Con đưa mẹ con về nhà lo hậu sự đi .Truyen ngan

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

  Chị gần 60 tuổi, bị υпg thư đã phẫu thuật, đang chạy thận định kỳ. Chị còn bị suy tiм nặng. Quê tận Sóc Trăng, chồng mất sớm, chị và đứa con trai lưu lạc đến tận Bình Dương để con đi làm thuê, mẹ đi chạy thận…

Cuộc sống của chị mong manh. Không biết chấm dứt khi nào. Chị chạy thận suốt 2 năm mà luôn đi về một mình, vì con trai phải lo bươn chải kiếm tiền lo cho mẹ…

Sáng nay, chị trở nặng và ra đi. May mà điện thoại của chị không cài mật khẩu, nên gọi ngay được đứa con trai vào.

Thằng nhỏ khoảng hai mươi tuổi, gầy gò, lam lũ, ánh mắt đau khổ, run run hỏi tôi:

– Giờ con làm sao hả bác sĩ ?

Con đưa mẹ con về nhà lo hậu sự đi. Để cô làm giấy tờ và lo xe bệпh viện cho con.

– Con không còn nhà để về, bác sĩ à..

– Vậy còn ai bà con không?

Thằng bé gọi điện thoại cho bà dì ruột. Xong, nó lắp bắp nói với tôi:

– Bác sĩ nói chuyện với dì của con.

Sau khi nghe hết câu chuyện, cô em gái trả lời:

– Bác sĩ thông cảm, lâu nay chị tui không liên lạc…

Có nghĩa là khốn cùng, khốn khổ cho chị. Có nghĩa là không còn chỗ nào, dù ở quê nhà, để trở về…

May sao, bác sĩ H, trưởng khoa cấp cứu liên lạc được tổ chức mai táng thiện nguyện 0 đồng, lo hỏa táng miễn phí cho chị. Khoa thận và bệпh nhân gom góp một ít tiền cho thằng bé…

Sáng, chị còn bước vô khoa thận nhân tạo; chiều, chị đã hóa thành tro bụi. Chị an nghỉ nha chị. Chị phù hộ cho thằng con côi cút của chị nha chị….


 

“Dù xấu hay tốt ổng cũng là cha của mình”- Truyen ngan HAY

Chi NguyenNhững Câu Chuyện Thú Vị

 -Sáng nay một bệnh nhân nam 50 tuổi, làm ruộng đến khám bệnh xin thử mỗi đường huyết. Mình mới hỏi :

– Sao chú muốn thử đường huyết?

– Vì tôi sụt cân nhanh, người ta nói do bệnh tiểu đường.

– Đã bỏ công từ quê lên đây, sao chú không khám tổng quát luôn? Giả sử thử máu có kết quả bị đái tháo đường thì cũng phải xem chức năng gan, chức năng thận, và đánh giá biến chứng mới điều trị được chứ.

Mình vừa giải thích vừa nhìn bệnh nhân, và mình hiểu vẻ ngập ngừng đắn đo ấy, có lẽ bệnh nhân nghèo.

– Dạ, thử hết mấy thứ đó bao nhiêu bác sĩ?

– Bệnh viện công giá rẻ lắm. Chú đi thử đi.

Khi mình cầm kết quả phim phổi trên tay, tự nhiên mình nghẹn lời. Dù rằng mỗi ngày mình tiếp xúc với rất nhiều bệnh nhân với đủ loại bệnh tật khác nhau.

– Chú hút thuốc nhiều không?

– Cỡ 1 gói 1 ngày. Bữa nào buồn hút nhiều hơn.

– Chú uống rượu nhiều không?

– Mỗi ngày, nhưng chủ yếu vui chơi với anh em, người vài xị.

– Chú có vợ con gì không?

– Dạ, một vợ, 3 con. Nhưng nhà có vài công ruộng, nên tụi nó bỏ lên Bình Dương làm công nhân hết rồi.

– Cháu nghĩ chú nên qua khám bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

– Tôi bị lao hả bác sĩ.

– Cháu cũng hy vọng là lao. Nhưng ….

– Bác sĩ cứ nói đại đi. Tôi ở quê lên khám bệnh cực lắm.

– Cháu cũng nghĩ đây là khối u. Nhưng chú biết đó, có u lành u ác. Mà u ác bây giờ có thể trị được.

– Ý bác sĩ là ung thư phổi hả?

– Chưa chắc đâu. Phải làm thêm xét nghiệm, sinh thiết … mới có thể kết luận..

….Một khoãng im lặng kéo dài. Mình nhìn khuôn mặt bệnh nhân từ trắng bệch chuyển sang tím tái và khoãng 15 phút sau mới trở lại như bình thường.

– Ung thư phổi thì sống được bao lâu bác sĩ?

– Chưa chắc đây là ung thư. Nhưng nếu là ung thư thì có thể vài tháng, vài năm… Tuỳ vào cơ địa mỗi người, tuỳ vào đáp ứng điều trị.

– Tại sao lại là tôi chứ?

– Tại sao không là chú?

– Tại ….

….Lại một khoãng im lặng kéo dài. Mình không nỡ mời bệnh nhân kế tiếp dù sáng thứ hai rất đông.

– Tôi về bỏ thuốc lá và rượu có thể cứu vãn được không?

– Cháu nghĩ, bỏ được thì tốt. Nhưng bây giờ việc này không còn ý nghĩa nữa rồi.

Mình vẫn hay tự hỏi : Rượu bia và thuốc lá có điều gì hấp dẫn đến vậy, nhưng không có câu trả lời.

Lúc trước mình còn ngạc nhiên khi thấy Việt Nam là nước tiêu thụ rượu bia và thuốc lá lớn nhất thế giới, bây giờ thì mình không còn ngạc nhiên nữa. Vì đã hiểu một phần. “Vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, không vui không buồn cũng nhậu”, hình như rất đúng khi mô tả con người Việt Nam. Mỗi chiều tối đi làm về thấy quán nhậu nào cũng đông nghẹt khách. Hết chén chú rồi đến chén anh.

Rồi một ngày nào đó bệnh tật kéo đến. Có những bệnh có thể chữa lành, có những bệnh tiền mất rất nhiều nhưng không thể cứu vãn. Dù vẫn biết ung thư là “trời kêu ai nấy dạ”, nhưng mình không tin là mỗi ngày mình sống không tác động gì đến nó. Bạn thử nhìn xem, một người béo phì, ăn nhiều lười tập thể dục…làm sao mà không đủ thứ bệnh về chuyển hoá, một người suốt ngày hút thuốc uống rượu làm sao tránh khỏi ung thư phổi, xơ gan? May mắn lắm cơ địa người đó đặc biệt.

– Bây giờ tôi phải làm sao?

– Bây giờ cháu cho thuốc tiểu đường cho chú, còn bệnh phổi chú phải qua bên Phạm Ngọc Thạch, bên đó chuyên hơn.

– Bác sĩ có thể nói cho tôi biết, tôi có thể sống bao lâu nữa không để tôi thu xếp nhà cửa.

– Cháu nói thật, không dám chắc chắn về điều gì. Có những thứ hôm nay đúng, ngày mai lại sai. Có những thứ ngỡ là phước nhưng lại là hoạ. Điều quan trọng bây giờ không phải là chú sống bao lâu, mà sống có thật sự sâu hay chưa?

– Sống thật sâu?

– Đúng rồi. Chú còn rất nhiều thời gian để suy nghĩ về điều đó. Ví dụ như có bao giờ chú đến quỳ bên gối mẹ của chú và thì thầm lời cám ơn? Ví dụ như có bao giờ chú chở ba chú qua con đường làng nơi ngày xưa ba chú dẫn chú đi học? Ví dụ như có bao giờ chú cám ơn người vợ rất mực dịu hiền và chung thuỷ đã đi với chú gần ấy năm mà không một tiếng than van dù chú nát rượu và nghiện khói thuốc?

– Bác sĩ … Tôi … Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó.

– Chú có bao giờ quan tâm đến những đứa con mình? Chú có nghĩ rằng một lời hỏi han của chú thôi đủ làm họ hạnh phúc?

– Ơ …

– Vậy đó, sống sâu là sống với những điều nhỏ bé đơn giản như thế đó. Cuộc sống vô thường và con người ai mà không có bệnh có tử. Sau giai đoạn choáng rồi, chú sẽ chấp nhận được thôi. Từ chấp nhận đến quay lại nhìn về chính mình gần trong gang tấc.

– Cám ơn bác sĩ.

—  —

– Chú ấy là gì của anh?

– Cha ruột.

– Anh có hay đưa chú đi khám bệnh không?

– Bận lắm bác sĩ ơi, với lại ở xa nhau.

– Anh có biết ba anh bị ung thư phổi?

– Dạ….

– Ông ấy hút thuốc nhiều lắm không?

– Chẳng những hút thuốc còn uống rượu. Mỗi khi say sỉn về là đập phá nhà cửa chửi bới vợ con…. Tôi nói thiệt từ nhỏ đến giờ ổng chưa dạy tôi bất cứ điều gì. Anh em tôi chẳng được đi học….

– Anh có hận chú không?

– Không.

– Sao không?

– Dạ, dù xấu hay tốt ổng cũng là cha mình mà bác sĩ. Đúng hay sai đâu có lỗi do ổng, tại ông bà hay môi trường sống nó thế..

..Mình bất ngờ trước cách trả lời của người con, khi mình mời bệnh nhân ra ngoài để gặp riêng. Anh ta làm công nhân, chắc chắn là ít học. Nhưng học chữ cho nhiều vào làm gì, bằng cấp tiến sĩ giáo sư làm chi mà không biết quan tâm yêu thương cha mẹ già, không biết sống sao cho có tình có nghĩa.

– Bệnh này điều trị tốn kém lắm. Về mua bảo hiểm gấp đi. Được đồng nào hay đồng đó.

– Dạ.

Nhìn hai cha con bước ra khỏi phòng khám mà lòng mình chùng xuống. Mình mong có phép lạ xảy ra, bởi một người con chí hiếu không bao giờ cuộc sống lại làm ngơ.

-“Dù xấu hay tốt ổng cũng là cha của mình”

Câu nói ấy theo đuổi mình tới tận giờ này!

Bài và ảnh sưu tầm


 

Quên đi ngày tháng cũ – Truyện ngắn HAY

Tu Le

Tôi sinh ra là một người con gái con nhà nghèo. Bố tôi mất sớm lúc tôi chưa được 8 tuổi, mẹ tôi phải đi ở đợ cho một gia đình giàu có. Công việc hàng ngày của mẹ tôi là dọn dẹp nhà cửa, đi chợ và nấu ăn cho nhà bà Đạm, một thương gia, chồng chết, có 2 người con, một trai và một gái. Con gái bà tên Minh Thư bằng tuổi tôi, có lẽ vì lý do này mà bà Đạm đã mướn mẹ tôi để có người chơi với con gái bà. Con trai bà tên Thuấn hơn tôi 7 tuổi.

  Tôi được đi học cùng với Minh Thư, chúng tôi chơi thân với nhau khiến bà Đạm rất vui mừng và đối xử tử tế với mẹ con tôi. Tôi được biết trước đây bà Đạm có mướn một người làm nhưng Minh Thư không thích chơi với người con gái nên đã bị cho nghỉ việc.

  Thuấn thương em gái nên tôi được thương lây. Thuấn thường hay đưa chúng tôi đi chơi, đi coi hát và chỉ dẫn cho chúng tôi làm bài ở trường. Thuấn che chở cho tôi và bênh vực tôi mỗi khi bị những đứa trẻ khác bắt nạt. Có lần chơi ở sân tôi bị té ngã, Thuấn ôm tôi vào lòng và an ủi tôi: “Em bé ngoan đừng khóc nữa anh thương”. Tôi cảm động muốn trào nước mắt. Thuấn vuốt nhẹ  mái tóc tôi và lau nước mắt cho tôi . Chàng bảo “Ngân Khánh phải cười trông mới đẹp”. Được Thuấn khen đẹp tôi thích và cười với chàng. Thuấn ôm chặt tôi một lần nữa rồi mới buông ra. Tuy mới 12 tuổi nhưng tôi mơ hồ hình như có một cảm giác là lạ, hay hay. Tôi mong té ngã một lần nữa để được Thuấn ôm tôi và lau nước mắt cho tôi… Tôi buồn nhất là ngày Thuấn phải ở nội trú trong trường Đại học. Tôi bắt đầu nhớ Thuấn. Mỗi cuối tuần tôi đứng ở cửa đợi Thuấn về và cứ như thế năm này qua năm khác rồi chúng tôi đã yêu nhau lúc nào tôi cũng không biết. Khi tôi học xong bậc Trung học thì Thuấn tốt nghiệp bác sĩ y khoa. Tôi yêu Thuấn, một tình yêu chân thật, trọn vẹn chứ không bao giờ dám có ý định làm vợ Thuấn vì hai gia đình quá cách biệt, mặc dù Thuấn có nói với tôi là Thuấn sẽ cưới tôi làm vợ. Tôi tin tưởng ở Thuấn nhưng làm sao bà Đạm có thể chấp nhận mẹ tôi thông gia với bà. Tuy biết như thế nhưng chúng tôi vẫn yêu nhau say đắm và không thể rời xa nhau được.

