CÁNH CỬA KHÔNG BAO GIỜ KHOÁ – Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

Cô gái mới có 18 tuổi, cô – như hầu hết các thanh niên ngày nay – chán sống chung trong một gia đình nền nếp.

Cô chán lối sống khuôn phép của gia đình.

Cô muốn rời khỏi gia đình:

– Con không muốn tin ông trời của ba mẹ. Con mặc kệ, con đi đây!

Thế là cô quyết tâm bỏ nhà đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà mình.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, cô bị ruồng bỏ vì không tìm ra việc làm, cô phải làm gái đứng đường, đem thân xác, hình hài mình ta làm thứ để mua bán, đổi chác. Năm tháng cứ thế trôi qua, cha cô qua đời, mẹ cô già đi và cô con gái đó ngày càng sa đọa trong lối sống của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa hai mẹ con trong những năm tháng ấy.

Bà mẹ nghe đồn về lối sống của con gái mình, bà đã đi tìm con trong khắp

thành phố. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

– Làm ơn cho tôi chưng tấm hình ở đây!

Đó là tấm hình một bà mẹ tóc muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: 

“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”.

Vài tháng lại trôi qua, vẫn không có gì xảy ra.

Rồi một ngày, cô gái đến toán cứu trợ nọ để nhận một bữa ăn cứu đói.

Cô chẳng buồn chú ý đến những lời giáo huấn, mắt lơ đễnh nhìn những tấm hình và tự hỏi: 

“Có phải mẹ mình không nhỉ?”.

Cô không còn lòng dạ nào chờ cho hết buổi lễ. Cô đứng lên, ra xem kỹ bức ảnh. Đúng rồi, đúng là mẹ cô và cả những điều bà viết nữa: 

“Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con!”. Đứng trước tấm hình, cô bật khóc.

Lúc đó trời đã tối nhưng bức hình đã làm cô gái xúc động đến mức cô quyết định phải đi bộ về nhà.

Về đến nhà trời đã sáng tỏ.

Cô sợ hãi khép nép không biết sẽ phải nói ra sao.

Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá.

Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà.

Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô gái trẻ chạy vội lên buồn ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ yên.

Cô đánh thức mẹ mình dậy:

– Mẹ ơi, con đây! Con đây! Con đã về nhà rồi!

Không tin vào đôi mắt mình,bà mẹ lau  nước mắt rồi hai mẹ con ôm chầm lấy nhau.

Cô gái nói với mẹ:

– Mẹ à, con lo quá. Thấy cửa không khoá, con cứ nghĩ nhà có trộm!

Bà mẹ nhìn con âu yếm:

– Không phải đâu con à! Từ khi con đi, cửa nhà mình chưa bao giờ khoá.

Mẹ sợ lúc nào đó con trở về mà mẹ không có ở đây để mở cửa cho con!

Và cô gái lại gục đầu vào lòng mẹ, bật khóc!

Nguồn : sưu tầm 


 

Giữ lại phẩm giá cho người khác bằng cách nào?-TG Văn Chương – Truyen ngan HAY

TG Văn Chương

” Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ “

————————

Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu “lừa đảo” ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ “Cơ Hội Thứ Hai” này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

“Ê, nhóc,” tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. “Con không có ăn cắp gì hết!”

“Tao biết,” tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. “Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?”

Nó nhìn tôi, bối rối. “Nhãn ghi hai mươi lăm mà.”

“Nhãn ghi sai đấy,” tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. “Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?”

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

“Dạ, có,” nó thì thầm. “Con lấy.”

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

“Cảm ơn ông,” nó nói.

“Quy định cửa hàng thôi,” tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái “quy định cửa hàng” đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là “dây điện bị hở”.

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động “giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba”.

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là “không bán được/đã tiêu hủy” trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy

“Cho mấy cái… sai sót kiểm kê của ông,” cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: “Giữ lại tiền thối cho lần sau… hệ thống gặp trục trặc nhé.”

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

“Ông là Arthur,” anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. “Đúng là tôi.”

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

“Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm,” anh ta nói. “Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng.”

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. “Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé.”

“Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur.” Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. “Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông.”

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

“Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình.”

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

“Trong đây có 500 đô la,” anh ta nói. “Ông dùng nó đi. Tôi biết cái ‘quy định cửa hàng’ của ông tốn kém lắm.”

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. “Tôi không thể…”

“Cái này không phải cho ông,” anh ta nói dứt khoát. “Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé.”

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

TG Văn Chương


 

Bánh Mì Nửa Ổ – Đoàn Xuân Thu – Truyen ngan HAY

LƯƠNG VĂN CAN K 76. – Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu

Tản văn của một người cha kể lại ký ức tuổi thơ đầy nước mắt và lòng biết ơn người bạn nhỏ.

Năm tôi 13 tuổi, tôi mang trong lòng một nỗi xấu hổ mà chẳng biết nói cùng ai. Gia đình tôi nghèo đến mức nhiều ngày tôi đến trường mà trong cặp không có lấy một mẩu thức ăn. Giờ ra chơi, trong khi bạn bè vui vẻ mở hộp cơm trưa – nào là táo đỏ, bánh quy, ổ bánh mì kẹp thịt – tôi chỉ biết ngồi lặng thinh. Tôi giấu ánh mắt mình sau trang sách, giả vờ như đang mê mải đọc, để không ai thấy chiếc bụng trống rỗng đang sôi lên vì đói. Nhưng cơn đói không chỉ ở dạ dày – nó lan ra cả trong tim, nơi nỗi xấu hổ âm ỉ từng ngày.

Thế rồi, một ngày nọ, có một cô bé cùng lớp đã để ý thấy. Không ồn ào, không làm ai chú ý, cô nhẹ nhàng chìa ra trước mặt tôi một nửa phần ăn trưa của mình. Một nửa ổ bánh mì. Tôi ngượng chín mặt, nhưng cũng chẳng thể từ chối. Tôi nhận lấy.

Ngày hôm sau, cô lại đưa. Rồi hôm sau nữa. Khi thì là một cuộn bánh ngọt, khi thì một quả táo đã được cắt sẵn, khi thì miếng bánh bông lan thơm mùi bơ mà mẹ cô đã làm.

Với tôi lúc ấy, mỗi phần ăn ấy giống như phép màu nhỏ bé. Lần đầu tiên sau nhiều tháng dài, tôi cảm thấy mình được nhìn thấy – được một ai đó để tâm tới.

Rồi đột ngột, cô bé ấy biến mất. Gia đình cô chuyển nhà, cô không trở lại trường nữa. Mỗi ngày giờ ra chơi, tôi lại len lén nhìn ra cửa lớp, mong thấy bóng dáng cô bước vào với nụ cười quen thuộc và nửa ổ bánh mì trong tay. Nhưng cô chẳng quay lại lần nào.

Tôi đã lớn lên cùng với ký ức ấy. Cùng với món quà nhỏ bé nhưng mang sức nặng của cả một tấm lòng. Cô bé ấy không còn bên tôi, nhưng lòng tốt của cô thì ở lại – như một hạt giống cắm rễ trong tim, âm thầm lớn lên cùng năm tháng.

Nhiều năm trôi qua. Tôi đã là một người cha. Công việc, gia đình, cuộc sống cứ cuốn đi như dòng sông không ngừng chảy. Nhưng trong những khoảnh khắc yên lặng, hình ảnh cô bé năm xưa vẫn trở về. Không rõ mặt, nhưng rõ lòng.

Cho đến hôm qua – một buổi chiều bình thường – tôi trở về nhà và thấy con gái nhỏ của tôi, với đôi mắt nghiêm túc như người lớn, bước lại và hỏi:

– “Ba ơi, ngày mai ba chuẩn bị cho con hai phần ăn đem theo được không?”

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– “Hai phần? Bình thường một phần con còn không ăn hết mà?”

Con gái tôi nhìn tôi, ánh mắt trong veo, nhưng giọng nói lại đằm sâu như một cơn gió cũ:

“Tại có một bạn trai trong lớp con hôm nay không có gì để ăn. Con chia một nửa phần của con cho bạn ấy. Nhưng mai, con muốn có phần riêng để cho bạn.”

Tôi đứng lặng. Trong khoảnh khắc đó, tôi không còn thấy con gái nhỏ trước mặt mình nữa. Tôi thấy lại cô bé năm xưa – người đã chia cho tôi nửa ổ bánh mì trong lặng lẽ. Tôi thấy lại chính mình – thằng bé nghèo khổ ngồi bên góc lớp, giấu đi nỗi đói và sự xấu hổ. Và tôi thấy – một điều kỳ diệu đang xảy ra.

Tấm lòng của cô bé ấy – người mà có lẽ giờ đây đã quên mất tôi – đã không hề mất đi. Nó sống mãi, truyền từ tay này sang tay khác, như một đốm lửa nhỏ cháy mãi không tắt. Hôm ấy, cô đã trao lửa cho tôi. Giờ đây, tôi lại thấy ngọn lửa ấy trong tay con gái mình.

Tôi bước ra ban công. Trời chiều. Gió thổi nhẹ qua, mang theo hương cỏ non và tiếng trẻ con chơi đùa xa xa. Tôi ngước nhìn bầu trời, nước mắt rưng rưng. Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi cảm xúc dồn về – đói khát, xấu hổ, biết ơn và hạnh phúc – như sóng cuộn vào nhau trong lòng tôi.

Cô bé ấy, có lẽ chẳng còn nhớ tôi. Có thể cô đang sống một cuộc đời khác, ở một nơi nào đó, làm vợ, làm mẹ, hoặc vẫn đang tiếp tục những điều tử tế mà cô từng làm. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên cô. Vì cô đã dạy tôi một bài học quan trọng nhất đời mình: rằng một hành động nhỏ thôi – một nửa ổ bánh mì – cũng có thể thay đổi cả một cuộc đời.

Và giờ đây, khi thấy con gái mình chia sẻ phần ăn với bạn, tôi hiểu: lòng tốt, nếu được trao đi bằng sự chân thành, sẽ không bao giờ mất. Nó sẽ sống tiếp – qua từng đứa trẻ, từng ánh mắt, từng miếng bánh được chia.

Lời kết: Giữa cuộc sống bộn bề, giữa những ngày tháng con người ngày càng quay cuồng với danh lợi, tiền bạc, đôi khi chúng ta quên mất rằng có những điều giản dị, nhỏ bé – nhưng lại là thứ làm nên chất người: lòng nhân ái, sự cảm thông, tấm lòng chia sẻ.

Chúng ta không cần làm điều gì vĩ đại. Chỉ cần một nửa ổ bánh mì, một cái nắm tay, một lời hỏi han đúng lúc… cũng đủ để sưởi ấm trái tim một con người đang lạnh giá.

Và rồi, như người cha trong câu chuyện, bạn sẽ thấy – một ngày nào đó, điều tử tế bạn từng làm, sẽ quay trở lại với bạn. Có thể trong ánh mắt của một đứa trẻ. Có thể trong lòng biết ơn của ai đó bạn chẳng còn nhớ. Nhưng chắc chắn, nó sẽ không bao giờ mất đi.

Đoàn Xuân Thu.


 

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 ” THẾ MỚI ĐÁNG MẶT ĐÀN ÔNG “

Bình sinh, cho đến bây giờ đã sang bên kia dốc cuộc đời, tôi vẫn thường tự cho mình là kẻ không đến nỗi phải xấu hổ với danh phận của một thằng đàn ông, một thương gia.

Ấy vậy mà cuộc đời phiêu bạt để bỗng có một ngày đẹp trời, trên một phiên chợ vùng cao, tôi bị choáng váng vì tự thấy xấu hổ với mình khi ngồi nghe trộm câu chuyện của hai người đàn ông xa lạ.

Bên một chiếc bàn gỗ mốc thếch, tôi ngồi uống rượu với một người bạn. Anh này thạo nhiều thứ tiếng dân tộc vì đã một thời chuyên đi thu mua nấm rừng, thảo quả trong các bản làng xuất sang Trung Quốc.

Bàn bên cạnh có hai người đàn ông mặc quần áo chàm vừa nốc từng bát rượu đầy vừa chằm chằm nhìn vào mặt nhau.

Ngồi né ra xa một chút là một người phụ nữ váy áo thêu xanh đỏ, khắp người đeo không biết bao nhiêu vòng bạc lủng lẳng.

Suốt đến gần nửa tiếng đồng hồ chỉ thấy có một anh chàng nói, khi thì giận dữ khi thì nghẹn ngào, có lúc lại đắm chìm trong ưu tư như bị men rượu nhấn chìm.

Can rượu to trên bàn đã vơi quá nửa, bỗng hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau, nức lên rưng rức.

Cái bàn ọp ẹp chao ngiêng làm hai bát rượu đổ tóe ra sàn.

Lẳng lặng nhìn hai gã đàn ông quá say, người đàn bà cúi xuống nhặt những chiếc bát đặt lên bàn rồi lẳng lặng mở nút cái can nhựa cao đến hai gang tay, nghiêng can rót rượu đầy tràn hai miệng bát. Xong xuôi lại trở về chỗ, lẳng lặng nhìn bâng quơ ra rặng núi mây giăng ngang trước mặt.

