Ơn Người –  Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Tác giả là cư dân San Diego, đã hai lần thắng giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2001, với bài “Hoa Ve Chai”, ông nhận giải danh dự. Ba năm sau, với bài viết “Giọt Nước Mắt,” kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004. Ông tiếp tục viết bài và tham gia sinh hoạt giải thưởng VVNM hàng năm. Mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tác giả gửi đến Viết Về Nước Mỹ một loạt 5 bài bút ký thấm đậm tình người từ trong gia đình đến những người thân quen của mình. Sau đây là bài thứ nhất “Ơn Người”.

 ***

 Thật khó ngờ rằng, bước vào tuổi nghỉ hưu, tôi vẫn còn dịp lo liệu cho tuổi già của bố mẹ. Chính trong những ngày ấy, tôi bắt đầu nghĩ về tuổi già, không của ai khác mà của chính mình. Khi va chạm với thực tế, tôi thấy hình bóng tương lai của mình trong từng chi tiết nhỏ: nào khó khăn lúc bước vào trong xe, nào không thể tự mặc cho mình manh quần tấm áo.

Tôi là con cả trong một gia tộc đông anh em. Dù đã sống trên đất Mỹ lâu hơn khoảng gần ba mươi năm so với thời gian tôi từng sinh sống ở quê nhà, tôi vẫn giữ lối nghĩ của người Việt: phận làm con là phải chăm sóc cha mẹ lúc xế chiều, như một phần máu thịt, chẳng cần ai nhắc. Có lúc đứng một mình, tôi tự hỏi rằng đã sẵn sàng cho vai trò đó đến đâu, và câu trả lời luôn dẫn tôi về với trách nhiệm không thể thoái thác. Dẫu tôi có đến bảy đứa em và mấy chục đứa cháu, tôi vẫn coi phần chính của bổn phận ấy thuộc về mình.

Cũng như nhiều người Việt ở nơi đây, bố mẹ tôi thường bóng gió nhắc về nỗi sợ bị đưa vào “nhà già”. Tôi hiểu sự ám ảnh ấy: phần đông người lớn tuổi gốc Việt không quen tiếng Anh, ít hợp với thức ăn bản xứ, và hơn hết họ mong được dưỡng bệnh tại nhà, nằm trên chiếc giường quen thuộc giữa hơi ấm con cháu.

Tôi vẫn thắc mắc tại sao người Việt gọi nursing home là “nhà già” hay “viện dưỡng lão”, hai cách gọi nghe quen mà chua chát, như chứa một nỗi buồn, một hàm ý bị bỏ rơi. Có lẽ trong ký ức nhiều người, nơi ấy không gắn với hình ảnh yêu thương mà chỉ là trạm dừng cuối đời: vắng con cháu, vắng tiếng cười thân quen. Nghe bố mẹ nói đến điều đó, lòng tôi xót xa, vừa muốn tìm cách giữ ông bà ở nhà, vừa lo rằng đôi khi người nhà cũng bất lực trước những nhu cầu chăm sóc chuyên môn. Tôi hiểu rằng điều bố mẹ cần không chỉ là chỗ ở, mà là phẩm giá, là kỷ niệm và những gì thân thuộc thường dùng.

Thật ra, ở Mỹ nursing home không chỉ dành cho người già, mà cho bất kỳ ai cần chăm sóc y tế dài hạn, đó là một phần trong hệ thống chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp. Tuy nhiên khác biệt văn hóa và quan niệm về sống chết khiến nhiều người Việt giữ khoảng cách với nơi ấy. Vì vậy, tôi xin gọi đúng tên: nursing home.

Mỗi lần nghĩ đến tuổi già của bố mẹ, tôi lại nhớ đến Dick, người bạn Mỹ gốc Mexico từng làm chung hãng với tôi. Dick thường kể về mẹ già của anh: bà không thể tự lo suốt hơn mười năm cuối đời. Thay vì đưa bà vào nursing home, các anh chị em quyết định thuê hai phụ nữ người Mễ thay phiên nhau đến nhà chăm sóc cho bà cả ngày lẫn đêm. Con cái, cháu chắt ai rảnh thì ghé thăm, ai nấy đều yên tâm vì bà luôn có người kề cận. Nghe Dick kể, trong tôi hiện lên hình ảnh những bàn tay quen thuộc chăm sóc, tiếng Tây Ban Nha thì thầm và mùi bột ngô trên bếp, một khung cảnh ấm áp khác hẳn với chiếc giường lạnh lẽo cô đơn nơi nursing home.

Từ chuyện của Dick, tôi thầm nghĩ: nếu đến lúc bố mẹ tôi cần, tôi cũng sẽ làm như vậy. Tôi tự hứa với lòng: tôi sẽ cố gắng giữ bố mẹ ở nhà, dù phải sắp xếp lại cuộc sống hay nhờ đến sự giúp đỡ chuyên môn, để ông bà được quanh quẩn bên gia đình, bên cạnh những gì thân thuộc nhất.

*

Và rồi, ngày ấy cũng đến. Sau buổi tiệc mừng thượng thọ, bố tôi bỗng lên cơn đau tim, phải đưa vào cấp cứu. Gần hai tuần sau, từ phòng hồi sức ông được chuyển sang nursing home để phục hồi chức năng. Sau hơn ba tháng, tuy đã đi lại được, nhưng trí nhớ suy giảm rõ rệt và ông không còn tự lo vệ sinh cá nhân được.

May thay, mẹ tôi vẫn khỏe, cố gắng chăm sóc chồng. Nhưng ai cũng hiểu bà không thể gồng gánh mãi một mình. Suốt ba tháng luân phiên vào nursing home chăm bố, anh em con cháu ai nấy đều thấm mệt. Khi bố được cho về nhà, mọi người đồng thuận phải tìm người giúp việc toàn thời gian.

Tôi đứng ra đăng báo tìm người, nhưng quyền quyết định hoàn toàn thuộc về mẹ tôi. Sau vài lần thay người, cuối cùng mẹ tôi mướn được một chị tên Trần Thị Ái Hoa. Chị không chỉ có cái tên đẹp, mà còn là người đoan trang, khuôn mặt sáng, giọng nói nhẹ nhàng, chừng mực. Sau này tôi mới biết chồng đầu của chị từng là bác sĩ quân y trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tử trận không lâu sau biến cố 1963. Từ đó đời chị gập ghềnh, nhưng vẫn giữ phẩm hạnh và lòng kiên nhẫn đáng quý.

Lần đầu gặp chị, tôi thấy tóc chị còn đen nhánh, áo quần tươm tất, cử chỉ nghiêm trang; nhưng chỉ hơn một tháng sau, tôi sững sờ khi thấy tóc chị bạc trắng như sương. Lúc ấy chị mới thú thật: chị đã gần bảy mươi. Khi đến xin việc, sợ bị chê già, chị đã nhuộm tóc và khai ít tuổi hơn. Chị còn giấu việc mình theo đạo Công giáo, e ngại bố mẹ tôi, vốn theo tín ngưỡng khác, có thể ngại ngùng.

Dần dà, tôi hiểu thêm hoàn cảnh chị. Chị sang Mỹ theo diện du lịch, làm đủ nghề: trông nhà, nấu bếp, chăm người già, từng đi qua nhiều thành phố và nhiều tiểu bang; có nơi không hợp, có nơi bị đối xử tệ. Về đến San Diego, chị nương nhờ người anh họ, rồi đọc tin tìm người của gia đình tôi và đến xin việc. Mẹ tôi nhận ngay, chị mừng đến rơi nước mắt.

Ngay lần gặp đầu, tôi có một linh cảm khó tả: nếu chị Hoa về sống với bố mẹ tôi, đó sẽ là sự kết hợp tốt đẹp. Một người cần một mái ấm, một gia đình cần một tấm lòng. Chị cần chốn nương thân, một căn phòng riêng và góc yên bình để an trú tuổi già. Căn hộ của bố mẹ tôi dư ra đúng một phòng ngủ có nhà tắm riêng. Chị là người ngoan đạo, lại cách thánh đường có lễ tiếng Việt vài trăm thước, vừa đủ để chị thong thả đi bộ đến dự lễ sớm chiều.

Gia đình chúng tôi cần một người luôn túc trực trong nhà, không chỉ chăm sóc bố mà còn đỡ đần mẹ trong bếp núc, dọn dẹp. Ngay từ những ngày đầu, chị xin phép được gọi bố mẹ tôi là Bố và Mẹ, và xin được coi như con trong nhà. Tôi nghe chị gọi hai tiếng ấy, không khách sáo, không gượng gạo, chỉ thấy thân thuộc, tự nhiên và đầy tình cảm.

Việc khó khăn và tế nhị nhất là chuyện vệ sinh cá nhân; đó là điều rất nhạy cảm mà ít ai chịu làm nếu không thật lòng thương. Thời gian trôi, sức khỏe bố dần khá hơn: ông ăn uống được, đi lại quanh nhà, nhưng vẫn phải mang tã và chưa thể tự lo vệ sinh. Thấy chồng khỏe lên, mẹ tôi bắt đầu có ý định giảm bớt tiền công cho chị. Một chiều, vợ tôi tìm chị để nói riêng:

– Chị đừng lo. Mẹ trả bao nhiêu, chị cứ nhận. Phần còn lại, các em sẽ bù riêng cho chị.

Nói những lời ấy, lòng tôi vui vì chị sẽ không phải lo lắng chuyện tiền bạc trong những ngày tuổi già.

*

Khi quyết định sang Mỹ, chị Hoa để lại sau lưng một gánh lo không nhỏ: người mẹ già ngoài chín mươi và cô con gái sống đơn độc, chật vật nuôi hai đứa con dù chúng đã quá tuổi trưởng thành. Cũng như nhiều gia đình Việt có thân nhân ở xứ người, người nhà ít khi hỏi han chị sống ra sao, làm nghề gì, họ mặc nhiên nghĩ rằng ở bển thì dễ kiếm tiền, như nhặt lá mùa thu.

Mỗi lá thư nhà gửi sang thường kèm theo một danh sách: lúc xin thuốc bổ, lúc nhờ mua điện thoại, máy đo huyết áp, áo ấm, đồng hồ… Có khi chẳng xin gì, chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Ở đây khổ quá, má à!” Chị làm được bao nhiêu đều chắt chiu gửi về: phần cho mẹ, phần cho con và hai đứa cháu ngoại. Ngoài ra, chị còn đóng góp cho giáo hội Việt Nam, cho giáo xứ quê nhà, nơi in đậm dấu chân tuổi thơ và biết bao kỷ niệm. Mỗi khi quê nhà gặp thiên tai, lũ lụt, chị lại nhờ người quen quyên góp, gửi về cho bà con khốn khó. Nghe những việc chị làm, tôi cảm nhận một tấm lòng luôn hướng về nguồn cội. Trong những món quà gửi về có cả nỗi nhớ, cả niềm hy vọng chị muốn giữ cho gia đình mình.

Nhắc đến quê, mắt chị thường đỏ hoe. Có khi đang kể, chị bỗng lặng thinh, đưa tay quệt vội giọt nước mắt. Tôi hiểu đó không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nỗi xót xa cho những thân phận gần gũi mà chị không thể ở bên. Một chiều cuối tuần, tôi đưa cả nhà đi dạo công viên Balboa. Trong nắng nhạt, gió nhẹ, hoa nở rực bên lối đi, thấy chị đứng lặng, quay mặt lau nước mắt, vợ tôi hỏi:

– Sao chị khóc?

Chị nhỏ nhẹ:

– Trời ơi, xứ người ta đẹp quá. Không biết chừng nào nước mình mới được như vầy?

Câu nói như một tiếng thở dài. Từ đó, tôi hiểu vì sao, dù sống trong căn phòng nhỏ nơi đất khách, với công việc chẳng nhẹ nhàng gì, chị vẫn chan chứa tình thương và hy vọng. Những khoảnh khắc ấy khiến tôi thấy mình có một trách nhiệm mới: chăm sóc chị như người nhà, vì chị đã chọn gắn bó cuộc đời mình với gia đình chúng tôi.

Thay vì nhắc chị phải thương yêu và chăm sóc bố mẹ tôi, chính tôi mới cần học cách thương và lo cho chị. Vợ chồng tôi đối đãi với chị bằng tất cả lòng tin, không dè dặt, không toan tính. Nhiều buổi trưa chiều đi dạo, tôi thấy chị lặng lẽ đi sau, mắt không rời bố mẹ tôi, như sợ ông bà trượt chân, sẵn sàng đưa tay ra đỡ. Chị ít nói, nhưng trong lòng chị, ông bà đã thành cha mẹ ruột tự thuở nào.

*

Ông Minh, anh bạn thân, thấy vợ chồng tôi tất bật lo cho bố mẹ, có lần khuyên:

– Ông bà có tám người con. Trừ một người ở xa, còn lại bảy đứa đều gần. Sao chú thím không chia nhau, mỗi người phụ trách một ngày? Vừa công bằng, vừa giúp chú thím đỡ vất vả.

Tôi chỉ cười:

– Tụi em nghỉ hưu rồi, thời gian rảnh rỗi nhiều hơn. Mấy đứa em còn bận con cái, cơm áo, công việc, lo cho nhà mình chưa xuể, làm sao ngồi cả buổi ở nursing home trông bố em được.

Nói vậy cho xuôi chuyện, chứ tôi nghĩ khác. Chăm sóc cha mẹ không phải là chuyện chia phần cho công bằng, càng không thể tính thiệt hơn. Đó là việc của trái tim, của tình cảm chảy từ huyết quản, chẳng thể đo đếm bằng giờ giấc hay công sức. Tôi không đòi hỏi gì ở các em, cũng không trách ai, mỗi người có hoàn cảnh và nhịp sống riêng mà người ngoài khó hiểu hết. Tôi chỉ âm thầm làm phần mình, tận hưởng những ngày còn được nhìn thấy ông bà khi tuổi đã xế chiều. Với tôi đó là một ân phước không thể tính toán, so bì được.

