Người sống lâu bị nhục nhiều!!!

From facebook:  Honolulu Nguyen‘s post.
 

Honolulu Nguyen

 

Bài cũ nhưng đọc đi đọc lại vẫn thấy hay.

Một bài viết hay dành cho tuổi già của Hoàng Hải Thuỷ. Đọc xong thấy buồn man mác…….!

Người sống lâu bị nhục nhiều. Ông cha tôi – các ông Việt ngày xưa – hay dùng thành ngữ “Ða thọ đa nhục.”

Tôi không cho là người già bị nhục. Tôi thấy người ta càng nhiều tuổi càng khổ. Khổ vì không còn hưởng thụ gì được sự đời mà phải chịu những bệnh tật do già yêú sinh ra: 
Người già không tự lo được cho thân mình, mắt mờ, tai điếc, trí nhớ mất, sống nhờ người khác. Người già vua chúa hay cùng đinh, tỷ phú hay anh nghèo rớt một xu dính túi không có, kẻ quyền uy chấn động thế giới một thời hiển hách hay anh phó thường dân cả đời cơm nhà, quà vợ, khi tuổi già đến đều có những nỗi khổ như nhau.

Người ta qua 60 tuổi được kể là già….?

Ở Việt Nam những năm 1940-1950 người 50 tuổi được gọi là cụ. Khổng Tử chỉ nói về Người đến tuổi 70: “Thất thập nhi tùy tâm sở dục.” Tôi nghĩ ông muốn nói : “Người bẩy mươi tuổi muốn làm gì thì làm.” Nhưng người bẩy mươi tuổi còn làm gì được nữa. Người bẩy mươi cả Bốn Tứ Khoái đều không hưởng được, không làm được.

Năm nay – 2013 – tôi tám mươi tuổi. Một ngày đầu Xuân Kỳ Hoa Ðất Trích 2013, tôi viết bài này.

Năm 2000, khi chia tay nhau lúc nửa đêm ở trước một Nhà Dành cho Người Già Thu Nhập Thấp – Housing for Old Seniors Low Income – ở San Jose, ông bạn già của tôi nói:
“Ðọc những bài viết của toa để nhớ, để thương Sài Gòn của chúng ta.”
Ông cầm tay tôi:
“Viết. Viết nữa. Viết đến năm toa tám mươi. Viết cho bọn moa đọc.”
Ðêm mùa đông San Jose lạnh giá bao quanh chúng tôi khi chúng tôi từ biệt nhau, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối.
image
Năm 2000 tôi 68 tuổi. Ông bạn HO già hơn tôi năm, sáu tuổi, tôi không biết hôm nay ông còn ở cõi đời này hay không. Thời gian và không gian làm chúng tôi không biết nhau sống chết ra sao. Tám mươi tuổi tôi vẫn viết. Tôi không còn viết phóng tác truyện dài. Tôi viết những bài như bài này.

Thời gian Sống, Yêu và Viết của tôi không còn bao lâu nữa, nên với nỗi Buồn vì phải xa mãi những người tôi yêu thương, hôm nay tôi viết những dòng chữ này.

o O o

Tôi bị ám ảnh bởi cái Chết, tôi ghét Chết, tôi sợ Chết, tôi không muốn Chết. Không phải bây giờ trong tuổi già, tuổi gần đất, xa trời, tôi mới sợ Chết, tôi sợ Chết từ những năm tôi năm, sáu tuổi, khi tôi bắt đầu biết suy nghĩ.
Nhà tôi ở cuối thị xã Hà Ðông, nhà có lầu, tiếng Bắc là nhà gác, nhà hai tầng. Trên gác nhìn ra tôi thấy cánh đồng với những nấm mồ rải rác trong những ô ruộng, ở gác sau nhìn ra tôi thấy Nhà Thương Hà Ðông và bãi tha ma ở cuối Nhà Thương. Những đêm mưa tôi thấy những chấm lửa lập lòe trong bãi tha ma. Về sau tôi biết đó là những ánh đèn của những người đi soi bắt ếch. Những năm xưa ấy tôi tưởng đó là những đốm lửa ma trơi.

Năm tôi năm, sáu tuổi, mẹ tôi 27, 28 tuổi. Tôi sợ mẹ tôi chết, người ta đem mẹ tôi ra chôn ở ngoài đồng. Mẹ tôi phải nằm một mình giữa cánh đồng vắng, lạnh, cô đơn, nơi mẹ tôi nằm ngập nước, đêm đông, mưa phùn, gió bấc, mẹ tôi khổ biết chừng nào. Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm tôi ghét Chết, tôi sợ Chết.

Mời bạn đọc một chuyện Sống, Yêu và Chết tôi thấy trên Internet.
Trong phiên xử ở Tòa Án Phoenix, Arizona, bị cáo là Ông George Sanders, 86 tuổi, bị xử vì tội giết vợ. Tất cả mọi người có mặt tại toà, từ công tố viên đến chánh án, kể cả con cháu của kẻ bị cáo, đều thấy bị cáo phạm tội giết người, nhưng tất cả đều cho rằng đây là trường hợp pháp luật nên thông cảm, thương hại, tha thứ hơn là trừng phạt kẻ có tội.

Anh cháu của bị cáo George Sanderss nói trước tòa:
“Ông tôi sống để thương yêu bà tôi. Suối đời ông tôi làm mọi việc để bà tôi có hạnh phúc. Mối tình của ông bà tôi là mối tình lớn. Tôi tin ông tôi bị bắt buộc phải làm việc ấy vì yêu thương bà tôi, bà tôi chịu đau quá nhiều rồi, ông tôi không thể để bà tôi chịu đau nhiều hơn nữa.”

Ông Sanders bị bắt Tháng Bẩy năm 2012 sau khi ông nói với cảnh sát bà Virginia, vợ ông, 81 tuổi, xin ông làm bà chết. Vì ông Sanders nhận tội nên toà án không dùng đến bồi thẩm đoàn, nhưng ông vẫn có thể bị kết án đến 12 năm tù.

Bà Virginia bị bệnh nan y năm 1969, bà liệt bại, bà phải ngồi xe lăn. Năm 1970, ông bà sang sống ở Arizona vì khí hậu ở đây ấm nóng. Ông Sanders là Cựu Chiến Binh Thế Chiến II. Ông là người nuôi và săn sóc bà vợ. Ông nấu ăn cho bà, làm mọi việc trong nhà. Mỗi sáng ông giúp bà trang điểm, mỗi tháng ông đưa bà tới Nhà Thẩm Mỹ để bà làm tóc, làm móng tay.
Năm tháng qua, sức khoẻ của ông Sanders suy mòn. Ông phải đặt máy trợ tim, ông không còn săn sóc chu đáo được bà. Rồi bà Virginia bị ung thư phá ra ở chân, bà phải vào một Nursing home để người ta lo cho bà sống qua những ngày tàn cuối đời.

Ông Sanders nói với những viên chức điều tra:
“Ðây là giọt nước làm tràn ly nước. Virginia nhất quyết không chịu vào Nursing home. Vợ tôi tự cắt những ngón chân bị ung thối.”
Ông nói: – “Vợ tôi xin tôi cho bà ấy chết. Tôi nói tôi không thể..”
Vợ tôi nói: “Anh làm được mà. Em biết anh làm được.”
Sanders cầm khẩu súng lục, ông lấy khăn bông quấn ngoài khẩu súng, nhưng ông không sao bóp cò súng được.
Ông kể: – “Vợ tôi nói: “Bắn đi anh. Cho em đươc chết.”
Tôi nói lời cuối với vợ tôi:
“Em sẽ không cảm thấy đau.”
Và:
“Anh yêu em. Vĩnh biệt em”
Tôi nổ súng.”

Trước toà, người con trai của ông Sandsers nói: – “Tôi muốn quí toà biết rằng tôi yêu thương mẹ tôi, tôi cũng yêu thương bố tôi như thế.”

Steve Sandes, anh con, nghẹn ngào kể: – “Bố tôi yêu thương mẹ tôi trong 62 năm. Những đau đớn thể xác và việc chịu đau vô ích đã làm bố mẹ tôi đi đến quyết định ấy… Tôi không kết tội bố tôi. Với tôi, bố tôi là người tôi cảm phục nhất.”

Ông già George Sanders chỉ nói trong khoảng một phút, giọng ông run run:
“Tôi gặp Viginia năm nàng 15 tuổi, tôi yêu nàng từ năm nàng 15 tuổi.. Tôi yêu nàng khi nàng 81 tuổi. Có nàng làm vợ là một ân phúc Thiên Chuá ban cho tôi. Tôi sung sướng được chăm sóc nàng. Tôi làm theo ý muốn của nàng. Tôi xin lỗi các vị vì vợ chồng tôi mà các vị phải bận lòng.”

Ông Công tố đề nghị ông Chánh án không phạt tù giam George Sanders, ông nói toà nên xử án treo.

Ông Chánh án John Disworth nói ông đặt nặng tình nhân đạo trong vụ án này. Ông nói: – “Bị cáo phạm tội giết người, nhưng được toà giảm nhẹ mức án.”

Ông tuyên phạt ông già George Sanders 2 năm tù treo. Tù treo không bị cảnh sát kiểm soát.

o O o

Chuyện ông bà Sanders làm tôi suy nghĩ lan man. Tôi nhớ chuyện Cái Bát Gỗ tôi đọc những năm tôi 10 tuổi. Anh con thấy ông bố già run tay, khi ăn hay đánh rơi bát cơm, bát vỡ. Anh làm cái bát bằng gỗ cho ông già ăn cơm. Ông có làm rơi bát, bát gỗ không bị vỡ.

Một hôm anh thấy thằng con nhỏ của anh hí hoáy đục đẽo một cục gỗ, anh hỏi nó đục gỗ làm gì, con anh nói: – “Con làm cái bát gỗ, để khi bố già, con cho bố ăn cơm.”

Chuyện – dường như – ở trong sách Quốc Văn Ðộc Bản – đã 70 năm tôi không quên nó – nó đây là chuyện cái Bát Gỗ – nhưng chẳng có dịp nào tôi nhớ nó. Hôm nay tôi nhớ nó.

Từ sau năm 1975 ở Hoa Kỳ, Nhà Xuất Bản Xuân Thu in lại tất cả những sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư. Nhưng sách Quốc Văn Ðộc Bản – sách có nhiều bài thật hay – thì không thấy in lại. Tôi không biết tại sao Quốc Văn Ðộc Bản không được in lại ở Hoa Kỳ. Tôi đã đọc lại tất cả những sách Giáo Khoa Thư được in lại ở Hoa Kỳ, tôi muốn đọc lại những bài trong Quốc Văn Ðộc Bản.

Tôi nhớ lâu rồi, từ những năm 1950 khi tôi chưa gặp Tình Yêu Vợ Chồng, tôi đọc trên trang sách nào đó lời một ông Tầu viết: – “Vợ chồng như hai con chim tình cờ cùng đậu trên một cành cây. Ðến lúc phải bay đi, mỗi con bay đi một phiá.”