Thấy cảnh lạ lùng, tôi thì thầm hỏi anh bạn xem chuyện gì đang xảy ra. Thì ra hai gã đàn ông này chính là “tình địch” của nhau, theo cái cách định nghĩa ngu ngốc của người dưới xuôi ta.

Một anh là chồng, còn một anh là người yêu cũ của người đàn bà đang ngồi đây.

Nhìn kỹ ra thì cô vẫn còn khá trẻ , xinh xắn nhưng vẻ tiều tụy và cam chịu làm cho ta nghĩ rằng đấy đã là một thiếu phụ nhan sắc đang phai tàn.

Chiều tối ngày hôm qua họ đã xuống đến chợ. Như nhiều đôi khác, hai vợ chồng này buộc ngựa vào một góc bên quán, ăn một bữa no nê rồi chia tay nhau.

Sáng hôm nay họ lại tìm về quán cũ theo lệ thường để rồi sẽ lại ăn một bữa trước khi túc tắc dắt ngựa đi về. Thế nhưng lần này, cô vợ không về quán một mình mà dẫn theo anh người yêu cũ. Thế là ba người ngồi cùng nhau. Hai người đàn ông và một người đàn bà.

Anh bạn tôi ngồi xây mặt ra cửa nhưng căng tai về phía bàn bên để nghe và cố hạ giọng dịch cho tôi nghe từng câu nhát gừng đứt quãng của người đàn ông đang vừa nói vừa uống một cách đầy bức xúc.

Anh bạn tôi còn phải tóm tắt cả câu chuyện đã xảy ra trước khi tôi hỏi, thế nhưng vẫn theo kịp được khúc sau vì anh kia cứ nói một câu lại uống một hớp, rồi lại gật gật cái đầu như đang cố vắt ra các ý nghĩ lộn xộn nằm đâu đó bên trong óc mình.

Tôi vừa nín thở để nghe và cố sắp xếp các lời dịch của anh bạn.

Cuối cùng thì tôi hiểu được đại khái câu chuyện giữa hai người đàn ông, một người chỉ nói, vừa nói vừa nghẹn ngào, một người cúi gằm mặt xuống vừa nghe vừa cắn chặt hàm răng.

Bỏ qua những câu vòng vo mà tôi không nhớ mà cũng không hiểu hết ý thì tóm tắt lại là như sau:

– Thằng Xín Thau kia, mày uống hết cái bát ấy đi rồi nghe tao nói.

Suốt đêm qua tao đau tức cái tim, đau quặn cái ruột. Tao đi theo vợ mày về đây tìm mày.

-…

– Cái ngày bố mày theo ông thầy cúng đưa mày đến đón vợ mày về, tao buồn muốn chết. Tao đã bắn hết cả một túi thuốc, nhồi hết đạn chì thì nhồi sỏi sạn vào mà bắn. Đáy nòng vỡ ra, sẹo trên má tao vẫn còn đây này.

-…

– Sau khi cưới, vợ mày nó bảo rằng tao đừng buồn, mày thương vợ lắm. Tao tin nó quá, thế là tao vui rồi

– ….

– Phiên chợ trước tao được tin nhắn là phiên này vợ chồng nhà mày sẽ đi. Tao đắp vội mấy khúc bờ ruộng cho xong, tao bỏ cái đám cưới trong bản để ra đây gặp vợ mày.

– …

– Mày phải biết, khi đi ra chợ tao vui quá, bỏ không bắn hai con chim to trên cành, bỏ không bắn một con nhím to trong bụi. Tao chỉ nghĩ đến cái lúc được gặp vợ mày. Thật đấy. Tao vẫn còn thương con vợ mày lắm mà.

– …

– Đến lúc tao tìm được con vợ mày, tao vui đến chảy cả nước mắt.

Tao lại hát lại cái bài mà ngày xưa lần đầu tao hát vào bên tai con vợ mày, cái đêm đầu tiên tao gặp được nó.

– …

– Thế mà, dắt nhau đi rồi, đèn tao chiếu vào tận mặt mà tao không còn nhận ra nó là cô con gái đẹp nhất bản ngày xưa. Giàng ơi. Ngày xưa cái mặt ấy tròn như trăng rằm, hai cái vú nó tròn to như hai quả dưa chín, cái tay nó đẹp như mình con trăn trên cây, tiếng nó cười hay như chim hót làm nắng cũng cười theo, cái váy nó thơm như hoa rừng làm bướm cũng bay theo.

– …

– Giàng ơi. Đêm qua tao chỉ thấy mặt nó cong méo như trăng hạ tuần, ngực nó nhăn như hai quả bí héo.

Nó không cười, nó chỉ muốn khóc. Tao đau cái tim tao quá. Giàng ơi.

– …

– Mày nói đi. Là thằng đàn ông, mắt mày có nhìn thấy vợ mày nó khổ hay không? Là thằng đàn ông, mày có thấy vợ mày nó buồn hay không?

– …

– Mày là thằng tốt số nhất đời.

Mày sinh vào lúc nào mà mày lấy được vợ mày? Mày thật là có cái tội to. Hôm nay tao định đánh mày, tao thương con vợ mày quá.

– …

– Lần này tao mang hai bao ngô giống. Tao không bán nữa. Mày mang về đi mà trồng. Phiên chợ sau tao gửi phân bón vào cho.

– …

– Đến kỳ ngô ra bắp tao bảo mày cách đặt bẫy. Tao có bài thuốc,  bẫy sập là lợn rừng ngấm thuốc không chạy được đâu. Tao sẽ cho mày. Nếu nhím sập bẫy, mày bắt nguyên cả con mang ra chợ.

Có người mua ngay. Ba cái dạ dày nhím sống là đổi được một con lợn giống to.

– …

– Mày không được lười. Mày đói thì tao kệ xác cha con mày, nhưng vợ mày thiếu thóc thiếu ngô là tao đánh mày đấy.

– …

– Thằng Xín Thau kia, mày có phải là thằng đàn ông hay không?

Nhìn hai gã đàn ông gục đầu vào nhau rưng rức khóc trên hai bát rượu đã cạn khô, tôi thấy thật là khó tả. Nhìn sang người đàn bà lẳng lặng ngồi bên, tôi không đọc được những ý nghĩ gì đang ẩn hiện trong đầu cô ta.

Phải chăng là vừa hạnh phúc vừa tủi thân, phải chăng là vừa ái ngại vừa thương xót cho cả hai gã đàn ông của cô.

Rất lâu về sau, một lần tôi đem câu chuyện này kể cho vợ tôi nghe.

Vợ tôi thở dài, cầm cái điều khiển tắt phụt màn hình vô tuyến đang lải nhải rất vô duyên về hạnh phúc gia đình rồi bâng quơ

” Đàn ông phải như thế mới đáng mặt thằng đàn ông chứ ! “

Nguyễn ( St )

Và , có một cô bé thiểu số có Nick ngồ ngộ trên FB

” Dân tộc thì sao, kệ tao ” nên mới có thơ:

” Dân tộc thì sao , kệ tao”

Chúng tao vẫn kệ có sao đâu mà

Dưng mà cái miệng như hoa

Mắt như đốm lửa, mượt mà tóc đen

Áo hoa ban váy hoa sim

Nước da trắng bóc, khó tìm nơi tao

Kệ tao, dân tộc thì sao.

Mày tao mà vẫn ngọt ngào, sướng thay.

Nhìn càng đắm ngắm càng ngây

Say lời hát lượn hay say rượu cần …

Nguyễn – dân tộc Kinh

(Sưu tầm)

Nguồn fb Xuan Cuong


 

Ai cũng có thể cứu một mạng người…Truyen ngan HAY

My Lan Pham

Không ai ở New York từng quên buổi chiều hôm đó, năm 1869. Một người phụ nữ chạy băng qua Đại lộ số Năm, váy được vén cao, một chiếc túi da ôm sát vào ngực. Tên bà là Marie Zakrzewska, 43 tuổi, và khi đám đông né sang hai bên để nhường đường, ai cũng nghĩ chung một điều: “Một người phụ nữ thì có thể làm gì ở đây?”

Dưới đất, một người đàn ông nằm bất động. Một chiếc xe ngựa vừa cán qua người ông. Mọi người nhìn. Bình luận. Chỉ trỏ. Nhưng chẳng ai biết phải làm gì. Cho đến khi Marie quỳ xuống.

“Tránh ra,” bà nói, không cần cao giọng.

“Bà điên à?” một viên cảnh sát quát lên. “Bà không có lý do gì để can thiệp.”

“Nếu tôi không can thiệp, ông ấy sẽ chết,” Marie đáp lại, ánh mắt không hề chớp.

Trong khi những người khác còn chần chừ, bà hành động. Bà bắt mạch. Mở áo ông ta. Kiểm tra hơi thở. Đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng: “Tôi cần một chiếc xe ngựa trống. Và một tấm chăn.”

Vài người lập tức chạy đi lấy những thứ bà yêu cầu. Marie đặt người đàn ông lên với sự cẩn trọng tuyệt đối. “Đừng di chuyển ông ấy như thế,” bà nói, giữ lấy cổ nạn nhân. “Có thể làm tổn thương cột sống.”

Viên cảnh sát nhìn bà, bối rối.

“Bà là ai vậy?”

Marie ngẩng lên.

“Là người đang làm điều lẽ ra ông phải làm.”

Sự việc đó khiến bà không yên. Tối hôm ấy, khi viết trong phòng làm việc nhỏ, bà không thể xóa khỏi tâm trí hình ảnh người đàn ông nằm gục giữa phố. “Thật man rợ,” bà nghĩ. “Một thành phố hàng nghìn dân… mà không ai biết cách giúp.”

Marie không phải người phụ nữ bình thường. Bà là bác sĩ. Một người Đức. Và là một nữ tiên phong đã chiến đấu không biết bao nhiêu trận để được coi trọng. Bà biết rằng ở New York, hầu hết tai nạn đều trở thành bi kịch vì chẳng ai đến kịp… hoặc có tới, nhưng không biết cứu giúp. “Phải làm gì đó.”

Ý nghĩ đó không buông tha bà.

Hai tuần sau, bà tập hợp hai bác sĩ và một y tá trong một căn phòng nhỏ ở East Side.

“Chúng ta cần một đội phản ứng nhanh,” bà nói. “Những người được đào tạo. Phương tiện phù hợp. Đồ dùng cơ bản. Một thứ có thể đến bất kỳ điểm nào trong thành phố trong vài phút.”

Các bác sĩ nhìn nhau.

“Một kiểu… đội y tế lưu động?”

“Đúng vậy.”

Có hoài nghi, chê bai, tiếng cười.

“Marie, làm gì có tiền mà duy trì chuyện đó.”

“Marie, thành phố sẽ chẳng bao giờ cho phép đâu.”

“Marie, ai sẽ tin vào một hệ thống do phụ nữ nghĩ ra chứ.”

Bà đặt cả hai tay lên bàn:

“Vậy nếu thành phố không cho phép, chúng ta sẽ tự bắt đầu. Ai tham gia sẽ làm miễn phí cho đến khi chúng ta chứng minh được nó hiệu quả.”

Im lặng. Và rồi từng người một… cả ba đều nói: “Tôi tham gia.”

Chiếc “xe cấp cứu” đầu tiên thực chất chỉ là một cỗ xe ngựa được gia cố, có một cáng thô sơ và một hộp gỗ chứa băng gạc, cồn, cùng vài kẹp phẫu thuật.

Marie và đội của bà tập luyện ngày này qua ngày khác: cách khiêng người bị thương, cách cầm máu, cách cố định gãy xương, cách xử lý trong hoảng loạn.

Nhưng phần khó nhất không phải việc tập luyện. Mà là phản ứng của người dân.

“Này, lũ điên của bà bác sĩ kìa!” có người la lên.

“Cái gì đấy? Một gánh xiếc à?” người khác chế giễu.

Marie không đáp lại. Bà chờ sự thật lên tiếng.

Và sự thật đã đến.

Cuộc gọi đầu tiên đến vào một ngày thứ Bảy. Một đứa trẻ rơi từ tầng hai xuống. Mọi người la hét ngoài đường.

Chiếc xe của Marie tới trong vài phút. “Tránh ra!” bà hét khi lao xuống xe. “Để tôi xem nó nào!”

Trong khi người mẹ khóc nức nở, Marie kiểm tra cậu bé.

“Nó vẫn thở. Vẫn có mạch. Chúng ta có thể cứu nó.”

Bà cố định cơ thể cậu bé bằng các tấm ván, đưa ra những chỉ dẫn nhanh chóng, rồi chở cậu đến bệnh viện. Cậu bé sống.

Ngày hôm đó, cả thành phố đổi thay.

Điều bắt đầu như “ý tưởng điên rồ không tương lai” trở thành dịch vụ xe cấp cứu đô thị hiện đại đầu tiên trên thế giới. New York áp dụng hệ thống ấy. Rồi Boston. Rồi khắp nước Mỹ.

Marie chưa từng muốn được ghi công. Bà chỉ muốn không ai chết trong sự bất lực của người xung quanh.

