‘Đời không như là mơ’ của Đỗ Thị Thúy Phượng (VOA)

‘Đời không như là mơ’ của Đỗ Thị Thúy Phượng

13/03/2019

Đỗ Thị Thuý Phượng - Haven Shepherd. (Hình: Từ trang Facebook của Haven Shepherd)

Đỗ Thị Thuý Phượng – Haven Shepherd. (Hình: Từ trang Facebook của Haven Shepherd)

Người ta bảo ‘đời không như là mơ’ và điều này đúng với bé Đỗ Thị Thuý Phượng vào một ngày hè định mệnh hồi năm 2004 tại tỉnh Quảng Nam. Khi đó em mới 14 tháng tuổi và bị cha mẹ đặt vào giữa hai người cùng bọc thuốc nổ. Cả hai chọn đem em theo sang thế giới bên kia trong cuộc tự sát tập thể. Sức công phá của thuốc nổ khiến cha mẹ của Phượng chết ngay lập tức còn em bị bắn ra xa gần chục mét nhưng may mắn thoát chết. Tuy vậy hai chân em bị dập nát tới mức người ta phải cắt bỏ từ đầu gối trở xuống để tránh nhiễm trùng.

Câu chuyện của Phượng đã được báo chí quốc tế đăng tải từ vài năm trở lại đây vì nay em đã là công dân Mỹ với tên Haven Shepherd và đang cố gắng để được chọn đại diện cho Hoa Kỳ tham gia Paralympic 2020 tại Tokyo, Nhật Bản ở môn bơi lội. Phượng may mắn được một gia đình Hoa Kỳ nhận làm con nuôi ít lâu sau khi sự cố xảy ra hồi năm 2004 mà lý do được cho là cha em ngoại tình trong khi đã có gia đình và cả hai người thấy bế tắc nên đã đưa em đi cùng tự tử.

Haven vừa tròn 16 tuổi hôm 10/3 và quà tặng của gia đình cho cô là một chiếc xe hơi màu vàng. Ngay ngày hôm sau cô đã thi đỗ bằng lái xe và giờ đã có thể tự lái xe tới bể bơi mà không cần cha mẹ đưa đón.

Lần gần đây nhất mà Haven xuất hiện trên báo chí quốc tế là trong tường thuật đặc biệt và kỳ công của BBC với tựa ‘Cô gái đáng ra đã chết’. Đồng nghiệp cũ của tôi ở BBC, Georgina Pearce, đã kể lại hành trình tới Việt Nam để đưa Phượng về Hoa Kỳ, ban đầu là cho một gia đình khác. Nhưng cuối cùng gia đình đó không thể cáng đáng được cô con gái nhỏ của chính họ cộng thêm với bé Phượng nên đã giao lại bé cho gia đình bà Shelly và ông Rob Shepherd tại thị trấn nhỏ với chỉ vài ngàn dân ở Tiểu bang Missouri. Hai ông bà khi đó đã có sáu người con và có công ty gia đình chuyên nghề lát sàn nhà.

Haven nói với Georgina rằng ngày cô về với gia đình hiện tại, ngày 19/11/2004, là “ngày được con”.

“Đó là ngày mình được đưa về gia đình mình.”

Còn mẹ cô, Shelly Shepherd, không giấu được xúc động khi nói: “Khi con bước qua cửa, gia đình tôi đã trọn vẹn.” Bà cũng nói các con bà đều ủng hộ quyết định nhận Haven làm con nuôi.

“Tôi nghĩ vì gia đình chúng tôi đông con nên tôi luôn chú trọng dạy các con rằng tình yêu luôn nhân lên chứ không bao giờ mất đi cả. Thế nên khi có thêm một đứa trẻ là có thêm nhiều tình yêu để chia sẻ với nhau,” bà nói trong phỏng vấn với BBC.

Cả hai ông bà Shepherd yêu mến Phượng ngay từ khi gặp mặt ở Quảng Nam và thấy rất buồn lòng khi phải chia tay với em khi về tới Hoa Kỳ. Hiển nhiên họ vô cùng mãn nguyện khi được đón em về sau đó ít lâu.

Tình yêu của gia đình đã góp phần khiến Haven hoàn toàn tự tin về bản thân và thậm chí đã trở thành tấm gương cho nhiều người. Cô đã tới nhiều trường học để nói chuyện về hành trình vốn đã khiến cô trở thành vận động viên bơi đoạt huy chương vàng cả ở Hoa Kỳ và quốc tế.

Trong một thông điệp trên Facebook của cô hồi đầu năm nay, Haven viết:

“Hoàn cảnh… dù tôi chưa gặp bất kỳ ai có hoàn cảnh điên khùng giống hệt tôi, sự thực là ai trong chúng ta cũng có hoàn cảnh cần vượt qua. Mặt khác, tất cả chúng ta đều có lựa chọn nên coi các hoàn cảnh đó ra sao. Khi tôi nói chuyện với các bạn trẻ tôi hy vọng tôi có thể khuyến khích các em qua câu chuyện của tôi (và khiếu hài hước kỳ quặc của tôi 😂) để tìm cách biến hoàn cảnh tiêu cực thành sức mạnh. Tôi chọn [sống] vui mỗi ngày.”

Sau đó ít lâu cô đưa lên bức ảnh chụp cùng các em học sinh tiểu học và nói cô muốn các em hiểu rằng “khác biệt là điều hay”.

Để chuẩn bị cho cuộc tuyển chọn đại diện của Hoa Kỳ tham gia Paralympic vào năm sau, Haven tập xàtập tạtập thể lực nói chung và dĩ nhiên trên hết là tập bơi vài cây số mỗi ngày.

Nếu cô được chọn tới Paralympic Tokyo 2020, đó sẽ là điều kỳ diệu tiếp theo sau một chuỗi những điều diệu kỳ đã đến với cô cho tới nay.

Hồi năm 2004, đó là lần may mắn sống sót, rồi may mắn gặp được người bác sỹ vốn cũng may mắn thoát chết khi còn nhỏ và giúp cô hồi phục sau vụ nổ như lời cô thuật lại:

“Bạn có tin vào điều diệu kỳ không? Có hai bằng chứng sống về sự diệu kỳ trong tấm ảnh này. Người đàn ông này đóng vai trò chính trong việc giúp tôi có tương lai[.] Peter Hoa Stone đáng ra đã có mặt trên chiếc máy bay bị đâm cùng các trẻ mồ côi toan di tản khỏi đất nước đang bị chiến tranh tàn phá hồi năm 1975 nhưng đã lỡ chuyến bay vì có hẹn với bác sỹ. Sau đó ông được một gia đình Úc nhận làm con nuôi và giờ đã trở về Việt Nam giúp trẻ khuyết tật ở quê hương thứ nhất.”

Điều diệu kỳ thứ ba là được về với gia đình tràn đầy tình yêu hiện nay trong cùng năm xảy ra cơn ác mộng mà chính cha mẹ cô đem tới.

Điều diệu kỳ thứ tư mà cô kể là một người đàn ông khác mà cô gặp ở Hoa Kỳ:

“Khi tôi lên tám tuổi, tôi gặp anh chàng này và anh ấy thay đổi cuộc đời tôi. Anh thuyết phục tôi tham gia cuộc thi chạy đầu tiên trong đời và nói với tôi rằng anh “biết” tôi sẽ đoạt huy chương nếu chạy đua. (Điều mà đứa tôi khi tám tuổi không biết là tôi là đứa duy nhất ở tuổi tôi thuộc hạng đua đó 😜). Niềm tin đó đã đưa tôi vào guồng để trở thành vận động viên và tới với tổ chức Vận động viên Thử thách. Em yêu anh Travis Ricks.”

Có lẽ còn những điều diệu kỳ khác trong cuộc sống của cô mà cô chưa có dịp kể. Sau phóng sự của BBC, cô nhận được nhiều lời đề nghị phỏng vấn khác nhưng cô nói hiện cô đều từ chối vì muốn tập trung vào luyện tập. Chúc cô may mắn trong cuộc đua tới Tokyo vào năm sau và cũng chúc cô có cuộc hội ngộ ấm áp với người thân ở Việt Nam nếu cô trở lại trong những tháng tới đây như gia đình cô nói.

Cô gái Mỹ cụt tay chơi violin bằng chân

Cô gái Mỹ cụt tay chơi violin bằng chân

2/23/21

Thiếu hai tay từ khi chào đời, Inga Petry (21 tuổi) học cách tự mình thực hiện những công việc hàng ngày bằng đôi chân. Cô có thể nấu ăn, chơi violin thuần thục.

Inga Petry (21 tuổi), đến từ bang Georgia (Mỹ), lớn lên mà thiếu đi đôi tay. Cô được xác định mắc chứng ngừng phát triển chi trên. Căn bệnh bẩm sinh khiến các bộ phận khác trên cơ thể Petry phát triển bình thường, nhưng cánh tay không hình thành ngay từ khi còn trong bụng mẹ.

Năm 2 tuổi, Petry được cặp vợ chồng người Mỹ tên Daniel và Jennifer nhận làm con nuôi. Yêu quý cô gái, cha mẹ nuôi định hướng dạy dỗ Petry thành người mạnh mẽ, độc lập, không tự ti hay mặc cảm về khiếm khuyết của bản thân. “Tôi và chồng cố gắng để con bé có cơ hội học tập và sống với tinh thần thoải mái như nhiều đứa trẻ khác”, bà Jennifer chia sẻ.

Được gia đình giúp đỡ, cô gái 21 tuổi học cách tự mình thực hiện các công việc hàng ngày bằng đôi chân. Ban đầu, Petry gặp nhiều khó khăn khi chưa thể điều khiển hai chân một cách linh hoạt mỗi lần cần nắm, giữ đồ. Mất nhiều thời gian, cô mới tự mình xoay xở thành công. Hiện tại, Petry đã có thể dùng chân nấu ăn, gắp đồ ăn bằng đũa hay tự mình mặc quần áo, cầm bút viết, gõ bàn phím.