Năm xưa còn trẻ, tôi muốn phản đối lời diễn tả trên. Ông Tầu muốn nói vợ chồng là chuyện ngẫu nhiên, chẳng có tình nghĩa gì giữa vợ và chồng. Hôm nay tôi mới dịp viết ra lời phản đối.
Ông bác sĩ điều trị cho vợ chồng tôi mỗi tuần một ngày vào chẩn bệnh cho những ông bà già trong một Housing for Old Seniors – Housing này có nhiều ông bà già Mỹ trắng – ông nói: – “Có những cặp vợ chồng về già không nhìn được mặt nhau.”
Lời kể của ông làm tôi buồn. Vợ chồng sống với nhau đến già, ở chung một nhà già – mỗi người một phòng – sắp ra nghĩa địa, sắp vào hũ sành mà thù hận nhau đến không nhìn mặt nhau?? Thù hận gì dữ dội đến thế? Những người ấy thật khổ.
Bát đại khổ não ghi “8 Nỗi Khổ Lớn” của con người:

Sinh, Lão, Bệnh, Tử: 4 Khổ ai cũng phải chịu.
Muốn có mà không có: Khổ 5
Có mà không giữ được: Khổ 6..
Yêu nhau mà không được cùng sống: Khổ 7.
Ghét nhau mà phải sống gần nhau: Khổ 8.
Có người chỉ phải chịu có 7 Khổ. Ðó là những người không yêu ai cả.
Nhiều người Việt phải chịu cả 8 Khổ; đó những người thù ghét bọn Việt Cộng mà cứ phải sống với bọn Việt Cộng.

o O o
Mùa thu mây trắng xây thành.

Tình Em mây ấy có xanh da trời.
Hoa lòng Em có về tươi?
Môi Em có thắm nửa đời vì Anh?

Tôi làm bài thơ trên Tháng Bẩy năm 1954 ở Vũng Tầu, ngày chúng tôi yêu nhau. Cuộc Tình của chúng tôi đã dài trong 60 năm. Cuộc Tình Vợ Chồng, trong cuộc đời Tám Khổ này, nàng và tôi chỉ phải chịu có Bẩy Khổ.

Năm 1979 nằm phơi rốn trong Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, nhớ Nàng, tôi làm bài thơ:
Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,
Hai mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.
Từ xanh đến bạc mái đầu
Tình ta nước biển một mầu như xưa.
Yêu bao giờ, đến bao giờ?
Thời gian nào rộng cho vừa Tình ta.
Hoa lòng Em vẫn tươi hoa,
Môi Em thắm đến Em già chưa phai.
Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai.
Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe Em
Mặt trời có lặn về đêm,
Sớm mai Em dậy bên thềm lại soi.
Cuộc đời có khóc, có cười,
Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay.
Thu về trời lại xanh mây.
Ðầy trời ta thấy những ngày ta yêu.
Càng yêu, yêu lại càng nhiều.
Nhớ Em, Anh nhắn một điều: “Yêu Em.”

Năm 2013 tôi đổi hai tiếng trong bài thơ:

“Yêu nhau ngày tháng qua nhanh,

Sáu mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau.”

o O o

12 giờ buổi trưa tháng Sáu, 2012, Nàng bước hụt, ngã nhào qua bốn bực thềm cửa, nàng ngất đi. Ngồi bên nàng trong nắng trưa mùa hạ Virginia, chờ Ambulance đến, nước mắt tôi ưá ra.

Trong ICU – Ai Si Yu – Intensive Care Unit – tỉnh lại, nàng nói: – “Xin Thiên Chúa tha tội cho em.”

Tôi nói: – “Em có tội gì. Mà Em có tội gì, thì Thiên Chúa cũng tha cho Em rồi.”

Nàng chỉ bị dập xương nên không bị mổ, không bị ghép xương, không phải bó bột. Về nhà nằm, uống Vitamin D, chờ vết xương nứt lành lại.
Tình trạng bi đát. Nhiều người nói người trẻ khi bị nứt xương mới mong vết xương nứt liền lại, người già 70 thì vô phương. Nếu vết xương nứt không lành, nàng sẽ phải nằm mãi trên giường.

Tôi hầu nàng ngày đêm. Gần như suốt ngày đêm, tôi xin Ðức Mẹ Maria cho nàng đi lại được. Tôi chỉ xin Ðức Mẹ cho nàng đi được từ giuờng ngủ vào nhà bếp, vào toilet, ra ngồi bàn ăn cơm, nàng tự tắm được.

Bộ Xã Hội cấp cho nàng đủ thứ nàng cần dùng: Xe đẩy, gậy chống, ghế để ngồi tắm.. Chuyên viên y tế – therapist – đến nhà mỗi tuần ba lần, giúp nàng ngồi lên, tập đi.
Một tháng sau nàng đi được.
o O o

Ba năm nay Nàng có tới ba, bốn lần đau nặng, hai ba lần nàng tự nhiên ngã. Một lần nàng hôn mê. Ðêm khuya trong bệnh viện, nằm trên cái canapé nghe tiếng nàng thở khò khè, tôi nghĩ: – “Tiếng thở này tắt là…”

Tôi cầu xin: – “Xin Đức Mẹ cho vợ chồng con được sống với nhau 5 năm nữa.”
Tôi không muốn tôi chết trước nàng, tôi không muốn nàng chết trước tôi.
Nàng chết trước tôi không biết tôi sống ra sao. Tám mươi tuổi, tôi sống với nàng 60 năm, tôi sống dựa vào nàng. Tôi sống bằng Tình Yêu của nàng.

Năm 1976 gặp lại nhau, Lê Trọng Nguyễn nói: – “Tao không biết mày có đi được không. Tao cứ tưởng mày làm USIS là mày đi được. Hôm tao gặp thằng S. ở trong khu nhà mày, tao hỏi nó mày có đi được không? Nó nói mày không đi được. Tao kêu lên: “Làm sao nó sống? Nó sống bằng gì? ” S. nó nói: – “Nó sống bằng Tình Yêu của vợ nó.”

Người bạn cùng tuổi tôi – 80 – lấy vợ cùng năm với tôi – năm 1954 – vợ chồng anh cũng sống với nhau 60 năm, một sáng từ Cali anh gọi phone cho tôi báo tin vợ anh qua đời, tôi hỏi: – “Ðau lắm không?”
Ðau thì tôi biết bạn tôi đau, nhưng tôi muốn biết anh đau đến ngần nào. Hỏi dễ, trả lời khó. Bạn tôi nói: – “Ðứt ruột, nát gan.”

Lần cuối tôi gặp ông Lê Văn Ba, ông hơn tôi 10 tuổi, ông nói với tôi: – “Tôi nói với bà nhà tôi: Bà nên đi trước tôi là hơn, tôi đi trước bà, bà sẽ khổ lắm.”

Năm sau ông đi trước bà. Ðứng bên quan tài ông, tôi nhớ lời ông nói.

Ông bạn HO có bà vợ bại liệt, ông phải đưa bà vào Nursing Home. Ðể bà ở lại ông một mình lái xe về. Dọc đường ông run tay lái, mắt ông mờ. Ông đậu xe bên đường, xuống đi bộ vài vòng lấy lại tinh thần. Khi trở lại tìm xe, ông quên không nhớ ông đậu xe ở đâu. Ông mở cellphone gọi ông bạn đến giúp.

o O o

Người đời chỉ nói “Good bye.”
“See You next week, next time” là cùng.
Ðôi ta ngọc nữ, tiên đồng,
Ðôi ta Từ Thức vợ chồng Giáng Hương.
Ngàn đời vẫn nhớ, còn thương:
Em yêu, đã đến cuối đường: “Good bye.
See You next Life./.

Hoàng Hải Thủy             

Báo chí Việt Nam câm như hến về nước Đức “tạm ngưng” Hiệp ước Quan hệ Đối tác Chiến lược.

From facebook ;Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.
Báo chí Việt Nam câm như hến về nước Đức “tạm ngưng” Hiệp ước Quan hệ Đối tác Chiến lược.

Sau bài trên báo Văn nghệ Tp HCM nói nước Đức ầm ĩ quá đáng vụ Trịnh Xuân Thanh, nửa chừng gỡ xuống, đến nay toàn bộ báo chí “chính thống” im ỉm. Một nhà ngoại giao bị trục xuất, nay Đức trục xuất tiếp một nhà ngoại giao khác tại Đại sứ quán VN ở Đức, cùng với tạm dừng quan hệ đối tác chiến lược.

Gần 1.000 đơn vị phương tiện thông tin trong nước vẫn cứ “núp lùm”.

Không nhờ mạng xã hội tự do nhanh nhạy, mà đảng gọi mỉa mai là “báo lề trái” của bọn ăn không ngồi rồi, vô công rỗi nghề, người dân không thể biết quá trình diễn biến và nhiều góc nhìn khác nhau vụ này.

Trang fanpage Đại sứ quán Đức tại VN ngày 22/9 nói rằng:

Điều tra chưa kết thúc; vụ này vi phạm trắng trợn luật pháp Đức; luật pháp quốc tế và họ không bao giờ dung thứ;

Đến nay Việt Nam vẫn không xin lỗi kèm theo cam kết không vi phạm tương tự về sau; Việt Nam cũng không khẳng định xử lý kẻ gây ra vụ việc.

* Sao không thấy cơ quan chức trách nào của VN lên tiếng phản bác, cho đó là luận điệu xuyên tạc phản động?

Luật sư Lê Công Định viết:

“Tư tưởng thiên tài của lãnh tụ thiên tài về ngoại giao nhân dân là biến bạn thành thù, biến đối tác chiến lược thành đối tác chiến tranh. 
Bravo (hoan hô)!”

* Có lẽ cần bổ sung: biến bạn thành thù và nhận thù làm bạn, biến đối tác chiến lược thành đối tác chiến tranh và biến dũng cảm đối đầu chiến tranh thành cúi đầu làm mất biển đảo còn bảo để con cháu đời sau lấy lại!

Luật Sư Trần Vũ Hải viết:

“Quan hệ Việt – Đức quá âm u, ảnh hưởng trực tiếp đến hàng chục vạn người Việt ở Đức và tâm tư tình cảm của hàng vạn người khác đã từng sống, học và lao động ở Đức…Chưa thấy chính quyền VN có động thái gì để giữ lấy quan hệ đối tác chiến lược với một nước đang dẫn dắt cộng đồng EU”.

* Sao không thấy người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN lên tiếng “thật sự lấy làm tiếc…”?

Bà Nguyễn Hoàng Ánh, giảng viên một trường đại học ở Hà Nội viết:

“Chui xuống đất cho bớt nhục! Khổ nỗi thằng biết nhục đã không làm, mà thằng làm lại không biết nhục !”

* Thôi, xin dừng – hết từ ngữ để nói gì thêm!

Báo chí “chính thống” vì sao câm như hến? 
Tuyên giáo đâu không đứng ra định hướng dư luận? 
Công an đâu không triệu tập những phát biểu trên đến đồn?
Dư luận viên đâu không thấy “phản pháo”? 
Quản lý mạng nhà nước đâu không chặn đường truyền bịt miệng thế gian?

Thời đại “Thế giới phẳng” đã lâu, không còn chuyện bưng bít mãi rồi bảo “định hướng” là được.

L.P, tháng 9/2017

Image may contain: 3 people, eyeglasses
 
 

Cỗ xe tăng Đức lừ lừ áp sát khung thành và sút!

 
 
From facebook:  Trần Bang 

Cỗ xe tăng Đức lừ lừ áp sát khung thành và sút!

Thoibao.de:
Đức từ chối cấp Visa cho đoàn công tác nhà nước,
Và tạm ngưng cấp Visa cho du học sinh VN vào Đức!

“Sau khi phía Đức nhận được từ Việt Nam thư trả lời về vụ việc ông Trịnh Xuân Thanh, nội các chính phủ nước này đã có cuộc họp và đi đến nhất trí đưa ra quyết định hôm 22.9 tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam, đồng thời trục xuất thêm 1 cán bộ ngoại giao tại Đại sứ quán Việt Nam ở Berlin.

Cùng ngày Đại sứ quán Đức ở Hà Nội đã lập tức phổ biến trên trang web và Faecebook của mình Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Đức về những quyết định kể trên.