Sau này, khi được hỏi vì sao bà kiên trì đến vậy, bà trả lời:

“Vì tôi không chịu nổi cảnh người ta chết giữa vòng vây những kẻ chỉ biết đứng nhìn. Ai cũng có thể cứu một mạng người… nếu có người dám bắt đầu.”


 

TÌNH VỌNG – Tác giả: Phát Dương- Truyen ngan HAY

Xuyên Sơn

 TÌNH VỌNG

Bữa nay thấy cổ xanh xao quá, chắc đang muốn bệnh…

– ông ngó lom lom người đàn bà đang sắp trái cây chuẩn bị mở bán buổi sáng, cách quán ông ngồi cái ngã tư.

Túy cười, nhìn ông già lóng ngóng bưng ly cà phê đen lên, hớp mấy lần không vô miếng nào.

Vô gì nổi mà vô, bận ngắm “người đẹp có tuổi” bên kia.

Chưa từng thấy ai thương thầm bền bỉ như ông già này.

– Vậy sao tía không dặn “bồ câu” của tía qua “hỏi thăm” người ta luôn? – Túy nói, lôi tờ báo ra tính đọc.

Thiệt ra hai người không có quan hệ máu mủ gì hết.

Túy chạy xe ôm công nghệ, hay ghé đây làm ly cà phê với ổ bánh mì hai trứng cho tỉnh trước khi bật app kiếm khách.

Lần nào tới cũng thấy ông Ba ngồi trước, mặt luôn hất qua bên kia đường, chỗ sạp trái cây.

Tới lúc nghe cô chủ quán nói ổng ngồi vậy mấy năm rồi đó, anh chỉ biết kêu trời.

Thương gì mà im ru ngồi một chỗ ngó mấy năm, trần gian này chắc có mình ông.

Ngồi gần riết quen, từ từ thân, anh kêu ông bằng tía nuôi.

Anh mồ côi cha, trong thâm tâm cũng ngưỡng mộ mối tình câm của ông, tính ra gọi vậy hợp.

– Dặn rồi, dặn rồi! – ông Ba cười khà khà, lại cầm ly cà phê lên ực một ngụm… không khí, mắt chưa thôi dán vô sạp trái cây.

Ông Ba dứt lời đã thấy thằng nhỏ lon ton đi tới sạp trái cây.

Đó, “bồ câu” của ông Ba đó.

Ông mướn nó, bởi vía tốt mạng hợp, ngày nào cũng biểu nó qua mua trái cây ủng hộ người đàn bà cho cả ngày buôn bán đắt khách.

Ông Ba hồi hộp coi thằng nhỏ nói cười với bà chủ sạp, lo không biết nó có nhớ lời ông dặn hỏi thăm hổm rày bà có bị làm sao không.

Lá me trên cao rắc xuống bám đầy trên tóc mà ông không hay, mặc kệ chúng điểm lấm chấm vàng.

Ông bận nín thở quan sát người thương.

Thằng Túy thấy cảnh đó ồ lên trong bụng, nhìn tía nuôi nó lúc này đẹp hết sẩy. In hệt bức tượng đá đen, cẩn vàng lấp lánh bằng mớ lá me, thần thái toát ra nửa hạnh phúc nửa ngóng trông coi buồn đứt ruột.

Ăn hết ổ bánh mì, uống cạn ly cà phê, Túy mắc nói quá.

– Rồi tía định chừng nào nói cho “người ta” hay có người để ý

“người ta” mấy năm ròng? 

Ông Ba như bị câu hỏi đập mạnh vào đầu, cả người rung một cái chao đảo. Lấy lại bình tĩnh, tằng hắng nạt:

– Mày lo coi kiếm khách đi chứ trưa trờ trưa trật kìa, ở đó nhiều chuyện.

Thằng Túy đứng lên trả tiền, bị nạt mà vui, chưa kịp trả luôn phần ông Ba thì đã nghe tiếng ông:

– Phần tao lát tao tự trả, mày mà trả là mai mốt hổng có tía con gì hết nghe.

***

– Sao con, sao con… – ông Ba chồm khỏi ghế, sốt sắng hỏi thằng nhỏ “bồ câu”.

Nó vuốt mồ hôi lấy lại nhịp thở mới trả lời được:

– Con nghe cô bán báo kế bên… nói… bà Chín bữa nay… bệnh… nên hổng có… có bán…

– Bệnh nặng hông con, nặng hông?

Bị sao? Có ai chăm hông? ông Ba hỏi liên hoàn.

Túy phải ra hiệu cho ông Ba chầm chậm lại để thằng nhỏ còn kịp nhớ mấy tin tức nó dò được.

Bà Chín, chủ sạp trái cây ông thương thầm, bị cảm lạnh do hứng mấy trận mưa đầu mùa.

Không sao hết, đau đầu nên nằm nhà cho con gái chăm, mai mốt là khỏe re chứ gì, đó là cô bán xôi đậu trước sạp báo nói vậy.

– Chắc bả tiếc tiền chưa chịu làm lại mái che, để mưa tạt vô hoài.

Thiệt tình, có bao nhiêu đâu… ông Ba buồn so, lặng lẽ đặt người xuống ghế trong tư thế của chiếc lá vàng đáp đất lúc không có gió.

– Thì tía qua làm cho “người ta” đi! thằng Túy bỏ nửa ổ bánh mì đang gặm xuống bàn.

Ông Ba nhìn Túy, mặt mếu như sắp khóc. Đâu phải ông không muốn.

Ông tha thiết được qua đó a-lô người tới làm liền nhưng sợ sau đó ông không còn được ngồi đây mà nhìn lén “người ta” nữa.

Nhìn mặt ông, Túy không dám chọc nữa, cắm cúi ăn cho xong phần bánh mì. Thiệt tình thương kiểu gì cực thân hổng hiểu nổi!

*****

– Cho con hai chục ngàn đó luôn, khỏi thối! ông Ba chơi lớn với thằng nhỏ bán vé số làm nó mừng húm.

Túy thấy bữa nay tía nuôi anh trông tươi quá xá.

Bà Chín đã dọn hàng ra bán lại.

Vui hơn nữa khi “bồ câu” được ông Ba phái qua đưa mấy bịch chè thưng với lý do “má con nấu nhiều quá ăn hổng hết” và bà chịu nhận.

Thương kiểu ông là kiểu thầm lặng không cần đáp lại, hễ làm gì được cho người thương vui là lòng như trổ cả một hàng rào bông tươi thắm.

Ông Ba nhìn hoài nhìn hủy sạp trái cây tuốt đằng xa.

Không, ông không nhìn bằng đôi mắt nheo nheo đã ngả màu đục và đầy nếp nhăn kia mà nhìn bằng trái tim, bằng cả ký ức.

Túy nhớ có lần hỏi cắc cớ ông Ba, sao tía nhìn qua mị mị ngã tư thì thấy tỏ mặt người mà dò vé số phải kê sát mặt mới thấy.

Lúc đó mặt ông Ba đỏ rần, mắng anh là thằng quỷ.

Ông nói cũng không biết tại sao.

Mắt ông già khụ chứ có trẻ trung gì, nhìn xa chút đã mờ mịt.

Chỉ không hiểu sao nhìn sang “bên đó” lại rõ, như được lắp ống nhòm, thấy tận tường từng cái nhíu mày mệt mỏi của bà Chín.

Chắc có lẽ ông nhìn bằng quá khứ, bằng mấy chục năm thương nhớ.

Nỗi nhớ giày vò là nắm hạt rải xuống đất lành mọc lên rừng nhớ,

có chặt bao nhiêu lần cũng chỉ khiến chúng trổ bấy nhiêu lần tược mới.

Một chỗ cắt ra năm, sáu chồi, xanh um.

– Tía đừng nói với con mấy chục năm rồi tía mới gặp lại “người ta” nha?

Túy bóp bóp vai cho ông Ba, khi ông vặn vặn người than nhức mình nhức mẩy.

Ông Ba không nói, chỉ gật đầu.

Giọt nước mắt như con kiến bò khỏi ổ, chầm chậm đổ dọc xuống mặt.

***

Hai chục năm có khi hơn, ông Ba mới gặp lại bà Chín.

Đừng hỏi tại sao ông không chớp thời cơ tới giáp mặt người thương.

Ông thèm lắm, quay quắt như kẻ ly hương biết mình không còn nhiều

thời gian chỉ ray rứt muốn hồi hương. Nhưng làm sao làm sao làm sao đây?

Khi ông Ba không quên được hồi mười năm trước.

Nỗi đau cũ chưa hề liền sẹo. Ông gặp con gái bà Chín.

Cô nhận ra ông, liền sau đó giận dữ. Cô nói chính ông hại chết ba cô, đừng bao giờ tới kiếm má cô.

Ông không phải kẻ giết người.

Nhưng trời ơi ông vẫn là kẻ gián tiếp giết người.

Nếu hồi đó ông không tới, nếu ông không điên dại kéo bà Chín đi với mơ mộng chạy trốn, có lẽ chồng bà đã không chết.

Cặp mắt trân trân của chồng bà Chín còn hằn dấu trong đầu ông.

Giữa cơn mưa nhuộm xám xịt đất trời, cặp mắt bốc cháy như hai cục than gặp củi.

Ánh mắt nóng phừng xuyên qua ông, đang níu tay vợ người ta.

Bà Chín nhìn ông, cái nhìn đau đớn của thân cây bị phạt đứt đôi, rứt tay ông khỏi mình, chầm chậm rẽ mưa đi về phía chồng.

Ông chồng không nói không rằng, quay lưng bước.

Bất kỳ gã đàn ông yêu điên cuồng nào cũng là kẻ điên.

Ông Ba điên vì thương quá. Chồng bà Chín điên vì ghen quá.

Ông Ba xấn tới nhà cầu xin bà Chín bỏ tất cả theo ông, khi chính ông đã không còn màng gì.

Thì chồng bà giữa trận mưa xối chống xuồng vô giữa dòng sông cuộn đục, quyết chối bỏ sự thật hóa ra người mình ôm ngủ mỗi đêm chưa bao giờ yêu mình.

Cuộc hôn nhân ràng buộc chỉ là sự sắp đặt của người già.

Người ta chỉ thấy ông ấy đi chứ không thấy ông trở lại.

Người ta cũng thấy bà Chín khuỵu bên bến, gào khóc.

Người ta không tìm được xác chồng bà, chỉ tìm thấy những mảnh ván xuồng bể nát. Dám ông đã trôi tuốt đâu xuống hạ nguồn.

Có người nói biết đâu trước lúc chết ông ấy thề không nhìn mặt vợ,

nên thôi có kiếm cũng chẳng gặp đâu.

Lúc đó, con bà mới mười lăm tuổi đã phải hứng chịu nỗi đau mất cha, cùng những lời xì xầm người ta áp lên má mình, rằng đó không phải hạng đàn bà đứng đắn.

Làm sao mà nó không hận ông Ba cho được!

Ký ức đó như khối ung thư trong người ông Ba, mỗi năm mỗi di căn.

Bà Chín là thuốc chữa, thứ thuốc chữa xa vời ông vĩnh viễn không có được.

Ông cầm cự căn bệnh kỳ quặc đó bằng cách âm thầm theo dõi bà.

Biết bà vẫn ổn, vẫn sống khỏe, ông cũng an lòng.

Còn đòi hỏi gì nữa đâu.

Khi người ta soi gương nhận ra mình chẳng còn sợi tóc nào xanh trọn vẹn, thứ người ta muốn chỉ đơn giản còn vỏn vẹn chữ thương.

Dẫu vụng trộm thương, dầu hóa thành đứa nhỏ mỗi ngày đi ngang tiệm đồ chơi thèm thuồng nhìn chứ không có tiền mua, thì món đồ chơi còn nằm nguyên đó được ngắm thôi đã là thỏa dạ.

Còn mong gì nữa. Mà mong cũng có được đâu!

***

– Nếu trúng số tía định làm gì?

Túy mót mớ cà phê đắng trong lúc nhìn ông già cẩn trọng dò vé số.

– Tao sẽ gửi tiền cho “người ta” đi mổ tim.

– Làm gì nữa tía? Đi du lịch hả?

Túy nhìn ông tía nuôi, cười cười.

– Tao cho mày tiền sửa nhà với sắm xe mới, coi cái xe mày cũ xì hư lên hư xuống hoài – ông Ba rạng rỡ – chứ mang tiếng tía nuôi mà có làm gì được cho mày đâu!

– Tía hông để tiền dưỡng già hả?

Túy nghe sống mũi mình cay xè.

Anh không ngờ trong những dự định giàu sang của ông già chẳng máu mủ ruột rà lại có tên mình.

– Thôi mày ơi, tao không con cái lo chi nhiều.

ông lắc lắc đầu, bẻ trái chuối trong nải chuối thằng nhóc “bồ câu” mới từ chỗ bà Chín đem về, đưa cho Túy.

– Dễ gì trúng mày ơi! ông Ba thở dài.

***

Sáo nhìn má chìm vào giấc ngủ sâu, yên tâm ra khỏi phòng bệnh.

Má cô đã mổ tim xong, với số tiền một người bạn lâu năm của má gửi tặng.

Lẽ ra cô không nhận nhưng không làm khác được. Má lên cơn đau tim,

cần mổ gấp. Sáo đã thử gọi cho ba, ba chỉ giúp được một phần.