“Cha mẹ dạy tôi rằng khiếm khuyết thể chất không phải là lý do để biện hộ cho việc từ bỏ. Mẹ nuôi tôi là giáo viên âm nhạc và bà đã dạy tôi cách chơi violin bằng chân. Tôi biết rằng mình sẽ phải chăm chỉ, nỗ lực nhiều hơn người khác để có được những gì mong muốn”, Petry chia sẻ. Như nhiều cô gái khác, Petry cũng có sở thích làm đẹp dù cho biết chuyện trang điểm bằng chân khiến cô tốn khá nhiều công sức.

Ở tuổi 21, bên cạnh việc theo học ngành Luật tại trường đại học, Inga Petry cho hay muốn thử sức với vai trò người mẫu. “Tôi hy vọng làng thời trang sẽ đa đạng hơn, nơi người khuyết tật cũng được trao cơ hội trình diễn và tỏa sáng theo cách riêng, đồng thời truyền thông điệp tích cực đến khán giả. Nếu nhận được lời mời từ các nhà thiết kế, tôi chắc chắn tham gia”, Petry bày tỏ.

Ngoại hình khác biệt, Petry đôi khi bị nhận về những bình luận tiêu cực, bình phẩm về cơ thể hay tin nhắn quấy rối từ người lạ. Tuy nhiên, Petry cho hay cô đã học được không mấy bận tâm đến ý kiến người ngoài và thậm chí coi đó là động lực để hoàn thiện bản thân. “Tôi vẫn thấy bản thân may mắn vì có nhiều bạn bè tốt xung quanh”, cô nói.

Hiện tại, Petry đã đủ khả năng sống độc lập. “Nửa kia” của cô là Joseph Macuga, lớn hơn cô 2 tuổi. Cả hai đã hẹn hò hơn 2 năm. Trong mắt Petry, bạn trai là người tâm lý, nhiệt tình giúp đỡ khi cô gặp khó khăn. Nói về ước muốn tương lai, cô gái bày tỏ muốn trở thành luật sư và có nhiều hoạt động hỗ trợ người khuyết tật.

THANK YOU AUSTRALIA

THANK YOU AUSTRALIA

Mary Reibey là một cô gái sinh năm 1777 ở Anh. Mới hai tuổi đã mất cả cha lẫn mẹ rồi lớn lên trong trại mồ côi. Trốn chạy cuộc sống khắc nghiệt đói khát và cực khổ, Mary trở thành đứa trẻ bụi đời bất hảo, chẳng bao lâu cũng sa lưới pháp luật. Năm 1791, Mary mới 14 tuổi bị bắt vì tội trộm ngựa, cộng với nhân thân lắm tiền sự, Mary bị xử án 7 năm lưu đày sang Úc, lúc bấy giờ là đảo nhà tù của Anh. Sau một năm lênh đênh trên chuyến tàu biệt xứ, Mary cập bến Sydney năm 1792 khi mới 15 tuổi.

Mary cùng các bạn tù trở thành nhân công ở nơi ‘hoang đảo’ đất rộng mà ít người, nên tù nhân được tự do đi làm thuê để nuôi thân và được khuyến khích ở lại định cư khi mãn hạn tù. Trong một lần làm bốc vác cho tàu chở hàng Britannia của Anh cập bến Sydney, cô gái 17 tuổi dán mắt nhìn chàng sĩ quan trẻ hào hoa trong bộ cánh hải quân màu trắng, như nhìn thấy hoàng tử hiện ra từ cổ tích. Thomas Reibey cũng không thể không thấy ánh mắt ngưỡng mộ, nồng nàn say mê của cô gái trẻ khỏe mạnh đầy vẻ hoạt bát tự tin mà cũng rất xinh xắn. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, tình yêu nảy nở giữa hai người trẻ xa quê và việc thành hôn với Mary cũng là bước ngoặt để Thomas quyết định rời tầu ở lại thành phố cảng Sydney chung sống với nàng.

Nhờ chính sách khuyến khích định cư và tăng trưởng dân số ở xứ thuộc địa xa xôi của Anh quốc, đôi vợ chồng trẻ được chính phủ cấp đất ở vùng Hawkesbury lúc đó còn hoang vắng làm nhà ở và trang trại. Với kinh nghiệm chạy tầu, lại có nhà ngay vùng cửa sông, Thomas mở đường tàu thủy chạy đường sông từ Hawkesbury tới Sydney. Làm ăn khấm khá, họ mua đất đai mở rộng trang trại, kinh doanh bất động sản, xây cất nhà cửa ở Sydney. Trở nên giàu có, ông bà đóng được chiếc tàu hàng Mercury kinh doanh đường tàu chạy viễn dương chở hàng từ Australia tới các đảo trên biển Thái Bình dương.

Sau khi chồng mất, Mary một tay cáng đáng gia đình 7 đứa con, một tay cai quản mở rộng hoạt động kinh doanh còn lớn mạnh hơn trước. Mary nổi tiếng là một doanh nhân thành đạt nhờ khả năng nhậy bén và các quyết định khôn ngoan. Bà cũng là người dấn thân làm việc thiện nguyện cho nhà thờ và đóng góp tiền bạc cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em. Bà tham gia hội đồng quản trị và trực tiếp dạy học các trường nữ để động viên các cô gái trẻ vươn lên giành lấy cơ hội thành công. Bà không bao giờ trở về Anh mà sống ở Sydney cho tới ngày bà mất vào năm 1855, thọ 78 tuổi. Ngày nay người ta vẫn bảo phụ nữ ở Australia được trọng vọng vào hàng số một, cũng là nhờ tấm gương của những người đi tiên phong như Mary Reibey.

Mary Reibey là người có công mở mang xây dựng và doanh thương, làm lợi cho gia đình và làm lợi cho quốc gia còn có công lao đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Hình ảnh bà được trang trọng in trên tờ tiền $20 với họ tên bà ở dưới ảnh và chữ ký của bà bên phải ảnh. Như nhắc nhở tới sự thành đạt của bà, bên trái khung ảnh là chiếc thuyền buồm Mercury và bên phải khung ảnh là tòa nhà do bà làm chủ tọa lạc trên đường George Street (ngày nay là con đường trục chính đắt giá nhất ở trung tâm thành phố Sydney).

Nhân ngày Australia Day hôm qua. Xin cảm ơn nước Úc rất đỗi nhân từ và vô cùng bao dung cho người nhập cư, dù là ai, dù lý lịch ra sao, đều được xây dựng sự nghiệp và đóng góp cho xã hội, lại còn có cả cơ hội vô song là có mặt trên tờ tiền nơi quê hương mới.

– Sưu tầm

Một gia đình hạnh phúc

Image may contain: 6 people, people standing and indoor

Một gia đình hạnh phúc, vui mừng Chúa Giáng Sinh suốt cả cuộc đời, cho dù anh chủ nhà này không có tay và không có chân. Thế mà Chúa sai anh ấy đi khắp thế giới loan báo Tin Mừng, khuyên lơn mọi người có đủ tay và chân hãy vui sống, đừng bao giờ bỏ cuộc. Nhiều người ở Hanoi và Saigon đã từng trò chuyện với anh ấy.

Phải cưa đôi chân và đã làm điều phi thường hàng chục năm sau

Kimtrong Lam
Phải cưa đôi chân và đã làm điều phi thường hàng chục năm sau.

Bị bố mẹ bỏ rơi vì sinh ra tật nguyền, bé gái trải qua tuổi thơ khổ cực, phải cưa đôi chân và làm điều phi thường hàng chục năm sau.

Bất chấp những khiếm khuyết trên cơ thể, Oksana Bondarchuk vẫn có thể sống cuộc đời đáng ngưỡng mộ.

Ngày 19/6/1989, cô bé Oksana Bondarchuk chào đời với một số dị tật bẩm sinh trên cơ thể ở thành phố Khmelnitsky, Ukraine. Em bị thiếu xương chày và độ dài của 2 chân không đồng đều. Oksana có đến tận 6 ngón chân ở mỗi bàn chân nhưng lại bị khiếm khuyết đi ngón chân cái. Những dị tật bẩm sinh này dường như là kết quả là vụ nổ nhà máy hạt nhân Chernobyl 3 năm về trước.

Sau khi chào đời, Oksana đã bị bố mẹ bỏ rơi, dẫn đến việc em bị đưa qua lại nhiều trại trẻ mồ côi trong những năm tháng đầu đời. Tuổi thơ của Oksana có thể được miêu tả bằng 3 từ: Nghèo khổ, đói khát và đòn roi.

Một ngày nọ, cuộc đời Oksana có một sự thay đổi không ngờ. Gay Masters, một nhà tâm lý học diễn thuyết đến từ Buffalo, Mỹ, quyết định nhận nuôi đứa trẻ tật nguyền này. Theo lời Gay, cuộc gặp gỡ lần đầu tiên cua cô và con gái nuôi thật sự là một ký ức khó quên.

“Tôi đã nhìn qua một vài hình ảnh của Oksana và nhận ra con bé sẽ là con gái của tôi chứ không ai khác” – Gay nói với neinvalid.ru.

Quá trình nhận nuôi Oksana của Gay cũng tiêu tốn khá nhiều thời gian. Phải mất đến 1 năm rưỡi, Oksana mới có thể rời trại trẻ mồ côi ở Ukraine để chuyển đến xứ sở cờ hoa sinh sống với mẹ nuôi. Khi đó, ở tuổi lên 7, Oksana chỉ cao chưa đầy 1m và nặng khoảng 13,6kg. Đứa trẻ này đến một chữ tiếng Anh bẻ đôi cũng không biết.

Thế nhưng, đó là lần đầu tiên Oksana cảm nhận được sự tự do. Ở ngôi nhà mới, em nhận được nhiều tình yêu thương và sự chăm sóc.

Sau đó, các bác sĩ đề nghị người bảo hộ cho phép cắt bỏ hai chân của Oksana và gắn chân giả vì điều ấy sẽ giúp đứa trẻ có thể phát triển một cách bình thường về mặt thể chất. Thế là lên 8 tuổi, Oksana bị cưa mất chân trái và một vài năm sau đó, chân phải của cô bé cũng được bác sĩ loại bỏ.

Bất chấp những khiếm khuyết trên cơ thể, Oksana vẫn không ngừng nỗ lực cai thiện bản thân. Cô bé chấp nhận những giới hạn về mặt thể chất và bắt đầu hứng thú với bộ môn thể thao chèo thuyền.