Bà Đạm là một người đàn bà tốt nhưng rất cương quyết và thẳng thắn. Hình như bà đã biết được chuyện hai chúng tôi yêu nhau và chuyện Thuấn muốn cưới tôi làm vợ.  Một hôm đợi Thuấn và Minh Thư đi vắng bà Đạm gọi hai mẹ con tôi lại và nói rất ôn tồn: “ Con gái chị Tư đã lớn nên ở đây bất tiện. Mặc dù tôi và hai con tôi rất quý hai mẹ con chị nhưng tôi vẫn phải cho chị nghỉ việc. Trai gái không nên để chúng nó gần nhau. Trong vòng một tuần chị tìm nơi khác để dọn ra. Tôi cho chị 6 tháng đủ tiền ăn ở, sau đó mẹ con chị có thể tự túc được. Tôi chỉ yêu cầu chị và cháu hứa với tôi một điều là không cho hai con tôi biết gì hết và không bao giờ được liên lạc với chúng nữa. Chị cứ sẵn sàng rồi đợi hôm nào hai con tôi không ở nhà thì dọn ra…”. Tôi quá bất ngờ và sửng sốt. Tim tôi ngừng đập, mặt tôi tái đi. Bà Đạm nhìn hai mẹ con tôi như ra lệnh. Tôi thấy bà thật nghiêm nghị. Gần 10 năm sống trong nhà bà, lần đầu tiên tôi thấy nơi bà đáng sợ như vậy. Mẹ tôi cũng sợ bà và nói trong nghẹn ngào: “Tôi xin hứa và sẽ làm theo lời bà”. Bà Đạm gật đầu như để chấp nhận lời hứa của mẹ tôi. Bà nhìn sang phía tôi. Lúc này nước mắt tôi đã trào ra. Tôi nghĩ đến ngày phải xa Thuấn, xa Minh Thư, xa mái nhà thân yêu với bao kỷ niệm thời niên thiếu mà tôi đã quên đi tưởng như nhà mình. Không thấy tôi nói gì, mẹ tôi nắm chặt tay tôi và lắc nhẹ. Bà Đạm nhướng mắt lên ra lệnh. Tôi nói trong nghẹn ngào: “Cháu xin hứa sẽ làm theo lới bà ”.

  Bốn hôm sau Thuấn và Minh Thư đi vắng, mẹ con tôi dọn ra khỏi nhà bà Đạm. Trước khi lên xe tôi nhìn ngôi nhà một lần cuối lòng không khỏi bùi ngùi.  Nơi đây như một mái ấm gia đình trong thời niên thiếu, có bao nhiêu kỷ niệm, có mối tình đầu. Tôi bước đi nhưng đôi chân như hụt hẫng. Tôi thương tôi nhưng nhìn mẹ sụt sùi lau nước mắt tôi càng thương mẹ hơn. Thuấn ơi! Từ nay em sẽ phải xa anh, vĩnh viễn xa anh. Vì danh dự, vì giữ lời hứa với bà Đạm em không thể nào gặp lại anh được. Mối tình em với anh tưởng là thần tiên, bây giờ đây mỗi người một ngả. Anh biết gia đình em quá nghèo sao anh lại còn yêu em, sao anh lại muốn cưới em làm vợ để em phải xa anh… Đứng ở cửa tần ngần một lúc rồi mẹ con tôi lên xe để  đến ở chung nhà với bà bán rau muống ngoài chợ mà mẹ tôi đã quen vì hay mua rau của bà. Cuộc sống của mẹ con tôi hoàn toàn thay đổi. Bao nhiêu mộng đẹp của thời con gái đã tan theo mây khói. Tôi đang dự định thi vào một trường chuyên nghiệp nào đó để giúp đỡ mẹ tôi, nhưng không may chuyện xảy ra quá bất ngờ, tôi không kịp xoay xở gì nữa. Tôi phải xin đi làm thư ký cho một hãng bào chế thuốc Tây.  Nhìn những chuyên viên mặc áo trắng đi qua lại, tôi liên tưởng tới Thuấn trong bộ đồ bác sĩ y khoa, lòng tôi không khỏi xót xa. Tôi không bao giờ được gặp chàng nữa.  

  Mẹ tôi từ ngày dọn ra ngoài ở thì sức khỏe đã suy yếu nên không còn làm được gì nữa ngoài việc nấu ăn. Mẹ tôi nấu ăn ngon lắm. Nếu mẹ tôi còn trẻ bà đã mở một quán ăn. Gần 10 năm nấu ăn, cả nhà bà Đạm mọi người đều thích. Thuấn, con trai bà  Đạm đã nói với mẹ : “Con đã đi ăn tiệc ở nhiều nơi nhưng không ăn ở đâu ngon bằng ăn ở nhà do bà Tư nấu” . Nào là món gỏi gà bắp cải thêm chút rau răm, đậu phộng rang rắc lên trên. Rau muống xào tỏi hoặc xào với thịt bò, rồi món rau muống trộn với mắm tôm vắt chanh, thêm ít ngò gai, kinh giới và đậu phộng rang, có khi mẹ tôi cho thêm tép hay thịt thái nhỏ. Món nộm hoa chuối mẹ tôi gọi là nham hoa chuối cũng rất ngon. Cuối tuần mẹ tôi hay nấu bún riêu, bún ốc hoặc canh chua… món nào cũng đặc biệt. Nay mẹ con tôi đi rồi Thuấn không được ăn những món mà chàng thích nữa. Càng nghĩ tôi lại càng thương chàng. Anh ơi mẹ em đi rồi ai nấu cho anh ăn những món mà anh thích. Em đã học ở mẹ một vài món, dự định sẽ nấu cho anh ăn nhưng em chưa kịp làm thì đã phải xa anh. Xa anh em không được nói câu từ giã. Anh có trách em vô tình em cũng xin đành mang.

           “Ngày đi lặng lẽ không từ giã

           Cất bước âm thầm thương nhớ thôi”

 Hai câu thơ của NT đã áp dụng với tôi bây giờ thấy đúng làm sao.

Nếu một ngày kia tình cờ gặp lại anh hay Minh Thư em sẽ phải trả lời ra sao. Em có được nói sự thật là vì chúng mình yêu nhau  nên mẹ anh đuổi mẹ con em không? Đầu óc tôi rối loạn, tôi không tìm được câu trả lời. Chắc tôi không nói thế được. Tôi không oán trách gì bà Đạm, nếu là tôi liệu tôi có làm khác bà được không ? Bà Đạm là người đàn bà có thế lực, làm sao bà có thể thông gia với mẹ tôi, một tôi tớ trong nhà mà bạn bè, khách khứa ai cũng biết. Tuy buồn nhưng tôi cũng thông cảm với bà. Mẹ tôi cũng biết thân phận mình nên không hề oán trách bà Đạm. Đôi lúc tôi tự trách tôi, làm sao tôi dám với quá cao để giờ bị té đau, nhưng rồi tôi lại bênh vược cho chính tôi. Người con trai như Thuấn làm sao tôi không yêu được. Thuấn có đầy đủ mọi điều kiện, người con gái mới lớn như tôi sao không ngã lòng. Con tim có những lý do riêng của nó, người ta vẫn nói thế.      

  Nhưng nếu chỉ yêu nhau rồi xa nhau thì cũng là sự thường tình của thế nhân, hợp để rồi tan, Trên đời này có biết bao nhiêu mối tình chia ly bằng nước mắt. Nhưng tôi đã yếu đuối, không làm chủ được thân xác tôi và đã dâng hiến trọn vẹn đời con gái của tôi cho Thuấn. Hai tháng nay tôi không thấy có kinh nguyệt, cơ thể tôi bắt đầu thay đổi, ngực tôi căng phồng thêm, tôi bắt đầu lo sợ. Tôi đi thử nghiệm và được biết tôi đã mang thai. Tôi đắn đo nhưng rồi cũng phải thú nhận với mẹ. Mẹ tôi không la mắng như tôi nghĩ, bà chỉ khuyên tôi cố gắng giữ gìn sức khoẻ cho cái thai được tốt. Mẹ tôi cũng nghĩ như tôi là vì danh dự và giữ lời hứa nên không cho Thuấn biết tôi đã có thai với chàng. Tôi thấy mẹ tôi buồn, tôi hỏi là mẹ có trách vì tôi mà bà Đạm đuổi mẹ con tôi không thì mẹ tôi trả lời là bà không trách nhưng thương tôi, tội nghiệp cho tôi. Bà biết trai gái mà để sống chung với nhau trong nhà thì chuyện gì rồi cũng sẽ phải xảy ra, nhưng bà chưa kịp khuyên bảo tôi.

  Tôi mang thai được gần 9 tháng thì mẹ tôi qua đời. Buổi tối mẹ tôi nói bà bị nhức đầu, tôi lấy thuốc cho mẹ uống và nửa đêm thì mẹ tôi ra đi. Bà ra đi bình yên, lặng lẽ, buồn thảm như cuộc đời mẹ,  Tôi không ngờ mẹ tôi chết dễ dàng quá. Tôi đau buồn và đã ngất xỉu đi, không còn biết gì nữa…

  Sau năm ngày ở trong bệnh viện, tôi tỉnh lại và đã nhận thức được. Sờ tay lên bụng thấy bụng  đã xẹp xuống biết là tôi đã sinh nhưng không biết đứa bé giờ ra sao. Đợi người y tá đến gần tôi hỏi thăm về con tôi. Người y tá trả lời: “Bác sĩ thấy không có hy vọng cứu sống cô nên đã mổ để lấy cháu bé ra. Cháu rất khỏe mạnh. Không biết cô có đủ sức để nuôi nấng con không.  Cháu là con gái, mặt mày sáng sủa lắm. Rất mừng cô bình phục trở lại, đó cũng là nhờ 3 vị bác sĩ đã tận tình chữa trị, các vị ấy tử tế với cô lắm, coi cô như người nhà …”. Một giờ sau người y tá mang con đến đưa tôi bế và nói : “Cho cháu ở đây với cô một lúc rồi tôi đưa cháu trở lại phòng để cô nghỉ vì vết mổ chưa lành”. Nhìn thấy con, tôi hết sức vui mừng, sao tôi thấy nó thân thương gần gũi quá. Có nhà văn đã nói: “Đứa con là tác phẩm vĩ đại nhất trong số những tác phẩm mà tôi có”. Nhưng vừa vui tôi chợt buồn ngay. Tôi chỉ có một thân một mình làm sao có thể nuôi được con. Tôi lại phải đi ở đợ như mẹ tôi ngày xưa. Nhưng mẹ tôi còn có người  mướn chứ tôi đứa con còn đỏ hoẻn ai chịu cho làm. Hay tôi nhờ người báo cho Thuấn biết. Tôi vội xua đuổi ý nghĩ này, vì tự trọng, vì danh dự của hai mẹ con, tôi không thể liên lạc với gia đình bà Đạm được nữa. Người y tá đến mang con tôi trở lại phòng dưỡng nhi, nước mắt tôi trào ra…    

  Tôi khai ở bệnh viện là chồng tôi đi lính chết bây giờ chỉ có mình tôi, không có thân nhân, không bạn bè, mẹ tôi mới chết hôm tôi vào đây. Hoàn cảnh của tôi đa số các nhân viên đều biết, họ nói chuyện với nhau tôi nghe được: “Cô ta còn trẻ và xinh đẹp quá, tội nghiệp chồng bị chết sớm”. Mấy hôm sau ông chủ sự phòng hành chánh của bệnh viện đến bên tôi và nói: “Tôi xin lỗi đã đi vào đời tư của cô và có thể làm cô buồn, nhưng trong hồ sơ tôi thấy hoàn cảnh cô thật khó khăn. Chúng tôi rất ái ngại không biết khi xuất viện cô ở đâu và làm sao nuôi được con, lúc đó cô cũng phải đem cho hoặc bỏ vào viện mồ côi và người nhận nuôi con cô không biết họ thế nào, có được tốt không, rồi lại tội nghiệp đứa bé…

Tôi có quen hai ông bà này rất giàu và tử tế, họ lấy nhau trên 16 năm mà không có con, đang có ý định tìm nuôi một đứa con nuôi, nếu cô đồng ý cho họ nuôi tôi sẽ nói với người ta. Cô suy nghĩ rồi cho tôi biết”. Tôi quá đau buồn, mới gặp con vài lần giờ sắp phải xa nhau. Ông chủ sự nói đúng, tôi không đủ phương tiện để nuôi con. Biết bao người hoàn cảnh như tôi đã phải bỏ con ngoài đường, bỏ  vào cổng chùa, viện mồ côi… Nếu con tôi có được người tử tế nuôi cũng là điều may cho nó. Đi ở với người ta cuộc đời nó có thể khá hơn là ở với tôi. Tôi đã làm khổ con tôi rồi, nó không có tội gì để phải khổ thêm nữa. Tôi không thể ích kỷ giữ mãi con bên tôi. Nghèo là khổ lắm. Tôi với Thuấn yêu nhau chỉ vì tôi nghèo mà phải xa nhau. Thuấn ơi! Chỉ vì nghèo mà em phải xa anh, chỉ vì em nghèo mà chúng ta phải xa con chúng ta.