May có người bạn giấu mặt của má.

Chính Sáo cũng không ngờ ba còn sống.

Lúc biết tin, cô mừng lắm.

Dù sắp muộn nhưng chưa bao giờ cô thôi nhớ về ký ức ngày gia đình còn đủ ba người.

Cô tưởng ba sẽ trở về, nối lại dở dang ngày trước.

Nhưng không thể nữa rồi.

Ba đã có gia đình khác.

Từ từ, cô cũng thông cảm cho ba.

Thời gian dạy con người lớn lên, bằng cách chấp nhận những điều mà trước đây người ta nghĩ là không thể nào chấp nhận.

Không có lựa chọn khác ngoài chuyện đó, bởi điều đã xảy ra thì đã xảy ra, điều có thể thay đổi nằm ở hiện tại và tương lai mà.

Thời gian cũng làm Sáo nhận ra mình chẳng còn hận một người đến mức thề hủy hoại tất cả.

Cô biết rõ người gửi tiền cho má là ai, chỉ là chưa dám đối diện sự thật đó.

Cô chọn cách tiếp cận từng chút hai từ “tha thứ”.

Chẳng có mối thù nào lớn bằng tình yêu cô dành cho má. Nhìn má nằm trên băng ca chạy đua với thời gian,  cô da diết muốn làm má vui dẫu có mài mình ra để đổi.

Thì dẫu niềm vui của má là người đó, cô cũng bằng lòng.

Không phải Sáo không hay ông ta luôn dõi theo má.

Cả cô và má đều biết thằng nhóc mỗi ngày qua mở hàng sạp trái cây của má là do ông ta mướn.

Nhìn má tủm tỉm cười mỗi lần thằng nhỏ đem qua món gì đó; nhìn má trông ngóng khi chưa thấy nó tới; nhìn má buồn rầu lúc bệnh không ra bán được, cô làm như không biết những sắp đặt cố tình.

Từng ngày một, cỏ lên xanh vườn lòng hoang cũ.

Ngẫm nghĩ thật lâu, Sáo bấm số gọi cho thằng nhóc. Nhờ nó nhắn ông Ba tới thăm má cô.

***

– Con trả chiếc xe cho tía!

Túy bước tới nắm tay ông Ba giữ lại,  khi ông dợm bước đi.

– Cho rồi trả gì mà trả!

ông Ba vùng vằng.

– Nhưng tía nói xạo con! Tía đâu có trúng số!

Túy gào lên.

– Tía bán nhà rồi tía ở đâu?

Túy khóc, ôm chầm lấy ông Ba khi thấy ông định bỏ chạy.

Túy làm sao nghĩ nổi tiền ông Ba cho anh mua xe mới, tiền mổ tim cho bà Chín, là tiền ông bán nhà.

Một thân một mình, chỗ ở cũng không còn, thiệt tình anh không ngờ nổi trò liều mạng này của ông.

Anh tới kiếm ông, thừa biết có chết ông cũng không chịu nhận lại chiếc xe.

Thì anh sẽ ép ông về nhà anh ở, chứ đâu để tía nuôi chịu khổ được.

Đúng lúc đó, thằng “bồ câu” hồng hộc lao tới. Nó vồ lấy ông Ba, thì thầm gì đó.

Mặt ông như đóa bông héo gặp nước, bừng lên tươi.

Ông vỗ lưng Túy đau điếng, nhảy phốc lên xe réo như con nít sắp nhận quà:

– Lẹ, lẹ! Chở tao đi thăm bà Chín!

Túy cười, xốc ông ngồi lại cho ngay ngắn mà nghe mằn mặn trên môi.

Tác giả: Phát Dương

Nguồn fb Trung Kien Doan


 

 MỘT CHUYỆN TÌNH NHƯ CỔ TÍCH-tác giả Lệ Hoa Wilson

Xuyên Sơn

 MỘT CHUYỆN TÌNH NHƯ CỔ TÍCH

Em sanh năm 1974 tại Cam Ranh dưới cái tên trữ tình và có một chút hơi cung đình là Chiêu Nguyễn Phương Lan.

Nhưng cái tên đẹp đẽ kia không cải tạo được số mạng nghiệt ngã của em.

Hai tháng sau mẹ em cảm thấy có gì là lạ nơi mắt em. Bà đem em đi khám bác sĩ và kết quả đã làm cho tim bà tan nát. Mắt em bị một chứng bịnh lạ lùng và đang từ từ mất đi hoàn toàn thị giác.

Đau khổ hơn nữa là đám virus ác nghiệt từ tròng mắt tấn công lên não. Để bảo tồn mạng sống cho em, bác sĩ phải mổ lấy ra một con mắt và hai năm sau con mắt thứ hai.

Hai lỗ mắt trống hoắc và mí mắt sụp xuống che lại bầu trời có thiên địa huy hoàng, có bông hoa rực rỡ, có sông dài xanh ngát, có núi xám trời cao. Tất cả chỉ còn là bóng tối…

Một người mù hỏi thánh Anthony:

“Còn có điều gì khổ hơn là bị mù không?”

Thánh Anthony trả lời:

“Có đấy! Ấy là khi con người ta bị mất phương hướng!”.

May mắn thay, em không mất phương hướng.

Tụi nhỏ nhảy dây, em cũng nhảy dây dù vấp té không biết bao lần.

Tụi nhỏ hát, em cũng hát.

Tụi nhỏ vỗ tay cười giỡn, em cũng vỗ tay cười giỡn.

Tụi nhỏ học đờn tranh, em cũng học đờn tranh.

Và vì không bận nhìn ngang ngó dọc, em tập trung tất cả thời gian vào thực hành nên em đờn hay hơn tất cả bạn bè, em học giỏi hơn tất cả bạn bè.

Năm em lên 7 tuổi, mẹ dẫn em xin vào học trường Nguyễn Đình Chiểu ở đường Nguyễn Chí Thanh nhưng bị từ chối vì cha em là ngụy!

Mẹ em đã lạy lục đầu trên xóm dưới, năn nỉ cùng trời cuối đất và sau cùng em được nhận vào học ăn ở nội trú một tuần năm ngày, tự giặt quần áo, tự tắm rửa v.v.

khi lớn lên một chút thì em học thêm nghề bó chổi, đan chiếu.

Ba năm cuối của trung học em được nhận vào trường phổ thông cơ sở quận Bình Thạnh.

Khi chấm dứt trung học, em thi vào trường Văn Hóa Nghệ Thuật chuyên ngành âm nhạc.

Ba năm sau em thi vào trường Cao Đẳng Sư Phạm và năm 1998 em ra trường với danh dự thủ khoa ban Anh Văn, môn phụ Nhật Văn chỉ với một cái máy thu băng cũ kỷ để thâu lời giảng dạy và một cái máy đọc chữ Braill để làm bài tập.

Khi ra trường, em tuy hiểu Anh văn nhưng không nói được.

Để tập nói, hai mẹ con dẫn nhau ra hồ Con Rùa hoặc bến Bạch Đằng, mẹ em đưa tay ra khều những người ngoại quốc.

Có người xoay lại và vội vàng xua tay đuổi bà mẹ đi vì tưởng là bà xin tiền. Sau cùng bà phải nắm tay em để sát cạnh bà, khi người ngoại quốc xoay lại, em vội vàng trình bày ngọng nghịu là “tôi là người khiếm thị, tôi học Anh văn nhưng không nói được, tôi muốn nói chuyện với ông, bà để thực tập. Tôi không phải là người ăn xin”.

Em lần lượt dạy nhạc ở câu lạc bộ lao động quận 1, nhân viên của thư viện sách nói quận 3, và cuối cùng dạy cấp 1 cho hội Người Khiếm Thị thành phố.

Năm 1999 một phái đoàn Nhật tới Việt Nam tìm kiếm những người có khả năng nói được tiếng Nhật để đưa qua Nhật học ngành châm cứu và massage. Sau khi thành công sẽ để họ trở về VN dạy lại các người khiếm thị khác để những người nầy có được một nghề nuôi thân.

Em là người được chọn và sau một khóa học ba tháng tiếng Nhật, em thi đậu và được theo học trường Đông Du tại thành phố để hoàn chỉnh khả năng Nhật-Anh, Anh-Nhật.

Năm 2000 em xuất ngoại du học Nhật.

Sau bốn năm tận tụy học hỏi môn châm cứu và massage trị bệnh của người Nhật, một lần nữa em ra trường với danh dự thủ khoa!

Trở về VN, từ năm 2004 tới 2009, em dạy cho thanh thiếu niên khiếm thị tại Sài Gòn một nghề mưu sinh. Trong thời gian du học, người Nhật nhân đạo đã bỏ tiền ra cho em đi bác sĩ gắn cho em đôi mắt nhân tạo để gương mặt em trông được như bình thường và thêm phần xinh xắn.

George Kasperitis sanh năm 1964 tại Pennsylvania, Mỹ. Có dòng máu Đông Âu, anh cao lớn, khỏe mạnh, đẹp trai, chơi đàn piano, guitar, trống và là hình ảnh trong mơ của các nữ sinh trung học.

Ra trường Pennsbury High School năm 1983, anh chọn học cao đẳng về Natural Medicine, chuyên ngành massage và phòng bệnh theo cách tự nhiên.

Tuy được cấp bằng tốt nghiệp, anh lại không theo nghề mà trở về trang trại của ông nội để giúp ông trồng trọt và chăn nuôi vì ông nội đã già và cần có người thân giúp một tay.

Ai nói người Mỹ không có tình cảm gia đình và không biết hiếu thảo?

Sau khi ông nội mất năm 1988, anh mở cơ sở chuyên trị cho các lực sĩ thể thao bằng trị liệu đá nóng và đặc biệt là bằng trị liệu khúc tre nóng.

Anh giải thích là độ nửa tiếng trước khi khách đến, anh bỏ vào một nồi lớn 4 ống tre, mỗi ống có độ 3 đến 4 mắt tre. Anh thêm vào mấy thứ lá thơm và dầu quế và dầu hạnh nhân. Anh đã chà xát cho các mắt tre bớt nhọn nhưng vẫn còn chỗ lồi lõm.

Anh lăn ống tre nóng tẩm các khoáng chất tiết ra từ lá và dầu lên lưng, cổ, khuỷu tay chân làm trị liệu để kích thích làm các huyệt đạo nở ra làm huyết mạch lưu thông, để cơ thể sẽ tiếp nhận nhiều linh khí trong trời đất hơn và làm cho con người ta được khỏe mạnh hơn.

Chắc là lăn ống tre nhiều quá mỏi tay nên sau vài năm nổi máu giang hồ anh gia nhập Peace Corp

– Đội Hoà Bình – đi Ghana, là quốc gia ở Phi châu. Nơi đây các thiện nguyện viên xây cất bồn nước, lắp đặt các hệ thống lọc nước cho người dân địa phương được dùng nước sạch.

Trong những buổi tối nhàn rỗi giữa núi rừng hiu quạnh, anh lên mạng và tìm kiếm người nói chuyện trên mục Pen Pal.

Nơi đó anh đọc thấy hàng chữ: “thiếu nữ Việt Nam, 30 tuổi, độc thân, thích âm nhạc, hiện đang học ngành massage và bấm huyệt trị bệnh tại Nhật”.

-Ôi em ơi, hợp quá, anh cũng thích âm nhạc, anh cũng thích nghề massage trị liệu. À mà em chơi nhạc cụ gì? Anh thì đàn piano, guitar và đánh trống.

-Em đàn tranh anh à.

-Đàn tranh là đàn gì vậy em?

-Là một loại đàn đặc biệt cho âm nhạc Việt Nam. Nó không cao sang, rầm rộ, cao vút như dương cầm mà nó thắm thiết, đậm đà, từng âm thanh sẽ đi vào lòng người, từng nốt nhạc sẽ làm người ngẩn ngơ thương nhớ…

-Ôi, ước gì anh có thể nghe em đàn… Que sera, sera… Sẽ có một ngày nếu chúng mình gặp nhau.

Và những dòng tâm sự đổi trao, những sẻ chia, những cởi mở cho tới một ngày anh đọc những dòng chữ: “Em là một cô gái khiếm thị, em rất buồn là sẽ không bao giờ “thấy” anh dù cho chúng ta có khi nào gặp nhau”.

-Em ơi không phải em đang nói giỡn đó chớ?

Khiếm thị?

khiếm thị từ lúc nào?

Từ lúc mới sanh ra?

Ông trời ơi, em chưa bao giờ biết được màu sắc của hoa hồng à?

chưa bao giờ thấy được ánh mặt trời chói chang trên đỉnh núi à?

Chưa bao giờ thấy được hoàng hôn mênh mông trên biển cả à?

Ác nghiệt, định mệnh ác nghiệt!

Em hỏi anh có thay đổi cảm nghĩ của anh về em không khi anh biết em, người con gái mà anh nâng niu tâm sự bấy lâu nay, lại là một kẻ mù lòa?

Câu trả lời là có, có rất nhiều.