Chẳng ai ngờ Oksana có thể vượt qua khỏi giới hạn của bản thân, tự mình giành về nhiều giải thưởng và nhất là vào năm 2012, cô được chọn gia nhập đội tuyển quốc gia đại diện Mỹ tham gia Paralympics. Tại đây, Oksana đã xuất sắc giành về huân chương đồng.

Thành công của Oksana không dừng lại ở đó. Cô tiếp tục giành về những tấm huân chương danh giá tại đấu trường quốc tế như World Cup và Olympics, không chỉ cho bộ môn chèo thuyền mà còn là trượt tuyết, đạp xe và các môn phối hợp. Ngoài ra, Oksana còn có nghề tay trái là người mẫu.

Trong quá khứ, Oksana không bao giờ nghĩ rằng cô có thể trở thành một vận động viên đẳng cấp thế giới nhưng cô gái này đã làm được những điều kì diệu vượt ra khỏi sự tưởng tượng của bất cứ ai. Với quyết tâm và sự nỗ lực không ngừng, Oksana đã chứng minh cho thế giới thấy được rằng trên đời này không có chuyện gì là không thể làm được. Giờ đây, đứa trẻ khuyết tập bị bỏ rơi năm nào đã trở thành nguồn cảm hứng cho hàng triệu người.

Image may contain: 4 people, child and indoor
Image may contain: 1 person, child and shoes
Image may contain: 2 people, people standing, pool, child and outdoor
Image may contain: 2 people, people sitting and indoor
Image may contain: 1 person, sitting, ocean, child, outdoor, water and nature
+3

Nam sinh nhặt rác vào Đại học Luật Harvard

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor
Image may contain: 2 people, people standing

Anthony Tuan Nguyen to Món Ngon Người Việt Houston

Nam sinh nhặt rác vào Đại học Luật Harvard

Từng bị tất cả đại học từ chối, phải đi thu gom rác kiếm sống, Rehan Staton, 24 tuổi, được nhận vào chương trình luật danh tiếng của Đại học Harvard.

Từ nhỏ, Rehan có cuộc sống hạnh phúc cùng bố mẹ và anh trai tại thành phố Bowie, bang Maryland. Ngoài việc theo học tại một trường tư danh tiếng, Rehan được gia đình đầu tư thuê gia sư học tại nhà.Năm Rehan 8 tuổi, mọi thứ thay đổi khi mẹ em rời khỏi Mỹ và bố em mất việc, phải làm thêm đến 3h sáng để chi trả cuộc sống. Gia đình Rehan khó khăn đến mức thức ăn khan hiếm và việc bật lò sưởi vào mùa đông là điều xa xỉ. “Em phải mặc áo rất dày để ngủ khi trời trở lạnh. Em luôn đói và giận dữ. Cuộc sống khó khăn khiến em học kém dần”, Rehan nói.Từ một học sinh giỏi, em dần trở thành một trong những người điểm kém nhất lớp. Em không thể tập trung khi học và thường buồn ngủ vì ở lớp ấm hơn ở nhà rất nhiều. Khi vào lớp 7, một giáo viên nói với Rehan rằng cần được hỗ trợ đặc biệt, khiến em “vô cùng ghét trường học”.Sau việc này, bố đã đến cộng đồng địa phương để tìm gia sư cho Rehan. Một kỹ sư hàng không vũ trụ ở gần đó đã tình nguyện giúp đỡ Rehan học mà không lấy tiền công. “Em trở lại thành học sinh giỏi vào cuối năm học. Chú gia sư như một người họ hàng, người cha đỡ đầu đã cho em đồ ăn và nơi ở. Sau khi chú không thể giúp được nữa, điểm số của em lại dần kém đi”, Rehan kể lại.Vào cấp ba, nam sinh tập luyện chăm chỉ để trở thành vận động viên đấm bốc chuyên nghiệp. Em đã thắng nhiều giải võ thuật quy mô trường. Xung quanh Rehan, mọi người không hỏi về việc học nữa, thay vào đó họ quan tâm đến việc em tập luyện như nào để tham gia giải đấu sắp tới.

Bi kịch xảy ra vào năm cuối trung học khi Rehan gặp chấn thương dây chằng rất nặng ở cả hai khớp vai trước giải đấu khiến em không thể nhấc tay lên quá vai. Khi gặp chấn thương, Rehan vẫn có thể tiếp tục thi đấu về sau. Tuy nhiên, do không có bảo hiểm y tế, việc vật lý trị liệu là một điều không thể với Rehan và em không thể hồi phục chấn thương hoàn toàn.

Với việc không thể tiếp tục sự nghiệp chuyên nghiệp, Rehan phải chuyển sang học đại học và bị từ chối bởi tất cả trường. Em dần hồi phục chấn thương và bắt đầu công việc nhặt rác cho công ty địa phương ở trong một cộng đồng với rất nhiều người từng vi phạm pháp luật và bị tống giam.

Mọi người hỏi Rehan, tại sao em làm công việc này. “Em quá thông minh”, “Em quá trẻ để ở đây”, “Hãy đi học đại học và hãy chỉ quay lại đây nếu mọi chuyện không ổn”, nhiều người nói với Rehan. Đấy là lần đầu tiên một người không phải từ gia đình, ngoại trừ gia sư năm lớp 7, cổ vũ Rehan theo đuổi sự nghiệp học hành.

Những đồng nghiệp và quản lý ở công ty vệ sinh đã kết nối Rehan với một giáo sư ở Đại học Bowie State, trường đã từ chối em vài tháng trước đó. Giáo sư đã ấn tượng khi trò chuyện với Rehan và đã thuyết phục nhà trường nhận em vào học.

Việc Rehan học đại học khiến anh trai của em, Reggie, tự nguyện bỏ học. Cả hai anh em đều hiểu rằng, một trong hai người phải đi làm toàn thời gian để giúp bố kiếm tiền, nếu không họ sẽ mất nhà. “Anh Reggie biết rằng em sẽ mắc kẹt ở đây nếu không nắm lấy cơ hội này và đi học, đặc biệt với điểm số thấp của em hồi cấp 3”, Rehan nói.

Sau khi đạt điểm tuyệt đối, Rehan chuyển đến Đại học Maryland, nơi em đã đạt được vô số thành tựu trong trường: từ chủ tịch hội lịch sử cho đến người phát biểu trong lễ tốt nghiệp (thường là học sinh có thành tích tốt nhất khóa). Và kể cả khi đi học, em vẫn tiếp tục công việc nhặt rác vào sáng sớm và giữa các tiết học.

Sau khi tốt nghiệp, sức khỏe của Rehan tiếp tục suy giảm nhưng em đã tìm được công việc ở trong một công ty tư vấn chính trị ở Washington, Mỹ. Em đã chuẩn bị thi LSAT, kỳ thi chuẩn hóa cho các trường luật.

Tháng 3 năm nay, ở tuổi 24, Rehan được nhận vào tất cả chương trình luật danh tiếng của các đại học gồm USC, Columbia, Pennsylvania và Harvard.
“Em không thể tin được và cảm thấy sự hy sinh của bố và anh trai không hề lãng phí”, Rehan chia sẻ.

Mùa thu năm nay, Rehan sẽ nhập học Đại học Luật Harvard. Chia sẻ với những người đang gặp khó khăn, Rehan nói: “Hãy yêu bản thân đủ nhiều để hiểu mình muốn gì trong cuộc sống. Bạn sẽ luôn tìm ra cơ hội trong khó khăn và bạn cần theo đuổi cơ hội ấy”.

Phan Nghĩa (Theo Good Morning America )

NGHỊ LỰC PHI THƯỜNG…

Kimtrong Lam

Ông ngoại đặt tên là Thường với hy vọng cháu gái bình thường, không bị tâm thần giống mẹ. Mười tám năm sau, cô bé trở thành niềm tự hào của cả gia đình.

Xếp tập vở lên chiếc giá sách bong tróc từng mảng gỗ đặt nơi góc tường, Thường rảo bước về phía cổng. “Mẹ ơi”, tiếng gọi cất lên giữa đêm tối. Không nghe thấy tiếng đáp lại, cô gái đi vòng qua nhà người hàng xóm rồi đến trước cổng đình, chạy ngược lên cánh đồng đầu làng, trên bờ đê mẹ cô đang ngồi thơ thẩn. Nhiều năm qua, việc tìm mẹ mỗi ngày không còn xa lạ với cô.

Nguyễn Thị Thường chào đời năm 2002 trong một gia đình chỉ có ba người đàn bà. Em không biết bố mình là ai. Tiếng là nhà có ba người nhưng mẹ em, bà Nguyễn Thị Hồng Minh (sinh năm 1973) và một người chị nữa người bị tâm thần, chỉ có chị cả Nguyễn Khánh Linh là tỉnh táo, bình thường. Đứa bé ấy lớn lên bằng chính sự yêu thương đùm bọc của người bác trong ngôi nhà rộng 20 m2, không có cả phòng vệ sinh.

Mẹ Thường, thi thoảng vẫn tỉnh táo vẫn giúp chị cả năm nay 56 tuổi, cắt cỏ, gặt lúa. Khi trái gió trở trời, bà lang thang đầu đường xó chợ, chẳng nhớ nổi đường về nhà.

Khi mang thai Thường, nhà nghèo chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc giường gỗ cũ tróc sơn. Hàng xóm tặc lưỡi bảo: “Thân nó còn chẳng nuôi nổi nữa là thêm đứa trẻ”, bà Linh đưa em gái lên trạm xá với ý định bỏ cái thai. Tại đây, gặp người họ hàng khuyên: “Nhà nhiều người tâm thần, cố giữ đứa trẻ sau này còn đỡ đần lúc tuổi già”. Bà Linh lại vuốt nước mắt, quay xe đưa em về.

Giữa trưa nắng tháng 4/2002, Thường chào đời, tên được ông ngoại đặt với mong muốn lớn lên cháu bình thường, không thần kinh giống mẹ. Mẹ đẻ suốt ngày lang thang, không biết chăm con, mọi việc ăn ngủ, tắm giặt của đứa trẻ đều do bà Linh đảm nhận. Lớn lên với ba người phụ nữ, Thường gọi tất cả là mẹ.

Để nuôi cháu và hai đứa em thần kinh, bà Linh ngày chỉ dám ngủ 3-4 tiếng. Ngoài 7 sào ruộng, bà đi cuốc mướn thuê, trồng thêm rau cỏ. Mỗi lần thiếu tiền mua sữa, bà lại vay mượn người quen, quyết không để cháu thiếu đói.