*

Một lần, khi tôi đang ghé thăm một người bạn, ở cách nhà bố mẹ vài dặm, điện thoại reo dồn dập. Vừa áp máy vào tai, đã nghe giọng vợ tôi hốt hoảng:

– Anh ơi, bố trốn khỏi nhà hơn mười lăm phút rồi!

Tôi như chết lặng, lao ra xe phóng ngay về. Vừa tới nơi, thấy chị Hoa đứng thẫn thờ ở cửa, mặt tái nhợt. Nhận ra tôi, chị òa lên khóc:

– Thấy bố ngủ say, chị tranh thủ giặt đồ. Ai ngờ chỉ mới vài phút là ông mở cửa lẻn đi mất…

Mẹ tôi run run nói: 

– Mẹ với chị Hoa và mấy người hàng xóm tìm khắp nơi mà không thấy…

Tôi đưa mẹ và chị Hoa lên xe, bắt đầu tìm kiếm. Tôi lái, mẹ nhìn bên trái, chị Hoa nhìn bên phải. Xe chạy hết con dốc này sang con đường kia, vòng quanh khu xóm. Mẹ không ngừng nhắc:

– Hồi sáng bố đi dọc khúc này… Hôm qua thì ghé coi mấy bụi hồng chỗ kia…

Chạy theo hướng mẹ chỉ đến mấy lần vẫn không thấy. Lo lắng cứ quấn chặt đầu óc, mọi thứ xung quanh chợt lặng thinh.

Lòng tôi nóng như lửa đốt. Đây là lần đầu tiên tôi gặp cảnh như vậy: một cụ già lẫn trí nhớ, lang thang ngoài đường, không biết mình là ai, chẳng biết đi về đâu. Tôi quay sang hỏi mẹ:

– Hay mình về nhà, gọi 911 đi mẹ?

Mẹ gật đầu. Về đến nhà, tôi gọi liền tức khắc. Nghe tôi trình bày, tổng đài viên trả lời ngay rằng họ sẽ cử người hỗ trợ. Độ mười phút sau, ba xe cảnh sát hú còi tới. Sau khi hỏi kỹ lưỡng nào: tên, tuổi, đặc điểm nhận dạng, quần áo ông mặc khi rời nhà, họ tỏa ra khắp khu vực, kiểm tra từng ngõ ngách, gõ cửa hàng xóm. Mọi hành động nhanh nhẹn, chuyên nghiệp.

Chị Hoa đứng ngồi không yên, hết nhìn đồng hồ lại liếc ra cửa. Mỗi lần có tiếng động lạ hay dáng người lướt qua, chị khựng lại rồi thở dài. Lâu lâu chị nhìn vợ chồng tôi, lẩm bẩm:

– Bố đi đúng một tiếng mười lăm phút rồi đó cậu mợ ơi…

Rồi chị bước vào phòng, quỳ trước tượng Đức Mẹ Maria, chắp tay khấn nguyện. Khi trở ra, chị ngồi xuống bên mẹ tôi, vòng tay ôm bà:

– Sao bố đi lâu quá vậy mẹ ơi… Không biết có khát không, có ai cho uống nước không? Hay là… bố đang ngồi hoặc nằm đâu đó, không ai hay biết?

Chị lại khẩn khoản:

– Cậu chở chị đi tìm bố nữa. Chị nhớ rõ mấy đoạn đường bố thích đi lắm… luôn cả mấy nhánh hoa ven đường…

Tôi gật đầu, cùng chị lên đường thêm một lần, nhưng suốt chặng quẩn quanh khu phố vẫn không thấy bóng dáng bố tôi. Mỗi phút trôi qua như kéo dài vô tận; tôi chỉ mong thấy bóng dáng quen thuộc đang lầm lũi bước trên đường.

*

Sau hơn cả giờ tìm khắp khu phố mà vẫn không thấy bóng dáng bố, hai nhân viên cảnh sát quay trở lại. Một người đẩy cánh cửa lưới bước nhanh vào nhà, người kia theo sau dắt một con chó nghiệp vụ cao lớn, lông xám, đôi mắt sáng rực. Vừa thấy tôi đến, viên cảnh sát nói ngay:

– Thưa ông, vẫn chưa tìm thấy ông cụ. Giờ chúng tôi sẽ dùng chó nghiệp vụ. Xin ông lấy ra mấy món đồ của ông cụ thường dùng, như quần áo, khăn hoặc bất cứ thứ gì có mùi quen thuộc.

Tôi vừa dịch lại xong, chị Hoa tức tốc bước vội vào phòng. Chỉ lát sau chị trở ra, tay ôm chiếc áo len và cái quần ngủ cũ của bố, run run chìa ra:

– Đây… áo bố mặc hôm qua… quần này sáng nay chị mới thay cho bố…

Giọng chị nghèn nghẹn, tay nắm chặt mớ quần áo như ôm vật quý giá. Một viên cảnh sát nhận lấy chiếc áo, cúi xuống đưa sát mũi con chó; con vật rít khẽ, vểnh tai rồi bắt đầu đánh hơi quanh phòng.

Viên cảnh sát trấn an:

– Chúng tôi đang cho chó bắt mùi. Giờ chỉ còn trông vào nó dẫn đường.

Chị Hoa nép sang một bên, hai tay đan chặt. Trước khi rời đi, viên cảnh sát còn nói thêm:

– Nếu chó nghiệp vụ không tìm được, chúng tôi sẽ xin trực thăng hỗ trợ.

Tôi lặng người. Trước mắt tôi, hai viên cảnh sát Mỹ, một con chó nghiệp vụ, một người phụ nữ Việt tóc pha sương, và cả căn nhà đang nín thở trong lo âu. Tất cả vì một ông cụ gốc Việt, đã già, đã lẫn, đang đi lạc giữa một thành phố rộng lớn. Tôi dõi theo bóng họ khuất dần ngoài ngõ, cổ họng nghẹn lại. Không ngờ để tìm một người già lại quan trọng đến như vậy. Lòng tôi dâng lên một niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người đang đứng trước mặt tôi. Tôi thấy mình mang một món nợ ân tình quá lớn với đất nước này.

Cánh cửa khép lại; căn nhà yên ắng nhưng không bình yên, mà là thứ lặng ngắt căng thẳng. Chị Hoa đi ra đi vào, mắt không rời chiếc đồng hồ treo tường; mỗi tiếng “tích tắc” như đè nặng lên từng phút chờ đợi. Chốc chốc chị khựng giữa phòng, môi mấp máy lời cầu nguyện.

Bất chợt, điện thoại tôi rung. Là cảnh sát, giọng ông ta reo vui:

– Chúng tôi đã tìm thấy ông cụ. Con chó đã lần ra dấu, cách nhà hơn ba dặm. Ông cụ lang thang một mình, không hề hấn gì. Chúng tôi sẽ đưa ông về trong vòng mười phút.

Tôi buông điện thoại, nghẹn giọng báo tin. Cả nhà như vỡ òa. Mẹ chắp tay ngước lên trần, lẩm bẩm tạ ơn. Chị Hoa vội chạy vào phòng, quỳ rạp xuống sàn; tượng Đức Mẹ trong ánh sáng lờ mờ như đang lắng nghe tiếng khấn của một đứa con đầy niềm tin.

Chẳng bao lâu sau, viên cảnh sát trẻ dìu bố tôi vào hành lang. Dáng ông lom khom, bước chậm nhưng tỉnh táo. Vừa thấy ông, chị Hoa lao ra, quỳ sụp trước viên cảnh sát, chắp tay lạy lia lịa:

– Con cám ơn ông cảnh sát. Con cám ơn ông đã cứu bố con.

Viên cảnh sát hơi khựng, nhìn ngơ ngác; tôi bước tới giải thích:

– Xin lỗi anh, đây là cách người Việt tạ ơn người giúp đỡ. Chị xúc động quá.

Anh gật đầu, mỉm cười, dìu bố tôi đến ghế salon. Bố vừa đặt người xuống, chị Hoa ngồi bệt dưới chân, bóp nhẹ đũng quần ông rồi lo lắng hỏi:

– Bố đi gần ba tiếng đồng hồ mà không có đái sao bố?

Tôi chết lặng. Từng cử chỉ của chị, từ quỳ tạ ơn cảnh sát đến chăm sóc tỉ mỉ cho bố, khiến tôi không nói nên lời. Trong khoảnh khắc đó, lòng tôi vừa trào dâng sự biết ơn vừa chua xót vì nhận ra có những việc người khác đang làm thay cho mình. Chị Hoa đã làm tất cả những việc lẽ ra một người con trưởng phải làm: chờ đợi, tìm kiếm, cầu nguyện, chăm sóc từng ly từng tí.

Vợ chồng tôi nhiều lần bàn bạc: phải làm gì để đền đáp tấm lòng chị. Có nên tăng lương? Nhưng rồi tự hỏi tiền bạc có phải điều thiết thực nhất cho chị? Tôi hiểu lẽ sống của chị là vì người khác; bao nhiêu công khó chị đều gửi về quê, phần cho mẹ già, phần cho con và hai đứa cháu ngoại. Cuối cùng, chúng tôi quyết định một phương án thực tế và lâu dài: giữ lại phần tiền công trả thêm mỗi tháng cho chị, tính luôn từ đầu năm, để trao lại vào ngày chị không còn làm cho bố tôi nữa.

Hôm ấy, vợ tôi nhẹ nhàng nói:

– Chị an tâm, khi nào chị nghỉ hẳn, tụi em sẽ đưa lại đầy đủ. Không phải để ép chị làm mãi; nghỉ lúc nào là quyền của chị. Tụi em chỉ mong chị yên tâm mà lo cho bố.

Chị Hoa ngơ ngác, mắt chớp nhanh:

– Sao cô chú lại cho chị nhiều thế?

Tôi chỉ mỉm cười. Thành thật mà nói, đó là tất cả những gì vợ chồng tôi có thể làm để bày tỏ lòng biết ơn, một sự đáp đền giản dị cho tấm lòng chị đã trao cho gia đình chúng tôi.

*

Rồi cũng đến ngày không ai mong muốn. Một buổi sáng như mọi khi, cả nhà ngồi ăn thì bố tôi bỗng đổ gục xuống bàn, đột quỵ. Mẹ tôi hốt hoảng gọi cấp cứu; xe đến rất nhanh, đưa ông vào bệnh viện. Tôi cũng chỉ biết đứng lặng yên nhìn cha mình nằm bất động, thoi thóp trên giường với dây nhợ giăng khắp thân người. Nhờ có chị, những ngày cuối đời của bố, con cháu đỡ vất vả nhiều. Không ai phải bỏ việc hay đảo lộn cuộc sống để túc trực liên tục bên giường bệnh. Khi có người nhà ở cạnh, chị nhẹ nhàng rút lui; khi vắng, chị lại ngồi kề bên ông, canh từng giấc ngủ, lau mặt, vuốt trán, trò chuyện vu vơ như đang nói với một người còn nghe, còn hiểu. Những cử chỉ ấy giản dị nhưng ấm áp hơn mọi lời an ủi.

Ngày bố tôi ra đi, giữa những người khóc tiễn đưa có lẽ chị Hoa khóc nhiều nhất, không phải vì bổn phận, mà vì tình thương âm thầm tích tụ qua từng bữa cơm, từng lần thay áo, tắm rửa, từng ngày sống bên ông như người thân ruột thịt. Nhìn chị ôm lấy bàn tay bố khi ông rời đi, tôi nhận ra tình thương không đo được bằng lời, chỉ bằng những hành động thầm lặng mà người ở lại sẽ nhớ mãi.

Từ dạo ấy, vợ chồng tôi không còn coi chị là người giúp việc nữa, mà xem chị như một người chị trong nhà. Phần tiền lương tăng, chị vẫn gửi lại, chân tình nói:

– Cô chú mà không thương giữ giúp chị, thì biết đưa cho ai?

Tôi cũng xin nói rõ rằng mọi chi phí chăm sóc bố mẹ đều có sự góp sức của từng đứa em trong gia đình. Nhờ vậy, tình nghĩa anh em vẫn bền chặt, và trong nỗi mất mát, chúng tôi tìm thấy nhau nhiều hơn.

Sapy Nguyễn Văn Hưởng

From: Phi Phuong Nguyen

NGƯỜI MẸ TRONG CĂN BẾP TỐI – Truyen ngan HAY

Tu Le

Căn bếp của bà lúc nào cũng mờ mờ khói. Không phải vì lửa lớn, mà vì mái bếp thấp, cửa nhỏ, khói chẳng có đường đi, cứ quẩn lại, bám vào tóc bà, vào áo con, vào bức tường đã đổi màu theo năm tháng. Ai đến cũng bảo căn bếp ấy khổ quá, sao không làm lại cho sáng sủa hơn.

Bà chỉ cười: “Bếp có sáng hay không, là ở nồi cơm có nóng.”

Bà sinh bảy đứa con trong một căn nhà không đủ chỗ cho bảy cái chiếu. Chồng mất sớm. Từ ngày ông gói ghém đời mình trong chiếc quan tài mỏng, căn nhà chỉ còn tiếng thở của đàn trẻ và những buổi chiều gió lùa lạnh ngắt.

Vậy mà, trong căn nhà ấy, không đứa nào lớn lên bạo liệt.

Lạ thật.

Người ta bảo nghèo sinh trộm cắp, đói dễ sinh liều. Nhưng đàn con bà lớn lên, mỗi đứa một phận, không ai thành kẻ dữ. Họ vụng về, có khi thua người ta nửa bước, nhưng chưa từng bước lầm sang phía tối.

Bởi giữa căn bếp tối ấy, có một ngọn đèn leo lét chưa từng tắt.

Ngọn đèn ấy không sáng bởi dầu – mà bởi sự nhẫn nhịn của người mẹ mỗi ngày.

Có lần, đứa con trai lớn ăn cắp tiền chợ của mẹ. Không nhiều, chỉ đủ mua gói thuốc. Người ta tưởng bà sẽ đánh. Nhưng bà không.