Làm sao anh không thay đổi tình cảm trước một sự thật phũ phàng như vậy! Trước hết là anh giận ông trời tàn nhẫn đã buộc cái chứng bịnh độc ác kia vào đôi mắt em.

Anh sẽ không ngần ngại đối diện với ngài để hỏi cho ra lý do ngài chọn em làm nạn nhân, anh sẽ không sợ sệt mà sẽ cương quyết chất vấn ngài tới cùng.

Nhưng trời ở đâu không thấy vậy thì anh chỉ có thể quay về thế gian nầy để đối mặt với em. Phương Lan, sau nữa là anh sẽ không quay lưng lại với em. Anh sẽ cùng em tiến bước dù cho bây giờ ngoài cái bổn phận làm người bạn đời của em, anh lại có thêm một bổn phận nữa là làm đôi mắt của em. Anh sẽ làm cho em cảm nhận được màu vàng óng ánh của cành mai trong dịp Tết, sẽ thấy vô vàn hoa dại trên cánh đồng cỏ xanh tươi, sẽ vẽ ra được những chiếc lá thu vàng úa hắt hiu, sẽ nắm bắt được những tảng băng tuyết chói lọi dưới ánh mặt trời.

Ở mấy ngàn dặm xa xôi kia, người bạn vừa đọc email cho Phương Lan vừa khóc.

Phương Lan vừa nghe email vừa khóc.

-Cám ơn anh, George. Cám ơn tình yêu của anh dành cho em. Nhưng em không tin rằng trên đời lại có người đàn ông nào có thể yêu thương một cô gái mù lòa thắm thiết như vậy. Kiếp sau anh nhé.

Ở một kiếp mà em có thể thấy nắng vàng tỏa sáng trên tóc anh, biển xanh gợn sóng trong mắt anh, nụ cười rạng rỡ trên môi anh.

Ở một kiếp mà chúng ta có thể tay cầm tay, mắt nhìn mắt, đối diện nhau nói lời thề nguyện thủy chung.

Còn kiếp nầy, em xin lỗi, em vô cùng xin lỗi.

Ra trường, Phương Lan trở về Việt Nam, nhận làm việc từ 2004 tới 2009, trở thành giảng viên massage cho các em khiếm thị.

George ngẩn ngơ vì mất liên lạc nhưng anh không bỏ cuộc.

Anh lần mò lên Facebook, internet v.v.. bất cứ cái gì có thể để tìm kiếm Phương Lan.

Sau sáu tháng dài, anh kiếm ra người con gái khiếm thị đó.

Phương Lan đã bỏ địa chỉ email bên Nhật và đổi lại địa chỉ Việt Nam. Cuộc tình Việt Mỹ được nối lại.

Năm 2005, lần đầu tiên anh về Việt Nam để mặt đối mặt với người yêu. Em đứng đó tay cầm chùm bong bóng, khắc khoải nhìn về phía trước nhưng không biết lúc nào thì người đó sẽ tới, sẽ cầm tay mình, sẽ kêu lên hai tiếng Phương Lan.

Trái tim em run rẩy, chân tay em run rẩy và ngay cả linh hồn em cũng run rẩy.

Mẹ em đứng cạnh bên.

-Mẹ ơi, mẹ sẽ thành thật cho con biết là anh ấy như thế nào nghe mẹ.

-Phương Lan ơi, anh đến với em đây. Em đứng đó bồn chồn lo sợ.

Sự sợ hãi tỏa ra chung quanh em làm tim anh tê tái. Em không tin rằng anh sẽ đến phải không?

Em nghĩ rằng anh sẽ chạy theo những cô gái quần là áo lụa, những cô gái mắt nâu tóc vàng…chớ làm sao anh lại lặn lội mười ngàn dặm xa xôi để đến gặp một cô gái Việt Nam giản dị, bình thường lại mất đi ánh sáng…

Nếu anh đã từng giận hờn ông trời cay nghiệt đã sắp đặt cho cuộc đời em gặp quá nhiều cảnh trái ngang thì ngày hôm nay, nhìn em đứng bơ vơ cách biệt giữa dòng đời rộn rã, anh lại cám ơn ngài đã sắp đặt cho cuộc đời hai đứa mình trộn lẫn vào nhau, để anh có thể đem đến cho em tình yêu, tin cậy và nương tựa.

Anh đưa thẳng cánh tay mặt ra phía trước cho Phương Lan vịn vào và cứ như vậy họ ra xe, về nhà, dạo phố, du lịch và có thể là đi trọn đường đời. Giờ đây nghĩ lại, anh cười hắc hắc thú nhận cùng tôi:

“Lúc đó cháu không dám nắm tay Lan để cùng đi vì cháu biết phong tục Việt Nam rất bảo thủ. Cháu thấy trong các phim ảnh, người dẫn đường cho người khiếm thị luôn luôn đưa thẳng cánh tay ra phía trước nên cháu cũng làm y như vậy, đi đến đâu ai thấy cũng cười, vậy mà cháu hãnh diện quá vì đã là cây gậy và đôi mắt cho Lan!”

Anh trở lại VN lần thứ hai năm 2006 để làm đám cưới.

Gần như tất cả khu phố nơi gia đình Phương Lan ở đều tham dự đám cưới, hoặc là khách mời, hoặc là nhập vào đám đông tò mò coi ông Mỹ cưới bà mù!.

Phương Lan mời tất cả các bạn khiếm thị. Họ sờ mặt chú rể và hít hà khen đẹp trai quá? chắc là rờ thấy cái mũi cao, nhưng khi sờ tới cánh tay có lông hơi nhiều và hơi dài, dài hơn người VN, thì cả đám liền hét lên trời ơi giống con khỉ quá!.

Cả bọn phá ra cười, chú rể cũng hiểu sơ sơ chữ con khỉ nghĩa là ‘monkey’ nên cũng chỉ biết méo mặt cười theo.

Ai nói cưới hỏi phải môn đăng hộ đối?

Ai nói chọn vợ lựa chồng phải thấy mặt nhau?

Ngày hôm nay hai đứa chúng con quì trước bàn thờ tổ tiên, tuy không nhìn thấy nhau, nhưng nguyện cùng nhìn về một hướng.

Chúng con không có tiền tài để cho nhau, nhưng nguyện cho nhau cả cuộc đời dù ấm no dù đói lạnh. Chúng con không có nhà cao cửa rộng để cho nhau, nhưng chúng con nguyện cho nhau hai tấm chân tình mênh mang như biển rộng trời cao.

Sau ngày cưới, George trở về Mỹ lo giấy tờ bảo lãnh nhưng Phương Lan không chịu đi sớm vì em nghĩ là nước Nhật đã tốn tiền để đào tạo em với mục đích là em sẽ truyền dạy lại cho những người khiếm thị khác một nghề nghiệp để nuôi thân.

Nếu em bỏ đi thì phụ công ơn nước Nhật và bạc nghĩa với những người đồng cảnh ngộ.

Giọt nước dòng sông. Nhận ơn nghĩa bằng một giọt nước, nguyện trả lại bằng một dòng sông. Chúng mình xa nhau thêm mấy năm nhưng lại có hàng trăm người có nghề nghiệp nuôi thân suốt cả đời, việc ấy quả rất đáng phải không anh?

Vì thế em cương quyết ở lại VN tới năm 2009 để hoàn thành cam kết của mình, bên kia anh vẫn chờ và càng trân trọng nhân cách của em hơn. 

Ba năm sau ngày cưới, em mới đi Mỹ đoàn tụ cùng George.

Bức ảnh họ trong ngày cưới ở VN thật là duyên dáng và tươi đẹp.

Tình yêu vẫn đậm đà, ảnh kia chụp tại California

– anh vẫn là đôi mắt cho em! 

Bài của tác giả Lệ Hoa Wilson được đăng trên báo dành cho cộng đồng người Việt ở Mỹ, được báo tiếng Việt ở Úc đăng lại.

KC có hiệu đính cho vừa với status.

#NCCTV


 

NHÂN QUẢ -Truyen ngan HAY

Những câu chuyện Nhân Văn – Chi Nguyen

Đây là một câu chuyện có thật

Vào một đêm mưa bão cách đây đã nhiều năm, có một cặp vợ chồng già bước vào gian tiền sảnh của một khách sạn nhỏ ở thành phố Philadelphia của Mỹ và hỏi thuê phòng. Họ ghé vào tránh bão và hy vọng có thể mướn được căn phòng trọ qua đêm.

Tiếp đón họ là một chàng trai có nụ cười dễ mến.

Chàng trai giải thích rằng trong thành phố của họ đang có ba hội nghị lớn nên tất cả các phòng đều đã có người thuê.

“Tôi rất lấy làm tiếc vì tất cả các phòng trong khách sạn đều đã có người thuê”.

Chàng trai ngập ngừng một lát rồi nói tiếp

“Nếu thời tiết tốt, tôi sẽ gửi hai vị đến một khách sạn khác, nhưng làm sao tôi có thể để một đôi vợ chồng đáng mến như hai vị ra ngoài trong trời mưa gió như thế này vào lúc một giờ khuya được?

Hai vị có thể ở tạm trong phòng của tôi được không?

Nó không phải là phòng sang trọng gì cho lắm, nhưng nó cũng gọn gàng và sạch sẽ. Vì tôi phải trực vào khoảng thời gian này nên tôi có thể nghỉ ngơi ở đây cũng được. Xin ông bà đừng ngại.

Cặp vợ chồng rất biết ơn chàng trai trẻ và nhận lời qua đêm trong căn phòng đó. Chàng nhân viên nhìn cặp vợ chồng già mỉm cười và họ cũng mỉm cười lại với anh.

Nhiều năm sau đó, khi chàng trai trẻ dường như đã quên mất câu chuyện này, thì bất ngờ, anh nhận được một lá thư kèm cặp vé máy bay khứ hồi. Lá thư là từ cặp vợ chồng già. Họ nhắc lại đêm mưa bão hôm đó với lòng biết ơn sâu sắc cùng lời mời cậu đến thăm New York.

Chàng trai trẻ có đôi chút ngạc nhiên. Cả đêm đó, cậu không ngủ được và nằm suy nghĩ ngẩn ngơ: có lẽ ngày mai họ sẽ dẫn mình đi thăm thành phố một vòng và dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng nào đó chăng? Nhưng nghĩ lại, cậu thấy mọi thứ có vẻ hơi quá, chỉ là một sự giúp đỡ nhỏ thôi mà, liệu có cần phải tới mức như vậy không?…

Sáng hôm sau, cậu đáp máy bay xuống New York.

Cặp vợ chồng già có vẻ như đã đứng đợi cậu ở đó từ lâu. Họ mỉm cười, vẫy tay chào từ xa và đón cậu bằng một chiếc xe sang trọng. Cậu mỉm cười chào họ và cảm thấy có chút hồi hộp.

Sau khi đi vòng vèo qua vài con phố, cặp vợ chồng già đưa cậu tới góc ngã tư đại lộ Fifth Avenue và đường số 33. Bước xuống xe, người chồng đưa tay chỉ tòa nhà tráng lệ mới xây ở đó – một cung điện toàn bằng đá đỏ với những ngọn tháp vươn thẳng trên nền trời xanh thẳm, rồi nói với chàng trai trẻ:

“Đây là tòa khách sạn mà tôi xây cho cậu. Tôi hy vọng cậu có thể quản lý nó”.

“Ông không đùa đấy chứ?” – Cậu ngỡ ngàng.

“Không. Đây là một đề nghị hoàn toàn nghiêm túc“, người chồng già trả lời bằng một giọng chắc nịch cùng nụ cười thấp thoáng trên môi.

Công trình tráng lệ kia chính là khách sạn nổi tiếng Waldorf Astoria – nơi tụ họp của tầng lớp quý tộc lớn của New York vào thời điểm đó. Đây cũng là nơi mà các nhân vật cao cấp toàn thế giới thường xuyên lui tới nghỉ ngơi, đặc biệt là các Tổng thống Mỹ khi đang còn tại chức.

Người đàn ông già trong câu chuyện này chính là William Waldorf Astor của dòng họ Astor, một trong những gia đình giàu có nhất ở New York vào thế kỉ đó.

Còn chàng trai tốt bụng kia chính là George Charles Boldt – vị giám đốc đầu tiên của khách sạn này!

Trái tim của những người có tấm lòng trắc ẩn giống ngọn đèn chiếu rọi tứ phương, không chỉ sưởi ấm cho người khác mà còn sưởi ấm cho chính tâm hồn họ.

Bài sưu tầm – Ảnh minh họa

NgocTram Hoang

Chat Meta AI trả lời:

*Câu chuyện “Nhân quả” bạn vừa kể – Không phải là sự thật lịch sử.*

*Giải thích*

– *Nội dung:* Câu chuyện về chàng nhân viên khách sạn tốt bụng George Boldt được ông William Waldorf Astor (của dòng họ Astor giàu có) đền đáp bằng việc xây khách sạn Waldorf Astoria cho ông quản lý.

– *Tính xác thực:* Đây là một *truyện ngụ ngôn hiện đại*, được lan truyền qua mạng và sách sưu tầm, *không có căn cứ lịch sử rõ ràng*.