Các nước trong Liên minh châu Âu (EU) cũng đã bắt đầu đồng hành với nước Đức. Gần như đồng loạt, Đại sứ quán các nước EU như Pháp, Bỉ, Hà Lan, Ý, Thụy Điển đã đăng trên Facebook của mình bản Thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Đức để ủng hộ tuyên bố này của Chính phủ Đức.”

Người Việt trong và ngoài nước bàng hoàng vì quyết định cứng rắn này đã được Bộ Ngoại giao Đức đưa ra chỉ 2 ngày trước bầu cử, điều đó nói lên quyết tâm của nước này đã thực hiện đúng lời tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Gabriel đưa ra trước đó đối với Việt Nam: „Chúng tôi không thể dung thứ và sẽ không dung thứ.“

Biện pháp hạ mức quan hệ ngoại giao này lập tức đã có tác động ngay tới các giao thương giữa hai nước khi đoàn công tác tới gần 20 người với vị Chủ tịch một tỉnh lớn ở miền bắc Việt Nam bị phía Đức từ chối cấp Visa sang công tác vào dịp cuối tháng 9, các kế hoạch gặp gỡ đối tác Đức của tỉnh này đã phải hủy gấp.

Hội nghị giới thiệu, kêu gọi đầu tư để tạo việc làm cho nhân dân tỉnh nhà tại Việt Haus Berlin vào ngày 2.10 sắp tới cũng không thể tiến hành như dự định.

Giới sinh viên, học sinh đang du học và lao động Việt Nam đang làm việc tại Đức cũng đang xôn xao lo lắng, không biết tình trạng căng thẳng quan hệ giữa hai nước căng thẳng như trên có làm ảnh hưởng đến công việc cũng như tình trạng cư trú của họ hay không?

Bên cạnh đó, lịch đăng ký phỏng vấn xin Visa cho thời gian cư trú trên 90 ngày (du học, học nghề và làm việc) cũng bị đóng băng ít nhất tới hết tháng 01.2018 mà không có lời giải thích nào.

Có thể thấy, do cuộc khủng hoảng ngoại giao kéo dài giữa 2 nước, nhiều sinh viên học sinh đang chuẩn bị xin thị thực đến Đức sẽ ít nhiều gặp trở ngại trong quá trình xin Visa. Đây là một thiệt thòi lớn cho thế hệ trẻ, sinh viên học sinh Việt Nam đang muốn đăng ký du học hoặc học nghề tại CHLB Đức.

Tại Berlin, nhiều doanh nghiệp kiều bào tỏ rõ lo lắng với các khoản mà họ đã đầu tư về Việt Nam và cho biết ´´ Chúng tôi đang rút dần khỏi Việt Nam để đầu tư ngay tại châu Âu cho an toàn´´, các tín hiệu xấu ngày càng hiện rõ với nhiều khó khăn trong thời gian tới, việc bất ổn về ngoại giao do vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh ở Berlin đã dẫn đến khủng hoảng niềm tin đối với vài lãnh tụ cổ hủ, không còn thích hợp cho nền chính trị Việt Nam đang cần sự đổi mới toàn diện với một nhà nước pháp quyền để có thể giúp đất nước đủ năng lực hợp tác quốc tế và cạnh tranh với thế giới…

http://thoibao.de/…/duc-tu-choi-cap-visa-cho-doan-cong-tac-…

No automatic alt text available.
 

12 TÔNG ĐỒ CÁC NGÀI SỐNG Ở ĐÂU VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO SAU NGÀY CHÚA VỀ TRỜI

12 TÔNG ĐỒ CÁC NGÀI SỐNG Ở ĐÂU VÀ CHẾT NHƯ THẾ

NÀO SAU NGÀY CHÚA VỀ TRỜI

Trần Mỹ Duyệt

Những ngày xa xưa, buổi đầu của biến cố Tin Mừng được rao giảng. Chúa Giêsu đãđích thân tuyển chọn 12 người để cộng tác với Người trong việc rao truyền Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng ghi:

“Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.” (Luca 6:12-16)

Ngoại trừ một vài Tông Đồ được nhắc đến về số phận và cái chết của họ trong Tin Mừng như Phêrô, Gioan, ngay cả Giuđa, số còn lại ít ai được biết tới. Chúng ta muốn biết là sau khi Chúa Giêsu về trời thì số phận của họ như thế nào?!! Theo Thánh Kinh thì sau khi Chúa chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm rađi để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Vậy họ đã làm gì? Sống và chết ra sao?

Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Chúa Giêsu đã căn dặn (Acts 1:4). Các ông nhận lãnh Thánh Thần trong lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Acts 2). Lịch sử của Giáo Hội đã khai mở, nhưng ngoài những gì được ghi trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là những thư của Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các tông đồ, mặc dù chúng ta vẫn tin tưởng rằng các ông đã đi rất xa tận cùng tráiđất để rao giảng về Chúa Giêsu. Các ông đã đau khổ vì đức tin, và đã bị chết một cách đau đớn để trở thành những chứng nhân sống động cho Tin Mừng mà các ông rao giảng.

13 Tông Đồ gồm Matthias thay thế Giuđa, Phaolô, Tông đồ dân ngoại do Chúa Giêsu chọn trên đường đi Damas, đều được cho là đã hy sinh mạng sống mình vì danh Chúa Giêsu trong khi rao truyền danh thánh ấy cho muôn dân. Phaolô bị chặt đầu bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàngđế Neron năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, cuộc trở lại diệu kỳ của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và các thư do ông viết. Số còn lại:

1.Andrê – Ngư phủ từ Galilee, em của Phêrô. Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mark 1:16-18). Sau khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa, ông thuộc số những tông đồ đầu tiên của Người.

Ông giảng đạo cho người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patrae (Hy Lạp). Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải gần Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bị đóng đinh tại Achaia, treo trên một cây Olive tại Patrae, thành Achaia, Hy Lạp và được an táng tại đây.Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen để xác định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông giảng đạo dọc theo Hắc Hải (Black Sea) và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga. Theo tương truyền, ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul sau này) năm 38 AD, mà sau này biến thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là Giám Mục. Cả Andrê và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng Phụ.

Andrê được miêu tả là bị đóng đinh ở Patras (Patrae) thuộc Achaea. Những tài liệu trước đó trong Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours đã cho rằng ông bị trói chứ không phải bị đóng bằng đinh vào một loại thập giá gọi là thập giá Latin có hình chữ X. Cái chết của ông, theo nhà sử học thuộc thế kỷ 15, là Dorman Newman, khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, vị Tổng Đốc Rôma là Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị đánhđòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia vẫn còn dấu tích mộ của ông.

Ngoài ra, Scots cũng cho rằng Andrê cũng đã đến giảng đạo tại Picts (vì vậy họ dùng cây thập giá của Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ).

2.Bathôlômêô – Ông là người từ Cana, Galilee với tên gọi Nathanael. Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau khi Chúa về trời, Barthôlômêô sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotania, Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và sau này đến Greater Armenia.

Theo truyền tụng đại chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Năm 60 AD, Barthôlômêô đã đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến nơi, ông đã mang theo Phúc Âm của Mátthêu, và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.

Nhiều tài liệu khác nhau về cái chết của ông, một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác thì ông bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.

3.Giacôbê – Con của Alphaeus chứ không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mark 3:14-19, Luca 6:13-16, và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu và thấy mộ trống trong buổi sáng Phục Sinh. Ôngđược gọi là Giacôbê Trẻ hay Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan.

Cũng vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Matthêu.

Sau khi Chúa về trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi. Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá. Sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy. Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.

4.Giacôbê – Con của Zebedee người làng Bethsaida, và là anh của Gioan. Ông và em ông là anh em họ với Chúa Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả. Tên của Ông không rời xa tên em Ông là Gioan trong Mark 1:19-20; Mt 4:21), và Luca 5:1-11). Ông là Tông Đồ đầu tiên bị tử đạo năm 44 AD.

Là ngư phủ sinh sống quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng emđã bỏ chài lưới đi theo Chúa Giêsu khi Người gọi hai ông, lúc hai ông đang vá lưới dưới thuyền với cha mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.

Rao giảng tại Giuđêa và bị quận vương Herod Agrippa chém đầu và được an táng ở Giuđêa (Tông Đồ Công Vụ 12:2). Hippolytus xác nhận cái chết của Ông. Eusebius đã diễn tả chi tiết hơn. Đầu tiên là Stêphanô bị ném đá, rồi tiếp đến là Giacôbê bị chém đầu.

Lý do ông bị chết vì Herod Agrippa, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với Giacôbê. Đề nghị đã được chấp thuận và cả hai đã bị chém đầu.

5.Gioan – Em của Giacôbê con ông Zebedee. Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Luca 9:51-54) và tham vọng do người mẹ của hai ông muốn sắp xếp chỗ ngồi bên phải, bên trái Chúa (Mark 10:35-37). Nhưng ông cũng là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ con” (Gioan 19:24-27).

Theo Hippolytus, trong cuộc bách hại của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Bị lưu đày tại đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng 100 AD. Ông viết Phúc Âm và viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian lưu đày ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước.

Ông là đầu của giáo hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Latin trước đó, ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi sau khi bị vứt vào đó tại Rôma.

6.Matthêu – Matthêu hay cũng còn gọi là Levi, con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông viết Phúc Âm cho người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông được viết bằng tiếng Do Thái. Ông chết tại Hierees, một thành của Parthia (Iran). Eusebius coi ông là giám mục Papias của Hierapolis, trước năm 110 A.D.

Cũng theo một truyền thuyết, ông giảng đạo và bị tử đạo tại Persia và Ethiopia. Ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng do một tên hành quyết được vua Hertacus cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống luân lý của vua.

7.Simon/Phêrô – Simon sinh tại Betsaida thuộc Galilee. Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jona. Ông có người em là Andrê cũng là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum vào thế kỷ thứ 5 người ta xây một thánh đường bao trên đó.

Sau 3 năm theo Thầy, và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Tông Đồ Công Vụ, Chương 2). Một bài giảng gây tiếng vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa ngay ngày hồm đó. Ông chuyên chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị giam giữ tại Giêrusalem, ông đã tới Rôma, ở đó cùng với Maccô thư ký của ông đã biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư xuất hiện trong Tân Ước.

Ông được Chúa Giêsu đổi tên là Cephas (Phêrô) do lòng nhiệt thành của ông.Đó cũng là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus (c.180A.D) dựa theo truyền thống, cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.

Phêrô, theo Phaolô ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm Antioch (Galatians 2:11) và có thể ở Corinth (1 Corinthians1:12). Cũng trong Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).

Theo truyền thuyết, hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết Phêrô năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời. Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh Phêrô hiện nay ở Rôma.

8.Philip – Philip người Bethsaida là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Rao giảng ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm 80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.

Philip là người thứ sáu trong số 12 tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn (Gioan 1:43). Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem” (Gioan 1:46). Và Nathanael cũng được Chúa tuyển chọn làm Tông Đồ. Nhưng ông được Phúc Âm nhắc đến nhiều ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Người muốn thử xem ông phải làm gì (Gioan 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ với Chúa Giêsu (Gioan 12:20-22). Nhưng xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Gioan 14:8-11).

Sau khi Chúa về trời Tông Đồ Công Vụ ghi, ông đã tới Samaria ở đó rao giảng Tin Mừng và thực hiện những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts 8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã gặp một người Ethiopia tại Gaza, một vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace, và đã rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8), cũng theo Tông Đồ Công Vụ thì Philip có 4 người con gái sống đời đồng trinh và đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).