Bà ngồi xuống, bưng chén cơm nguội đặt trước mặt con, rồi nói:

“Tiền của mẹ, ăn cắp thì có. Nhưng lòng của mẹ, lấy trộm thì không bao giờ đủ.”

Rồi bà ăn trước. Ăn rất chậm.

Từ hôm đó, đứa con trai bỏ thuốc.

Cũng có lần, một đứa con gái khóc vì bị người ta chê nghèo mà đòi bỏ học. Nó gào lên: “Học để làm gì? Người ta cười con suốt!”

Bà không mắng, chỉ vá lại cái áo rách, rồi mặc vào cho con, vuốt thẳng nếp cổ, và nói:

“Người ta cười vào áo con, không phải cười vào lòng con. Con đừng cởi trí tuệ ra chỉ vì chiếc áo nghèo.”

Đứa bé quay lại trường.

Sau này thành cô giáo.

Người mẹ ấy chưa từng nói đến đạo làm người. Nhưng từng bữa cơm của bà là một bài giảng không chữ. Từng lần bà nhịn là một chương sách không tên. Những đòn roi bà không dùng – chính là cách bà đánh thẳng vào cái ác trong con.

Bà nghèo tiền, nhưng không bao giờ nghèo tình.

Bà ít chữ, nhưng dạy con bằng những điều không ai viết được.

Bà lặng lẽ, nhưng trong sự lặng lẽ ấy, cả một dòng đời được uốn lại.

Ngày bà mất, không ai trong làng tổ chức rình rang. Đám tang đơn sơ, vài vòng hoa rẻ tiền, mấy ông hàng xóm nói chuyện nhỏ nhẹ. Nhưng lạ thay, cả bảy đứa con đều quỳ rất lâu.

Không ai khóc thành tiếng.

Chỉ cúi đầu.

Bởi lúc người mẹ còn sống, nước mắt đã được lau từ trước.

Sau này, những đứa con lớn lên mỗi người một phương. Có người thành đạt, có người đủ sống, có người chật vật. Nhưng mỗi khi gặp chuyện bất nhẫn, bất công, họ đều im lặng rất lâu trước khi nói.

Có ai đó từng hỏi: “Nhà nghèo vậy, sao không có đứa nào hư?”

Một người con trả lời rất khẽ:

“Vì đã có một người sống hiền thay cả phần đời của chúng tôi.”

Căn bếp cũ sau này được đập đi. Nhà được xây lại. Bếp sáng trưng. Nhưng trong gian bếp ấy, vẫn có một bức ảnh cũ được đặt ngay ngắn.

Không lồng kính sang trọng.

Chỉ là khung gỗ mộc.

Trong ảnh, một người mẹ ngồi bên bếp lửa, tay quạt than, ánh mắt hiền và sâu như đất.

Và mỗi khi các con về, không ai bảo ai, đều đứng lại rất lâu trước bức ảnh ấy.

Họ không cầu xin.

Chỉ thầm hứa.

Sẽ sống sao cho xứng với căn bếp tối – đã từng thắp sáng cả một đời người.


 

TIẾNG ĐÀN TRONG ĐÊM- MỘT PHÉP LẠ CỦA THÁNH CECILIA

 Tại một tu viện nhỏ ở miền quê Ý, có một nữ tập sinh tên là Lucia. Cô rất yêu âm nhạc và khao khát dâng tiếng đàn của mình cho Chúa, nhưng mỗi khi đứng trước cộng đoàn, cô lại run sợ, đôi tay cứng đờ, gảy đàn sai nốt, khiến cô buồn đến muốn bỏ cuộc.

 1.Đêm nước mắt bên cây đàn

Một tối mùa đông, Lucia ở lại trong nhà nguyện muộn. Ánh nến lay động, soi bóng cô đang ôm cây đàn nhỏ mà nức nở:

“ Lạy Thánh Cecilia… Con muốn hát cho Chúa, nhưng con yếu đuối quá. Xin ngài giúp con.”

Ngoài trời mưa rơi lộp bộp, nhà nguyện im lìm. Lucia lau nước mắt, đặt tay lên dây đàn, nhưng tiếng đàn lại run rẩy và tắt ngấm.

Cô thất vọng đến mức đặt cây đàn xuống và úp mặt xuống ghế quỳ mà khóc. 

  1. Ánh sáng và người phụ nữ lạ

Bỗng trong nhà nguyện xuất hiện một luồng hương thơm lạ — nhẹ như hoa hồng, nhưng cũng sâu như hương trầm trong lễ kính trọng thể. Lucia ngước lên.

Phía gần cung thánh, một vầng sáng trắng ngà từ từ hiện ra hình dáng một người phụ nữ mặc áo dài thanh khiết. Trên tay Người là một cây đàn cổ — loại đàn chỉ thấy trong tranh vẽ các vị thánh xưa.

Đôi mắt Người hiền từ, trong sáng lạ thường.

Lucia sững sờ, run giọng hỏi:

“Ngài… ngài là ai?”

Người phụ nữ mỉm cười, giọng êm như một khúc thánh thi:

“Ta là Cecilia. Ta được sai đến để nâng đỡ con.” 

  1. Bàn tay thiên thần

Thánh Cecilia bước đến gần, đặt nhẹ tay lên bàn tay Lucia.

Ngay khoảnh khắc ấy, Lucia cảm thấy toàn thân mình như tan chảy trong ánh bình an. Nỗi sợ biến mất. Đôi tay vốn run rẩy trở nên mềm mại, ấm áp.

Cecilia đưa cây đàn của mình cho Lucia.

“Tiếng đàn thiêng không bắt đầu từ ngón tay… mà từ trái tim yêu mến Chúa.”

Rồi thánh nữ chạm nhẹ lên dây đàn.

Tiếng đàn vang lên… ngọt ngào, thánh thiện, trong trẻo đến mức Lucia rùng mình. Mỗi âm thanh như một tia sáng chạm vào linh hồn. Mưa ngoài trời bỗng dịu đi, như đang lắng nghe.

Cecilia mỉm cười:

“Giờ con hãy thử.”

Lucia đặt tay lên dây đàn.

Lần đầu tiên trong đời, âm thanh vang lên trọn vẹn, trong trẻo và vững vàng như thể đôi tay cô được hướng dẫn bởi một thiên thần.

Nước mắt cô rơi ra, nhưng lần này là nước mắt của niềm vui. 

  1. Món quà trong sáng

Trước khi tan biến, Thánh Cecilia ghé tai Lucia và nói:

“Từ nay, mỗi khi con hát hay đàn để dâng Chúa, Ta sẽ ở bên con.”

Ánh sáng dần tan đi, hương thơm nhạt dần. Lucia quỳ sụp xuống, tim tràn ngập bình an. 

  1. Phép lạ lan tỏa

Từ đêm đó, Lucia không còn run sợ nữa. Cô đàn và hát trong các buổi kinh với sự tự tin dịu dàng khiến ai nghe cũng cảm nhận được ơn Chúa như đang chảy qua tiếng đàn của cô.

Nhiều sơ già trong tu viện thầm thì:

“Tiếng đàn của con bé ấy có gì đó rất lạ… như thể thiên đàng đang hát cùng nó.”

Lucia chỉ mỉm cười, đặt tay lên ngực, và biết rằng Thánh Cecilia vẫn giữ đúng lời hứa.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

NGƯỜI THẦY

Một ông cụ đang ngồi hóng nắng trong công viên, chợt có một người đàn ông trung niên đến chào và hỏi:

– “Thưa thầy, thầy nhớ em không?”

– Ông cụ nhìn lên người đàn ông trước mặt, trả lời “Thưa không.”Song ông cũng lịch sự hỏi lại, “Anh giờ đang làm gì?”

– “Giờ em cũng là thầy giáo ạ!”

– “Ồ thế à? Mà tại sao anh lại chọn nghề giống như tôi?”

– “Dạ thưa, vì thầy là người đã khiến em chọn con đường này.” Rồi anh ta kể cho người thầy cũ đầu đuôi câu chuyện:

Một hôm nọ, anh bạn cùng bàn mang ra khoe một chiếc đồng hồ thật đẹp. Em chiếp trong bụng. Đợi lúc anh ta lơ đễnh em thò tay vào túi bạn mình và ăn cắp chiếc đồng hồ. Sau khi phát hiện bị mất đồng hồ, bạn em lên mách với thầy.

Thầy nói với cả lớp rằng có người vừa mất chiếc đồng hồ, nếu có ai lấy nhầm thì hãy trả lại. Không một ai giơ tay lên, và dĩ nhiên em cũng không nói gì cả. Thấy vậy, thầy bèn đóng cửa phòng lại và bắt mọi người đứng thành hình tròn rồi nói:

“Tôi sẽ lục túi tất cả mọi người để tìm chiếc đồng hồ, nhưng với điều kiện các em phải nhắm mắt lại khi tôi làm chuyện này.”

Cả lớp làm y theo lời. Thầy soát túi từng người, và sau khi tìm thấy chiếc đồng hồ trong túi em thầy vẫn tiếp tục soát hết những trò còn lại. Xong thầy bảo mọi người mở mắt ra vì đã tìm được chiếc đồng hồ. Thầy không hề tiết lộ em là kẻ cắp, mà cũng không kể lại câu chuyện này với bất cứ ai.

Hôm đó thầy đã cứu danh dự em. Thầy không nói với em câu nào, không kéo em ra riêng để rầy la hoặc giảng luân lý. Hôm đó là ngày em cảm thấy xấu hổ nhất trong đời, và cũng là ngày em thề sẽ không bao giờ ăn cắp hay trở thành một người xấu bởi vì em nhận ra thông điệp của thầy, và hiểu được thế nào là một nhà giáo đúng nghĩa. Thầy có nhớ chuyện này không ạ?”

– “Tôi nhớ chứ,” ông cụ chậm rãi trả lời.

Tôi nhớ phải lục túi từng trò một. Nhưng tôi không nhớ anh, vì lúc ấy chính tôi cũng nhắm mắt..”

—————-

Bài và ảnh sưu tầm

 

Co’ ba tiếng để cứu em gái – Truyen ngan qua’ HAY

Son Bui

Cô bé mới tám tuổi khi cha đánh bạc thua và đem cô làm vật thế chấp trong một ván bài.

Chị gái cô, mười lăm tuổi, chỉ có ba tiếng đồng hồ để giành lại em trước khi tên đòi nợ đến.

Deadwood, Lãnh thổ Dakota. Năm 1877. Nơi luật pháp đến chậm, nguy hiểm đến nhanh, và sự sống sót chỉ thuộc về những kẻ tàn nhẫn.

Thomas Garrett đã mất hết mọi thứ: tiền khai thác mỏ, tiền công, lòng tự trọng; và giờ đây, trong cơn say tại Gem Saloon, ông đã mất thứ còn đáng giá hơn tất cả: đứa con gái của mình.

Người thắng ván bài là Bullock; không phải cảnh sát trưởng, mà là một tên buôn người chuyên “cung cấp” trẻ em cho các trại mỏ.

Những đứa trẻ chỉ mới sáu tuổi đã phải làm việc mười hai tiếng mỗi ngày phân loại quặng cho đến khi phổi hỏng hoặc ngón tay rụng rời. Hầu hết không sống quá mười bốn tuổi.

Thomas ký vào giấy tờ mà không chút do dự. Bullock sẽ đến đón bé Emma vào đúng trưa hôm sau. Khi Sarah mười lăm tuổi đi làm ở tiệm giặt về và biết chuyện cha mình đã làm, cô không khóc.

Không gào thét.

Không sụp đổ.

Cô chỉ hỏi một câu: “Khi nào?”

“Ngày mai. Trưa.”

Còn ba tiếng nữa mới đến bình minh.

Ba tiếng để cứu em gái.

Và Sarah có thứ mà cha cô chưa bao giờ có: sự tỉnh táo.

Cô biết rõ Bullock.

Ai ở Deadwood cũng biết.

Một kẻ độc ác núp sau giấy tờ và vẻ ngoài đứng đắn.

Hắn đã bắt cha cô ký hợp đồng; nghĩa là hợp đồng đó có thể bị thách thức.

Và Deadwood lúc ấy có thêm một thứ nữa: một vị thẩm phán liên bang mới toanh vừa công khai tuyên bố rằng cha mẹ không được phép dùng con cái để trả nợ.

Sarah không ngủ.

Không chớp mắt.

Lúc mặt trời vừa ló dạng, cô đã đứng trước tòa án, thở hổn hển, nhưng ánh mắt kiên định.

Người thư ký định đuổi cô đi; con gái mười lăm tuổi thì biết gì về luật pháp.

Nhưng Sarah biết.

Vì trước khi rượu chè hủy hoại ông, cha cô từng là một thư ký tòa… và cô đã đọc ngấu nghiến mọi cuốn sách luật ông để lại trong nhà.

Cô trình bày vụ việc với sự chính xác của một luật sư thực thụ:

Hợp đồng vi phạm luật lao động lãnh thổ.

Là hình thức nô lệ nợ với trẻ vị thành niên.

Thomas Garrett mất năng lực pháp lý vì đang say rượu.

Người thư ký sững sờ. Rồi gật đầu.

Ông ta đánh thức vị thẩm phán.

Thẩm phán Isaac Parker – người sau này được gọi là “Thẩm phán Treo cổ” – đọc hợp đồng, nghe Sarah trình bày, và làm một điều chưa từng có tiền lệ:

Ông ban hành lệnh khẩn cấp, ngăn chặn việc chuyển giao và triệu tập cả Bullock lẫn Thomas Garrett ra tòa ngay chiều hôm đó.

Khi Bullock cùng hai gã tay chân đến căn nhà lá của nhà Garrett đúng trưa, hắn thấy Sarah đang đợi trên hiên.

Không run rẩy.

Không van xin.

Cô cầm trên tay lệnh của tòa án liên bang.

Bullock đỏ mặt vì giận dữ, nhưng không ngu ngốc đến mức chống lại thẩm phán.

Tại phiên tòa, Thẩm phán Parker không chần chừ.