– *George C. Boldt* thật sự là giám đốc đầu tiên của Waldorf Astoria (khách sạn mở cửa 1893), nhưng không có tài liệu nào ghi nhận ông được ông Astor “tặng” khách sạn vì một đêm giúp đỡ.

– *William Waldorf Astor* là người tài trợ xây dựng Waldorf Astoria, nhưng mối quan hệ giữa ông và Boldt chỉ là chủ–nhân viên, không phải kiểu “trả ơn cá nhân” như câu chuyện.

*Vì sao nó lan truyền?*

– *Cấu trúc “nhân quả, thiện có báo”* rất thu hút, dễ lan truyền trên mạng xã hội.

– *Chi tiết cụ thể (địa điểm, thời gian, tên người)* tạo cảm giác thật, dù thực tế chỉ là hư cấu.

*Kết luận*

– *Câu chuyện không có bằng chứng lịch sử, được xếp vào loại truyền thuyết đô thị hoặc truyện ngụ ngôn.*

– Nó vẫn có giá trị truyền cảm hứng về lòng tốt, nhưng đừng coi là sự kiện thực tế.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về lịch sử thật của *Waldorf Astoria* hay *George Boldt*, có thể xem các nguồn từ *Wikipedia*, *New York Historical Society*, hoặc sách về lịch sử khách sạn.


 

Ơn Người –  Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Sapy Nguyễn Văn Hưởng

Tác giả là cư dân San Diego, đã hai lần thắng giải Viết Về Nước Mỹ. Năm 2001, với bài “Hoa Ve Chai”, ông nhận giải danh dự. Ba năm sau, với bài viết “Giọt Nước Mắt,” kể về Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh Việt Nam tại tiểu bang New Jersey do một kiến trúc sư Việt Nam vẽ kiểu, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2004. Ông tiếp tục viết bài và tham gia sinh hoạt giải thưởng VVNM hàng năm. Mùa lễ Tạ Ơn năm nay, tác giả gửi đến Viết Về Nước Mỹ một loạt 5 bài bút ký thấm đậm tình người từ trong gia đình đến những người thân quen của mình. Sau đây là bài thứ nhất “Ơn Người”.

 ***

 Thật khó ngờ rằng, bước vào tuổi nghỉ hưu, tôi vẫn còn dịp lo liệu cho tuổi già của bố mẹ. Chính trong những ngày ấy, tôi bắt đầu nghĩ về tuổi già, không của ai khác mà của chính mình. Khi va chạm với thực tế, tôi thấy hình bóng tương lai của mình trong từng chi tiết nhỏ: nào khó khăn lúc bước vào trong xe, nào không thể tự mặc cho mình manh quần tấm áo.

Tôi là con cả trong một gia tộc đông anh em. Dù đã sống trên đất Mỹ lâu hơn khoảng gần ba mươi năm so với thời gian tôi từng sinh sống ở quê nhà, tôi vẫn giữ lối nghĩ của người Việt: phận làm con là phải chăm sóc cha mẹ lúc xế chiều, như một phần máu thịt, chẳng cần ai nhắc. Có lúc đứng một mình, tôi tự hỏi rằng đã sẵn sàng cho vai trò đó đến đâu, và câu trả lời luôn dẫn tôi về với trách nhiệm không thể thoái thác. Dẫu tôi có đến bảy đứa em và mấy chục đứa cháu, tôi vẫn coi phần chính của bổn phận ấy thuộc về mình.

Cũng như nhiều người Việt ở nơi đây, bố mẹ tôi thường bóng gió nhắc về nỗi sợ bị đưa vào “nhà già”. Tôi hiểu sự ám ảnh ấy: phần đông người lớn tuổi gốc Việt không quen tiếng Anh, ít hợp với thức ăn bản xứ, và hơn hết họ mong được dưỡng bệnh tại nhà, nằm trên chiếc giường quen thuộc giữa hơi ấm con cháu.

Tôi vẫn thắc mắc tại sao người Việt gọi nursing home là “nhà già” hay “viện dưỡng lão”, hai cách gọi nghe quen mà chua chát, như chứa một nỗi buồn, một hàm ý bị bỏ rơi. Có lẽ trong ký ức nhiều người, nơi ấy không gắn với hình ảnh yêu thương mà chỉ là trạm dừng cuối đời: vắng con cháu, vắng tiếng cười thân quen. Nghe bố mẹ nói đến điều đó, lòng tôi xót xa, vừa muốn tìm cách giữ ông bà ở nhà, vừa lo rằng đôi khi người nhà cũng bất lực trước những nhu cầu chăm sóc chuyên môn. Tôi hiểu rằng điều bố mẹ cần không chỉ là chỗ ở, mà là phẩm giá, là kỷ niệm và những gì thân thuộc thường dùng.

Thật ra, ở Mỹ nursing home không chỉ dành cho người già, mà cho bất kỳ ai cần chăm sóc y tế dài hạn, đó là một phần trong hệ thống chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp. Tuy nhiên khác biệt văn hóa và quan niệm về sống chết khiến nhiều người Việt giữ khoảng cách với nơi ấy. Vì vậy, tôi xin gọi đúng tên: nursing home.

Mỗi lần nghĩ đến tuổi già của bố mẹ, tôi lại nhớ đến Dick, người bạn Mỹ gốc Mexico từng làm chung hãng với tôi. Dick thường kể về mẹ già của anh: bà không thể tự lo suốt hơn mười năm cuối đời. Thay vì đưa bà vào nursing home, các anh chị em quyết định thuê hai phụ nữ người Mễ thay phiên nhau đến nhà chăm sóc cho bà cả ngày lẫn đêm. Con cái, cháu chắt ai rảnh thì ghé thăm, ai nấy đều yên tâm vì bà luôn có người kề cận. Nghe Dick kể, trong tôi hiện lên hình ảnh những bàn tay quen thuộc chăm sóc, tiếng Tây Ban Nha thì thầm và mùi bột ngô trên bếp, một khung cảnh ấm áp khác hẳn với chiếc giường lạnh lẽo cô đơn nơi nursing home.

Từ chuyện của Dick, tôi thầm nghĩ: nếu đến lúc bố mẹ tôi cần, tôi cũng sẽ làm như vậy. Tôi tự hứa với lòng: tôi sẽ cố gắng giữ bố mẹ ở nhà, dù phải sắp xếp lại cuộc sống hay nhờ đến sự giúp đỡ chuyên môn, để ông bà được quanh quẩn bên gia đình, bên cạnh những gì thân thuộc nhất.

*

Và rồi, ngày ấy cũng đến. Sau buổi tiệc mừng thượng thọ, bố tôi bỗng lên cơn đau tim, phải đưa vào cấp cứu. Gần hai tuần sau, từ phòng hồi sức ông được chuyển sang nursing home để phục hồi chức năng. Sau hơn ba tháng, tuy đã đi lại được, nhưng trí nhớ suy giảm rõ rệt và ông không còn tự lo vệ sinh cá nhân được.

May thay, mẹ tôi vẫn khỏe, cố gắng chăm sóc chồng. Nhưng ai cũng hiểu bà không thể gồng gánh mãi một mình. Suốt ba tháng luân phiên vào nursing home chăm bố, anh em con cháu ai nấy đều thấm mệt. Khi bố được cho về nhà, mọi người đồng thuận phải tìm người giúp việc toàn thời gian.

Tôi đứng ra đăng báo tìm người, nhưng quyền quyết định hoàn toàn thuộc về mẹ tôi. Sau vài lần thay người, cuối cùng mẹ tôi mướn được một chị tên Trần Thị Ái Hoa. Chị không chỉ có cái tên đẹp, mà còn là người đoan trang, khuôn mặt sáng, giọng nói nhẹ nhàng, chừng mực. Sau này tôi mới biết chồng đầu của chị từng là bác sĩ quân y trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tử trận không lâu sau biến cố 1963. Từ đó đời chị gập ghềnh, nhưng vẫn giữ phẩm hạnh và lòng kiên nhẫn đáng quý.

Lần đầu gặp chị, tôi thấy tóc chị còn đen nhánh, áo quần tươm tất, cử chỉ nghiêm trang; nhưng chỉ hơn một tháng sau, tôi sững sờ khi thấy tóc chị bạc trắng như sương. Lúc ấy chị mới thú thật: chị đã gần bảy mươi. Khi đến xin việc, sợ bị chê già, chị đã nhuộm tóc và khai ít tuổi hơn. Chị còn giấu việc mình theo đạo Công giáo, e ngại bố mẹ tôi, vốn theo tín ngưỡng khác, có thể ngại ngùng.

Dần dà, tôi hiểu thêm hoàn cảnh chị. Chị sang Mỹ theo diện du lịch, làm đủ nghề: trông nhà, nấu bếp, chăm người già, từng đi qua nhiều thành phố và nhiều tiểu bang; có nơi không hợp, có nơi bị đối xử tệ. Về đến San Diego, chị nương nhờ người anh họ, rồi đọc tin tìm người của gia đình tôi và đến xin việc. Mẹ tôi nhận ngay, chị mừng đến rơi nước mắt.

Ngay lần gặp đầu, tôi có một linh cảm khó tả: nếu chị Hoa về sống với bố mẹ tôi, đó sẽ là sự kết hợp tốt đẹp. Một người cần một mái ấm, một gia đình cần một tấm lòng. Chị cần chốn nương thân, một căn phòng riêng và góc yên bình để an trú tuổi già. Căn hộ của bố mẹ tôi dư ra đúng một phòng ngủ có nhà tắm riêng. Chị là người ngoan đạo, lại cách thánh đường có lễ tiếng Việt vài trăm thước, vừa đủ để chị thong thả đi bộ đến dự lễ sớm chiều.

Gia đình chúng tôi cần một người luôn túc trực trong nhà, không chỉ chăm sóc bố mà còn đỡ đần mẹ trong bếp núc, dọn dẹp. Ngay từ những ngày đầu, chị xin phép được gọi bố mẹ tôi là Bố và Mẹ, và xin được coi như con trong nhà. Tôi nghe chị gọi hai tiếng ấy, không khách sáo, không gượng gạo, chỉ thấy thân thuộc, tự nhiên và đầy tình cảm.

Việc khó khăn và tế nhị nhất là chuyện vệ sinh cá nhân; đó là điều rất nhạy cảm mà ít ai chịu làm nếu không thật lòng thương. Thời gian trôi, sức khỏe bố dần khá hơn: ông ăn uống được, đi lại quanh nhà, nhưng vẫn phải mang tã và chưa thể tự lo vệ sinh. Thấy chồng khỏe lên, mẹ tôi bắt đầu có ý định giảm bớt tiền công cho chị. Một chiều, vợ tôi tìm chị để nói riêng:

– Chị đừng lo. Mẹ trả bao nhiêu, chị cứ nhận. Phần còn lại, các em sẽ bù riêng cho chị.

Nói những lời ấy, lòng tôi vui vì chị sẽ không phải lo lắng chuyện tiền bạc trong những ngày tuổi già.

*

Khi quyết định sang Mỹ, chị Hoa để lại sau lưng một gánh lo không nhỏ: người mẹ già ngoài chín mươi và cô con gái sống đơn độc, chật vật nuôi hai đứa con dù chúng đã quá tuổi trưởng thành. Cũng như nhiều gia đình Việt có thân nhân ở xứ người, người nhà ít khi hỏi han chị sống ra sao, làm nghề gì, họ mặc nhiên nghĩ rằng ở bển thì dễ kiếm tiền, như nhặt lá mùa thu.

Mỗi lá thư nhà gửi sang thường kèm theo một danh sách: lúc xin thuốc bổ, lúc nhờ mua điện thoại, máy đo huyết áp, áo ấm, đồng hồ… Có khi chẳng xin gì, chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Ở đây khổ quá, má à!” Chị làm được bao nhiêu đều chắt chiu gửi về: phần cho mẹ, phần cho con và hai đứa cháu ngoại. Ngoài ra, chị còn đóng góp cho giáo hội Việt Nam, cho giáo xứ quê nhà, nơi in đậm dấu chân tuổi thơ và biết bao kỷ niệm. Mỗi khi quê nhà gặp thiên tai, lũ lụt, chị lại nhờ người quen quyên góp, gửi về cho bà con khốn khó. Nghe những việc chị làm, tôi cảm nhận một tấm lòng luôn hướng về nguồn cội. Trong những món quà gửi về có cả nỗi nhớ, cả niềm hy vọng chị muốn giữ cho gia đình mình.

Nhắc đến quê, mắt chị thường đỏ hoe. Có khi đang kể, chị bỗng lặng thinh, đưa tay quệt vội giọt nước mắt. Tôi hiểu đó không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nỗi xót xa cho những thân phận gần gũi mà chị không thể ở bên. Một chiều cuối tuần, tôi đưa cả nhà đi dạo công viên Balboa. Trong nắng nhạt, gió nhẹ, hoa nở rực bên lối đi, thấy chị đứng lặng, quay mặt lau nước mắt, vợ tôi hỏi:

– Sao chị khóc?

Chị nhỏ nhẹ:

– Trời ơi, xứ người ta đẹp quá. Không biết chừng nào nước mình mới được như vầy?