  Tôi trả lời ông chủ sự là tôi muốn được gặp bố mẹ nuôi của con tôi. Hôm sau hai người này tới. Đúng như ông chủ sự nói, nhìn hai ông bà rất phúc hậu khiến tôi yên tâm. Người chồng hỏi tôi có yêu cầu điều gì không, tôi nói tôi chỉ mong có con và đặt tên là Thuận Khanh (tức là gần tên Thuấn và tên tôi), nhưng nay tôi không còn cái quyền này nữa. Người chồng ôm vai vợ cười lớn: Em tên Thuận, cô ấy tên Khánh. Một bên mẹ nuôi, một bên mẹ đẻ, đúng là trời đã xếp đặt, sau này cháu bé sẽ gặp nhiều may mắn lắm. Chúng tôi bằng lòng với lời ước nguyện của cô. Cô còn yêu cầu điều gì nữa không? Tôi lắc đầu không nói ra lời…

Buổi chiều ông chủ sự gặp tôi để cho biết lúc tôi xuất viện thì họ mang con tôi đi. Ông còn nói thêm là ông bà này rất mừng khi thấy tôi không đề cập đến tiền bạc, chỉ lo đặt tên cho con chứng tỏ tôi trọng tinh thần chứ không phải vật chất, như vậy gốc đứa bé rất tốt. Cô lại rất xinh đẹp, họ hy vọng con họ sau này cũng sẽ đẹp như cô.

Ngày cuối cùng tôi được bế con tôi một giờ. Tôi ôm chặt con tôi trong lòng như giữ gìn một báu vật, tôi không muốn rời xa nó nữa, nhưng vì chữ tín tôi không thể nào đổi ý được. Nước mắt tôi trào ra, ai nhìn thấy cảnh chia ly này cũng phải ngậm ngùi. Dù đã quá giờ người y tá không nỡ lấy đứa bé ra khỏi tay tôi. Tôi ghì chặt con tôi vào lòng và đặt chiếc hôn lên má con rồi đưa cho người y tá. Đích thân ông chủ sự trao tôi một túi vải lớn, nói tôi nên giữ cẩn thận vì đây là số tiền khá nhiều do bố mẹ nuôi đứa bé đưa, đủ cho tôi ăn ở  4, 5 tháng như là để cảm ơn tôi chứ không có ý mua bán gì đâu. Tôi nói lời cảm ơn ông chủ sự cùng bác sĩ và các nhân viên trong nhà thương rồi ra về.    

  Tôi thuê xe đến thẳng nhà bà bán rau muống. Khi đến nơi tôi không gặp bà và thấy có người lạ ở trong. Tôi hỏi thì được biết vì có người chết nên bà bán rau sợ hãi và đã bỏ đi. Người thuê nhà mới con cái đông và giá thuê rẻ nên đã dọn vào. Tôi ra ngoài đường và phân vân không biết đi đâu, chợt một chiếc xe Honda dừng trước mặt, tôi nhận ra chị bạn làm chung hãng với tôi khi trước. Sau khi hỏi han chị biết chuyện nên đã thương tình rủ tôi về nhà ở chung với chị. Trong khi đó những người trong hãng họ không biết lại tưởng tôi đã theo chồng đi ngoại quốc.  

            “Hãy cố yêu người mà sống, lâu rồi đời mình cũng qua…”  

      Lời ca của bản nhạc trong “Bài không tên số 5” đã thức tỉnh tôi phải can đảm và cố gắng chịu đựng.

  Mấy tháng sau nhờ có người chỉ dẫn tôi tìm được mộ mẹ và thắp nén hương lên mộ bà. Thời gian này tình hình Sài Gòn  ngày càng giao động và biến cố tháng Tư năm 1975 xảy ra. Tôi theo đoàn người ra bến Bạch Đằng, sao may tôi lên được tàu và sang tới Hoa Kỳ, định cư tại tiểu bang California. Tôi cố gắng lập lại cuộc đời, vừa đi làm vừa đi học. Sau một năm bổ túc Anh văn tôi ghi danh vào Đại học, 4 năm tôi ra trường về ngành kỹ sư điện tử, rồi tôi lập gia đình với một nha sĩ giàu có. Tôi đi khám răng và gặp chồng tôi. Chồng tôi hơn tôi 11 tuổi, góa vợ và có một con trai.  Chúng tôi lấy nhau được gần 14 năm. Chồng tôi mới qua đời cách nay 3 năm. Tôi tiếp tục vừa làm chủ trung tâm nha khoa cũ của chồng tôi vừa đi làm cho công ty điện tử.  Đời sống tuy có bận rộn nhưng vật chất rất đầy đủ vì có hai nguồn lợi tức. Tôi nghĩ đến thời gian nghèo khổ khi xưa, nhớ đến mẹ và đứa con gái riêng lòng không khỏi xót xa. Tôi đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không biết được con tôi bây giờ ra sao, còn ở lại Việt Nam hay đã qua Mỹ? Tôi có nhờ hội Hồng Thập Tự tìm kiếm nhưng không ra. Tôi ngày đêm cầu nguyện để được gặp con gái tôi…

  Tôi đi khám định kỳ hàng năm và được giới thiệu đến bác sĩ Nguyễn Trọng Toản chuyên về tim mạch. Nghe tên bác sĩ tôi chợt nhớ ra vị bác sĩ đã cứu sống tôi ở bệnh viện Việt Nam khi xưa. Sau khi khám bệnh và cho thuốc, tôi nói với bác sĩ Toản chính tôi là người được bác sĩ  chữa trị gần 25 năm về trước.. Nhận ra tôi vị bác sĩ này mừng lắm. Cũng may tôi là người khách cuối cùng nên ông đã có nhiều thì giờ nói chuyện với tôi. Bác sĩ Toản cho tôi biết cách đây 2 năm trong cuộc họp mặt của hội y sĩ toàn quốc tại Texas ông có gặp Thuấn, người tình cũ của tôi. Nghe tên Thuấn tôi lặng người đi nhưng cố giữ bình tĩnh để nghe kể: “Thuấn với tôi học cùng lớp với nhau nhưng không thân. Tôi có gặp chị đi chơi với Thuấn vài lần nên nhớ. Tôi chữa trị cho chị và nghĩ Thuấn bỏ rơi chị, nên tôi tránh không muốn nói gì với ai, ngay cả lúc chị sinh đẻ trong bệnh viện cũng vậy.

Kỳ vừa qua gặp nhau ở Texas tự nhiên Thuấn tâm sự với tôi là Thuấn yêu chị lắm nhưng bị bà mẹ ngăn cản và không có cách nào gặp được chị. Sau khi chị đi rồi Thuấn giận mẹ nên không chịu lấy vợ, mãi  sau thấy bà cụ quá buồn nên Thuấn mới lập gia đình. Đến nay Thuấn vẫn không có con và vợ chồng đã ly dị vì không hợp nhau. Nghe tôi nói chị đã có thai với Thuấn và chính tôi chữa trị cho chị, Thuấn xúc động lắm. Thuấn thương chị và thương đứa con của anh chị phải đi làm con nuôi người ta, không biết giờ này ra sao. Mẹ Thuấn biết tin cũng buồn lắm,  bà đã hối hận cho hành động của bà để đứa cháu duy nhất bị bỏ rơi, nay bà đã trên 80 tuổi vẫn chưa có cháu bế…”.  Nghe lại chuyện xưa lòng tôi nặng trĩu và không cầm được nước mắt. Bác sĩ Toản hỏi tôi có đồng ý cho Thuấn biết đã gặp tôi không,  tôi dặn bác sĩ thôi đừng nói gì cả, chuyện xưa nên cho vào dĩ vãng, điều cần thiết là tìm được đứa con chúng tôi. Tôi chào bác sĩ Toản rồi ra về, lòng buồn mênh mang:

              Biết được tin anh cũng đủ rồi

              Tâm sự có nhiều vẫn thế thôi

              Ra đi không nói câu từ giã

              Em biết chuyện mình mãi cách đôi

                                     *

              Cứ mỗi năm nhìn lá úa vàng

              Chạnh lòng nhớ lại lúc Thu sang

              Anh ơi! Thu đến mang sầu tới

              Khơi dậy mối tình đã cách ngăn

                                    *

              Một lần yêu đã quá khổ rồi

              Nhắc làm chi chuyện cũ anh ơi

             Thân tuy gầy yếu tim băng giá

             Giữ mãi trong em bóng một người

                               *

             Biết được tin anh đã đủ rồi

             Em bây giờ cũng vẫn đơn côi

             Bao nhiêu kỷ niệm, bao đau đớn

             Và khóc âm thầm, khóc mãi thôi…

   Nhưng thôi tôi không muốn tiếp tục làm thơ buồn nữa. Tôi trở về với đời sống hiện tại của tôi. Tôi không có con nên yêu con trai của chồng tôi như con đẻ. Tân (tên con trai của chồng tôi) rất quý tôi. Tuy đã ra hành nghề bác sĩ nhưng tất cả những chuyện riêng tư Tân đều mang ra hỏi ý kiến mẹ. Một hôm Tân khoe với tôi Tân quen một cô gái tên Thuận Khanh kém Tân 4 tuổi. Hiện nay Thuận Khanh là dược sĩ, trông nom tiệm thuốc Tây của gia đình. Tân và Thuận Khanh quen nhau qua dịch vụ thương mại. Nghe con trai nói đến Thuận Khanh tôi rất hồi hộp, liệu có sự trùng tên, trùng tuổi  được không? Thuận Khanh có phải là con gái tôi không? Tôi hỏi con trai xem gia đình Thuận Khanh ra sao, thì được biết bố Thuận Khanh đã mất chỉ còn mẹ già trên 70 tuổi. Nhà giàu lắm, tất cả tài sản sau này sẽ là của Thuận Khanh hết. Tôi hơi lạ, nếu là mẹ nuôi thì  đúng chứ mẹ đẻ có thể trùng tên. Tôi nói con trai tôi đưa Thuận Khanh về nhà tôi chơi. Gặp Thuận Khanh tôi linh cảm ngay người con gái này là con tôi. Nét mặt vừa giống tôi vừa giống Thuấn. Không cầm được lòng tôi ôm chầm lấy Thuận Khanh và thốt lên: “Con ơi! Mẹ đây”, nhưng rồi tôi chợt nhớ ra, chưa phải là lúc mẹ con thổ lộ tâm tình nên đã buông Thuận Khanh ra và nói lời xin lỗi: “Bác xin lỗi con, tại bác thấy con dễ thương quá nên bác mến”. Thuận Khanh nói: “ Không sao đâu bác. Được bác yêu quý và cho đến nhà thăm bác con rất vui mừng. Trước khi đến con sợ lắm, nay thấy bác vui vẻ như mẹ con ở nhà, con thật có phước. Mới gặp bác lần đầu nhưng con có cảm tưởng như đã gặp bác từ lâu rồi”. Lòng tôi dịu xuống, tôi thầm cảm ơn ông bà mẹ nuôi đã dạy giỗ con gái tôi nên người, dạy cách ăn nói khôn khéo và lễ phép. Tân thấy mẹ yêu thích bạn thì mừng lắm, chàng mỉm cười nhìn Thuận Khanh. Tôi giữ Thuận Khanh ở lại ăn cơm. Lần đầu tiên tôi được nấu cơm cho con gái tôi ăn. Tôi hỏi thăm sơ qua về những ngày đã qua của Thuận Khanh, tôi tránh những chi tiết sợ con gái nghĩ tôi tò mò.  Cám ơn Trời Phật đã  giúp cho mẹ con tôi được gặp lại nhau…

  Khi Thuận Khanh ra về tôi hỏi con trai tôi chương trình dự trù như thế nào, Tân cho tôi biết tháng sau chúng định làm đám hỏi và 4 tháng nữa sẽ làm đám cưới. Thuận Khanh muốn lo sớm vì mẹ đã già, muốn cho mẹ được vui.