Ông tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Xác định đó là hành vi buôn bán trẻ vị thành niên bất hợp pháp.

Cảnh cáo Bullock rằng bất kỳ nỗ lực nào tiếp theo nhằm đòi “nợ” sẽ khiến hắn bị còng tay.

Rồi ông quay sang Thomas Garrett.

Một người cha đánh bạc con cái mình thì mất luôn quyền làm cha.

Parker tước bỏ quyền giám hộ của ông ta và; trong một quyết định làm cả Lãnh thổ Dakota sửng sốt; chỉ định cô gái mười lăm tuổi Sarah làm người giám hộ hợp pháp của em gái.

Nhưng chiến thắng không làm no bụng. Giờ đây Sarah phải nuôi một đứa trẻ tám tuổi, không tiền bạc, không nhà cửa, chỉ có công việc giặt là để sống qua ngày.

Điều cô làm tiếp theo đã trở thành huyền thoại.

Cô đến gặp năm người phụ nữ kinh doanh ở Deadwood; chủ tiệm giặt, thợ may, chủ nhà trọ; và đưa ra một đề nghị:

“Tôi sẽ làm việc với lương thấp hơn. Các bà cho hai chị em tôi ăn ở. Tôi nhận việc nặng nhất và làm giờ dài nhất.”

Bốn người từ chối.

Người thứ năm; góa phụ Martha Bullock (không họ hàng gì với tên buon người) nói có.

Trong ba năm tiếp theo, Sarah làm việc mười sáu tiếng mỗi ngày. Emma được đi học; Sarah bắt buộc điều đó.

Cô dành dụm từng đồng xu.

Đến năm 1880, cô đủ tiền thuê một tòa nhà nhỏ và mở tiệm giặt của riêng mình.

Năm 1882, cô mua đứt tòa nhà đó.

Cô thuê sáu phụ nữ. Trả lương xứng đáng. Cung cấp chỗ ở cho những người cần.

Emma, lúc ấy mười ba tuổi, giữ sổ sách. Khi Emma đủ mười tám, Sarah; hoàn toàn từ lợi nhuận kinh doanh;

trả tiền cho em đi học trường sư phạm để trở thành giáo viên.

Sau này Emma trở thành hiệu trưởng và là một trong những người đấu tranh quyết liệt nhất cho cải cách luật lao động trẻ em trong bang.

Sarah không bao giờ lấy chồng.

“Tôi đã nuôi một đứa con rồi,” cô cười nửa miệng.

“Và làm tốt hơn hầu hết mọi người dù chỉ có một nửa điều kiện.”

Cô điều hành tiệm giặt đến năm 1910, tạo việc làm cho hơn một trăm phụ nữ trong ba thập kỷ.

Emma nghỉ hưu với tư cách nữ hiệu trưởng đầu tiên của quận.

Khi Sarah qua đời năm 1923, cáo phó chỉ nhắc đến “sự nghiệp kinh doanh thành công” của bà.

Emma kể lại câu chuyện thật:

Một cô gái mười lăm tuổi chỉ có ba tiếng đồng hồ, một cuốn sách luật, và niềm tin mãnh liệt rằng cuộc đời em gái mình không phải để bán.

Thẩm phán Parker sau này nói:

Công lý không chỉ là trừng phạt kẻ có tội.

Đôi khi là biết nhận ra năng lực ở nơi không ai buồn tìm kiếm.

Ranh giới giữa bi kịch và chiến thắng rất mong manh.

Đôi khi chỉ là một cô gái tuổi teen từ chối chấp nhận việc em mình bị đem đổi như quân bài poker; và đủ thông minh để tìm ra đúng một đòn bẩy pháp lý có thể ngăn điều đó lại.

Sarah Garrett không có tiền.

Không có vũ khí.

Không có đồng minh.

Cô chỉ có thời gian đang cạn kiệt.

Một bộ óc được tôi luyện bởi tuyệt vọng.

Và tình yêu đủ mạnh để đối đầu cả thế giới.

Và thế là đủ.

#fblifestyle


 

LỜI HỨA SAU 40 NĂM CỦA NGƯỜI LÍNH MỸ VỚI EM BÉ HỘI AN – Truyen HAY

CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ LỜI HỨA 40 NĂM CỦA NGƯỜI LÍNH MỸ VỚI MỘT EM BÉ HỘI AN

(Đông Kha)

Phil Seymour là trung sĩ của Đại đội C, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn TQLC, Sư đoàn TQLC 1 của Hoa Kỳ, ông đến Việt Nam vào tháng 12 năm 1966 và đã bị thương chỉ 1 tháng sau đó.

Căn cứ Mỹ, nơi Phil đóng quân

Tháng 6 năm 1967, Phil đóng quân ở một đảo nhỏ gần Hội An – Đà Nẵng, nhưng thường xuyên vào đất liền và tham quan ở Hội An. Trong những chuyến đi như vậy, Phil thường mang theo một chú chó nhỏ đằng sau balo của mình. Chú chó này tên là Boot, được ông cứu trong một lần hành quân ở trong rừng. Lúc đó Boot còn chưa dứt sữa.

Phil cõng chó Boot trên lưng

Mỗi khi Phil và đồng đội chèo thuyền ghé vào đất liền, những đứa trẻ trong làng chạy ùa tới để hỏi xin các loại “đồ Mỹ” như kẹo, đồ hộp và cả thuốc lá. Thường thì toán lính Mỹ này sẽ chia cho bọn trẻ những thứ này trong khẩu phần của họ.

Trong số những đứa trẻ đó có một người tên Cam (có thể là Cẩm, Cầm…), luôn mặc đồ ngủ màu xanh và đi chân không. Cam không nhao nhao lên như những đứa trẻ khác mà đứng lùi về sau một chút. Ban đầu toán lính Mỹ tưởng Cam nhút nhát, tuy nhiên sau đó họ mới nhận ra là Cam rất khôn ngoan: Cậu không đến xin bằng tay không, mà mang đến những thực phẩm địa phương như dừa, chuối, chanh… để trao đổi. Vì vậy Cam rất được lính Mỹ yêu mến.

Phil và Cam năm 1967

Một ngày của tháng 6 năm 1967, cậu bé Cam – 9 tuổi – tặng một quả chuối cho Phil. Trung sĩ Phil Seymour lúc này chuẩn bị rời vùng đất miền Trung này để đi nghỉ 1 tuần ở Thái Lan. Phil hỏi Cam rằng cậu muốn ông tặng quà gì. Thật ra một cậu bé nghèo ở làng quê heo hút này không thể biết là Thái Lan là ở đâu, có món gì để mà đòi hỏi. Cậu cũng không nói tiếng Anh được tốt lắm, suy nghĩ 1 chút rồi cậu chỉ vào cái đồng hồ mà Phil đang đeo. Trung sĩ Phil đồng ý.

Khi ở Thái Lan, Phil quên bén mất lời hứa về cái đồng hồ. Thật ra một anh lính đi du lịch nghỉ phép thì chỉ nghĩ đến việc ăn chơi, không có nhu cầu đi mua sắm. Hết kỳ nghỉ phép, trở lại Hội An, rồi gặp lại Cam, ông mới chợt nhớ tới vụ cái đồng hồ. Khi thấy Phil về, Cam chạy ùa tới, hớn hở.

Nhưng không có cái đồng hồ nào cả.

Ngay sau đó, đơn vị của Phil rời vùng đất này để về vùng phi quân sự, rồi đến tháng 1 năm 1968 thì ông rời Việt Nam.

Phil cho biết rằng cuộc sống của ông rất bình lặng, không có nhiều thứ làm ông hối tiếc, ngoại trừ lời hứa không thực hiện được với một cậu bé ở vùng quê nghèo miền Trung Việt Nam này. Đó thực sự là niềm hối hận lớn nhất trong đời của ông. Ông cũng đã từng nghĩ rằng sẽ phải mang niềm ân hận này theo cho đến khi lìa đời.

Phil Seymour là một người gốc Brookline, Massachusetts, ở trong quân ngũ thêm 27 năm, sau đó lấy bằng Master về luật và trở thành luật sư ở Lầu Năm Góc, sau đó là trưởng công tố viên trước khi nghỉ hưu năm 1995. Ông đã nghĩ rằng mình không thể trở lại Việt Nam một lần nào nữa.

Tuy nhiên vào năm 2007, vợ của Phil là Lynne cho ông biết là nhóm du lịch chung mà ông bà thường tham gia sẽ có một chuyến đến vùng Đông Nam Á và có dừng chân ở Hội An. Bà Lynne nói ông cân nhắc việc tham gia chuyến đi này, cũng là cơ hội để tìm lại Cam và thực hiện lời hứa 40 năm trước đó.

Đến khi ông Phil quay trở lại thì Hội An đã trở thành một thành phố du lịch nổi tiếng, được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vì kiến trúc của nó hầu như không thay đổi so với thời điểm thành lập hồi thế kỷ 15, là nơi giao thương nhộn nhịp của người Việt với người Hoa, Nhật và Châu Âu sau này.

Phil nghĩ rằng cơ hội để tìm lại được Cam gần như là số 0. Không thể biết được rằng Cam có thể sống sót qua được chiến tranh hay không, vì vùng đất này xưa kia rất ác liệt. Tuy nhiên Phil vẫn mang theo một cái đồng hồ trong chuyến du lịch này.

Hướng dẫn viên đoàn du lịch của Phil là một người Hà Nội, nói rằng anh biết rất nhiều người ở Hội An nên sẽ giúp tìm Cam. Thật bất ngờ là sau ngần ấy năm, ông Phil vẫn còn giữ một số tấm hình gia đình của Cam để có thể mang đi hỏi thăm.

Sau khi đến Hội An, nhận phòng khách sạn xong thì cũng là lúc anh hướng dẫn viên người Việt gọi Phil xuống và qua bên kia đường. Không biết bằng cách nào, người hướng dẫn viên này đã tìm được một người đàn ông đội nón màu xanh, người này nhìn tấm ảnh của Phil và nói trong hình là cha của anh chụp chung với 3 người con, người con trai út trong hình chính là người đội nón xanh này, và Cam chính là anh trai của anh. Ngay lúc đó, anh điện thoại để gọi Cam tới.

Phil lật đật chạy lên phòng khách sạn để lấy máy ảnh và đồng hồ, rồi chạy ngay xuống. Ngay khi băng lại qua đường, Phil cũng vừa thấy Cam tới, lúc này Cam đã là một người đàn ông 49 tuổi, làm nghề thợ mộc.

Hướng dẫn viên giải thích cho Cam hiểu câu chuyện. Anh ngơ ngác, không thể hiểu được rằng có người vừa đi nửa vòng trái đất chỉ để gặp anh và đưa chiếc đồng hồ.

Hướng dẫn viên chỉ ông Phil rồi hỏi Cam là có nhớ người đàn ông này không, Cam trả lời: “Có, ổng thường cõng con chó nhỏ trên lưng”. Hướng dẫn viên hỏi về lời hứa chiếc đồng hồ 40 năm trước, Cam trả lời: “Có, lúc đó tui mới 9 tuổi, nói tiếng Mỹ bập bẹ, nên nghĩ rằng đã có sự hiểu lầm nào đó”.

Ông Phil và hướng dẫn viên đã giải thích cho Cam hiểu là không có sự hiểu lầm nào cả, chỉ là do Phil đã thất hứa.

Phil đưa cho Cam chiếc đồng hồ. Anh Cam rơi nước mắt. Họ cùng ôm nhau khóc.

Hôm sau anh Cam mời ông Phil đến nhà ăn tối. Vợ anh tên là Nở, cùng cô con gái tên Vy chuẩn bị cho bữa ăn, còn vợ chồng Phil – Lynne và anh hướng dẫn viên ngồi ăn. Phong tục của Việt Nam là khách đến nhà chỉ có việc ăn, và ăn, sau đó là đi về.

Vy – con gái đầu của anh Cam – lúc đó 28 tuổi, vừa mới kết hôn, nói rằng cô muốn được học đại học như 4 người em trai của mình, nhưng ở vùng quê này thì phụ nữ thường thiệt thòi, ít được học lên đại học.

Trên đường về khách sạn, Lynne – vợ của Phil – suy nghĩ và ngỏ ý muốn cố giúp Vy được học đại học. Với sự liên lạc, giúp đỡ của anh hướng dẫn viên, Vy đã được đi học ở Sài Gòn cùng với 4 người em trai đã đi học hồi trước đó. Vy nhận bằng liên thông năm 2010 và bằng cử nhân năm 2012.

Phil trở lại Việt Nam – có lẽ là lần cuối cùng – vào năm 2012 để dự lễ tốt nghiệp của Vy. Họ cũng mua vé máy bay cho vợ chồng Cam – Nở vào Sài Gòn. Đó cũng là lần đầu tiên Cam được đi máy bay, anh mang theo vô số quà quê để mở một bữa tiệc mừng tại nhà trọ của Vy. Lynne và Phil còn tặng cho Nở một lò vi sóng để giúp cô nấu ăn thuận tiện.

Hiện tại Vy đang làm việc ở Sài Gòn, vẫn thường xuyên gọi điện cho vợ chồng Seymours.

Lynne và Vy (con gái của Cam)

Một lời hứa tưởng như rất nhỏ, vô thưởng vô phạt, nhưng đã ám ảnh anh lính tên Phil trong 40 năm, khơi gợi lại cho ông những ký ức buồn về một vùng quê đau khổ, tan tác. Ông quyết chí tìm lại cậu bé năm xưa để xua đi nỗi đau đáu trong lòng. Phil cho biết:

“Nếu tôi thất hứa với một người lớn nào đó thì tôi sẽ không bị mang một nỗi ân hận dai dẳng đến như vậy. Đằng này tôi đã hứa với một đứa trẻ tốt bụng, ngây thơ. Nó không thề thốt hay cầu xin gì cả, trên khuôn mặt lúc nào cũng có một nụ cười”.