Câu nói như một tiếng thở dài. Từ đó, tôi hiểu vì sao, dù sống trong căn phòng nhỏ nơi đất khách, với công việc chẳng nhẹ nhàng gì, chị vẫn chan chứa tình thương và hy vọng. Những khoảnh khắc ấy khiến tôi thấy mình có một trách nhiệm mới: chăm sóc chị như người nhà, vì chị đã chọn gắn bó cuộc đời mình với gia đình chúng tôi.

Thay vì nhắc chị phải thương yêu và chăm sóc bố mẹ tôi, chính tôi mới cần học cách thương và lo cho chị. Vợ chồng tôi đối đãi với chị bằng tất cả lòng tin, không dè dặt, không toan tính. Nhiều buổi trưa chiều đi dạo, tôi thấy chị lặng lẽ đi sau, mắt không rời bố mẹ tôi, như sợ ông bà trượt chân, sẵn sàng đưa tay ra đỡ. Chị ít nói, nhưng trong lòng chị, ông bà đã thành cha mẹ ruột tự thuở nào.

*

Ông Minh, anh bạn thân, thấy vợ chồng tôi tất bật lo cho bố mẹ, có lần khuyên:

– Ông bà có tám người con. Trừ một người ở xa, còn lại bảy đứa đều gần. Sao chú thím không chia nhau, mỗi người phụ trách một ngày? Vừa công bằng, vừa giúp chú thím đỡ vất vả.

Tôi chỉ cười:

– Tụi em nghỉ hưu rồi, thời gian rảnh rỗi nhiều hơn. Mấy đứa em còn bận con cái, cơm áo, công việc, lo cho nhà mình chưa xuể, làm sao ngồi cả buổi ở nursing home trông bố em được.

Nói vậy cho xuôi chuyện, chứ tôi nghĩ khác. Chăm sóc cha mẹ không phải là chuyện chia phần cho công bằng, càng không thể tính thiệt hơn. Đó là việc của trái tim, của tình cảm chảy từ huyết quản, chẳng thể đo đếm bằng giờ giấc hay công sức. Tôi không đòi hỏi gì ở các em, cũng không trách ai, mỗi người có hoàn cảnh và nhịp sống riêng mà người ngoài khó hiểu hết. Tôi chỉ âm thầm làm phần mình, tận hưởng những ngày còn được nhìn thấy ông bà khi tuổi đã xế chiều. Với tôi đó là một ân phước không thể tính toán, so bì được.

*

Một lần, khi tôi đang ghé thăm một người bạn, ở cách nhà bố mẹ vài dặm, điện thoại reo dồn dập. Vừa áp máy vào tai, đã nghe giọng vợ tôi hốt hoảng:

– Anh ơi, bố trốn khỏi nhà hơn mười lăm phút rồi!

Tôi như chết lặng, lao ra xe phóng ngay về. Vừa tới nơi, thấy chị Hoa đứng thẫn thờ ở cửa, mặt tái nhợt. Nhận ra tôi, chị òa lên khóc:

– Thấy bố ngủ say, chị tranh thủ giặt đồ. Ai ngờ chỉ mới vài phút là ông mở cửa lẻn đi mất…

Mẹ tôi run run nói: 

– Mẹ với chị Hoa và mấy người hàng xóm tìm khắp nơi mà không thấy…

Tôi đưa mẹ và chị Hoa lên xe, bắt đầu tìm kiếm. Tôi lái, mẹ nhìn bên trái, chị Hoa nhìn bên phải. Xe chạy hết con dốc này sang con đường kia, vòng quanh khu xóm. Mẹ không ngừng nhắc:

– Hồi sáng bố đi dọc khúc này… Hôm qua thì ghé coi mấy bụi hồng chỗ kia…

Chạy theo hướng mẹ chỉ đến mấy lần vẫn không thấy. Lo lắng cứ quấn chặt đầu óc, mọi thứ xung quanh chợt lặng thinh.

Lòng tôi nóng như lửa đốt. Đây là lần đầu tiên tôi gặp cảnh như vậy: một cụ già lẫn trí nhớ, lang thang ngoài đường, không biết mình là ai, chẳng biết đi về đâu. Tôi quay sang hỏi mẹ:

– Hay mình về nhà, gọi 911 đi mẹ?

Mẹ gật đầu. Về đến nhà, tôi gọi liền tức khắc. Nghe tôi trình bày, tổng đài viên trả lời ngay rằng họ sẽ cử người hỗ trợ. Độ mười phút sau, ba xe cảnh sát hú còi tới. Sau khi hỏi kỹ lưỡng nào: tên, tuổi, đặc điểm nhận dạng, quần áo ông mặc khi rời nhà, họ tỏa ra khắp khu vực, kiểm tra từng ngõ ngách, gõ cửa hàng xóm. Mọi hành động nhanh nhẹn, chuyên nghiệp.

Chị Hoa đứng ngồi không yên, hết nhìn đồng hồ lại liếc ra cửa. Mỗi lần có tiếng động lạ hay dáng người lướt qua, chị khựng lại rồi thở dài. Lâu lâu chị nhìn vợ chồng tôi, lẩm bẩm:

– Bố đi đúng một tiếng mười lăm phút rồi đó cậu mợ ơi…

Rồi chị bước vào phòng, quỳ trước tượng Đức Mẹ Maria, chắp tay khấn nguyện. Khi trở ra, chị ngồi xuống bên mẹ tôi, vòng tay ôm bà:

– Sao bố đi lâu quá vậy mẹ ơi… Không biết có khát không, có ai cho uống nước không? Hay là… bố đang ngồi hoặc nằm đâu đó, không ai hay biết?

Chị lại khẩn khoản:

– Cậu chở chị đi tìm bố nữa. Chị nhớ rõ mấy đoạn đường bố thích đi lắm… luôn cả mấy nhánh hoa ven đường…

Tôi gật đầu, cùng chị lên đường thêm một lần, nhưng suốt chặng quẩn quanh khu phố vẫn không thấy bóng dáng bố tôi. Mỗi phút trôi qua như kéo dài vô tận; tôi chỉ mong thấy bóng dáng quen thuộc đang lầm lũi bước trên đường.

*

Sau hơn cả giờ tìm khắp khu phố mà vẫn không thấy bóng dáng bố, hai nhân viên cảnh sát quay trở lại. Một người đẩy cánh cửa lưới bước nhanh vào nhà, người kia theo sau dắt một con chó nghiệp vụ cao lớn, lông xám, đôi mắt sáng rực. Vừa thấy tôi đến, viên cảnh sát nói ngay:

– Thưa ông, vẫn chưa tìm thấy ông cụ. Giờ chúng tôi sẽ dùng chó nghiệp vụ. Xin ông lấy ra mấy món đồ của ông cụ thường dùng, như quần áo, khăn hoặc bất cứ thứ gì có mùi quen thuộc.

Tôi vừa dịch lại xong, chị Hoa tức tốc bước vội vào phòng. Chỉ lát sau chị trở ra, tay ôm chiếc áo len và cái quần ngủ cũ của bố, run run chìa ra:

– Đây… áo bố mặc hôm qua… quần này sáng nay chị mới thay cho bố…

Giọng chị nghèn nghẹn, tay nắm chặt mớ quần áo như ôm vật quý giá. Một viên cảnh sát nhận lấy chiếc áo, cúi xuống đưa sát mũi con chó; con vật rít khẽ, vểnh tai rồi bắt đầu đánh hơi quanh phòng.

Viên cảnh sát trấn an:

– Chúng tôi đang cho chó bắt mùi. Giờ chỉ còn trông vào nó dẫn đường.

Chị Hoa nép sang một bên, hai tay đan chặt. Trước khi rời đi, viên cảnh sát còn nói thêm:

– Nếu chó nghiệp vụ không tìm được, chúng tôi sẽ xin trực thăng hỗ trợ.

Tôi lặng người. Trước mắt tôi, hai viên cảnh sát Mỹ, một con chó nghiệp vụ, một người phụ nữ Việt tóc pha sương, và cả căn nhà đang nín thở trong lo âu. Tất cả vì một ông cụ gốc Việt, đã già, đã lẫn, đang đi lạc giữa một thành phố rộng lớn. Tôi dõi theo bóng họ khuất dần ngoài ngõ, cổ họng nghẹn lại. Không ngờ để tìm một người già lại quan trọng đến như vậy. Lòng tôi dâng lên một niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người đang đứng trước mặt tôi. Tôi thấy mình mang một món nợ ân tình quá lớn với đất nước này.

Cánh cửa khép lại; căn nhà yên ắng nhưng không bình yên, mà là thứ lặng ngắt căng thẳng. Chị Hoa đi ra đi vào, mắt không rời chiếc đồng hồ treo tường; mỗi tiếng “tích tắc” như đè nặng lên từng phút chờ đợi. Chốc chốc chị khựng giữa phòng, môi mấp máy lời cầu nguyện.

Bất chợt, điện thoại tôi rung. Là cảnh sát, giọng ông ta reo vui:

– Chúng tôi đã tìm thấy ông cụ. Con chó đã lần ra dấu, cách nhà hơn ba dặm. Ông cụ lang thang một mình, không hề hấn gì. Chúng tôi sẽ đưa ông về trong vòng mười phút.

Tôi buông điện thoại, nghẹn giọng báo tin. Cả nhà như vỡ òa. Mẹ chắp tay ngước lên trần, lẩm bẩm tạ ơn. Chị Hoa vội chạy vào phòng, quỳ rạp xuống sàn; tượng Đức Mẹ trong ánh sáng lờ mờ như đang lắng nghe tiếng khấn của một đứa con đầy niềm tin.

Chẳng bao lâu sau, viên cảnh sát trẻ dìu bố tôi vào hành lang. Dáng ông lom khom, bước chậm nhưng tỉnh táo. Vừa thấy ông, chị Hoa lao ra, quỳ sụp trước viên cảnh sát, chắp tay lạy lia lịa:

– Con cám ơn ông cảnh sát. Con cám ơn ông đã cứu bố con.

Viên cảnh sát hơi khựng, nhìn ngơ ngác; tôi bước tới giải thích:

– Xin lỗi anh, đây là cách người Việt tạ ơn người giúp đỡ. Chị xúc động quá.

Anh gật đầu, mỉm cười, dìu bố tôi đến ghế salon. Bố vừa đặt người xuống, chị Hoa ngồi bệt dưới chân, bóp nhẹ đũng quần ông rồi lo lắng hỏi:

– Bố đi gần ba tiếng đồng hồ mà không có đái sao bố?

Tôi chết lặng. Từng cử chỉ của chị, từ quỳ tạ ơn cảnh sát đến chăm sóc tỉ mỉ cho bố, khiến tôi không nói nên lời. Trong khoảnh khắc đó, lòng tôi vừa trào dâng sự biết ơn vừa chua xót vì nhận ra có những việc người khác đang làm thay cho mình. Chị Hoa đã làm tất cả những việc lẽ ra một người con trưởng phải làm: chờ đợi, tìm kiếm, cầu nguyện, chăm sóc từng ly từng tí.

Vợ chồng tôi nhiều lần bàn bạc: phải làm gì để đền đáp tấm lòng chị. Có nên tăng lương? Nhưng rồi tự hỏi tiền bạc có phải điều thiết thực nhất cho chị? Tôi hiểu lẽ sống của chị là vì người khác; bao nhiêu công khó chị đều gửi về quê, phần cho mẹ già, phần cho con và hai đứa cháu ngoại. Cuối cùng, chúng tôi quyết định một phương án thực tế và lâu dài: giữ lại phần tiền công trả thêm mỗi tháng cho chị, tính luôn từ đầu năm, để trao lại vào ngày chị không còn làm cho bố tôi nữa.

Hôm ấy, vợ tôi nhẹ nhàng nói:

– Chị an tâm, khi nào chị nghỉ hẳn, tụi em sẽ đưa lại đầy đủ. Không phải để ép chị làm mãi; nghỉ lúc nào là quyền của chị. Tụi em chỉ mong chị yên tâm mà lo cho bố.

Chị Hoa ngơ ngác, mắt chớp nhanh:

– Sao cô chú lại cho chị nhiều thế?

Tôi chỉ mỉm cười. Thành thật mà nói, đó là tất cả những gì vợ chồng tôi có thể làm để bày tỏ lòng biết ơn, một sự đáp đền giản dị cho tấm lòng chị đã trao cho gia đình chúng tôi.

*

Rồi cũng đến ngày không ai mong muốn. Một buổi sáng như mọi khi, cả nhà ngồi ăn thì bố tôi bỗng đổ gục xuống bàn, đột quỵ. Mẹ tôi hốt hoảng gọi cấp cứu; xe đến rất nhanh, đưa ông vào bệnh viện. Tôi cũng chỉ biết đứng lặng yên nhìn cha mình nằm bất động, thoi thóp trên giường với dây nhợ giăng khắp thân người. Nhờ có chị, những ngày cuối đời của bố, con cháu đỡ vất vả nhiều. Không ai phải bỏ việc hay đảo lộn cuộc sống để túc trực liên tục bên giường bệnh. Khi có người nhà ở cạnh, chị nhẹ nhàng rút lui; khi vắng, chị lại ngồi kề bên ông, canh từng giấc ngủ, lau mặt, vuốt trán, trò chuyện vu vơ như đang nói với một người còn nghe, còn hiểu. Những cử chỉ ấy giản dị nhưng ấm áp hơn mọi lời an ủi.

