuối cùng tôi đành ghé lại. Đây là lần thứ nhất Mẹ Maria nhìn tôi. Mẹ nhìn tôi với đôi mắt buồn rầu, sầu thảm không sao tả được! Vài ngày sau, khi tôi đứng ngoài hàng rào nhà thờ cầu nguyện, Mẹ quay lại nhìn tôi cũng với ánh mắt như lần trước… Hơn một tuần, sau thánh lễ Chúa Nhật, giáo dân hợp nhau đọc kinh ở núi Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse, sự lạ lại xẩy ra một lần nữa: Mẹ Maria lại âu yếm nhìn tôi ! tôi quay sang hỏi Cha Xứ cùng bà con xung quanh xem có ai thấy gì hay chăng? Tất cả đều lắc đầu không hiểu  tôi đang nói gì… “Mẹ ơi, thật sự Mẹ muốn gì ở nơi con? Xin Mẹ hãy chỉ dạy và soi sáng cho con!”

 Ba ngày sau đó, theo sự soi sáng của Ngôi Ba Thánh Thần, tôi cùng với gia đình và anh em đi hành hương viếng thăm Đức Mẹ ở các nơi khác nhau, như ở Trung Tâm Fatima Bình Triệu Sài Gòn, ở Tapao, và có ghé ngang qua một bức tượng Đức Mẹ trên đường đi Đà Lạt về, không nhớ rõ địa danh, chỉ biết rằng đài Đức Mẹ nằm ngay trên quốc lộ.

 Mỗi lần nói chuyện cùng Mẹ thì tôi lại nhận được sự bình an không sao tả được: “Mẹ ơi, con là đứa con tội lỗi, không đáng để được Mẹ tha thứ. Nhưng người bạn đời của con và hai đứa con thơ dại của con thì không biết gì về Mẹ và Chúa Giêsu hết. Xin Mẹ hãy soi sáng và chỉ dẫn cho vợ con và hai đức con thơ dại biết nhận ra Mẹ là ai và Chúa Giêsu xuống thế gian này để làm gì nghe Mẹ“.

 Về đến Mỹ, giấc ngủ của tôi bị trái giờ, hơn nữa, tôi lại nhớ ba má cùng anh em bà con ở Việt Nam, nên tôi không ngủ được bình thường như trước. Tuy nhiên, nhờ dịp này, theo sự sắp đặt của Mẹ Maria, con đã biết đến, qua lời giới thiệu của đứa em rể tên Minh Phong thuộc giáo xứ Trà-Long giáo phận Cần Thơ, qua trang web tinvui.info do Cha Giuse Trần Đình Long Dòng Thánh Thể phụ trách thuộc Giáo Xứ Chí Hòa, (chứ không phải là khám Chí Hòa đâu nhé). 

 Qua trang web này, tôi thật sự cảm nghiệm được « Lòng Thương Xót Chúa ». Nhờ ơn Chúa, cha đã có được những lời giảng khôi hài, mộc mạc, đơn sơ, thực tế nhưng có sức quyến rũ và mời gọi một cách lạ thường.

 Sau vai tuần nghe những bài giảng của cha ở trang web tinvui.info, tôi đã viết email để xin cha và cộng đoàn «Lòng Thương Xót Chúa » cầu nguyện giúp tôi . Bà xã của tôi, thấy tôi hầu như đêm nào cũng nghe giảng qua trang web này. Tuy nhiên, có lần tôi đột nhiên không nghe nữa thì nàng lại hỏi tôi tại sao? và đồng thời tỏ ý muốn nghe. Vài ngày sau, nàng đã khăn gói lên đường trở về nhà Cha, vì: “Ai xin sẽ được, ai gõ cửa sẽ được mở ra cho” (Mt 7:7).

 Nhờ nghe lời Chúa mà nàng và hai đứa con đã trở thành những người dự tòng Kitô hữu, và vào dịp Lễ Vọng Phục Sinh đêm ngày 7 tháng 4 năm 2012 chính thức trở thành con cái Chúa. Ôi, còn nỗi vui mừng nào hơn là được làm con cái Chúa : “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người” –

 Mặc dù tôi đã được ơn trở lại sau hơn 20 năm rời xa Chúa và Mẹ Maria, bao nỗi ưu tư và phiền muộn vẫn còn vương vấn trong tâm hồn tôi. Biết bao điều thắc mắc vẫn còn đó, không biết tìm ai để được giải tỏa những thắc mắc của riêng mình.

 “Hãy đến với Cha, hơi tất cả những ai mệt mỏi và nặng gánh, Cha sẽ bổ sức cho các con” (Mt 11:28). Đó là chủ đề cho cuộc Tĩnh Tâm của Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài thuộc Tổng Giáo Phận Philadelphia. Người phụ trách chia sẻ các bài nói theo chủ đề này đó là một người giáo dân từ miền Nam California tới: Hiệp Sĩ Trái Tim Mẹ – Tông Đồ Chúa Tình Thương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh.

 Cuộc tĩnh tâm 3 ngày (24-26/2/2012) mở màn cho Mùa Chay này hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 9 bài nói, tất cả đều được trình bày và chia sẻ bởi người tín hữu giáo dân ấy, một nhân vật tôi chưa hề quen biết và nghe tiếng. Những bài nói của vị hướng dẫn tĩnh tâm này (Tối Thứ Sáu 1 bài, Ngày Thứ Bảy 5 bài, và Chúa Nhật 3 bài), thứ tự sau đây:  

                1.      Thời Điểm Cánh Chung của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về tình trạng Nửa Đêm Nghênh Đón);

                2.      Tội Lỗi – Vực Thẳm của Lòng Thương Xót Chúa;

                3.      Tội Nhân – Mồi Ngon của Lòng Thương Xót Chúa;

               4.      Thánh Giá – Chân Dung của Lòng Thương Xót Chúa;

               5.      Cơn Khát Núi Sọ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về hai câu Chúa nói: “Cha khát” – “Xin cho Cha uống”);

               6.      Điểm Hẹn Thần Linh của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Trái Tim Mẹ: Nơi Nương Náu – Đường Đến Chúa, tức Đến Chúa Qua Mẹ );

              7.      Bối Cảnh Lịch Sử của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Bí Mật Fatima);

               8.      Sứ Điệp Cứu Độ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về những gì Chúa muốn như Ảnh Thương Xót, Lễ Thương Xót, Kinh Thương Xót…);

             9.      Hồn Nhỏ Hy Tế của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về gương sống Lòng Thương Xót của 3 Thiếu Nhi Fatima và Chị Thánh Faustina).

Sau ba ngày tĩnh tâm đặc biệt trên đây, tất cả mọi thắc mắc cũng như ưu phiền của tôi đã được giải đáp qua lời giảng thuyết hùng hồn của người tín hữu giáo dân này.

 Tháng 2 hằng năm, vùng Đông Bắc Hoa Kỳ vẫn còn đang ở trong mùa đông. Ngoài trời thì lạnh, nhưng trong cõi lòng của mỗi một người Kitô hữu hiện diện ở đấy đã được sưởi ấm và nung nóng với bàn tiệc lời Chúa. Biết bao nhiêu anh em Kitô hữu đã bỏ cả công ăn việc làm, không ngại đường xá xa xôi đến để tham dự.

 Tôi nhớ rất rõ là vào ngày Thứ Bảy 25/2/2012, trong lúc ngoài trời gió rất mạnh, cộng thêm tuyết rơi, thế nhưng trong hội trường, anh chị em Kitô hữu cùng nhau lắng nghe lời Chúa. Mặc dù lời của Chúa thật xa xưa nhưng chính giây phút này đã trở thành những gì hiện thực nơi lời chia sẻ của vị giảng thuyết cũng như nơi cảm nghiệm thấm thía của thành phần tham dự viên. Lúc ấy, hơn bấy giờ hết, tôi cảm nghiệm thấy được sự hiện diện thần linh của Chúa ở giữa chúng tôi: “Vì ở đâu có hai hay ba người hợp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ” (Mt 18:20).

 Âm vang của những giây phút tĩnh tâm về Lòng Thương Xót Chúa ấy vẫn còn âm ỉ nơi tôi, qua tâm tình và kinh nguyện của tôi với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 Những chuỗi Mân Côi hằng ngày sẽ làm dịu đi nỗi đau của Trái Tim Mẹ. Hãy đến với Mẹ mỗi ngày để than thở và khóc lóc. Dâng lên Mẹ những nhọc nhắn khó khăn trong cuộc sống. Qua lời chuyển cầu của Mẹ thì tất cả mọi ước nguyện của chúng ta sẽ được nhận lời. Mẹ biết và hiểu được những gì ta đang cần.

 Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp con biết mở lòng con ra mà đón nhận Chúa. Xin hãy ngự trị trong tâm hồn con và giúp con biết yêu mến Chúa từng giây, từng phút, để con luôn được bình an trong vòng tay của Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài” với tất cả tâm hồn và thể xác của con đây.

 Xin Mẹ Maria luôn gìn giữ, bao bọc, che chở gia đình con và Giáo Hội trên toàn thế giới trong vòng tay quyền năng từ ái của Mẹ. Amen.

 Mùa Chay 2012

Inhaxio/Phêrô Randy Khâm Nguyễn

Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài, Tổng Giáo Phận Philadelphia.

Mẹ Chúng Ta

 Mẹ Chúng Ta

 Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính tòa Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử tọa như sau: “Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Ðức Mẹ là ai?”

Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: “Thưa Cha, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”. Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: “Ðúng thế, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria”. Liền sau đó, cử tọa liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Ðàng, Mẹ là Ðấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Ðấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Ðấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v…

Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Ðức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nói tiếp: “Ðức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn noid thêm về Ðức maria…”.

Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: “Tôi xin được nói với anh chị em Ðức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Ðó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Ðàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria…”.

Chính lúc Ðức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ.

Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Ðức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.

Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.

Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.

Sứ điệp của Ðức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.

Đức Mẹ Hiện Ra Tại Fatima 1917

Đức Mẹ Hiện Ra Tại Fatima 1917

 Tác giả: Cát Minh

 Ba Trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô là ba em bé chăn chiên thuộc gia đình nghèo làng quê Fatima, nước Bồ Đào Nha. Các trẻ em này thuộc giáo phận Leiria. Hàng ngày các em được gia đình, cha mẹ trao phó việc dẫn đoàn súc vật: chiên, cừu đi ăn cỏ ở các vùng đồi núi quanh đó. Các em thường có thói quen sau khi để bầy súc vật ăn cỏ, liền qùi gối trên bãi đất trống đọc kinh, lần chuỗi mân côi chung với nhau. Mùa Xuân năm 1916, một thiên thần đã hiện đến ba lần và báo trước về các lần hiện ra của Đức Mẹ.

Vào mùa hè năm 1917 lúc đó thế chiến thứ nhất đang tiếp diễn, ngày 13 tháng 5 năm 1917, khi các em chăn dẫn đàn vật tại thung lũng Cova da Iria, một nơi có nhiều cây sồi và cây ôliu và lúc các em đang sốt sắng đọc kinh, lần chuỗi mân côi lúc gần giữa trưa, một luồng chớp chói lòa làm các em bỡ ngỡ, kéo hoàn toàn sự chú ý của các em về những ngọn cây trên đồi Cova da Iria, một Vị sáng láng hiện ra, Thiếu Nữ ấy xin các em cầu nguyện cho những người tội lỗi ăn năn trở lại, chiến tranh sớm kết thúc.

Đức Trinh Nữ Maria xin các em hãy trở lại vào các ngày 13 trong những tháng sau đó. Sứ điệp của Đức Mẹ kêu gọi sám hối, lần hạt Mân Côi, và dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Lần nào hiện ra, Đức Mẹ cũng yêu cầu các em hãy lần chuỗi hằng ngày. Mẹ còn dạy các trẻ một lời nguyện để thường xuyên dâng lên Thiên Chúa các biến cố đời sống, nhất là các hành vi khổ chế và hy sinh của các em:

Lạy Chúa Giêsu, việc này xin vì lòng mến Chúa, xin cho các tội nhân trở lại, và đền tạ những xúc phạm người ta đã gây ra cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

Thiếu Nữ dặn các em hãy trở lại nơi này vào ngày 13 mỗi tháng. Theo lời Thiếu Nữ căn dặn, các em tới đó và được nhìn thấy Thiếu Nữ hai lần sau đó vào ngày 13 tháng 6 và ngày 13 tháng 7. Ngày 13 tháng 8, nhà cầm quyền địa phương ngăn cản các em không cho tới Cova da Iria, nhưng Thiếu Nữ đã hiện ra với các em vào ngày 19. Ngày 13 tháng 9, Thiếu Nữ xin các em lần hạt Mân Côi để cầu cho chiến tranh sớm kết thúc. Ngày 13 tháng 10, Thiếu Nữ hiện ra và xưng mình là Mẹ Rất Thánh Mân Côi.

Mẹ mời gọi các em cầu nguyện và làm việc đền tạ. Lần này, một hiện tượng rất lạ đã xẩy ra làm rúng động mọi người: Chính quyền, dân chúng và các nhà báo chứng kiến hiện tượng gọi là Mặt Trời múa hay thái dương như rơi khỏi bầu trời và lao xuống đất. Ngày 13 tháng 10 năm 1930, sau nhiều năm điều tra, xác minh và cầu nguyện, tìm hiểu, Đức Giám Mục Leira đã công nhận chính thức việc Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ tại đồi Cova da Iria, Fatima, Bồ Đào Nha và cho phép tổ chức các việc đạo đức để cung kính Đức Maria Mân Côi nơi Mẹ đã hiện ra vào năm 1917.