  1. Simon Nhiệt Thành – Giám mục Giêrusalem sau Giacôbê. Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành (nhưng không thuộc những người Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma). Ông là con của Clopas. Theo Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh Demetrius thành Rostov đã xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.

Ông qua đời hưởng thọ 120 tuổi. Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria. Một tài liệu khác lại cho rằng khi truyền giáo tại Persia ông đã từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời và đã bị giết. Cũng có tài liệu cho rằng ông bị cưa đôi khi ở Persia.

Nhưng các tài liệu không đồng nhất về những nơi nào ông đã rao giảng Tin Mừng. Có tài liệu nói là ông đã giảng đạo tại Anh. Cũng có tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì ông giảng đạo tại Hắc Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng tài liệu Latin “Passio Simonis et Judae”, ông làm việc tại Persia, và tử đạo tại Suanir, nhưng nơi an táng của ông không ai biết.

Truyền thống sau này cho rằng sau khi giảng đạo tại Ai Cập, ông và Juđa cùng nhau giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut, Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD.

Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude (Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông làm quan thầy những người thuộc da.

10.Thaddaeus/Judas – Con của Giacôbê. Rao giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực Mesopotamian (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng tên tại Ararat.

Thánh Giêrônimô gọi Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Mark 3:18 ông được gọi là Thaddeus. Trong Matthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái tim được sưởi ấm). Trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như Juda anh em của Giacôbê.

Theo Hippolytus, sau khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên Mesopotamica) và cả vùng Mesopotania. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.

Trong Tân Ước (John 14:22 NIV). Ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế giới”. Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được biết Chúa Kitô.

11.Thomas – Rao giảng Tin Mừng cho người Parthians/Medes/Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan). Tử đạo bằng 4 mũi đòng đâm vào người. Ông đã bị 4 người lính dùng giáo đâm chết tại Mylapore, Ấn Độ ngày 21 tháng 12 năm 72 AD.

Thomas cũng gọi là Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, ôngđã thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường” (Gioan 14:5). Cũng trong Tin Mừng Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã nhìn thấy Chúa sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin. Nhưng Chúa đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này không được diễm phúc nhìn thấy Chúa như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Gioan 20:29). Cũng do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.

Theo Hippolytus, Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm cho người Parthians (Iran), Medes (Iran), Persians (Iran), Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan), và Margians. Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Truyền thống cho là ông đã giảng dạy mãi xa tận Ấn Độ, mà những Kitô hữu Marthoma xa xưa đón nhận ông như đấng sáng lập, Theo sử sách ghi lại,Thôma tử đạo tại Ấn Độ để lại một cộng đoàn ở đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.

12.Matthias – Theo tiếng Hy Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa Giêsu từ đầu, lúc Người chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến khi Người về trời (Acts 1:21-22).

Sau khi Chúa về trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa Matthias và Giuse còn gọi là Barsabus, người có tên họ là Justus. Matthias được chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để nâng con số các Tông Đồ thành 12, nhưng ông là Tông Đồ không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.

Ông được coi là đã tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu tiên giảng Tin Mừng ở Judaea, rồi sau đó ở Aethiopia (miềnColchis, thuộc Georgia ngày nay), và bị ném đá chết.

Một truyền thống khác cho rằng ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sauđó bị chém đầu. (cf.Tillemont, Mémoires pour servir à l’histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I, 406-7). Cũng theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám Mục Giêrusalem. Và một truyền thống khác cho rằng ông đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và Cappadocia.

Những tin tức liên qua đến cuộc sống và cái chết của ông không rõ ràng. Theo Nicephorus (Lịch Sử Giáo Hội II.40), đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới Ethiopia, và ông bị đóng đinh. Theo Dorotheus thì Matthias rao giảng Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển Hyssus, tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis, và được an táng gần Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.

Tài liệu tham khảo

———–

-Ken Curtis, Ph.D.

Church History Timeline

6000-1 BCAD 1-300301-600601-900901-12001201-15001501-16001601-17001701-18001801-19001901-20002001-Now

– Hippolytus of Rome – Birth unknown, died around 236 AD.

– Eusebius – Was the Bishop of Caesarea in Palestine, known as the “Father of Church History” because he wrote about the church history. Lived around 260-341 AD.

From vuisongtrendoi

HẾT CỬA TỒN TẠI CHO MỘT DÂN TỘC CÓ TÊN VIỆT NAM.

From facebook:   Phan Thị Hồng‘s post.
 
Image may contain: one or more people, people standing, outdoor and nature
Image may contain: 1 person, child, outdoor and closeup
Phan Thị Hồng added 2 new photos.

 

HẾT CỬA TỒN TẠI CHO MỘT DÂN TỘC CÓ TÊN VIỆT NAM.

( Nhóm Bà Đầm Xoè)

Ai cũng biết muốn sống được thì phải ăn uống hàng ngày. Và để có cái ăn, Việt Nam đã đu dây vác giá đi vay, đi xin ăn khắp cả thế giới. Vay cốt chỉ để ăn và cướp để nên nợ nần chồng chất.
Hiện đã lên đến 410 tỷ USD, cao gấp 2 lần giá trị làm ra của cả đất nước trong một năm.

Như vậy, về bản chất người Việt Nam, không những đã ăn hết của cải của đời mình mà còn ăn lạm vào của cải của đời con đời cháu. Tuy đã ăn lạm, nhưng không ăn thì chết, nên Việt Nam vẫn phải tiếp tục hăng hái làm kẻ ăn mày, ăn xin trên khắp thế giới.

Thực tế, từ đầu năm đến nay, chính phủ của ông Phúc đã chạy đôn chạy đáo khắp thế giới để vay, xin.

Nhưng xem ra việc vay, xin ngày một khó khăn và như cánh cửa cho vay, xin từ các nước đang từ từ khép lại khi cuối tháng 7/2017

Việt Nam tổ chức bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại nước Đức. Sự kiện hiện đang ồn ào dự luận và người Đức, một cường quốc thế giới, đứng đầu châu Âu đã nổi giận, ra lệnh trục xuất và áp tải Bí thư thứ nhất đại sứ quán Việt Nam tại Đức phải về nước, đồng thời nhắc nhở Việt Nam sẽ gặp khó trong quan hệ đối tác, làm ăn. Sau khi TPP sụp đổ, châu Âu là niềm hy vọng vay, xin cuối cùng của Việt Nam.

Với sự kiện bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, niềm hy vọng này cũng đang trên đà sụp đổ. Cơm ăn, áo mặc của dân sẽ trông cậy vào đâu?

Đặc biệt, lũ cướp có tên cộng sản Việt Nam cầm quyền sẽ bám víu vào đâu để làm ăn và trộm cướp?

Trước tình cảnh quá khó này, trong tương lại gần, người Việt Nam sẽ phải “ăn thịt” lẫn nhau để tồn tại là điều khó tránh khỏi. Nhóm lợi ích tăng cường trấn cướp của nhau dưới cái vỏ bọc chống tham nhũng sẽ còn được tiếp tục đẩy lên cao.

Đất nước tiếp tục bị xẻ thịt bán cho ngoại bang để có miếng ăn cũng là cách khó tránh khỏi. 
Đầu tháng 8/2017, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dỏng dạc phát đi lời mời gọi cho thế giới thuê đất tới 99 năm, là tín hiệu quá rõ ràng cho chủ trương bán đất nước để có cái ăn và có cái để cho bọn lãnh đạo trộm cướp.

Tại sao nước Việt Nam có 4 ngàn năm văn hiến, có lịch sử dựng nước oai hùng vào loại nhất thế giới lại rơi vào thảm cảnh này?

Bởi vì người Việt Nam không còn có người tử tế.

Người tử tế, người tài, người có đạo đức, người có phẩm chất anh hùng, nói chung là tinh hoa của giống nòi Đại Việt hầu như đã không còn một ai.

Họ cơ bản đã chết hết. Họ đã chết trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp, trong chiến trận Điện Biên Phủ, trong Cải cách ruộng đất, trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn 20 năm chống Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa.

Những tinh hoa còn rơi rớt lại lại bị tiêu diệt nốt trong xây dựng chính quyền nhân dân với đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản.

Những tinh hoa mới nhú của thế hệ tiếp theo phần lớn cũng đã bị tiêu diệt hoặc bị ung thối ngay từ cấp Nhà nước cơ sở, ngay từ dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ngay từ hàng triệu hàng triệu những con người mới xã hội chủ nghĩa kết thành những vòng vây kín đặc nhào nặn, vo viên cho mỗi người Việt Nam thành những hòn bi tròn trịa, bóng loáng của chế độ cả rồi.

Cũng có một số rất ít tinh hoa còn lại leo cao chui sâu lên tới cấp thượng tầng. Nhưng họ cũng không trách khỏi bị tiêu diệt.

Họ là những người trong nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, những người trong nhóm được chính kẻ giết người đặt cho cái tên “Xét lại chống đảng” với những Trần Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Mạnh Cầm, Lê Minh Quốc, Vũ Thư Hiên, vân vân…

Sau hai vụ này, kể như những tinh hoa của dân tộc đã bị tận diệt đến mức sạch như lau tường, vét máng.

Tuy nhiên, như một sự gượng dậy cuối cùng, vài chục năm sau, hồn thiêng sông núi lại cố cho ngoi lên một vài tinh hoa của dân tộc nữa như Trần Độ, Trần Xuân Bách. Những người này dù giữ chức vụ lớn tới mức là thường trực Ban bí thư, là Phó chủ tịch quốc hội. Nhưng rút cuộc tất cả cũng không thoát khỏi bị tận diệt bởi lưỡi hái tử thần của một bầy đàn cộng sản cầm quyền vừa ngu vừa hèn vừa bất nhân vừa phản động.

Thời hiện tại đây, trong đám vừa ngu vừa tham vừa phản động đó, cũng có lóe sáng một vài người tử tế muốn vì nước vì dân, muôn thân phương Tây, muốn thoát Tầu Cộng. Đó là Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Bá Thanh.

Nhưng, những cá thể này, hoặc là bị đầu độc cho chết hoặc là đành phải ngậm ngùi bỏ lại chính trường cho kẻ vừa già nua vừa tối tăm vừa phản động chỉ một lòng một dạ bán nước cho Tầu Cộng có tên là Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm.

Hiện tại, trong 19 cái tên thuộc nhóm chóp bu cộng sản có ông Đinh Thế Huynh, xem ra là người tử tế hơn cả. Nhưng, lại cũng như Nguyễn Bá Thanh, ông Huynh cũng đã bị ngã bệnh hiểm nghèo và sắp quy tiên.

Người tốt hay những tinh hoa rơi rớt còn lại hiếm hoi của đất nước như không có đất để sống ở đất nước này.

Những Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Văn Trội, Lê Quốc Quân, Vũ Quang Thuận, vân vân… ở thì hiện tại, cũng có ai thoát được cảnh bị dập vùi, tù đầy, tiêu diệt? Không có ai cả.

Đến nhân tài trẻ người Việt Nam đạt mức tinh hoa của thế giới như Giáo sư, Viện sĩ Ngô Bảo Châu, tuy không sống ở trong nước nhưng cũng vẫn bị lũ bầy đàn chó cộng sản hăng hái lùng sục tìm diệt. Có ai thoát được đâu?

Nguyên nhân thì có nhiều. Nhưng nguyên nhân thường xuyên và trực tiếp là từ đám lãnh đạo cai quản đất nước hiện nay mang tên cộng sản chỉ toàn một lũ sâu mọt, ngu dốt, tham lam mà ra.

Quan hệ với ai chúng cũng chỉ cốt lấy chữ lừa để kiếm ăn cho nặng túi của riêng mình. Quan hệ như vậy ai còn muốn làm bạn với đất nước anh nữa?