Nhiều cái Tết, gia đình không có gạo nếp và thịt để gói bánh chưng. Thương cháu, bà Linh đi gói bánh thuê, lấy công là cặp bánh về cho cả nhà ăn Tết. Từ năm 7 tuổi, sau 23 tháng chạp, Thường luôn bận rộn bởi ngoài việc đồng áng, em còn phải lo cơm nước, giặt giũ cho hai mẹ thay bác.

“Tết đến cả nhà quây quần ăn bánh chưng bác mang về. Các mẹ cùng cười, cùng chia nhau chiếc bánh, với em đó là khoảnh khắc hạnh phúc nhất”, Thường hồi tưởng.

Hàng ngày, bà Linh dậy từ 1-2 giờ sáng ra đồng hái rau cho kịp phiên chợ sớm. Nhiều lúc em gái đi lang thang, không dám để cháu ở nhà một mình giữa đêm khuya, bà cho Thường đi cùng. Bác dưới ruộng, cháu trên bờ ríu rít trò chuyện. Chuyện chán, Thường ngủ thiếp trên bờ đê đến khi được đánh thức dậy với gánh rau to quằn mình trên vai bác.

***Năm Thường 4 tuổi, thấy những tờ giấy mời họp của bác để trên bàn, cô bé lôi ra tô theo chữ trong giấy.

Thấy cháu thích viết, bà Linh thử dạy chữ. Thường học nhanh, sau vài buổi đã thuộc, đọc vanh vách. “Mừng quá mày không giống mẹ, cháu ạ”, bà reo lên vui sướng. Từ ngày đó, những cánh cửa gỗ sần, cũ kỹ quanh nhà được Thường tận dụng làm bảng học cho riêng mình. Viết vẽ cô bé đều thể hiện lên đó.
Thấy cháu ham học, mỗi ngày đi bán rau, bà Linh đều chi một khoản mua sách. Nghỉ hè theo chân bác lên chợ, cô bé chỉ thích đến cửa hàng sách to nhất huyện đọc ké. Biết hoàn cảnh gia đình, chủ hàng ít khi đuổi. Dù nhỏ tuổi nhưng Thường không đọc truyện tranh, cổ tích như các bạn mà chọn những cuốn trong bộ sách hạt giống tâm hồn hay cách sống đẹp.
Năm lớp 6, từ một khúc mắc với người bạn, cô bé bị mắng “Đồ không có bố”. Thường bắt đầu cảm nhận sự khác biệt giữa mình và các bạn. Sau 2 đêm khóc ướt gối, sang ngày thứ 3, ngủ dậy thấy bác vẫn còng lưng bó rau, mồ hôi nhỏ xuống thành dòng, cô bé đứng thẳng dậy, vẽ một mặt cười và dòng chữ “Hãy cười lên” trên cánh tủ – nơi có nhiều ánh sáng nhất trong nhà.

Từ lúc đó, cô bé không bao giờ khóc khi ai đó nói những câu tương tự.

***Năm lớp 7, Thường được giới thiệu tới Khát Vọng – tổ chức chuyên giúp đỡ trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn. Khi là thành viên, em được giúp đỡ về vật chất và tham gia hội trại dành cho trẻ cùng hoàn cảnh.

Một lần biết đến câu chuyện một bạn mồ côi cha mẹ, phải đi bán vé số, Thường tự nhủ: “Mình may mắn hơn bạn vì vẫn có người yêu thương”. Từ ngày đó, từ một cô bé ít chia sẻ cảm xúc, Thường tham gia nhiều hoạt động trên trường như hội diễn văn nghệ, câu lạc bộ sách, cuộc thi hùng biện, thường xuyên viết và đăng các bài cảm nhận sách lên trang cá nhân của mình.

Bốn năm cấp 2, Thường là học sinh giỏi, năm nào cũng đạt giải Olympic Toán của huyện Thạch Thất. Năm lớp 9, sau khi đạt giải Nhì môn Văn cấp thành phố, cô bé được xét tặng học sinh ưu tú của Thủ đô.

Không có tiền đi học thêm, Thường tự học, tra cứu từ sách vở và Internet. Năm lớp 10, quỹ Khát Vọng tặng cho chiếc máy tính cũ. Nhà không có wifi, Thường kê bàn ra cổng ngồi học, bắt wifi nhờ hàng xóm. Dù ban đêm muỗi đốt, ban ngày nắng thiêu đốt, nhưng hiếm khi cô bé nghỉ học.

Không chỉ đảm bảo điểm số và thành tích tại trường, Thường cũng tự lên mạng học tiếng Anh, tập thuyết trình và luyện phát âm. “Ở cô bé này luôn có sự thôi thúc vươn lên mạnh mẽ tiềm ẩn dưới vẻ dễ thương, nhí nhảnh, hòa ái của một cô bé sinh ra từ nông thôn”, cô Vũ Thị Dung – người sáng lập quỹ Khát Vọng nhận xét.

Lên lớp 11, Thường tham gia cuộc tranh biện tại trường với chủ đề “Phụ nữ có nên phá thai không?”.

“Em nghĩ đến bản thân mình, nếu bác không cho cơ hội sống thì em đã không có mặt ở đây ngày hôm nay”, Thường nêu lý do tham gia. Kết quả, cô bé giành giải nhì.

Một năm trước, Thường biết tới Đại học Fulbright Việt Nam. Cô gái 18 tuổi đã quay lại quá trình tự gói bánh chưng và kể lại câu chuyện cuộc đời gắn liền với chiếc bánh bác làm bằng tiếng Anh, gửi đến hội đồng tuyển sinh. “Chiếc bánh này có ý nghĩa rất lớn vì nó gói ghém tình yêu và sự hy sinh của bác – người mẹ thứ hai của tôi – trong đó”, Thường diễn giải.

Đầu tháng 6/2020, biết tin cháu gái nhận được hỗ trợ tài chính trị giá 2,2 tỷ đồng trong 4 năm đại học, bà Linh chạy khắp xóm khoe: “Cái Thường được học trường Tây”, trong khi mẹ đẻ chỉ hềnh hệch cười khi biết con gái được đi học miễn phí.

Dưới cái nắng oi ả tháng 7, Thường mở chiếc hộp đựng giấy báo đỗ đại học lấy chiếc huy hiệu của nhà trường lau đi lau lại sạch bóng. Trong bốn năm tới, cô gái 18 tuổi quyết định chọn ngành tâm lý để trở thành nhà xã hội học, tốt nghiệp sẽ trở về quỹ Khát Vọng giúp đỡ những trẻ bất hạnh khác.

“Giờ em có thể tự tin đứng trước bác và mọi người nói rằng, quyết định giữ lại em 18 năm trước là một việc làm đúng đắn”, Thường nói, khóe mắt ánh lên niềm tự hào.

Theo Vnexpress

Image may contain: 3 people, text

NHỮNG BỨC ẢNH GÂY XÚC ĐỘNG

Image may contain: 1 person, shoes, child and outdoor

Mai-Agnetha Pham is with Mai-Agnetha Pham.

Nguồn: Fb Giuse Lê Quang Uy

#AnhGayXucDong

NHỮNG BỨC ẢNH GÂY XÚC ĐỘNG

Bé TONY HUDGELL, mới tròn 5 tuổi, đã quyết định đi bộ 10km bằng đôi chân giả của bé chặng đường dài nhằm vận động mọi người quyên góp được hơn 1.200.000 bảng Anh, giup bệnh viện Evelina đang được trưng dụng chữa trị đại dịch Virus Corona cho trẻ em ở London, thủ đô của vương quốc Anh, nơi các y bác sĩ vừa cứu bé qua cơn nguy kịch và hồi phục gần đây.

Bé Tony lú còn nhỏ xíu đã bị cha mẹ ruột đánh đập hành hạ đến mức hỏng cả hai chân.

Cha mẹ ruột của Tony đã bị bắt giữ và bé may mắn được một gia đình nhân ái nhận về làm con nuôi và lắp cho em đôi chân giả. Nghị lực và nhân cách của Tony khiến mọi người phải nể phục…

Cảm phục nghị lực sống của Hoa hậu bị bỏng 85% cơ thể

Cảm phục nghị lực sống của Hoa hậu bị bỏng 85% cơ thể

Cô Carol Mayer (53 tuổi) đến từ thành phố Cairns, bang Queensland, Úc, đã từng là Hoa hậu North Aspley (một cuộc thi nhan sắc cấp địa phương).

Carol Mayer đã từng bị bỏng 85% cơ thể sau một vụ cháy nhà xảy ra 20 năm trước, cô từng đối diện với khả năng sống sót 50/50.

Mới đây, cô Carol đã vừa xuất hiện trong một bộ hình khỏa thân mang thông điệp ý nghĩa được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia người Anh Brian Cassey, những bức ảnh này đã vừa được đề cử tại giải ảnh Chân dung Nhân văn (Portrait of Humanity 2020 Award), một giải thưởng nhiếp ảnh được tổ chức bởi Tạp chí Nhiếp ảnh Anh quốc (British Journal of Photography).

Những bức ảnh chân dung chụp cô Carol Mayer được đặt tên là “The Skin I’m In” (Tôi sống trong làn da ấy). Bộ ảnh hiện tại đang rất thu hút sự chú ý.

Cô Carol Mayer trong một bức ảnh chụp chân dung (trái) được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia Brian Cassey, và bức ảnh được chụp hồi cô trở thành Hoa hậu North Aspley hồi năm 1983 (phải)

Thời trẻ, Carol từng tham gia một cuộc thi nhan sắc và trở thành Hoa hậu vùng North Aspley (một cuộc thi nhan sắc cấp địa phương). Số phận đã đẩy cô vào một thử thách nghiệt ngã khi Carol bị mắc kẹt trong một vụ cháy nhà xảy ra hồi năm 2000 khiến cơ thể cô phải chịu những vết sẹo vĩnh viễn.

Cho tới giờ Carol vẫn không hiểu nổi nguyên nhân nào đã gây nên vụ hỏa hoạn kinh hoàng ấy và cô không có bất cứ ký ức nào về cách mà cô và cậu con trai của mình (khi ấy mới 18 tháng tuổi) có thể sống sót trải qua vụ việc.