Chiến tranh mang lại những tổn thương khó lành trong tâm khảm những người lính tham chiến. Chính sự ngây thơ của Cam và những đứa trẻ xin kẹo khác đã làm dịu bớt những trăn trở không yên trong lòng người lính viễn chinh, giúp họ bình thản hơn để vượt qua được những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến.

Đông Kha (dịch từ wttw.com)​

Posted on December 22, 2019 by TamAn

 


 

Đồ ngu, lão già vô dụng – Truyện ngắn HAY

Mãi mãi một tình yêu

 Trong bữa cơm, cháu gái tôi dùng tiếng Anh mắng tôi ngu, tôi vừa mở miệng, cả nhà liền sững sờ!

“Grandpa is so stupid.” (Ông nội thật ngu ngốc)

Giọng trẻ con trong veo vang lên trên bàn ăn, mang theo chút ngây thơ và vẻ đắc ý không hề che giấu.

Cháu gái mười tuổi của tôi, Trần Manh, đang khoe với cha nó — cũng chính là con trai tôi, Trần Quốc Kiên — mấy từ tiếng Anh mới học được.

Nó vừa nói xong, con trai tôi chẳng những không mắng, ngược lại còn bật cười.

“Not just stupid, he is a useless old man.”(“Không chỉ ngu, mà còn là ông già vô dụng nữa”)

Nó dùng tiếng Anh lưu loát hơn nhiều để phụ họa, khóe môi nhếch lên, giọng điệu khinh khỉnh.

Nó nâng ly rượu, khẽ lắc về phía tôi, ánh mắt đầy vẻ trêu chọc, như đang thưởng thức một con vật cưng không hiểu tiếng người.

Con dâu tôi, Lý Quyên, cúi đầu, vừa ăn vừa run vai, rõ ràng là đang cố nhịn cười.

Trong khoảnh khắc đó, không khí trên bàn cơm lạnh buốt đến tận xương.

Tay tôi cầm đũa, dừng lại giữa không trung.

————-

Các khớp ngón tay vì nắm chặt mà trắng bệch.

Stupid.

Useless old man.(“Đồ ngu. Ông già vô dụng”)

Đồ ngu, lão già vô dụng.

Mỗi từ như một cây kim thép nung đỏ, đâm sâu vào tim tôi.

Họ nghĩ tôi nghe không hiểu.

Họ nghĩ tôi chỉ là một ông già quê mùa, mới được đón lên thành phố, nói tiếng phổ thông còn chưa chuẩn.

Một kẻ chỉ biết ăn bám, chiếm chỗ, tiêu cơm — thứ vướng víu chẳng giúp ích được gì.

Tôi đặt đũa xuống, tiếng va chạm khẽ vang lên.

Tiếng cười trên bàn cơm lập tức tắt ngấm.

Ba đôi mắt đồng loạt nhìn tôi, mang theo vẻ khó chịu vì bị quấy rầy.

“Ba, sao vậy? Không hợp khẩu vị à?” – Trần Quốc Kiên cau mày, giọng chẳng có chút quan tâm.

Tôi không nhìn nó.

Ánh mắt tôi rơi trên người con trai mà tôi từng hãnh diện biết bao.

Ngày xưa, nó là đứa con luôn chạy theo tôi, nài nỉ tôi dạy chữ, dạy kể chuyện.

Từ khi nào, nó lại thành ra như bây giờ?

Phải chăng là vì tôi già rồi, vô dụng rồi, không còn che chở được cho nó, không thể mang đến cho nó vinh quang hay lợi ích gì nữa?

Một cơn đau thắt bóp chặt lồng ngực tôi.

Cả đời tôi từng oanh liệt, từng đứng nơi đỉnh cao, nhìn xuống phong vân thế gian.

Vì đất nước, tôi giấu đi tên tuổi, từ bỏ mọi vinh dự, cam tâm làm người bình thường.

Tôi từng nghĩ, bình yên là phúc.

Tôi từng nghĩ, con cháu quây quần bên gối, chính là chốn về tốt nhất đời mình.

Nhưng hiện thực lại tát tôi một cái đau điếng.

Tôi nhìn Trần Quốc Kiên, áo vest chỉnh tề, tóc chải bóng loáng, đồng hồ hàng hiệu trên cổ tay lấp lánh dưới ánh đèn.

Mọi thứ của nó — đều là tôi cho.

Thế mà hôm nay, nó lại dùng chính những thứ đó để sỉ nhục tôi.

“A full belly, a dull brain.”(“Ăn no quá hoá ngu”)

Tôi chậm rãi mở miệng, giọng không lớn, nhưng vang rõ trong căn phòng yên lặng.

Nụ cười trên mặt Trần Quốc Kiên đông cứng lại.

Lý Quyên đột ngột ngẩng đầu, mặt đầy kinh ngạc.

Ngay cả cô bé Trần Manh cũng há hốc miệng, chiếc nĩa trong tay rơi xuống đất.

Bọn họ đều nghe hiểu.

Ăn no rồi thì đầu óc đần độn.

Tôi dùng chính thứ ngôn ngữ mà họ vừa dùng để chế nhạo tôi.

Hơn thế, còn là một câu ngạn ngữ cổ điển mà họ chưa từng nghe.

Sắc mặt Trần Quốc Kiên thoáng chốc từ đỏ chuyển trắng, rồi từ trắng lại hóa xanh.

“Ông… ông biết nói tiếng Anh sao?”

Giọng nó khàn khàn, đầy vẻ không tin nổi.

Tôi không đáp.

Chỉ chậm rãi đứng dậy, tấm lưng vốn đã còng, trong khoảnh khắc ấy lại dường như thẳng tắp hơn bao giờ hết.

Tôi cầm tờ tờ rơi trên bàn — quảng cáo của một trường mẫu giáo song ngữ, in đầy những câu tiếng Anh màu mè.

“Tomorrow and tomorrow and tomorrow, creeps in this petty pace from day to day.”

(“Ngày mai, rồi lại ngày mai, rồi lại ngày mai, lê bước chậm chạp tẻ nhạt từ ngày này sang ngày khác.”)

Tôi chậm rãi đọc, nhưng không phải đọc quảng cáo, mà là mượn lời Shakespeare để nói điều khác.

Phát âm của tôi, là thứ tiếng Anh Anh chuẩn mực mà họ chưa từng nghe — giọng London trầm ấm, dày dạn năm tháng, mang theo quyền uy và khí chất.

Mỗi từ tôi nói ra, như một viên đạn, xuyên thủng thứ tự tôn giả tạo của họ.

“To the last syllable of recorded time.”

Tôi tiếp tục, ánh mắt quét qua ba khuôn mặt đang méo mó vì kinh ngạc.

“And all our yesterdays have lighted fools the way to dusty death.”

Tất cả những ngày hôm qua, chỉ là ánh sáng dẫn lũ ngu xuẩn bước vào cái chết đầy bụi bặm.

Đọc xong câu cuối, tôi khẽ đặt tờ rơi xuống bàn.

Không gian trong phòng ăn im lặng đến đáng sợ.

Trần Quốc Kiên như bị bóp nghẹt cổ, không thốt nổi một lời.

Thứ ngôn ngữ mà hắn từng dùng để chia ranh đẳng cấp, để sỉ nhục người cha già — giờ yếu ớt như tờ giấy bị gió thổi.

Tôi nhìn hắn, ánh mắt bình thản như mặt hồ.

Nhưng chỉ mình tôi biết, dưới làn nước ấy là sóng ngầm cuộn trào.

“Ông… rốt cuộc ông là ai?”

Trần Quốc Kiên cuối cùng cũng bật ra một câu, giọng run run, mang theo thứ sợ hãi mà chính hắn cũng không nhận ra.

Tôi vẫn không trả lời.

Chỉ quay lưng, từng bước chậm mà vững, đi về phòng mình.

Sau lưng, là ba ánh mắt kinh hoàng như nhìn thấy ma.

Tôi biết, từ giây phút này, mái nhà này — đã không còn như trước.

Và tất cả mới chỉ là khởi đầu.

Tôi trở lại phòng, khép cửa, cách biệt tiếng xôn xao và hỗn loạn bên ngoài.

Ngọn lửa giận trong ngực dần lắng xuống, chỉ còn lại cảm giác trống rỗng đến buốt lòng.

Tôi bước đến bàn làm việc, kéo ngăn tủ đã bị bụi phủ kín bao năm.

Bên trong không có vàng bạc, chỉ có một quyển Từ điển Oxford đã bạc màu, và vài tấm huân chương phủ bụi.

Trong đó, có một tấm là Huân chương danh dự cao nhất của Hiệp hội Phiên dịch Hoàng gia Anh.

Trên toàn thế giới, người từng nhận được nó — chưa đến mười người.

Và tôi, Trần Lập Phong, là một trong số đó.

Danh hiệu bí mật: “Người đưa tin.”

Từng là phiên dịch trưởng cấp quốc gia, phục vụ cho tầng lớp lãnh đạo cao nhất, chứng kiến vô số khoảnh khắc xoay chuyển cục diện thế giới.

Giọng nói của tôi, từng vang vọng qua sóng điện trong hội trường Liên Hiệp Quốc.

Ngòi bút của tôi, từng ký vào những hiệp ước hợp tác trị giá hàng nghìn tỷ.

Những năm ấy, tôi sống dưới ánh đèn sân khấu — cũng sống giữa lưỡi dao và bóng tối.

Mỗi lần dịch, không chỉ là chuyển đổi ngôn ngữ, mà là cuộc đấu trí về lợi ích quốc gia.

Sai một từ thôi, có thể là rơi xuống vực thẳm.

Vì bảo mật, cũng vì an toàn của gia đình, tôi sớm xin về hưu, mang theo vinh quang và thương tích, lặng lẽ biến mất khỏi thế giới ấy.

Tôi chọn im lặng, chọn làm một người cha bình thường, một người ông hiền lành.

Tôi từng nghĩ, đó là cách bảo vệ họ tốt nhất.

Nhưng không ngờ, sự im lặng và giản dị của tôi, trong mắt họ — lại thành ngu ngốc và vô dụng.

“Đinh linh linh——”

Tiếng chuông điện thoại đột ngột vang lên, xé tan không gian yên tĩnh.

Là điện thoại của Trần Quốc Kiên, phát ra từ phòng khách — giọng chuông gấp gáp, dồn dập, mang theo dự cảm chẳng lành.

“Alo? Tổng giám đốc Vương! Vâng vâng vâng, tôi đang chuẩn bị… Cái gì cơ? Sáng mai là hạn nộp sao? Nhưng chẳng phải ngài nói là…”

Giọng Trần Quốc Kiên run rẩy, vừa nịnh nọt vừa hoảng loạn.

“Được được được, ngài yên tâm! Tuyệt đối không có vấn đề! Tôi đảm bảo sẽ nộp cho ngài một bản kế hoạch hoàn hảo nhất!”

 


 

Có Một Người Phụ Nữ Như Thế – Hoàng Thị Bích Hà-Truyện ngắn HAY

Kimtrong Lam

Hoàng Thị Bích Hà

Tôi gặp chị trong một dịp tụ họp cà phê ăn sáng với nhóm thi hữu văn chương tại thành phố HCM. Đó là chị Ngọc Mai với khuôn mặt đẹp, dáng người nữ tính, đôi mắt long lanh sáng đẹp như hút hồn người đối diện. Tên đẹp, người đẹp, nụ cười duyên dáng và giọng nói êm ái, ngọt ngào là ấn tượng đầu tiên của tôi về chị. Tôi nhìn chị đoán cỡ khoảng chưa ngoài tứ thập. Chị cười dịu dàng bảo:

-Em cộng thêm ba mươi năm nữa mới gần đúng tuổi thật của chị!

Tôi ngạc nhiên và không thể ngờ trước việc chị trẻ hơn tuổi nhiều đến thế!

-Ôi vậy à! Nếu thế thì chị quá trẻ so với tuổi. Nếu chị không khai, khó ai mà đoán ra tuổi thật của chị!

– Nhìn chị, em biết chắc chị hạnh phúc lắm mới trẻ được như vậy, chắc là lúc nhỏ được ba mẹ cưng, lập gia đình thì được chồng cưng, chị mới có dáng hình trẻ trung, gương mặt xinh tươi ánh lên vẻ yêu đời lạc quan đến vậy.

-Ồ cảm ơn em! Nhưng chị thì không được như em nghĩ đâu!

      Thế rồi chị bắt đầu kể tóm tắt cuộc đời của chị cho tôi nghe, chị ngược dòng thời gian đưa tôi về miền ký ức của chị trong những năm tháng khói lửa chiến tranh.

      Chị sinh ra và lớn lên tại quận 3 Saigon xưa. Những quận 1-3-5-4- 10,… là những quận xem như những quận trung tâm của thành phố này.       

       Dĩ nhiên chị có điều kiện sống tốt, như những bạn cùng trang lứa trong vùng. Mặc dù bố chị đi tập kết ra Bắc theo lệnh khi đang làm việc tai cơ quan, chưa kịp về từ giã gia đình. Mẹ chị một mình vẫn lo được cho chị ăn học đàng hoàng. Thi xong tú tài chị học tiếp ngành ưa thích và đi làm. Với nhan sắc như chị tôi đoán được chị có khá nhiều sự lựa chọn cho cả công việc lẫn người thương. Chắc chắn chị sẽ chọn cho mình một ý trung nhân trong vô số các chàng đẹp trai, con nhà giàu học giỏi trong thành phố. Duyên số đưa đẩy chị chọn anh! Sau khi lập gia đình, cơn lốc chiến tranh cuốn anh vào con đường binh nghiệp theo lệnh tổng động viên. Và anh chị cũng đã kịp có một đứa con xinh xắn!

       Cuối tháng 3/1975, thời gian này tiếng súng nổ ùng oàng đâu đó, ngoài đường những toán lính VNCH đã buông súng theo lệnh của tổng thống Dương Văn Minh, người người dáo dác ngược xuôi. Người dân kẻ thì tràn ra đường chào mừng quân giải phóng, người thì tìm đường rời khỏi thành phố. Người thì tìm kiếm trong đoàn quân vào thành phố xem có cha, anh mình đi tập kết trở về không?