Sứ Điệp và Mệnh Lệnh Fatima 

 Đức Mẹ đã hiện ra đúng như lời Mẹ loan báo trước và sự kiện thái dương như muốn rơi xuống đất, làm khiếp kinh hồn vía mọi người, đã minh chứng quyền năng của Thiên Chúa. Qua biến cố lạ lùng như thế, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi kêu mời nhân loại hãy ăn năn sám hối. Sứ điệp của Fatima là hãy cầu nguyện cho các tội nhân, lần chuỗi Mân Côi và sám hối. Ngày 13 tháng 10 năm 1917, Đức Mẹ dậy:

”Mẹ đến kêu nài các tín hữu hãy lần hạt Mân Côi. Mẹ mong ước nơi đây có một nguyện đường tôn kính Mẹ. Nếu người ta cải thiện đời sống thì chiến tranh sớm kết thúc“.

Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ để qua các em, Mẹ nhắn nhủ nhân loại siêng năng cầu nguyện, năng lần chuỗi Mân Côi và thống hối ăn năn. Mẹ đã trao cho ba trẻ nhiều bí mật và căn dặn các em sống thánh để cầu nguyện cho những kẻ có tội và cứu vãn thế giới.

Được chiêm ngưỡng Đức Mẹ hiện ra, ba trẻ Lucia, Jacinta, Phanxicô đã sống theo ý Chúa, tuân lời Đức Mẹ. Chúa có con đường của Ngài và Ngài dọn chỗ cho con người tùy lòng xót thương của Ngài. Phanxicô được nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng không được nghe lời Đức Mẹ nói, đã qua đời ngày 04 tháng 4 năm 1919, Giacinta qua đời ngày 20 tháng 2 năm 1920. Chúa để Lucia sống trong tu viện kín nhiều năm sau trước và sau khi bí mật được công bố. Ba trẻ đã được hạnh phúc chiêm ngưỡng và nghe lời Đức Mẹ chỉ bảo, dậy dỗ. Với sứ điệp Fatima, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi muốn nói lên một sự thật tuyệt vời: con người đang hư đi, thế giới đang dần xa Thiên Chúa, họ chỉ có thể được cứu vãn bằng những phương thế mà Mẹ dậy. Ðức Mẹ đã truyền phải thực hiện 3 mệnh lệnh Fatima để cứu nhân loại và cứu các linh hồn khỏi lửa luyện ngục. Ba Mệnh lệnh đó là:

1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống
2. Tôn sùng Trái Tim vẹn sạch Ðức Mẹ
3. Lần Chuỗi Mân côi

Các Bí Mật Fatima

  Bí Mật Fatima là những gì Đức Mẹ tỏ ra cho hai mục đồng là Lucia (bấy giờ 10 tuổi) và Giaxinta (bấy giờ 7 tuổi) biết vào lần hiện ra thứ ba, ngày 13/7/1917, và bảo các em không được tiết lộ với bất cứ một ai, ngoại trừ một mình Phanxicô là em cũng được thấy Đức Mẹ hiện ra như các em song không nghe thấy Mẹ nói gì hết.

Thật ra không phải là có 3 Bí Mật Fatima khác nhau như người ta vẫn quen nói mà là Bí Mật Fatima có ba phần khác nhau, như chính chị Lucia đã xác nhận trong phần mở đầu cuốn Hồi Ký Thứ Ba của chị.

Phần thứ ba của Bí Mật Fatima được chị Lucia viết ra vào ngày 3/1/1944. Thế nhưng, để viết phần bí mật này, một trong ba phần bí mật quan trọng nhất đã được Mẹ Maria căn dặn chung là “không được nói với ai”, song chính vì hai phần kia đã được tiết lộ mà ai cũng muốn biết thêm về phần bí mật còn lại này, kể cả giáo quyền địa phương bấy giờ, đến nỗi đã ngỏ ý muốn chị viết ra, nên để giải tỏa bối rối cho Lucia, Mẹ Maria đã phải hiện ra với chị ngày 2/1/1944, bảo chị biết rằng đã đến lúc chị nên viết ra phần bí mật còn lại này để trình lên giáo quyền.

Đức giám mục sở tại nhận được phần bí mật thành văn này ngày 17/6 cùng năm, song mãi tới năm 1957 Tòa Thánh mới để ý tới nó và lưu giữ nó từ ngày 4/4/1957. Như chị Lucia cho biết, thì phần bí mật này chỉ có một mình Đức Thánh Cha mới được phép tiết lộ, nhưng hoàn toàn tùy ý ngài. Các Đức Thánh Cha Gioan XXIII và Phaolô VI cũng đã đọc phần bí mật này song không công bố gì cả. Theo ý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh tòa thánh là Angelo Sodano đã công bố phần bí mật này.

Trước khi tuyên bố “Phần thứ ba của bí mật Fatima”, Ðức TGM Tarcisio Bertone, Tổng Thư ký Bộ Giáo lý Ðức tin, đã nhiều lần đến Tu viện Coimbra để tiếp xúc với Nử Tu Lucia. Và nữ tu Lucia đã xác nhận  bản tuyên bố là đúng với những điều Ðức Mẹ đã tiết lộ cho ba em.

Sau đây là cuộc phỏng vấn Ðức Cha Bertone dành cho nhật báo “Tương Lai”:

Hỏi – Ðức Cha có thể cho biết Chị Lucia đã viết gì trong cuốn sách được Ðức Cha nói đến?

Ðáp – Ðây là cuốn lược tóm tất cả những bút tích thiêng liêng, từ các sứ điệp Fatima, Chị Lucia viết lại cách đơn sơ và cụ thể hóa bằng những gợi ý, những lời khuyên. Bị tràn ngập bởi những câu hỏi về những lần hiện ra và những lời Ðức Trinh Nữ, cần được giải thích, và vì không thể trả lời cho từng người được, Chị Lucia xin và được phép Tòa Thánh để viết một cuốn sách “Os apelos da Mensagem de Fatima” (Những lời kêu gọi của sứ điệp Fatima). Ðây là đầu đề cuốn sách được viết ra, để trả lời chung các câu hỏi đã nhận được. Ðiểm tham khảo liên lỉ và như là cơ cấu của cuốn sách tức là lời kêu gọi của Ðức Trinh Nữ: “Ðừng xúc phạm Thiên Chúa nữa. Người đã bị xúc phạm quá nhiều rồi” (lần hiện ra ngày 13.10.1917).

Xét chính nội dung, cuốn sách không thêm bớt gì sứ điệp Fatima, nhưng giải thích, phổ biến với những áp dụng thực hành của đời sống Kitô. Vì thế có thể sẽ làm ích nhiều cho những ai cảm thấy nơi bản thân sự lo lắng, sự không chắc chắn và hồ nghi về số phận đời đời của mình.

Hỏi – Khi nào sẽ xuất bản?

Ðáp – Cuốn sách gồm 334 trang đánh máy. Tôi nghĩ rằng: có thể xuất bản tại Bồ đào nha trong thời gian tương đối ngắn, nếu không trong năm nay, thì vào đầu năm 2001.

Hỏi – Trong cuộc gặp gỡ, Chị Lucia có kể cho Ðức Cha về các lần hiện ra khác nữa không?

Ðáp – Trong cuộc nói chuyện, chúng tôi không nói đến các lần hiện ra khác, bởi vì cuộc nói chuyện chỉ xoay chung quanh những lần hiện ra năm 1917 mà thôi và cách riêng lần hiện ra ngày 13 tháng 7. Nhưng do các bức thư của chị Lucia, tôi biết Chị còn có những lần hiện ra hoặc những thông truyền khác do “Ðức Bà”, lúc chị ở Pontevedra và ở Tuy, bên Tây ban nha (nơi Chị Lucia tu trước khi trở về Ðan viện Coimbra, bên Bồ đào nha), từ năm 1925 trở đi và sau năm 1952 tại Bồ đào nha, ở Coimbra; có thể cho đến năm 1984. Như vậy cuộc đàm thoại với Ðức Trinh Nữ đã được tiếp tục và kéo dài, như để minh chứng sự giúp đỡ ân cần của một Người Mẹ và Người Thầy cho công việc giải thích đúng nghĩa và thông truyền trung thành sứ điệp của Người.

Hỏi – Có phải với việc giúp đỡ này chúng ta có thể chắc chắn rằng “thị kiến trong phần thứ ba của Bí mật Fatima” hướng về quá khứ không?

Ðáp – Ðây là một việc tiếp theo của các sự kiện lịch sử: các sự kiện này xem ra được thực hiện đúng như những dự tính trước của thị kiến. Trước hết, đây là một con đường Thánh giá về các đau khổ của Giáo hội, do những cuộc bách hại mà Giáo hội phải chịu trong suốt thế kỷ XX. Rồi đến vụ mưu sát “bằng vũ khí” vào chính ngày kỷ niệm việc hiện ra lần thứ nhất của Ðức Trinh Nữ Maria tại Fatima. Ðây là sự kiện độc nhất trong thế kỷ này: một vị Giáo Hoàng bị tử thương và thực sự xém chết. Thị Kiến “nói lên sự thật”, như ÐTC và ÐHY Ratzinger đã nhận xét; thị kiến cho phép nhận ra một sự phù hợp, sự phù hợp này hơn nữa đã được Chị Lucia xác nhận.

Hỏi – Cái gì đã làm cho Chị Lucia nghĩ rằng thời gian tốt nhất để tiết lộ Bí Mật Thứ Ba là sau năm 1960?

Ðáp – Ðây là một câu hỏi không tìm ra câu trả lời dễ dàng. Như tôi đã tả lại trong cuộc nói chuyện với Chị Lucia: những lời của Chị mang đến cho ta một giải thích có thể chấp nhận được, nhưng việc giải thích này thực sự chưa thỏa mãn. Chúng ta cần nhớ điều này là Chị Lucia đã viết lại các chuyện xẩy ra năm 1944, và có thể năm 1960 đối với Chị, đánh dấu một chân trời đủ xa cách, để việc tiên tri kia thành sự thật.

Hỏi – Chị Lucia có nói lên những tâm tình của mình khi biết tin về vụ mưu sát Ðức Gioan Phaolô II không?

Ðáp – Chị Lucia đã bị xúc động sâu xa, bởi những tin tức về vụ mưu sát Ðức Phaolô VI tại Manila xẩy ra ngày 27 tháng 11 năm 1970. Chúng ta còn nhớ Ðức Phaolô VI là Vị Giáo Hoàng đầu tiên đến Fatima trong năm 1967 (kỷ niệm 50 năm Ðức Trinh Nữ hiện ra tại đây) và ngài đã gặp người được thấy Ðức Mẹ hiện ra (Chị Lucia). Năm 1981, chiến thuật và sự trầm trọng của vụ mưu sát Ðức Gioan Phaolô II thể hiện sự thật kinh khủng của phần thứ ba của Bí Mật Fatima. Chị Lucia một lần nữa đã sống chiều ngày 13 tháng 5 năm 1981 sự đau khổ kinh khửng mà ba trẻ em mục đồng đã cảm thấy trong lúc nhận được thị kiến; Chị Lucia không thể quên được lời nói đầy âu yếm của Giaxinta trong lúc đó: “Thật tội nghiệp Ðức Thánh Cha; tôi phải ăn năn đền tội nhiều cho các người tội lỗi”.

Hỏi – Ngày nay Chị Lucia nghĩ gì?

Ðáp – Chị Lucia không phải là một người gây thảm hại quá mức độ. Chị rất bình thản và vui mừng, bởi vì lịch sử đã theo một con đường khác với những dự kiến buồn thảm được nghe nói trong năm 1917. Xem ra có người không đồng ý, vì lời tiên tri không hoàn tất đúng như bản văn đã nói: “cái chết tức khắc (của ÐTC) và về đệ tam thế chiến, chiến tranh nguyên tử, gây nên chết chóc và tàn phá kinh khủng”. Nhưng thái độ “bi quan” này, như Ðức Hồng Y Ratzinger đã nói, thì phù hợp với Thuyết định mệnh không thể tránh được, hơn là phù hợp vói sự tín nhiệm dựa trên niềm hy vọng Kitô. “Không có một số phận nào lại không thể thay đổi được.Ðức Tin và lời cầu nguyện là những sức mạnh có thể ảnh hưởng trong lịch sử và sau cùng lời cầu nguyện trở nên hiệu lực hơn các viên đạn bắn ra, đức tin hùng mạnh hơn hơn những chia rẽ”.

Hỏi – Câu hỏi sau cùng. Thưa Ðức Cha, có thể có nguy hiểm này hay không: là khi bí mật được tiết lộ rồi, thì cả sứ điệp Fatima sẽ đi vào trong lãng quên của một thế giới, hiện vẫn còn bị chiến tranh, bạo động, bất công và sai lạc luân lý?