Chẳng ai muốn làm bạn với anh nữa.

Kiếp phận ăn mày ăn xin cốt phải để cho thiên hạ thương, chứ mà để cho thiên hạ ghét thì hết cửa làm ăn rồi.

Tôi cho rằng, sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại nước Đức, nước Việt Nam kể như không còn ai thật sự muốn làm bạn với Việt Nam nữa, ngoại trừ anh Ba Tầu. Chính anh Ba Tầu và đám cầm quyền Trọng lú lại thích thú điều này nhất.

Bởi vì, một Việt Nam không còn ai là bạn, các cửa làm ăn đóng lại, ắt hẳn muốn tồn tại Việt Nam chỉ còn cách duy nhất phải chui vào cái ống cống của Ba Tầu đã mở nắp sẵn từ cả ngàn năm nay.

Và Ba Tầu chỉ đợi có thế để nuốt gọn Việt Nam vào bụng trong năm 2020.

Kết cục này có thể được xem là kết quả đã đạt được trong chiến thuật cô lập, trói chặt dân tộc Việt Nam vào trong một cái rọ của Tầu Cộng và bọn cộng sản cầm quyền Việt Nam. Để Việt Nam chỉ còn có một cửa sống duy nhất, đó là phải sát nhập vào Tầu Cộng.

Có thể phải khen bọn cộng sản cầm quyền Việt Nam cùng đám đệ tử tay sai hơn 4 triệu đảng viên đảng cộng sản Việt Nam đã rất thành công trong chiến lược chiến thuật từng bước xóa sổ một dân tộc có ngàn năm văn hiến, có lịch sử dựng nước oai hùng mang tên Việt Nam.
Copy bên nhà Pham Xen 

Giáo viên trở thành tầng lớp đáy xã hội Việt Nam!!!

From facebook: Van Pham‘s post.
 

Chưa nói đến chính sách Giáo dục… nhìn mức lương đãi ngộ thày-cô giáo hiện nay… chúng ta mới biết: tìm đâu ra người thày-cô tài giỏi, kinh nghiệm và yêu nghề ?!!!
************

Giáo viên trở thành tầng lớp đáy xã hội Việt Nam!!!

Vị thế xã hội của giáo viên ở Việt Nam đã xuống đến đáy, dựa trên số tiền họ kiếm được.

Theo VnExpress, đây là nhận định của một số chuyên gia tại một hội nghị của ủy ban giáo dục thuộc quốc hội CSVN diễn ra hôm Thứ Sáu 22/09. Một cuộc nghiên cứu toàn quốc được trình bày tại hội nghị này cho thấy, giáo viên với 13 năm thâm niên chỉ nhận được mức lương từ 3 đến 3.5 triệu đồng một tháng (132 -145 Mỹ kim), tính cả các khoản tiền thưởng. Trong khi đó, lương tối thiểu của Việt Nam nằm trong khoảng từ 2.58 đến 3.75 triệu đồng (113 – 165 Mỹ kim) tùy theo vùng.

Trong nghề nhà giáo tại Việt Nam hiện nay, thâm niên không dẫn đến mức lương cao hơn đáng kể. Những thầy cô giáo có 25 năm giảng dạy cũng chỉ có mức lương tối đa lên tới 4.7 triệu đồng (207 Mỹ kim).

Khoảng một nửa số giáo viên trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện chỉ nhận được mức lương khoảng 100 Mỹ kim một tháng.

Thu nhập trung bình hàng năm của người Việt Nam là vào khoảng 2,200 Mỹ kim hồi năm ngoái.

Theo VnExpress, khoảng 40% giáo viên cho biết họ sẵn sàng chọn một nghề khác nếu có cơ hội. Theo các con số thống kê chính thức, mỗi năm khoảng 4,000 sinh viên sư phạm tốt nghiệp không tìm được việc làm ở Việt Nam, và số người thất nghiệp trong ngành giáo dục được dự phóng sẽ lên đến 70,000 vào năm 2020.

Vị thế xã hội của giáo viên ở Việt Nam đã xuống đến đáy, dựa trên số tiền họ kiếm được. Theo VnExpress, đây là nhận định của một số chuyên gia tại một hội nghị của ủy ban giáo dục thuộc quốc hội CS…
SBTN.TV
 
 

NGU DỐT MỚI TIN VÀO ĐẠO THIÊN CHÚA ???

 
 
 
From facebook:  Buoc Theo Chua Kito shared Hung Tran‘s post.
 
 
 
Image may contain: 1 person, beard and text
Hung Tran

NGU DỐT MỚI TIN VÀO ĐẠO THIÊN CHÚA ???
——————————–

“Chỉ những người ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào đạo”. Giáo sư đại học kết luận bài học.

Nghe xong câu kết luận đó, cả lớp học im phăng phắc, còn lòng tôi thì bực tức mà không nói nên lời.

Sự bực tức này có lẽ một phần vì nội dung mà vị giáo sư giảng dạy không chỉ đang đụng đến đức tin của người Công giáo như tôi mà còn xúc phạm đến người có đạo.

Phần nữa, tôi đau vì không đủ khả năng để đứng lên bảo vệ Đạo của mình.

Sau khi nghe xong phần trình bày của vị giáo sư đại học mà tôi nghĩ là ông không có thiện cảm gì với người Công giáo, tôi về nhà cố đi tìm câu trả lời cho riêng mình.

Và khi đã tìm hiểu xong, tôi quyết định tìm gặp và đối thoại với vị giáo sư này.

Câu hỏi đầu tiên mà tôi đặt ra cho ông đó là

“Thưa Thầy, thầy có thể cho biết, đất nước nào hiện nay văn minh nhất, giàu có nhất, hùng mạnh nhất, tiến bộ nhất thế giới”.

Vị giáo sư trả lời ngay “ Nước Mỹ”.

Tôi nói liền “ Vậy, thầy có thể cho em biết hiện nay nước Mỹ có bao nhiều người tin vào Thiên Chúa?”

Vị Giáo sư nhìn tôi và hỏi “Em hỏi vậy là có mục đích gì?”.

Tôi đáp “Vì Thầy nói “Chỉ những ai ít học, mê muội, dốt nát mới tin vào Thiên Chúa” nên em mới hỏi thầy câu này.

Ông chần chừ một lúc rồi nói “ Nước Mỹ là nước có số người tin vào Thiên Chúa khá đông”.

“ Đúng vậy. Em được biết tại nước Mỹ có tới 86% tin vào Thiên Chúa, còn 14% nhận mình là vô thần mà. Chẳng lẽ 86% này cũng là những người mê muội, ít học phải không thầy?”

Hơn nữa, em còn thấy những bác học lừng danh như Bacon, Isaac Newton, Albert Einstein, Louis Pasteur, 31-Georges Lemaître (1894-1966) Linh mục Công Giáo, người khai phá ra thuyết Big Bang.

Max Planck (1858-1947) Đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của thuyết Quantum mechanics. Blaise Pascal (1623–1662) Thần đồng toán học, vật lý, và Lý Thuyết.

René Descartes (1596–1650) Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây.

Roger Bacon (c.1214–1294), người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến. Viết về Luật Thiên Nhiên, cơ khí, địa lý và quang học. Johannes Kepler (1571–1630) Nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà. –

Isaac Newton (1643–1727) Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại và biết bao nhiêu nhà bác học khác đều là những ki tô hữu tốt lành.

Rồi Louis Pasteur- nhà y khoa nổi tiếng nữa

Chẳng nhẽ, những nhà bác học này cũng là những người dốt nát và mê tín sao thầy? Em thấy tiền đề thầy đưa ra xem ra không ổn tí nào.

Vị giáo sư như chùng xuống một lúc rồi nói “ Tôi cũng chỉ nói những gì mà sách vở và bổn phận tôi phải nói. Vì đó là nghề của tôi”.

Tôi đáp lại “ Vâng nếu thầy nói vậy thì em hiểu rồi. Có điều em cảm thấy thầy không có tự do khi truyền giảng cho sinh viên những kiến thức thực sự của thầy.

Nhưng còn một điều nữa khiến em cũng đang thắc mắc”. Ông nhìn tôi và hỏi “ Em còn muốn hỏi điều gì”.

“ Vâng, cũng chỉ liên quan đến điều thầy nói ở lớp thôi. Em muốn hỏi thầy có cái gì giả dối, mê muội nó tồn tại được lâu không thầy”. Tôi đáp lại.

Người thầy của tôi lúc này thong thả nói “ Người ta vẫn nói sự thật trước sau gì cũng là sự thật, sự giả dối có lừa được một số người, một số lần rồi sẽ có ngày lộ diện em ạ”.

“Cám ơn thầy. Thầy nói chí phải. Sự thật ma vật không đổ thầy nhỉ. Nếu Đạo Công Giáo mà giả dối sao nó lại tồn tại lâu quá vậy.

Nó không chỉ tồn tại mà còn phát triển khắp cả thế giới và đứng vững một cách chắc chắn phải không thầy!”.

Người thầy gật đầu và nói với tôi “ Thầy cảm phục tinh thần của em. Em là người có chính kiến và dám sống cho chính kiến của mình.

Thầy tin rằng em sẽ làm được những điều tốt lành cho đất nước cho xã hội.

Chỉ tiếc những người có chính kiến và bản lãnh như em nơi sinh viên không có nhiều lắm. Chúc em thành công”.

Tạm biệt người thầy mà tôi đã làm phiền quấy rầy.

Tuy thời gian gặp gỡ không dài những tôi hiểu được phần nào nỗi đau của nhiều người, nhất là những giáo sư, thầy giáo, dẫu biết được sự thật mà không dám nói sự thật .

Ước mong sao nơi giảng đường trường đại học sẽ có những cánh cửa của tự do để tri thức thật được lên tiếng.

Mùa Xuân Hà Nội 2017
Sv Hoa Anh Đào
Nguồn:Facebook Lm Nguyễn Ngọc Nam Phong

CÒN CHẦN CHỜ GÌ NỮA MÀ KHÔNG TIN VÀO CHÚA & THÀNH TÂM CHẠY ĐẾN VỚI NGÀI ?

TÔI TỰ HÀO LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO
TÔI HÃNH DIỆN CÓ CHÚA LÀ CHA

Việt Nam nhập than Trung Cộng giá cao gấp rưỡi quốc tế

Việt Nam nhập than Trung Cộng giá cao gấp rưỡi quốc tế

 

 

Việt Nam nhập than Trung Cộng giá cao gấp rưỡi quốc tếẢnh: Dân Trí

Một bài báo của tờ Dân Trí tố cáo rằng, Bộ Công Thương CSVN đã cho nhập cảng than của Trung Cộng với giá cao gấp rưỡi giá than quốc tế. Bài báo này xuất hiện lúc 6 giờ 30 sáng Thứ Bảy 23/09, nhưng đã bị gỡ xuống ngay trong ngày, và nay chỉ còn được các báo ngoài luồng đăng lại.

Theo báo Dân Trí, trong 8 tháng đầu năm 2016, Việt Nam đã nhập cảng hơn 9.7 triệu tấn than. Trong ba thị trường cung cấp than cho Việt Nam là Nga, Trung Cộng và Indonesia, giá nhập than Trung Cộng đắt gần gấp rưỡi so với hai thị trường kia. Theo số liệu của Tổng Cục Hải Quan Cộng Sản Việt Nam, trong 8 tháng đầu năm 2016, Việt Nam nhập cảng than từ Nga khoảng 2.8 triệu tấn, với kim ngạch gần 180 triệu Mỹ kim; từ Trung Cộng 1.4 triệu tấn, với kim ngạch 100 triệu Mỹ kim; và từ Indonesia 1.8 triệu tấn, với kim ngạch 80 triệu Mỹ kim. Tính ra, mức giá nhập cảng than trung bình từ Nga là khoảng 63 Mỹ kim/ tấn, từ Indonesia là 44 Mỹ kim/ tấn, còn từ Trung Cộng là 71 Mỹ kim/ tấn, đắt gần gấp đôi giá than nhập cảng từ Indonesia.