  Ngày đám hỏi qua đi một cách thuận lợi. Người mẹ nuôi của con gái tôi không nhận ra tôi. Có lẽ bà không ngờ một cô gái nghèo khổ ngày xưa nay là thông gia với bà. Tôi nhận ra bà Thuận nhưng vẫn giữ im lặng không cho ai biết chuyện tôi là mẹ đẻ của Thuận Khanh để cho các con tôi không phải bận tâm và tránh gây nên sự buồn phiền cho bà mẹ nuôi, một ân nhân của tôi. Tôi rất vui mừng sửa soạn đám cưới cho con. Tôi hồi hộp lo đến ngày đám cưới vừa cho con gái vừa cho con chồng.   

  Bốn tháng qua đi thật mau. Đám cưới của các con tôi tổ chức rất trọng thể.  Gần 700 quan khách tham dự. Con gái tôi lộng lẫy trong bộ áo cưới. Có nhiều người đã nhận xét là mẹ chồng với con dâu trông rất giống nhau như hai mẹ con, chắc là sẽ hợp với nhau lắm. Tôi vui mừng nghĩ ngợi từ nay con gái tôi sẽ được ở chung nhà với tôi, và tôi sẽ dành hết thì giờ săn sóc con gái tôi. Văng vẳng bên tai như lúc nào cũng nghe thấy lời chúc mừng hạnh phúc….

  Đám cưới xong hai con đi hưởng tuần trăng mật, tôi ở nhà một mình. Vì quá lo lắng và bận rộn cho ngày đám cưới nên tôi thấy trong người hơi mệt. Tôi sợ có vấn đề về tim như trước nên đi khám bác sĩ gia đình nhưng khi đến nơi mới biết bác sĩ đã đi nghỉ hè và ông nhờ người khác tạm thay thế vài ngày. Vì đến trễ và không có hẹn trước nên tôi là người được khám sau cùng. Cô y tá cân đo và thử nhiệt độ. Nhịp tim và nhiệt độ của tôi bình thường. Tôi ngồi trong phòng đợi một lúc thì Thuấn mở cửa bước vào. Bất ngờ gặp Thuấn tôi kêu lên: “Anh!”. Thuấn cũng ngạc nhiên, ôm chầm lấy tôi: “Em! Không ngờ gặp em ở đây, anh mừng quá !”. Thuấn kể lể những sự nhớ nhung và xin tôi tha lỗi. Thuấn nói: “Anh không ngờ mình đã có con với nhau. Từ ngày nghe bác sĩ Toản nói chuyện về em anh buồn và ân hận quá. Khi đẻ chỉ có một mình em làm sao xoay xở…”. Tôi bảo Thuấn : “Hãy quên đi ngày tháng cũ”. Bây giờ mỗi người có một cuộc sống riêng, còn gặp nhau và quý nhau là đủ rồi. Tôi không oán hận ai cả, chỉ mong mọi chuyện cho qua đi. Thuấn hỏi tôi về con gái chúng tôi, tôi nói Thuận Khanh bây giờ rất hạnh phúc nhưng chuyện hơi dài, sẽ nói cho Thuấn sau. Thuấn rất mừng khi thấy tên con gái là tên Thuấn và tên Khánh hợp lại. Biết tôi bây giờ vẫn còn độc thân nên Thuấn đề nghị cùng chàng tái hợp. Mặc dù vẫn còn yêu Thuấn nhưng tôi rất ngại, một lần chia tay đã quá khổ rồi, bây giờ tôi đang sống yên ổn và hạnh phúc với con gái mới tìm được, tôi không muốn có sự xáo trộn trong đời sống nên đã từ chối. Không được tôi chấp thuận Thuấn có vẻ thất vọng. Một lúc sau Thuấn hỏi thăm về mẹ tôi, khi biết mẹ tôi đã qua đời chàng cúi đầu xuống che dấu sự xúc động rồi cho biết bà Đạm bây giờ bệnh tình rất nặng, sức khoẻ được tính từng ngày. Bà đang nằm trong bệnh viện, nếu được tôi bỏ qua chuyện cũ thì bà mừng lắm. Thuấn gợi ý muốn tôi đến bệnh viện thăm bà Đạm, tôi nhận lời.

  Hôm sau tôi đến bệnh viện thấy Thuấn và vợ chồng Minh Thư đã ở đó. Minh Thư gặp tôi rất mừng. Minh Thư hỏi thăm tôi và cho địa chỉ mời đến nhà chơi. Hàn huyên một lúc, Thuấn và vợ chồng Minh Thư ra ngoài cho tôi nói chuyện với bà Đạm. Tôi cầm bàn tay gầy yếu của bà và hỏi:

– Bà còn nhớ cháu không, cháu là Ngân Khánh đây ?

Bà Đạm thều thào:

–   Ngân Khánh! Làm sao tôi quên được cháu. Mong cháu tha lỗi cho tôi. Vì tôi quá nghiêm khắc mà mẹ con cháu phải khổ. Tôi cũng nghe tin bà Tư đã qua đời. Tội nghiệp bà Tư. Thôi tôi sẽ gặp bà ở bên kia thế giới để xin lỗi bà vậy.

  Bà Đạm tiếp:

–  Ông trời đã phạt tôi. Có đứa cháu duy nhất thì hất hủi nó, bây giờ tôi không có cháu nào ở bên cả. Vợ chồng Minh Thư lấy nhau lâu rồi vẫn chưa có con.  

  Nói xong nước mắt bà trào ra vì ân hận khiến tôi cũng buồn lây. Giọng bà run run tiếp:

–   Tôi không sống được nữa và sắp phải ra đi. Tôi xin cháu một điều không biết cháu có thể giúp tôi không ?

  Tôi lắc tay bà Đạm:

– Xin bà cứ nói.

  Bà Đạm cố lấy sức lực còn lại nói ngắt quãng từng câu:

–   Bác mong cháu nhận lời tái hợp với con trai bác, có như vậy bác mới yên tâm ra đi. Thuấn yêu cháu lắm. Thuấn đã lấy vợ nhưng lúc nào cũng nghĩ đến cháu nên hai vợ chồng đã bỏ nhau.  

Đôi mắt bà Đạm yếu đuối nhìn tôi như cầu xin. Tôi thấy thương bà như mẹ. Gần 10 năm ở với nhau tình cảm dù sao cũng đã sâu đậm, thật khó có thể từ chối lời yêu cầu của một người sắp lìa đời như bà. Tôi im lặng suy nghĩ giây lát rồi nói trong xúc động:

– Vâng, con xin nghe lời bác.

  Bà Đạm mỉm cười, mắt bà mở hé ra như thầm cảm ơn tôi. Giữa lúc đó Thuấn và vợ chồng Minh Thư đi vào. Bà Đạm cầm bàn tay Thuấn để lên bàn tay tôi, một lúc sau mắt bà nhắm lại và hơi thở yếu dần. Y tá vội vàng gọi bác sĩ. Tôi và Thuấn đứng cách ra xa cho y tá làm việc. Tôi lau nước mắt cho Thuấn rồi nắm chặt tay chàng, nghẹn ngào nhìn bà Đạm từ từ lịm đi…

quên đi ngày tháng cũ

truyện ngắn: hoàng nguyên linh

LeVanQuy sưu tầm


 

Câu chuyện cảm động …- Truyện ngắn HAY

Thầy Lê Văn Thông

 Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oằn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.

– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ. Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại. Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nở…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần…

Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi.

Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:

-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

– Nhận vào.

Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh.

Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ khàng đến bên thầy nói:

-Tôi có 50.000 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước.

Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng lên, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?

– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế ! Người phụ nữ bối rối.

– Thật buồn cười cái nhà chị này ! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.

Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệch, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.

Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận !

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại.

– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất !

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng,ngõ hẻm xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ :

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ ! Chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hỗ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về.

Lòng thầy xót xa.

Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra,học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của Thủ Đô. Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có một điều rất lạ rằng trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc,không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động. Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về.

Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu từng bước khó nhọc bước lên sân khấu.

Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng vô cùng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả,mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản, tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.

Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

– Mẹ ơi!!!!!!

Sưu tầm trên Internet


 

Luôn có một chỗ cho niềm hy vọng.- Truyện ngắn HAY

Trầm Mặc Huơng Lai

Vào năm 1954, Annie Wilkins 63 tuổi.

Bà cô đơn, bệnh tật, không một xu dính túi và không còn nhà để về.

Bác sĩ nói rằng bà chỉ còn sống được khoảng hai năm nữa.

Nhưng Annie không chấp nhận cái chết đến mà chưa thực hiện được ước mơ cuối cùng của đời mình: được tận mắt nhìn thấy Thái Bình Dương.Thay vì buông xuôi hay vào viện dưỡng lão như mọi người khuyên,bà mua một con ngựa, mặc đồ đàn ông, và lên đường về phía Tây.

Không bản đồ. Không la bàn. Không sợ hãi.

Bạn đồng hành của bà là Tarzan, một con ngựa đua già mà bà đã cứu sống.

Đi cùng họ là Dépêche-Toi, con chó lai trung thành của bà.

Bộ ba này bắt đầu một hành trình hơn 6.000 km xuyên nước Mỹ, vượt qua bão tuyết, đường núi, sa mạc và sự hoài nghi của người đời.

Annie cưỡi ngựa giữa làn xe tải trên những xa lộ mới, băng qua những thị trấn, cánh đồng, núi tuyết, ngủ trong các chuồng trại,được người lạ mời ở lại — và đôi khi, trở thành bạn bè thân thiết.

Trên đường đi, bà gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng như Andrew Wyeth, Groucho Marx, và Art Linkletter.

Người ta đề nghị cho bà chỗ ở, việc làm, thậm chí… lời cầu hôn.

Nhưng Annie chỉ mỉm cười, và tiếp tục tiến về phía trước.

Vào thời đại mà ô tô tượng trưng cho văn minh, truyền hình bắt đầu chi phối cuộc sống, thì một người phụ nữ, một con ngựa, và một chú chó đã nhắc cả nước Mỹ nhớ lại giá trị của sự gần gũi, lòng tốt, và tình người.

Và bà không chết sau hai năm.

Bà đã đến được bờ Thái Bình Dương.

Và sống thêm nhiều năm nữa để kể lại câu chuyện của mình. Annie Wilkins không chỉ băng qua một đất nước.

Bà đã chứng minh rằng: Lòng dũng cảm không có tuổi.

Cuộc phiêu lưu có thể bắt đầu khi mọi thứ tưởng như đã chấm hết.

Và ngay cả trên những con đường gồ ghề nhất, vẫn luôn có một chỗ cho niềm hy vọng.

st 


 

HỒI ỨC – Truyện ngắn HAY

Thầy Lê Văn Thông

… Cách đây hơn ba chục năm, hồi tôi học phổ thông cấp III, đồng hồ đeo tay còn là thứ xa xỉ phẩm khan hiếm. Một hôm, thằng bạn cùng bàn sắm được một chiếc đồng hồ mới toanh; nó đeo đồng hồ rồi xắn tay áo lên trông thật oách làm sao, khiến cả lớp phục lăn. Chỉ vài hôm sau đã thấy mấy thằng khác cùng lớp đua nhau sắm đồng hồ đeo tay. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng ao ước được như chúng nó: sắm một chiếc đồng hồ để mọi người trông thấy mà thèm.