Ðáp – Thực ra có nguy hiểm. Nhưng tôi hy vọng rằng: sứ điệp Fatima không ngừng nói với các tín hữu. Chính vì thế giới còn chiến tranh, chia rẽ, bạo động, bất công và những sai lạc luân lý, nên cần phải khởi sự lại từ trung tâm điểm Phúc Âm. Ðàng khác, những tấn công chống lại Giáo hội và các tín hữu, với sức đè nặng của đau khổ mà Giáo hội và các tín hữu mang trên mình, từ năm 1981, vẫn không hết, trái lại vẫn còn tiếp tục. Cho dù lời kêu gọi trở lại và ăn năn xám hối, được rao giảng từ đầu thế kỷ XX và cách riêng cho thế kỷ này, lời kêu gọi vẫn giữ trọn tính cách thời điểm của nó. Như ÐTC đã viết trong một sứ điệp năm 1996: “Lời mời gọi liên lỉ của Ðức Maria rất thánh về ăn năn sám hối không là gì khác, mà chỉ là việc biểu lộ sự lo lắng của Người Mẹ đối với số phận của gia đình nhân loại: cần phải trở lại và xin ơn tha thứ”.

Ngày 13/05/2000, Chị Lucia đã hiện diện tại Fatima, trong lúc đại diện Giáo hội tiết lộ các Bí mật, sau thánh lễ Phong Chân phước cho Phanxicô và Giaxinta.

 BI MẬT PHẦN THỨ NHẤT:

Ðức Bà cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm ngập trong lửa này là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân mình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm

 

 kinh khiếp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Các quỷ dữ có thể được phân biệt do các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiếp và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suốt. Thị kiến này kéo dài một lúc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biết ơn cho xứng với Mẹ yêu dấu trên trời của chúng con, Ðấng đã báo trước cho chúng con trong lần Hiện ra thứ nhất khi hứa rằng Ngài đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiếp.

 BÍ MẬT PHẦN THỨ HAI:

Sau đó mắt chúng con hướng về Ðức Bà. Ngài hết sức âu yếm và buồn bã nói với chúng con:

“Chúng con đã thấy hoả ngục, nơi mà các linh hồn tội lỗi đáng thương đi vào. Ðể cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm. Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có hoà bình. Chiến tranh sẽ kết thúc: nhưng nếu dân chúng không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong triều Giáo hoàng của đức Piô XI. Khi chúng con thấy một đêm tối được chiếu sáng bởi một ánh sáng chưa từng biếât, chúng con hãy biết rằng đó là dấu chỉ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Người sắp trừng phạt thế gian vì những tội ác của nó, bằng chiến tranh, đói kém, và những bách hại đối với Hội Thánh và Ðức Thánh Cha. Ðể tránh điều này, Mẹ sẽ xin hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, và Hiệp thông đền tạ vào ngày Thứ Bảy đầu tháng. Nếu lời cầu xin của Mẹ được chấp nhận, Nước Nga sẽ hoán cải, và sẽ có hoà bình; nếu không, nó sẽ phổ biến những lầm lạc trên khắp thế giới, gây nên những chiến tranh và bách hại cho Hội Thánh. Những kẻ lành sẽ bị giết hại; Ðức Thánh Cha sẽ đau khổ nhiều; nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ toàn thắng. Ðức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, và nó sẽ được hoán cải, và một giai đoạn hoà bình sẽ được ban cho thế giới”.

 BÍ MẬT PHẦN THỨ BA:

Sau hai phần mà con đã giải thích, phía bên trái của Ðức Bà và cao hơn một ít, chúng con đã thấy một Thiên thần cầm một thanh gươm bằng lửa nơi tay trái; nó lấp lánh và phát ra những tia lửa dường như sẽ đốt cháy thế gian; nhưng chúng tắt ngúm khi chạm đến ánh quang chiếu toả từ tay phải của Ðức Bà hướng về trần gian: chỉ về trái đất bằng tay phải, Thiên thần lớn tiếng thốt lên: ‘Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội!’. Và chúng con thấy trong một luồng sáng lớn là Thiên Chúa: ‘một cái gì tương tự như cách người ta xuất hiện trong một tấm gương khi người ta đi ngang qua’ một Giám mục bận đồ trắng ‘chúng con có cảm nhận đó chính là Ðức Thánh Cha’. Các Giám mục, các Linh mục, các tu sĩ nam nữ khác leo lên một ngọn núi dốc thẳng, trên đỉnh núi có một Thánh giá lớn làm bằng thân cây thô nhám như thể của một cây bần với vỏ cây; trước khi đến đó, Ðức Thánh Cha đi qua một thành phố lớn, một nửa bị tàn phá và một nửa rung chuyển, với bước chân nghiêng ngả, buồn khổ vì đau đớn và ưu phiền, ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thân xác ngài gặp trên đường; khi đã lên đỉnh núi, quỳ dưới chân Thánh giá lớn, ngài đã bị một nhóm lính giết hại bằng đạn và mũi tên, và cùng một cách thức như thế các Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ khác, và các người giáo dân thuộc mọi giai cấp và địa vị xã hội khác nhau lần lượt bị giết hại. Bên dưới hai cánh tay của Thánh giá có hai Thiên thần, mỗi vị cầm trong tay một chiếc bình bằng pha lê, trong đó các ngài hứng máu của các vị Tử đạo và với máu đó các ngài rảy trên các linh hồn đang tiến về Thiên Chúa.

 Những Điểm Đáng Chú Ý Của Các Lần Hiện Ra Ở Fatima

 1.  Ngày Chúa Nhật 13/5/1917, Đức Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ tại Cova Da Iria, làng Fatima và nói: “Ta từ trời xuống.  Ta muốn các con đến đây củng vào giờ này ngày 13 mỗi tháng cho đến tháng 10.  Ta sẽ cho biết Ta là ai? Và muốn gì?”. Hãy đọc Kinh Mân Côi hàng ngày để xin ơn hoà bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh.

2.  Ngày thứ Tư 13/6/1917, Đức Mẹ hiện ra lần 2, và nói với Luxia: “Chúa muốn cho con ở lại trần gian lâu hơn để làm cho người ta biết Ta và yêu mến Ta. Mẹ mong muốn các con cầu Kinh Mân Côi hằng ngày.

3.  Ngày thứ Sáu 13/7/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 3, ban cho các em điều Bí Mật, cho các em thấy Hỏa Ngục, và khuyên dạy các em cầu nguyện: “Lạy Chúa Jesu, con xin dâng các việc này cho Chúa để cải hóa các kẻ có tội, và đền tạ những sự xúc phạm đến Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Mẹ mong muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn vinh Ðức Mẹ Mân Côi, để xin ơn hoà bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ Người người mới có thể cừu giúp các con … Mỗi khi các con đọc Kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm hãy đọc: “Ôi Chúa Giêsu của chúng con, xin tha thứ cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin dẩn đưa các linh hồn lên Thiên Ðàng, nhất là những linh hồn cần Chúa thương xót hơn hết.

4.  Ngày Chủ Nhật 19/8/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 (vì ngày 13/8 các em đang bị bắt giữ để điều tra), khuyên bảo các em tiếp tục cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi, và phán bảo Luxia hãy dùng các phẩm vật người ta dâng cúng, để xây 1 nhà nguyện tại đây. Mẹ muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày.

5.  Ngày thứ năm 13/9/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 5, và cũng khuyên bảo các em tiếp tục cầu nguyện chuỗi Mân Côi để được hòa bình. Hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi để xin chấm dứt chiến tranh.

6.  Ngày thứ bảy 13/10/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6, và cũng là lần cuối cùng, và phán bảo: “Ta là Nữ Vương Mân Côi.  Các con hãy tiếp tục lần chuỗi Mân Côi.  Các kẻ có tội cần phải tự cải hóa và ăn năn xám hối.  Chúa bị xúc phạm quá nhiều rồi.  Chớ chi người ta đừng làm mất lòng Chúa nữa.  Cũng trong ngày hôm nay, Đức Mẹ đã làm một phép lạ cả thể, cho mặt trời nhảy múa trên không trung, phát ra nhiều ánh sáng kỳ dị, làm cho mọi người ăn năn thống hối và tin.

 BIẾN CỐ FATIMA VÀ ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

 Ngày 13/5/1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị một thanh niên người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca 23 tuổi ám sát hụt tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Mehmet Ali Agca đã bắn 4 phát súng 9mm về phía Đức Thánh Cha lúc đó đang đứng chào dân chúng và Ngài đã ngã ra phía sau. Viên đạn thứ nhất trúng bụng, viên thứ 2 trúng tay trái, viên thứ 3 trúng ngực một bà Mỹ 60 tuổi, và viên thứ 4 trúng tay người phụ nữ Jamaica 21 tuổi. Lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị ám sát vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Mehmet Ali Agca, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1958, đã bị kết án tù chung thân về tội mưu sát ÐTC Gioan Phaolô II.

Trong Đại Năm Thánh 2000, ĐTC đã xin tổng thống Ý tha cho người sát hại Ngài, và Ali Agca sau 20 năm trong tù đã được Ý trao trả cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2001, và tiếp tục ở tù ở quốc gia của mình vì tội sát hại một vị giám đốc nhật báo vào năm 1979.  Ngài đã vào tù thăm người đã bắn Ngài và đã tha thứ cho anh. Ali Agca có lẽ đã cảm kích cử chỉ của Đức Thánh Cha nên đã quỳ xuống hôn tay Ngài cách trân trọng.

Chính anh Ali Agca người đã bắn những cú chí tử vào Ðức Gioan Phaolô II, đã  hết sức ngạc nhiên, tại sao bị thương như vậy, mà ÐTC đã không chết. Việc ÐTC không chết, là vì có bàn tay Ðức Mẹ Fatima. Chính ÐTC đã công nhận như vậy và ngày 12-13/05/1982, ngài đã đến Fatima hành hương, để tạ ơn Ðức Mẹ và tuyên bố rõ ràng: “Ðức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”.

Ðể ghi nhớ muôn đời, một trong các viên đạn được lấy ra lúc giải phẫu cho ÐTC,  tại Bệnh viện Bách Khoa Gemelli ở Roma, đã được ghép vào triều thiên của Ðức Mẹ tại Ðền Thánh Fatima trong dịp ÐTC đến hành hương tạ ơn 13/05/1982. Trong cuộc hành hương Năm Thánh 2000, ÐTC còn để lại một kỷ niệm khác nữa: đặt dưới chân Mẹ chiếc nhẫn Giám mục quí giá, do Ðức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Giáo chủ Ba lan và TGM Varsovie, tặng cho ngài khi được bầu làm Giáo Hoàng (16/10/1978).  Còn chiếc giây lưng trắng bị đẩm máu trong vụ mưu sát tại Quảng trường Thánh Phêrô lúc 17giờ 10 phút ngày 13/05/1981, đã được để lại làm kỷ niệm tại Czestochowa, Ðền Thánh quốc gia Ba lan, nơi ÐTC đã đến hành hương nhiều lần trong những năm sinh sống tại Ba lan và cả sau khi đã làm Giáo Hoàng.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã cho phổ biến chuỗi Mân Côi thứ 4, tức Chuỗi Sự Sáng thêm vào 3 chuỗi Mân Côi đã có từ lâu, có lẽ cũng xuất phát từ lòng tri ân Mẹ.

 THẾ GIỚI SAU CÁI CHẾT CỦA CHỊ LUCIA

Chị Lucia là một sơ nổi tiếng được nhiều người biết đến nhất của thế giới hôm nay cũng như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thế nhưng, Chị Lucia vẫn sống trong vâng lời và yên lặng, chu toàn công việc tầm thường hằng ngày trong Tu viện Camêlô ở Coimbra, Bồ Đào Nha, chị không tìm cho mình được nổi tiếng ngoài công cộng, không bao giờ nói gì hơn những gì Mẹ Maria nói với chị.

Sự qua đời của chị là một dấu chỉ thời gian, nhất là chị qua đời vào ngày 13, ngày mà Đức Mẹ chọn để hiện ra mỗi tháng tại Fatima, có lẽ cũng là một dấu chỉ từ thiên đàng. Thế giới hôm nay đã xảy ra và đang đứng trước những biến cố lớn lao của chiến tranh, khủng bố, bệnh dịch, AIDS, thiên tai, bom nguyên tử, vi trùng, đặt bom nhà thờ và những giáo phái phản Kitô. Những gì sẽ xảy ra trên thế giới sau cái chết của chị Lucia vẫn tuỳ thuộc vào việc nhân loại thi hành các mệnh lệnh của Mẹ ra sao. Người Kitô hữu bước vào Mùa Chay, chuẩn bị cho cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta cần ăn chay, cầu nguyện nhiều hơn nữa cho sự ăn năn, trở về với Thiên Chúa của nhân loại.

Bước vào ngàn năm thứ ba, thế giới chứng kiến sự ra đi của hai người phụ nữ nổi bật về nhân phẩm, một là Mẹ Têrêsa Calcutta, một phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa giữa những người cùng khổ; người kia là chị Lucia phản ảnh sự vâng lời, khiêm nhường, đơn sơ của Mẹ Maria. Và một nhân vật có liên quan tới biến cố Fatima và sự sụp đổ của thế giới cộng sản là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đang cần được mọi người cầu nguyện cho.

Thủ tướng Bồ Đào Nha Pedro Santana Lopes đã tuyến bố ngày thứ Ba là ngày quốc gia truy niệm tưởng nhớ sự qua đời của chị Lucia. Chị Lucia được nhiều người mến mộ, đặc biệt người Bồ Đào Nha và đã qua nhiều năm con mắt tâm linh luôn để ý tới những gì xảy ra với chị. Chi sẽ được chôn cất tại nhà dòng và một thời gian sau sẽ được di chuyển sau về gần Fatima, là trung tâm hành hương thu hút nhiều người.

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

  TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

                                                                            Lm Phêrô Vũ Văn Hài

Reeng… reeng….

 – Alô! Cha ơi… Bà xã con bị bệnh rồi, đang trên đường đến bệnh viện. Xin cha giúp lời cầu nguyện cho bà xã của con nhá.