Trong khi con trai cô được giải cứu kịp thời và không bị thương tích gì đáng kể, thì người mẹ đã phải trải qua 8 tuần hôn mê trong bệnh viện và sau đó là 9 tháng điều trị để phục hồi những vết bỏng nặng. Tổng cộng, Carol đã phải trải qua hơn 100 ca phẫu thuật lớn nhỏ.

Carol đã rất mạnh mẽ, nỗ lực vượt qua những năm tháng đầu tiên chứa đựng vô vàn bất ổn về thể chất và tinh thần. Giờ đây, sau 20 năm trải qua vụ việc vĩnh viễn làm thay đổi cuộc đời mình, cô sẵn sàng xuất hiện trong những bức ảnh chân dung khỏa thân của nhiếp ảnh gia Brian Cassey. Câu chuyện của cô đang nhận được sự quan tâm của công chúng.

Cô Carol Mayer khi chưa gặp phải biến cố

Nói về bản thân, Carol tâm sự: “Với những vết sẹo bỏng, người ta sẽ phải trải qua những khó khăn rất lớn về thể chất và tinh thần, rất khó để vượt qua. Nhưng nếu có đủ nghị lực, thì rồi cũng sẽ vượt qua được. Tôi đã không để sự việc đánh gục mình.

“Khi nhiếp ảnh gia Brian tiếp cận tôi, tôi nghĩ ngay rằng đây là một cơ hội tuyệt vời để cổ vũ những người cũng đang vật lộn trải qua hoàn cảnh tương tự, để mọi người thấy một khía cạnh kiên cường trong con người tôi”.

Trải qua biến cố, Carol đã học được khá nhiều điều về cuộc sống: “Hãy nghĩ tới những người bị ung thư, nếu tái phát, nếu di căn, nếu đã ở giai đoạn cuối, họ không còn nhiều thời gian nữa. Nhưng với sẹo bỏng, bạn sẽ khá hơn qua thời gian, bạn cần phải học được cách kiên nhẫn, học cách chấp nhận hoàn cảnh và qua đó sẽ học được thêm về nghệ thuật sống”.

Trải qua biến cố, Carol đã học được khá nhiều điều về cuộc sống

Khi nhận lời chụp bộ ảnh khỏa thân với nhiếp ảnh gia Brian Cassey, cô Carol đã phải trải qua những khó khăn tâm lý, cô phải cởi đồ, cởi bỏ cả dải băng-đô luôn đeo trên đầu: “Dải băng-đô là thứ tôi không bao giờ quên trong cuộc sống hàng ngày, bởi nó cho tôi cảm nhận an toàn, cảm giác nữ tính. Tôi sẽ cảm thấy rất lo lắng, căng thẳng nếu không có nó”.

Trải qua biến cố, cô Carol muốn chia sẻ với mọi người những thông điệp quan trọng của cuộc sống: “Câu chuyện của tôi có thể khiến mọi người nhận ra rằng, trước hết, cuộc sống của bạn có thể biến đổi khủng khiếp chỉ trong chốc lát, thứ hai, bạn luôn cần có nghị lực, thứ ba, bạn cần học cách chấp nhận, tiến bước và ngẩng cao đầu”.

“Dải băng-đô là thứ tôi không bao giờ quên trong cuộc sống hàng ngày, bởi nó cho tôi cảm nhận an toàn, cảm giác nữ tính”

Những bức ảnh chân dung của nhiếp ảnh gia Brian tập trung nhất vào đôi mắt xanh của Carol, anh chia sẻ: “Tôi không thể quên Carol sau khi thực hiện những bức ảnh này. Tôi đã sợ không dám hỏi cô ấy, nhưng rồi khi thử gọi điện và thu xếp thời gian gặp gỡ trò chuyện trực tiếp, cô ấy dù khá đắn đo nhưng rồi cũng rất quả quyết nhận lời.

“Cả hai chúng tôi đều có chung mục tiêu khi thực hiện những bức ảnh này. Chúng tôi muốn gửi thông điệp tới những người cũng đang phải sống với những vết sẹo bỏng suốt cả cuộc đời. Tôi rất vui, cho tôi và nhất là cho Carol, bởi bộ ảnh đã nhận được sự quan tâm chú ý từ nhiều tờ tin tức trên khắp thế giới”.

Cô Carol Mayer khi chưa gặp phải biến cố

      Cô Carol Mayer trong cuộc sống thường ngày

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

Nghỉ học tránh dịch, hãy xem những tấm gương tự học thành tài Issac Newton và Abraham Lincoln

Nghỉ học tránh dịch, hãy xem những tấm gương tự học thành tài Issac Newton và Abraham Lincoln

Tâm Giao – Đan Tâm | Mar 18,220

Issac Newton, Abraham Lincoln, William Herschel (ảnh: Shutterstock).

Nghỉ học không có nghĩa là ngừng học! Tuy không đến trường có thể khiến một số học sinh buông thả bản thân, nhưng đối với ai có tinh thần tự học chân chính, đây lại là khoảng thời gian ươm mầm kỳ diệu. Cùng xem nhà bác học Issac Newton, nhạc công – nhà thiên văn học William Herschel và tổng thống Abraham Lincoln đã tự học để thành tựu chính mình.

Điểm chung của những người tự học là sự nỗ lực tự thân. Họ một mình nghiên cứu, luôn luôn đọc và làm không biết mệt mỏi, không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. 

Issac Newton – tự mình trong phòng suy nghĩ, thử nghiệm

Năm 1665, dịch hạch hoành hành khắp London đã cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Newton khi đó 20 tuổi và đang là sinh viên tại Trinity College, Cambridge.

Do tính chất lây lan của dịch bệnh, trường học của Newton cho sinh viên nghỉ học. Các giáo sư và giảng viên đều không lên lớp, trong bối cảnh toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội tại London gần như ngưng lại. Tuy nhiên, đối với một người có khả năng tự học như Newton, nghỉ học là cơ hội vàng để ông tự chủ hoàn toàn việc nghiên cứu của mình.

Newton trở về Woolsthorpe Manor, dinh thự của gia đình ông cách Cambridge khoảng 60 dặm về phía tây bắc. Quãng thời gian hơn một năm tại nhà tự học của ông về sau được gọi là annus mirabilis, hay “năm của những điều kỳ diệu”.

Đầu tiên, ông tiếp tục nghiên cứu các vấn đề toán học đang trong quá trình thực hiện tại Cambridge, các bài viết của ông về những vấn đề trên sau này trở thành những công trình mở đường của môn giải tích.

Tiếp đó, ông mua một vài lăng kính và thử nghiệm với chúng ngay trong phòng ngủ của mình. Ông khoan một lỗ trên cửa chớp để chỉ một chùm tia sáng nhỏ nhất có thể xuyên qua. Nhờ vậy, Newton bắt đầu xây dựng cho bản thân các tiên đề đầu tiên về quang hình học.

Newton đang làm thí nghiệm tại phòng của mình.

Sau thời gian nghỉ vì dịch bệnh, Newton trở lại Cambridge với vốn kiến thức phong phú, sâu sắc. Chỉ trong vòng 6 tháng, ông đã vượt xa bạn bè đồng trang lứa và chỉ mất hai năm sau để trở thành giáo sư. Tất cả các thành tựu này của ông chính là nhờ vào khoảng thời gian tự học phi thường.

William Herschel – quan sát, tìm tài liệu, tự chế tạo kính viễn vọng 

Nói đến tự học thành tài không thể không nhắc đến William Herschel – người nhạc công với niềm say mê thiên văn học.

William Herschel vốn là một nhạc công thực thụ trước khi là một nhà thiên văn học nổi tiếng. Trong những lần chơi nhạc và sáng tác những khúc nhạc, ông thường có thói quen nhìn lên bầu trời đêm đầy sao để tìm cảm hứng sáng tác. Lâu dần ông lại sinh ra yêu mến bầu trời đêm và các vì tinh tú lấp lánh.

Sau đó, ông tự đọc những tài liệu về thiên văn, tìm tòi học hỏi để tự làm một chiếc kính viễn vọng cho riêng mình với 16 tiếng mỗi ngày dùng để mài gương và ống kính.

Chiếc kính tự chế lại ngẫu nhiên cho ra những hình ảnh cực rõ nét của những vì sao và còn tốt hơn mọi chiếc kính đắt tiền nhất. Vì vậy, ông phát hiện ra rất nhiều tinh vân cũng như những chòm sao, vệ tinh mới cùng nhiều đóng góp khác cho ngành thiên văn.

Tình cờ trên hành trình tìm kiếm các vì sao mới, những ‘’vùng đất hứa’’ trong thiên hà bao la, ông đã vô tình phát hiện ra một vật thể lạ và báo cáo chúng cho cơ quan vũ trụ quốc tế NASA. Vật thể đó là Thiên Vương tinh, một trong số 7 hành tinh lớn nhất trong hệ mặt trời. Khám phá này thực sự đánh dấu một bước tiến lớn cho ngành thiên văn học.

Abraham Lincoln – dành nhiều thời gian đọc sách

Có lẽ chúng ta không còn xa lạ với Abraham Lincoln, là vị Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ, nổi bật với tinh thần tự học. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ ông là những nông dân mù chữ. Vì vậy, ông không có điều kiện đi học chính thức. Thời gian theo học thực sự của ông có lẽ chỉ kéo dài 18 tháng do các giáo viên không chuyên nghiệp dạy. Kiến thức của ông chủ yếu có được từ việc tự học, tự mình đọc mọi cuốn sách có thể mượn được, từ Kinh Thánh, đến các sách tiểu sử, và sách văn chương.

Tổng thống thứ 16 của Mỹ – Abraham Lincoln.

Ông thông thạo Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh và lịch sử Mỹ, ngoài ra ông còn học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Ông dành nhiều thời gian đọc sách đến nỗi những người hàng xóm cho rằng ông cố tình làm vậy để khỏi phải làm những công việc chân tay nặng nhọc.

Vì vậy, nếu phải làm việc hoặc học tập ở nhà trong khoảng thời gian dài, ta có thể noi gương nhà bác học Issac Newton, nhạc công – nhà thiên văn học William Herschel và tổng thống Abraham Lincoln.