Hôm chủ nhật, tôi về nhà chơi. Lấy hết lòng can đảm, tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi, con muốn mua một cái đồng hồ đeo tay, mẹ ạ !” Mẹ tôi trả lời: “Con này, nhà mình đến cháo cũng sắp sửa chẳng có mà ăn nữa, lấy đâu ra tiền để sắm đồng hồ cho con ?” Nghe mẹ nói thế, tôi rất thất vọng, vội quáng quàng húp hai bát cháo rồi chuẩn bị về trường. Bỗng dưng bố tôi hỏi: “Con cần đồng hồ làm gì thế hả ?” Câu hỏi của bố nhen lên một tia hy vọng trong lòng tôi. Rất nhanh trí, tôi bịa ra một câu chuyện: “Hồi này lớp con đang học ngày học đêm để chuẩn bị thi đại học, vì là lớp cuối nên bây giờ chúng con lên lớp không theo thời khoá biểu của trường nữa, cho nên ai cũng phải có đồng hồ để biết giờ lên lớp.” Nói xong, tôi nôn nóng chờ bố trả lời đồng ý; thế nhưng bố tôi chỉ ngồi xổm ngoài cửa chẳng nói câu nào.

Trở về ký túc xá nhà trường, tôi chẳng còn dám nằm mơ đến chuyện sắm đồng hồ nữa. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau, bất chợt mẹ tôi đến trường, rút từ túi áo ra một túi vải hoa con tý rồi mở túi lấy ra một chiếc đồng hồ mới toanh sáng loáng. Tôi đón lấy nó, đeo ngay vào cổ tay, trong lòng trào lên một cảm giác lâng lâng như bay lên trời. Rồi tôi xắn tay áo lên với ý định để mọi người trông thấy chiếc đồng hồ của mình. Thấy thế, mẹ tôi liền kéo tay áo tôi xuống rồi bảo: “Con này, đồng hồ là thứ quý giá, phải lấy tay áo che đi để giữ cho nó khỏi bị sây xước chứ ! Con nhớ là tuyệt đối không được làm hỏng, lại càng không được đánh mất nó đấy ! Thôi, mẹ về đây.” Tôi tiễn mẹ ra cổng trường rồi hỏi: “Sao nhà mình bỗng dưng lại có tiền thế hở mẹ ?” Mẹ tôi trả lời: “Bố mày bán máu lấy tiền đấy !” Bố đi bán máu để kiếm tiền mua đồng hồ cho tôi ? Trời ơi ! Đầu óc tôi quay cuồng, ngực đau nhói. Tiễn mẹ về xong, tôi tháo chiếc đồng hồ ra, bọc kỹ mấy lớp vải như cũ cất vào cái túi con tý mẹ đưa.

Ngày hôm ấy, tôi hỏi thăm các bạn xem có ai cần mua đồng hồ mới không. Các bạn hỏi tôi tại sao có đồng hồ mà lại không đeo, tôi bảo tôi không thích. Họ chẳng tin, cho rằng chắc hẳn đồng hồ của tôi có trục trặc gì đấy, vì thế chẳng ai muốn mua nó. Cuối cùng tôi đành phải nhờ thầy chủ nhiệm lớp giúp tôi tìm người mua đồng hồ và thành thật kể lại đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe, vừa kể vừa nước mắt lưng tròng. Thầy chủ nhiệm nghe xong bèn vỗ vai tôi và nói: “Đừng buồn, em ạ. May quá, thầy đang cần mua một chiếc đồng hồ đây, em để lại nó cho thầy nhé!” Thầy trả tôi nguyên giá, còn tôi thì dùng số tiền đó nộp hai tháng tiền ăn ở nhà ăn tập thể. Có điều khó hiểu là sau đó chưa bao giờ tôi thấy thầy chủ nhiệm đeo đồng hồ cả. Mỗi lần tôi hỏi tại sao thì thầy chỉ cười không nói gì.

Về sau tôi thi đỗ đại học rồi ra trường và làm việc ở một tỉnh lỵ xa quê. Câu chuyện chiếc đồng hồ kia cứ mãi mãi đeo bám ám ảnh tôi. Trong một dịp về quê thăm gia đình, tôi tìm đến nhà thầy chủ nhiệm cũ và hỏi chuyện về chiếc đồng hồ ấy. Thầy tôi bây giờ đã già, tóc bạc hết cả. Thầy bảo: “Chiếc đồng hồ vẫn còn đây.”  Nói rồi thầy mở tủ lấy ra chiếc túi vải hoa nhỏ xíu năm nào mẹ tôi đưa cho tôi. Thầy mở túi, giở từng lớp vải bọc, cuối cùng chiếc đồng hồ hiện ra, còn mới nguyên. Tôi kinh ngạc hỏi: “Thưa thầy, tại sao thầy không đeo nó thế ạ ?” Thầy chủ nhiệm nhẹ nhàng trả lời: “Thầy đợi em đến chuộc lại nó đấy !” Tôi hỏi tiếp: “Thưa thầy, vì sao thầy biết em sẽ trở lại xin chuộc chiếc đồng hồ ạ ?”. Thầy bảo: “Bởi vì nó không đơn giản chỉ là chiếc đồng hồ, mà quan trọng hơn, nó là lương tâm của một con người.” …

Fb Khôi Nguyên


 

NGƯỜI CHA – Truyện ngắn HAY

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Vợ ông mất từ khi đứa con gái thứ 2 được 2 tháng vì bệnh tim. Ông một mình nuôi 2 con khôn lớn. Với đồng lương hạn hẹp của một giáo sư đại học lúc bấy giờ, ông thật vất vả để cho hai cô con gái một cuộc sống no đủ. Rất nhiều cô gái thanh tân, phần vì thương, phần vì ngưỡng mộ tài học, phần vì kính trọng nhân cách của ông, sẵn lòng về làm vợ ông để chia sẻ với ông, cùng nuôi dạy hai con. Ông cũng có ý muốn đi bước nữa khi hai con đã hết cấp 3.

Nhưng sự đời khó đoán, khi ông mới dẫn vợ chưa cưới về nhà, hai cô con gái phản ứng quyết liệt. Có thể do ích kỷ không muốn chia sẻ ông với ai, có thể sợ sẽ bị dì ghẻ đày đọa, một cô bỏ nhà đi, một cô đi nhảy sông tự tử, mà không chết. Ông bị choáng nặng. Ông không ngờ, hai cô con gái ngoan hiền ngày nào lại đối xử với mình như thế. Vừa thương vừa giận, có lẽ thương con sợ hai con gặp bất trắc, ông lần lượt bỏ qua biết bao nhiêu cơ hội của cuộc đời. Lặng lẽ nuôi và nhìn con trưởng thành, ông ít nói ít cười hẳn, chỉ khi lên giảng đường, ông mới được là chính ông.

Các cô con gái lần lượt lấy chồng, sinh con và hay tụ tập ở nhà ông vào tối thứ bảy và chủ nhật. Ông vẫn một mình cơm niêu nước lọ. Chăm chăm chờ đến ngày được gặp con cháu. Ít lâu sau, ông phát hiện mình bị parkinson, tay chân run, không tự làm được gì. Hai cô con gái hớt hải chạy tới. Ai cũng phải lo cho gia đình riêng, ai cũng phải đi làm, ai đâu mà chăm cha. Họ rụt rè nói với ông, hay bố cưới cô nào về làm vợ để phục vụ bố lúc tuổi già đi. Ông giận run người, lắp bắp. Các con thật ích kỷ, bây giờ bố 65 rồi, lấy ai, người ta vì chờ bố đến giờ này vẫn ở vậy, mấy chục năm cấm cản bố, xỉ vả người ta chẳng ra gì, bây giờ bố bệnh thế này mặt mũi nào hỏi cưới người ta. Hai cô gục đầu xuống khóc, khi cơn giận khiến ông bị tai biến phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện.

Ông được ra viện, ánh mắt ông thật buồn, thật xa vắng. Hai cô nhờ người thuê được một người đàn bà lỡ thì rất xinh đẹp tới chăm ông. Lúc đầu bà chăm ông bằng nghĩa vụ, lâu dần bà chăm ông như chăm một người bạn già. Hằng ngày, khi đã xong hết việc, ông ra hiệu cho bà lại gần, ông viết tên các cuốn sách hay trên giá và khuyên bà đọc. Rồi ông bập bẹ phân tích cốt truyện cho bà nghe, cho bà biết cái hay cái dở của cuộc sống trong đó. Ông dần bình phục sau tai biến. Sau 5 năm bè bạn cùng ông, từ một người đàn bà ít học, sống trong gia đình nông dân nghèo, bà đã có thể đàm đạo với ông, một giáo sư nổi tiếng về rất nhiều lĩnh vực.

Ông dạy bà cắm hoa, nghe nhạc, làm thơ và vẽ tranh.

Bà cảm phục và hết lòng yêu quý ông. Bà chủ động nhờ hai cô con gái nói giúp với ông cho phép bà được gá nghĩa trăm năm cùng ông. Hai cô đồng ý ngay, vì tình cảm của họ rất tốt. Bà thì thật thà, chân thành và dịu dàng. Từ lâu bà coi các con ông như con mình. Song, ông từ chối. Ông cười rất rất buồn và nói, cảm ơn cô đã có lòng với tôi, tôi già rồi và bệnh tật thế này còn mang lại hạnh phúc cho ai được đâu, cô còn trẻ và xinh đẹp, cô vẫn có thể xây dựng hạnh phúc với người khoẻ mạnh hơn tôi, hãy coi tôi như người bạn và đọc hết kho sách trong tôi đi, cô sẽ học thêm được nhiều điều có ích cho cuộc sống này.

Ngày ông trút hơi thở cuối cùng, bà khóc ngất đi. Bà quỳ xuống chân 2 cô con gái ông, xin các con cháu cho cô để tang ông ấy như để tang một người thầy, một người bạn tri kỷ và một người chồng duy nhất của cô. Hai cô con gái đỡ bà dậy, oà khóc, mẹ ơi…

Đưa đám ông xong, hai cô biếu bà căn nhà của bố, để con cháu có chỗ chạy đi chạy lại như khi ông còn tại thế. Hằng ngày,

bà vẫn bầu bạn cùng ông và vợ ông trên bàn thờ, chuyện trò cùng họ, bàn bạc về mọi tác phẩm bà đọc và chờ đến thứ bảy và chủ nhật được đón các con cháu ông về cùng bà ăn cơm gia đình.


 

NHÂN SINH – Truyện ngắn cảm động – HAY

Xuyên Sơn

Sáng nào tôi cũng thấy cậu bé này cầm cái lon đứng trước quán ăn.

Tôi để mắt theo dõi thì thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì cậu bé chạy vào và nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư thì vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

Khi cái lon gần đầy thì cậu bé biến mất. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới,

vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly cà phê.

Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé,

mới biết cháu tên Tuấn.

Tôi cố tình làm quen với cậu bé nhờ hôm ấy trời mưa, cậu bé đứng nép vào trong quán.

Cậu bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước.

Tôi với tay kéo ngồi xuống bàn và hỏi cháu có thích uống cà phê không?

Tuấn lắc đầu lia lịa và không uống.

Tôi hỏi cháu làm gì ngày nào cũng ra đây?

và hiện sống với ai?

Cậu bé như đoán được rằng:

tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên cậu bé cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

– “Con sống với ba má con,

Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”

Tôi hỏi tiếp:

– “Còn con có đi học không ?”

Tuấn nói:

– “Con không có đi học… Con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.

Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của Tuấn nơi quán ăn này.

Nghe cậu bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho Tuấn lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó Tuấn không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nữa.

Và nhờ tính tình hiền hậu thật thà mà chị chủ quán cho Tuấn vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho Tuấn ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và Tuấn gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.

Có lần Tuấn hỏi tôi:

– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn qua loa không nói rõ làm nghề gì.

Đúng vậy tôi mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày một buổi cà phê hai bữa cơm độn qua ngày.