 – Được rồi. Chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần thêm sức mạnh, giúp chị vượt qua cơn đau và xin Người thánh hóa và ủi an…

 Thế là chúng tôi, ở hai nửa quả địa cầu tâm đầu ý hợp cùng nhau cầu xin Chúa Thánh Thần.

 Hết một đêm trắng trên xe và nằm chờ vật vã trước phòng khám của Đại Học Y Dược tại Sài Gòn, cuối cùng cũng đến phiên của Chị vào khám bệnh. Thật là hồng ân của Chúa Thánh Thần, Chị chỉ bị “thiếu máu” và suy nhược mà thôi, ngoài ra không có bệnh gì trầm trọng. Anh Chị rộn rã lên đường về quê. Nỗi lo lắng sợ hãi và mệt nhọc sau 1 đêm trắng biến tan như bọt xà phòng.

 – Về tới nhà, lời đầu tiên mà Anh nhắc Chị là: “Lát nữa em đến nhà thờ để xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần!”.

 – Chị ngạc nhiên: “Anh nói gì kỳ vậy?! Có thấy ai xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần bao giờ đâu?”.

 – “Thì hôm qua mình xin ơn với Chúa Thánh Thần, hôm nay nhận được ơn, không tạ ơn Chúa Thánh Thần thì tạ ơn ai?” Anh trả lời gọn khô!

 – Chị… bí… nhưng xem chừng còn ấm ức, nên nhấc điện thoại gọi cho mình: “Cha ơi, ông xã con bảo phải xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần. Con thấy kỳ kỳ sao ấy! Có xin lễ như thế được không cha?”

 – Được chứ. Được chứ. Quá được là khác! Đúng rồi, phải tạ ơn Chúa Thánh Thần!

 Mình trả lời chị mà lòng thẹn thùng. Cái cảm giác tẽn tò của “người thầy” đang ba hoa, thao thao bất tuyệt về mớ kiến thức suông bị “học trò” dạy cho một bài học cụ thể về việc áp dụng những lý thuyết ấy vào trong thực tế.

 Sau giây phút tịnh tâm, cảm giác thẹn thùng biến mất, thay vào đó là tâm tình tạ ơn Chúa vì một người giáo dân bình thường, lại là “đạo theo” mà có “lòng đạo” nhiệt thành, đức tin vững vàng và lòng mến sắt son đến thế. Tạ ơn Chúa Thánh Thần vì Người đã dạy mình một bài học thật cụ thể và sống động qua thái độ biết ơn chân thành của một người giáo dân.

 Thật thế, với một cách thế rất đặc biệt, Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời ngay từ lúc mình cất tiếng khóc oe oe chào đời. Người thánh hóa mình trong Bí Tích Rửa Tội khiến mình nên con của Thiên Chúa và phần tử trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đổ tràn 7 ơn thánh sủng trên cuộc đời trong ngày mình lãnh Bí Tích Thêm Sức. Người tác động cách hữu hiệu trong Thánh Lễ khiến bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô – lương thực thần linh nuôi hồn. Rồi trong ngày mình lãnh nhận thánh chức Linh mục, chính Chúa Thánh Thần thánh hoá và xức dầu cho mình tham dự vào chức Linh Mục thừa tác của Chúa Kitô. Và tiếp tục mãi như thế, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và ban ơn cho mình mỗi ngày để mình chu toàn sứ vụ Chúa trao phó cho đến khi mình dâng hy lễ cuối cùng của cuộc đời trong giờ phút trở về Nhà Cha.

 Hoạt động thánh hóa của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội, trong thế giới và trong chính bản thân mình là điều không thể phủ nhận. Mình xác tín điều này. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên mình được nghe một người giáo dân ngỏ ý “xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần”, nên nghe “kỳ kỳ sao ấy” cũng phải. Từ xưa đến nay mình vẫn thường nghe, thường nói, thường làm và thường dạy giáo dân phải “cầu xin Chúa Thánh Thần” trước mỗi công việc, trước mỗi biến cố, trước mỗi dự tính… để Chúa Thánh Thần thêm sức, hướng dẫn, thánh hoá và kiện toàn. Nhưng tuyệt nhiên sau những công việc và những biến cố, mình chẳng còn nhớ gì đến Chúa Thánh Thần nữa. Có chăng chỉ “tạ ơn Chúa”! Đành rằng khi ta tạ ơn Chúa thì lời tạ ơn dâng lên Ba Ngôi Cha-Con-Thánh Thần. Nhưng để nhớ đến Chúa Thánh Thần cách đặc biệt qua hành vi tạ ơn Người thì dường như chưa hề có.

 Lạy Chúa Thánh Thần,

xin dạy con biết luôn chạy đến với Ngài

để được thêm sức và đỡ nâng

trong cuộc sống còn nhiều gai chông.

Xin dạy con luôn biết tạ ơn Ngài

trong từng biến cố, từng công việc và trong từng ngày sống của con.

Như thế, cuộc đời con mãi luôn là lời “tri ân”

vì con luôn cảm nhận rằng đời mình được bao bọc bởi biết bao hồng ân.

 http://yeuthuongvahienminh.blogspot.com

Lm Phêrô Vũ Văn Hài

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu Muôn Đời

Thiên Chúa Ba Ngôi Tình Yêu Muôn Đời
(Lễ Chúa Ba Ngôi)                          

                                                                          tác giả: Tuyết Mai

 Tôi không biết trong số nhiều anh chị em nào có đứa con hư hỏng, bê tha, bỏ nhà ra đi thật lâu, nay xem được trên báo lời đăng của cha mẹ, mong con trở về đoàn tụ cùng gia đình sẽ nghĩ ngợi như thế nào?.   Khi đọc được trên báo lời hồi âm của cậu ấm hay của cô công chúa như sau: Con tên Trần V. A hay Trần T. Thắm, nếu cha mẹ muốn con trở về phải hội đủ số điều kiện như sau: Phải cho một căn nhà trên tỉnh, một số tiền sẵn trong trương mục, không được dính líu hay có ý kiến gì trên cuộc đời của cô hay cậu, vì đã trưởng thành rồi!.   Nhất là phải để cho cô cậu có tự do không được cấm đoán, v.v…, nếu có thể thì thỉnh thoảng sẽ đến thăm ông bà một ngày cuối tuần để phụ giúp cắt cỏ hay công việc vặt trong nhà hay chở dùm đi mua bán chi đó!.

Anh chị em nghĩ sao khi có những đứa con hư hỏng như thế?.   Tấm lòng chúng đối xử với cha mẹ không một chút tình thương hay một chút tình cảm cho dù suốt cả cuộc đời cực khổ bôn ba cũng vì chúng.   Thưa có phải đau lòng lắm khi đọc được những dòng chữ như thế trên báo hay không?.   Thưa có phải những lời lẽ như thế sẽ làm mất mặt cha mẹ biết là bao đối với những người thân quen với cha mẹ của chúng không?. Nhưng tình thương của cha mẹ thì luôn bao la và như biển khơi rộng lớn ngoài đại dương.

 Con cái bỏ nhà ra đi không một lời từ giã, ăn cắp của cha mẹ một số nữ trang, tiền mặt, và đồ cổ trong nhà. Căn nhà vắng đi hình bóng và tiếng nói của cậu ấm hay của cô công chúa, cũng làm cho hai ông bà buồn bã và cô đơn vô cùng. Nhưng chờ mãi chờ hoài người con ấy vẫn mờ mịt tận phương trời nào??.   Không một lá thư, không một dấu tích là người con ấy đã trôi dạt phương trời nào???.

Có những chuyện xẩy ra ở trên đời này thiết tưởng không bao giờ có xẩy ra, nhưng trên thực tế thì có rất nhiều chuyện bi đát có thật xẩy ra hằng ngày chung quanh chúng ta đấy chứ!.   Nhưng vì không phải chuyện của mình nên cũng phải làm lơ để hàng xóm không nghĩ rằng mình nhiều chuyện hay soi mói chuyện đời tư của người ta.   Nhưng thực sự ra chúng ta không muốn nghe cũng không tránh được, vì nhà thì sát vách nhau, một tiếng nói lớn cũng còn nghe được, hà huống gì cái cảnh xô xát nhau hằng ngày mà lại không nghe và không biết ư?.    Nên chuyện gia đình giữa cha mẹ, con cái, chị em, bất đồng là chuyện thường cho mọi gia đình, chỉ khác nhau cách cư xử với nhau mà thôi phải không thưa anh chị em?.

 Nhưng chuyện người con hoang đàng bỏ nhà đi thật lâu phiêu bạt nơi nào cũng làm cho gia đình ấy từ cha mẹ cho đến anh chị em, cũng cảm thấy nhớ nhung nhung nhớ.   Rất muốn biết đứa con hay anh chị em của mình ngày nay lớn bộn như thế nào rồi?.    Hy vọng lắm một ngày rất gần thì người con này sẽ ân hận biết lỗi mà trở về cùng gia đình, để tình yêu thương gia đình lúc bấy giờ mới được gọi là đầy đủ. Vâng, ngay cả đứa con hoang đàng ấy vẫn còn ngang ngược và vẫn còn mất dậy, nhưng nếu để có sự lựa chọn thì chắc hẳn người cha mẹ vẫn mong muốn đứa con mình trở về sống chung dưới một mái nhà thì hơn, vì dẫu sao nó cũng mang dòng máu mủ của người cha và trong sự banh da xẻ thịt của người mẹ, mang con con dạ suốt 9 tháng 10 ngày, bao nhiêu là tình thương của cả cha lẫn mẹ mới có được đứa con chào đời.

Suy luận ra được như thế, và để có được kinh nghiệm như thế, chúng ta mới hiểu được tình thương bao la hải hà của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với con cái nhân loại trần gian như thế nào?.    Có phải con cái trần gian hầu hết là những đứa con hoang đàng hay không?.   Có phải hầu hết con cái trần gian đối xử với Thiên Chúa Ba Ngôi không khác nào như Ông Thần Đèn Aladdin?.    Cả đời các con sống luôn xa cách tình yêu thương của Thiên Chúa, không thích ràng buộc bởi luật lệ, không thích nghe những Lời bổ ích, không thích làm người con tốt, một chỉ phung phí tiền của, sức lực, lao vào cuộc sống bê tha, mê muội với những cơn mê thú tục trần, đắm đuối vào những nơi đem linh hồn chúng ta vào cõi tối tăm muôn đời?.   

 Biết thế nhưng vẫn không muốn rời xa cuộc sống của mờ mờ ảo ảo, không thực ấy!.   Bởi chúng ta là những con người yếu đuối và bạc nhược, không chịu nổi trách nhiệm, không cáng đáng nổi những bổn phận rất tầm thường, không chịu đựng được những cực khổ, nên chịu đem thân xác và linh hồn của mình, đến những nơi mà chủ của chúng là quỷ dữ, đội lốt người ta để mê hoặc những con người khờ dại này cho đến khi, đã quá trễ???.

Có phải con người của chúng ta thỉnh thoảng có những lúc cầu nguyện với Thiên Chúa, nếu thâu âm những lời chúng ta cầu xin, và những lời chúng ta trao đổi với Chúa là nếu Chúa ban cho chúng con được được điều này hay được điều kia. … thì chúng con mới sẽ cố gắng siêng năng đi lễ hơn, thì chúng con mới sẽ hứa đọc kinh Mân Côi vào mỗi chiều thứ sáu, thì chúng con mới sẽ hứa cho tiền người nghèo khổ nhiều hơn, chúng con sẽ, và sẽ,. ……. hay không?.

Buồn cho Chúa quá phải không thưa anh chị em?.   Chúa nào phải là Ông Thần Đèn, để chúng ta cứ lấy đèn ra mà chà xát mà xin xỏ cho được hết cái nọ đến cái kia?.   Chúa nào phải để chúng ta lợi dụng Ngài?.   Chúa nào phải để chúng ta quay lưng đi khi Ngài không ban phát những điều chẳng tốt lành chúng ta xin và phải nghe những lời ta thán là Chúa chẳng linh?.   Chúa nào phải là nô lệ của chúng ta?.   Chúa nào mà chúng ta lại dám làm thế khi Ngài thẳng tay giáng phạt chúng ta?.   Chúa nào mà lại để cho con cái quá hỗn xược như thế?.

 Ấy thế mà hầu hết chúng ta đều đối xử với Người như thế! Thưa vì sao???.   Có phải vì chúng ta quá ỷ y và lợi dụng tình yêu thương của Người?.   Thưa có phải vì chúng ta lợi dụng Chúa một lần đã treo Ngài trên Thánh Giá, nghĩ rằng chúng ta vẫn có thể đối xử với Ngài như thế mà vẫn được Chúa yêu thương và cho lên Thiên Đàng chung hưởng hạnh phúc muôn đời bên Ngài cách dễ dàng?.   Nếu chúng ta suy nghĩ thế thì có phải chúng ta quá ư là mê muội hay không.   Nước Trời nào mà lại dễ dàng như thế?.   Nước Trời nào mà phạm 10 điều răn cũng được lên Trời ư?.   Nước Trời nào mà ai cũng tìm được thì Chúa lại chẳng xuống trần làm người phàm, sinh ra trong hang lừa trong mùa đông giá lạnh mà làm gì?.   Lớn lên mang một thân xác như con người, làm lụng như con người, cực khổ như con người, bỏ suốt 3 năm trời đi rao giảng về Nước Thiên Chúa, chịu khổ hình, và mai táng.