Tờ Dân Trí cũng trích dẫn báo cáo từ Trung Tâm Dữ Liệu Hàng Hóa Thương Mại Quốc Tế của Hoa Kỳ, cho thấy từ đầu năm đến hết tháng 7 năm 2016, giá than xuất cảng trung bình của thế giới chỉ ở trong khoảng từ 50 đến 54 Mỹ kim/ tấn.

Huy Lam / SBTN

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

Đòi chế độ cộng sản bồi thường tài sản: Con đường thứ ba là con đường rộng nhất

  • Điều đình ngoài luật: Bài học từ cộng đồng tị nạn Nicaragua
  • Cơ hội để giúp “dân oan” ở Việt Nam

  • Công thức áp dụng cho người Việt ở các quốc gia khác

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 25 tháng 9, 2017

http://machsongmedia.com

Ngoài con đường kiện ra toà và con đường giải quyết hành chính của Uỷ Hội FCSC, chúng tôi còn thực hiện con đường thứ ba: điều đình trực tiếp giữa nạn nhân và chế độ đã cưỡng đoạt tài sản, với sự theo dõi và hỗ trợ của chính quyền Hoa Kỳ.  Con đường này có những lợi điểm sau đây:

(1)    Các hồ sơ không hội đủ tiêu chuẩn cho 2 con đường đầu tiên có thể được giải quyết qua điều đình;

(2)    Chúng tôi có thể đưa vào cuộc điều đình một số điều kiện liên quan đến người dân ở Việt Nam;

(3)    Con đường này có thể làm khuôn mẫu cho các người Việt có quốc tịch Canada, Đức, Pháp, Úc… muốn đòi bồi thường tài sản.

Muốn chính quyền Việt Nam ngồi vào bàn điều đình, chúng tôi sẽ phải chứng minh rằng đấy là con đường ít tại hại và ít rủi ro nhất họ.  BPSOS đã bắt đầu công cuộc này vào cuối tháng 7 vừa qua, qua việc đánh chặn thoả thuận giữa tiểu bang Virginia và 6 tỉnh thành Việt Nam. Tuần này, chúng tôi nới rộng nó ra toàn quốc và leo thang lên cấp liên bang.

Phương thức điều đình để đòi bồi thường tài sản không là điều mới lạ. Cách đây 20 năm, cộng đồng tị nạn Nicaragua ở Hoa Kỳ đã thành công trong việc ép chính quyền Nicaragua phải bồi thường trên 1 tỉ Mỹ kim tại bàn điều đình. Họ đã chọn con đường điều đình vì có đến 2/3 số tài sản thuộc các người tị nạn Nicaragua chưa là công dân khi bị tịch thu.

 

Nhiều công ty doanh nghiệp Việt Nam và hợp doanh với ngoại quốc đang sử dụng tài sản do chính quyền cưỡng đoạt của công dân Hoa Kỳ gốc Việt (ảnh BPSOS)

Tấm gương Nicaragua

Năm 1979 nhóm kháng chiến quân Sandinista cướp chính quyền ở Nicaragua và lập tức quốc hữu hoá tài sản của các người có “máu mặt”. Trong đó có gần 5 nghìn tài sản của công dân Hoa Kỳ, và 23,000 của người Nicaragua. Ngay sau khi nhóm Sandinista lên nắm chính quyền, khoảng 20 nghìn người Nicaragua bỏ nước đến Hoa Kỳ tị nạn. Trong 10 năm sau đó, có thêm khoảng 100 nghìn người Nicaragua định cư Hoa Kỳ. Theo cuộc kiểm tra dân số gần đây nhất, năm 2010 dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ là 348 nghìn, bằng ¼ dân số người Việt ở Hoa Kỳ. Trong số người tị nạn Nicaragua, có khoảng 10 nghìn trường hợp bị chính quyền Sandinista tịch thu tài sản.

Tuy với dân số ít và hãy còn chân ướt chân ráo ở Hoa Kỳ, cộng đồng tị nạn Nicaragua đã vận động mạnh mẽ và hiệu quả. Trong những năm 1990, Hành Pháp Bill Clinton thương thảo với Việt Nam về thiết lập bang giao và lờ đi việc bồi thường tài sản cho người Mỹ gốc Việt, nhưng lại áp lực chính quyền Nicaragua bồi thường tài sản đã tịch thu của các người Nicaragua đang ti nạn ở Hoa Kỳ. Điểm cần lưu ý là, không như trường hợp ở Việt Nam, chính quyền Sandinista quốc hữu hoá ngay tất cả các tài sản mà họ tịch thu. Do đó, hầu như không người tị nạn Nicaragua nào có quốc tịch Hoa Kỳ khi bị mất tài sản. Thành ra, Uỷ Hội FCSC không thể can thiệp.

Cộng đồng Nicaragua tị nạn đã chọn giải pháp là vận động cả Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ  đe doạ trừng phạt nặng nề, bao gồm cúp viện trợ, ngưng phát triển mậu dịch và chặn mọi khoản vay của Ngân Hàng Thế Giới … nếu chính quyền Nicaragua không chịu giải quyết các đòi hỏi bồi thường tài sản của người tị nạn gốc Nicaragua. Để tăng áp lực, năm 1995 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua luật cho phép Hành Pháp trừng phạt Nicaragua nếu chậm trễ trong việc bồi thường.

Dưới áp lực ngày càng leo thang, chính quyền Nicaragua đồng ý ngồi vào bàn điều đình với toán đại diện cho các người tị nạn Nicaragua có hồ sơ đòi bồi thường. Cuộc điều đình diễn ra dưới sự quan sát chặt chẽ của Hành Pháp và Quốc Hội Hoa Kỳ. Tiến trình điều đình đến đâu bồi thường đến đó kéo dài 20 năm. Tháng 8 năm 2015, chính quyền Nicaragua giải quyết việc bồi thường cho hồ sơ cuối cùng của người tị nạn Nicaragua. Tổng cộng số tiền bồi thường vượt trên 1 tỉ Mỹ kim. Xem tường trình của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về việc này: https://www.state.gov/e/eb/rls/othr/ics/2016/wha/254545.htm

Người tị nạn Nicaragua đã thành công vì họ không chỉ dốc sức vận động mà còn khôn khéo nhờ cộng đồng bạn là người Mỹ gốc Cuba, vốn có kinh nghiệm về đòi bồi thường tài sản, yểm trợ. Đó là bài học cho chúng ta. Cộng đồng tị nạn Nicaragua ít ỏi hơn chúng ta, mới mẻ hơn chúng ta nhưng đã gặt hái kết quả nhờ làm đúng cách.

Con đường thứ ba cho công dân Hoa Kỳ gốc Việt

Cộng đồng người Việt tị nạn có nhiều lợi thế hơn cộng đồng tị nạn Nicaragua. Thứ nhất, dân số người  Việt đông gấp hơn 4 lần dân số người Nicaragua ở Hoa Kỳ; trên nguyên tắc cộng đồng Mỹ gốc Việt phải có nhiều ảnh hưởng đối với chính giới Hoa Kỳ hơn hẳng cộng đồng Nicaragua tị nạn. Thứ hai, tuyệt đại đa số tài sản của người  Mỹ gốc Việt hội đủ tiêu chuẩn để được phán quyết bởi Uỷ Hội FCSC. Không như Nicaragua, chính quyền Việt Nam đã không quốc hữu hoá ngay các tài sản của người bỏ nước ra đi mà chỉ quản lý tạm thời; mãi sau này họ mới có chính sách quốc hữu hoá. Lúc ấy thì tuyệt đại đa số người Việt tị nạn và di dân đã trở thành công dân Hoa Kỳ.

Theo ước lượng của chúng tôi, khoảng 50% tổng số hồ sơ của người Mỹ gốc Việt có thể giải quyết qua con đường phán quyết của Uỷ Hội FCSC và 20% có thể điều kiện để kiện ra toà. Nghĩa là 30% tổng số hồ sơ chỉ có thể giải quyết bằng con đường thứ ba.

Ngoài ra, thể thức điều đình tạo cơ hội để hai bên thương lượng. Chẳng hạn, chúng tôi có thể đặt điều kiện là chính quyền Việt Nam phải đình chỉ các lệnh cưỡng chế đất đai ở Việt Nam cho đến khi hai bên cùng thoả mãn rằng tài sản của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị xâm phạm. Nhắc lại, mọi vùng đất ở Việt Nam, kể cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc, đều có thể có tài sản của công dân Hoa Kỳ lẫn trong đó, tương tự trường hợp của Giáo Xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng.  Bởi vậy, mỗi lệnh cưỡng chế đều phải đi kèm với thủ tục loan báo ở Hoa Kỳ, và cho đủ thời gian để mọi công dân Hoa Kỳ có thể lên tiếng nếu bị ảnh hưởng. Khi ấy, chính quyền Việt Nam phải bảo đảm mức bồi thường cho công dân Hoa Kỳ sẽ tuân theo công thức của Hoa Kỳ hay quốc tế chứ không tuỳ tiện như hiện nay. Nếu vậy, chính quyền cũng sẽ phải áp dụng cùng mức bồi thường cho mọi người dân trong khu đất bị cưỡng chế. Trên đây một ví dụ về các điều kiện có thể đưa ra tại bàn điều đình và chỉ tại bàn điều đình chứ không thể tại toà án hay với Uỷ Hội FCSC.

Các giai đoạn của cuộc vận động

Cuộc vận động cho giải pháp điều đình sẽ được tiến hành song song với các vụ kiện ra toà và cuộc vận động Uỷ Hội FCSC mở chương trình cho người Mỹ gốc Việt. Cuộc vận động này gồm có:

(1)    Vận động cắt viện trợ, chặn chương trình vay vốn quốc tế cho Việt Nam:

Luật pháp Hoa Kỳ có những biện pháp trừng phạt mạnh mẽ đối với quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Một trong những luật này là Tu Chính Án Helms (Helms Amendment) được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 30 tháng 4, 1994. Tu Chính Án này do Thượng Nghị Sĩ Jesse Helms (Cộng Hoà, North Carolina) đề xướng. Ngôn ngữ của Tu Chính Án Helms:  http://uscode.house.gov/view.xhtml?req=(title:22%20section:2370a%20edition:prelim

Theo đó, Bộ Ngoại Giao phải phúc trình hàng năm cho Quốc Hội danh sách các trường hợp tài sản của công dân Hoa Kỳ bị cưỡng đoạt ở từng quốc gia và nỗ lực phối hợp giữa Hoa Kỳ và quốc gia ấy để giải quyết các đòi hỏi bồi thường của công dân Hoa Kỳ.

Luật này đòi hỏi Tổng Thống Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho quốc gia nào không bồi thường công dân Hoa Kỳ cho các tài sản bị họ tịch thu mà được nêu lên trong bản phúc trình của Bộ Ngoại Giao. Không những vậy, Tổng Thống còn phải chỉ định đại diện của Hoa Kỳ tại các định chế tài chính và ngân hàng quốc tế ngăn chặn không cho quốc gia ấy vay vốn.

Cuộc vận động này bắt đầu trong tuần này. Chúng tôi sẽ phối hợp các “khổ chủ” mà chúng tôi đang có hồ sơ để liên lạc và yêu cầu các dân biểu và thượng nghị sĩ của họ đòi hỏi Hành Pháp Trump thực thi Tu Chính Án Helms.