       Lúc này, bé Bảo Ngọc được 9 tháng tuổi. Chị cũng ôm con ra bến tàu Bạch Đằng đi tìm chồng. Hi vọng anh sẽ trở về. Chị thấy một con tàu neo đậu, người chen chúc lên, trên đó cũng thấp thoáng những bộ đồ lính của binh chủng chồng chị. Chị bồng con bươn bẩy hòa và dòng người đang xô đẩy nhau cố chen cho được chân lên tàu. Bỗng tiếng súng nổ chát chúa ngay bên hông tàu. Thế là tàu chìm, mọi người hỗn loạn rơi xuống nước, kẻ bám vào thành tàu trong sự hoảng loạn đến tột cùng. Run rủi sao chị lạc mất con. Khi tỉnh dậy chị thấy mình nằm trên sàn một chiếc tàu khác đậu cách đó một quảng. Không biết ai đã đưa chị lên đây. Chị mở mắt ra, áo quần còn ướt sũng, hoảng loạn. Ôi con tôi đâu rồi! Bảo Ngọc ơi! Con đâu rồi! Chị lấy hết sức bình sinh gọi con trong tiếng nấc nghẹn ngào.

       Bỗng chị chợt thấy anh (chồng đây rồi!): Chị như người sắp chết đuối vớ được phao cứu sinh: Anh Tùng! Mình ơi! Em đi tìm anh mà lạc mất con rồi! Mình thấy con mình Bảo Ngọc đâu không? Súng nổ, tàu chìm, không hiểu ai đã vớt em lên đây, còn con mình đâu rồi! Con ơi! Vừa mừng gặp được chồng, nhưng chưa tìm thấy con. Chị òa lên khóc nức nở trong nghẹn ngào!

       Anh không nói gì, anh cũng ngạc nhiên và bất ngời không kém nhưng nét mặt không lộ vẻ vui mừng. Tia nhìn cũng thiếu ấm áp như ánh nhìn dành cho chị trước khi anh đi lính. Đoạn anh quay lại nói gì đó với người phụ nữ bên cạnh anh. Hóa ra đây là chuyến tàu người ta chuẩn bị vượt biên bao gồm cả sỹ quan, lính và gia đình người thân của họ. Như đã tính toán trước, chuyến tàu anh đi không ngờ lại gặp chị trong hoàn cảnh này. Người anh chọn để cùng đi với nhau không phải chị và con gái mà là một người phụ nữ khác. Họ trốn chị. Còn chị lạc lên đây, số phận trêu ngươi cho chị thấy tận mắt anh và người khác đi cùng nhau, cho chị nếm cảnh đời đắng chát của sự phản bội. Thực ra thì phản bội có lẽ đã xảy ra trước rất lâu rồi mà chị không biết. Chỉ đến khi trong tình cảnh éo le, khốc liệt này số phận lại bắt chị chứng kiến cảnh tượng không còn lời nào để nói. Sau những giây phút ngỡ ngàng, sững sờ rồi rơi vào câm lặng. Dù xung quanh vẫn hỗn độn, vẫn ồn ã.

       Như hiểu ra tình thế! Chị bất giác nhận ra, anh không còn là của chị nữa, anh không thuộc về chị nữa, anh đã thuộc về người khác. Từ vui mừng gặp anh, đến thảng thốt mất con, đến thái độ thờ ơ dửng dưng khi gặp chị, đến cử chỉ ánh mắt không còn dành cho chị nữa mà sự vỗ về âu yếm anh đã dành cho người khác ngay trước mắt chị. Tất cả trong một vài khoảnh khắc rất ngắn, vội vã và trớ trêu của thời gian. Chị mất con và mất luôn cả chồng. Giữa họ bây giờ đã có bức tường vô hình ngăn cách. Dù anh đang đứng đó, trước mắt chị, không xa mà khoảng cách xa vời vợi không với tới được. Trong lúc này đáng lẽ chị cần anh nhất để cùng chị đi tìm con: “Níu đời đời đá mưa thương/ Níu em em đẩy chẳng nương tay nhờ/ Có than ngửa mặt lên trời/ ông ơi ngó xuống đầy vơi nợ nần” (Quỳnh Tiên)

      Thôi thì: “Vết thương ứa máu đủ rồi!”. Chị biết nơi đây không dành cho mình. Chị không chọn ra đi vì chị còn phải đi kiếm con, chị cũng phải ở lại thành phố để chờ cha trở về sum họp nữa. Chị quay mặt, tìm ra cửa mò mẫm tìm đường rời khỏi con tàu. Xuống bến, người người hỗn loạn đang tất tả ngược xuôi và gọi nhau í ới. Bỗng chị thấy bên đường có một người phụ nữ (có lẽ là một người mẹ) đã chết, ngồi bên cạnh là đứa con đang cố ôm lấy mẹ và khóc. Chị tất tả nhào đi để may ra tìm được con mình. Đi tới đâu chị gặp ai chị cũng hỏi, thấy đứa trẻ nào lạc ở đây không?      

      Mọi người giúp tôi với, tôi lạc mất con rồi! Bỗng có một chị bảo quay lại đằng kia, chỗ người phụ nữ nằm, bên cạnh có đứa bé tầm tuổi con chị, cứ cúi xuống xem biết đâu là con mình.          Chị quay lại cúi xuống lay gọi và nhìn mặt cháu bé. Ôi đây rồi! Hóa ra đây là con chị. Trong lúc bom rơi đạn lạc, chị phụ nữ này bồng được con chị rơi xuống nước và khi chị lội vào bờ thì trúng đạn, chị cố lết thêm vài mươi bước nữa thì gục xuống và tắt thở, trong khi đứa bé hoảng loạn không biết mẹ mình đâu, chỉ biết người vừa ẵm em dưới nước sông Sài Gòn lên!

       Chị ôm lấy con mừng khôn xiết tả, và tưởng như tim mình vừa sống lại sau những gì đã xảy ra.

***

       Mới đó mà nửa thế kỷ trôi qua! Chị vừa lo kinh doanh, kiếm tiền nuôi dạy con cái một gánh hai vai thay cho cả người cha của bé. Bé có cha cũng xem như không, vì cha đã thuộc về nơi khác, gắn bó với những con người xa lạ khác, không phải mẹ con mình. Trong gian khó, chị làm lụng nuôi con vượt qua thời kỳ hậu chiến, rồi bao cấp, rồi hội nhập,… Con gái chị nay đã trưởng thành, cháu cũng đã thành đạt và có mái ấm gia đình. Xem chị như đã hoàn thành nhiệm vụ làm mẹ thiêng liêng cao cả của mình. Nay chị đã thảnh thơi, bên cạnh vẫn duy trì công việc kinh doanh thường nhật. Chị đến với thi ca, sinh hoạt với các nhóm bạn cùng sở thích như picnic, khiêu vũ hay những hoạt động lành mạnh rèn luyện sức khỏe về thể chất và tinh thần. Bởi vậy chị không cô đơn, Dẫu thiếu đi một người tình tưởng là trăm năm nhưng lại bội bạc thì chị vẫn còn cha mẹ, con cái và bạn bè tri âm. Chính vì thế chị không gục ngã. Bởi vì con cần chị, cha mẹ chị cần chị. Chị không thể buông xuôi theo số phận nghiệt ngã mà đứng lên, vượt lên nỗi đau để tiếp tục tìm cho mình lẽ sống có ý nghĩa. Chị cũng không oán hờn người cũ nữa.

       Một đôi lần, “người ta” trở về Saigon thăm quê hương, chị tình cờ gặp lại cũng xem như gặp một người quen cũ, không vui cũng không buồn. Bình thường như một người bạn cũ từng quen biết rồi thôi!

       Chị buông bỏ những gì không đáng dằn vặt hay tiếc nuối. Chị làm chủ cuộc sống của mình, mặc dù khi người ấy đành đoạn rời đi chị mới ngoài hai mươi tuổi. Mẹ đơn thân, lại xinh đẹp có thừa. Xung quanh chị không thiếu đàn ông vây quanh tán tỉnh. Nhưng có lẽ chị đã thấm đòn tình ái và hôn nhân. Đau một lần đã đủ! Chị nói rằng: “Cứ ngồi yên đó, không cần đi đâu cả, tri kỷ sẽ tìm em!”. Và đúng vậy những người bạn hiểu lòng nhau sẽ chia ngọt sẻ bùi tâm sự đôi điều cho với buồn đau, và ai có cuộc sống nấy rồi mọi thứ sẽ ổn. Rồi chị đến với thi ca. Xem thi ca như một cuộc sẻ chia tâm tình, nâng đỡ tâm hồn con người.

       Ngẫm lại trong cái rủi có cái may. Dẫu phải chứng kiến hiện thực phủ phàng nhưng đau một lần rồi thôi! Nếu ngày đó, chị không lạc lên con tàu ấy, không biết anh đã thay lòng để trốn chạy cùng với một phụ nữ khác thì cả đời còn lại chị cứ khắc khoải và canh cánh không yên: “không biết giờ nay anh ở đâu? Còn sống hay đã chết, mất tích? Rồi chị lại lặn lội đi tìm hết trại cải tạo này đến trại cải tạo khác để tìm anh, không tìm ra thì nghĩ rằng anh đã tử trận bị bom rơi đạn lạc buổi giao thời, rồi lại về nhà lập bàn thờ năm tháng lo cúng cấp, cầu siêu này nọ,… trong lúc người ta đang sống phây phây cùng người khác. Thôi thế cũng là may!

        Như vậy có phải là chị mất đi thứ này thì trời bù cho chị thứ khác. Con cái giỏi, ngoan, công việc trôi tròn, sức khỏe bình an. Và thế là chị cứ tươi trẻ, cứ tràn đầy sức sống, đầy năng lượng làm việc và vẫn xinh đẹp không khác xưa là mấy. Có chăng đậm đà, chín chắn hơn xưa mà thôi! Người ta nói dù ai đó lúc trẻ căng tràn sức sống, trắng trẻo, đẹp nhưng nhạt duyên thì nhan sắc sớm phai tàn còn ngược lại nếu trời phú cho có nét duyên ngầm thì vẻ đẹp mặn mà đó không phai mờ dẫu đi qua thời gian. Nếu biết giữ gìn sức khỏe thể lực và sức khỏe tâm hồn tốt, đảm bảo chế độ ăn uống và tập luyện đúng cách, sức khỏe và dáng người vẫn ít thay đổi. Qua mỗi mốc thời gian tám mươi chín mươi đi nữa vẫn nét duyên trời cho đó vẫn ánh lên sau lớp bụi thời gian ghi dấu trên khuôn mặt. Và chị là một người phụ nữ như thế dù đã đi qua mùa thu của cuộc đời!

Saigon, ngày 23/9/2025

Hoàng Thị Bích Hà


 

CÔ GÁI BỊ MẤT TÍCH 25 NĂM – Truyện ngắn HAY

Tony Nguyễn

Cô ấy biến mất khỏi xã hội vào năm 1876—khi cảnh sát tìm thấy cô ấy 25 năm sau đó, cô ấy chỉ nặng 55 pound và chưa từng nhìn thấy ánh sáng mặt trời kể từ khi mẹ cô ấy khóa cửa nhốt cô ấy lại.

Mùa xuân năm 1876. Poitiers, Pháp (*). Blanche Monnier, 25 tuổi, xinh đẹp, hoạt bát, xuất thân từ một gia đình quý tộc giàu có—đột nhiên biến mất khỏi tầm mắt công chúng.

Gia đình Monnier không đưa ra bất kỳ lời giải thích nào. Khi những người quen biết trong xã hội hỏi, họ nhận được những câu trả lời mơ hồ, né tránh. Cô ấy không khỏe. Cô ấy đang đi du lịch. Cô ấy thích sự riêng tư hơn bây giờ.

Cuối cùng, mọi người ngừng hỏi. Blanche Monnier đơn giản là biến mất khỏi ký ức—một phụ nữ trẻ khác từng xuất hiện trong các buổi tiệc tùng và phòng khách nhưng đã biến mất vào số phận không mấy nổi bật của một người phụ nữ độc thân hoặc bị bệnh tật.

Không ai nghi ngờ sự thật.

Blanche không hề rời đi. Cô ấy không bị ốm ở nơi khác. Cô ấy không chọn cuộc sống ẩn dật.

Cô ấy ở trên gác mái. Trong chính ngôi nhà của gia đình mình. Bị nhốt trong một căn phòng trên gác mái.

Trong 25 năm.

Tội Lỗi Của Tình Yêu Sai Trái

Trước khi biến mất, Blanche đã phạm một tội lỗi không thể tha thứ trong mắt mẹ cô: cô ấy đã yêu nhầm người.

Anh ta lớn tuổi hơn. Anh ta là một luật sư, nhưng nghèo—không phải là người chồng giàu có mà Louise Monnier mong muốn cho con gái mình. Anh ta không có địa vị xã hội, tài sản, mối quan hệ quý tộc phù hợp để phản ánh đúng địa vị của gia đình Monnier.

Khi Blanche từ chối chấm dứt mối quan hệ, mẹ cô đã đưa ra một quyết định sẽ định đoạt phần đời còn lại của Blanche.

Louise Monnier—quý tộc, thành viên được kính trọng trong xã hội Poitiers, trụ cột của cộng đồng—đã nhốt con gái mình trong một căn phòng nhỏ trên gác mái và bỏ mặc cô ấy ở đó.

Không phải vài ngày. Không phải vài tuần. Thậm chí không phải vài tháng.

Mà là 25 năm.

Căn Phòng

Không gian gác mái nơi Blanche bị giam cầm rất nhỏ—khoảng 75 feet vuông. Cửa sổ bị đóng đinh chặt, chặn hết ánh sáng mặt trời. Căn phòng không bao giờ được dọn dẹp. Chất thải tích tụ. Thức ăn thừa thối rữa. Chuột bọ tràn lan khắp nơi.