“Hãy luôn vươn tới bầu trời, vì nếu không chạm tới những ngôi sao thì bạn cũng sẽ ở giữa những vì tinh tú”.

Có lẽ nhờ khoảng thời gian nghỉ học mà những đứa trẻ có thể nâng cao khả năng tự học, thăng hoa hiểu biết và năng lực của bản thân, để khi quay trở lại trường học lợi hại gấp hai, gấp ba. Hãy nói với con của bạn về điều đó và tin rằng đúng là như thế.

Thực ra, có thời gian để suy nghĩ, thử nghiệm và tìm tòi một cách thoải mái không giới hạn là cơ hội đột phá bản thân. Điều quan trọng là giúp bọn trẻ hiểu rằng chúng phải quý giá thời gian, biết ơn cơ hội, trân trọng chính mình.

MỘT CẬU BÉ ĂN XIN NGƯỜI PHI LUẬT TÂN ĐƯỢC HỘI THÁNH CÔNG NHẬN LÀ TÔI TỚ CHÚA

MỘT CẬU BÉ ĂN XIN NGƯỜI PHI LUẬT TÂN ĐƯỢC HỘI THÁNH CÔNG NHẬN LÀ TÔI TỚ CHÚA

Tôi Tớ Chúa (Servant of God) là bước đầu tiên để có thể Tuyên Thánh ( gồm ba bước: Tôi Tớ Chúa – Á Thánh – Hiển Thánh ) cho một người đã chết, nhưng được nhìn nhận có những nhân đức anh hùng trong khi còn ở dương thế.

Từ khu ổ chuột, một thiếu niên Phi Luật Tân được Tòa Thánh công nhận là Tôi Tớ Chúa ngày 7.11.2018, vì luôn truyền cảm hứng của lòng tin, sự thánh thiện, niềm vui sống, tình yêu cuộc sống… cho đến khi trút hơi thở ở tuổi 17.

 1-TUỔI THƠ BẤT HẠNH

Darwin Ramos sinh tại khu ổ chuột của thành phố Pasay, ngoại ô Manila, Phi Luật Tân ngày 17.12.1994, trong một gia đình nghèo khổ. Mẹ là thợ giặt ủi. Cha nghiện rượu nặng. Khi Darwin đủ khôn lớn, người cha bắt cậu và đứa em gái Marimar đi bới rác kiếm tiền. Hai anh em không được đi học.

Lúc 5 tuổi, không hiểu sao cơ bắp Darwin Ramos cứ yếu dần. Cậu thường xuyên vấp té. Năm lên 7, hai chân càng lúc càng đau nhức, cuối cùng, cậu không thể tự đứng. Bác sĩ chẩn đoán cậu bị chứng loạn dưỡng cơ Duchenne.

Lẽ ra, biết con mình đau đớn bệnh tật, cha của cậu phải lo chạy chữa và cho con nghỉ ngơi. Ngược lại, ông lại thấy đây là cơ hội kiếm tiền. Mỗi sáng ông đưa đứa con tật nguyền tội nghiệp tới ga xe lửa Libertad, gần nhà để ăn xin.

Xót xa hơn, ông bắt cậu phải cho mọi người qua lại nhìn thấy đôi chân tật nguyền để đánh động lòng thương, sự trắc ẩn mà có thể có nhiều tiền…

Bất cứ ai biết hoàn cảnh của Darwin đều cảm thương cậu. Còn bản thân, với sự tốt bụng và hiền lành vốn có, dù mỗi ngày chỉ xin được ít tiền và bị cha lấy để uống rượu, Darwin không buồn, ngược lại, cậu thấy vui vì nghĩ, dù bệnh tật, mình vẫn có thể giúp mẹ và còn có thể có ích cho gia đình.

Cứ thế, trong nhiều năm, cuộc sống vất vả của Darwin vẫn phải tiếp tục trong hoàn cảnh: chui rúc trong khu ổ chuột, khuyết tật, chịu đựng sự đau đớn của căn bệnh, sống đói nghèo, và ăn xin…

 2-THAY ĐỔI LỚN

Đầu năm 2006, các chi dưới của Darwin hoàn toàn bất động. Mỗi khi di chuyển, cậu phải dùng tay để trườn người cách hết sức vất vả.

Cho đến một ngày, một nhóm giáo dục viên đường phố đến Libertad và phát hiện Darwin đang lê lết trên sân ga. Họ là những người thuộc Tổ Chức Nhịp Cầu Nối với Trẻ Em. Họ mang sứ mạng giúp đỡ người khyết tật và trẻ em tàn tật, bị vứt bỏ, sống lang thang trên đường phố Manila.

Sau nhiều lần chuyện trò, Darwin đồng ý theo họ về Trung Tâm Đức Mẹ Guadalupe, nơi nuôi dưỡng trẻ em tật nguyền. Cuộc đời Darwin bất ngờ biến đổi. Cậu được chăm sóc tử tế. Bệnh dù không thể khỏi, nhưng ít ra, cậu được quan tâm chu đáo và không phải ăn xin, không phải lê lết trên đường phố.

Tại đây, lần đầu tiên Darwin được biết Đức Tin Kitô giáo. Cậu mau chóng yêu mến Chúa Giêsu và đức tin. Dần dà, cậu khao khát trở thành Kitô hữu.

Darwin được lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy ngày 23.12.2006. Một năm sau, ngày 22.12.2007, cậu được Rước Lễ Lần Đầu và lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức.

 3-HẠNH PHÚC TRONG CHÚA

Những người bị loạn dưỡng cơ Duchenne sẽ ảnh hưởng đến tim và phổi. Vì thế, cậu càng lúc càng khó thở, cần được hỗ trợ bằng những điều trị y khoa.

Trong khi tình trạng bệnh tật mỗi ngày một tồi tệ, Đức Tin của Darwin vào Thiên Chúa càng lúc càng sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn. Mối tương quan của cậu với riêng Chúa Giêsu càng ngày càng phát triển.

Cậu như chìm sâu vào lòng thương xót của Người đến độ, chính sự gắn kết chặt chẽ giữa cậu với Chúa Giêsu làm cho cậu được an ủi, được hạnh phúc lớn. Niềm an ủi và hạnh phúc này giúp cậu cảm thấy như không còn đau đớn và thống khổ về mặt thể xác. Người ta chưa bao giờ nghe cậu nói về bệnh tật, mà chỉ nghe cậu nói đến “nhiệm vụ vì Chúa Giêsu”.

Cậu dâng lên Chúa Giêsu mọi đau khổ như dâng chính hiến lễ đời mình. Cậu chấp nhận thánh giá và kết hợp cùng Thánh Giá của Chúa để thánh hóa mình. Có lần cậu nói với một Linh Mục trong ban điều hành trung tâm: “Con nghĩ, Chúa Giêsu muốn con kiên cường tới cùng, giống như Người vậy”.

 4-ĐỐI VỚI MỌI NGƯỜI XUNG QUANH

Như có sức mạnh thiêng liêng kỳ diệu kể từ ngày đón nhận Đức Tin, vốn hiền từ, Darwn lại càng dễ mến hơn. Người ta thấy cậu cười nhiều hơn. Dù bệnh tật có tấn công đến mức nào, cậu vẫn giữ nét mặt thật đẹp, đôi môi thật tươi. Nụ cười của Darwin sáng ngời, có sức đem lại niềm vui cho bất cứ ai cậu gặp gỡ. Cậu hoàn toàn mở lòng với hết mọi người để sống với mọi người càng lúc càng thân thiện hơn, hạnh phúc hơn…

 5-TUẦN THÁNH CỦA RIÊNG BẢN THÂN

Cứ thế, Darwin Ramos kiên cường chóng chọi với bệnh tật. Và rồi điều tồi tệ nhất vẫn xảy ra. Nhiều chứng nhân kể lại những ngày cuối của Darwin Ramos như là  tuần Thánh của riêng cậu. Cậu chiến đấu bất khuất, dũng cảm trong đức tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu và phó thác cho Người đến cùng.

Ngày thứ hai 16.9.2012, Darwin không thể thở nên phải dùng máy trợ thở. Cậu chỉ giao tiếp với mọi người bằng cách viết vào một cuốn sổ.

Thứ năm 20.9.2012, Darwin viết rằng cậu đang trải qua cuộc chiến đấu tâm linh với ma quỷ.

Thứ sáu, đúng ngĩa là thứ sáu Tuần Thánh, 21.9.2012, Darwin viết hai lời cuối vào sổ tay: “Rất cảm ơn” và “Con rất hạnh phúc”. Darwin được lãnh nhận Bí Tích Xức Dầu. Sau đó cậu im lặng cho đến hết ngày thứ bảy, một thứ bảy Tuần Thánh của bản thân theo đúng ngày thứ bảy Tuần Thánh ngủ yêu mà Chúa Giêsu đã từng trải qua.

Chúa nhật 23.9.2012, Darwin Ramos chính thức tham dự lễ Phục Sinh của Chúa Giêsu bằng sự hiến dâng trọn vẹn cuộc đời, linh hồn và thân xác của mình.

Darwin Ramos vĩnh viễn rời bỏ trần gian ở tuổi 17, lứa tuổi đẹp nhất đời người. Đức Giám Mục Honesto Ongtioco của Giáo Phận Cubao đã bắt đầu tiến trình Tuyên Thánh theo đề nghị của Hiệp Hội Những Người Bạn của Darwin Ramos. “Darwin là một ví dụ điển hình của sự thánh thiện”, Đức Cha nhận định, “Cậu thiếu niên gần gũi với Chúa Giêsu trong nỗi đau lẫn hạnh phúc”.

Lm. JB. NGUYỄN MINH HÙNG, Giáo Phận Phú Cường

Đừng bao giờ đầu hàng số phận!

Đừng bao giờ đầu hàng số phận!

Tên ông ấy là Sylvester Stallone – một trong những ngôi sao điện ảnh Mỹ nổi tiếng và thành công bậc nhất từ trước đến giờ. Nhưng hãy nghe kể về những ngày xa xôi ấy, khi Stallone chỉ là một diễn viên vô danh, vật lộn với những vai diễn nhỏ và thường xuyên bị từ chối trong các buổi thử vai.