Cả một công trình Cứu Độ của Thiên Chúa là để dậy dỗ tất cả con cái nhân loại của Người trên thế trần là tìm về Quê Trời. Thiên Chúa quả cực khổ với con người biết là bao nhiêu. Chúng ta hãy mở to đôi mắt mà nhìn xem, Thiên Chúa Ba Ngôi, Người toàn năng, uy quyền như thế nào, mọi sự đều do Người tác tạo và tạo thành, cũng là vì yêu thương con người. Người yêu thương con người, nên tác tạo mọi thứ tinh tú, vệ tinh, hành tinh, không gian, vũ trụ, và mọi thứ trong đó, và Người gọi chúng là Trời. Tiếp theo Ngài đã tạo dựng mọi thứ trong trái đất có nước, con người, thú vật, cây cỏ thực vật, và mọi sinh linh, và Người gọi nó là Trái Đất. Nhưng Thiên Chúa đã vì chúng ta mà Người cũng đã phải khổ sở để chịu đựng chúng ta, không biết cho tới bao giờ thì Người sẽ không chịu nổi nữa sự lợi dụng và bê tha tội lỗi đó của cả thảy chúng ta?.

Kính Lậy Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần!
Ba Ngôi Thiên Chúa của cả vũ trụ trên trời và dưới đất
Hằng có hằng trị hằng vinh hiển muôn đời
Toàn thể tạo vật chúng con cùng cúi đầu cung nghinh chúc tụng
Ca khen: Vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế Thiên Chúa Ba Ngôi
Chúc tụng Thiên Chúa: Với vạn thứ tiếng của ngôn ngữ khác nhau
Nhưng tất cả đều tạo thành một âm điệu một tấm lòng
Ca khen: Một Thiên Chúa Đấng thương yêu Đấng tạo thành
Người thương yêu tất cả con người trong mọi tạo vật
Nên đã ban cho linh hồn con người sẽ được sống muôn đời
Sẽ mãi mãi không bao giờ chết bị hủy diệt
Sẽ đời đời sống cạnh Thiên Chúa Ba Ngôi
Đó là ý muốn từ thuở ban đầu của Thiên Chúa Cha
Hằng mong cho tất cả con cái của Người được vậy!
Vì Thiên Chúa Ba Ngôi Người là Tình Yêu muôn thuở muôn đời. Amen.

 ** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=GRXVWFARZug

    (Đấng Cứu Tinh)

 Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

NẾU MỘT NGÀY…

NẾU MỘT NGÀY…

–         Nếu một ngày, bạn cảm thấy sầu khổ và muốn khóc.  Hãy gọi cho tôi … Tôi không hứa sẽ làm cho bạn cười. Nhưng tôi có thể cùng khóc với bạn.

–         Nếu một ngày bạn đứng trước thất bại và muốn bỏ chạy. Đừng ngại gọi cho tôi…Tôi không hứa sẽ giúp bạn hết thất bại,  hết chạy trốn… Nhưng tôi có thể cùng chạy với bạn.

–         Nếu một ngày, bạn cảm thấy mệt mỏi, đuối sức, không đủ năng lực để làm việc. Hãy gọi cho tôi bạn nhé… Tôi không chắc sẽ giúp bạn hết mệt mỏi, hết đuối sức … Nhưng tôi sẽ cùng nghỉ ngơi với bạn… Những giây phút nghỉ ngơi bên nhau sẽ giúp bạn có thêm sức mạnh, thêm năng lực để làm việc và để tiếp tục bước đi trên đường đời .

Hãy gọi cho tôi…Hãy gọi cho tôi bạn nhé…Số phone của tôi là: 1-800-CẦU-NGUYỆN

Nhưng nếu một ngày nào đó bạn gọi mà không thấy tôi trả lời. Hãy mau mau đến thăm tôi bạn nhé … Vì tôi cũng đang cần đến bạn, cần tiếng nói của bạn, cần những lời nói chuyện tâm tình của bạn. Tôi ở trong khu phố NHÀ THỜ, đường NHÀ TẠM, căn nhà có ghi hai chữ THÁNH THỂ.

Thân mến,

Giêsu.

                         ***

“Tất cả những ai đang vất vả, mang gánh nặng nề … hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng..”(Mt.11:28)

Lạy Chúa Giêsu! Xin cho con biết chạy đến với Chúa, biết qúy trọng những giây phút thinh lặng bên Chúa …. Vì Chúa là Đấng ban ơn trợ giúp và là nguồn ơn sức mạnh của đời con. Amen

Sưu tầm

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG?

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT THẬT BẤT CÔNG?

(Suy tư nhân lễ Lòng Chúa Thương Xót)

 “Em đạo dòng. Đạo từ đời ông cố, ông sơ. Ông nội em là ông trùm cả 20 năm liền. Bà nội em không từ nan một việc gì khi giúp các Đấng. Đến thời Cha Mẹ em cũng đóng góp không biết bao nhiêu là thời gian cho việc nhà Chúa. Vợ chồng em cũng theo gương ấy mà cộng tác đủ các việc nhà thờ…. Nhưng, lắm lúc buồn lắm anh ạ. Nhìn lại cái cảnh nhà mình, không giống ai. Ông xã em với chiếc xe cánh én hơn 20 năm rồi, cọc cạch cọc cạch đi lễ đi làm việc nhà thờ. Có mấy lần bị thiên hạ mời và bị hỏi: “Làm ở nhà thờ lương tháng bao nhiêu mà hăng vậy?”. Thấy mà thương! Mấy đứa nhỏ đi học ở Sài gòn, đứa nào cũng phải tự bươn chải vừa học vừa làm kiếm tiền học phí, tiền ăn, tiền nhà trọ…Tội nghiệp!

 Mấy hôm nay chuẩn bị Lễ Lòng Chúa Thương Xót, có vài người đến nói với chồng em xin cho họ được làm chứng về LCTX trong Đại Hội. Nghe chuyện vài người kể với nhà em, người thì được ơn chữa lành, người trúng đất, người mới mua được đất, người mua được xe…, đủ các thứ mà người ta cho là Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót họ. Hầu hết đó là những người mà trong con mắt em họ chẳng ra chi, hoặc là người tân tòng mới theo đạo vài năm mà ra vẻ, hoặc là người đã từng tội lỗi công khai, giang hồ, tai tiếng mà nay đi đâu cũng Chúa Xót Thương, Chúa Thương Xót….

 Trong số những người xin làm chứng, đáng kể nhất là một người tân tòng: một chị, lấy chồng đạo được 9 năm nay. kể rằng: ban đầu, chị đến với LCTX nhờ mấy chị bạn rủ đi đọc kinh và chị đã kêu cầu Chúa như vái tứ phương, cầu may, hên xui. Không ngờ Chúa đã ban cho chị được như ý. Ông bố của chị ghét đạo kinh khủng, đến mức đã không cho chị theo đạo, rồi khi chị có đứa con trai là thằng cu Bin, vợ chồng chị đem con đi rửa tội và mời Ông ngoại sang ăn đầy tháng. Ổng không đến, không cho bà ngoại đến, cấm các cậu các dì đến, còn chửi em thậm tệ: “Mới đẻ, nó có tội gì mà đè nó ra xối rửa”. Từ đó, ổng từ chị luôn. Đến với Lòng Chúa Thương Xót, chị chỉ xin là “nếu bố con có ghét Chúa thì kệ ổng, xin cho ổng đừng ghét con”. Hơn sáu tháng chị van vái cầu may, chị thấy bố thay đổi. Chiều thứ năm tuần thánh 5-4-2012, tự động ổng đến thăm Cu Bin, nay đã 7 tuổi rồi, cho cu Bin 100 ngàn. Ổng nói: “Mai, là ngày Chúa tụi mày chết, rồi nghe nói vài hôm ổng sống lại. Tao qua thăm tụi mày. Cho Cu Bin 100 ngàn nè. Nói với ổng nếu tao có chết, thì cho tao sống lại với”. Thế là chị nghĩ Lòng Chúa Thương Xót đã thương xót chị. Chuyện Ba với Chúa thì chưa biết, nhưng ít là Ba của chị đã đến thăm con, cháu…

 Anh nghĩ xem, có phải thấy mà phát ghét, nghe mà phát ganh, nhìn mà phát điên tiết không! Chúa có Lòng Thương Xót như vậy sao? Thật bất công quá! Em đạo dòng…. Xin Chúa hoài mà chẳng thấy Chúa ban cho điều gì. Còn mấy thứ ngưòi kia….”.

 Thiết nghĩ, trong chúng ta không ít người có lòng ganh tỵ như người kể chuyện trên đây. Có khi phản ứng bất bình với Chúa còn hơn như vậy nữa. Phát ghét, còn đỡ hơn là người thấy người khác được Chúa Xót Thương mà đâm ra thù hận, tìm cách hại người.

 Ước gì mỗi chúng ta đều nhận ra Lòng Chúa đang Thương Xót từng người, và ban ân lộc cho từng người “như mưa xuống trên ruộng người lành, lẫn ruộng kẻ dữ’. Thiên Chúa không bất công nhưng Ngài khôn ngoan và cân nhắc cho con cái Ngài từng chút một, từng việc nhỏ. Ngài luôn dành cho chúng ta những gì tốt nhất theo ý Ngài, không phải tốt nhất theo ý của chúng ta. Mà, ý tốt nhất của Thiên Chúa là “để chúng ta được cứu rỗi”, “để chúng ta được sống đời đời” kẻo uổng công trình trút hết giọt máu, giọt nước cuối cùng để chết đi vì yêu rồi sống lại vì yêu, sống lại để người mình yêu được sống lại.

 Trở lại câu chuyện của chị đạo dòng, thiết tưởng, chị phải nhận ra rằng Chúa đã ban cho cả họ tộc của chị, và cho chồng chị nữa một ơn đặc biệt là sống nghèo hèn thanh thoát trước của cải phù vân, sống cho danh Thiên Chúa cả sáng, cho Nước Thiên Chúa trị đến… là đã sống trước cuộc sống phục sinh ngay trên dương thế này rồi. Như vậy, chắc hẳn sẽ khác với những người đang sống ở trần gian mà không tin có đời sau, không tin sự sống lại,  không dám chắc một cuộc sống mai hậu chứ? Hơn nữa, của cải vật chất Chúa ban cho là để chúng ta sử dụng cho được Nước Trời, được sống đời đời, nào phải để chúng ta hưởng dùng cho thoải mái ở đời này đâu.

 Tôi không dám giải thích gì cho chị, người kể. Nhưng bất ngờ, qua một chị bạn của chị, tôi mới hiểu một nguyên nhân vui vui là: “Người ta lên đời cả rồi, bạn chị, đứa thì Air Blade, đứa thì Atila, đứa còn có chiếc 7 chỗ, còn chị, ngồi sau chiếc cánh én cũ rích mà mắc cỡ…”.

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có thể giống như chị kia, luôn than thở trách móc Lòng Chúa Thương Xót bất công quá. Xin cho chúng con nhận ra lòng Chúa Xót Thương không bao giờ bất công cả, vì Chúa là Đấng Khôn Ngoan, luôn dành cho mỗi chúng con điều tốt nhất là cho chúng con được phục sinh trong Nước Thiên Chúa.

Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 14-4-2012

Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II

Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và bức ảnh mới được công bố

Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đến thăm và tha thứ cho tay súng Mehmet Ali Agca đang bị giam trong tù (bìa tạp chí Time)

TẠI SAO NGƯỜI TÍN HỮU LUÔN HY SINH VÀ THA THỨ ?????
Bấm xem ảnh ở cửa sổ mới
Ngày 1 tháng 5 năm 2011 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Benedict, thay mặt Giáo Hội, đã vinh phong Đức Cố Giáo Hoàng lên bậc Chân Phước. Nhân dịp này, xin giới thiệu bạn đọc một biến cố quan trọng nhất trong xẩy ra trong cuộc đời Đức cố Giáo Hoàng thân yêu chúng ta. Biến cố này xẩy ra vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ngày ngài bị ám sát. Chính ngày đó, ngài đã được cứu sống nhờ sự can thiệp của Đức Maria… 

Vào ngày 13.5.1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhĩ Kỳ, đã cố ý giết chết Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô ở Roma. Mãi cho đến hôm nay nguyên nhân vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II của Ali Agca vẫn chưa được hoàn toàn giải thích một cách rõ ràng, mặc dù người ta đã biết được rằng Agca thừa hành lệnh của mật vụ Bảo Gia Lợi (Bulgarie).

Sự nghi ngờ cho rằng vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là được Breschnew, Chủ tịch nhà nước và đảng trưởng Đảng cộng sản Liên Sô, sắp xếp và được cơ quan mật vụ Liên Sô KGB ở Mạc Tự Khoa trao cho mật vụ Bảo Gia Lợi thi hành, đã lan rộng ra liền ngay sau vụ ám sát.

Riêng Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, hiện là TGM của Krakau/Ba Lan, và là vị thư ký lâu năm của Đức Gioan Phaolô II – kể từ khi ngài còn là Tổng Giám Mục Kraukau mãi cho tới hết 26 năm làm Giáo Hoàng -, thì hoàn toàn xác tín rằng: «Nói một cách khách quan thì hoàn toàn không thể tin được là Ali Agca chỉ là kẻ hành động lẻ loi một mình và tất cả mọi sự đều chỉ do một mình y thực hiện mà thôi».