Blanche chỉ nhận được lượng thức ăn tối thiểu—vừa đủ để giữ cho cô ấy sống sót về mặt thể chất. Không được chăm sóc y tế. Không có đồ dùng vệ sinh. Không có bất kỳ sự tiếp xúc nào với con người ngoài những khoảnh khắc ngắn ngủi khi thức ăn được mang đến.

Cô ấy nằm trên đống rơm bẩn thỉu không bao giờ được thay. Cơ thể cô ấy teo tóp. Tâm trí bà ta tan vỡ dưới sự cô lập và bóng tối. Răng bà ta bị mục nát. Da bà ta bị bệnh.

Trong 25 năm, Louise Monnier và con trai Marcel vẫn sống cuộc sống bình thường – tham dự các buổi tiệc xã giao, duy trì vị thế đáng kính trong xã hội Poitiers, thể hiện mình là những công dân gương mẫu.

Trong khi đó, ở tầng trên, Blanche từ từ chết dần mà không chết hẳn.

Lá Thư Nặc Danh

Tháng 5 năm 1901. Tổng chưởng lý Paris nhận được một lá thư nặc danh. Cho đến ngày nay, không ai biết ai đã gửi nó.

Lá thư viết:

“Thưa ông Tổng chưởng lý: Tôi có vinh dự thông báo cho ông về một sự việc vô cùng nghiêm trọng. Tôi đang nói về một người phụ nữ độc thân bị giam giữ trong nhà bà Monnier, gần như chết đói, và sống trong bẩn thỉu suốt 25 năm.”

Các nhà chức trách tỏ ra hoài nghi. Những lời cáo buộc như vậy dường như quá cực đoan, quá kinh khủng để có thể là sự thật. Và gia đình Monnier là một gia đình đáng kính, giàu có, nổi bật.

Nhưng họ vẫn điều tra.

Ngày 23 tháng 5 năm 1901, cảnh sát đến nhà Monnier tại số 21 đường de la Visitation ở Poitiers. Louise Monnier đón tiếp họ với thái độ tức giận của một người thuộc tầng lớp quý tộc. Không có gì để xem cả. Sao họ dám tin vào những lời vu khống như vậy.

Cảnh sát vẫn kiên quyết. Họ lục soát nhà.

Và họ tìm thấy cánh cửa gác mái bị khóa.

Sự Phát Hiện

Những gì cảnh sát tìm thấy khi phá cửa vào bên trong thật kinh hoàng đến nỗi các sĩ quan bước vào khó có thể mô tả một cách mạch lạc trong báo cáo của họ.

Mùi hôi thối xộc vào mũi họ đầu tiên – chất thải người, thức ăn thối rữa, sự phân hủy, bệnh tật. Một mùi hôi thối nồng nặc của sự bỏ bê lâu dài.

Rồi họ nhìn thấy bà ấy.

Một người phụ nữ – hay đúng hơn là những gì còn lại của một người phụ nữ – nằm trong đống bẩn thỉu trên đống rơm mục nát. Gầy trơ xương. Toàn thân phủ đầy chất thải và vết côn trùng cắn. Tóc bà ta dài, bết lại, bẩn thỉu. Cơ thể bà ta chỉ nặng khoảng 55 pound (khoảng 25 kg).

Bà ấy 49 tuổi. Bà ấy trông như một bà lão.

Khi cảnh sát cố gắng nói chuyện với bà ấy, bà ấy hầu như không thể trả lời. Bà ấy phát ra những âm thanh nhưng không thể nói thành lời mạch lạc. Bà ấy che mặt lại trước ánh sáng – bà ấy đã không nhìn thấy ánh sáng mặt trời trong 25 năm. Việc đột ngột tiếp xúc với ánh sáng gây đau đớn về thể chất. Một sĩ quan sau đó đã viết: “Người phụ nữ bất hạnh nằm hoàn toàn trần truồng trên một tấm nệm rơm mục nát. Xung quanh bà ta là một lớp vỏ bẩn thỉu được tạo thành từ phân, mảnh vụn thịt, rau, cá và bánh mì thiu. Chúng tôi cũng thấy vỏ sò… Không khí quá ngột ngạt, mùi hôi thối bốc ra từ căn phòng quá nồng nặc, đến nỗi chúng tôi không thể ở lại lâu hơn để tiếp tục điều tra.”

Blanche Monnier—người phụ nữ trẻ trung, hoạt bát đã biến mất vào năm 1876—đã bị biến thành thảm cảnh này.

Hậu Quả

Louise Monnier ngay lập tức bị bắt giữ. Bà ta không hề tỏ ra hối hận hay xấu hổ. Bà ta khăng khăng rằng mình không làm gì sai. Blanche đã chống đối bà ta, và đây là hình phạt thích đáng.

Louise chết 15 ngày sau khi bị bắt—trước khi kịp ra tòa. Nguyên nhân chính thức là suy tim. Có lẽ là do cú sốc khi bị phanh phui. Có lẽ chỉ đơn giản là do tuổi già. Chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu bà ta có bao giờ cảm thấy hối hận hay không.

Marcel Monnier, anh trai của Blanche, cũng bị bắt vì tội đồng lõa. Anh ta sống trong nhà. Anh ta biết chuyện. Anh ta đã tham gia vào việc giam cầm.

Anh ta bị xét xử, ban đầu bị kết tội, nhưng sau đó được tuyên bố trắng án trong phiên phúc thẩm – được tuyên bố là không đủ năng lực tâm thần để hầu tòa. Anh ta đã tham gia vào 25 năm tra tấn, nhưng hệ thống pháp luật xác định rằng anh ta không thể bị buộc tội.

Blanche được đưa đến bệnh viện, sau đó chuyển đến một cơ sở tâm thần. Các bác sĩ đã cố gắng giúp cô hồi phục, nhưng những tổn thương – cả về thể chất và tâm lý – đều không thể phục hồi.

Cô bị giam cầm từ năm 25 đến 49 tuổi. Toàn bộ quãng đời giữa của cô – những năm mà hầu hết mọi người xây dựng sự nghiệp, thiết lập các mối quan hệ, nuôi dạy gia đình, trải nghiệm thế giới – đã bị đánh cắp.

Cô không bao giờ phục hồi được khả năng trí tuệ của mình. Cô không bao giờ lấy lại được cân nặng hoặc sức khỏe đã mất. Cô không bao giờ nói rõ ràng về những gì mình đã phải chịu đựng nữa.

Cô qua đời tại bệnh viện tâm thần vào ngày 13 tháng 10 năm 1913, ở tuổi 64 – sau khi trải qua 12 năm sống trong viện tâm thần sau 25 năm bị giam cầm. Chỉ có 12 năm tự do thực sự giữa tuổi 25 và cái chết.

Tại Sao Sự Kinh Hoàng Này Lại Có Thể Xảy Ra

Việc giam cầm Blanche Monnier không phải là một trường hợp cá biệt. Đó là một ví dụ cực đoan về một điều đáng lo ngại phổ biến: các gia đình – đặc biệt là các gia đình giàu có – có quyền lực gần như tuyệt đối đối với con gái và các thành viên gia đình “khó bảo.”

Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20:

Phụ nữ có quyền pháp lý hạn chế và hầu như không có cách nào chống lại các quyết định của gia đình

Các gia đình có thể đưa những người phụ nữ “khó bảo” vào viện tâm thần với sự giám sát tối thiểu

Các gia đình giàu có có đủ sự riêng tư và quyền lực đến nỗi không ai đặt câu hỏi

Áp lực xã hội để duy trì “danh dự” gia đình có nghĩa là phải giữ im lặng về các vấn đề gia đình

Louise Monnier không giấu Blanche ở một địa điểm bí mật. Bà ta giữ cô ở tầng trên trong nhà của họ, giữa một thành phố, trong 25 năm – bởi vì bà ta biết rằng sẽ không ai kiểm tra, không ai thách thức quyền lực của bà ta đối với con gái, không ai tin rằng một người phụ nữ quý tộc đáng kính lại có thể làm những điều như vậy.

Và bà ta gần như đã đúng. Nếu bức thư nặc danh đó không được gửi đi, Blanche có thể đã chết trong căn phòng đó, và không ai sẽ biết chuyện gì đã xảy ra.

Người Hùng Giấu Mặt

Chúng ta vẫn không biết ai đã gửi bức thư đó cho chính quyền.

Một người hầu không thể giữ im lặng nữa? Một người hàng xóm đã nghe thấy điều gì đó? Một người bạn của gia đình nghi ngờ? Ai đó có mối thù với gia đình Monnier?

Bất kể đó là ai, người đó đã cứu mạng Blanche—hoặc ít nhất là chấm dứt sự tra tấn của cô ấy, ngay cả khi họ không thể khôi phục lại những gì đã bị đánh cắp.

Người vô danh đó đã làm những gì mà bạn bè, hàng xóm và xã hội Poitiers đã không làm được trong 25 năm: họ đặt câu hỏi và yêu cầu câu trả lời.

Hãy nhớ đến Blanche Monnier:

Hãy nhớ rằng cô ấy biến mất vào năm 1876 ở tuổi 25 vì cô ấy yêu một người mà mẹ cô ấy không chấp thuận.

Hãy nhớ rằng cô ấy bị giam cầm trong một căn phòng trên gác mái trong 25 năm—một phần tư thế kỷ trong bóng tối, đói khát và bẩn thỉu.

Hãy nhớ rằng khi cảnh sát tìm thấy cô ấy vào năm 1901, cô ấy chỉ nặng 55 pound và hầu như không thể nói được.

Hãy nhớ rằng mẹ cô ấy không hề hối hận và đã chết trước khi phải đối mặt với công lý.

Hãy nhớ rằng anh trai cô ấy được tuyên bố trắng án trong phiên phúc thẩm mặc dù đã tham gia vào việc tra tấn cô ấy.

Hãy nhớ rằng cô ấy không bao giờ hồi phục và đã chết trong một viện dưỡng lão 12 năm sau khi được giải cứu.

Và hãy nhớ rằng điều này không xảy ra vào thời trung cổ mà là vào đầu thế kỷ 20, trong một xã hội châu Âu “văn minh,” trong một gia đình giàu có, trong một thành phố nơi mọi người sống cuộc sống hàng ngày mà không hề biết rằng một người phụ nữ đang chết dần chết mòn trên gác mái trong nhà của một gia đình đáng kính.

Câu chuyện của Blanche Monnier là một câu chuyện kinh dị kiểu Gothic có thật. Nhưng nó cũng là một lời nhắc nhở về quyền lực, sự kiểm soát và việc lạm dụng có thể dễ dàng che giấu đằng sau vẻ ngoài đáng kính như thế nào.

Mẹ cô ấy đã giam cầm cô ấy trong 25 năm vì bà ta có thể—vì xã hội đã trao cho cha mẹ, đặc biệt là cha mẹ giàu có, quyền lực gần như vô hạn đối với con gái.

Người viết thư nặc danh đó đã làm những gì mà tất cả những người khác đã không làm được: họ đã thách thức quyền lực đó và phơi bày sự kinh hoàng mà nó đang che giấu.

Blanche đã sống sót 25 năm trong những điều kiện lẽ ra phải giết chết cô ấy trong vòng vài tháng. Bản thân sự sống sót đó đã là phi thường.

Nhưng sống sót không giống như sống. Người phụ nữ trẻ bước vào căn phòng đó vào năm 1876 chưa bao giờ thực sự rời khỏi nó—không thực sự. Người xuất hiện vào năm 1901 chỉ còn thoi thóp, bị tổn thương không thể phục hồi. Người phụ nữ từng làm rạng rỡ xã hội Poitiers đã chết hai lần: một lần khi mẹ bà khóa cánh cửa đó lại, và một lần nữa khi cơ thể bà cuối cùng không còn chịu đựng nổi vào năm 1913.

Câu chuyện của bà đặt ra cho chúng ta câu hỏi: Có bao nhiêu người khác đã – hoặc đang – bị mắc kẹt trong hoàn cảnh tương tự, phía sau những cánh cửa mà không ai nghĩ đến việc mở ra?

____________

(*) Poitiers là một thành phố nằm bên sông Clain ở miền trung tây nước Pháp. Đây là một xã, thủ phủ của tỉnh Vienne, thuộc vùng Nouvelle-Aquitaine của Pháp, và là trung tâm lịch sử của tỉnh Poitou. Năm 2021, thành phố có dân số 90.240 người. Khu vực đô thị của nó có 134.397 cư dân vào năm 2021 và là trung tâm hành chính của một khu vực đô thị với 281.789 cư dân. Đây là một thành phố nghệ thuật và lịch sử, vẫn được biết đến phổ biến với tên gọi “Thành phố trăm tháp chuông” (“Ville aux cent clochers”).

Với hơn 30.000 sinh viên, Poitiers là một thành phố đại học lớn kể từ khi trường đại học được thành lập vào năm 1431, từng là nơi sinh sống của nhiều nhân vật và nhà tư tưởng nổi tiếng thế giới như René Descartes, Joachim du Bellay và François Rabelais, cùng nhiều người khác. Quảng trường của thành phố rất đẹp; các con phố chủ yếu giữ được kiến ​​trúc lịch sử và những ngôi nhà nửa gỗ, đặc biệt là các công trình tôn giáo, thường từ thời kỳ Romanesque. Trong số đó nổi bật là nhà rửa tội Saint-Jean (thế kỷ thứ 4), nhà nguyện ngầm Merovingian Hypogeum of the Dunes (thế kỷ thứ 7), Nhà thờ Notre-Dame-la-Grande (thế kỷ 12), Nhà thờ Saint-Porchaire (thế kỷ 12) hoặc Nhà thờ chính tòa Poitiers (cuối thế kỷ 12) cũng như Cung điện Poitiers, cho đến gần đây là tòa án (thế kỷ 12), cung điện cũ của các Bá tước Poitou, Công tước xứ Aquitaine, nơi Nữ hoàng góa phụ của Pháp và Anh Eleanor xứ Aquitaine tổ chức “Tòa án tình yêu” của mình.