(2)    Đẩy lùi nỗ lực của Việt Nam để xin đặc quyền mậu dịch:

Luật Mâu Dịch (Trade Act of 1974) của Hoa Kỳ ngăn cản Tổng Thống không được cấp những đặc quyền thuế quan cho các quốc gia nào cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Xem:  https://fas.org/sgp/crs/misc/RL33663.pdf

Trước khi tham gia cuộc thương thảo Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, hay TPP), Việt Nam ráo riết vận động Hoa Kỳ cho hưởng Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Tổng Quát Hoá (Generalized System of Preferences, hay GSP) để được giảm thuế đánh lên các mặt hàng xuất cảng vào Hoa Kỳ. Nay Tổng Thống Trump đã rút Hoa Kỳ khỏi TPP, Việt Nam đang quay trở lại vận động các đặc quyền mậu dịch song phương với Hoa Kỳ.

Nếu Việt Nam không chứng tỏ là họ chấp nhận bồi thường hoặc điều đình việc bồi thường, họ sẽ không thể xin xỏ các đặc quyền về thuế quan. Chúng tôi bắt đầu xúc tiến nỗ lực này vào cuối tháng 6 vừa qua.

(3)    Đánh chặn mọi nỗ lực đi cửa sau của Việt Nam để thu hút mậu dịch và đầu tư:

Bị sa lầy về cả GSP lẫn TPP, chế độ ở Việt Nam đã mở đường đối tác theo công thức kết nghĩa chị em giữa các thành phố Hoa Kỳ và Việt Nam. Gần đây, Bộ Ngoại Giao Việt Nam đạt được thoả thuận thư giữa 6 tỉnh thành Việt Nam với chính quyền Virginia về đầu tư và mậu dịch. Đây có thể xem như bước đột phá để mở đường cho các thoả thuận tương tự với nhiều tiểu bang khác của Hoa Kỳ.

Cuối tháng 7, chúng tôi đã thực hiện cuộc đánh chặn thoả thuận này bằng cách yêu cầu Thống Đốc và Quốc Hội Virginia đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng tài sản của người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Virginia trước đã. Cuộc đánh chặn này được một số dân biểu và thượng nghị sĩ tiểu bang hậu thuẫn. Mục đích của chúng tôi là cho chế độ ở Việt Nam thấy mọi nỗ lực đi cửa sau của họ sẽ vấp phải chướng ngại là số tài sản của công dân Hoa Kỳ mà họ đã cưỡng đoạt không bồi thường.

Chúng tôi đang theo dõi những nỗ lực đi cửa sau tương tự ở các thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ để sẵn sàng đánh chặn.

(4)    Lôi cuốn sự quan tâm của những doanh nhân và nhà đầu tư Hoa Kỳ:

Cuối tháng 7 BPSOS đã gửi đến tất cả các phòng thương mại trong tiểu bang Virginia thông tin về tình trạng cưỡng đoạt không bồi thường tài sản của công dân Hoa Kỳ. Trong những tháng tới đây, chúng tôi sẽ tuần tự gửi thông tin đến các phòng thương mại ở từng tiểu bang Hoa Kỳ, cho đủ 50 tiểu bang.

Chúng tôi cũng khai thác mọi cơ hội để nêu lên tình trạng chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt tài sản của công dân Hoa Kỳ. Chẳng hạn, trong số 8 danh sách mà chúng tôi đề nghị trừng phạt theo Luật Magnitsky Toàn Cầu, có trường hợp thành phố Đà Nẵng đã xâm phạm tài sản của 12 công dân Hoa Kỳ.

Tại sao chế độ ở trong nước chấp nhận điều đình?

Chính quyền Việt Nam sẽ chỉ chấp nhận ngồi vào bàn điều đình khi hiểu ra rằng nếu không điều đình thì sẽ bị thiệt hại nhiều hơn.

Trước hết, họ sẽ không muốn ra hầu toà vì sợ bị đối chất về yếu tố bạo tàn lồng trong chính sách cưỡng đoạt tài sản: bắt người đi tập trung cải tạo, đuổi người đi kinh tế mới, xoá trắng cả một cộng đồng bản địa hay tôn giáo, tra tấn, đánh đập, bỏ tù, sát hại… Khi yếu tố bạo tàn này bị phanh phui trước toà, nó không những trở thành một vế nhơ lớn cho chế độ về mặt dư luận, mà còn tăng rủi ro bị toà áp đặt mức phạt gấp 3 lần trị giá của tài sản phải bồi thường. Điều này đã xảy ra cho chính quyền Cuba trong vụ kiện của Ông Gustavo Villoldo, người Mỹ gốc Cuba, năm 2008 toà tiểu bang Florida phán quyết Cuba phải trả gấp 3 lần trị giá tài sản mà họ đã tịch thu, tổng cộng lên đến 1.2 tỉ Mỹ kim.

Chế độ ở Việt Nam cũng không muốn bị rơi vào thế bó tay trước các phán quyết của Uỷ Hội FCSC. Họ đã có kinh nghiệm không vui ấy khi năm 1986 Uỷ Hội FCSC đơn phương phán quyết Việt Nam phải bồi thường cho 192 hồ sơ người Mỹ bị cưỡng đoạt tài sản năm 1975. Năm 1995 Việt Nam đã phải chấp nhận bồi thường số tiền trên 208 triệu Mỹ kim mà không được phép phản bác, phân trần, giải thích hay kháng cáo. Thiếu hợp tác thì sẽ bị trừng phạt về mậu dịch, viện trợ và vay vốn các ngân hàng quốc tế.

Cộng vào đó là cuộc vận động đánh chặn mọi toan tính đi cửa sau, có thể ảnh hưởng đến nỗ lực của chính quyền Việt Nam nhằm đạt mức 6.7% về tăng trưởng kinh tế. Nay TPP không còn và thương ước mậu dịch tự do Liên Âu – Việt Nam bị đẩy lùi, chế độ ở Việt Nam sẽ cân nhắc việc ngồi vào bàn điều đình để giảm tổn hại. Điều kiện tiên quyết của họ, nếu có điều đình, chắc chắn sẽ là đình chỉ các vụ kiện và con đường giải quyết theo Uỷ Hội FCSC. Đấy sẽ là điều mà chúng tôi cùng với toán luật sư tư vấn sẽ phải cân nhắc.

Người Việt ở các quốc gia khác có thể đòi bồi thường?

Trong thời gian qua, chúng tôi đã nhận được email của nhiều đồng hương ở Canada, Pháp, Đức và Úc hỏi về cách thức để đòi bồi thường tài sản đã bị chính quyền Việt Nam cưỡng đoạt. Dĩ nhiên, luật pháp Hoa Kỳ chỉ binh vực và can thiệp cho lợi ích của công dân Hoa Kỳ. Và có lẽ Hoa Kỳ có luật mạnh mẽ nhất để bảo vệ tài sản của công dân.

Chúng tôi không rõ luật pháp của các quốc gia khác về bảo vệ tài sản của công dân. Ngay dù một quốc gia không có luật bảo vệ tài sản công dân, nạn nhân bị cưỡng đoạt tài sản vẫn có thể đòi hỏi chính quyền của mình can thiệp và ép chế độ ở Việt Nam phải điều đình việc bồi thường. Bảo vệ tài sản của công dân là trách nhiệm đương nhiên của một chính quyền dân chủ, và được ghi đúc trong Điều 17 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền viết:

(1)    Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể.

(2)    Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách tuỳ tiện.

Chính quyền của quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc không những phải tôn trọng mà còn phải bảo vệ quyền này của công dân. Do đó, khi công dân bị một quốc gia khác xâm phạm tài sản, chính quyền có nghĩa vụ phải can thiệp. Hơn nữa, cưỡng đoạt tài sản của công dân một quốc gia khác là vi phạm những cam kết quốc tế giữa các quốc gia thành viên của LHQ với nhau. Công pháp quốc tế đã đề ra một số nguyên tắc để ngăn chặn sự vi phạm ấy: nguyên tắc không kỳ thị, nguyên tắc “vì công ích”, nguyên tắc bồi thường đầy đủ… Tuy nhiên, chính quyền sẽ không tự động can thiệp nếu họ không được thuyết phục rằng một số đông công dân đã bị xâm phạm tài sản khi đã là công dân.

Trước khi vận động chính quyền sở tại, bước chuẩn bị là thu gom hồ sơ. Lý tưởng là có khoảng 100 trở lên và “khổ chủ” đã là công dân của quốc gia sở tại khi tài sản bị quốc hữu hoá. Trong một bài trước tôi đã giải thích là nhà, đất của những người bỏ nước ra chỉ bị quản lý tạm thời bởi nhà nước. Đến cuối năm 1991 mới có quyết định của chính phủ là nhà, đất đang được quản lý đều trở thành tài sản của nhà nước; tuy nhiên việc thực hiện quyết định này rất tuỳ tiện và qua loa. Mãi đến năm 2003, Quốc Hội Việt Nam mới ra nghị quyết yêu cầu Uỷ Ban Nhân Dân các cấp tỉnh, thành phải hoàn tất việc quốc hữu hoá các tài sản do nhà nước quan lý tạm thời. Thời hạn thự thi là từ tháng 10, 2005 đến cuối tháng 6, 2009. Năm 1991, nhiều người Việt đã trở thành công dân của các quốc gia định cư. Trong khoảng thời gian 2005 – 2009, phần lớn người tị nạn và di dân Việt Nam đều đã là công dân của các quốc gia định cư.

Đối với các đồng hương ở Pháp, Canada, Đức, Úc và những quốc gia khác nữa, tôi đề nghị những người có hồ sơ đòi bồi thường tài sản phối hợp với nhau theo quốc gia.  Mỗi nhóm phối hợp cần bắt tay ngay vào việc phổ biến thông tin và thu thập hồ sơ, đồng thời nghiên cứu luật pháp và chính sách ở quốc gia mình về bảo vệ tài sản của công dân. BPSOS sẽ làm việc trực tiếp với các nhóm này để cập nhật thông tin và phối hợp hành động. Trong trường hợp chưa có nhóm phối hợp, đồng hương vẫn có thể gửi hồ sơ đến cho BPSOS qua email: taisan@bpsos.org. Chúng tôi sẽ lưu giữ hồ sơ và chuyển cho nhóm phối hợp khi được hình thành và nếu có sự đồng ý của chủ nhân của hồ sơ.

Con đường vận động sẽ không đơn giản. Tuy nhiên, nếu đi sau cuộc vận động ở Hoa Kỳ một bước thì có thể sẽ nhẹ đi gánh nặng nghiên cứu hồ sơ và nghiên cứu luật và thể thức quốc tế. Việc vận động cũng có thể sẽ nhẹ đi sau khi cuộc vận động của chúng tôi ở Hoa Kỳ tạo ra tiền lệ.

Lời kêu gọi

Cuộc vận động chính giới Hoa Kỳ cho giải pháp điều đình sẽ đòi hỏi một lượng lớn hồ sơ rải ra ở nhiều tiểu bang, thành phố, và địa hạt cử tri. Chúng tôi do đó rất cần sự hợp tác của đồng hương ở trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Quý vị nào có hồ sơ đòi tài sản, xin liên lác với chúng tôi qua email: taisan@bpsos.orghay qua số điện thoại: 703-538-2190. Dù không có hồ sơ, xin quý vị giúp chúng tôi chuyển thông tin này đến những người quen có hồ sơ.     Xin cảm ơn.