Thời gian chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ nữa nhưng vẫn quen cứ sáng cà phê quán gần nhà.

Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay không mà tôi ghiền không bữa nào vắng.

Một hôm, tôi đề nghị theo Tuấn về nhà cháu chơi cho biết vì Tuấn nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy cháu do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay Tuấn đang dấu diếm điều gì.

Thương Tuấn lắm, tôi dúi tiền cho Tuấn hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo Tuấn khi Tuấn mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy Tuấn lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ.

Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà cháu không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chỗ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ thì Tuấn lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.

Đợi Tuấn đi khuất tôi đến gần. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom người xuống.

Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm Tuấn,

thì nghe giọng đàn ông cho biết Tuấn vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào….

Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

Người đàn ông hốc hác cụt hai chân tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm.

Một người phụ nữ mắc bệnh, gương mặt xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn mà Tuấn vừa mới đem về.

Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bệnh ác tính nặng nề thật đau xót.

Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui.

Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình cậu bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.

Sáng hôm sau ra uống cà phê, Tuấn gặp tôi thì lấm lét không dám nhìn tôi vì cháu đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà.

Tuấn thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục cháu nhiều lắm.

Tôi kêu Tuấn lại và nói nhỏ tại sao không cho tôi biết.

Tội nghiệp Tuấn cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa.

Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi Tuấn chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn.

Hèn gì sau này Tuấn để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm.

Tội nghiệp hoàn cảnh của cậu bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước năm 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng, cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng.

Tuấn là lao động chính trong gia đình, Tuấn có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền cháu mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ Tuấn nữa.

Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá.

Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít.

Thỉnh thoảng tôi gửi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho Tuấn chút ít gọi là chút tình phương xa.

Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm Tuấn thì Tuấn không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa.

Tôi mới kể rõ hoàn cảnh Tuấn cho chị chủ quán biết.

Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình Tuấn.

Tôi chỉ bào chữa rằng tại cậu bé muốn giấu không cho ai biết!

Tôi ghé vội qua nhà cháu thì mới hay mẹ Tuấn đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.

Chỉ còn một mình ba Tuấn ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm.

Hỏi thăm thì mới biết Tuấn đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha.

Chủ nhật tôi tới tìm Tuấn, chỉ mới có mấy năm mà Tuấn đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen vì phơi nắng để kiếm đồng tiền.

Tôi dẫn Tuấn trở ra quán cà phê cũ, thấy Tuấn hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình Tuấn.

Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ Tuấn về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ.

Lần đầu tiên tôi thấy Tuấn khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nổi.

Tuấn vừa khóc vừa nói:

“Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia đình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm.

Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lỗi”.

Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói:

“Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé…”

Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như Tuấn.

Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con Tuấn hai triệu đồng, thấy Tuấn và ba Tuấn mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình Tuấn như thế nào, tôi chụp hình ba Tuấn, photo giấy tờ ba Tuấn đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney.

Mấy tháng sau nhận được thư ba Tuấn viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gửi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến.

Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ.

( st )


 

Người bên thua cuộc – Trần Bạch Thu- Truyện ngắn HAY

Ba’o Nguoi -Viet

July 2, 2025

Trần Bạch Thu

Trời chưa tắt nắng, những tia sáng màu vàng ối còn chiếu rọi qua hàng cây cao trên con đường mùa Hè làm thành một vùng ánh sáng chói lòa đan xen vào nhau, soi rõ từng đám bụi mù chen lẫn với khói xe lãng đãng trên con đường chật cứng xe cộ đang di chuyển vào một chiều thứ Bảy ở thành phố Westminster.

Tôi đi đến nhà hàng The Villa nằm trên đường Beach để dự đám cưới của một đứa cháu gái kêu vợ chồng tôi bằng dì dượng. Đây là một nhà hàng rất quen thuộc với người Việt Nam lúc gần đây, nơi nầy thường được người địa phương đến đặt tiệc cưới vì giá cả tương đối trung bình với thức ăn Việt hoàn toàn và đặc biệt hơn nữa là nhà hàng tọa lạc trong một khu vườn cây cao bóng mát, bãi đậu xe rộng rãi, nhất là nhà hàng thiết kế nhiều chỗ chụp hình được trang hoàng cây cảnh rất đẹp.

Vì là người thân trong gia đình họ nhà gái nên chúng tôi đến rất sớm, khi bên trong khu nhà tiếp tân chỉ có một ít nhân viên đang sửa soạn quầy rượu cùng với các cô phụ dâu đang sắp xếp bàn ghế trưng bày ảnh của cô dâu, chú rễ cũng như kê bàn đặt phiếu dành cho khách mời đến lấy dễ dàng và dò biết mình thuộc bàn số mấy, tất cả đều rất ngay ngắn, ngăn nắp sao cho mọi người đều có thể thấy rõ.

Đúng 6 giờ tối quầy rượu bắt đầu hoạt động, nhân viên nhà hàng bưng từng khay đựng thức ăn nhẹ đi quanh khu nhà tiếp tân để mời mọi người thưởng thức những món ăn được ghim sẵn để trên khay như chạo tôm, bánh bao nhỏ nhưn mặn, tôm chiên giòn, bánh nướng …. Mọi người đứng quanh từng nhóm năm, ba người tụm nhau trò chuyện râm ran chật kín cả khu tiếp tân. Âm thanh ồn ào, mọi người đi đi, lại lại thật là uyên náo. Ở đầu cửa ra vào một số người đang xếp hàng để đến lượt ra đứng bên cạnh cô dâu chú rể chụp hình kỷ niệm, lấy liền sau chừng nửa tiếng đồng hồ, hình được đặt trên bàn ở gần chỗ chụp hình cho chủ nhân hình ai nấy tìm.

Đang còn loay quay trò chuyện với nhiều người quen thân, bất ngờ có một người đàn ông chen chân bước tới nhìn sững ngay trước mặt khiến tôi hơi ngờ ngợ, nhưng rồi sau đó hai người chợt bùng lên một tràng cười như bể rạp. Người đàn ông ấy vẫn gương mặt thật hiền lành, tuy có vài nếp nhăn nhưng không thể nào lầm lẫn vào đâu được qua cặp mắt u uất, buồn rười rượi dài hơn thế kỷ. Anh Võ Ngọc Hòa nguyên Tỉnh đoàn trưởng Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn tỉnh Kontum! Tôi ôm chầm lấy anh mà nước mắt muốn ứa ra. Gần 40 năm trời chưa một lần gặp mặt. Biết bao nhiêu câu chuyện đời tưởng chừng như đã đi vào quên lãng, nay bất chợt hiện về, rõ mồn một như một khúc phim quay chậm.

* * *

Hồi ấy tôi mới lên Kontum nhận nhiệm sở về quận, anh là tỉnh đoàn trưởng xây dựng nông thôn nhiều năm trước đó, anh có gương mặt thật hiền như “thầy tu.” Tôi gặp anh qua những lần họp hàng tháng ở Tòa hành chánh tỉnh. Trong buổi họp anh ngồi im, ít nói nhưng khi trình bày công việc ở ty sở thì anh lại nói năng rất mạch lạc hấp dẫn. Tôi rất thích kiểu cách nầy nên bắt đầu làm quen thân với anh từ đó. Cứ một vài hôm, chiều ở quận về sớm là tôi đến rủ anh ra quán bún thịt nướng uống bia. Lâu dần tôi biết anh là người chăm sóc gia đình, một vợ 4 con, ba gái một trai rất chu đáo đầy trách nhiệm với tình thương yêu hết mực. Trong xứ đạo Tân Hương (Kontum) gia đình anh là một gia đình công giáo thuần thành.

Lúc bấy giờ có chương trình “ngủ ấp,” các viên chức và cán bộ tối về sinh hoạt ở nông thôn theo lịch định kỳ cho nên tất cả đều mặc bộ đồ “bà ba” đen, xây dựng nông thôn, vải kaki dày cho tiện lợi. Anh tặng cho tôi hai bộ đồ để thay đổi, ngoài ra anh còn tặng thêm một cái áo jacket hai lớp màu xanh trây dzi “mặc cho ấm” trên đường đi xuống quận.

Anh em gần gũi nhau qua những lần đi công tác chung, tiếp nhận các dự án xây dựng đường xá, cầu cống hay trạm xá, trường học ở các xã, ấp. Có khi ngủ lại ở nơi đây, sáng cùng lên trực thăng về lại tỉnh. Vui buồn đời công vụ ở tỉnh lẻ, thật thắm tình đồng đội.

Mãi cho đến Tháng Ba năm 1975, tôi di tản về Sài Gòn an toàn, anh cùng vợ con chạy giặc tới sông Ba, Phú Bổn bị địch pháo kích dữ dội nên cùng đường, hết lương thực cả gia đình bèn trở về lại Kontum.

Khi về tới nơi thì cộng sản đã chiếm được thị xã, anh và vợ con phải trốn ngược lên phía Đakto ở nhờ nhà người bà con để rồi từ từ sẽ tìm đường vượt thoát vào Nam. Chưa được bao lâu thì nhận được tin Sài Gòn thất thủ, tướng Dương Văn Minh đầu hàng, chiến tranh kết thúc, anh đành thúc thủ tại quê nhà.

Ở địa phương Kontum, một vài viên chức VNCH trở cờ, tham gia hăng hái vào hàng ngũ bộ đội cộng sản làm kẻ chỉ điểm, ruồng bố vào từng nhà bắt giữ đồng đội cũ của mình. Anh bị bắt trong đợt truy quét nầy do một viên chức trước đây từng là Chánh văn phòng Tòa hành chánh tỉnh chỉ điểm.

Anh bị bắt đưa đi nhốt ở Trung Tâm Cải Huấn cũ của VNCH. Đến khoảng trung tuần tháng Năm năm 1975 thì anh bị đưa ra Sân Vận Động tỉnh xét xử công khai cùng với hơn 20 người khác được cho là có nợ máu với nhân dân.

Hôm ấy, dân chúng tụ tập rất đông theo lệnh của cán bộ cộng sản. Chủ trì phiên tòa xét xử là một cán bộ nằm vùng, tục gọi là chị Ba ngồi trên chiếc ghế sa lon màu đỏ huyết dụ đặt ở giữa sân, phía sau lưng là 2 cái bàn dài dành cho 3 cán bộ miền Bắc đầu đội mũ cối, bên hông giắt súng ngắn cùng với 4 nam, nữ dân quân du kích mặc đồ bà ba đen đội mũ xanh tai bèo.

Mở đầu phiên xét xử, chủ tọa gọi tên từng người ra đứng đối diện với chủ tọa đoàn khai tên họ và chức vụ trong bộ máy chính quyền cũ, sau đó chỉ một mình chị Ba đứng lên nêu tội ác của các đương sự một cách chung chung. Rồi cũng chính chị ấy tuyên án mà không có tranh cải. Đến phiên anh, sau khi khai rõ họ tên chức vụ, chủ tọa buổi xét xử đột nhiên rời ghế bước tới tát vào mặt anh liên tiếp và gầm lên, mắng như mưa:

-Mày là đồ ngụy gian ác mang nợ máu với nhân dân, chống phá cách mạng triệt để.

Sau đó trở về chỗ cũ, chị đứng thẳng người lên dõng dạc đề nghị xử tử hình tên tỉnh đoàn trưởng ngụy.

Đám đông dân chúng im phăng phắc, không có một ai lên tiếng, rồi cũng giống như các trường hợp vừa xử trước vì không có ai lên tiếng nên chị Ba giảm án dần xuống còn 20 năm, 15 năm, 10 năm… và khi đến mức 5 năm thì cán bộ ra hiệu cho mọi người giơ tay lên đồng ý. Lúc bấy giờ chị Ba mới ra lệnh cho tội nhân phải quỳ xuống chấp nhận bản án và cúi đầu nói lời xin lỗi nhân dân. Tiếp theo sau đó, hai cán binh đến kè xốc nách dẫn tội nhân đi nhanh để phiên tòa còn tiếp tục xử người khác.