Cuộc sống của ông có lúc ở đỉnh điểm của sự cùng cực khi bị trục xuất khỏi nhà thuê vì không có tiền, phải lang thang trên đường phố. Khi không còn 1 xu dính túi để mua đồ ăn, vất vưởng 3 ngày liền tại trạm xe buýt, ông đã phải nén nỗi đau để bán đi chú chó của mình – người bạn đồng hành mà ông vô cùng yêu quý chỉ bởi không còn gì cho nó ăn.

Ông bán cho 1 người lạ gần 1 quán rượu với giá chỉ $25. Ông kể rằng khi ông trao người bạn đó vào tay người lạ, ông đã bước đi và nước mắt dàn dụa.

Hai tuần sau đó,Stallone vô tình xem được trận quyền Anh giữa 2 võ sĩ Mohammed Ali và Chuck Wepner, trận đấu này là tác nhân thay đổi cuộc đời ông từ đó. Kịch tích của trận đấu đã truyền cảm hứng cho Stallone viết nên kịch bản phim sau này vô cùng nổi tiếng, ROCKY.

Ông hoàn thành kịch bản sau 20 giờ liên tục viết, dòng chữ tuôn trào đầy cảm xúc. Ông đem chào bán ROCKY và nhận được phản hồi từ 1 nhà làm phim đồng ý với mức giá $125.000 cho kịch bản 20 giờ viết đó. Nhưng Stallone kèm 1 yêu cầu khi bán: ông sẽ đóng vai chính trong bộ phim đó! Vâng, không ai khác, mà là chính ông – một diễn viên nhỏ vô danh bấy giờ, sẽ là vai chính trong bộ phim do chính ông viết. Và tất nhiên, nhà làm phim hoàn toàn không đồng ý, họ muốn 1 diễn viên thực thụ – một ngôi sao gạo cội bấy giờ chứ không phải “một gương mặt không tên tuổi với biểu cảm thiếu tự nhiên và giọng nói nực cười” – họ trả lời. (Những biến chứng mà mẹ ông gặp phải khi sinh hạ khiến cho phần trái cơ mặt của Stallone – bao gồm một phần môi, cằm và lưỡi – vĩnh viễn bị liệt. Đó là lý do tại sao khán giả thường thấy gương mặt ông có vẻ thiếu tự nhiên khi diễn và có cách nói với chiếc môi trễ xuống đặc trưng)

Và Stallone nhận lại kịch bản, ra về.

Một vài tuần sau, nhà làm phim gọi lại cho ông, họ nâng mức giá lên $250.000 – ông lại một lần nữa từ chối con số khổng lồ đó. Họ tiếp tục nâng giá lên $350.000. Ông TIẾP TỤC từ chối. Họ muốn kịch bản của ông, còn ông lại chỉ muốn mình là vai chính trong phim. Ông từ chối tiền khi tiền ở thời điểm đó là thứ ông thiếu, là nguyên nhân cho những bi kịch liên tiếp bấy giờ của ông. Tất cả nhờ một niềm tin bất tận và ước mơ cháy bỏng.

Cuối cùng, nhà làm phim nhượng bộ, họ đồng ý cho ông thủ vai chính với mức giá trả cho kịch bản phim giảm xuống còn $35.000.

Những ngày tháng sau đó làm nên huyền thoại!

Bản thân ông lao vào tập luyện không ngừng nghỉ trong khoảng nửa năm để có vóc dáng như một võ sĩ quyền Anh thực thụ. Đôi chân mỏi rã rời do tập chạy, những đốt ngón tay sưng vù do tập đấm… tất cả những đau đớn đó đều được Stallone chấp nhận hy sinh, VÌ MỘT ROCKY.

Bộ phim sau đó trở thành hiện tượng phòng vé, thu về tới 225 triệu USD trên toàn cầu và trở thành bộ phim ăn khách nhất năm 1976. Không chỉ thành công rực rỡ về mặt thương mại, tác phẩm này còn được đề cử 10 giải Oscar và chiến thắng ba giải (bao gồm cả “Phim hay nhất”). Nhân vật Rocky trở thành một biểu tượng văn hóa, một tấm gương về sự vươn lên và sau này còn được dựng tượng tại thành phố Philadelphia. Sylvester Stallone trở thành người đầu tiên kể từ hai huyền thoại Charlie Chaplin và Orson Welles được đề cử Oscar cho “Nam diễn viên chính” lẫn “Biên kịch”.

Và bạn biết điều đầu tiên Stallone làm với $35.000 tiền kịch bản là gì không? Ông đã tìm cách mua lại chú chó mà ông đã bán đi ngày nào. Tình yêu với người bạn ông từng gắn bó đã khiến ông đứng bên quán rượu trong 3 ngày chỉ để chờ đợi gặp người mà ông đã bán chú chó ấy. Đến ngày thứ 3, ông thấy người đàn ông và con chó của mình. Ông giải thích lý do và mong chuộc lại chú chó của mình với giá $100, người kia từ chối, ông nâng mức giá lên $500, rồi $1000… cuối cùng bạn tin không? Ông đã phải dùng $15.000 để mua lại chú chó ông từng bán chỉ với $25.

Và ngày nay, chúng ta biết đến 1 Stallone thành công, 1 huyền thoại phim hành động với quá khứ từng rơi vào bi kịch cùng cực.

Thông điệp từ cuộc đời ông: ĐỪNG BAO GIỜ đầu hàng số phận!

(Photo: Sylvester Stallone và người bạn mà ông ngưỡng mộ – Donald Trump)

Sưu tầm

Image may contain: 2 people, people smiling

Từ một cô bé nhặt rác đến nhận học bổng của Đại học Melbourne

Từ một cô bé nhặt rác đến nhận học bổng của Đại học Melbourne
(Ảnh: CCF)

Là một cô gái với xuất thân trong gia cảnh khó khăn, Sophy phải làm việc liên tục cả tuần ở bãi rác để giúp đỡ cha mẹ.

Công việc thường ngày của Sophy là ở bãi rác nhặt nhạnh những thứ có thể bán đồng nát và còn sử dụng được, em phải hít những khói bụi độc hại và mùi hôi thối từ bãi rác.

Ngay cả bữa ăn hàng ngày của cô bé cũng là những thức ăn thừa nhặt nhạnh ở bãi rác.

Từ một cô bé nhặt rác đến nhận học bổng của Đại học Melbourne
(Ảnh: CCF)

Nhờ vào Quỹ Trẻ em Campuchia (Cambodian Children’s Fund), một tổ chức phi lợi nhuận giúp các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nhất tại thủ đô Phnom Penh, từ đó Sophy có cơ hội vươn tới tương lai tươi sáng hơn và “thoát khỏi” bãi rác.

Những năm sau đó, Sophy theo học tại Trinity College thuộc Đại học Melbourne, Úc và tốt nghiệp thủ khoa, nhận được vinh dự đọc bài diễn văn trong ngày tốt nghiệp của mình.

Từ một cô bé nhặt rác đến nhận học bổng của Đại học Melbourne
Sophy trong lễ tốt nghiệp của mình (Ảnh: CCF)

Nhưng thành tựu mà Sophy đạt được càng nổi bật hơn khi người ta biết mãi tận đến năm 11 tuổi cô mới được đến trường.

Là sinh viên đầu tiên của Quỹ Trẻ em Campuchia (CCF), Sophy không chỉ truyền cảm hứng cho các bạn học đồng trang lứa bởi thành tích tốt nghiệp thuộc loại xuất sắc, mà còn là người giành được học bổng toàn phần của Đại học Melbourne danh tiếng, nơi giúp cô hoàn thành bằng cử nhân của mình trong thời gian sắp tới.

Từ một cô bé nhặt rác đến nhận học bổng của Đại học Melbourne
(Ảnh: CCF)

Tân SV Harvard Derrick Ngô: ‘Cần có mục tiêu và phải theo đuổi mục tiêu’

Tân SV Harvard Derrick Ngô: ‘Cần có mục tiêu và phải theo đuổi mục tiêu’

VOA


Sinh viên trung học Derrick Ngô, thành phố Houston, bang Texas.
Sinh viên trung học Derrick Ngô, thành phố Houston, bang Texas.

Bằng một giọng trầm buồn, nhưng ấm và vang, Derrick Ngô, thanh niên gốc Việt vừa được nhận vào trường Đại học Harvard, chia sẻ với VOA về câu chuyện vượt khó và ý chí phấn đấu kiên cường của anh.

Chàng trai vừa tốt nghiệp thủ khoa trường trung học Energy Institute High School ở thành phố Houston, bang Texas, nói: “Chúng ta cần phải có mục tiêu và tầm nhìn và phải kiên trì theo đuổi mục tiêu đó.”

Derrick nhớ lại thời thơ ấu đầy nghiệt ngã khi mẹ anh vướng vào vòng lao lý do cờ bạc năm anh lên 7.

“Gia đình tôi gặp nhiều trở ngại ngay khi tôi còn bé. Mẹ tôi nghiện đánh bạc nặng và vướng vào án tù do đó sự chăm sóc của người mẹ không hiện diện trong tuổi thơ của tôi. Tôi và chị em tôi luôn gặp nhiều rủi ro và sống bất an, thiếu vắng sự chăm sóc của đấng sinh thành.”

Derrick kể mẹ của anh trước đây sống ở thành phố Hồ Chí Minh và bà sang Hoa Kỳ định cư, sinh ra anh khi gia đình sống ở thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania năm 2001 và cho đến năm anh 3 tuổi thì gia đình chuyển xuống thành phố Houston.

Do cuộc sống bấp bênh, thiếu thốn và thường phải di chuyển, anh đã phải chuyển 10 trường khác nhau để hoàn thành bậc phổ thông.

“Sự giáo huấn của nhà trường có ảnh hưởng đến tôi nhiều hơn là từ mẹ,” anh nói thêm.

Sự giáo huấn của nhà trường có ảnh hưởng đến tôi nhiều hơn là từ mẹ.
Derrick Ngô

Cái nghèo, miếng cơm, và án tù liên tiếp của người mẹ bủa vây cuộc sống của anh học trò và các chị em cùng mẹ khác cha.

Derrick chia sẻ rằng anh đã ra một quyết định táo bạo là phải thoát ly khỏi gia đình để có thời gian dồn tâm trí vào việc học.