Trong các hồ sơ vụ việc người ta thấy có ghi nhận là bộ An ninh Quốc gia của Đông Đức đã nhận lãnh sứ mệnh tìm cách làm giảm thiểu bớt trách nhiệm cho «cơ quan tuyên truyền của người anh em» Bảo Gia Lợi về việc ám sát Đức Gioan Phaolô II. Tuy nhiên, trên thực tế các sự thú nhận hay các bằng cứ chắc chắn và rõ ràng về vụ ám sát thì mãi cho tới nay người ta vẫn chưa nắm hết được.

Đúng vậy, cho tới nay những lý do thầm kín phía sau vụ ám sát vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Chỉ một điều chắc chắn là Bộ chính trị trung ương Liên Sô đã nhiều lần bàn luận về việc «làm sao có thể giải quyết dứt điểm vấn đề Ba Lan». Ông John O. Koehler, một ký giả người Hoa Kỳ, thì khẳng định là ông đã đọc một hồ sơ được viết vào tháng 11 năm 1979, có ghi các chữ ký của các thành phần thuộc Bộ chính trị trung ương của Liên Sô cũ, trong số đó có cả chữ ký của ông Michail Gorbatschow.

Quả vậy, vào tháng 11.1979 chính là lúc ông Gorbatschow đang đảm nhận chức Tổng bí thư của trung ương Đảng cộng sản Liên Sô, nhưng ông lại chưa phải là thành viên của Bộ chính trị trung ương. Những quyết định về các phương thức hành động của cơ quan mật vụ KGB chỉ được một số rất ít các đảng viên cao cấp quyết định mà thôi.

Trong một hồ sơ hiện đang được lưu trữ ở Văn khố quốc gia tại Mạc Tư Khoa có ghi: «Cần phải tận dụng tất cả mọi phương tiện khả dĩ để dẹp tan một khuynh hướng chính trị mới do vị Giáo Hoàng người Ba Lan khởi xướng đang chớm nở, và nếu cần thì phải sử dụng cả những phương tiện thông tin ngụy tạo và làm mất tín nhiệm.»

Còn riêng Đức Gioan Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát. Và việc ngài sống sót là cà một phép lạ. Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi cho tới lúc ngài băng hà năm 2005.

Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.

ĐHY Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất:

«Tại sao Ngài lại không chết? – Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích. Tôi cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một cách chắc chắn. Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?»

Về phần Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như thế. Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma – ngày 13 tháng 5 (1981) – cũng chính là ngày Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5 (1917). Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài.

Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982), Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ. Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc, là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy.

Bấm xem ảnh ở cửa sổ mới

Và đây là bức ảnh mới được công bố gần đây, cho thấy sự can thiệp nhiệm mầu của Đức Mẹ Maria vào ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô bị ám sát, ngày 13 tháng 5 năm 1981

Chúng ta không hiểu tại sao Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II đã muốn cất dấu tấm hình chụp nầy trong nhiều năm. Vatican đã vừa mới công bố tấm hình chụp nầy lần đầu tiên. Tấm hình được một vệ sĩ của Người chụp ngay chính lúc Đức Thánh Cha bị tấn công và đang ngã xuống trong chiếc xe đặc chế (papamobil) của Người. Các bạn có thể nhìn thấy đau đớn hiện trên mặt Người.

Joaquin Navarro Valls, phát ngôn nhân Toà Thánh vào thời gian đó, đã tuyên bố người ta mất nhiều năm để nghiên cứu tấm hình chụp khó tin nầy và tất nhiên là về chất lượng rửa hình, vì khi được chuẩn bị kỹ càng, không ai có thể nhìn rõ ràng bởi vì tấm hình không sáng sủa. Cuối cùng, sau nhiểu kiểm duyệt và tìm tòi, dưới sự kiểm soát của các chuyên gia nhiếp ảnh trên thế giới, họ đã quyết định không hề có “giả mạo’ thuộc thuật nhiếp ảnh và ngày nay họ cho chúng ta món quà đẹp đẽ nầy về Mẹ Thiên Chúa.

Các bạn có thể nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa ôm Đức Gioan-Phaolô II trong tay Mẹ.

Lm Nguyễn Hữu Thy

Không thấy mới gọi là tin

Không thấy mới gọi là tin

Ðức tin là gì? Nói một cách cho dễ hiểu thì đức tin nghĩa là tôi tin vào điều mà khoa học và những giác quan không kiểm chứng hoặc không hoàn toàn kiểm chứng được. Ví dụ như tôi tin có Chúa là vì tôi cảm nghiệm có một bàn tay vô hình nào đó luôn che chở phù trì tôi trong cuộc đời, dù rằng tôi không thể chứng minh cho mọi người thấy được điều đó. Tôi tin tôi có linh hồn bất tử bởi vì mỗi khi làm một điều gì xấu, tôi cảm thấy lương tâm áy náy và bất an, trong khi một điều tốt thường đem lai cho tôi một tâm hồn binh an thanh thản. Tôi nghĩ, nếu tôi phải nhìn thấy Chúa, nghe tiếng Chúa nói, đụng chạm đến Ngài y như các môn đệ ngày xưa rồi tôi mới tin, thì đó chưa hẳn là đức tin đúng theo nghĩa của nó. Nếu chính mắt tôi nhìn thấy Chúa hiện ra, tôi nghe lời Chúa nhắn nhủ, và tôi đụng chạm tà áo Ngài thì tôi không còn là tin nữa mà là tôi đã gặp Ngài và biết Ngài.
 
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Sau Phuc Sinh, Ông Tôma đòi gặp Chúa Giêsu, nhìn thấy những lỗ đinh, và thọc ngón tay vào cạnh sườn Ngài rồi thì mới tin. Chỉ có vậy mà muôn đời ông bị gán cho một biệt danh là “kẻ cứng tin.” Kể ra thì cũng hơi oan cho ông, vì nếu tôi được đặt vào hoàn cảnh của ông, chưa chắc tôi đã tin mà có khi còn cho các môn đệ là những kẻ dễ bị lừa. Một điều rất quan trọng nơi đức tin của Tôma là lần thứ hai Chúa hiện ra với ông sau tám ngày. Trong lần này,
không những ông tin vào Ðức Kitô, mà ông còn tuyên xưng một niềm tin tuyệt hảo, có giá trị cứu độ, “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28). Trong bốn Phúc Âm, chỉ có vài người đạt được niềm tin cỡ như Tôma hôm nay: Ðó là lời ông Phêrô tuyên tín “Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sông” (Mt, 16:16) và lời thốt lên của viên sĩ quan nhìn lên Chúa chết trên thập giá, “quả thật! người này đúng là Con Thiên Chúa” (Mc, 15:39). So sánh ba lời tuyên tín trên, ta thấy lời của Toma đạt được đỉnh cao vào bậc nhất, “Lạy Chúa tôi! Lay Thiên Chúa của tôi” (Gioan 20:28). Nếu Tôma không “nghi ngờ” một chút nào cả thì chưa chắc ông đạt đến một đức tin như thế. Có thể sau khi ông nghe những lời tường trình về việc Chúa hiện ra và đàm đạo với các môn đệ, ông suy đi nghĩ lại con người Giêsu mà ông theo đuổi bấy lâu nay. Cũng có thể ông bị dằn vặt với đức tin của ông vào Ðức Kitô Phục Sinh. Nhưng chính trong sự suy nghĩ bằng khối óc, sự đắn đo và chiến đấu với niềm tin của ông về Ðức Kitô, mà ông đã đạt được, tiếng Anh gọi là “come to believe,” một niềm tin cao nhất về Ðức Kitô Phục Sinh.
 
Ta nên biết rằng Tin Mừng Gioan thường nhấn mạnh đến dấu lạ và niềm tin đạt được qua những dấu lạ đó. Ðan cử như là trường hợp của ông Nicôdemô đã đàm đạo với Chúa suốt đêm, để rồi ông có cảm tình hơn với Chúa và sau này ông đã bênh vực và táng xác Chúa. Chị phụ nữ Samaria cũng thế, đã lắng nghe và tâm sư với Chúa và rồi đức tin của chi đã triển nở đến độ chạy đi loan báo cho mọi người về Ðức Kitô. Rồi đến anh mù từ thủa mới sinh đã vất vả chiến đấu với niềm tin của mình cho dù bị các niên trưởng và giới lảnh đạo chửi mắng và kết án, và ngay cả cha mẹ cũng từ bỏ anh. Lạ lung thay, anh đã đạt được đỉnh cao của niêm tin vào Chúa Kito đến độ cúi xuống bái lạy Ngài.
 
Vậy thì việc Tôma không tin ngay vào những lời các môn đệ không nhất thiết một là điều xấu, cũng như chúng ta nghe về phép lạ này phép lạ kia từ người này hay người nọ. Thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy thắc mắc và hơi nghi ngờ về môt điểm nào đó trong việc thực hành đạo. Có lúc chúng ta chứng kiến nhiều biến động trong tâm hồn cũng như trên thế giới như là tai sao người lành gặp đau khổ trong khi kẻ ác cứ sống phây phây và ta tự hỏi “Không biết có Chúa không.? Sao tôi đau khồ qúa?”
 
Những thắc mắc và câu hỏi kiểu như thế trong thử thách không hẳn là xấu, mà có khi lại cần thiết nữa. Ðiều quan trọng là chúng ta vẫn tin vào Chúa và biết cách dùng những ân huệ Chúa ban để hiểu thêm những điều mình tin. Chúa cho chúng ta khối óc và những giác quan thì phải đem ra mà sử dụng. Phải có tinh thần học hỏi, phải suy niệm, đôi lúc cũng phải có sự chiến đấu nôi tâm. Ðức tin phải từng trải và phải chịu đau đớn cũng như Ðức Mẹ dưới chân thập giá; cũng như Abraham đem con một lên núi tế lễ; và như ông Gióp khổ sở vì mất con cái nhà cửa và chịu lở loét bênh tật.  Đặc biệt nhất là như Chúa Giêsu chịu khổ nạn và đau đớn trên thánh gía đến nổi phài thốt lên, “Lạy Chúa tôi; lạy Chúa Trời tôi; sao Chúa bỏ tôi.” 
 
Chắc chắn những nhân vật này có một đức tin rất vững chắc bởi vì họ đã chịu thử thách đến tận cùng và họ đã trở thành những anh hùng của đức tin.  Họ là sự ứng nghiệm của câu ca dao nổi tiếng Việt Nam, “Lửa thử vàng. Gian nan thử đức.”
 
 
 
Lm Trịnh Ngọc Danh

Phúc thay những người không thấy mà tin

           Phúc thay những người không thấy mà tin  (Ga.20;29) 

                                                                                  Fx. Đỗ Công Minh (Gx Lộc Hưng)

         Lạy Chúa,

        Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ hai Phục sinh hôm nay, Chúa cho con có dịp soi rọi niềm tin của con vào Thiên Chúa và Hội Thánh Người.

          Đọan Tin mừng thuật lại việc Chúa hiện ra với các tông đồ đã qúa quen thuộc với con. Lời Chúa nói với ông Tô-Ma chúng con vẫn thường nói cho nhau nghe:”Phúc cho kẻkhông thấy mà tin” mỗi khi có ai còn nghi ngờ về một điều nào đó  “khó tin mà có thật “ hôm nay. Rồi chúng con cũng còn mạnh miệng phê phán Tô-Ma ngày ấy là người cứng lòng vì đã có đến 10 người làm chứng Chúa đã sống lại và hiện ra, nhưng ông vẫn không chịu tin, dẫn đến thái độ lên án anh chị em: “cứng lòng như Tô-Ma “.

          Ngày hôm nay, con đang sống trong một xã hội mà ở đó hằng ngày xảy ra biết bao điều giả dối, lừa lọc.Trên các phương tiện truyền thông biết bao tin tức, sự kiện “ảo” được loan báo. Những chiêu quảng cáo hấp dẫn nhưng không có thật diễn ra một cách công khai. Rồi trong quan hệ giữa người với người, bao lời hứa hão của người trên đối với kẻ dưới, những lời thề thốt của người này với người kia không được thực hiện, khiến cho câu nói :”thấy mới tin “ hay :”Nói vậy nhưng không phải vậy” trở thành câu nói quen thuộc trên môi miệng con người thời đại.

          Con có tin Chúa đã sống lại ?

          Con có tin có Chúa thật ?

          Trong đời sống đạo, con tự nhận mình là người tin Chúa, con vẫn tuyên xưng mỗi khi tham dự Thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng. Nhưng những lời tuyên xưng ấy nào có ý nghĩa gì nếu cuộc đời con không thay đổi từ sự Phục sinh của Chúa. Lòng tin của con nếu không có những hành động cụ thể đi kèm hầu biến đổi đời con, thay đổi thái độ sống của con, theo gương Chúa, nơi anh chị em đang cùng sống với con, thì dù có được Chúa hiện ra như Người đã hiện ra với TôMa, tận mắt nhìn thấy Chúa, tận tay xỏ vào lỗ đinh nơi bàn tay Chúa chưa chắc con đã sống niềm tin ấy được .

          Xin cho con, trong cuộc sống mỗi ngày luôn biết minh chứng niềm tin của mình. Con thật có phúc vì chưa thấy được Chúa hữu hình, nhưng con tin và chính niềm tin ấy sẽ giải thóat con khỏi mọi sự dữ, giúp con trở nên người con yêu dấu của Chúa.

 AMEN.