Kể từ sau ngày đó, anh bị chuyển đi khắp các trại cải tạo từ Nam ra Bắc, thời gian kéo dài hơn 6 năm rồi mà vẫn chưa được thả, mặc dù đã có án 5 năm cải tạo như phiên tòa xét xử năm 1975. Cho đến khi được chuyển về trại Gia Trung ở Plei ku anh mới có hy vọng là sẽ được thả trong một thời gian ngắn chừng một, hai năm nữa, theo như lời kể của các bạn tù ở đây, nhiều năm kinh nghiệm. Trong tù anh thuộc diện “mồ côi” không có thăm nuôi, họa hoằn lắm đôi ba lần anh mới được người nhà gởi theo thân nhân đi thăm tù cải tạo một gói quà chừng 5 kí lô, gồm một ít đường tán và muối đậu.

Khi về tới Gia Trung, tình hình cải tạo bớt căng thẳng, không còn hà khắc như ở miền Bắc, tù cải tạo được sinh hoạt thoải mái trong trại, nấu ăn và tụ tập từng tụm 5,7 người trong những ngày nghỉ lao động. Lúc bấy giờ các Cha, Thầy cũng được xả ra nhốt chung với ngụy quân, ngụy quyền. Đặc biệt là các Cha còn bí mật làm lễ trong trại cải tạo, hình thức cũng đơn giản và kín đáo, cũng có đọc kinh ban phép lành và cho rước bánh Thánh (Mình Thánh Chúa) được lén lút đưa từ bên ngoài vào trại.

Không biết cán bộ biết tin từ đâu, có thể là do “ăng ten” mật báo không chừng mà có một hôm toàn trại được lệnh tập trung mang hết đồ đạc cá nhân ra sân thật khẩn trương, ban đầu mọi người tưởng là chuẩn bị chuyển trại vì đã quen rồi với việc tập họp đột biến như vậy, nhưng hôm nay khác, sau khi tập họp xong cán bộ quản giáo cho biết trong trại có một số trại viên phản động đã cử hành bí mật lễ nghi tôn giáo là điều cấm kỵ, vi phạm nội quy của trại và ra lệnh ai đã tham gia thì phải khai ra để được khoan hồng còn bằng không thì sẽ bị thi hành kỷ luật tùy theo mức độ nặng nhẹ.

Mọi người im lặng không có một ai lên tiếng tự giác hay tự thú về sự vi phạm vừa nêu nên cán bộ ra lệnh bắt đầu lục soát tất cả tư trang của tù nhân. Lúc bấy giờ anh em đều kín đáo liếc nhìn về phía anh Hòa để xem anh phản ứng như thế nào. Tuyệt nhiên không thấy có dấu hiệu gì lo sợ từ phía anh.

Thình lình loa trại phát thanh “Trâu xảy chuồng! Trâu xảy chuồng!” và cán bộ trại yêu cầu anh Hòa là người tù tự giác chăn đàn trâu hơn 40 con phải xuất trại gấp để lùa trâu vô chuồng, vì không nói ra nhưng mọi người đều thừa biết rằng hơn 40 con trâu mà lạc vào khu rẫy đang trồng hoa màu thì thiệt hại chắc chắn là không nhỏ.

Một số anh em tù nhân trong trại thở phào nhẹ nhõm vì chính anh Hòa là người cất giữ bánh Thánh. Nếu không có bàn tay của Chúa phù trợ thì sự thể xảy ra không biết sẽ tồi tệ đến mức nào khi mà cán bộ phát hiện ra chứng cứ. Hơn nữa bản chất con người của anh là rất tận tâm trong công việc được giao phó, làm đến nơi đến chốn “từ khởi sự cho đến lúc hoàn thành”, biết kính trên nhường dưới nên rất được mọi người kính mến từ xưa đến nay dù ở bất cứ nơi đâu trong mọi hoàn cảnh.

Thật ra anh Hòa là một người công giáo thuần thành được nhiều người tin cẩn thì sẽ không dễ gì anh tự mình tiêu hủy Mình Thánh Chúa. Chưa biết ra sao, nhưng rồi trong khoảnh khắc linh thiêng ấy anh đã cầu nguyện và xin phó thác. Chúa đã nhậm lời cho anh thời cơ có một không hai để giữ gìn được bánh Thánh và sau đó anh cầu nguyện xin được giấu Mình Thánh Chúa trên trần nhà chuồng trâu.

Tất cả mọi việc đều êm xuôi và anh em sau đó vẫn tiếp tục kín đáo cử hành thánh lễ ngay trong trại cải tạo, duy chỉ có một điều là từ nay anh Hòa sẽ cất giấu Chúa ở ngoài chuồng trâu.

Câu chuyện “Võ Hòa giấu Chúa” được loan truyền rộng rãi trong mọi người như là một phép mầu khiến cho nhiều người tin vào quyền năng Thiên chúa nhiều hơn và có không ít người đã xin rửa tội theo đạo công giáo ngay trong trại cải tạo Gia Trung kể từ sau đó.

Sau gần 7 năm cải tạo, anh được thả ra cho về nguyên quán tỉnh Kontum, ngày anh ra tù, nguyên Chánh văn phòng Tòa hành chánh tỉnh theo cách mạng ngày 30 vẫn còn ở lại trong tù, vẫn tiếp tục được ưu đãi “đoái công chuộc tội” là hàng ngày xách tông đơ đi hớt tóc cho tù nhân, khỏi phải đi lao động ngoài ruộng rẫy. Có lẽ đến giờ nầy ông ấy mới thấm thía câu nói của Tổng Thống Thiệu “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.”

Đã trải qua muôn vàn khó khăn, ngày về của anh Hòa còn thảm thương hơn nhiều, nhà cửa ở thị xã bị cộng sản tịch thu, cả gia đình bị bắt đi vùng kinh tế mới tận trên Ngô Trang (Đakto). Khi anh đi mấy đứa con còn nhỏ dại chưa quen đời sống kham khổ nay đối diện với cuộc sống khó khăn, thiếu thốn vật chất đã đành giờ còn thêm chấn thương về tinh thần. Cha đi tù, mẹ bỏ đi biệt xứ từ rất sớm, bốn anh chị em thì đứa con gái thứ hai mất vì bệnh tật, đứa con trai kế đi chăn bò bị điện giật chết, chỉ còn hai đứa sống nhờ vào người bà con bên Nội ở khu kinh tế mới xã Ngô Trang. Không còn gì để nói thêm nữa, tình cảnh cura anh thật vô cùng bi đát.

Nhưng trong mọi hoàn cảnh anh đều tin có Chúa quan phòng nên rất vững tâm, phấn đấu xây dựng lại cuộc sống. Trong những năm còn ở trong trại cải tạo, thỉnh thoảng anh có nhận được những gói quà 5kg, giờ mới biết đó là do một phụ nữ láng giềng ở khu kinh tế mới giúp đỡ gởi cho. Đồng thời chị cùng hết lòng trợ giúp 2 đứa con của anh, kể từ khi vợ anh bỏ đi biệt không về. Người đàn bà tốt bụng nầy biết anh Hòa trước đây, thời chế độ cũ. Nay thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đình nên chị tự nguyện đứng ra giúp đỡ vậy thôi. Riêng anh Hòa, không thể không nói lời mang ơn nặng đối với người đàn bà có lòng từ tâm nầy khi anh trở về. Chỉ có một cách để đền ơn là ngỏ lời cầu hôn với chị.

Ba tháng sau, đám cưới của hai người đã diễn ra ở khu kinh tế mới Ngô Trang dưới sự chủ tế của Cha sở tại cùng với đông đảo bà con, chòm xóm xung quanh. Kể từ sau đó vợ chồng anh bắt đầu xây dựng lại một mái ấm gia đình thật hạnh phúc, sinh sống bằng nghề nông, trồng lúa, làm rẫy ở nông trường Ngô Trang.

Đến năm 1989 anh nộp đơn xin đi Mỹ định cư theo diện HO, hồ sơ gia đình gồm hai vợ chồng bốn đứa con, hai đứa đời vợ trước, hai đứa đời vợ sau, lại thêm một cháu trai, con của đứa con gái lớn. Thật cũng hơi rắc rối.

Trong khoảng thời gian anh còn ở trại cải tạo, hai đứa con anh sống côi cút ở khu kinh tế mới Ngô Trang, có một anh bộ đội còn trẻ đóng quân ở Đakto thấy hoàn cảnh đáng thương của hai chị em, ngày ngày ra đồng làm thuê, làm mướn sống qua ngày, cô chị tuy đen đúa nhưng không giấu được nét trâm anh và duyên dáng của người thiếu nữ mới lớn nên anh bộ đội ban đầu động lòng trắc ẩn chỉ muốn giúp đỡ thôi, nhưng dần dần theo thời gian thấy vừa hợp nhãn lại vừa lòng nên hai người đã yêu nhau và có với nhau được một đứa con trai. Sau đó anh bộ đội ra quân về sinh sống luôn ở Ngô Trang với gia đình hai chị em trước khi anh Hòa về.

Đến khi có chương trình đi Mỹ theo diện HO, anh Hòa quyết định là hai mẹ con cô con gái lớn được liệt kê trong danh sách gia đình đi định cư với sự đồng ý ở lại của anh con rễ. Khi lên phỏng vấn anh trả lời thật về hoàn cảnh gia đình riêng của mình và được phái đoàn phỏng vấn chấp thuận. Năm 1992 cả gia đình anh lên máy bay đi Mỹ còn anh bộ đội năm xưa đành trở về quê cũ, một làng quê xa xôi ở tận ngoài miền Bắc. Trời Ngô Trang hôm ấy mưa bão sụt sùi.

* * *

Sau khi tàn tiệc cưới, gia đình tôi mời hết gia đình anh 6 người gồm cả con cháu hẹn nhau về Long Beach chơi một bữa BBQ sườn bò Đại Hàn trước khi anh trở về thành phố Baton Rouge, Louisiana. Bữa ấy vui lắm, rượu vào lời ra biết bao nhiêu câu chuyện đời của nhau được kể ra, nhưng cảm động nhất là câu chuyện đứa con gái lớn của anh, sau khi đến Mỹ được hai năm, có nhiều mai mối đàng hoàng đứng đắn, con nhà tử tế ở đây muốn kết tình sui gia với anh nhưng anh để tùy con quyết định.

Một buổi tối, sau khi cơm nước xong xuôi, cô con gái lớn quyết định dứt khoát xin phép ba má cho về quê anh bộ đội năm xưa để làm đám cưới, mặc dù lúc bấy giờ liên lạc về Việt Nam, nhất là ngoài miền Bắc còn rất hạn chế. Anh đồng ý… Và hôm nay trong bữa tiệc tại nhà tôi có sự hiện diện của anh con rể ấy, rất hiền lành, ăn nói thật lễ phép. Tôi nói đùa:

-Thế thì em Trang làm sao quên được.

Nói chung gia đình anh rất an vui hạnh phúc. À mà quên nữa, em Trang sau nầy còn bảo lãnh cho mẹ ruột của mình sang Mỹ sum họp, ở với gia đình em. Thế mới biết con lúc nào cũng thương Mẹ nên không bao giờ lên án mẹ. Tôi hỏi, còn riêng anh thì sao, có gì lấn cấn không. Anh nói:

-Bây giờ mọi chuyện xem như nước chảy qua cầu, tất cả mọi sự trên đời đều do Chúa xếp đặt. Mình có biết đâu mà lấn cấn, còn chuyện vợ chồng còn duyên phận thì ở với nhau, hết duyên thì xa nhau. Chỉ có vậy thôi.

Hiện nay tất cả các con anh đều có gia đình nhà cửa riêng và công ăn việc làm tốt, ổn định. Hai đứa con với người vợ sau, một đứa trai là bác sĩ y khoa, một đứa gái là tiến sỹ vật lý cùng làm việc ở Louisiana, Hoa Kỳ.

Anh nói thêm, sau nầy khi gia đình có đám tiệc mọi người đều cùng họp mặt chung với nhau rất vui vẻ. Tôi hơi liếc khéo nhìn về phía anh vì tôi biết người vợ trước của anh… cũng một thời sắc nước hương trời. Biết ý nhau anh nói nho nhỏ cho tôi vừa đủ nghe:

-Già rồi tình nghĩa là chính, sự đời đã tắt lửa lòng lâu rồi bạn ơi!