Năm 15 tuổi, Derrick sống tự lập, thỉnh thoảng lắm mới nhận được trợ cấp của mẹ. Nhưng cũng nhờ có sự hỗ trợ của mẹ mà anh có thể trang trải các chi phí chính cho các sinh hoạt cần thiết. Đến năm 17 tuổi, Derrick trở thành người vô gia cư, không còn nhận được sự trợ giúp từ mẹ do bà vừa mãn án tù này lại phải thụ án tù khác.

Lời tự bạch của Derrick Ngô trên trang Houston Food Bank.
Lời tự bạch của Derrick Ngô trên trang Houston Food Bank.

​Tính kỷ luật và lòng kiên nhẫn đã giúp Derrick bám lấy mục tiêu của chính mình.

Khi được hỏi về kinh nghiệm phấn đấu vượt khó, anh chia sẻ:

“Chúng ta cần phải có mục tiêu và tầm nhìn. Chỉ khi nào đặt ra được mục tiêu thì chúng ta mới thực hiện được điều mình muốn. Chúng ta phải kiên trì theo đuổi mục tiêu đó, thảo ra các bước và phương pháp để quyết đạt mục tiêu, biến mục tiêu thành hiện thực. Để làm được điều này phải có tính kỷ luật và kiên trì, không được bỏ cuộc. Nếu bạn bỏ cuộc thì những hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn cũng vuột mất.”

Chỉ khi nào đặt ra được mục tiêu thì chúng ta mới thực hiện được điều mình muốn. Chúng ta phải kiên trì theo đuổi mục tiêu đó.
Derrick Ngô

Hiện đang thực tập tại quỹ từ thiện Houston Food Bank, sinh viên 18 tuổi này cho biết anh sẽ bay đến trường Harvard ở thành phố Boston vào cuối tháng 8 này để bắt đầu nhập học. Anh đang chọn theo một trong hai ngành triết học hoặc kinh tế. Tuy chưa biết sẽ theo ngành nào, nhưng Derrick cho biết anh muốn trở thành một người có ảnh hưởng tích cực đối với người khác:

“Hiện giờ thì tôi chưa chọn ngành học, nhưng có thể chọn giữa kinh tế và triết học để tìm hiểu về những trải nghiệm của con người, những bài học giúp con người thoát nghèo.”

“Tôi nhận ra rằng nếu không biết tận dụng trường học, giáo dục và tất cả những gì mình có để học tập thì tôi sẽ mãi mãi không bao giờ thoát được hoàn cảnh hiện tại,” Derrick nói với đài truyền hình ABC.

Khi nói đến gia đình, anh Derrick không oán trách điều gì cả. Anh xem quá khứ nghiệt ngã là bệ phóng, là điểm tựa để hướng đến tương lai. Anh vẫn liên lạc với mẹ, chị và các em, dù không được thường xuyên.

Anh nhớ lời mẹ kể rằng anh mồ côi cha từ năm 2 tuổi, và hiện anh vẫn còn một người dì đang sống ở Việt Nam, nhưng không biết sống ở vùng nào. Anh nói anh nhất định sẽ về thăm quê hương Việt Nam.

httpv://www.youtube.com/watch?list=PL231429C17BE39E34&time_continue=5&v=xsr0ImxflJc

Học sinh gốc Việt vượt qua nghịch cảnh, vào Harvard (VOA)

Bạn sẽ làm gì nếu sớm mai thức dậy tứ chi hoàn toàn bị tê liệt

Bài học thấm thía tôi học được khi chứng kiến một người bỗng nhiên mất đi tất cả: Phàn nàn chỉ lãng phí năng lượng, cách phản ứng trước biến cố mới quyết định bạn hạnh phúc hay khổ đau

15-04-2019 –

Bạn sẽ làm gì nếu sớm mai thức dậy tứ chi hoàn toàn bị tê liệt. Liệu bạn có cảm thấy bất công hay không? Câu trả lời sẽ khiến bạn bất ngờ.

Khi 19 tuổi, tôi từng làm điều dưỡng viên tại khoa chấn thương tủy sống của bệnh viện địa phương (SCIU). Công việc của tôi là hỗ trợ các bệnh nhân làm những thứ mà họ không thể tự làm. Trong suốt 6 tháng, tôi nhận ra rằng mình trở nên khiêm tốn hơn trước những con người có ý chí mạnh mẽ nhất trên đời này. Một trong số đó là Ali, người tôi đã chăm sóc trong suốt 4 năm liền.

Bi kịch lớn nhất của Ali là một ngày cậu bỗng nhiên tỉnh dậy và phát hiện toàn thân bị tê liệt, không có cách nào cứu chữa. Tưởng như cuộc sống đã khép lại với chàng trai trẻ khi chỉ vài tuần nữa là Ali sẽ tốt nghiệp đại học. Thế nhưng, Ali chưa không hề oán trách số phận, mà luôn lạc quan, quan sát và tận hưởng từng chút thời gian còn lại của cuộc sống, dù đang nằm trên giường bệnh.

Suốt thời gian chăm sóc Ali, tôi nhận ra bản thân học được nhiều thứ từ sự chịu đựng của Ali với bệnh tật và cách Ali phản ứng với những nghịch cảnh diễn ra trong đời mình còn hơn những bài học trong trường lớp.

Ali đã dạy tôi những bài học vô giá: Cuộc sống không bao giờ công bằng, phàn nàn chỉ khiến năng lượng bị lãng phí. Cách bạn suy nghĩ và phản ứng trước những biến cố cuộc đời là thứ sẽ quyết định hạnh phúc hay khổ đau của bạn.

Đây là những bài học vô cùng thấm thía về cuộc sống mà tôi học được trong suốt thời gian chăm sóc Ali tại bệnh viện:

Suy nghĩ theo cách nào, bạn sẽ cảm nhận về cuộc sống như vậy

Khi rơi vào trạng thái mệt mỏi hay tức giận, điều chúng ta làm thường là tìm một ai đó để than phiền hoặc một lý do để bao biện. Nên nhớ rằng cảm nhận của bạn phụ thuộc vào cách nghĩ từ bên trong chứ không phải những yếu tố bên ngoài. Bài học ở đây chính là hãy điều khiển cảm xúc, đừng để hoàn cảnh điều khiến bạn.

Cách bạn đánh giá chính mình cũng là cách người khác nhìn nhận bạn

Trong lần gặp đầu tiên, mỗi người thường đưa ra một vài nhận xét mang quan điểm cá nhân về đối phương. Tuy nhiên, ấn tượng ban đầu đó không hoàn toàn chính xác khi bạn nhận ra họ không giống những gì bạn từng hình dung.

Chẳng hạn như khi gặp Ali, tôi nghĩ anh ta thật đáng thương, nhưng Ali không cho phép người khác thương hại mình. Vì suy nghĩ của bạn về bản thân sẽ được biểu lộ một cách khéo léo qua thái độ, ngôn ngữ và cử chỉ của bạn. Nên hãy nhớ, bạn nhìn nhận bản thân như thế nào cũng chính là cách người khác đánh giá về bạn.

Phàn nàn giống như tìm cách ra khỏi một cái hố bằng xẻng thay vì dùng thang

Phàn nàn là thói quen của hầu hết mọi người. Nhưng chắc chắn đó không phải là cách để thoát khỏi khó khăn và nó thường khiến bạn giậm chân tại chỗ. Dù tình hình có thảm hại đến mức nào, bạn luôn có quyền lựa chọn chống trả hay chấp nhận từ bỏ.

Trên thực tế, buồn bã là cách để thúc đẩy sự thay đổi, nhưng phàn nàn thì không. Hơn nữa, bạn không thể vừa cố gắng thay đổi và vừa phàn nàn cùng một lúc được.

Cuộc đời không phải là một sân chơi được thiết kế công bằng

Đã bao nhiêu lần bạn thốt lên “Cuộc sống thật không công bằng”. Tại sao cuộc sống cần phải công bằng? Khái niệm này có phát huy sự sáng tạo, có tạo điều kiện phát triển, tái tạo con người không?

Thật ra, công bằng chỉ là quan điểm mang tính chủ quan và mỗi người mỗi khác, Ali và những người giống anh vẫn tin rằng cuộc đời không hề bất công với họ, và tiến lên phía trước dù gặp nhiều chông gai.

Vậy nên, thay vì dán nhãn mọi thứ bằng cái mác công bằng, hãy coi các sự kiện xảy ra như một cơ hội để học hỏi và phát triển.

Từ bỏ hay đương đầu là lựa chọn của bạn

Ali có quyền từ bỏ nhưng anh ấy không làm thế. Đó là lí do anh ấy trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều người trong đó có tôi. Khi khó khăn bủa vây, thật dễ dàng để đánh mất tầm quan trọng của việc chọn không bỏ cuộc.

Quan điểm của tôi là khi bạn muốn tiếp tục đương đầu, hãy tự hào về điều đó, về cách bạn hiên ngang tiến về phía trước khi nhiều người khác phải bước lùi lại.

Thử thách càng lớn, cơ hội càng tuyệt vời

Bài học giá trị nhất của tôi ở SCIU là thay vì bỏ thời gian và công sức để tránh né thương tổn, mỗi người hãy tự mình bơi vào giữa vòng xoáy và cảm nhận hoàn toàn về nó. Để được công nhận tốt nghiệp, chúng ta bắt buộc phải đạt điểm A ở hai bài học “thách thức” và “bất mãn”. Vì những thử thách kinh hoàng nhất thường mang đến cơ hội tuyệt vời nhất.

Những kỉ niệm về Ali luôn nhắc nhở rằng: Chẳng có lí do gì để phàn nàn về cuộc sống này. Những bài học sâu sắc nhất về lòng can đảm, sức mạnh và phẩm giá sẽ không đến khi bạn cảm thấy thoải mái. Bạn sẽ chỉ học được chúng khi phải trải qua những biến cố, nghịch cảnh lớn nhất của cuộc đời. Những điều mà bạn cho là “bất công” xảy đến trong đời lại chính là một bước đệm giúp xác định ta thật sự là ai.

*Theo chia sẻ của Thomas Koulopoulos, nhà sáng lập Delphi Group trên INC.com

Hà Lê.

Image may contain: 1 person, flower, plant and text
Image may contain: one or more people and text
Image may contain: one or more people, coffee cup and text