Lịch sử thành phố gắn liền với hai trận chiến lớn diễn ra trong khu vực này. Trận chiến đầu tiên, vào năm 732, còn được gọi là Trận chiến Tours (để tránh nhầm lẫn với trận chiến thứ hai), chứng kiến ​​quân đội Frankish do Charles Martel chỉ huy đánh bại quân đội viễn chinh của Đế chế Umayyad do tướng Hồi giáo Abd al-Rahman al-Ghafiqi lãnh đạo. Trận chiến thứ hai, vào năm 1356, là trận chiến Poitiers, một trong những trận chiến then chốt của Chiến tranh Trăm năm. Trận chiến này chứng kiến ​​sự thất bại của quân đội hoàng gia Pháp đông hơn trước quân đội Anh và việc vua John II của Pháp bị Hoàng tử xứ Wales Edward bắt giữ.

Khu vực đô thị Poitiers, nằm giữa Paris và Bordeaux, là nơi đặt trụ sở của khu công nghệ Futuroscope, bao gồm các công ty công cộng (CNED, Canopé, v.v.) và tư nhân lớn tầm quốc gia, cũng như các phòng thí nghiệm nghiên cứu hàng đầu châu Âu. Với hai triệu lượt khách tham quan mỗi năm, Futuroscope là địa điểm du lịch hàng đầu ở vùng Nouvelle-Aquitaine và là công viên giải trí nổi tiếng thứ ba ở Pháp sau Disneyland Paris và Puy du Fou.


 

 NGƯỜI LỮ KHÁCH CUỐI CÙNG…- Truyen ngan Hay

 

NGƯỜI LỮ KHÁCH CUỐI CÙNG… ( Một câu chuyện giữa đời thực chăng !?)

Suốt 20 năm, ông cụ lặng lẽ sống ở sân bay, như cái bóng giữa dòng người qua lại, ai cũng từng chỉ trỏ, bàn tán. Cho đến một ngày, sự thật về thân phận ông khiến tất cả phải lặng người trong xúc động.

Sân bay Tân Sơn Nhất những năm gần đây đã trở nên hiện đại và náo nhiệt hơn bao giờ hết. Hành khách kéo vali lộc cộc, tiếng loa thông báo chuyến bay vang vọng đều đặn, những cuộc chia ly và đoàn tụ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Giữa dòng người hối hả ấy, chẳng ai không từng nhìn thấy một hình bóng quen thuộc – một ông cụ gầy gò, tóc bạc trắng, khoác chiếc áo khoác cũ kỹ, ngồi lặng lẽ bên góc ghế chờ gần cổng ra vào quốc tế.

Người ta gọi ông bằng nhiều cái tên: “ông cụ sân bay”, “người lang thang thời gian”, thậm chí có người đùa gọi là “hồn ma lạc lối”. Có những đứa trẻ chỉ vào ông rồi thầm thì với mẹ cha, người lớn cũng từng ái ngại mà bỏ lại vài gói mì tôm, chai nước, hay đôi khi là tờ tiền lẻ. Nhưng ông chưa từng xin ai bất cứ điều gì. Ông chỉ ngồi đó, mắt nhìn xa xăm như chờ đợi một điều gì đó sẽ đến từ những chuyến bay không ngừng cất cánh và hạ cánh mỗi ngày.

Không ai biết ông đến từ đâu. Không ai rõ vì sao ông lại chọn sống suốt 20 năm giữa nơi nhộn nhịp này, nơi mà ai cũng chỉ dừng lại tạm thời, chứ chẳng ai ở lại vĩnh viễn.

– “Ông ta bị mất trí nhớ.” – một anh bảo vệ từng nói với cô lao công.

– “Không phải đâu, nghe đâu ông ấy từng là Việt kiều, bị con cái bỏ rơi lúc về nước.” – chị bán cà phê trong sân bay thì thầm.

– “Cũng có khi là gián điệp thời chiến, không dám để lộ danh tính.” – có người thêu dệt, kèm nụ cười nửa miệng.

Mỗi người một giả thuyết, một mảnh ghép vụn vặt để cố ghép nên câu chuyện chưa có hồi kết. Nhưng ông cụ thì chẳng bao giờ giải thích. Ông chỉ lặng lẽ sống – như thể sự im lặng của ông là một phần của những âm thanh ồn ào kia, là tiếng ngân dài của thời gian bị lãng quên.

Một ngày đầu mùa thu năm ấy, khi mưa Sài Gòn kéo đến bất chợt, một cô phóng viên trẻ tên là Hà xuất hiện tại sân bay. Cô được giao thực hiện một phóng sự về “cuộc sống thường ngày ở sân bay”, và khi lướt qua góc ghế quen thuộc, cô thấy ông cụ – ướt lấm tấm mưa, tay ôm khư khư chiếc va-li cũ sờn góc. Tò mò, cô dừng lại hỏi chuyện.

Lúc đầu, ông không trả lời. Nhưng cô gái trẻ không bỏ cuộc. Cô mang nước, mang bánh mì, thậm chí ngồi cùng ông cả buổi chiều mà chẳng hỏi gì thêm. Cô chỉ kể về mình – một cô phóng viên tỉnh lẻ lên thành phố, làm nghề vì đam mê kể chuyện của con người.

Sau ba ngày như thế, ông cụ cuối cùng cũng lên tiếng – bằng một chất giọng trầm, rõ ràng và đầy cảm xúc.

– “Cháu có tin là có những người sống cả đời chỉ để đợi một người không?”

Hà ngỡ ngàng. Lần đầu tiên, ông cụ không còn là một bóng mờ, mà trở thành một con người – với giọng nói, ký ức, và một trái tim chưa bao giờ thôi chờ đợi.

Chuyện của 40 năm trước

Ông tên là Trần Văn Minh. Năm 1975, ông theo chuyến bay định mệnh rời Việt Nam sang Mỹ cùng vợ và con gái nhỏ, chỉ 3 tuổi. Nhưng giữa cảnh hỗn loạn lúc ấy, ông bị thất lạc vợ con ở sân bay. Máy bay không thể quay lại, và thế là ông đi một mình – mang theo nỗi day dứt, mang theo trái tim bị xé đôi.

Cuộc sống ở Mỹ không dễ dàng, nhưng ông luôn giữ hy vọng một ngày sẽ quay lại tìm vợ con. Ông học hành, làm việc, tích cóp từng đồng. Sau 20 năm, khi đã đủ điều kiện, ông trở về – nhưng không còn ai ở địa chỉ cũ, không còn tin tức. Họ đã biến mất như cơn gió năm nào.

Ông lục tung hồ sơ, tìm đến từng nơi có thể. Nhưng chẳng có gì. Duy chỉ có một điều ông giữ chắc trong lòng: vợ ông từng nói, nếu một ngày nào đó bị lạc nhau, hãy quay lại sân bay, nơi họ từng bắt đầu chia xa.

Và thế là ông trở lại Tân Sơn Nhất – ngày đó ông 60 tuổi. Giờ đã 80. Hai mươi năm ông sống ở đây, mỗi ngày đều dõi theo từng chuyến bay, từng khuôn mặt. Có lần ông tin là đã thấy bà – một người phụ nữ tuổi lục tuần, ánh mắt rất giống – nhưng rồi bà quay đi, ôm tay một người đàn ông lạ. Ông không đuổi theo. Vì ông sợ sai. Và cũng vì, ông nghĩ, nếu là bà – chắc chắn bà sẽ nhận ra ông.

– “Cháu biết không,” ông khẽ cười, đôi mắt đầy nước, “Mỗi ngày trôi qua, ta sợ không còn đủ thời gian. Nhưng ta vẫn ngồi đây, vì nếu bà ấy còn sống, chắc chắn sẽ quay lại. Chúng ta đã hứa với nhau…”

Tin tức gây chấn động

Hà lặng người. Cô quay về với cuốn băng ghi âm, và chỉ trong vài ngày sau khi phóng sự “Người lữ khách cuối cùng” được đăng tải, mạng xã hội bùng nổ. Bài viết lan tỏa với hàng trăm nghìn lượt chia sẻ. Nhiều người cảm động rơi nước mắt, nhiều Việt kiều liên hệ cô để hỏi thêm thông tin.

Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra.

Một người phụ nữ tên là Trần Thị Ngọc Linh – hiện sống tại Melbourne, Úc – liên hệ với Hà, gửi ảnh chụp bà cùng mẹ ngày còn nhỏ. Hà run rẩy khi nhìn thấy cô bé trong ảnh – đôi mắt giống hệt ông cụ, và sau lưng tấm ảnh là dòng chữ “Gửi ba Minh, nếu ba còn sống, con vẫn chờ.”

Cuộc gọi video đầu tiên trong 45 năm – giữa ông Minh và con gái – là những tiếng nấc, là những “ba ơi”, “con đây”, là những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt già nua và khuôn mặt đã trở thành mẹ.

Họ hẹn gặp nhau – không phải ở sân bay – mà ở chính căn nhà nhỏ ông đang được chăm sóc bởi một nhóm tình nguyện sau khi câu chuyện lan rộng.

Ngày đoàn tụ

Ngày hôm ấy, trời Sài Gòn nắng dịu. Bà Linh – giờ đã là một phụ nữ gần 50 tuổi – bước xuống từ xe, tay run rẩy cầm theo chiếc khăn tay cũ màu hồng, thứ duy nhất còn giữ từ mẹ cô – và là bằng chứng cuối cùng của mối liên kết máu thịt.

Ông Minh, ngồi trên chiếc ghế gỗ trong sân nhà, nhìn thấy con gái bước vào – không nói được lời nào. Chỉ có hai cánh tay run run dang ra, và cái ôm nghẹn ngào kéo dài mãi mãi như thể thời gian đã ngừng trôi.

– “Ba vẫn ngồi chờ con suốt 20 năm… ở cái nơi lần đầu ba mất con.”

– “Con xin lỗi, ba… Con cứ tưởng ba đã không còn…”

Và sau đó…

Không ai còn thấy ông cụ ngồi ở sân bay nữa. Góc ghế quen thuộc giờ trống trải, nhưng trong lòng mọi người vẫn in hình bóng ông. Người bảo vệ năm xưa cũng thay đổi thái độ, nói với ai đó mới đến: “Nơi đó từng có một người cha, sống bằng niềm tin, chờ đợi suốt nửa đời người.”

Hà kết thúc phóng sự của mình bằng một dòng đơn giản:

“Không phải ai đi sân bay cũng chỉ để đi. Có người, ở đó, chỉ để chờ.”

PHAN CAO TRI

Ảnh copy Google

ST từ 8 Sai gon.

Note: Một câu chuyện giữa đời thực chăng !? Nhưng cho dù không phải hoàn toàn thì cũng…

THƯỢNG ĐẾ KHÔNG CHO AI TẤT CẢ

 Ở nước Mỹ xa xôi, có một cậu bé sinh ra trong một gia đình nghèo đến mức… từ nhỏ đến lớn chỉ có một đôi giày rách để đi học.

Mỗi khi nhìn qua cửa kính những cửa hàng sang trọng, ánh mắt cậu lại sáng lên đầy khát khao – chỉ mong một lần trong đời được mang đôi giày mới.

Rồi một ngày Giáng Sinh, cậu nghe người ta nói rằng:

“Trong đêm này, nếu con nói điều ước với Thượng Đế, Ngài sẽ cho con điều con muốn.”

Mang theo niềm tin ngây thơ ấy, cậu bước vào một cửa hàng giày, chỉ tay vào đôi giày mà mình yêu thích và nói với ông chủ:  “Chú ơi, hôm nay là Giáng Sinh. Cháu rất thích đôi giày này, chú có thể giúp cháu nói với Thượng Đế… để Ngài tặng cho cháu được không ạ?”

Ông chủ nhìn xuống đôi chân bé nhỏ, rách tả tơi của cậu, rồi khẽ mỉm cười.

Ông cầm đôi giày, đi vào trong, lát sau trở ra — nhưng trên tay chỉ còn một chiếc giày.

Ông nhẹ nhàng nói: “Thượng Đế bảo rằng, Ngài chỉ cho cháu một chiếc giày thôi. Còn chiếc còn lại… cháu phải tự mình kiếm lấy.”

Cậu bé mở to mắt hỏi: “Vậy cháu phải kiếm bao nhiêu tiền để mua được chiếc còn lại ạ?”

— “Hai đô la.”

Cậu gật đầu thật chắc: “Vâng! Cháu sẽ cố gắng kiếm đủ. Nhưng chú nhớ giữ chiếc giày kia cho cháu nhé!”

Những ngày sau đó, cậu bé đi khắp nơi nhặt ve chai, gom từng đồng lẻ.

Cho đến khi tròn hai đô, cậu chạy về cửa hàng, vừa thở dốc vừa chìa tiền.

Ông chủ mỉm cười, đặt vào tay cậu chiếc giày còn lại.

Cậu ôm đôi giày vào ngực — đôi giày đầu tiên trong đời, và có lẽ cũng là bài học đầu tiên về cuộc sống.

Nhiều năm sau, cậu bé nghèo ấy làm đủ nghề — từ nhân viên cứu hộ, bình luận viên, phát thanh viên, rồi bước chân vào nghệ thuật.

Và năm 1980, cậu bé năm nào trở thành Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ — Ronald Reagan.

Khi được hỏi đâu là điều ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc đời mình, ông kể lại câu chuyện về “một chiếc giày của Thượng Đế”:

“Tôi chỉ biết sau này, giá thật của đôi giày đó là 38 đô.

Một nửa cũng phải 19 đô, nhưng ông chủ chỉ lấy của tôi 2 đô – để dạy tôi một điều rằng:

Thượng Đế sẽ không cho bạn tất cả.

Ngài chỉ trao cho bạn một phần – phần còn lại, bạn phải tự nỗ lực mà giành lấy.”

Bởi vì điều kỳ diệu không đến trọn vẹn — nó đến vừa đủ để thử xem bạn có dám đi nốt con đường còn lại hay không.

 From: NguyenNThu