Nghe xong tôi chợt nhận ra năm nay anh cũng đã U90 rồi, quỹ thời gian chắc không còn nhiều. Bất giác tôi nhìn lên cổ áo, anh đang đeo một sợi dây chuyền vàng mặt cây thánh giá to quá khổ. Tôi biết anh thường có trang sức dây chuyền mặt cây thánh giá lâu lắm rồi kể từ thời trước nhưng sợi dây chuyền ngày xưa nhuyễn hơn nhiều chứ không to bản như bây giờ. Thấy lạ tôi hỏi như đùa:

-Chắc bây giờ ở Mỹ anh được ơn Chúa nhiều hơn chăng?

-Đúng vậy, sinh hoạt chính hiện nay của tôi là tham dự vào các công tác thiện nguyện ở nhà thờ giáo xứ nơi tôi cư ngụ để tạ ơn Chúa đã cho gia đình tôi nhiều hồng ân chan chứa.

-Anh có về Việt Nam không?

-Có, cách đây vài năm tôi có về Việt Nam lo mồ mả cho cha mẹ, ông bà ở Bình Định.

Anh kể cũng là một chuyện lạ. Anh rời Qui Nhơn (Bình Định) lúc còn nhỏ nên chỉ nhớ lờ mờ khu nghĩa trang địa phương, sau nầy chính quyền giải tỏa biến thành khu đất canh tác, phân lô cho dân chúng trồng trọt. Khi đến nơi quê xưa chốn cũ anh còn nhận ra được khu mộ, một dãy 5 ngôi mộ gần liền nhau của cha mẹ ông bà, trong khi chung quanh mọi người đã san bằng tất cả. Anh hỏi người chủ miếng đất có 5 ngôi mộ sao vẫn còn y nguyên, chị kể:

Khi được chia đất về đây đã có sẵn 5 ngôi mộ nầy, thay vì để thành mã lạn, tôi giữ lại bằng cách bồi đắp mỗi năm vì tin rằng sống trên đời có âm có dương, có người sống cũng có người khuất nên lấy lòng thành mà tôn kính, biết đâu sẽ được người khuất phò hộ.

Nghe qua rất cảm động, anh đề nghị mua riêng khu đất có 5 ngôi mộ này, chị trả lời là không cần thiết, nhưng anh cũng xin một tờ giấy viết tay ghi rõ chu vi khu đất nhỏ nấy dành riêng cho gia đình anh, người em của anh ở Sài Gòn sẽ giữ tờ giấy nầy. Anh tặng cho chị chủ nhân miếng đất 5 ngàn đô la và xin được giúp xây  sửa lại căn nhà của chị cho khang trang hơn, đồng thời hằng năm anh sẽ gởi về cho chị chút đỉnh tiền coi như tiền trông nom mả mồ cho gia đình anh.

Thế mới biết sống hiền lành tử tế, biết giữ gìn nhân cách không có ác tâm, biết thờ kính người đã khuất dù thân hay sơ, rồi ra sẽ được ơn trên phù trợ, giúp tai qua nạn khỏi, chưa kể là sẽ được phúc lộc trời ban.

Chuyện đời của anh đến đây xem như đã nhẹ, giờ đây anh chỉ còn sống theo câu châm ngôn thuộc nằm lòng “kính Chúa yêu người” kể cả người cộng sản.

Trời càng lúc càng khuya, tôi tiễn gia đình anh ra về mà lòng bâng khuâng khó tả, biết còn có ngày gặp lại nữa không. Đời là vô thường mà.

(Long Beach, 2025)


 

NGÀY CỦA CHA- Truyện ngắn HAY

Xuyên Sơn

Một bài viết lấy đi nhiều nước mắt, đọc để thấy được sự vĩ đại của người CHA dành cả cuộc đời cho con mình

Xin chuyển tải hầu quí anh chị

———————–

Một ngày, anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen.

Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt:

– Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây?

Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong hổ thẹn:

– Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm!

Chị sầm mặt xuống:

– Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc đầu lên được. Hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy?

Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ.

Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối:

– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa!

Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối:

– Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được. Anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi. Chỉ cần nửa năm hay vài ba tháng gì cũng được. Em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh sẽ lại đón nó về.

Chị thở dài:

– Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi. Thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã. Có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.

Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi, tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.

……….

Anh và chị trước kia là vợ chồng.

Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Ðông Ðức.

Chị theo học Ðại Học Sư Phạm Hà Nội

Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Ðức.

Chị tốt nghiệp đại học, về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.

Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị,rồi làm thủ tục đón chị sang Ðức.

Vừa sang Ðức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta.

Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu:

Ðể có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được. Chỉ vì vậy mà anh đã không dám mạo hiểm ra làm ăn.

“Ðồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…” đó là câu nói cửa miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.

Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nửa năm mới được về nhà.

Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh.

Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó: Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn thì hỏi làm được gì chứ.

Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.

Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh.

Chị nói, ông buông tha cho tôi,sống với ông đời tôi coi như tàn.

Anh đồng ý vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ ràng buộc sẽ làm khổ chị.

Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói.

Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.

Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.

Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá.

Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.

Thành phố Bremen là thành phố nhỏ. Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau.

Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố.

Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.

Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ.

Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Chị chỉ hiểu, dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu nhưng anh rất thương nó.

Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan.

Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều.

Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà…

………..

Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm.

Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.

Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng.

Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.

Ði học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Ðứa em trai cùng mẹ của nó, cũng như mẹ nó và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó.

Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố.

Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.

Em trai nó học thêm piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn piano rất đẹp để ở phòng khách.

Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt.

Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa.

Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lõm bõm:

“…đàn… đàn…klavia…con muốn…” Anh thở dài và hát cho nó nghe.

Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó.

Rồi thưa dần, thưa dần….

Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa.

Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học.

Chị không biết gì cứ mắng nó giở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn piano vang lên.

Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa.

Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng.

Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc.

Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi piano điêu luyện như vậy.

Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng nên chị không quan tâm.

Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì… Và chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo… sống với cha êm như làn mây trắng… Nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con…với tháng năm nhanh tựa gió… Ôi cha già đi, cha biết không…”

Chị vòng tay ra trước cổ nó và ôm nó vào lòng.

Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm.

Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lồng ngực.

Nó khóc.

Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó.

Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.

Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa.

Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả.

Nó gật đầu. Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.

Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ.

Ðại ý là nó diễn đạt rằng:

– Bố lên ở trên Thiên Ðường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con.

(Đoàn Đức)

Nguồn fb Lê Trung Thận


 

 Thúng hột vịt lộn – Tác giả : Nguyễn Đan Tâm-Truyện ngắn HAY

 Tác giả : Nguyễn Đan Tâm

Lài là con gái lớn nhứt trong một gia đình lao động nghèo ở Xóm Chiếu, Khánh Hội quận 4, Sài gòn, trước năm 1975. 

Sau khi xong bậc tiểu học, Lài đã phải nghỉ học để giúp gia đình. Hằng ngày, Lài đội thúng hột vịt lộn đi dọc theo đường Trình Minh Thế ra bến Bạch Đằng, bán cho du khách hóng gió mát, ngắm cảnh ghe tàu đi lại trên sông Sài gòn. 

Tiếng rao: 

– “Ai vật lộn hôn?” kéo dài nghe ngọt ngào, khiến đám thanh niên có cớ chọc ghẹo. 

Lài nghiêm mặt, ngó thẳng đi luôn. Cũng may, đám thanh niên không có hành động xàm xở. Đi từ xế chiều đến tối hẳn mới về. Hôm nào gặp trời mưa, vắng khách thì hột vịt ế, Lài thường về trễ. Tiền lời kiếm được phụ vào chi tiêu gia đình tất cả 8 miệng ăn. 

Ba Lài làm lao công khuân vác bến tàu. 

Má Lài bán gánh cơm tấm nhỏ ở chợ Xóm Chiếu. 

Gia đình Lài tạm sống trong căn chòi lá nằm ven rạch đổ ra sông Sài gòn. 

Những ngày cuối Tháng Tư năm 1975, bến Bạch Đằng trở nên náo nhiệt lạ thường, người người xuôi ngược, chạy đôn, chạy đáo kiếm tàu để vượt biên xa lánh làn sóng đỏ. 

Mấy hôm đó, Lài bán được nhiều, mỗi ngày hơn 3, 4 thúng. Tiền lời kiếm được nhiều khiến cả nhà vui vẻ. 

Hôm nay là 29 hay 30 Tháng Tư gì đó, Lài đã chuẩn bị luộc nhiều hột vịt. Thằng em được giao nhiệm vụ đi, về bưng thêm hột vịt cho chị. Thấy mọi người hối hả leo lên chiếc tàu lớn, Lài bưng thúng đi theo, hy vọng bán được hơn. Thiệt vậy, đông người qua lại, người mua cũng nhiều, có người cho Lài luôn tiền thối. Dường như ai cũng nghĩ tiền sẽ vô dụng. Thúng hột vịt hết mau. Đây là thúng thứ ba kể từ sáng. Lài bưng thúng định xuống tàu để lên bờ. Nhưng con tàu đã tách khỏi bờ mà vì lo bán cho khách, Lài không biết. Lài hốt hoảng, cố len đám đông chạy tìm lối xuống nhưng con tàu ngày càng xa bờ.

Lài mếu máo rồi khóc thành tiếng:
– Ba ơi, Má ơi, các em ơi! Làm sao bây giờ?

Có mấy bà tội nghiệp an ủi Lài mấy câu. Con tàu ngày càng xa dần bến, tiến ra giữa sông Sài gòn trực chỉ biển Đông. Trời tối dần. Lài cứ khóc thút thít rồi ngủ gục bên cái thúng.

Tiếng la to:
– “Tới biển rồi” làm Lài tỉnh giấc thì trời đã sáng.

Gió mát thổi mạnh. Con tàu lắc lư nhưng cứ tiến về hướng đông. Tàu đến Phillippines, rồi Lài được máy bay đưa sang đảo Guam. Sau đó, đến Camp Pendleton thuộc tiểu bang California. Cuộc hành trình tuy dài và mệt, nhưng không khổ vì có quân đội Mỹ lo cho mọi thứ. Vì Lài mới 13 tuổi nên được gia đình người Mỹ bảo trợ ra trại sau mấy tháng chờ đợi. Lài được đến trường đi học. Gia đình nầy không con, thấy Lài lanh lợi, năng động trong công việc nên quí Lài vô cùng. Cha mẹ nuôi khuyến khích Lài đi làm thêm tại các siêu thị sau giờ học nên Lài để dành được khoản tiền nhỏ.

Năm năm sau, Lài bắt đầu liên lạc thơ từ với ba má tại Việt Nam. Mọi người mừng rỡ khi biết tin Lài còn sống và đang ở Mỹ. Sau khi tốt nghiệp trung học, Lài học nghề nursing 4 năm rồi đi làm trong bịnh viện. Lài còn học thêm mấy chứng chỉ chuyên môn nên tay nghề khá vững. Công việc lương cao cộng thêm cách ăn xài của con nhà nghèo giúp Lài để dành một khoản tiền lớn. Thỉnh thoảng, từng gói quà được Lài chắt chiu gởi về giúp ba má, các em qua cơn thiếu thốn. Lài mua nhà, ra riêng, khi cha mẹ nuôi quyết định về hưu tại miền bắc. Rồi ngày vui đến khi cả xóm nghèo rộn lên để tiễn đưa ba má Lài và các em sang Mỹ đoàn tụ. Lài đón cả gia đình về căn nhà nhỏ ở Garden Grove.

Trong nhà, cái thúng hột vịt lộn do Lài mang ra từ trại tị nạn được đặt vào chỗ trang trọng nhứt, để kỷ niệm những ngày xuôi ngược nơi bến Bạch Đằng, cũng như nhờ nó mới có ngày nay.

Từ bây giờ, Lài có khả năng lo cho ba má và các em tạo dựng cuộc đời mới. Lài nghĩ tới chuyện mở một quán cơm tấm tại khu Bolsa để tạo việc làm cho cả gia đình.

Má Lài là đầu bếp chánh, các em phụ giúp trong ngoài nên không cần mướn ai.
Quán cơm tấm bình dân “Viễn Xứ” khai trương không rầm rộ nhưng nhờ cơm tấm ngon nên khách đồn nhau kéo đến.
Ngoài việc nhà, các em lo học tiếng Mỹ, học nghề để mưu sinh mai sau. Một tương lai tươi sáng chờ đón gia đình Lài tại Mỹ.
Tất cả đều từ thúng hột vịt lộn. “Ai vật lộn hôn?” cứ vang lên mãi trong đầu của Lài.
Nguyễn Đan Tâm ( Tác giả )
From: Tu – Phung