RA KHỎI MỒ

                                               RA KHỎI MỒ

                                                 Suy Niệm Lời Chúa CN Phục Sinh 2012

 “Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”

Phêrô và Gioan cũng đến mồ và chỉ thấy còn lại: “những khăn liệm để đó”, “những dây băng nhỏ để đó”, “khăn liệm che đầu cuộn lại để riêng một chỗ”.

Chúa Giêsu đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ngôi mộ trống. Đúng là: “theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết”. (x.Ga 20, 1-9)

 Đối với các Kitô hữu công giáo hôm nay, thì việc Chúa Giêsu sống lại là một tín điều, buộc phải tin. Nhưng khổ nỗi, điều gì buộc thì cũng không thoải mái cho bằng điều tự nguyện. Vì thế, từ đức tin “buộc phải tin” đến đức tin “tự nguyện tin”, các tín hữu Chúa đã phải trải qua hành trình “sống niềm tin phục sinh”, cảm nhận được niềm vui kỳ diệu, và cuối cùng là tự nguyện tin và tin tuyệt đối.

 Tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh không phải là niềm tin nói, niềm tin viết, niềm tin giảng dạy thuyết pháp, niềm tin tranh luận phân tích, càng không phải là niềm tin phong trào hay lễ hội, nhưng là niềm tin được thể hiện bằng chính sự anh dũng dám buông bỏ tất cả, dám hy sinh tất cả, dám chết cả bạc tiền, cả danh dự, cả sự nghiệp, và cả những nhu cầu của cuộc sống thế trần này, để chỉ đổi lấy một sự sống lại ngay lúc này và mai sau. Người ước được sống lại ngay lúc này, là người biết mình đang bị giam hảm, đang mất tự do, đang bị nô lệ thần chết, hay đúng hơn, sống mà như đang chết trong tội lỗi. Người sống mầu nhiệm phục sinh, sống niềm vui phục sinh phải là người được thoát ra khỏi vòng giam hảm, người được tự do, người tinh tuyền trong trắng. Ấy vậy, khi suy gẫm về mầu nhiệm phục sinh, thì “ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”. Cách hành văn câu kinh có vẻ cũ kỹ, nhưng chất chứa một ý nghĩa luôn luôn mới, luôn luôn thời sự cho mỗi chúng ta.

 Bạn và tôi có thể đã nhận bao nhiêu lời chúc mừng, bao nhiêu tin nhắn, cuộc điện thoại, điện thư với nội dung: “Alleluia. Mừng Chúa Sống Lại” hoặc “Alleluia. Happy Easter” trong ngày Đại Lễ Phục Sinh. Nhưng thử hỏi: có ai mừng lễ tôi, mừng lễ bạn mà dám gửi cho chúng ta câu này “Bạn đã sống lại thật về phần linh hồn chưa?” để nhắc nhở chúng ta rằng: chỉ có “sống lại thật về phần linh hồn” mới là niềm vui chính đáng của tôi, của bạn trong ngày Đại Lễ.

Thật đáng tiếc, chúng ta đã và đang Mừng Chúa Sống Lại như một lễ hội, hơn là mừng biến cố sống lại của chính linh hồn mình.

 Này nhé, chúng ta đã qua một mùa chay nhiệm nhặt. Đã qua một tuần thánh sốt sắng buông bỏ mọi thứ ở đời, sốt sắng đến với tòa cáo giải, sốt sắng tham dự phụng vụ và những giờ ngắm…sốt sắng…ủ dột…phiền não…

Hôm nay, Đại Lễ Phục Sinh. Luật Hội Thánh buộc nghỉ việc xác để chúng ta mừng lễ. Nhưng mừng lễ thế nào? Mừng Chúa sống lại và mừng chúng ta được sống lại thật về phần linh hồn chứ?

Hay là mừng lễ như thế này:

Người chuẩn bị con heo quay, người con cầy tơ, người mấy con gà đi bộ hay dăm con vịt…mấy thùng bia, vài lít rượu hoặc ngơm ngã hơn là kiếm một chai Tây cho oách. Người mời thêm vài thân hữu, vài đồng nghiệp, vài người hàng xóm. Cứ nghĩ ăn càng to, khách càng đông thì như vậy là mừng lễ cách long trọng, xứng mặt anh hùng, đúng tầm đại gia hay ra vẻ nghệ sĩ sành điệu nhất. 10g sáng nhập tiệc mừng đại lễ. Cứ chén thoải mái. Tàn tiệc rồi mà chưa bí tỉ thì kéo nhau đi “tăng” hai vừa hát karaoke vừa lai rai thêm vài thùng nữa cho đến hồi vừa nói nói tiếng tây lẫn tiếng tàu, vừa vung tay lẫn đá chân đi hàng hai hàng ba mất thăng bằng. Đã vậy, còn đưa nhau đi “tăng” ba, phòng trà ca nhạc hay quán cà phê ôm nào mờ mờ ảo ảo cho nó sướng cái người. Mừng hết một ngày lễ Phục Sinh, chơi luôn đêm, xả láng sáng về sớm.

Đội quân tín hữu tóc dài cũng không kém. Nghỉ việc xác và mừng lễ Phục sinh lại là cơ hội chứng tỏ mình là phụ nữ mới trong cái xã hội gọi là giải phóng. Mà cụ thể nhất là giải phóng phụ nữ khỏi cái thân phận “trong nhà” để bà cũng được hưởng chế độ “ngoài cửa” khỏi lãng phí một đời hoa. Họ là những người buôn bán. Ai cũng đứng một sạp ở chợ. Mừng lễ, năm bảy chị thuê bao một chiếc 16 chỗ đi dã ngoại Phục Sinh. Ở đó, họ đã hẹn với cũng năm bảy ông cán bộ thuế vụ, công an. Và họ vui chơi thoải mái. Mừng lễ Phục sinh lại là cơ hội giảm thuế, cơ hội làm ăn. Khuya mới về. Như thế là mừng lễ.

Những người hơi có tí tuổi, đã vậy, thì trách chi tuổi trẻ. Quán nhậu nào cũng đông khách, cũng ồn ào. Quán karaoke nào cũng hết phòng, có phòng một cặp, có phòng đôi ba cặp trai gái. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng xe đua inh ỏi, ngửi thấy mùi khói khét, thi thoảng, kinh hồn hơn, lại có vài vụ ẩu đả…

Sáng thứ hai, tuần mới bắt đầu. Mùa phục sinh mới bắt đầu. Và đâu rồi lại cũng vào đấy. Chờ đến sang năm, sẽ mừng lễ to hơn…

 May mắn thay, tôi được nghe kể lại có người ăn mừng lễ cách điệu nghệ hơn nhiều: Sau thánh lễ Phục Sinh, họ về nhà ăn điểm tâm phục sinh với vợ con một tí, rồi hẹn nhau một chuyến đi bất ngờ. Hai ông chở nhau trên chiếc Honda 79 cũ kỷ. Quần áo hơi luộm thuộm lùa thùa nếu không nói là chỉ vừa tươm tất chút nhưng không có vẻ gì là sang trọng cả. Họ vào làng kia, trong hóc núi. Họ định với nhau đóng vai người đi mua củ mì tươi để đến thăm từng nhà trong hóc núi. Ở đó, hai ông đã tìm được những niềm vui Phục Sinh lạ thường: Ít là có 7 gia đình công giáo trong hóc núi. Họ chẳng biết hôm nay lễ Phục Sinh.

-“Lâu rồi, tui không đến nhà thờ vì xa quá, lại chẳng có đứa mô chở đi”.

-“12 năm rồi tui chưa xưng tội ông à. Nhưng tui nghĩ ở mãi trong hóc núi nầy cũng chẳng có cái tội gì ngoài tội không xưng tội”.

-“Dạ, em đã trốn vào ở đây để làm rẫy được 3 năm rồi. Ban ngày, một mình với trời đất thiên nhiên, ban đêm, một mình với Chúa. Em không về dự lễ ở Giáo Xứ em, sinh dịp cho họ nguyền rủa em mà mang tội. Thỉnh thoảng về nhà thờ Chánh Tòa Phan Thiết xưng tội, dự lễ, rồi lại trở vào đây. Năm nay không dự lễ Phục Sinh được vì chị hàng xóm người lương,  bên cạnh nhà em kìa, đang hấp hối”.

 Có thể bạn còn nhiều cách mừng lễ hay hơn, đẹp hơn, nhưng thiết nghĩ không có cách nào tuyệt vời hơn là sống lại với Đức Kitô, cùng Đức Kitô ra khỏi mồ. Vâng, vì niềm vui Phục sinh đã được chuẩn bị từ một mùa chay thành tâm sốt sắng, một tuần thánh thánh thiện là để đi đến quyết định “ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”.

Vậy như Chúa Giêsu đã sống lại thật và đi ra khỏi mồ, mỗi tín hữu Chúa mừng Đại Lễ Phục Sinh của Chúa cũng chính là mừng cho mình có những quyết tâm sống lại và ra khỏi mồ, quyết tâm không trở lại nằm trong những nấm mồ tội lỗi nữa.

Ra khỏi mồ, và không bao giờ trở lại nấm mồ ích kỷ, tham lam đã từng chôn chặt đời mình chung với những bó tiền vô nghĩa chất đống chẳng sinh ích lợi gì cho phần rỗi đời mình.

Ra khỏi nấm mồ dững dưng hờ hững từng chôn chặt đời mình trong tối tăm làm cho đôi mắt mình không thể ngó ra ngoài cái ngục tù kinh khủng ấy để nhìn thấy được bao nỗi đọa đày của nhân gian.

Ra khỏi nấm mồ vô cảm vô tâm từng chôn chặt con tim mình như con tim đóng băng lạnh lùng không có chỉ một chút lòng trắc ẩn, thương người.

Ra khỏi những nấm mồ nhơ nhớp dưới dáng vẻ sang trọng tiện nghi của những khách sạn, nhà hàng, sàn nhảy, từng giam hảm đời mình trong thú vui nhục dục.

Ra khỏi nấm mồ kiêu căng tự phụ để có thể nhận ra mình là hạt bụi tiểu tốt vô danh…

Hãy tưởng tượng, hãy hình dung, và hãy nhận thực ra rằng chúng ta đang sống trong những nấm mộ khi ta hãy đang còn sống.

Và hãy nhớ cho rằng sống niềm tin và niềm vui phục sinh là khẩn trương ra khỏi những nấm mồ ấy, và không bao giờ trở lại nữa.

Vâng, nấm mồ đời tôi, nấm mồ đời bạn, không là những nấm mồ trong tương lai như những nấm mồ hiện tại ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa, hay nghĩa trang Giáo Xứ của tôi của bạn -trong đó, thân xác con người đang thối vữa, đang tan biến thành cát bụi chóng vánh, may ra, còn lại cái hộp sọ ghê rợn và vài chiếc xương khô mòn phai dần theo thời gian, năm tháng, nhưng là nấm mồ tội lỗi ngay hôm nay đang chôn chặt linh hồn mình. Nấm mồ cứ đầy hơn, cửa mồ mỗi kiên cố hơn, khi chúng ta bằng lòng để cho tội lỗi ngập ngục, khống chế.

 Hãy anh dũng bước ra khỏi mồ.

“Thứ năm thì gẫm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”.

 Nguyện xin ơn Phục Sinh của Chúa Giêsu giúp chúng con anh dũng đi ra khỏi những nấm mồ tội lỗi, để chúng con “đặng sống lại thật về phần linh hồn” và được hân hoan niềm vui phục sinh ngay khi còn sống trên dương gian này . A men.

        PM. Cao Huy Hoàng, 08-4-2012

                       

 

Tại sao phải cầu nguyện?

 

 
“Bạn không thể nói yêu một người mà bạn không hề nghĩ đến người đó, tâm sự với người đó, và chứng tỏ tình yêu của mình qua hành động đối với người đó!”
 
Bạn thân mến,
 
Sau khi bài viết “Cầu Nguyện Như Thế Nào?” được gởi đi, thì có một bạn email hỏi tôi là:
“Khi cầu nguyện thì mình nên nói những gì?” Câu hỏi này làm tôi liên tưởng đến một câu chuyện khá thú vị mà tôi xin chia sẻ với quý bạn như sau:
 
Hồi đó tôi khoảng độ 9, 10t, rất tinh nghịch, tò mò, và hay chọc phá người khác. Gần nhà tôi có một công viên, và cứ khoảng chập tối, thì có nhiều cặp tình nhân đến đó ngồi tâm sự hay tán tỉnh gì đó. Vì tôi tò mò muốn biết họ nói với nhau những gì, nên tôi mới rủ thêm một thằng bạn cũng trạc tuổi với tôi, lén ra ngồi sau một cặp tình nhân để rình nghe lén họ nói chuyện với nhau. Chúng tôi còn bàn tính với nhau là sẽ đốt một viên pháo đại trước khi “rút quân” để cho “địch” hốt hoảng khỏi “truy nã” và chúng tôi dễ bề tẩu thoát. Lần đầu tiên chúng tôi nghe họ nói những chuyện mà chúng tôi chưa từng được nghe, và tôi thấy cũng hơi lạ và ngồ ngộ. Nhiều khi tôi cũng thấy buồn cười nhưng phải ráng nhịn. Quay qua thằng bạn, tôi thấy nó cũng đang lấy tay bịt miệng để khỏi cười thành tiếng. Trong lúc 2 đứa chúng tôi đang hồi hộp nín thở vì câu chuyện đang “hấp dẫn”, thì đột nhiên thằng bạn “phải gió” của tôi nó hắt xì một cái thật to, thế là 2 chúng tôi phải bỏ chạy….. mất dép!
 