Các thông tin về Chương Trình Đòi Tài Sản của BPSOS được lưu trữ tại: http://www.doitaisan.org

Bài liên quan:

Đòi bồi thường tài sản: Khi nào chính quyền Hoa Kỳ can thiệp?
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1254-2017-09-19-16-01-56.html

Công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản: thể thức phán quyết hành chính
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1250-2017-09-11-01-10-19.html

BPSOS công bố chương trình công dân Mỹ gốc Việt đòi tài sản
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1245-2017-08-30-22-18-18.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Khai thác luật Hoa Kỳ
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1246-2017-08-31-04-16-57.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Thế kẹt của chính quyền khi bị kiện
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1247-2017-09-01-17-16-30.html

Đòi bồi thường tài sản bị cưỡng đoạt: Người ở trong nước có thể tiếp tay
http://machsongmedia.com/vietnam/50-doi-tai-san/1248-2017-09-05-01-10-13.html

Hồng Vân chưa thành người vô cảm

 Hồng Vân chưa thành người vô cảm

Ngô Nhân Dụng

Cô Hồng Vân đã nói sự thật, một sự thật làm chấn động cả chế độ Cộng Sản ở Việt Nam. Hồng Vân đã trở thành một người “của nhân dân” kể từ giây phút cô viết lên sự thật này, ngày 3 Tháng Chín, 2017 tại thành phố Yokohama, Nhật Bản.

Nguyên văn lời cô viết trong facebook: “Người dân Nhật Bản được hưởng chế độ an sinh, tuyệt vời nhất. Chỉ thương người dân Việt Nam mình được hưởng toàn những điều giả dối… mà khủng khiếp nhất là thuốc chữa bệnh giả.”

Tất nhiên, nếu dùng lý trí phân tích đầy đủ hơn thì nhiều người sẽ dè dặt không hoàn toàn đồng ý với Hồng Vân, khi nhận xét Nhật Bản là “nhất thế giới” về an sinh xã hội. Dân chúng những quốc gia Bắc Âu vẫn thương hại phụ nữ Nhật, trong thực tế còn chưa được hoàn toàn “bình đẳng” với đàn ông. Các nhà nghiên cứu chính trị ở Pháp, Ðức, Mỹ, có thể tự hào là chế độ ở nước họ nhiều phần dân chủ tự do hơn nước Nhật. Dân Nhật Bản chắc không bao giờ bầu một người như các ông Obama, Trump, hay Macron lên lãnh đạo quốc gia. Vì hệ thống chính trị nước họ quá cứng nhắc, không cho phép cử tri có những phút “bốc đồng,” từ chối giới lãnh đạo cố hữu để chọn các ứng cử viên “bất thường,” như dân Mỹ, dân Pháp đã làm.

Nhưng cô Hồng Vân, 51 tuổi, sống ở Việt Nam và không nghiên cứu các chế độ chính trị; cô chỉ là một diễn viên, một nhà tổ chức, kinh doanh, làm “bầu sô” (show) trong sân khấu kịch Phú Nhuận. May mắn, cô chưa trở thành một người vô cảm. Chính vì vậy, những lời cô viết càng “Thật tình! Thật lòng!” xuất phát từ cảm xúc chân thành, không chịu ảnh hưởng của các định kiến chính trị. Ðối với một người sống nửa thế kỷ ở Việt Nam thì, quả thật, thấy người dân Nhật sống đã là “nhất” rồi.

Hồng Vân thốt lên: “Chỉ thương người dân Việt Nam mình được hưởng toàn những điều giả dối…” là hoàn toàn thành thật với chính mình.

Tuy nêu lên một thí dụ, “khủng khiếp nhất là thuốc chữa bệnh giả,” nhưng cô Hồng Vân không bàn về hàng hóa giả. Cô không nói “thương người dân Việt Nam mình” phải mua hàng giả mạo. Cô dùng một động từ tổng quát, trừu tượng, “hưởng.” Hưởng, không phải chỉ là mua thuốc hay mua máy điện tử! Nói “Hưởng” là nói về tất cả những thứ mình “hưởng!” Hơn nữa, cô lại dùng danh từ tổng quát, trừu tượng “Những điều…” Rõ ràng, cô nói về tất cả cuộc sống, tất cả xã hội Việt Nam!

Dân mình chỉ “hưởng toàn những điều giả dối.” Trong đó có những “nhà thương” thành “nhà ghét;” các thầy thuốc chỉ lo moi tiền của bệnh nhân; những thầy giáo, cô giáo phải lo lắng kiếm tiền cha mẹ học trò; những nhà thầu xây đập, dựng cầu chưa dùng đã sập đổ; tòa án không bảo vệ công lý; một chế độ độc tài chuyên chế tự xưng là dân chủ. Ngay cả một đảng tự xưng là Cộng Sản cũng chỉ tập làm tư bản, một thứ tư bản hoang dã khi thể chế dân chủ chưa thành hình. Ðó là một bản cáo trạng dành cho chế độ gian dối của Cộng Sản Việt Nam!

Ðảng Cộng Sản phải thấy đau! Nhưng đau mà không thể cãi được, vì những điều Hồng Vân nói ra ai cũng thấy rồi hết rồi. Ai cũng nghĩ như cô, mà không dám nói!

Ðảng Cộng Sản chỉ còn một cách đối phó với Hồng Vân là cho công an đe dọa sinh mạng và tài sản của cô và gia đình cô; rồi sai lũ bồi bút tấn công cô tới tấp!

Một tuần sau, ngày 10 Tháng Chín, khi đã về nước và nghe bọn bồi bút “dư luận viên” đang chửi cô trên các trang mạng xã hội, Hồng Vân viết tiếp, để chia sẻ cùng những đồng bào và khán giả ái mộ còn chưa vô cảm: “Hỉ-Nộ-Ái-Ố là những yếu tố cần và đủ để chứng minh rằng người đó chưa bị vô cảm, còn biết đau đớn và giận dữ với những việc xảy ra xung quanh mình.” Là một người chưa vô cảm cho nên phải đau đớn trước cảnh khắp nước dân oan mất đất, cảnh ngư dân mất nghiệp vì rác độc Formosa; còn nổi giận vì bè lũ tham quan đồng lõa với tư bản trong nước và ngoại quốc bóc lột đồng bào mình!

Hồng Vân phát nguyện: “Tôi yêu biết bao nhiêu mảnh đất hình chữ S nơi tôi được sinh ra và lớn lên. Từng ngày, từng ngày, bằng hết sức của mình tôi muốn làm cho nơi ấy tốt đẹp hơn và mọi người ở đấy đều hạnh phúc…” Và cô “xin cảm ơn các bạn, những con người vẫn còn đủ Hỉ-Nộ-Ái-Ố và đang đồng hành cùng Vân, hứa với nhau nhé đừng để mình trở thành người vô cảm.”

Những bồi bút đã được trả tiền để sống vô cảm nhất loạt chỉ trích Hồng Vân là người “vô ơn!” Một bồi bút đã nhắc lại thành ngữ: “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo” để đả kích Hồng Vân nói sự thật về cả xã hội chỉ được “hưởng toàn những điều giả dối.”

Dư luận viên này vẫn suy nghĩ theo lời mà trước đây nửa thế kỷ ai cũng phải nói thuộc lòng: “Nhờ ơn đảng!” Anh ta tự coi mình là con, đảng Cộng Sản là bố; nhìn mình như con chó, đảng là chủ. Nhưng 90 triệu dân Việt Nam biết sự thật: Ngược lại, dân mình đang là nạn nhân của một lũ “cướp ngày” đã 70 năm nay! Không ai tự nghĩ mình là chó hết!

Một độc giả Người Việt đã biện hộ cho Hồng Vân: “Hồng Vân tự bỏ sức lực ra diễn xuất chứ chính quyền có bỏ tiền ra nuôi đâu mà nói là ‘ăn cơm chính quyền, rồi vong ơn?’ Ai nói ra câu nói đó ra mà không suy nghĩ, khác nào là đầu người óc heo!”

Ðảng và nhà nước Cộng Sản đã tặng cho Hồng Vân danh hiệu “Nghệ Sĩ Nhân Dân,” sau khi cô đã thành công. Cô phải gia nhập đảng Cộng Sản vì ai sống trong những nước Cuba, Trung Cộng, Việt Nam đều biết rằng đó là một bậc thang “nghề nghiệp” phải bước qua, không có cách nào khác. Nhưng ai cũng nhớ nghệ sĩ cải lương Út Bạch Lan, trước khi qua đời, đã nói rằng bà “không cần những danh hiệu do nhà nước phong tặng.”

Một độc giả Người Việt viết: “Trước Hồng Vân, ông Thành Lộc, một nghệ sĩ kịch nghệ khác của Sài Gòn có danh hiệu Nghệ Sĩ Ưu Tú, cũng gây tranh luận trên mạng xã hội vì những phát ngôn ‘nói thẳng’ của ông về thực trạng xã hội Việt Nam.” Một vị khác kể thêm: “Nguyễn Phước Bảo Thức, chị Hồng Vân và anh Thành Lộc là những người can đảm nhất giới văn nghệ sĩ.” Ðộc giả Ny To ca ngợi: “Dám nói lên sự thật thì mới xứng đáng là nghệ sĩ của nhân dân,…”

Khi viết người Việt Nam phải sống với “toàn những điều giả dối,” Hồng Vân chưa thể nói đủ chi tiết. Trên Facebook của Người Việt Online, một độc giả đã dẫn lời một đảng viên Cộng Sản thức tỉnh, nói rõ hơn nhiều.

Ông Lê Minh Ðức nhìn lại cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” của đảng Cộng Sản: “Thế mà tất cả những gì ta hy sinh cho cuộc chiến 20 năm máu lửa đó, trong phút chốc bỗng biến thành trò cười rẻ tiền. Chủ nghĩa Cộng Sản sụp tan thành mây khói. Nay ta quay lại cầu xin nó (Mỹ), theo đuôi nó xây dựng chủ nghĩa tư bản, năn nỉ nó công nhận ta là kinh tế thị trường…. Hóa ra những gì ta làm trong quá khứ đều sai, đều ngu muội, đều vì ta có tầm nhìn không quá lũy tre làng.”

Ðó có phải là cảnh tượng “toàn những điều giả dối” như Hồng Vân thốt lên trong lúc sống thành thật với chính mình hay không?

Lê Minh Ðức thêm nhiều chi tiết về những gì xẩy ra trong thời chiến: “…ta giết chính đồng bào ta, ta trói đồng bào ta như trói gà, rồi ta chặt đồng bào ta làm ba khúc sau vườn. Ta dùng cuốc đập đồng bào ta vỡ sọ. Ta chôn sống đồng bào ta sau khi bắt chính họ đào huyệt… Ta tuyệt đối không nhắc lại chuyện đó. Ta tuyệt đối tìm cách quên rằng thằng đàn anh Trung Quốc đã giết đồng bào ta còn tệ hơn giết chó, máu chảy thành sông ở biên giới phía Bắc. Và ta vẫn tiếp tục thờ lạy nó.”

Và tự hỏi: “Ta là ai? Ta là đảng Cộng Sản Việt Nam. Ta là thứ cặn bã của dân tộc này. Ta là thứ mọi rợ đạo đức giả.”

Trong thời gian tới, Hồng Vân sẽ chịu nhiều áp lực, cô sẽ phải xóa bỏ những lời lên án chế độ trên trang Facebook của cô. Cô có thể còn phải xin lỗi, phải “nói lại,” phải làm nhiều điều trái với lương tâm của cô. Nhưng ai cũng biết, những hành động đó chỉ minh chứng cho một sự thật mà Hồng Vân đã vạch trần, “dân mình phải sống toàn những điều giả dối!” Chúng ta có thể thông cảm với hoàn cảnh của cô!