Ngày bố tôi ra đi, giữa những người khóc tiễn đưa có lẽ chị Hoa khóc nhiều nhất, không phải vì bổn phận, mà vì tình thương âm thầm tích tụ qua từng bữa cơm, từng lần thay áo, tắm rửa, từng ngày sống bên ông như người thân ruột thịt. Nhìn chị ôm lấy bàn tay bố khi ông rời đi, tôi nhận ra tình thương không đo được bằng lời, chỉ bằng những hành động thầm lặng mà người ở lại sẽ nhớ mãi.

Từ dạo ấy, vợ chồng tôi không còn coi chị là người giúp việc nữa, mà xem chị như một người chị trong nhà. Phần tiền lương tăng, chị vẫn gửi lại, chân tình nói:

– Cô chú mà không thương giữ giúp chị, thì biết đưa cho ai?

Tôi cũng xin nói rõ rằng mọi chi phí chăm sóc bố mẹ đều có sự góp sức của từng đứa em trong gia đình. Nhờ vậy, tình nghĩa anh em vẫn bền chặt, và trong nỗi mất mát, chúng tôi tìm thấy nhau nhiều hơn.

Sapy Nguyễn Văn Hưởng

From: Phi Phuong Nguyen

NGƯỜI MẸ TRONG CĂN BẾP TỐI – Truyen ngan HAY

Tu Le

Căn bếp của bà lúc nào cũng mờ mờ khói. Không phải vì lửa lớn, mà vì mái bếp thấp, cửa nhỏ, khói chẳng có đường đi, cứ quẩn lại, bám vào tóc bà, vào áo con, vào bức tường đã đổi màu theo năm tháng. Ai đến cũng bảo căn bếp ấy khổ quá, sao không làm lại cho sáng sủa hơn.

Bà chỉ cười: “Bếp có sáng hay không, là ở nồi cơm có nóng.”

Bà sinh bảy đứa con trong một căn nhà không đủ chỗ cho bảy cái chiếu. Chồng mất sớm. Từ ngày ông gói ghém đời mình trong chiếc quan tài mỏng, căn nhà chỉ còn tiếng thở của đàn trẻ và những buổi chiều gió lùa lạnh ngắt.

Vậy mà, trong căn nhà ấy, không đứa nào lớn lên bạo liệt.

Lạ thật.

Người ta bảo nghèo sinh trộm cắp, đói dễ sinh liều. Nhưng đàn con bà lớn lên, mỗi đứa một phận, không ai thành kẻ dữ. Họ vụng về, có khi thua người ta nửa bước, nhưng chưa từng bước lầm sang phía tối.

Bởi giữa căn bếp tối ấy, có một ngọn đèn leo lét chưa từng tắt.

Ngọn đèn ấy không sáng bởi dầu – mà bởi sự nhẫn nhịn của người mẹ mỗi ngày.

Có lần, đứa con trai lớn ăn cắp tiền chợ của mẹ. Không nhiều, chỉ đủ mua gói thuốc. Người ta tưởng bà sẽ đánh. Nhưng bà không.

Bà ngồi xuống, bưng chén cơm nguội đặt trước mặt con, rồi nói:

“Tiền của mẹ, ăn cắp thì có. Nhưng lòng của mẹ, lấy trộm thì không bao giờ đủ.”

Rồi bà ăn trước. Ăn rất chậm.

Từ hôm đó, đứa con trai bỏ thuốc.

Cũng có lần, một đứa con gái khóc vì bị người ta chê nghèo mà đòi bỏ học. Nó gào lên: “Học để làm gì? Người ta cười con suốt!”

Bà không mắng, chỉ vá lại cái áo rách, rồi mặc vào cho con, vuốt thẳng nếp cổ, và nói:

“Người ta cười vào áo con, không phải cười vào lòng con. Con đừng cởi trí tuệ ra chỉ vì chiếc áo nghèo.”

Đứa bé quay lại trường.

Sau này thành cô giáo.

Người mẹ ấy chưa từng nói đến đạo làm người. Nhưng từng bữa cơm của bà là một bài giảng không chữ. Từng lần bà nhịn là một chương sách không tên. Những đòn roi bà không dùng – chính là cách bà đánh thẳng vào cái ác trong con.

Bà nghèo tiền, nhưng không bao giờ nghèo tình.

Bà ít chữ, nhưng dạy con bằng những điều không ai viết được.

Bà lặng lẽ, nhưng trong sự lặng lẽ ấy, cả một dòng đời được uốn lại.

Ngày bà mất, không ai trong làng tổ chức rình rang. Đám tang đơn sơ, vài vòng hoa rẻ tiền, mấy ông hàng xóm nói chuyện nhỏ nhẹ. Nhưng lạ thay, cả bảy đứa con đều quỳ rất lâu.

Không ai khóc thành tiếng.

Chỉ cúi đầu.

Bởi lúc người mẹ còn sống, nước mắt đã được lau từ trước.

Sau này, những đứa con lớn lên mỗi người một phương. Có người thành đạt, có người đủ sống, có người chật vật. Nhưng mỗi khi gặp chuyện bất nhẫn, bất công, họ đều im lặng rất lâu trước khi nói.

Có ai đó từng hỏi: “Nhà nghèo vậy, sao không có đứa nào hư?”

Một người con trả lời rất khẽ:

“Vì đã có một người sống hiền thay cả phần đời của chúng tôi.”

Căn bếp cũ sau này được đập đi. Nhà được xây lại. Bếp sáng trưng. Nhưng trong gian bếp ấy, vẫn có một bức ảnh cũ được đặt ngay ngắn.

Không lồng kính sang trọng.

Chỉ là khung gỗ mộc.

Trong ảnh, một người mẹ ngồi bên bếp lửa, tay quạt than, ánh mắt hiền và sâu như đất.

Và mỗi khi các con về, không ai bảo ai, đều đứng lại rất lâu trước bức ảnh ấy.

Họ không cầu xin.

Chỉ thầm hứa.

Sẽ sống sao cho xứng với căn bếp tối – đã từng thắp sáng cả một đời người.


 

TIẾNG ĐÀN TRONG ĐÊM- MỘT PHÉP LẠ CỦA THÁNH CECILIA

 Tại một tu viện nhỏ ở miền quê Ý, có một nữ tập sinh tên là Lucia. Cô rất yêu âm nhạc và khao khát dâng tiếng đàn của mình cho Chúa, nhưng mỗi khi đứng trước cộng đoàn, cô lại run sợ, đôi tay cứng đờ, gảy đàn sai nốt, khiến cô buồn đến muốn bỏ cuộc.

 1.Đêm nước mắt bên cây đàn

Một tối mùa đông, Lucia ở lại trong nhà nguyện muộn. Ánh nến lay động, soi bóng cô đang ôm cây đàn nhỏ mà nức nở:

“ Lạy Thánh Cecilia… Con muốn hát cho Chúa, nhưng con yếu đuối quá. Xin ngài giúp con.”

Ngoài trời mưa rơi lộp bộp, nhà nguyện im lìm. Lucia lau nước mắt, đặt tay lên dây đàn, nhưng tiếng đàn lại run rẩy và tắt ngấm.

Cô thất vọng đến mức đặt cây đàn xuống và úp mặt xuống ghế quỳ mà khóc. 

  1. Ánh sáng và người phụ nữ lạ

Bỗng trong nhà nguyện xuất hiện một luồng hương thơm lạ — nhẹ như hoa hồng, nhưng cũng sâu như hương trầm trong lễ kính trọng thể. Lucia ngước lên.

Phía gần cung thánh, một vầng sáng trắng ngà từ từ hiện ra hình dáng một người phụ nữ mặc áo dài thanh khiết. Trên tay Người là một cây đàn cổ — loại đàn chỉ thấy trong tranh vẽ các vị thánh xưa.

Đôi mắt Người hiền từ, trong sáng lạ thường.

Lucia sững sờ, run giọng hỏi:

“Ngài… ngài là ai?”

Người phụ nữ mỉm cười, giọng êm như một khúc thánh thi:

“Ta là Cecilia. Ta được sai đến để nâng đỡ con.” 

  1. Bàn tay thiên thần

Thánh Cecilia bước đến gần, đặt nhẹ tay lên bàn tay Lucia.

Ngay khoảnh khắc ấy, Lucia cảm thấy toàn thân mình như tan chảy trong ánh bình an. Nỗi sợ biến mất. Đôi tay vốn run rẩy trở nên mềm mại, ấm áp.

Cecilia đưa cây đàn của mình cho Lucia.

“Tiếng đàn thiêng không bắt đầu từ ngón tay… mà từ trái tim yêu mến Chúa.”

Rồi thánh nữ chạm nhẹ lên dây đàn.

Tiếng đàn vang lên… ngọt ngào, thánh thiện, trong trẻo đến mức Lucia rùng mình. Mỗi âm thanh như một tia sáng chạm vào linh hồn. Mưa ngoài trời bỗng dịu đi, như đang lắng nghe.

Cecilia mỉm cười:

“Giờ con hãy thử.”

Lucia đặt tay lên dây đàn.

Lần đầu tiên trong đời, âm thanh vang lên trọn vẹn, trong trẻo và vững vàng như thể đôi tay cô được hướng dẫn bởi một thiên thần.

Nước mắt cô rơi ra, nhưng lần này là nước mắt của niềm vui. 

  1. Món quà trong sáng

Trước khi tan biến, Thánh Cecilia ghé tai Lucia và nói:

“Từ nay, mỗi khi con hát hay đàn để dâng Chúa, Ta sẽ ở bên con.”

Ánh sáng dần tan đi, hương thơm nhạt dần. Lucia quỳ sụp xuống, tim tràn ngập bình an. 

  1. Phép lạ lan tỏa

Từ đêm đó, Lucia không còn run sợ nữa. Cô đàn và hát trong các buổi kinh với sự tự tin dịu dàng khiến ai nghe cũng cảm nhận được ơn Chúa như đang chảy qua tiếng đàn của cô.

Nhiều sơ già trong tu viện thầm thì:

“Tiếng đàn của con bé ấy có gì đó rất lạ… như thể thiên đàng đang hát cùng nó.”

Lucia chỉ mỉm cười, đặt tay lên ngực, và biết rằng Thánh Cecilia vẫn giữ đúng lời hứa.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

NGƯỜI THẦY

Một ông cụ đang ngồi hóng nắng trong công viên, chợt có một người đàn ông trung niên đến chào và hỏi:

– “Thưa thầy, thầy nhớ em không?”

– Ông cụ nhìn lên người đàn ông trước mặt, trả lời “Thưa không.”Song ông cũng lịch sự hỏi lại, “Anh giờ đang làm gì?”

– “Giờ em cũng là thầy giáo ạ!”

– “Ồ thế à? Mà tại sao anh lại chọn nghề giống như tôi?”

– “Dạ thưa, vì thầy là người đã khiến em chọn con đường này.” Rồi anh ta kể cho người thầy cũ đầu đuôi câu chuyện:

Một hôm nọ, anh bạn cùng bàn mang ra khoe một chiếc đồng hồ thật đẹp. Em chiếp trong bụng. Đợi lúc anh ta lơ đễnh em thò tay vào túi bạn mình và ăn cắp chiếc đồng hồ. Sau khi phát hiện bị mất đồng hồ, bạn em lên mách với thầy.

Thầy nói với cả lớp rằng có người vừa mất chiếc đồng hồ, nếu có ai lấy nhầm thì hãy trả lại. Không một ai giơ tay lên, và dĩ nhiên em cũng không nói gì cả. Thấy vậy, thầy bèn đóng cửa phòng lại và bắt mọi người đứng thành hình tròn rồi nói:

“Tôi sẽ lục túi tất cả mọi người để tìm chiếc đồng hồ, nhưng với điều kiện các em phải nhắm mắt lại khi tôi làm chuyện này.”

Cả lớp làm y theo lời. Thầy soát túi từng người, và sau khi tìm thấy chiếc đồng hồ trong túi em thầy vẫn tiếp tục soát hết những trò còn lại. Xong thầy bảo mọi người mở mắt ra vì đã tìm được chiếc đồng hồ. Thầy không hề tiết lộ em là kẻ cắp, mà cũng không kể lại câu chuyện này với bất cứ ai.

Hôm đó thầy đã cứu danh dự em. Thầy không nói với em câu nào, không kéo em ra riêng để rầy la hoặc giảng luân lý. Hôm đó là ngày em cảm thấy xấu hổ nhất trong đời, và cũng là ngày em thề sẽ không bao giờ ăn cắp hay trở thành một người xấu bởi vì em nhận ra thông điệp của thầy, và hiểu được thế nào là một nhà giáo đúng nghĩa. Thầy có nhớ chuyện này không ạ?”

– “Tôi nhớ chứ,” ông cụ chậm rãi trả lời.

Tôi nhớ phải lục túi từng trò một. Nhưng tôi không nhớ anh, vì lúc ấy chính tôi cũng nhắm mắt..”

—————-

Bài và ảnh sưu tầm