Tôi nghĩ là nếu tôi lén ghe nhiều cặp khác nhau thủ thỉ, thì tôi cũng sẽ được nghe những lời tâm sự khác nhau. Trong vấn đề cầu nguyện cũng vậy, không ai cầu nguyện giống ai, vì cách tỏ tình mỗi người mỗi khác.
 
Trở lại vấn đề cầu nguyện, như tiêu đề của bài viết, thì cầu nguyện không phải là một việc nên làm, nhưng là một việc phải làm! Đó là điều răn thứ nhất trong 10 điều răn của Thiên Chúa: “Phải thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.”
Nếu tôi nói tôi kính mến Chúa, mà tôi lại không cầu nguyện cùng Chúa, thì tôi là một kẻ nói dối. Có lẽ bạn cũng đồng ý với tôi về điểm này?
 
 
Cầu nguyện Là gì?
 
Trước khi nói về vấn đề phải cầu nguyện, tôi xin được giải thích cầu nguyện là gì. Vì nếu chúng ta không hiểu cầu nguyện là gì, thì chúng ta cũng không thể hiểu tại sao chúng ta phải cầu nguyện. Tôi thường được nghe nhiều người giải thích:  “Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên với Chúa”. Lời giải thích tuy ngắn gọn, nhưng rất mơ hồ, và không giúp ích được gì cho người ta biết cầu nguyện thế nào cho đúng. Nếu nói “cầu nguyện là tâm sự với Chúa”, thì có lẽ dễ hiểu và đúng nghĩa hơn, vì cầu nguyện không phải chỉ là độc thoại, chỉ có ta nói chuyện với Chúa, nhưng ta cũng phải lắng nghe Ngài nói với ta (qua Kinh Thánh và qua những biến cố trong
cuộc đời).
 
Theo như Kinh Thánh đã dạy, thì cầu nguyện là:
 
a)  Chúc tụng, ngợi khen, tôn vinh Thiên Chúa như trong Kinh Lạy Cha và Kinh Sáng
      Danh, và lắng Nghe Lời Chúa như Chúa Cha đã phán khi Chúa Giêsu biến hình trên
      núi Tabore: “Đây là Con Ta yêu dấu, các con hãy lắng nghe Lời Người!”  (Mc. 9:7)  
 
b) Tạ ơn, và xin ơn như trong Kinh Lạy Cha.
 
     Trong trường hợp cầu nguyện cùng Đức Mẹ cũng vậy, trong phần 1 của Kinh Kính
     Mừng, chúng ta chúc tụng, tôn vinh và ngợi khen Mẹ, và phần 2 của Kinh Kính Mừng
     là chúng ta cầu xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta.
 
 
Có nhiều lý do mà chúng ta phải cầu nguyện, nhưng tôi chỉ xin được chia sẻ với quý bạn một ít lý do căn bản và thiết yếu như sau:
 
1)      Cầu nguyện để khỏi bị cám dỗ và thoát khỏi sự dữ.
2)      Cầu nguyện là thể hiện lòng tin, cậy, mến một cách thiết thực nhất.
3)      Cầu nguyện là thể hiện sự công bằng.
4)      Cầu nguyện là điều kiện thiết yếu để nên thánh.
5)      Cầu nguyện là trở nên giống Chúa Kitô.
 
 Cầu nguyện để khỏi bị cám dỗ và thoát khỏi sự dữ.
 
Nếu quý bạn theo dõi hằng ngày trên báo chí, truyền hình và trên Internet,  quý bạn thấy là khắp nơi trên thế giới, kể cả những nước tân tiến như Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Nhật, v.v…. đều xảy ra những thiên tai, nhân tai, bạo loạn, ngộ độc, bệnh tật, scandals, v.v… GHCG bị bách hại từ những thế lực trần thế, từ những tổ chức bí mật, từ những tổ chức công khai với những chiêu bài “tự do”, “bình đẳng”, “nhân quyền”, “từ thiện bác ái”, v.v… và đau buồn hơn nữa, là chính những người trong GH lại bách hại GH nhiều nhất và gây nên những sự hoang mang cho đoàn chiên của Chúa! Nếu như chúng ta không cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và để thoát khỏi mọi sự dữ, thì chúng ta làm sao tránh khỏi những nguy hiểm đang rình rập khắp nơi?
 
“Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến, và để có thể đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc. 21:36)
 
“Anh  em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhanh nhẹn, nhưng thể xác thì nặng nề”. (Mc. 14: 38)
 
Các môn đệ hỏi Chúa Giêsu: ”Tại sao chúng con lại không thể trừ quỷ đó được?” Chúa Giêsu đáp: ”Loại quỷ đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay.” (Mc. 9,20-29).
 
Cầu nguyện và ăn chay có thể có thể ngăn ngừa được chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, và nhiều sự dữ khác. Bởi nhiều người không nghe lời khuyên của Mẹ Fatima, nên thế ngày nay mới lâm vào tình trạng “văn minh sự chết”. 
 
 Cầu nguyện là thể hiện lòng tin, cậy, mến một cách thiết thực nhất.
 
Nếu chúng ta không cầu nguyện, có nghĩa là chúng ta không tin rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta; hoặc nói cách khác, là chúng ta không cần Thiên Chúa! Chúng ta tin vào chính mình hơn là chúng ta tin vào Ngài. Theo thời gian. Chúng ta có thể mất đức tin lúc nào mà chúng ta cũng không hay. Đức tin được tăng trưởng qua sự cầu nguyện. Nếu không cầu nguyện, đức tin  dễ bị thoái hóa (yếu dần), hoặc biến hóa (lạc giáo). “Thầy bảo các con: hãy xin và sẽ được ban cho, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì sẽ được mở. Bời vì ai xin thì nhận được, và ai tìm thì sẽ thấy và ai gõ thì sẽ được mở” (Lc. 11,9-10).
 
Khi chúng ta muốn xin sự giúp đỡ của người khác, thì chúng ta hy vọng là người đó sẽ giúp chúng ta. Nếu chúng ta không hy vọng là người đó có thể giúp chúng ta, thì chúng ta không dại gì mất công và mất thì giờ để cầu xin người đó. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta, thì chúng ta cũng hy vọng là Chúa sẽ ban cho chúng ta, nếu chúng ta cầu xin với niềm xác tín, và những điều chúng ta xin là chính đáng và đẹp lòng Ngài.
 
Nếu bạn yêu ai, thì bạn mới tâm sự với người đó. Trừ khi chúng ta cầu nguyện theo thói quen, Chúng ta sẽ cảm thấy cầu nguyện là một niềm hạnh phúc, vì chúng ta được tâm sự với Người Cha và Người Mẹ tuyệt hảo và yêu thương chúng ta nhất. Bằng chứng là có những vị thánh,
như thánh Đa Minh, thân ngài bay bổng lên không trung khi ngài cầu nguyện. Ngài có thể
cầu nguyện suốt đêm trước Thánh Thể mặc dù sau một ngày dài làm việc mệt nhọc, vì ngài cầu nguyện với tất cả niềm tin, cậy, mến một cách trọn hảo.
 
Khi chúng ta cầu nguyện cho một linh hồn trở lại, thì cả Thiên Đàng vui mừng. Đó là chúng ta thể hiện lòng yêu mến đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân một cách thiết thực nhất. Còn gì cao quý hơn, khi chúng ta cầu nguyện cho những kẻ thù ghét và ngược đãi mình? Chỉ khi chúng ta ở trong Chúa, và Chúa ở trong chúng ta, thì chúng ta mới làm được những điều đó.
 
Tôi bảo các ông: Cũng vậy, trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn (Lc.15:7)
 
“Các con hãy yêu thương kẻ thù địch, làm ơn cho những người ghét chúng con, chúc lành cho những người nguyền rủa các con, cầu nguyện cho cả những người vu cáo chúng con…”
(Lc. 6: 27-28).
 
“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em.”
(Mc. 5,44)
 
 Cầu nguyện là thể hiện sự công bằng.
 
Theo như kinh nghiệm của tôi, thì khi tôi được ơn hoán cải, là không phải do tôi, mà do những lời cầu nguyện của nhiều người khác mà tôi cũng không biết những người đó là ai. Một con chim bị nhốt vào lồng thì tự nó không thể nào thoát ra được. Bởi vậy, khi chúng ta cầu nguyện, thì chúng ta cũng phải cầu nguyện cho những người đã cầu nguyện cho chúng ta, mặc dù chúng ta không biệt họ là ai. GHCG là GH thông công, nên mọi người cũng cầu nguyện cho nhau, và đó là luật công bằng: được nhận thì cũng phải cho đi.
 
 Cầu nguyện là điều kiện thiết yếu để nên thánh.
 
Bạn không thể nên thánh nếu bạn không thích cầu nguyện! Đối với các thánh nhân, các ngài
rất hạnh phúc khi cầu nguyện. Các ngài muốn có cơ hội để được cầu nguyện. Nếu chúng ta nói “phải cầu nguyện”, thì đó chỉ là cầu nguyện một cách tiêu cực. Chỉ khi nào chúng ta thích được cầu nguyện, thì chúng ta mới có hy vọng trở nên thánh, nghĩa là chúng ta đã tìm được Nước Trời ở nơi trần thế này.
 
 Cầu nguyện là trở nên giống Chúa Kitô.
 
Trước khi Chúa Giêsu đi rao giảng, thì Ngài bắt đầu bằng 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện và chịu ma quỷ cám dỗ. Mặc dù Thánh Kinh không đề cập tới Ngài nhiều trước khi Ngài bắt đầu sứ mạng của Ngài, chắc chắn là Ngài cũng rất thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha. Trong thời gian 3 năm rao giảng, Kinh Thánh nhiều lần có đề cập tới việc cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài cầu nguyện sáng tối, và có khi Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện.
 
“Sáng sớm hôm sau khi trời hãy còn tối, Chúa Giêsu thức dậy ra khỏi nhà. Ngài đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện ở đó” (Mc. 1,35).
 
“…Và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.” (Lc 6,12)
 
Nếu bạn yêu một người nào, thì bạn cũng muốn trở nên giống người đó. Bạn thích những gì người yêu thích: “yêu nhau yêu cả đường đi”. Nếu bạn yêu mến Chúa Giêsu, thì bạn cũng
muốn trở nên giống Ngài. Bạn không thể trở nên giống Ngài nếu bạn không có sự liên hệ mật thiết với Ngài qua sự cầu nguyện. Có khi chúng ta nói yêu Chúa Giêsu, nhưng chúng ta chỉ
thích nhìn những phép lạ Người làm, thích nghe những Lời Người giảng dạy, và thích chiêm ngắm khi Ngài lên Trời, nhưng chúng ta không thích thấy Ngài ăn chay cầu nguyện, không thích thấy Ngài đánh đuổi các con buôn trong đền thờ, không thích nghe Ngài lên án quở trách những người luật sỹ và Pharixieu, không thích thấy Ngài vác thập giá và chịu chết treo trên thập giá. Chúng ta không muốn mình phải trở nên giống Chúa, nhưng chúng ta muốn Chúa phải trở nên giống mình. Chúng ta không muốn tuân phục GH, nhưng chúng ta muốn GH phải theo ý riêng của chúng ta. Những trường hợp đó, chắc chắn là chúng ta không cầu nguyện, hoặc chúng ta cầu nguyện không đúng, không đẹp lòng Chúa, vì chúng ta  không muốn vâng theo ý Chúa, nhưng chúng ta  muốn Chúa theo ý chúng ta.
 
 Cầu nguyện phải đi đôi với việc làm, sự hy sinh (ăn chay hãm mình), và lòng tin cậy mến.
 
“Không phải những người thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng là những người thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt. 7,21).
 
Nếu bạn yêu một người, mà bạn chỉ có nói mà không chứng minh bằng việc làm cụ thể đối với người đó, thì người đó sẽ nghĩ gì về bạn? Con người ta khôn lanh hơn ma quỷ ở chỗ là: “những gì tốt là do mình làm ra, còn những gì xấu là do ma quỷ”. Nhiều khi ma quỷ cũng bị oan ức lắm, nhưng xét cho cùng thì nó cũng đáng thôi! Nhiều khi chúng ta cho rằng những của cải chúng ta có được là do công lao khó nhọc của chúng ta làm ra. Nhưng chúng ta quên mất một điều, là nếu Chúa không ban cho chúng ta tài năng sức lực, thì chúng ta cũng không có được những của cải đó. Nhiều khi chúng ta đem của cải giúp đỡ những người nghèo khó mà không vì tình yêu mến Chúa, thì cũng chẳng khác gi chúng ta, nói theo kiểu dân gian,  “mượn hoa cúng Phật”. Những gì chúng ta có riêng ta để dâng lên Thiên Chúa chính là tấm lòng tin yêu, những sự hy sinh hãm mình, chịu đựng những đau khổ và nghịch cảnh trong cuộc sống, và sự quan tâm tới tha nhân.
 
Hy vọng những sự chia sẻ của tôi, không phải chỉ là một mớ lý thuyết, nhưng là những kinh nghiệm và cảm nghiệm của cả một đời người, có thể giúp cho những bạn trẻ tìm được hạnh phúc thật sự ngay giữa trần thế đầy chông gai và thử thách này…!
 
Cám ơn quý bạn đã cùng tôi chia sẻ, và xin Chúa chúc lành cho qúy bạn và những người thân!
 
San Jose, ngày 7, tháng 7, năm 2011
 
Joseph V. Bùi